ĐẠI THỪA QUẢNG BÁCH LUẬN THÍCH LUẬN
Tác giả: Bồ tát Thánh Thiên
Giải thích: Bồ tát Hộ Pháp
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 6
Phẩm thứ 4: PHÁ KIẾN
Lại nữa, nếu như đã nói về tánh tướng của các pháp theo sự thế tục thì có, nhưng theo lý của thắng nghĩa thì không. Như Lai ở trong trí kiến vô ngại, ngôn âm biện giải khéo biết rõ về tha tâm. Vì sao thế gian cũng còn bị vô số vọng kiến mê hoặc tạo tranh luận rối ren? Do người có khả năng nghe nhận có những lỗi lầm. Thế nào gọi là lỗi lầm của người nghe nhận? Nghĩa là tham đối với chỗ thấy biết của bản thân, không cầu thắng giải, đối với những thuyết giảng thiện ác không thể nhận biết rõ. Nếu không có ba loại lỗi lầm như vậy, tức gọi là pháp khí nghe nhận chánh pháp. Nhằm hiển bày nghĩa này nên nói tụng:
Tánh hòa mong thắng tuệ
Là pháp khí nên biết
Khác đây có thầy dạy
Không nhân đạt thắng lợi.
Luận nêu: Cần phải đủ ba đức gọi là pháp khí: Một là bẩm tánh nhu hòa không thiên vị theo bè nhóm, luôn tự xét kỹ không tham đối với sự thấy biết của bản thân. Hai là thường mong đạt thắng giải, cầu pháp không chán, không giữ lấy phần của mình sinh biết đủ. Ba là vì tánh thông tuệ, đối với lời nói thiện ác có thể nhận biết rõ đúng về đức, lỗi sai khác. Nếu không có ba đức đã nói như thế, thì tuy có thầy chỉ dạy nhưng rốt cuộc chẳng được thắng lợi. Nói thắng lợi nghĩa là thầy chỉ dạy khai ngộ khiến chứng đắc theo như thứ lớp. Như hàng Lục sư ngoại đạo kia, tuy nghe chánh pháp nhưng không chứng đắc gì. Không phải Đức Phật đối với họ không có tâm xót thương cứu độ, cũng chẳng phải Thánh giáo không hợp với chánh lý, nhưng là vì những người nên được hóa độ nơi thế gian, nghe Thánh giáo của Phật đều đã được hóa độ xong. Nhằm hiển bày nghĩa này, nên tiếp theo tụng nói:
Nói có và có nhân
Tịnh cùng phương tiện tịnh
Tự thế gian không hiểu
Lỗi nào ở Mâu-ni?
Luận nêu: Trí kiến vô ngại của chư Phật Như Lai quán xét sự việc lợi tha không vượt quá bốn loại, đó là đối tượng xả chứng và hai nhân của sự việc ấy. Thể nghĩa đều chân thật, danh ngôn chẳng sai lầm, tức là thuộc về Thánh giáo bốn đế. Phật tuy giảng nói rộng, nhưng những người kia không nhận biết, lỗi là ở thế gian chẳng phải là lỗi của Mâu-ni. Vì giác tuệ của các ngoại đạo là ít kém, cùng thiếu sự chánh tu, nên không thể lãnh hội. Như vầng mặt trời đỏ rực kia phát ra ngàn vạn tia sáng, nhưng người mù không thấy, thì đối với mặt trời không có lỗi.
Lại nữa, các ngoại đạo kia nhất định là bị vô minh, phóng dật, thùy miên trói buộc che lấp tâm thức, đối với những gì mình chấp nhận không thể tin tưởng nương theo. Vì sao? Nên tiếp theo tụng nói:
Bỏ các có Niết-bàn
Tông tà đều cùng nhận
Phá tất cả Chân không
Vì sao họ không vui?
Luận nêu: Tông của các ngoại đạo đều nói dứt bỏ các sự việc hiện có của ngã, chỉ riêng ngã tồn tại, xa lìa mọi ràng buộc lôi kéo. An nhiên giải thoát vô vi tịch tĩnh gọi là Niết-bàn. Lìa tướng chân không dứt tuyệt các cảnh vọng, cũng không có các tâm phân biệt chấp có v.v… Quán xét như vậy, có thể trừ bỏ tất cả tâm cảnh, chính là quay về Đại Bát Niết-bàn vô thượng, không trái với chỗ cầu đạt giải thoát của các ông, vì sao ghét bỏ không sinh vui mừng? Niếtbàn của chúng tôi chỉ trừ bỏ ngã sở, chấp không cũng phá trừ, thì ngã nhận biết ở đâu để vui mừng? Trong Niết-bàn của ông, nếu có ngã tất không lìa sở hữu của ngã (ngã sở), sao thành Niết-bàn? Ngã như trước đã phá trừ, không nên chấp trở lại mà nên vui mừng vì chân không này đã lìa ngã. Có thì có thể dứt bỏ. Không thì không thể loại trừ. Chấp có khởi sai lầm, quán không liền trừ. Không có hai đường, đức lỗi cách xa nhau, vì sao các ông dua theo có phỉ báng không? Thật đáng thương cho đám tà kiến si cuồng vô trí, không thể tin nhận chân không hữu ích, thường ưa thích cầu tà vọng hữu vô ích, đối với chánh giáo lại sinh hiềm nghi ganh ghét, như đứa con ác kia tâm mê theo dâm loạn, tham đắm sắc thanh không còn thể diện, đối với lời mẹ hiền khuyên bảo không biết kính vâng, tự ở nơi hung ác lại sinh oán hại.
Lại nữa, nếu lìa chân không rốt ráo, không xả riêng để chứng phương tiện, nên tiếp theo tụng nói:
Không biết nhân bỏ, chứng
Không do thường bỏ, chứng
Cho nên Mâu-ni nói
Trong ngoài nhất định không.
Luận nêu: Các ngoại đạo kia tuy lại phát tâm cầu chứng Niếtbàn và lìa bỏ sinh tử, do không khéo nhận biết phương tiện bỏ chứng, nên đối với sự lìa bỏ chứng đắc rốt cuộc không thể thành tựu. Vì ghét bỏ chân không, đắm chấp vọng hữu, nên đối với phương tiện gọi là không khéo nhận biết. Ngoại trừ quán chân không, là không bỏ sinh tử, cùng theo phương tiện riêng để chứng Niết-bàn. Do kiến chấp của ngoại đạo tham cầu các hữu nên rốt cuộc không thể đạt được sự trong mát của pháp xuất thế. Nói trong mát tức là tất cả khổ và nhân của khổ hoàn toàn vắng bặt. Chỉ có quán không là nhân chứng đắc, vì trừ quán không ấy ra, lại không có phương tiện nào khác. Quán không như vậy, trong pháp Phật là có, tất cả tà luận của ngoại đạo đều không có, nên Đức Mâu-ni nói bốn quả Sa-môn trong pháp của Ta là có, nơi các pháp khác nhất định là không có. Vì các ngoại đạo chấp trước nơi sự thấy biết của mình, bài bác quán không nên không thể chứng Niết-bàn. Vì sao nên nhận biết chỗ chấp về ngã v.v… nhất định không phải là phương tiện đúng đắn của việc xả bỏ chứng đắc? Trước đã nói đầy đủ. Câu nghĩa của chấp thường kiến lập thời thật có đều có sai lầm, phần sau sẽ phá trừ rộng. Chấp căn cảnh v.v… cho nên biết ông chấp không phải là phương tiện đúng đắn. Lại, các ngoại đạo đối với xứ Niết-bàn, thật sự không thể lìa bỏ chỗ kiến chấp của ngã sở, cho nơi xứ kia có nội ngã của mình. Giải thoát ngã sở gọi là Niết-bàn. Vì sao? Vì ngã và ngã sở, rốt ráo là không có nghĩa cùng lìa bỏ. Ông không thể nói các pháp như khổ vui nơi xứ Niết-bàn là xa lìa đối với ngã, vì ông tự kiến lập là có ngã sở, như tự thể của ngã ông đã chấp. Cũng không thể nói tự thể của ngã chẳng phải là ngã sở có đồng dụ không nhân. Ông chớ chấp ngã không có tự thể, nên tợ như hoa đốm, có lỗi là trái với tông chỉ. Thế nên ngoại đạo các ông đã chấp là không thể hoàn toàn lìa bỏ sinh tử, cũng không thể chứng được Niết-bàn cứu cánh. Do đó nên biết chẳng phải là phương tiện đúng đắn.
