LUẬN A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Thắng
Hán dịch: Đời Đông Tấn, Đại sư Tăng Già Đề Bà và Tuệ Viễn
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Phẩm thứ 8: KHẾ KINH

Đã nói về phẩm Định. Phẩm Khế kinh nay sẽ nói.

Bậc Nhất thiết trí nói

Khế kinh nghĩa vi diệu

Nay đây Ta sẽ nói

Đem tâm thiện lắng nghe.

Tuy đã có nghĩa của Khế kinh nơi tất cả A-tỳ-đàm, nhưng các Khế kinh cũng nên phân biệt đủ. Sự việc này nay sẽ nói.

Như Đức Thế Tôn nói ba cõi là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.

Hỏi: Ba cõi này là thế nào?

Đáp:

Cõi dục: Mười cư trú

Cõi sắc nói mười bảy

Trong vô sắc có bốn

Ba hữu cũng như vậy.

Cõi dục: Mười cư trú: Nghĩa là cõi dục này có mười xứ cư ngụ là địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, người và sáu trời thuộc dục giới: Trời Tứ Thiên Vương, trời Ba Mươi Ba, trời Diệm Ma, trời Đâu Suất Đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, là nơi chốn chúng sinh sinh khởi tưởng dục.

Trong xứ sở này nếu vật có thể đạt được đều là trông mong nơi sự dâm dục hiện có, thế nên nói là cõi dục.

Hỏi: Thế nào là cõi sắc?

Đáp: Cõi sắc nói mười bảy: Nghĩa là nói cõi sắc có mười bảy xứ cư trú: Phạm thân, Phạm phú lâu, Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang diệu, Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh, Vô quái ngại, Thọ phước, Quả thật, Vô tưởng chúng sinh, Bất phiền, Bất nhiệt, Thiện kiến, Thiện hiện và Sắc cứu cánh.

Những xứ sở này không sinh khởi tưởng dục, chỉ thành tựu sắc cực diệu. Vì không phải hình nam, không phải hình nữ nên nói là cõi sắc.

Trong vô sắc có bốn: Nghĩa là cõi vô sắc có bốn xứ cư trú: Vô lượng không xứ, vô lượng thức xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xứ sở này không có sắc, đã lìa sắc dục, do vậy nên nói là cõi vô sắc.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói: Ba hữu là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Ba hữu này như thế nào?

Đáp: Ba hữu cũng như vậy: Nghĩa là phân biệt về ba cõi trước, tức là ba hữu.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn đã nói về bảy thức trụ. Thức trụ này là thế nào?

Đáp:

Nẻo thiện là cõi dục

Cùng ba địa cõi sắc

Vô sắc cũng như vậy

Tuệ biết các thức trụ.

Trong cõi dục này, nếu là số nẻo thiện, như nẻo người, sáu trời nơi dục giới, cùng ba địa trước của cõi sắc, ba địa trước của cõi vô sắc.

Trên địa của thiền thứ nhất, địa của thiền thứ hai có ba. Trên địa của thiền thứ hai, địa của thiền thứ ba có ba. Trên địa của thiền thứ ba, địa của thiền thứ tư có chín. Trong đó, ba địa trước và ba địa trước của cõi vô sắc là nói bảy thức trụ. Vì sao? Vì thức không bị hủy hoại. Khổ thọ trong nẻo ác đã hủy hoại thức, nên không lập được thức trụ. Ở thiền thứ tư bị định vô tưởng hủy hoại thức, nên cũng không thể lập thức trụ. Xứ phi tưởng phi phi tưởng thì định diệt tận đã hủy hoại thức, nên không lập được thức trụ. Vì vậy nên không nói.

Hữu thứ nhất vô tưởng

Chúng sinh trụ nói chín

Các hữu lậu bốn ấm

Là nói bốn thức trụ.

Hữu thứ nhất vô tưởng, Chúng sinh trụ nói chín: Nghĩa là bảy thức trụ này và chúng sinh vô tưởng, xứ phi tưởng phi phi tưởng, là nói chín nơi chốn cư trú của chúng sinh. Vì ở trong đó chúng sinh đang dừng trụ, nên nói là chúng sinh cư trú.

Các hữu lậu bốn ấm, Là nói bốn thức trụ: Nghĩa là sắc, thọ, tưởng, hành hữu lậu, nếu thức nối tiếp nhau luôn có trợ bạn là bốn ấm này, nên nói là thức trụ.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói mười hai chi duyên khởi. Về tướng của mười hai chi duyên khởi này cũng cần nên nói chăng?

Đáp:

Các phiền não và nghiệp

Hữu thể dần dần sinh

Đó gọi là chi hữu

Chúng sinh tất cả sinh.

Ở đây, phiền não là vô minh, ái, thủ gọi là nghiệp, hành và hữu gọi là thể. Các chi còn lại là sự sinh dần dần của tất cả chúng sinh. Dựa vào thể để lập phiền não. Phiền não đã tạo tác nghiệp, nghiệp tạo tác thể, thế nên có mười hai thứ phân biệt.

Hỏi: Các chi này là cùng một lúc hành tác hay là dần dần?

Đáp: Không phải là một lúc. Mười hai khổ ấm nói là mười hai chi, vô minh là đứng đầu.

Chi hữu thứ lớp lập

Thọ nhận trong sinh tử

Quá khứ và vị lai

Ở giữa nói có tám.

Chi hữu kia theo thứ lớp lập, trong đó, trước khi sinh tất cả phiền não đều có cùng với trợ bạn nói là vô minh. Do vô minh này nên tạo ra nghiệp, nghiệp tạo nên quả là hành. Hành sinh chủng tử tâm là thức. Thức đó cùng sinh với bốn ấm nối tiếp nhau là danh sắc. Ở đây, mắt là nơi nương dựa đứng đầu, các căn là sáu nhập. Căn, cảnh giới và tâm hòa hợp là cánh lạc (Xúc). Xúc khiến sinh khởi sự thọ nhận là thống (Thọ). Thọ bị chấp trước là ái. Thọ nhận đủ các phiền nhọc là thọ (Thủ). Thủ đã gây tạo nghiệp là hữu. Nơi hữu đó lại nhận lấy quả là sinh. Từ trong sinh kia lại có vô lượng tai họa dấy khởi là lão tử (già chết).

Như vậy, chi hữu này trong tất cả đời, hai thuộc về đời quá khứ, hai thuộc về vị lai, tám hữu thuộc đời hiện tại.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói sáu giới. Những giới này là thế nào?

Đáp:

Các đại nói có bốn

Cùng với thức hữu lậu

Cũng sắc trung gian biết

Là giới nói gốc sinh.

Các đại nói có bốn, Cùng với thức hữu lậu, Cũng sắc trung gian biết: Nghĩa là bốn đại (Đất, nước, lửa, gió), thức hữu lậu và sắc trung gian là có thể nhận biết. Tức là mắt đã thọ nhận sáu pháp này nói là giới.

Hỏi: Vì sao trong rất nhiều các pháp chỉ nói sáu giới?

Đáp: Là giới nói gốc sinh: Tức sáu pháp ấy là gốc của sinh tử, trong ấy có tưởng của con người. Ở đây, thân là do từ đất sinh. Nước khiến cho thấm nhuần. Lửa làm cho chín, loại trừ những thứ hư nát. Gió làm khởi động. Trung gian không là sự ăn uống. Do gió vận hành ra vào nên thức được lập. Nơi thức này khởi tưởng của con người, là tánh của sinh tử nên nói là giới.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói bốn Thánh Đế. Tướng của bốn Thánh đế này là thế nào?

Đáp:

Các hành nếu có quả

Hữu lậu là nói khổ

Nếu có nhân là tập

Khổ dứt hết là diệt.

Các hành nếu có quả, Hữu lậu là nói khổ: Nghĩa là tất cả hành hữu lậu đều từ trong nhân sinh khởi, cũng tạo nên tất cả khổ họa, vì thế hết thảy hành nói là khổ đế.