Lại nữa, các hàng ngoại đạo tạo ra sách luận, tuy sự giải thích của họ phần nào có thật, nghĩa là nói về bố thí v.v… đều là nhân dẫn dắt, có thể chiêu cảm nẻo thiện cùng các sự an vui thù thắng khác. Lại nói sát hại v.v… là nhân dẫn dắt, có thể chiêu cảm nẻo ác cùng các sự khổ đau cùng cực khác. Nhưng sách luận của họ trước sau là trái nhau, lại cũng chấp nhận hành các nghiệp sát sinh, lại có thể dẫn phát các nẻo ác kiến, cũng từ nơi nẻo kiến chấp sinh khởi như vậy. Như có người mù trên đường đi gặp được đường chánh, hoặc có lúc không nhận ra hướng nên lại bước vào nẻo tà. Sách luận của ngoại đạo lại cũng như vậy, có thật có hư không thể nương dựa tin cậy. Nếu như thế, ba tạng Thánh giáo của Đức Như Lai, hoặc có chỗ giảng nói khó có thể tin hiểu. Thế thì tất cả kinh sách nội ngoại, người không thể tin, tức thành lỗi lầm rất lớn. Vì sao? Trong kinh Phật nói về vô số thần kiến không thể nghĩ bàn. Lại nói về nghĩa lý chân thật sâu xa vi diệu, các loại hữu tình không thể lường xét. Lại nói về tác dụng nơi ba nghiệp của Đức Như Lai, các người của thừa Thanh văn đều không thể nhận biết. Nghĩa là không hề dụng công nhưng hiện khắp nơi vô lượng vô biên thế giới xa xăm cùng tột trong mười phương, tùy theo mỗi mỗi căn tánh của các loài hữu tình, với vô lượng vô số phẩm loại sai biệt, như sự vui thích của họ, có thể ở trong một lúc hiện bày sắc thân vi diệu đem lại lợi ích vô tận. Tuy đoạn trừ tất cả tầm tứ phân biệt, nhưng có thể vì vô lượng hữu tình kia diễn nói vô biên pháp âm sâu xa rộng lớn, chân thật vi diệu vô tận, trong khoảng một niệm, có thể trừ sạch vô lượng vô biên tâm hành cấu uế của các hữu tình. Tâm ấy tuy không thật sinh thật diệt, cũng không có tất cả chủ thể duyên đối tượng duyên, nhưng trong khoảng một niệm, hướng về khắp tất cả cảnh giới của đối tượng nhận biết hiện thấy đầy đủ, vào lúc hiện thấy, xa lìa tất cả mọi tư duy phân biệt của chủ thể nhận thức, đối tượng được nhận thức. Tuy đã đoạn dứt tất cả sự trói buộc của tùy miên, nhưng ở nơi ba cõi thọ nhận sinh tử. Tuy lìa dục từ lâu xa nhưng sinh nơi cõi dục, hiện ở nơi lao ngục chật hẹp của gia đình, tích chứa giữ gìn vô số của cải, lúa thóc, châu báu, nuôi dưỡng vợ con, thân thuộc, tôi tớ. Các sự việc như vậy đều khó tin hiểu. Nên ta đối với những sự việc này hết sức hoài nghi do dự. Sự nếu chính là có thì thật đáng sinh nghi. Nhưng sự cũng không. Nên tiếp theo tụng nói:
Nếu nơi lời Phật nói
Sự sâu do sinh nghi
Nên dựa vô tướng không
Sinh tin tưởng quyết định.
Luận nêu: Ý của tụng này nói: Như Lai làm cho bầy hươu nai ngoại đạo khiếp sợ khi cất tiếng gầm của đại sư tử, thị hiện chân không. Nghĩa của chân không như thế là quyết định, lý giáo phân minh cùng nhau thành lập. Các bậc có trí, dụng làm định lượng, mọi vấn nạn sắc bén, suy tư tinh tế đều không thể vượt hơn, tùy thuận lý không, siêng năng tu tập thuận hợp, các thiện trang nghiêm, thành tựu quả vô thượng. Đối với lý không ấy nên sinh quyết định tin hiểu, chỉ không là thật, còn lại đều chẳng phải chân. Chính là Đức Như Lai, tùy theo căn trí, sự mong muốn, khéo tạo phương tiện quyền xảo hiển thị, tuyên dương. Lại, Đức Phật đã giảng nói tuy có vô lượng, nhưng tóm lược chỉ là hai loại, là không và chẳng không. Nếu đối với chẳng không có chỗ nghi hoặc thì có thể dựa nơi lý không để so sánh, lường xét nên nhận biết. Các pháp đều không, vì sao có thể thấy biết? Do thức nói cảnh có, nghĩa ấy không thành. Thể tướng của các pháp lược nói có hai loại, đó là thức, sở thức (nhận thức – đối tượng nhận thức) và ngôn, sở ngôn (ngôn thuyết – đối tượng ngôn thuyết). Một cảnh đồng thời có nhiều thức khởi, tùy theo sự thấy biết sai biệt nên cảnh tướng không đồng. Thức này không nên tùy theo ngoại cảnh phát khởi, do thể của một cảnh không thành nhiều tướng, nên biết đối tượng nhận thức quyết định không có. Ngôn từ là giả lập, chỉ giải thích về cộng tướng, tất cả cộng tướng đều chẳng phải là thật có, do nhiều pháp hợp thành nên như quân lính, rừng cây. Lại, các cộng tướng đều dựa nơi pháp riêng biệt. Chỗ dựa là pháp riêng số nhiều vô lượng. Những người thấy gần tức không thể thấy khắp. Đã không thấy cái riêng thì không thể thấy cái chung. Như hai tánh cùng dựa nơi hai vật như nhau không thấy chỗ dựa tất không thể thấy biết. Cộng tướng như vậy đã chẳng phải là đối tượng nhận biết, làm sao dựa theo đó để kiến lập chủ thể nêu giảng? Thế nên cộng tướng chỉ là giả nêu bày, chẳng phải là thật có, có thể làm ngôn ngữ giảng giải. Lại, các cộng tướng nếu là thật có, thì nơi mỗi mỗi pháp hoàn toàn có, phần có đều không thể thành. Nơi mỗi mỗi pháp nếu hoàn toàn có, tức nên như pháp riêng, cộng tướng không thành. Trên mỗi mỗi pháp nếu là phần có, tức nên thành nhiều phần chẳng phải là một cộng tướng.
Lại, những sự thật nêu trên không riêng có một, vì tổng tánh như thật v.v… là đối tượng duyên của tuệ. Như chẳng phải thật v.v… thì tổng tánh tức là cộng tướng của các pháp. Thế nên cộng tướng chẳng phải có thể thật, chỉ là các thế gian giả cùng nhau thiết lập. Các pháp như vậy hoặc là nhận thức – đối tượng nhận thức, hoặc là ngôn thuyết – đối tượng ngôn thuyết, hai thứ suy nêu đều chẳng phải thật có. Trừ hai cảnh này ra lại không có pháp riêng biệt, thế nên tin hiểu các pháp đều không. Do đó Khế kinh nói như vầy: Thật tánh của các pháp không chỉ rõ, không đối đãi, đều đồng một tướng, đó là vô tướng. Tánh tướng của các pháp chẳng phải là đối tượng hành của ngôn từ, ngôn từ không thể giảng giải nên gọi là không chỉ rõ. Vì chẳng phải cảnh nơi đối tượng hành của tâm và tâm pháp, chẳng phải duyên nơi đối tượng đối đãi – chủ thể đối đãi của hữu đối nên gọi là không đối đãi. Chẳng phải là vượt ngoài hai loại tướng của đối tượng hành riêng có tướng khác, nên gọi là vô tướng. Tướng không là không hai, nên gọi là một tướng, không bị các mũi tên độc như tham sân vọng chấp làm tổn hại, thấy biết chân thật về đối tượng chứng đắc là lý chân không phân minh có thể hiểu rõ nên gọi là tướng. Lại, lý chân không lìa tướng của tất cả pháp như có không, nên gọi là vô tướng. Vô tướng không hai, nên nói là một. Tức dùng vô tướng như thế làm tướng, nên gọi là tướng chẳng phải là riêng có tướng.
Lại nữa, các ngoại đạo kia nói lời như vầy: Chư Phật đã giảng nói lược có hai loại, nghĩa là không và chẳng không. Nói không nếu thật thì các thuyết khác tức nên hư giả. Nếu lời Phật đã nói có một phần là thật, tức so với phần còn lại cũng chẳng phải là hư giả. Lời chúng tôi đã nói cũng nên như vậy, vì sao bác bỏ chung nói là không thể tin? Vì ngoại đạo các ông ở trong sự việc hiện tại có những lỗi lầm sai trái nên không thể tin dựa. Vì sao? Nên tiếp theo tụng nói:
Quán hiện còn có vọng
Biết sau định là hư.
Luận nêu: Các ngoại đạo kia hiểu biết tà, tâm loạn, trong những sự việc thiển cận hãy còn có điên đảo, huống hồ là nơi đời sau xa xăm khó nhận biết, trong lý nhân quả mà không tránh khỏi sai lầm. Do đó những gì họ đã nói là không thể tin dựa. Nơi các sự việc thiển cận nào đối với ngã là có điên đảo? Nghĩa là người Thắng luận cho đồng dị v.v… là cảnh của hiện lượng. Những người Số luận cho khổ vui v.v… là cảnh của hiện lượng. Các sự việc như thế về số lượng là vô biên, đều có điên đảo. Vì sao? Vì như Thắng luận chấp tánh của đồng dị đều là cảnh của hiện lượng, lý ấy không thành. Tánh của loài bò ngựa, ý thức phân biệt, đối với các pháp như sắc v.v… giả thiết lập là có, vượt qua các căn cảnh chẳng phải là hiện lượng đạt được, hiện có vì khắp các chỗ dựa là không sai biệt, như thể hòa hợp. Luận kia cho câu nghĩa thứ sáu hòa hợp, thể của chúng là một hiện bày khắp các chỗ dựa, vượt qua các căn cảnh chẳng phải là hiện lượng đạt được. Tánh của đồng dị v.v… nghĩa của chúng cũng như thế, vì sao chấp là cảnh giới của hiện lượng?
Lại, luận kia nói câu nghĩa có thật, là cảnh của hiện lượng, lý cũng không đúng. Vì sao? Vì các vật như bình chậu, áo quần, nhờ ý thức phân biệt, đối với các pháp như sắc v.v… giả nêu đặt là có, vì sao chấp là cảnh giới của hiện lượng? Nhưng luận kia nói các vật như bình chậu, áo quần nhân nơi đức nghiệp chân thật hòa hợp với đồng dị, là mắt nhìn thấy cùng thân xúc chạm, nên căn cảnh này là đối tượng nhận biết của hiện lượng. Điều này tất là không đúng.
Trước đã nêu rõ nhân nơi đức dẫn dắt thật trí chẳng phải thuộc về hiện lượng. Nghĩa là nhờ vào các đức như màu xanh vàng, hơi ấm lạnh dẫn dắt thật trí, nhất định không phải là những thấy biết xúc chạm thuộc về hiện lượng. Chẳng phải nghiệp đồng dị thật sự dẫn dắt sinh khởi mà là dựa theo tướng khác hòa hợp sinh ra. Như nhân nơi hương vị dẫn dắt thật trí, thì nhân nơi nghiệp dẫn dắt sinh ra thật trí cũng như vậy. Như chỗ ứng hợp với tỷ lượng đã ngăn chặn phá trừ. Nghĩa là nhân nơi các nghiệp dẫn dắt thật trí, cũng chẳng phải là những thấy biết xúc chạm thuộc về hiện lượng. Chẳng phải là tánh của đồng dị thật sự dẫn dắt sinh khởi mà là dựa theo tướng khác hòa hợp sinh ra. Như nhân nơi hương vị dẫn dắt thật trí, thì nhân nơi thật sự để dẫn dắt sinh ra thật trí hiện có. Như thấy các con vật bị nhốt trong chuồng thì nhận biết là bò, ngựa v.v… Đã phá bỏ các câu nghĩa thật như những loài vật kia, chẳng phải là những thấy biết xúc chạm, tức đã phá bỏ sự dẫn dắt thật trí kia, vì trí nhận biết về loài vật kia tất nhân nơi đức nghiệp mới có thể được sinh. Điều này trước đã phá bỏ, thế nên cũng chẳng phải thuộc về hiện lượng. Nhân nơi tánh của đồng dị dẫn dắt thật trí, cũng chẳng phải là những thấy biết xúc chạm thuộc về hiện lượng mà là dựa theo tướng khác hòa hợp sinh ra, như các trí hiện có chẳng phải là thật. Nghĩa là, chẳng phải thật trí đối với đức nghiệp v.v… nói ở đây, chẳng phải thật sự dựa theo tướng khác hòa hợp sinh ra, nên nhất định không phải là những thấy biết xúc chạm thuộc về hiện lượng. Trí khác cũng như vậy. Do đó nên biết: Tất cả câu nghĩa giả hợp sinh ra trí đều chẳng phải là chân thật duyên nơi hiện lượng kia. Nghĩa là duyên nơi thật trí chẳng phải là chân thật, là duyên nơi hiện lượng thật, giả hợp sinh khởi, như trí của đức v.v… Như vậy cho đến duyên hòa hợp với trí cũng chẳng phải chân thật. Duyên với hiện lượng kia, tạm thời hòa hợp sinh ra, như các trí chân thật, nên không thể chấp trong sáu câu nghĩa có cảnh của hiện lượng. Vì vậy, Thắng luận đối với các sự việc thiển cận trong đời hiện tại cũng có điên đảo.
Lại nữa, Số luận kia chấp các pháp như sắc v.v… do ba đức hợp thành là thật, chẳng phải là nhân nơi hiện lượng đạt được. Lý ấy cũng không đúng, vì do nhiều pháp nên thành, như quân lính, rừng cây v.v… Các sắc như thế nên là giả, vì sao nói là thật?
Lại, ba thứ như vui v.v… tánh của chúng là riêng khác, như phần vị chưa biến đổi thì không thể thành một. Lại, các pháp như sắc v.v… nếu là thật có, tức nên như vui v.v…, chẳng phải do ba thứ hợp thành.
Lại, ba thứ như vui v.v…, tướng của chúng đều khác, vì sao hòa hợp cùng thành một tướng, vì lúc không thể hợp chuyển làm một tướng, cùng với lúc chưa hợp, Thể không khác nhau.
Lại, ba thứ như vui, khổ, không vui không khổ, tánh đều đã khác nhau, thì tướng không nên đồng. Ông chấp tánh tướng nhất định là một, thì tánh tức nên như tướng đồng, tướng tức nên như tánh khác.
Lại, vui v.v… là riêng, sắc v.v… là chung, ông chấp riêng chung đã nhất định là một, thì chung nên như riêng là ba chẳng phải là một. Riêng tức nên như chung là một chẳng phải là ba. Vì sao ba riêng thành nơi một chung?
Lại, lúc ba thứ như vui v.v… chuyển biến, thì đức hoặc không hòa hợp cùng thành một tướng, như lúc chưa chuyển biến thì tướng của chúng khác nhau, không thể hiện thấy là cùng một sắc v.v… Nếu ba thứ hòa hợp cùng thành một tướng tức nên mất ba thứ biệt tướng như khổ vui không khổ không vui. Nên không thể nói ba thứ như vui v.v… đức của chúng đều có hai tướng một là chung hai là riêng. Vì sao? Vì tướng chung nếu là một thì không thể tức là ba. Tướng chung nếu là ba thì không thể thấy là một. Nếu nói vui khổ v.v… mỗi mỗi đều có, thì ba thứ như vui v.v… tướng của chúng cùng lẫn lộn khó có thể nhận biết rõ, nên chỉ thấy một. Điều này cũng không đúng. Vì đều có ba tướng nên trở lại thấy là ba, vì sao chỉ thấy một, làm sao có thể nhận biết ba thứ như vui v.v… có khác?
Lại, nếu mỗi mỗi thứ đều có ba tướng thì đâu cần hòa hợp để cùng thành sắc v.v…, tức nên mỗi mỗi thứ đều có thể thành sắc v.v…, vì căn cảnh sai biệt là thọ dụng của ngã.
Lại, đức của ba thứ này đều có ba tướng, cùng có sai biệt, vì sao sắc v.v… tướng của chúng là một? Lại, nếu ba thứ như vui khổ không khổ không vui mỗi mỗi thứ đều có thể thành các pháp như sắc v.v…, thì nơi mỗi mỗi pháp, thể đều do ba đức hợp thành. Tức là các pháp hoặc là tánh hoặc là tướng tức nên không sai biệt, vì đồng do ba đức ba tướng tạo thành. Nếu như vậy thì nhân quả của các đại chủng hiện có, chỉ xét theo các căn sai biệt của các đại chủng, tất cả không thể thành các vật như tịnh, uế, tình và phi tình hiện thấy ở thế gian. Hiện lượng, tỷ lượng cũng không sai biệt, là trái với chỗ hiện thấy của các thế gian, thành lỗi lầm lớn. Các loại như thế, tà sư của ngoại đạo đã chấp trước tuy nhiều nhưng đều không hợp lý. Không nên nói nhiều về những lỗi lầm của các ngoại đạo chăng? Trong pháp Phật của Ta có nhiều vị pháp tướng, đã đánh đổ các thứ đối địch kia, nên không phiền nói đến. Ngoại đạo như thế, ở nơi chốn thiển cận, giữa ban ngày ngay trên đường bằng phẳng hãy còn bước đi nghiêng ngã, huống hồ là ở nơi xa xôi núi cao rừng rậm hiểm trở đêm dài tối tăm mà không lầm lạc. Ai là người có hiểu biết đã tin nơi lời tà vạy kia thì nên dứt bỏ để quay về. Nên lại nói tụng:
Kẻ dựa pháp hành kia
Bị cuồng mãi không dứt.