Nếu có nhân là tập: Tức tất cả hành hữu lậu nói là nhân. Do đấy nên tất cả hành nói là tập đế. Như một người nữ, cũng nói là mẹ, cũng nói là người nữ, chỉ có trước và sau. Như vậy hành hữu lậu cũng nói là khổ đế, cũng nói là tập đế, vì đã sinh, sẽ sinh.

Khổ dứt hết là diệt: Nghĩa là tất cả hành hữu lậu đều diệt, dứt nghỉ, gọi là diệt đế.

Nếu có hành vô lậu

Tức nói là đạo đế

Đạo đế kia hai sự

Thấy được biết vi tế.

Nếu có hành vô lậu, Tức nói là đạo đế: Nghĩa là tất cả hành vô lậu nói là đạo đế. Vì sao? Vì lúc khổ dừng dứt đều là đạo.

Hỏi: Vì sao nói là đế?

Đáp:Đạo đế kia hai sự: Vì hai sự việc ấy nên nói là đế. Vì tự tướng chân thật, không phải là điên đảo, và vì nhận thấy đế kia tức được ý không điên đảo.

Hỏi: Như nhân trước, quả sau. Vì sao Đức Thế Tôn trước nói quả, sau mới nói nhân?

Đáp: Thấy được biết vi tế: Thánh đế tuy có tập trước, khổ sau, là trước tu đạo, sau được diệt. Song nên trước thấy khổ đế, sau thấy tập đế. Như vậy nên trước thấy diệt đế, sau thấy đạo đế. Vì sao? Vì khổ thô tập tế, diệt thô đạo tế. Do đấy Đức Thế Tôn trước nói khổ đế sau nói tập đế, trước nói diệt đế sau nói đạo đế.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói bốn quả Thánh Sa-môn. Quả này có bao nhiêu thứ?

Đáp:

Quả Thánh có sáu thứ

Hơn hết tại chín địa

Thứ ba ở sáu địa

Hai cùng dựa vị lai.

Quả Thánh có sáu thứ: Nghĩa là sáu thứ nơi bốn quả Sa-môn là năm ấm vô lậu và số duyên diệt.

Hỏi: Bốn quả Sa-môn thuộc về địa nào?

Đáp: Hơn hết tại chín địa: Hơn hết là quả Vô trước (A-la-hán) thuộc về chín địa, tức bốn thiền căn bản, ba định vô sắc, thiền vị lai và thiền trung gian.

Thứ ba ở sáu địa: Nghĩa là quả Bất hoàn thuộc về sáu địa, tức gồm đủ bốn thiền, thiền vị lai và thiền trung gian, không phải là vô sắc, vì không có pháp trí.

Hai cùng dựa vị lai: Nghĩa là quả Tu-đà-hoàn và Tư-đà-hàm đều thuộc về thiền vị lai, do chưa lìa dục.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói bốn đạo: Là khổ bất tốc thông, khổ tốc thông. Lạc bất tốc thông, lạc tốc thông. Tướng của bốn đạo này là thế nào?

Đáp:

Các pháp Tùy tín hành

Tưởng không phiền não chậm

Các pháp Tùy pháp hành

Tưởng không phiền não nhanh.

Các pháp Tùy tín hành, Tưởng không phiền não chậm: Nghĩa là pháp vô lậu của hàng Tùy tín hành là không nhanh chóng, do thuộc về nhóm độn căn nên chậm. Nếu thọ nhận căn này, nên biết là hàng Tín giải thoát. Bậc Thời giải thoát cũng thọ nhận đồng độn căn.

Các pháp Tùy pháp hành, Tưởng không phiền não nhanh: Nghĩa là pháp vô lậu của hàng Tùy pháp hành là thuộc về nhóm lợi căn nên nhanh. Nếu thọ nhận căn này, nên biết là hàng Kiến đáo. Bậc A-la-hán bất thời giải thoát cũng thọ nhận đồng lợi căn.

Trong địa thiền căn bản

Biết giả gọi tưởng vui

Nhỏ cùng với khó được

Ngoài ra đều tưởng khổ.

Trong địa thiền căn bản, Biết giả gọi tưởng vui: Nghĩa là trong bốn thiền căn bản, pháp của lợi căn và độn căn nói là đạo vui. Vì sao?

Vì chỉ quán dẫn dắt nên cùng với vui hành.

Nhỏ cùng với khó được, Ngoài ra đều tưởng khổ: Nghĩa là địa khác gồm thâu vô lậu là tưởng khổ. Vì sao? Vì do nhỏ. Vì đạo chỉ trong thiền vị lai, thiền trung gian là nhỏ, và trong vô sắc quán cũng nhỏ, thế nên rất khổ, vì hoàn toàn khó được và nhỏ, nên nói là khổ.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói bốn tịnh không hoại. Đối với Phật là tịnh không hoại. Đối với Pháp, Tăng và Thánh giới là tịnh không hoại. Sự việc này là thế nào?

Đáp:

Tự giác, pháp Thanh văn

Giải thoát cũng nhân khác

Tín thanh tịnh không cấu

Thánh giới cùng quyết định.

Tự giác, pháp Thanh văn, Giải thoát cũng nhân khác, Tín thanh tịnh không cấu: Nghĩa là Tự giác là Phật. Đức Phật kia thuộc về quả Vô trước. Công đức vô học là pháp của Phật. Đối với pháp này, nếu khởi tín vô lậu là nói đã được tín không hoại đối với Đức Phật. Đã nhận lấy chánh chứng nơi Thanh văn, nên công đức của học, vô học kia là nói về pháp Thanh văn. Đối với pháp này, nếu khởi tín vô lậu là nói đối với Tăng đã được tín tịnh không hoại. Tín vô lậu trong Niếtbàn và pháp hữu vi khác như tin nơi khổ đế, tập đế. Tin nơi công đức vô lậu của Bồ-tát. Tin vào pháp học, vô học nơi Phật-bích-chi là nói đối với pháp được tịnh không hoại.

Thánh giới là giới vô lậu. Đây là nói đối với giới được tín không hoại.

Hỏi: Vì sao nói tịnh không hoại là hoàn toàn vô lậu, không phải là hữu lậu?

Đáp: Cùng quyết định, đây là quyết định. Do từ trong chánh kiến sinh, nên là tín vô lậu, giới vô lậu quyết định là vô lậu.

Tín hữu lậu thì bị bất tín hủy hoại. Giới hữu lậu thì bị phi giới phá hoại, do vậy nên không quyết định. Còn vô lậu thì không hoại cho đến đời sau, do đấy nên quyết định, vì thế tịnh không hoại hoàn toàn là vô lậu.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói: Tu định có bốn: (1) Có tu định, ở trong hiện pháp được sống an lạc. (2) Có tu định, được tri kiến. (3) Có tu định, được tuệ phân biệt. (4) Có tu định, được lậu dứt hết. Tướng của các pháp tu định này là thế nào?

Đáp:

Thiền thứ nhất nếu thiện

Nói hiện pháp là vui

Nếu biết nơi sinh tử

Đó gọi là tri kiến.

Thiền thứ nhất nếu thiện, Nói hiện pháp là vui: Nghĩa là tịnh và vô lậu nơi thiền thứ nhất có thể đạt được ở nơi hiện pháp sống an lạc.

Nếu biết nơi sinh tử, Đó gọi là tri kiến: Nghĩa là sinh tử trí thông là nói về tri kiến của tu định, cùng dựa vào năm ấm.

Tuệ phân biệt nên biết

Cầu được các công đức

Kim cang dụ bốn thiền

Tức gọi là lậu tận.

Tuệ phân biệt nên biết, Cầu được các công đức: Nghĩa là phương tiện sinh khởi công đức, gọi là giới của cõi dục. Công đức của văn, tư, tu là tất cả pháp thiện của cõi sắc, cõi vô sắc. Tất cả pháp hữu vi, vô lậu là hết thảy tuệ phân biệt của tu định.

Kim cang dụ bốn thiền, Tức gọi là lậu tận: Nghĩa là định kim cang dụ gọi là tâm học sau cuối, cùng tương ưng, cùng có là thuộc về thiền thứ tư, là nói về lậu tận của tu định. Đây là nghĩa do Đức Như Lai đã tự giảng nói.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói về bốn như ý túc, bốn chánh đoạn và bốn ý chỉ. Các pháp đó cũng cần được nói về tướng?