Luận nêu: Nếu các hữu tình theo chỗ thấy biết mê muội của ngoại đạo kia trở lại chấp các pháp hành đã nói, là đã bị cuốn theo lực giáo hóa tà vạy của bạn ác kia, huân tập vọng kiến tùy chỗ nhận giữ, hủy báng các pháp đã phát khởi do Đức Như Lai chứng đắc, mắc phải nghiệp tội lớn số lượng là vô biên. Do nhân duyên này nên bị đọa vào các nẻo ác, thọ nhận khổ não cùng cực, không có kỳ hạn thoát khỏi. Vì vậy, người có trí chớ nên giống như kẻ ngu tối hành theo bạn ác mà tự lừa dối. Nên thuận theo Thánh giáo chân thật không tội lỗi của chư Phật, tu hành mau chóng chứng đắc thoát khỏi khổ đau.
Lại nữa, như trên đã nói: Trong kinh Phật đã thuyết giảng vô số thần biến không thể nghĩ bàn, lại giảng nói nghĩa lý chân thật sâu xa vi diệu, các loài hữu tình không thể lường xét, cho đến nói rộng. Các sự việc như thế là điều khó tin hiểu nhận biết thật như đã nói. Công đức của chư Phật về nghĩa lý đã giảng nói đều sâu xa thâm diệu nên khó có thể tin biết. Những kẻ ngu tối như các ông là hàng phước mỏng trí cạn, chỉ mong cầu lợi mình không nguyện cứu giúp người, chưa uống pháp vị cam lồ đại bi, há có thể tin hiểu pháp môn như thế? Nếu có ánh sáng trí tuệ phá tan bóng tối vô minh, thâm tâm thương xót tất cả hữu tình, cầu Bồ-đề của Phật đầy đủ phước đức rộng lớn, mới có thể tin hiểu pháp môn như vậy. Nghĩa là các Đức Như Lai nơi vô lượng kiếp xa xưa, là chủng tánh bi tuệ đã huân tập phát khởi tâm ấy, vì nhằm nhổ sạch khổ lớn nơi sinh tử của hữu tình, vì cầu đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, nên ở nơi trụ xứ của chư Phật cung kính cúng dường, lắng nghe chánh pháp, giữ niệm tư duy, tu tập vô biên pháp tùy pháp hành. Nghĩa là các Ba-la-mật thí, giới, nhẫn, tinh tấn, định, tuệ, vô số hành thù thắng vi diệu khó hành, ân cần không gián đoạn tu tập viên mãn, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, đạt được thần lực tự tại không thể nghĩ bàn, bản nguyện dẫn khởi diệu dụng không cùng. Đối với điều này, do duyên gì lại không tin hiểu? Hiện thấy các sự việc trọng yếu nơi thế gian, trước thế mạnh dẫn dắt tự nhiên chuyển động. Thần biến thù thắng của Đức Như Lai như vậy, do bản nguyện dẫn dắt nên tự nhiên hiện bày. Lại như người luyện tập huyễn thuật ở thế gian, nếu thành tựu đầy đủ tột cùng ở giữa chốn đông người, hiển bày diệu dụng khó nghĩ suy, huống chi là Đức Như Lai đã tu tập thắng định từ lâu xa, tăng thượng trọn vẹn, tác dụng của thần thông lại có thể suy lường sao? Vì thế các ông, đối với những sự việc không thể nghĩ bàn của Đức Như Lai, nên sinh tin hiểu. Đối với thần thông tự tại nơi công đức viên mãn của Phật nên chí tâm mong cầu, chớ nên phóng dật. Có những Thanh văn, đối với thần lực vô biên không thể nghĩ bàn của Đức Phật, tự nhận biết tuyệt phần nên đau buồn khóc than, tiếng vang chấn động ba ngàn thế giới, các ông vì sao hủy báng không tin?
Lại nữa, các vị có trí tự đi đến Niết-bàn, nhận biết còn mơ hồ, gặp thầy không thể theo học. Để hiển bày nghĩa này, nên nói tụng:
Người trí tự Niết-bàn
Là làm điều khó làm
Phàm ngu gặp thiện dẫn
Nhưng tâm không hướng theo.
Luận nêu: Do bị phiền não trói buộc từ vô thỉ đến nay, nên luôn hành tập theo chúng trở thành bền chắc khó đoạn trừ. Niết-bàn tịch tĩnh không tướng không danh, thắng đức vô biên cao sâu khó chứng đạt. Những người có trí, không nhân nơi người khác chỉ dạy, tự nhiên có thể vượt qua biển lớn sinh tử, chứng đắc đại Bát Niết-bàn cứu cánh, là bậc đại trượng phu có thể làm được những công việc khó làm. Phàm phu ngu tối chìm đắm lâu dài trong bùn lầy của các dục, tham vướng mùi vị hoan lạc không mong cầu xuất ly, nên đối với các lời Hiền Thánh quở trách cũng không chán lìa. Người trí như vậy tự nhiên mở bày, giác ngộ chứng đại Niết-bàn, là làm việc khó làm. Phàm phu phóng dật không hiểu biết thức tỉnh, tuy gặp được Thánh ngôn cũng không mong cầu tịch diệt.
Lại nữa, sinh tử là khổ não vô cùng, Niết-bàn là an vui vô vận, lỗi lầm công đức đã hiện rõ dễ hiểu, vì sao hữu tình an nhiên không mong muốn, chán bỏ sinh tử, vui mừng hướng đến Niết-bàn? Do hữu tình ngu tối có những sợ hãi. Nghĩa là mang nặng ngã ái nghe nói Niết-bàn là không, sợ chứng vô dư ngã liền đoạn diệt. Do sự sợ hãi này nên không muốn chán bỏ sinh tử vui mừng hướng đến Niết-bàn. Sợ hãi như vậy là do trí kém hiểu biết sinh ra. Vì sao? Nên tiếp theo tụng nói:
Không biết, không sợ hãi
Biết khắp cũng lại thế
Nhất định do biết ít
Nên phát sinh sợ hãi.
Luận nêu: Nếu các hữu tình đều không có giác tuệ, đối với tất cả pháp không hề hiểu biết, thì họ đối với Niết-bàn không sinh sợ hãi. Nếu có người nhận biết khắp về chánh lý của các pháp, tức họ đã thông đạt về sinh tử và Niết-bàn. Lúc sinh tử sinh khởi chỉ là khổ giả sinh, lúc sinh tử diệt mất chỉ là khổ giả diệt. Các pháp xưa nay vô ngã đều không, nên đối với Niết-bàn hoàn toàn không có sợ hãi. Nếu có chỉ là lúc hiểu rõ về Bát Niết-bàn, các hành đều diệt hoàn toàn không hiện có, không biết hành khổ tự nhiên tự diệt, không có thể dụng thật sự lìa ngã và ngã sở. Lúc ấy do thân kiến ngã ái nhận giữ nghe trong Niết-bàn là không, không hiện có, sợ ngã đoạn diệt liền sinh ra sợ hãi. Sợ hãi như thế là nhân nơi trí kém hiểu biết sinh ra. Vậy nên người có trí cần phải đoạn trừ thích đáng. Lại, chẳng phải do hành tập thường xuyên nên sinh sợ hãi. Vì sao? Nên tiếp theo tụng nói:
Pháp sinh tử thuận dòng
Phàm ngu thường hành tập
Chưa từng tu ngược dòng
Thế nên sinh sợ hãi.
Luận nêu: Các phàm phu ấy gọi là kẻ ngu tối, phiền não, tùy miên không thứ gì là không gây tạo, vui thích trong sinh tử, chẳng ưa chuộng Niết-bàn. Từ vô thỉ đến nay luôn từng thọ nhận bao thứ dị thục (quả báo) gọi là đáng yêu thích của nẻo sinh tử tăng thượng, chưa từng tu tập đạo quyết định thù thắng. Dị thục của các quả nơi đường sinh tử tăng thượng, là xứ nương dựa của các tùy miên như tham sân v.v… Tuy bị lửa khổ thường xuyên thiêu đốt, nhưng không thức tỉnh, hiểu biết lại cứ vui say hoan lạc. Đối với sinh tử khổ thường xuyên hành tập, không nhận biết lỗi lầm tai họa, không có tâm chán lìa. Đối với hương vị giải thoát an lạc không tội lỗi, do không từng nhận biết nên chẳng vui thích tu chứng. Phàm phu ngu tối ưa thích sinh tử khổ não như thế, đối với giải thoát an lạc không có ý mong chuộng. Do chưa thường xuyên hành tập, nên nghe nói đến tên gọi ấy thì không thể tin nhận, lại sinh sợ hãi. Những người có trí, nhờ sức mạnh của tư duy chọn lựa, đối với giải thoát an lạc tức nên siêng năng mong cầu đúng đắn, chớ nên như hạng ngu tối trở lại sinh chán sợ.
Lại nữa, những hữu tình tin cầu giải thoát thuận hợp, hoặc là tánh hiền thiện, hoặc do nơi tuệ lực, lúc sắp tu phương tiện thấy biết chân thật, nếu ở trong ấy lại gây tạo chướng ngại, thì nghiệp tội phải nhận chịu là vô số. Để hiển bày nghĩa này, nên nói tụng:
Có những kẻ ngu si
Ngăn che thấy chân thật
Không do sinh nẻo thiện
Làm sao chứng Niết-bàn?
Luận nêu: Thấy lý không chân thật là nhân chứng đắc trí vô thượng viên mãn, lại là phương tiện của Niết-bàn vĩnh viễn diệt trừ tất cả vô nghĩa. Đạo phương tiện này là nơi chốn sinh khởi các công đức không thể nghĩ bàn. Do đấy lần lượt mau chóng chứng đắc đạo quả Bồ-đề, là Niết-bàn không trụ tạo lợi lạc vô tận. Tùy thuận hóa độ vô lượng hữu tình căn tánh chẳng đồng, an lập cùng làm thành thục các chủng tử, tạo lợi lạc không cùng cho những kẻ ngu tối. Do bóng tối vô minh che lấp tuệ nhãn của chính mình, không thấy chân không lại dùng thuyết tà và các phương tiện khác, gây chướng ngại cho sự tu tập của người khác. Như công đức đã nêu ở trước, kẻ kia phải nhận chịu nghiệp tội là vô lượng vô biên, chỉ có Đức Như Lai mới có thể nhận biết về biên vực ấy. Do nghiệp ác nặng cấu nhiễm hủy hoại tâm, nên xứ sinh của đời sau cách rất xa nẻo thiện, tùy miên trói buộc nối tiếp bền chắc, vô số nghiệp nhân có thể làm cho chướng ngại nặng lên, phương tiện thuận nhẫn hãy còn không thể sinh được, chánh kiến Niết-bàn sao có thể chứng đắc? Nên biết tạo chướng ngại đối với chánh pháp, tội nghiệp đã sâu, người trí phải nên tự ngăn chận chớ phạm.
Lại nữa, những kẻ tạo chướng ngại đối với việc tu tập chánh pháp của người khác, sau đó tự mình dẫn khởi tà kiến khiến sinh, thì tà kiến này tội lỗi còn hơn phá giới. Nhằm hiển bày nghĩa ấy, nên lại nói tụng:
Thà hủy phạm giới luật
Không tổn hoại chánh kiến.
Luận nêu: Như Khế kinh nói: Thà hủy phạm tịnh giới không tổn hoại chánh kiến. Ý này là thế nào? Vì người hủy phạm tịnh giới chỉ có thể tự hoại. Nếu hoại chánh kiến thì mình và người cùng bị hoại, khiến cho vô lượng đời kiếp phải thọ nhận quả khổ lớn cùng làm mất vô lượng vô biên lợi lạc. Lại, người hủy phạm giới, do phạm giới nên thường mang tâm hổ thẹn trách cứ chán ghét tự thân. Người hủy hoại chánh kiến không biết hổ thẹn, tán thành theo tà kiến, thường tự cao ngạo. Lại, người hủy phạm giới không tăng thêm tà kiến. Nếu hủy hoại chánh kiến thì khiến cho pháp ác phá giới chưa sinh tức sinh, sinh rồi càng thêm rộng khắp, bền chắc khó hủy hoại. Lại, hủy phạm tịnh giới chỉ tạo chướng ngại đối với việc sinh lên xứ trời. Người hủy hoại chánh kiến thì tạo chướng ngại đối với Niết-bàn an lạc. Vì sao? Tiếp theo tụng nói:
Giới luật sinh nẻo thiện
Chánh kiến đạt Niết-bàn.
Luận nêu: Hủy giới hoại kiến tuy lại đều có thể tổn hoại nhân thiện làm chướng ngại quả lạc, nhưng hủy giới thì nhẹ, hoại kiến là rất nặng. Vì sao? Vì trì giới sinh nơi xứ trời, tăng trưởng kiết sử trói buộc thọ nhận sinh tử khổ. Còn chánh kiến tức có thể chứng quả Bồđề của ba thừa, đạt đến Niết-bàn an lạc. Thế nên người trí chớ hủy hoại chánh kiến.
Lại nữa, chân lý của các pháp ấy là gì? Nghĩa là lý không, vô ngã của tất cả các pháp. Nếu như vậy thì lý này cũng có lỗi lầm chăng? Vì sao? Vì như có một loại hữu tình nghe nói về không, vô ngã liền cho pháp đều là không, bài bác tất cả chánh lý nhân quả, cho đến đoạn dứt tất cả căn thiện. Người này tự thấy có lỗi, vì chẳng phải lỗi của lý không, vô ngã, mà do chấp giữ sai lầm về không, vọng khởi tà kiến, tạo các hành ác, còn lý không, vô ngã thì tâm ý và ngôn từ không thể suy lường, chẳng phải là đối tượng chứng đạt của kẻ kia. Hạng phàm phu ngu tối nghe nói các pháp đều không, không biết rõ Thánh ý, liền bài bác cho nhân quả của thế tục cũng không, diệt bỏ các pháp thiện. Đây há là lỗi lầm của lý không, vô ngã? Bậc Thánh nói về giáo pháp không là có ý gì? Là nhằm trừ bỏ tất cả các thứ chấp có hư vọng. Nếu như thế cũng nên nói về các pháp có, vì để trừ bỏ vọng chấp về các pháp không. Thật sự thì nếu có kẻ chấp về các pháp không, Đức Như Lai cũng nói các pháp là có. Đã vì nhằm trừ bỏ chấp nên nói có nói không, chẳng phải chân lý của các pháp là không là có. Chân lý của các pháp là chẳng phải có, chẳng phải không, mọi phân biệt hý luận đều không thể đạt đến. Vậy do duyên gì bậc Thánh nói chẳng phải là hư vọng? Vì trừ bỏ tà chấp nên chẳng phải là hư vọng. Hai giáo nghĩa không, hữu đều có thể trừ diệt chấp, vì sao Đức Như Lai nói nhiều về giáo nghĩa không? Do các hữu tình phần nhiều chấp có, sinh tử phần lớn là từ chấp có sinh khởi, thế nên Đức Như Lai nhằm trừ bỏ chấp có, diệt hết khổ sinh tử, đã nói nhiều về giáo nghĩa không. Hoặc không, hoặc có đều là giáo môn, vì sao trước nói không là chân lý? Là theo phương tiện giả nói nên cũng chẳng trái nhau. Lại, nói về không này là già thuyên chứ chẳng phải là biểu thuyên, chẳng phải chỉ không có mà cũng lại không không. Loại trừ khắp tâm chấp trước khiến phù hợp với các pháp, chẳng phải có chẳng phải không là chân lý cứu cánh. Chân lý của các pháp, thật sự tánh chẳng phải là không. Không là môn nên giả nói là không, còn chân lý chẳng phải là không. Không là môn: Tức chân lý chẳng phải là có, nên có làm môn tùy theo căn cơ nói môn có cũng không có lỗi. Nhưng nghĩa của môn thuận ấy là tại nơi không. Có nơi có có đều là thuận theo tâm chấp. Không nơi không không đều là trái với vọng chấp. Vì vậy, người có trí nghe nói đến ngôn từ không tức nên lìa bỏ tất cả các thứ chấp có – không, tỏ ngộ chân lý của pháp là chẳng phải có chẳng phải không, chớ nên khởi những hý luận phân biệt về có – không.