Đáp:

Các pháp hữu vi thiện

Cầu khởi các phương tiện

Phật nói như ý túc

Cũng hiện chánh ý đoạn.

Các pháp hữu vi thiện,

Cầu khởi các phương tiện, Phật nói như ý túc: Nghĩa là cầu phát khởi các thứ như phương tiện v.v…, như tuệ phân biệt của tu định ở trước, nói là tất cả như ý túc, là như ý nương theo vật chứa đựng.

Cũng hiện chánh ý đoạn: Tức tất cả công đức này nói là chánh đoạn (Chánh cần).

Kia cũng là ý chỉ

Bốn Thánh chủng cũng vậy

Nghĩa có tự lực sinh

Lời Thánh ấy đã nói.

Kia cũng là ý chỉ: Tức pháp này cũng nói là ý chỉ.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói về bốn Thánh chủng. Bốn Thánh chủng này là thế nào?

Đáp: Bốn Thánh chủng cũng vậy: Tức pháp này cũng nói là bốn Thánh chủng.

Hỏi: Vì sao hết thảy công đức này đều nói là ý chỉ, chánh đoạn, như ý túc, Thánh chủng?

Đáp: Nghĩ có tự lực sinh, Lời Thánh ấy đã nói: Tức các pháp này nói là định, do sức của tư duy sinh khởi, do định trụ, thế nên nói là như ý túc. Tinh tấn do sức của tư phát sinh, nên nói là chánh đoạn. Niệm do sức của tư sinh khởi, nên nói là ý chỉ. Thiểu dục, tri túc là do sức của tư sinh, nên nói là Thánh chủng.

Đã cùng phân biệt đạo phẩm. Về tự tướng nay sẽ nói.

Tịnh tín, tinh tấn, niệm

Hỷ, tuệ, và ỷ giác

Hộ, tư duy, giới, định

Pháp này là đạo phẩm.

Mười pháp này nói là đạo phẩm, không phải là pháp khác.

Trong đó, tín là tín căn, tín lực. Tinh tấn là bốn chánh đoạn, tinh tấn căn, tinh tấn lực, tinh tấn giác chi, là chánh phương tiện. Niệm là niệm căn, niệm lực, niệm giác chi, là chánh niệm.

Hỷ là hỷ giác chi. Tuệ là bốn ý chỉ, tuệ căn, tuệ lực, là trạch pháp giác chi, là chánh kiến. (Khinh an) là ỷ giác chi.

Hộ (Xả) là xả giác chi. Tư duy là chánh chí (Chánh tư duy). Giới là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Định là bốn như ý túc, định căn, định lực, định giác chi, chánh định.

Hỏi: Vì sao pháp này lại phân biệt có nhiều thứ như vậy?

Đáp:

Xứ phương tiện, một ý

Độn kém cùng lợi căn

Kiến đạo, tư duy đạo

Phật nói ba mươi bảy.

Xứ: Là chánh niệm được lập trong duyên nên nói là ý chỉ. Phương tiện: Là chánh phương tiện nên nói là chánh đoạn. Một ý: Vì lập một ý nên nói là như ý túc.

Độn kém: Ý được nên nói là căn. Lợi căn: Ý của lợi căn đạt được nên nói là lực.

Kiến đạo: Vì kiến đạo đạt được nên nói là đạo chi. Tư duy đạo: Vì đạo tư duy đạt được nên nói là giác chi.

Đó gọi là phân biệt sự việc.

Phật nói ba mươi bảy: Tức nơi sự việc của mười pháp này, nên Đức Phật nói ba mươi bảy phẩm.

Hỏi: Đạo phẩm này thuộc về địa nào?

Đáp:

Thiền thứ hai, vị lai

Là nói ba mươi sáu

Ba bốn, ba mươi lăm

Thiền trung gian cũng vậy.

Thiền thứ hai, vị lai, Là nói ba mươi sáu: Nghĩa là thiền thứ hai không có chánh chí (Chánh tư duy). Thiền vị lai không có hỷ giác chi. Ngoài ra, có Ba bốn, ba mươi lăm, Thiền trung gian cũng vậy: Nghĩa là thiền thứ ba, thiền thứ tư và thiền trung gian đều không có hỷ giác chi, không có chánh chí. Ngoài ra thì có.

Thứ nhất nói tất cả

Ba không, ba mươi mốt

Trên hết hai mươi mốt

Cõi dục hai mươi hai.

Thứ nhất nói tất cả: Nghĩa là thiền thứ nhất có đủ ba mươi bảy.

Ba không, ba mươi mốt: Nghĩa là trong ba không có ba mươi mốt. Hỷ, chánh chí (Chánh tư duy), chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, thân ý chỉ, trong ấy không có. Các thứ còn lại thì có.

Trên hết hai mươi mốt: Tức nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng không có bảy giác, tám đạo và thân ý chỉ.

Cõi dục hai mươi hai: Tức trừ giác chi, đạo chi, ngoài ra là có.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói: Có bốn thứ thực (Ăn): Đoạn thực, xúc thực, ý tư thực, thức thực. Những cách thực này là thế nào?

Đáp:

Đoạn thực trong các thực

Là ba thứ cõi dục

Thức, tư cùng với xúc

Thực này gọi hữu lậu.

Đoạn thực trong các thực, Là ba thứ cõi dục: Nghĩa là đoạn thực ở cõi dục có ba thứ là hương, vị, xúc. Do trừ bỏ đói khát, nên nói là ăn.

Thức, tư cùng với xúc, Thực này gọi hữu lậu: Nghĩa là thức hữu lậu, tư hữu lậu, xúc hữu lậu, nói là ăn tức có nghĩa gì? Vì sinh sau cùng nối tiếp nhau không đoạn dứt nên nói là ăn.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói ba Tam-ma-đề là không, vô nguyện, vô tướng. Tam-ma-đề này hành như thế nào, có bao nhiêu hành?

Vô nguyện có mười hành

Hai hành là định không Bốn hành trong hành Thánh Nói là định vô tướng.

Vô nguyện có mười hành: Tức Tam-ma-đề vô nguyện hành mười hành: Hành vô thường, hành khổ, bốn hành của tập đế, bốn hành của đạo đế.

Hai hành là định không: Nghĩa là Tam-ma-đề không có hai hành là hành không và hành vô ngã.

Bốn hành trong hành Thánh, Nói là định vô tướng: Tức Tamma-đề vô tướng có bốn hành của diệt đế.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói bốn điên đảo: Đối với vô thường khởi tưởng có thường, là tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo. Khổ có tưởng lạc, bất tịnh có tưởng tịnh, phi ngã có tưởng là ngã, là tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo. Những điên đảo này là do kiến nào đoạn trừ? Tánh là gì?

Đáp:

Hiểu rõ kiến khổ đoạn

Bốn thứ là điên đảo

Ba kiến tánh hiện có

Bỏ kiến nói chánh kiến.

Hiểu rõ kiến khổ đoạn, Bốn thứ là điên đảo: Nghĩa là tất cả bốn điên đảo do kiến khổ đoạn, vì đều do xứ của hành khổ.

Ba kiến tánh hiện có, Bỏ kiến nói chánh kiến: Tức điên đảo là tánh của kiến chấp. Trong ba kiến chấp nói trên hết, tức là nói điên đảo. Thân kiến là nói chấp ngã, vì ngã là ngã kiến. Biên kiến là chấp có thường và đoạn. Trộm kiến thì bất tịnh chấp là tịnh. Những kiến chấp kia là xứ của tất cả hành khổ. Cùng do tánh của kiến chấp hiện có khiến tâm, tưởng, kiến tạo rối loạn nên nói là tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo, song không phải là tánh điên đảo.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói có nhiều kiến, sáu mươi hai kiến là đứng đầu. Vậy chúng thuộc về kiến nào?

Đáp: Tất cả kiến đều thuộc về năm kiến, thân kiến là đứng đầu.

Hỏi: Vì sao nhận biết được?

Đáp:

Hủy báng nơi chân thật

Đấy nói là tà kiến

Không thật chấp là thật

Là hai kiến và trí.