Lại nữa, người tuệ kém trước không nên giảng nói liền về lý không, vô ngã làm tăng thêm ác kiến kia. Vì sao? Tiếp theo tụng nói:
Thà khởi ngã chấp kia
Đừng chấp không, vô ngã
Sau gồm hướng nẻo ác
Đầu chỉ trái Niết-bàn.
Luận nêu: Hạng kia nghĩa là những người tuệ kém ở thế gian. Ngã chấp tức là Tát-ca-da-kiến (Thân kiến). Chỗ thấy biết của ngã ấy cũng bao hàm ngã chấp, nên nói ngã chấp cũng gồm thâu sự thấy biết kia. Ngã chấp tuy lại không xưng là chánh lý, nhưng nếu khởi chấp kia thì lỗi lầm nhẹ. Còn kiến chấp không, vô ngã tuy xưng là chánh lý, nhưng kiến chấp ấy không thể thông đạt như thật, nhân đấy hủy báng bài bác cho các pháp đều là không, lỗi lầm là rất nặng, nên muốn cho kiến chấp ấy đừng khởi. Vì sao hai lỗi lầm ấy có nặng nhẹ? Nghĩa là loại trước tức ngã chấp chỉ trái với Niết-bàn. Còn loại sau là chấp giữ sai lạc về không gồm luôn hướng tới nẻo ác. Hạng tuệ kém kia lúc chấp giữ sai lầm về không, lại còn chán bỏ căn thiện, huống chi là các hàm thức. Kẻ kia do chán bỏ pháp thiện và thế gian, đoạn dứt căn thiện làm tổn hại đến muôn loài, không chỉ từ bỏ Niết-bàn trong lành mát mẻ mà tự thân cũng giữ lấy đủ lửa dữ của địa ngục. Người khởi ngã kiến không có sự việc như thế. Vì sao? Vì người kia tham ái về sự an lạc của ngã muốn ngã lìa khổ, không tạo các tội mà tu nhiều những phước, thoát khỏi các nẻo ác, không mất đường trời người, chỉ sợ Niết-bàn nên không chứng đắc giải thoát. Vì thế Khế kinh nói: Thà khởi ngã kiến như núi Diệu Cao, chớ không chấp giữ sai lầm về không làm tăng thượng mạn. Nếu như vậy thì lý không, vô ngã của các pháp là ở bên cạnh nẻo hiểm ác, bậc Thánh không nên giảng nói. Người tuệ kém thật sự không nên vì họ giảng nói trước. Nhưng đối với những người trí tuệ thù thắng tức có thể theo đấy tu hành đạt được nghĩa lợi lớn, nên vì họ giảng nói. Vì sao? Tiếp theo tụng nói:
Diệu lý không, vô ngã
Cảnh giới chân chư Phật
Khiến các ác kiến sợ
Niết-bàn chẳng hai môn.
Luận nêu: Người cầu giải thoát, trừ không quán vi diệu ra, thì không có phương tiện nào khác có thể chứng đắc Niết-bàn. Người trí muốn trừ bỏ cấu uế của các ác kiến, nếu lìa quán này thì không có phương tiện nào hơn. Vì kiến chấp hữu có cảnh của đối tượng duyên. Như kiến chấp hữu khác thì không chứng Niết-bàn, cũng không thể trừ bỏ cấu uế của các ác kiến. Người tu tập hành không này đến chỗ rốt ráo, tức có thể chứng đắc quả tột cùng là Bồ-đề Vô thượng, vì khắp hữu tình theo phương tiện khai thị, lại khiến cho họ chứng đạt trọn vẹn quả diệu đã mong cầu. Những hữu tình có khả năng thành tựu lợi lạc tự tha, thì quán không, vô ngã là nhân thù thắng bậc nhất, thế nên khéo nhận biết căn tánh của hữu tình, tạo phương tiện mở bày chỉ rõ khiến họ ngộ nhập.
Lại nữa, Đức Như Lai vì trừ diệt các thứ ác kiến quái dị, nên giảng nói phương thuốc A-yết-đà không, vô ngã. Vì sao? Vì những kẻ có ác kiến nghe nói đến tên của diệu lý không đều sinh sợ hãi, dần dần điều phục tự nhiên dứt trừ. Để hiển bày nghĩa này, nên nói tụng:
Ngu nghe tên pháp không
Đều sinh sợ hãi lớn
Như thấy người đại lực
Khiếp vía đều chạy trốn.
Luận nêu: Ngu nghĩa là ác kiến, tổn hại che lấp tuệ nhãn. Kẻ ngu kia nghe đến tên không, tánh mạng của các ác kiến tự nhiên bị hoại. Không tuy chẳng có tâm muốn làm hại ác kiến, nhưng do uy lực lớn nên nghe đến tên là tự diệt, như nghe tên cọp thì người khiếp nhược tự mất mật. Lại như nơi thế gian khéo điều phục voi quý, phải dùng uy lực khiến cho hai gò má của voi mồ hôi – máu tuôn ra. Tuy lại là không có tâm tổn hại đến tánh mạng loài vật, nhưng vì loài voi quý kia có sức lực lớn, các loài khác thấy nghe thì đều kinh sợ trốn chạy hết. Lý không cũng như vậy, vì uy lực lớn lao khiến những kẻ ác kiến nghe danh đều kinh hãi, tự nhiên tổn diệt, chứ lý không chẳng hề cố ý, không hề làm tổn hại các vật. Người chứng lý không tức nên là hại kẻ khác chăng? Nếu chứng đắc chân không thì tâm ấy vắng lặng, bình đẳng không hai, há muốn tổn hại người khác, nhưng vì nhằm đem lại lợi lạc cho các hữu tình, nên tạo phương tiện mở bày chỉ rõ về lý không, vô ngã. Người mang giữ ác kiến nghe đến lý không liền tự diệt. Vì hiển bày nghĩa này, nên tiếp theo tụng nói:
Chư Phật tuy vô tâm
Nói pháp trừ luận khác
Nhưng luận khác tự hoại
Như lửa lớn đốt củi.
Luận nêu: Chư Phật không có tâm hủy hoại luận khác, nhưng vì đem lại lợi lạc cho hữu tình được hóa độ, nên mở bày chỉ rõ con đường rộng lớn của chư Phật xưa nay. Nghĩa là tánh tướng của tất các pháp đều không, các Đức Như Lai trước sau thảy đều đi lại trên đó, dẫn dắt quần mê từ nhân đến quả. Các luận ác kiến của ngoại đạo chúng tà nghe giáo nghĩa không ấy liền tự nhiên hoại diệt. Như nơi chốn núi rừng rộng vắng ngọn lửa dữ bốc cao, củi ướt chồng chất đã khô dưới ánh nắng mặt trời, tuy không có người mang lửa đến đó, nhưng củi đè ép nhau nên lửa như tự dẫn phát thiêu cháy. Các luận của ác kiến chúng tà cũng như vậy, do uy lực của giáo nghĩa không nên tự tan hoại.
Lại nữa, tông chỉ của các ngoại đạo đều nói về vọng có, vì muốn khiến trừ bỏ nên nói chân không. Vì sao? Tiếp theo tụng nói:
Những người ngộ chánh pháp
Tông tà hẳn không thích
Vì đưa ra môn giả
Hiển bày nghĩa chân không.
Luận nêu: Người có trí tự mình có thể chọn lựa phân biệt chân giả, gặp được chánh pháp này nên không thích tông tà. Như người nhận biết vật báu có được vật báu vô giá nên trọn không trở lại vui thích với ngọc thủy tinh khác. Tông chỉ của các ngoại đạo đều lập về vọng có cách xa chánh pháp như môn hư giả, lừa dối mê hoặc hữu tình khiến mất lợi lớn, nên tôi hiển bày chỉ rõ môn chân không của Phật nêu dạy, khiến chúng tà kia hướng về chân dứt bỏ giả.
Lại nữa, vì duyên gì ngoại đạo vui thích tông tà, chán bỏ lời Thánh giáo? Do lực của thân kiến. Nếu nhận biết vô ngã thì tất không vui chán. Vì sao? Nên tiếp theo tụng nói:
Nếu biết lời Phật nói
Lý chân không vô ngã
Tùy thuận không sinh vui
Chống trái không chán sợ.
Luận nêu: Nếu nhận biết lý không, vô ngã của Phật nêu dạy, đoạn trừ các thứ tùy miên do thân kiến phát khởi, quán sát thế gian như nhà cửa trống không, các hành hư vọng nơi sinh tử luân hồi, khi hưng thịnh không vui, lúc suy tổn không chán, không lo, không vui, không sợ, an nhiên thư thái. Nếu có thân kiến, nghĩa là ngã có tăng giảm, lúc suy, thịnh khởi liền sinh ra buồn vui, nhân đấy liền có sợ hãi không cùng. Thế nên người có trí cần phải diệt trừ ngã chấp.