Hủy báng nơi chân thật, Đấy nói là tà kiến: Nghĩa là kiến chấp hủy báng pháp chân thật cho là không có. Như nói: Không có bố thí, không có trai giới, không nói về các pháp ấy, tất cả những nêu bày như vậy gọi là tà kiến.

Không thật chấp là thật, Là hai kiến và trí: Tức trong năm ấm, chấp ngã không chân thật, quán ngã là có thật, đó gọi là thân kiến. Không phải là lạc tịnh chân thật mà thấy là lạc tịnh, đó là trộm kiến (Kiến thủ). Trộm kiến và các tà trí khác đều do tư duy đoạn. Như ban đêm thoáng thấy một khúc gỗ hoặc tượng người cho là kẻ trộm.

Chấp tịnh là trộm giới

Là không nhân chấp nhân

Thọ biên nói kiến này

Là dựa nơi đoạn, thường.

Chấp tịnh là trộm giới, Là không nhân chấp nhân: Tức pháp đối với pháp, không phải nhân mà chấp là nhân. Kiến chấp như vậy gọi là trộm giới (Giới cấm thủ), như là hành khổ hạnh cho là đạt đến giải thoát.

Thọ biên nói kiến này, Là dựa nơi đoạn, thường: Thấy sự việc vô thường chấp là thường còn, đó gọi là chấp có thường. Nhân duyên nối tiếp nhau, không nhận biết, chấp là đoạn, đó gọi là chấp đoạn. Hai thứ như thế là thọ nhận biên kiến.

Tạo lập các hủy báng

Nhận dựa nơi hai biên

Nếu có việc chuyển hành

Là chánh kiến nên đoạn.

Tạo lập các hủy báng: Tức gọi là tà kiến. Tà kiến kia nếu hủy báng khổ thì do kiến khổ đoạn. Nếu hủy báng tập thì do kiến tập đoạn. Nếu hủy báng diệt thì do kiến diệt đoạn. Nếu hủy báng đạo thì do kiến đạo đoạn.

Thân kiến tạo lập nơi ngã khổ là ngã thì do kiến khổ đoạn.

Trộm kiến tạo lập cho khổ là vui thì do kiến khổ đoạn. Nếu chấp tập thì do kiến tập đoạn. Nếu chấp diệt thì do kiến diệt đoạn. Không thọ nhận chánh pháp thì do kiến diệt đoạn. Đạo cũng như vậy.

Trộm giới nếu hành ở xứ hữu lậu thì do kiến khổ đoạn. Nếu hành ở xứ vô lậu thì do kiến đạo đoạn. Chấp đoạn diệt, thường còn cũng do kiến khổ đoạn. Năm ấm là hiện có, không phải là không hiện có để chấp là đoạn, là thường. Trong đây là đã phân biệt về tất cả kiến.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói về hai mươi hai căn. Các căn này là thế nào?

Đáp:

Các giới ở bên trong

Thân ba cùng mạng căn

Căn này sinh tử dựa

Lời Thánh nhân đã nói.

Các giới ở bên trong: Là mắt, tai, mũi, lưỡi, ý.

Thân ba: Nghĩa là thân căn có ba thứ: Là thân căn, nam căn, nữ căn. Cùng mạng căn: Tức mạng căn là thứ chín.

Căn này sinh tử dựa, Lời Thánh nhân đã nói: Nghĩa là chín căn này làm nơi nương dựa của sinh tử, nên nói là gốc nơi chúng sinh, là tưởng của sự sống chết.

Từ thọ các phiền não

Tín đầu dựa thanh tịnh

Chín căn gọi vô lậu

Là ba dựa nơi đạo.

Từ thọ các phiền não: Nghĩa là lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn và xả căn, chúng là các thọ, theo đấy có các phiền não, nên nói là căn.

Tín đầu dựa thanh tịnh: Nghĩa là tín căn, tinh tấn, niệm, định, tuệ căn, đều dựa vào đấy để được giải thoát, nên nói là căn.

Chín căn gọi vô lậu, Là ba dựa nơi đạo: Nghĩa là tín đứng đầu năm căn, ba thọ và ý căn (chín căn), như vô lậu dựa vào đạo, nên gọi là căn. Tùy tín hành, Tùy pháp hành thuộc về đạo là vị tri căn. Thuộc về đạo tư duy là dĩ tri căn. Thuộc về đạo vô học là vô tri căn.

Hỏi: Trong các căn này có bao nhiêu thứ thuộc cõi dục, bao nhiêu thứ thuộc cõi sắc và bao nhiêu thứ thuộc cõi vô sắc?

Đáp:

Cõi dục bốn, thiện tám

Chủng tánh sắc có bảy

Các tâm số có mười

Một tâm, tuệ đã nói.

Cõi dục bốn: Tức nam căn, nữ căn, khổ căn, ưu căn là hoàn toàn thuộc cõi dục. Ngoài ra, như đã nói trong phẩm Giới.

Thiện tám: Là tín căn đứng đầu trong năm căn và ba căn vô lậu.

Chủng tánh sắc có bảy: Nghĩa là sắc căn có bảy: Năm sắc căn và nam căn, nữ căn. Ngoài ra không phải là sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu là tánh tâm, bao nhiêu là tánh tâm số? Có bao nhiêu không phải là tánh tâm, không phải là tánh tâm số?

Đáp: Các tâm số có mười: Tức tín đứng đầu năm căn cùng năm thọ.

Một tâm, tuệ đã nói: Là ý căn. Căn còn lại không phải là tánh tâm, không phải là tánh tâm số.

Hỏi: Có bao nhiêu căn có báo, bao nhiêu căn không có báo?

Đáp:

Một và mười có báo

Là tuệ như đã nói

Trong mười ba là báo

Thấy thật là phân biệt.

Một là ưu căn nhất định có báo, vì hoàn toàn là thiện, hoặc bất thiện. Phương tiện hiện tại khởi là không từ báo sinh, không phải là oai nghi, không phải là công xảo, do đấy không phải là vô ký, nên hoàn toàn có báo.

Và mười có báo, Là tuệ như đã nói: Nghĩa là tín đứng đầu năm căn, nếu hữu lậu thì có báo, vô lậu thì không có báo. Ý căn và ba thọ nếu là vô ký và vô lậu thì không có báo, nếu là thiện, bất thiện thì có báo. Khổ căn nếu là vô ký thì không có báo, ngoài ra thì có báo.

Hỏi: Có bao nhiêu căn là báo, bao nhiêu căn không phải là báo?

Đáp: Trong mười ba là báo, Thấy thật là phân biệt: Tức trong mười ba căn thì hoặc tánh là báo, hoặc không phải sắc căn là bảy. Mạng căn, ý căn và bốn thọ (sáu), là pháp vô ký, nếu sinh khởi trong thiện, bất thiện nên có báo.

Hỏi: Lúc sinh có bao nhiêu căn đầu tiên được báo?

Đáp:

Hai hoặc sáu, bảy, tám

Lúc đầu có thể được

Trong dục có tưởng báo

Cũng sáu cùng trên một.

Hai hoặc sáu, bảy, tám, Lúc đầu có thể được: Nghĩa là dần dần thành căn, như các loài sinh bằng trứng, sinh nơi ẩm ướt, sinh bằng thai. Là lúc đầu có hai căn sinh là thân căn và mạng căn. Loài hóa sinh, không hình được sáu căn, là năm sắc căn và mạng căn. Một hình có bảy, hai hình có tám.

Trong dục có tưởng báo: Đây là hoàn toàn nói về chúng sinh của cõi dục.

Cũng sáu cùng trên một: Nghĩa là lúc sinh lần đầu nơi cõi sắc được sáu căn, cõi vô sắc có một căn. Ngay bấy giờ, tâm kẻ kia hoàn toàn là cấu uế, do đấy nên hoàn toàn là cấu uế mà được tâm tâm số pháp, không phải là báo.

Hỏi: Lúc mạng chung có bao nhiêu căn được xả bỏ sau cùng?

Đáp:

Bốn xả tám cùng chín

Hoặc lại xả nơi mười

Lúc chết dần dần diệt

Thiện xả đều thêm năm.