Lại nữa, các chúng ngoại đạo vì tham vướng ngã chấp, có thể khiến tự mình bị trói buộc lại cũng trói buộc các hữu tình, sự tổn hại đã nhiều rất đáng thương xót. Nhằm hiển bày nghĩa này, nên nói tụng:
Thấy các chúng ngoại đạo
Tạo nhiều nhân vô nghĩa
Hữu tình vui chánh pháp
Ai không hề xót thương?
Luận nêu: Các chúng ngoại đạo tham ái ngã chấp, có thể khiến cho mình và người phát khởi vô lượng tội lỗi. Tát-ca-da-kiến (Thân kiến) là cội gốc sinh ra tất cả pháp ác, như nói pháp ác bất thiện hiện có, tất cả đều lấy Tát-ca-da-kiến làm gốc sinh khởi. Những hữu tình trong tâm vui thích pháp thiện, tự thân không định chấp trước, chỉ thuận theo duyên khác, nên bị ngôn tà của ngoại đạo kia lừa dối mê hoặc, cũng tham ái ngã kiến khởi vô lượng tội lỗi. Như vậy ngoại đạo có thể khiến cho mình và người cùng khởi vô số sự trói buộc sâu bền, ai là người có trí lại không thương xót! Thế nên các hữu tình ý tịnh vui thích chánh pháp, luôn khởi tâm tạo lợi lạc đều vô cùng xót thương, ân cần vì họ giảng nói lý vô ngã, chân không, khiến tu tập chánh kiến, lìa những trói buộc.
Lại nữa, chư Phật, Bồ-tát thường trụ nơi thế gian, thật có tâm chân tịnh tạo lợi lạc cho mọi hữu tình, vì sao thế gian còn có vô số hữu tình tin vào tà kiến trở lại hủy báng chánh pháp? Do cảnh trí được Đức Phật giảng nói là vô cùng sâu xa vi tế, khó tỏ ngộ. Còn ngoại đạo thì không như vậy. Vì sao? Nên tiếp theo tụng nói:
Bà-la-môn ly hệ
Ba tông của Như Lai
Nhãn nhĩ ý thường biết
Nên pháp Phật sâu diệu.
Luận nêu: Các Bà-la-môn chỉ thường tu tập đọc tụng hư ngôn làm đạo, nhĩ thức có thể nhận biết, chẳng phải là hàng ngoại đạo Ly hệ sâu xa vi tế. Chỉ lấy việc lộ hình thân thể xú uế cùng vô số các mạnh dữ để tự tạo khổ làm đạo, nhãn thức có thể nhận biết. Cũng chẳng phải là Thánh giáo của Như Lai hết sức sâu xa vi tế, do chứng đạt tuệ kiếm chân không vô lậu, vĩnh viễn đoạn trừ các thứ giặc phiền não bên trong hiện có, đạt được đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, tạo lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Diệu nghĩa của lý giáo là vô cùng sâu xa vi tế, những người thông đạt lý như thật đối với Thánh giáo của Phật hoặc nhận biết hay không nhận biết. Do lý giáo của Phật là hết sức thâm diệu, nên hàng ngoại đạo ngu tối không thể ngộ nhập, phần nhiều tin theo ngôn tà thô thiển của ngoại đạo, rất ít người tin vào Thánh giáo sâu xa mầu nhiệm của Như Lai. Ở thế gian đa số tin theo Bà-la-môn, vì Bà-la-môn tạo nhiều điều dối gạt, tụng chú thờ lửa tự hành khổ trừ tội, giả nêu an lành vọng nói phước họa, vì mạng sống nên hành vô số phương tiện lừa dối những người nữ thuộc hàng Thú-đạt-la, khiến những người kia đối với họ sinh tâm hy hữu, cung cấp những vật dụng cần thiết cùng suy tôn là bậc quý trọng. Các vị Bà-la-môn thông tuệ thời xưa, ẩn mình trước tác Minh thư nói là tự nhiên có, chỉ tự mình được tụng không cho phép người khác xem, ca ngợi Bà-la-môn là hàng tôn quý nhất, các hàng như Sát-đế-lợi v.v… đều là thấp kém, nếu cung cấp dâng thí những vật cần dùng tức đạt được phước vô lượng. Hàng ngu tối vô trí không thể xét lường, cho là phước điền thật sự nên tin kính cúng dường. Nhưng Minh thư kia chẳng phải tự nhiên có, có chỗ giảng giải nên như lời nói của thế tục. Lại, Minh thư kia chẳng phải là hoàn toàn hợp lý, vì chẳng phải lời bậc Thánh nói, nên như hư ngôn dối trá. Chủng tộc Bà-la-môn chẳng phải thật sự tôn quý, chẳng phải là phước điền chân thật, vì thường đi khất thực để nuôi sống vợ con nên như người bệnh hủi bần hàn. Vì thế, người có trí không nên quy phục tin tưởng. Pháp của Bà-la-môn đã có nhiều dối trá, sự tu học của ngoại đạo Ly hệ lại như thế nào? Pháp tu học của họ phần nhiều thuận theo ngu si. Vì sao? Tiếp theo tụng nói:
Tông của Bà-la-môn
Nhiều khiến hành dối trá
Pháp ngoại đạo Ly hệ
Phần nhiều thuận ngu si.
Luận nêu: Ngoại đạo Ly hệ đều không nhận biết chân thật, chỉ có tham lạc nơi đời sau, nên hiện thọ nhận khổ dữ. Những điều giảng nói phần nhiều không hợp lý, chủng loại ngu si kết tụ thành số đông, làm nơi chốn quy tụ tin tưởng của hạng ngu si ở thế gian. Vì sao quyết định nhận biết ngoại đạo kia là ngu si? Vì thân hình để lộ (Lõa hình) không biết xấu hổ, như cuồng dại, như súc vật, giống như trẻ con. Nếu hàng Bà-la-môn thật sự không phải tôn quý, vì duyên gì các hàng tôn thắng cũng kính thờ? Do vì họ hành tập đọc tụng những Minh luận. Các Bà-la-môn thật sự chẳng hiểu biết gì về những Minh luận kia. Vì mạng sống nên vào tất cả thời đọc tụng các Minh luận, trá hiện dị tướng để tác động nơi tâm người. Hàng tôn thắng ở thế gian không quán xét kỹ, cho là họ có đức nên kính thờ. Lại, trong Minh luận tuy không có thắng nghĩa, nhưng có ít phần lễ nghi của thế tục, hàng tôn thắng ở thế gian lấy đó để học tập, nên tuy các Bà-la-môn kia không có đức, nhưng cũng đem lòng kính thờ. Ngoài ra, có những người không đọc tụng các Minh luận, nhưng do đồng chủng loại nên cùng kế thừa theo thế tục không quán xét kỹ nên cũng cùng tôn kính. Ngoại đạo Ly hệ cùng với hạng ấy không đồng, vì sao thế gian cũng có nhiều người kính thờ? Do họ dùng sự hiểu biết ít ỏi về tinh tú, sách lịch, tính toán phương hướng, xem chim thú giải mộng, đoán tướng lành dữ, nên hạng phàm ngu ở thế gian đa số tỏ ý kính thờ.
Lại, hàng Bà-la-môn đọc tụng các Minh luận, do khó thành tựu nên thế gian cùng nhau cung kính. Ngoại đạo Ly hệ do hành khổ nên thế gian cùng thương xót nghĩ đến. Những loại ấy đều không thể giải thoát sinh tử. Những người có trí nên hiểu biết đúng đắn. Chớ nên tùy theo sự thấy biết kia. Tiếp theo tụng nói:
Cung kính Bà-la-môn
Vì tụng các Minh luận
Thương nghĩ hàng Ly hệ
Do tự hành khổ thân.