Bốn xả tám cùng chín,

Hoặc lại xả nơi mười,

Lúc chết dần dần diệt: Nghĩa là tâm vô ký lúc dần mạng chung sau cùng xả bốn căn là thân, ý, mạng và xả căn .

Không hình: Tâm vô ký trong một lúc mạng chung xả tám căn. Một hình xả chín, hai hình xả mười.

Thiện xả đều thêm năm: Nghĩa là tâm thiện của người ấy tăng thêm năm căn như tín v.v…

Như vậy, cõi sắc, vô sắc tùy theo căn có thể được cũng như vậy.

Hỏi: Có bao nhiêu căn do kiến đoạn, do tư duy đoạn và không đoạn?

Đáp:

Hai đoạn, không đoạn bốn

Hai thứ căn có sáu

Ba vi diệu không đoạn

Còn lại tư duy đoạn.

Hai đoạn, không đoạn bốn: Tức bốn căn do kiến đoạn, do tư duy đoạn. Không đoạn là ý căn và ba thọ.

Hai thứ căn có sáu: Là tín đứng đầu năm căn và ưu căn.

Ba vi diệu không đoạn: Tức ba căn vô lậu là không đoạn.

Còn lại tư duy đoạn: Là chín căn do tư duy đoạn, là tám thuộc mạng căn và khổ căn.

Đã nói về các Khế kinh. Về môn nay sẽ nói.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói sáu thức: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý thức. Những thức này nhận biết về pháp nào?

Nếu nhận nghĩa các căn

Là giới năm thứ tâm

Nhận tất cả các pháp

Đó là ý thức giới.

Nếu nhận nghĩa các căn, Là giới năm thứ tâm: Tức nghĩa gọi là năm thứ sắc, là năm thức nhận biết: Nhãn thức nhận biết sắc, cho đến thân thức nhận biết về tiếp xúc.

Nhận tất cả các pháp, Đó là ý thức giới: Nghĩa là ý thức nhận biết hết thảy các pháp. Cảnh giới này là tất cả các pháp.

Hỏi: Có mười pháp tương ưng, không tương ưng với cõi dục. Tương ưng, không tương ưng với cõi sắc. Tương ưng, không tương ưng với cõi vô sắc. Tương ưng, không tương ưng với hữu vi, vô lậu. Vô vi cùng hai thứ thiện và vô ký. Ở đây nên dùng trí phân biệt. Cảnh giới của mỗi mỗi trí có bao nhiêu pháp?

Đáp:

Năm pháp phải nên biết

Cảnh giới của pháp trí

Vị tri trí là bảy

Cảnh giới tha tâm ba.

Năm pháp phải nên biết, Cảnh giới của pháp trí: Nghĩa là năm pháp là cảnh giới của pháp trí. Đó là pháp tương ưng, không tương ưng với cõi dục. Pháp tương ưng, không tương ưng với vô lậu và vô vi thiện.

Vị tri trí là bảy: Tức cảnh giới của vị tri trí có bảy pháp: Là pháp tương ưng, không tương ưng với cõi sắc, cõi vô sắc. Pháp tương ưng, không tương ưng với vô lậu và vô vi thiện.

Cảnh giới tha tâm ba: Nghĩa là cảnh giới của tha tâm trí có ba pháp: Là pháp tương ưng với cõi dục, cõi sắc và vô lậu.

Trí hữu lậu có mười

Cảnh giới nhân quả sáu

Giải thoát trí một pháp

Đạo hai còn lại chín.

Trí hữu lậu có mười: Trí hữu lậu là đẳng trí. Tất cả cảnh giới của mười pháp kia là cảnh giới của tất cả pháp.

Cảnh giới nhân quả sáu: Tức cảnh giới của khổ trí và tập trí là sáu pháp, là pháp tương ưng, không tương ưng với ba cõi.

Giải thoát trí một pháp: Nghĩa là cảnh giới của diệt trí là một pháp tức chỉ có vô vi thiện.

Đạo hai: Nghĩa là cảnh giới của đạo trí có hai pháp, là pháp tương ưng, không tương ưng với hữu vi vô lậu.

Còn lại chín: Còn lại là tận trí, vô sinh trí. Cảnh giới của hai trí này có chín pháp, trừ vô vi, vô ký kia. Đó gọi là trí giải.

Phiền não tự địa định

Sai khiến nơi tự địa

Nhất thiết biến là chủng

Tùy ở nơi loại kia.

Phiền não tự địa định, Sai khiến nơi tự địa: Nghĩa là các phiền não của cõi dục đã sai khiến ở cõi dục. Các phiền não của cõi Phạm thế đã sai khiến ở cõi Phạm thế. Như vậy cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ đều nên biết.

Nhất thiết biến là chủng, Tùy ở nơi loại kia: Nghĩa là các phiền não nhất thiết biến (biến hành) chung và không chung đã sai khiến tùy theo chủng loại. Các phiền não nhất thiết biến chung cũng sai khiến chủng loại khác. Như thân kiến do kiến khổ đoạn, ở đây khổ đế đã đoạn tất cả sử sai khiến. Và kiến tập đã đoạn chung tất cả. Như vậy, cho đến mạng căn do tư duy đoạn. Tư duy này đã đoạn tất cả sử sai khiến và chung nơi tất cả.

Phiền não ba cõi định

Định tại nơi ba cõi

Hai cõi cần nên biết

Một cõi cũng như vậy.

Phiền não ba cõi định, Định tại nơi ba cõi: Nghĩa là pháp thuộc về ba cõi là định ở nơi ba cõi, ở đây tất cả sử của ba cõi đã sai khiến (Tùy tăng). Như ý căn nhất định ở nơi ba cõi, trong đó tất cả sử đã sai khiến (Tùy tăng).

Hai cõi cần nên biết: Tức pháp thuộc về hai cõi thì nhất định ở nơi hai cõi, trong đó hết thảy sử của hai cõi đã sai khiến, tùy theo cõi có thể được. Như giác quán nhất định ở tại cõi dục, cõi sắc, ở đây tất cả sử của cõi dục, cõi sắc đều đã sai khiến.

Một cõi cũng như vậy: Nghĩa là pháp nhất định ở tại một cõi, trong đây, tất cả sử của một cõi đã sai khiến. Như ưu căn thì nhất định ở tại cõi dục, ở đấy tất cả sử đã sai khiến.

Phật nói Khế kinh này

Chỉ rõ nơi các pháp

Thức, trí và các sử

Phân biệt ba môn ấy.

Trong Khế kinh Phật này nếu nói các pháp là ba môn nên phân biệt: Là môn thức, môn trí, môn sử. Như nghĩa của năm căn trong dục hữu, là do sáu thức nhận biết. Cõi sắc có bốn thức, tức trừ tỷ thức, thiệt thức. Về tương ưng, không tương ưng là do bảy trí nhận biết. Do năm chủng loại nên ở cõi dục, cõi sắc các sử đã sai khiến (Tùy tăng).

 

Phẩm thứ 9: TẠP

Đã nói về phẩm Khế kinh. Phẩm Tạp nay sẽ nói.

Đã nói tùy tương ưng

Mỗi mỗi phân biệt pháp

Nơi nghĩa nhiều tạp trên

Nay lược nói khéo nghe.

Có duyên cũng tương ưng

Có hành hoặc cùng dựa

Tâm và tâm số pháp

Là đồng một nghĩa nói.

Tâm và tâm số pháp, đây gọi là sai biệt. Một duyên của tất cả hành thế nên nói có duyên. Lại cùng tương ưng nên nói là tương ưng. Vì là hành của cảnh giới, nên nói là hành. Do dựa nơi sinh, nên nói là dựa.

Từ duyên sinh cũng nhân

Có nhân cùng hữu vi

Nói xứ có đạo lộ

Có quả phải nên biết.

Trong pháp hữu vi đây gọi là sai biệt: Do dựa vào duyên nên nói là duyên. Vì sinh khác nên nói là nhân. Do dựa vào nhân nên nói là có nhân. Do dựa vào tạo tác mà có nên nói là hữu vi. Vì có nhiều phương tiện, khéo hiển hiện, nên nói là xứ. Vì căn cứ vào đường đi trong quá khứ, hiện tại, vị lai, nên nói là đạo lộ. Do có chuyển thành quả, nên nói là có quả.

Có ác cũng ẩn mất

Cấu uế, thấp kém, đen

Thiện, hữu vi và tập

Cũng gọi là tu học.

Có ác cũng ẩn mất, Cấu uế, thấp kém, đen: Nghĩa là bất thiện và pháp vô ký ẩn mất, đây gọi là sai biệt. Vì không thể nói về tạo lập trong nhóm, nên nói là có ác. Vì bị phiền não che lấp, nên nói là ẩn mất. Vì bị phiền não làm cấu uế, nên nói là cấu uế. Tâm thường thô bỉ, nên nói là thấp kém. Vì không có trí, tối tăm, rối loạn, nên nói là đen tối.

Thiện, hữu vi và tập: Nghĩa là pháp hữu vi thiện, đây gọi là sai biệt. Vì sinh trong tuệ, nên nói là thiện. Lúc hành có thể đạt được công đức và có thể hành tác, nên nói là tập và tu.

Đã nói tâm tương ưng hành. Tâm bất tương ưng hành nay sẽ nói.

Không tư tưởng, hai định

Cũng chủng loại chúng sinh

Cú thân, vị, danh thân

Mạng căn và pháp đắc.

Tánh phàm phu hiện có

Và bốn tướng các pháp

Không sắc, không tương ưng

Nói là hành hữu vi.

Không tư tưởng: Là sinh nơi trời Vô tưởng, tâm tâm số pháp không khởi hiện.

Hai định: Là định vô tưởng và định diệt tận. Định vô tưởng gọi là nhàm chán nơi sinh tử, khởi tưởng đến giải thoát, do tâm nối tiếp nhau của thiền thứ tư đã đoạn trong một lúc. Định diệt tận gọi là chán ghét việc khó nhọc, nên tưởng đến dừng nghỉ. Do tâm nối tiếp nhau của xứ phi tưởng phi phi tưởng đã đoạn dứt trong một lúc.

Cũng chủng loại chúng sinh: Nghĩa là nơi xứ sinh thì đã sinh, ở xứnày chúng sinh đã nương dựa cùng với tâm tương tợ.

gọi là hợp với điều đã nói. Như nói hành là vô thường, là pháp hưng suy. Vị là cú hợp với sự việc, nói rộng như nơi kệ và Khế kinh. Danh là chữ đã hợp để nói về nghĩa. Như nói: Mạng căn thường nghĩa là căn và các đại cùng nối tiếp, không gián đoạn.

Đắc: Là thành tựu các pháp không bỏ.

Tánh phàm phu: Là chưa nhận lấy chánh chứng và lìa bỏ Thánh pháp, là tánh của phàm phu.

Hiện có bốn tướng: Là sinh, trụ, lão, vô thường.

Không sắc: Là tất cả các pháp này như trên đã nói, đều không phải sắc, không phải thuộc về sắc.

Không tương ưng: Nghĩa là không có duyên.

Nói là hành hữu vi: Là có làm, có tạo tác, nên nói là hành hữu vi.

Hỏi: Trong hành hữu vi này, có bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện và bao nhiêu thứ là vô ký?

Đáp:

Thiện hai, ba thứ năm

Bảy nên là vô ký

Hai tại sắc nên biết

Một ở địa vô sắc.

Thiện hai: Là định vô tưởng và định diệt tận.

Ba thứ năm: Là đắc, sinh, lão, trụ, vô thường. Tức thiện trong thiện, bất thiện trong bất thiện, vô ký trong vô ký.

Bảy nên là vô ký: Là bảy vô ký, tức chủng loại của chúng sinh ở trời Vô tưởng. Cú, vị, danh, mạng, tánh hiện có của phàm phu.

Hỏi: Trong bảy vô ký này, có bao nhiêu thứ thuộc cõi dục, bao nhiêu thứ thuộc cõi sắc và bao nhiêu thứ thuộc cõi vô sắc?

Đáp: Hai tại sắc nên biết, Một ở địa vô sắc.

Hai tại sắc nên biết: Nghĩa là định vô tưởng và trời Vô tưởng là ở cõi sắc.

Một ở địa vô sắc: Nghĩa là định diệt tận ở cõi vô sắc.

Hai cõi nói ở ba

Còn lại tại ba cõi

Hữu lậu, vô lậu năm

Ngoài ra định hữu lậu.

Hai cõi nói ở ba: Nghĩa là cú, vị, danh cũng ở nơi cõi dục, cũng ở nơi cõi sắc, không có ở cõi vô sắc, vì lìa bỏ ngôn ngữ.

Còn lại tại ba cõi: Tức là chủng loại của chúng sinh, mạng, đắc, tánh hiện có của phàm phu và bốn tướng là chung tại ba cõi.

Hỏi: Trong đây có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?

Đáp: Hữu lậu, vô lậu năm, Ngoài ra định hữu lậu. Năm: Là đắc, sinh, lão, trụ, vô thường. Ở trong hữu lậu là hữu lậu. Ở trong vô lậulà vô lậu. Ngoài ra định rõ là hữu lậu, nghĩa là tất cả các thứ còn lại đều định rõ là hữu lậu.

Hỏi: Đấy là lìa Thánh pháp, giả gọi là phàm phu, trong ba cõi là vô ký. Ở đây, thế nào là xả, thế nào là đoạn?

Đáp:

Trong tâm vô lậu đầu

Thánh không thành tựu xả

Phàm phu trôi các cõi

Lúc lìa dục diệt hết.

Trong tâm vô lậu đầu, Thánh không thành tựu xả: Nghĩa là trong tâm vô lậu thứ nhất, lúc được Thánh pháp, là được không thành tựu xả.

Phàm phu trôi các cõi: Tức lúc trôi trong các cõi, là xứ sở mạng chung xả bỏ xứ ấy, nếu là xứ sở sinh thì ở nơi xứ sở ấy đạt được vô ký.

Lúc lìa dục diệt hết: Nghĩa là nơi địa phàm phu hiện có, nếu ở tại địa này lìa dục, bấy giờ được diệt bỏ tánh phàm phu.

Đã nói về tâm bất tương ưng hành. Vô vi nay sẽ nói.

Ba pháp vô vi là pháp số duyên diệt, phi số duyên và hư không. Ở đây: Số duyên diệt là giải thoát các phiền não. Tức dựa vào số duyên diệt nơi pháp hữu lậu để lìa phiền não đạt giải thoát. Do sức của số duyên, sức của trí tính toán, so sánh các sự việc có mà không, đó gọi là số duyên diệt. Tướng không trở ngại, đó gọi là hư không, nghĩa là không trở ngại đối với sắc là hư không.

Các pháp nhiều duyên khởi

Cũng theo dựa cùng duyên

Không đủ nên không sinh

Diệt này không phải sáng.

Tất cả pháp hữu vi đều từ các duyên mà sinh. Không duyên thì không sinh. Như nhãn thức phải dựa vào mắt, dựa vào sắc, dựa vào khoảng không, dựa vào ánh sáng, dựa vào đất, dựa vào sự vắng lặng. Nếu tất cả yếu tố này cùng hòa hợp liền được sinh. Nếu các thứ khác không đủ tức không thể sinh. Như mắt lúc ngủ say xảy ra nơi tất cả thời, bấy giờ các sự việc còn lại không đủ, nên nhãn thức không thể sinh. Nhãn thức kia đáng lẽ nên sinh nhưng không sinh. Mắt đã sinh rồi, rốt cuộc không còn sinh nữa, vì đã lìa duyên này, là có vị lai, nên không còn phải sinh. Nhãn thức ấy khởi đủ sự việc sai trái, không hòa hợp, là phi số duyên diệt. Như vậy, tất cả hành đều nên biết.

Đã nói về vô vi. Về nhân nay sẽ nói.

Hỏi: Pháp hữu vi nói là nhân. Trong ấy, thế nào là nhân?

Đáp:

Nhân trước tương tợ tăng

Hoặc đều nương dựa sinh

Hai nhân và một duyên

Nói hoàn toàn đã sinh.