Luận nêu: Pháp của Bà-la-môn là chăm chỉ đọc tụng các Minh luận, thế gian cho là khó nên cùng cung kính. Nhưng các Minh luận chẳng phải là nhân của giải thoát, vì chỉ có hư ngôn, không có nghĩa thật. Ngoại đạo Ly hệ, tự hành khiến thân chịu khổ cùng cực, cũng cho là khó, nên thế gian cùng thương nghĩ. Vì sao tự hành khổ chẳng phải là nhân của giải thoát? Vì quả dị thục ấy chẳng phải là pháp thiện. Những người đó nhổ tóc, co chân v.v… sinh khổ nơi thân, do chiêu cảm từ hành ác ở đời quá khứ, vì dị thục của nghiệp ấy chẳng phải là pháp thiện, như dị thục (quả báo) của vui chẳng phải là nhân của giải thoát. Nếu nói khổ này sinh ra công lực hiện tại, chẳng phải là quả dị thục vì nhân không thành. Điều này cũng không đúng, vì người kia thọ nhận khổ là quả dị thục, vì chẳng ích lợi gì cùng với sắc căn thức đều sinh ra khổ, như thân nhận chịu khổ trong địa ngục. Tự bộ cũng có nhưng không chấp nhận khổ này là dị thục, nên dùng lượng ấy để quyết đoán về điều đó. Thân khổ của các hữu tình chẳng phải là dị thục, cũng chẳng phải nhân gần gũi để có thể chứng đạt giải thoát, vì là thân hữu lậu thọ nhận duyên sinh hiện tại, như vui thích dâm dục. Lại, ngoại đạo kia tự hành khổ như thế chẳng phải là nhân của giải thoát, vì trái với Thánh giáo. Như tự hành khổ, tổn hại, là những lời của Sư kia đã nói, chẳng phải là Thánh giáo. Chẳng phải các Đức Như Lai cùng thuyết giảng, như các loại dâm thư. Như thế, các ngoại đạo kia tự hành khổ, chỉ là sự chiêu cảm của hành ác từ đời trước, cùng do hiện tại phát khởi ngu si, nhất định chẳng phải là nhân có thể chứng đắc giải thoát chân thật.
Lại nữa, có người nói như vầy: Dựa nơi thân tôn thắng có thể đạt được giải thoát. Hàng tôn thắng ở thế gian tức là Bà-la-môn, nên Bà-la-môn có thể chứng đắc giải thoát, chẳng phải những loại khác có thể đạt được Niết-bàn. Thuyết này cũng không đúng. Nên tiếp theo tụng nói:
Như nghiệp chiêu cảm khổ
Chẳng thật nhân giải thoát
Sinh nghiệp thân hơn hết
Cũng chẳng chứng giải thoát.
Luận nêu: Như tông chỉ của ngoại đạo Ly hệ tức thân nhận chịu khổ là dị thục của nghiệp nên không phải là nhân của giải thoát. Thân của Bà-la-môn nếu như cho là tôn thắng, cũng là sự chiêu cảm của nghiệp chẳng phải là nhân của giải thoát. Thân tuy không thể tự mình chứng đắc giải thoát, nhưng phần thiện trong thân là nhân của giải thoát. Nếu như vậy thì phần thiện của thân khác cũng như thế, vì sao chỉ nói mỗi hàng Bà-la-môn? Lại, những pháp như căn cảnh của Bà-la-môn, so với các chủng loại khác thì tất cả đều đồng, vì sao tự nói hạng kia là hơn hạng khác là kém? Vì vậy, lời của họ nói chỉ lừa dối kẻ ngu, những người có trí không nên tin nhận. Nhưng hàng Bàla-môn chẳng phải là hơn chủng loại khác, như hàng Thú-đạt-la là người ở châu này. Hàng Thú-đạt-la chẳng phải là kém so với chủng tộc kia, cũng là người ở châu này, như hàng Bà-la-môn đã nói. Như vậy những lời của ngoại đạo nói ra đều là hư giả, chưa biết pháp của Đức Như Lai có gì chân thật. Để trừ bỏ nghi ấy, nên nói tụng:
Lược nói lời Phật dạy
Đầy đủ hai tông khác
Không hại sinh trời người
Quán không chứng giải thoát.
Luận nêu: Đức Phật thuyết giảng vô lượng pháp môn thâm diệu, tạo lợi lạc cho hữu tình, chủ yếu chỉ có hai loại: Một là không hại đến khả năng chiêu cảm nơi hàng trời người. Hai là quán không để có thể chứng đắc giải thoát. Làm tổn não ý của người khác cùng những thứ phát sinh của họ, hai nghiệp thân ngữ như vậy gọi chung là hại. Nếu có thể đoạn trừ pháp có hại do người kia đã nói, tu tập các nhân thiện gọi là bất hại. Đó là mười nghiệp thiện, bố thí ái ngữ lợi hành đồng sự cùng các tĩnh lự, định vô sắc v.v…, do đó được sinh nơi nẻo thiện của hàng trời người, thọ nhận các quả báo thắng diệu không nhiễm, dựa vào đấy tức có thể trừ diệt tất cả phiền não, và có thể tu tập vô lượng nhân thiện. Chân như thực tế lìa tướng gọi là không. Chánh quán không này tức có thể chứng đạt lý không, vô ngã của Niết-bàn an lạc. Ở trong các pháp không tướng không danh, cùng đồng một vị tịch tĩnh an lạc, tức là Niết-bàn. Đây tất do quán không mới có thể chứng đạt. Như vậy, hai nhân giải thoát của nẻo thiện, chỉ trong pháp Phật mới có thể đạt được đầy đủ. Ngoại đạo tuy có giảng nói ít phần về thí giới, là nhân sinh nơi hàng trời người nhưng không đầy đủ, trọn vẹn. Vì sao? Vì các ngoại đạo kia không có trí tuệ để phân tích hiển bày về nhân quả, không nói ý tự sinh thắng phước, không có pháp của luật nghi biệt giải thoát, nên nghiệp thô nơi nẻo thiện hãy còn không nhận biết đích xác, nhân diệu của Niết-bàn vì thế là chẳng có phần. Lý giáo của Đức Như Lai đã giảng nói là trọn vẹn viên mãn, chúng tà của ngoại đạo vì sao chẳng vui thích? Vì chánh giáo của Phật trái ngược với tông tà của họ, trái với tham vốn có, nên họ không vui thích. Nhằm hiển bày nghĩa ấy, nên nói tụng:
Người đời đắm tự tông
Như yêu chốn quê mình
Chánh pháp thường diệt trừ
Nhóm tà không sinh vui.
Luận nêu: Như nơi chốn quê mình sinh ra, tuy đất đai không màu mỡ, phong cảnh không tốt tươi, nhưng đã sống ở đó lâu dài nên không muốn từ bỏ. Tự tông cũng như vậy. Tuy so với lý là trái nhưng vì kế thừa từ bổn sư nên không thể lìa bỏ. Tông chỉ của ngoại đạo khác hãy còn không mong muốn vui thích, huống hồ là ngưỡng mộ Thánh giáo cam lồ của Đức Như Lai. Lửa trí chân không thật tướng thâm diệu, thường đốt cháy đống củi tà chấp của ngoại đạo, vì trái với bản tâm của họ, nên không vui mừng. Những người có trí nên khéo tư duy, đừng nhiễm theo tông tà dẫn đến trái với chánh pháp.
Lại nữa, pháp Phật soi chiếu khắp nơi như vầng mặt trời tỏa ánh sáng, người cầu thắng trí phải nên tin tưởng ngưỡng mộ. Để hiển bày nghĩa này, nên nói tụng:
Có trí cầu đức thắng
Nên tin nhận chân tông
Chánh pháp như mặt trời
Có mắt nên thấy được.
Luận nêu: Trong đây, hiển bày chỉ rõ cần đủ hai đức mới có thể tin pháp Đại thừa: Một là có trí. Hai là mong cầu công đức thù thắng. Đại thừa có thể trừ diệt tất cả tông tà. Tùy thuận Đại thừa đạt được nhiều lợi ích. Đó là tự mình có thể chứng đạt Niết-bàn vô thượng, khiến các hữu tình khác cũng ra khỏi sinh tử. Chánh pháp Đại thừa như vầng mặt trời kia, khắp vì thế gian phá trừ bóng tối vô minh. Người có mắt tuệ nhân nơi ánh sáng chánh pháp ấy, soi chiếu nhận biết rõ cảnh tượng chân giả, bỏ tà theo chánh, tránh hiểm cầu an, lợi lạc tự tha không việc gì là không thành tựu đầy đủ. Những người có trí, nên tin theo Đại Thừa, chớ nên quay lại với tông tà phỉ báng chánh pháp, tự nhận chịu chìm sâu trong bùn lầy sinh tử, lừa dối mê hoặc hữu tình khiến họ mất lợi lớn. Người trí và kẻ ngu khác nhau. Nghĩa là trí nhận biết đúng sai đừng giống như kẻ ngu không biện biệt chân giả. Nếu có tâm chân thật lợi lạc cho người, nên dùng pháp Đại thừa phá trừ tà lập chánh, siêng tu quán không, mau chóng chứng quả Bồ-đề, tạo lợi lạc cho hữu tình tận cùng đời vị lai!
HẾT – QUYỂN 6