Nhân trước tương tợ tăng: Nghĩa là pháp sinh trước sinh sau là nhân tương tợ chuyển tăng. Như thiện bậc hạ nơi tự địa, là nhân của thiện bậc hạ cùng bậc trung, nhân nơi bậc thượng, nhân nơi bậc trung, ở nơi bậc trung nhân cùng bậc thượng nhân nơi bậc thượng, chỉ là nhân của bậc thượng. Lúc pháp hành có trụ có tăng nhưng chung cuộc là không giảm. Do đấy nên không phải là nhân bậc hạ

Hoặc đều nương dựa sinh: Nghĩa là hoặc nhân đều cùng sinh, như nhân tương ưng và nhân cùng có.

Hai nhân và một duyên, Nói hoàn toàn đã sinh: Nghĩa là nhân tự nhiên đã sinh nên nói là nhân. Trước chẳng phải là không sinh nhân sau. Nếu chưa sinh là không có trước sau. Nếu là có tức nên tùy lúc sinh, không từ nơi nhân, nhưng không như vậy, thế nên không có tất cả. Nhân biến hành và duyên thứ đệ cũng như thế.

Hỏi: Nói báo này là số chúng sinh hay không phải là số chúng sinh?

Hỏi: Báo này là số chúng sinh. Vì báo là trong pháp của số chúng sinh, tức nói không phải không là số chúng sinh. Vì sao? Vì số chúng sinh là không cùng có. Không phải là số chúng sinh là cùng có, nên không phải là báo.

Hỏi: Pháp của quả này như thế nào?

Đáp: Là quả giải thoát hữu vi, là quả nơi tánh của hết thảy pháp hữu vi hiện có, do nhân duyên nên giải thoát vô vi cũng nên nói là quả của đạo.

Hỏi: Thế nào là pháp có duyên? Thế nào là hành có duyên?

Đáp: Có duyên nghĩa là pháp đều cùng có duyên. Là tương ưng, là đều cùng hành trong một duyên không riêng khác.

Hỏi: Hành ở xứ nào?

Đáp: Hành ở cảnh giới khác. Hành trong cảnh giới khác, không phải là tự tánh, là lìa tự hành và duyên sai biệt.

Hỏi: Tâm tâm số pháp là có xứ sở hay là không có xứ sở?

Đáp: Không có xứ sở. Vì sao? Vì nhân rộng khắp. Tức nhân rộng khắp sinh tâm tâm số pháp. Như nhân hai mắt sinh ra một thức. Nếu có trụ xứ, tức nên trụ trong một mắt, là một thức. Nếu như vậy thì mắt thứ hai không nên thấy sắc. Nhưng đã thấy, thế nên không phải trụ trong một mắt. Như vậy tất cả đều nên biết. Nếu như vậy tức không có trụ xứ.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói về tâm giải thoát. Như vậy tâm giải thoát là quá khứ, là hiện tại hay là vị lai?

Đáp: Lúc sinh tức lúc đạo giải thoát sinh, là tâm giải thoát. Vì sao? Vì lúc đạo giải thoát sinh thì các phiền não diệt, thế nên lúc sinh là tâm giải thoát.

Hỏi: Lúc đạo sinh là đoạn trừ các phiền não chăng?

Đáp:

Lúc đạo diệt, kiết diệt

Tuệ sáng như đã nói.

Lúc đạo diệt là đoạn trừ các phiền não, không phải là lúc đạo sinh. Vì sao? Vì lúc đạo sinh là vị lai. Đạo vị lai thì không thể hành sự. Do đấy nên lúc đạo vô ngại diệt là đoạn trừ phiền não. Lúc đạo giải thoát sinh là giải thoát.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói có ái, không có ái. Có bao nhiêu thứ là có ái, bao nhiêu thứ là không có ái?

Đáp:

Có ái có năm thứ

Không có một tướng riêng.

Có ái có năm thứ: Có ái gọi là đối với vật sinh, không sinh, nếu ái đó gọi là có ái. Năm thứ ái này do kiến khổ đoạn, do kiến tập, diệt, đạo đoạn và do tư duy đoạn.

Không có một tướng riêng: Là không có ái gọi là đã do kiến đoạn. Vui thích với việc đoạn trừ, đó gọi là không có ái. Đây hoàn toàn là do tư duy đoạn. Vì sao? Vì từ kiến chấp ái là do tư duy đoạn. Đây là hành không chuyển biến trong sự nối tiếp, vì ái chẳng phải là ái kiến nên do tư duy đoạn.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói có ba cõi: Cõi đoạn, cõi không dục và cõi diệt. Tướng của các cõi này là thế nào?

Xứ ái phiền não khác

Diệt tận là ba cõi.

Ái đã đoạn là cõi không dục. Xứ đoạn là cõi diệt. Phiền não còn lại đoạn là cõi đoạn.

Hỏi: Mười tâm là tâm thiện, cấu uế, vô ký của cõi dục. Tâm thiện, cấu uế, vô ký của cõi sắc. Tâm thiện, cấu uế, vô ký và vô lậu của cõi vô sắc. Mười tâm này có bao nhiêu thứ có thể được trong tâm cấu uế? Bao nhiêu thứ có thể được trong tâm thiện? Bao nhiêu thứ có thể được trong tâm vô ký?

Đáp:

Tâm cấu uế được mười

Bậc Chánh giác đã nói

Trong tâm thiện được sáu

Vô ký tức vô ký.

Tâm cấu uế được mười, Bậc Chánh giác đã nói: Nghĩa là trong tâm cấu uế, được tất cả cõi cùng địa của mười tâm. Lúc trở lại thiện cấu uế và vô ký của ba cõi, thì tâm này khi tất cả bị thoái chuyển thì được vô lậu.

Trong tâm thiện được sáu: Nghĩa là trong tâm thiện được sáu tâm. Thiện của cõi dục là do cầu học nên được và do hành của thân, miệng, cũng là tâm biến hóa vô ký. Thiện của cõi sắc là tâm biến hóa vô ký. Cùng tâm thiện và tâm vô lậu của cõi vô sắc.

Vô ký tức vô ký: Nghĩa là tâm vô ký chỉ có được vô ký, vì yếu kém.

Hỏi: Trước đã nói về mười pháp của phẩm đạo. Trong phẩm đạo này có bao nhiêu thứ là căn tánh hiện có? Bao nhiêu thứ không phải là căn tánh?

Đáp:

Phẩm đạo có sáu pháp

Nên biết đấy là căn.

Ở đây sáu pháp là căn tánh hiện có, là tín đứng đầu nơi năm căn cùng hỷ căn. Số còn lại không phải là căn hiện có.

Hỏi: Các pháp là tương ưng với tự tánh hay là tương ưng với tánh khác?

Đáp:

Tương ưng với các pháp

Đây nói là tánh khác.

Các pháp tương ưng với tánh khác, không phải với tự tánh, không phải tự tánh đối với tự tánh là trợ bạn.

Hỏi: Nếu tự tánh này giải thoát thì nên như thế nào?

Đáp:

Trong duyên mở trói buộc

Là lời Đại tiên nói.

Các phiền não ở trong duyên trở nên ngu tối, tức phiền não kia không khởi ngu tối. Trong duyên bị trói buộc, tức ở trong ấy cởi bỏ. Không thể dùng tương ưng để cởi bỏ tương ưng, Vì sao? Vì đều là không.

Hỏi: Nếu đoạn trừ tức là giải thoát hay là khác nhau?

Đáp: Đúng vậy. Nếu giải thoát tức là đã đoạn trừ phiền não.

Hỏi: Từng có đoạn trừ phiền não không phải là giải thoát chăng?

Đáp: Có. Hoặc đoạn rồi lại bị trói buộc. Như nơi kiến đạo và tư duy. Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh. Do kiến khổ đoạn trừ phiền não tức đoạn, nhưng kiến tập đoạn trừ thì phiền não lại trói buộc. Như vậy là lại do tư duy đoạn trừ tất cả các thứ. Lại hỗ tương nơi duyên.

Hỏi: Thấy bốn chân đế, thế nào là được tịnh không hoại?

Đáp:

Hai giải nơi ba đế

Bốn do thấy chánh đạo

Hưng khởi tín thanh tịnh

Tu tập ở hai đời.

Hai giải nơi ba đế: Nghĩa là quán khổ, tập, diệt đạt được tịnh không hoại đối với pháp. Khổ trí, tập, diệt trí tương ưng với tín. Đó gọi là được tịnh không hoại là cùng với Thánh giới.

Bốn do thấy chánh đạo, Hưng khởi tín thanh tịnh: Nghĩa là lúc kiến đạo thì có đủ được bốn thứ tịnh không hoại.

Hỏi: Tu trong bao nhiêu đời?

Đáp: Tu tập ở hai đời. Tức các pháp được tu ở hai đời: Hiện tại là tu hành. Vị lai là tu đắc.

Hỏi: Thế nào là tâm cùng với pháp hành?

Đáp:

Tất cả tâm số pháp

Nói là tâm cùng hành

Tướng này và pháp khác

Tạo tác phải nên biết.

Tất cả tâm số pháp, Nói là tâm cùng hành: Nghĩa là tất cả tâm số pháp được nói là tâm cùng hành, vì luôn gần với tâm.

Tướng này: Tức tâm này có bốn tướng: Sinh, trụ, lão, vô thường, cũng gần với tâm.

Và pháp khác: Là tướng của tâm số pháp khác cũng là tâm cùng hành.

Tạo tác phải nên biết: Là giới không biểu hiện, như trước đã nói.

Hỏi: Thế nào là đoạn pháp?

Đáp: Là đoạn các pháp hữu lậu. Tất cả pháp hữu lậu được đoạn xen lẫn với ác.

Hỏi: Thế nào là nhận biết pháp?

Đáp: Là nhận biết các pháp hữu lậu không cấu uế và vô lậu, là nhận biết tất cả pháp, là cảnh giới của nhất thiết trí.

Hỏi: Thế nào là pháp xa?

Đáp: Quá khứ, vị lai nói là pháp xa, vì sự việc không làm xong.

Hỏi: Thế nào là pháp gần?

Đáp: Pháp còn lại nói là gần, vì gần với hiện tại, vì sự việc đã làm xong và vì nhanh chóng được gần với vô vi.

Hỏi: Thế nào là pháp định?

Đáp:

Nghiệp vô gián không cứu

Cùng các hành vô lậu

Người tuệ nói là định.

Năm nghiệp vô gián thì tất định đi đến địa ngục. Hành vô lậu cũng là tất định đưa đến quả giải thoát. Các thứ khác thì không định.

Hỏi: Thế nào là kiến xứ?

Đáp: Kiến xứ tất là hữu lậu. Vì tất cả pháp hữu lậu là kiến xứ, là xứ sở của năm kiến.

Hỏi: Nếu căn thành tựu thì thành tựu bao nhiêu căn?

Đáp:

Nói có mười chín căn

Là thành tựu nhiều nhất

Thành tựu ít nhất tám

Hiểu rõ căn đã nói.

Nói có mười chín căn, Là thành tựu nhiều nhất: Nghĩa là thành tựu mười chín căn là nhiều nhất, như loại hai hình và người đủ căn, chưa lìa dục, đã kiến đế.

Thành tựu ít nhất tám, Hiểu rõ căn đã nói: Nghĩa là thành tựu tám căn, như loại không đủ thân căn, loại đoạn thiện căn và phàm phu sinh trong vô sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu thứ cánh lạc (Xúc)?

Đáp: Có năm thứ:

Tăng, có đối, vô minh

Ở giữa nơi xúc minh

Thánh đạo cùng có hai

Có thể hưng khởi quả.

Xúc tương ưng với ý thức gọi là xúc tăng (Xúc tăng ngữ). Xúc tương ưng với năm thức gọi là xúc có đối. Xúc cấu uế gọi là xúc vô minh. Xúc vô lậu gọi là xúc minh. Xúc hữu lậu không phải là cấu uế gọi là xúc không phải minh không phải vô minh.

Hỏi: Những đạo nào được quả? Là đạo vô ngại hay là đạo giải thoát?

Đáp: Thánh đạo cùng có hai, Có thể hưng khởi quả: Là hai đạo cùng được quả: (1) Cởi bỏ trói buộc. (2) Được giải thoát. Hai đạo này đều thành quả.

Hỏi: Bậc Vô trước (A-la-hán) trụ ở tâm nào để nhập Niết-bàn?

Đáp: Bậc Vô trước ở trong tâm báo đạt được Niết-bàn vô vi. An trụ nơi không vướng mắc tất cả sự việc, không tạo, không làm, không mong cầu. Từ trong tâm báo ấy liền nhập Niết-bàn.

Hỏi: Có bao nhiêu hữu?

Đáp:

Sinh hữu và tử hữu

Căn bản cũng lại trung.

Sinh hữu: Tức là ấm lúc mới sinh, đó gọi là sinh hữu.

Tử hữu: Tức là ấm lúc chết, đó gọi là tử hữu.

Căn bản hữu: Tức là trừ sinh hữu và tử hữu, ấm ở khoảng trung gian, đó gọi là căn bản hữu.

Trung hữu: Tức là ấm có nơi chốn đến, đó gọi là trung hữu.

Hỏi: Nói có nhàm chán, có lìa dục. Thế nào là nhàm chán? Thế nào là lìa dục?

Đáp:

Các trí tại nhân khổ

Nhẫn này tu nhàm chán

Diệt dục được không dục

Nói khắp ở trong bốn.

Các trí tại nhân khổ, Nhẫn này tu nhàm chán: Nghĩa là nếu trí và nhẫn duyên nơi khổ, tập là nói về hành nhàm chán, xứ nhàm chán.

Diệt dục được không dục, Nói khắp ở trong bốn: Tức là trí và nhẫn ở trong bốn đế nói là lìa dục cùng có thể đoạn dứt dục.

 

Phẩm thứ 10: LUẬN

Oai nghi, không oai nghi

Nếu lìa lại đạt được

Không do đấy đến hơn

Có thể quyết định, đáp.

Đáp: Có. Từ vô sắc sinh nơi sắc.

Từng lúc được quả Thánh

Tất cả lìa các ác

Pháp hữu vi thiện tịnh

Được rồi mà không tu?

Đáp: Có. Lúc thoái chuyển được quá khứ.

Đạo là lúc hưng khởi

Chưa xa lìa các ác

Lúc giải thoát lìa ác

Nguyện đáp đã tất nhất?

Đáp: Có. Nghĩa là tu nơi vị lai.

Từng chiếu sáng phiền não

Lúc hưng khởi nơi định

Thanh tịnh trong thiền nhất

Đạt được rơi suy thoái?

Đáp: Có. Quả Vô trước tu cùng huân tu.

Từng trong đạo kiến đế

Đạt được các pháp thiện

Pháp này cũng có duyên

Thánh giả không thấy duyên?

Đáp: Có. Trong cõi dục tu hành đẳng trí.

Từng tuệ quả hữu lậu

Xa lìa công đức tịnh

Không lìa từ nơi ý

Đây cũng là quả kia?

Đáp: Có. Là tâm biến hóa của cõi dục.

Từng trụ đạo vô ngại

Thành tựu nơi các diệt

Các phiền não theo kia

Không như kiến vô lậu?

Đáp: Có. Là lúc tu học các đạo.

Từng kiết không giải thoát

Người vô cấu đạt được

Nhưng không đoạn phiền não

Gọi đấy vô cấu tận?

Đáp: Có. Là lúc từ trong cõi Quang diệu sinh nơi cõi Phạm thiên.

Từng địa vô lậu tịnh

Chưa từng được, đã được

Không lìa dục, không thoái

Không dựa nơi kiến đạo?

Đáp: Có. Là lúc lìa sắc nhằm thủ chứng, được đạo tư duy vô lậu của vô sắc.

Từng chưa được các pháp

Nhưng đạt được pháp này

Không xả kia chẳng được

Nếu có thể biết đáp?

Đáp: Có. Là phẩm tâm vô lậu thứ nhất khác được công đức vô lậu khác, xả bỏ sự việc của phàm phu. Ngoài ra tất cả đều không được.

HẾT – QUYỂN 4

Trang: 1 2 3 4