LUẬN A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Thắng
Hán dịch: Đời Đông Tấn, Đại sư Tăng Già Đề Bà và Tuệ Viễn
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 2
Phẩm thứ 4: SỬ
Đã nói về các nghiệp. Các phiền não nay sẽ nói.
Tất cả có căn bản
Bạn nghiệp sinh trăm khổ
Chín mươi tám sử kia
Mâu-ni nói nên xét.
Ví như kẻ oán đối, vì không nhận biết chúng nên bị hãm hại. Nếu nhận biết tức có thể thoát khỏi. Các phiền não cũng như vậy, nên biết chúng như kẻ oán đối.
Hỏi: Làm sao nhận biết được?
Đáp:
Tất cả các loại sử
Nên biết lập hai thứ
Thứ do kiến đế đoạn
Cũng do tư duy đoạn.
Nếu có sử là đều do kiến đoạn và tư duy đoạn. Tức từ kiến đạo là do kiến đoạn, từ tư duy đạo (tu đạo) là do tư duy đoạn. Trong đó:
Nói hai mươi tám sử
Là thuộc ở kiến khổ
Là ngay khi kiến khổ
Đoạn dứt hết không sót.
Kiến tập đoạn nên biết
Mười chín, diệt cũng vậy
Thêm ba, kiến đạo đoạn
Mười nói tư duy dứt.
Trên đây là chín mươi tám sử đã nói. Về chủng giới nay sẽ nói.
Chủng thứ nhất phiền não
Cõi dục nên biết mười
Hai chủng chủng có bảy
Còn tám, kiến đạo đoạn.
Ở cõi dục nên biết
Bốn do tư duy đoạn
Còn nơi hai cõi kia
Là cũng nên phân biệt.
Ở cõi dục nên biết, Bốn do tư duy đoạn: Ba mươi sáu sử này là thuộc cõi dục.
Còn nơi hai cõi kia, Là cũng nên phân biệt: Tức sáu mươi hai sử còn lại, trong đó ba mươi mốt sử thuộc cõi sắc, ba mươi mốt sử thuộc cõi vô sắc.
Đã nói về giới của sử. Về các loại sử nay sẽ nói.
Nhận biên kiến, tà kiến
Cùng với năm ngã kiến
Hai trộm phải nên biết
Là phiền não nói kiến.
Từ nhân cùng nối tiếp, không nhận biết được tánh của các pháp, trong đó, hoặc có tưởng thường, hoặc có tưởng đoạn. Thường, đoạn là hai biên, Đức Thế Tôn đã nói. Ở đây, nếu kiến chấp nhận lấy một bên đó gọi là nhận biên kiến. Hủy báng nghĩa chân thật, kiến này là tà kiến. Nếu loài hữu tình thức ngu tối ở trong ấy chấp ngã, đó gọi là thân kiến.
Pháp hữu lậu thọ nhận cho là bậc nhất, kiến chấp là trộm kiến
(kiến thủ), không phải nhân, kiến chấp là nhân, kiến này là trộm giới (giới cấm thủ). Năm phiền não này tánh là tuệ, nên nói là kiến.
Dục, do dự, giận dữ
Mạn, si nói phi kiến
Là sai biệt của giới
Chuyển hành nhiều tên gọi.
Dục, do dự, giận dữ, Mạn, si nói phi kiến: Dục gọi là ái, niệm tưởng tư, ở trong các hành ưa thích chấp trước, do dự gọi là đã kiến chấp như trước. Tại đây, hoặc tư duy giận dữ, gọi là đã tạo tác, cùng trái với phẫn nộ. Mạn gọi là tự đề cao. Si gọi là không nhận biết hiện có. Năm phiền não này không phải là kiến, đó gọi là tất cả các phiền não.
Là sai biệt của giới, Chuyển hành nhiều tên gọi: Nghĩa là mười phiền não này, hoặc theo hành khổ, hoặc theo tập, hoặc theo diệt, hoặc theo đạo. Trong ấy, nếu theo hành khổ là do kiến khổ đoạn, như vậy cho đến đạo. Phần còn lại là do tư duy đoạn.
Khổ cõi dưới tất cả
Lìa ba kiến, hành hai
Đạo trừ nơi hai kiến
Cõi trên không hành giận.
Khổ cõi dưới tất cả: Nghĩa là khổ của cõi dưới là khổ của cõi dục, trong đó hành tất cả mười phiền não. Đối với khổ của cõi dục, kẻ phàm ngu tối vì không hiểu rõ nhân nên chấp là đoạn, vì không biết rõ quả nên chấp là thường, đã hủy báng quả hủy báng khổ, là tà kiến. Khổ được thọ nhận là trộm kiến thứ nhất. Nghĩa là pháp đối với pháp, không phải nhân mà chấp là nhân, là trộm giới (giới cấm thủ), là tự chấp, cùng muốn cho người khác chấp. Giận dữ từ trong kiến chấp, hoặc từ nơi tự chấp khởi mạn, không hiểu rõ là vô minh.
Lìa ba kiến, hành hai: Nghĩa là tập và diệt, mỗi thứ đều có bảy hành. Hành của thân kiến được hiện ở năm ấm. Tập là vi tế nên không hiện khởi, vì vậy trong đó không hành. Diệt cũng như vậy. Thọ nhận biên kiến cũng hành nơi hiện tại. Trộm giới hành ở quả, quả ấy cũng không phải là tập, diệt.
Đạo trừ nơi hai kiến: Nghĩa là thân kiến, biên kiến không hành nơi cảnh giới hữu lậu của đạo. Trộm giới là hành nơi đạo, vì trông giống như đạo, nên rốt cuộc không hiểu, dẫn đến không thấy chánh đạo.
Cõi trên không hành giận: Nghĩa là như phân biệt về cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc cũng như vậy. Trừ giận dữ vì trong hai cõi đó không có giận, do ý đã dừng trụ nơi nhu hòa mềm dịu. Các kiến và nghi không phải do tư duy đoạn. Ngoài ra, ở cõi dục có bốn sử do tư duy đoạn, cõi sắc có ba sử, cõi vô sắc có hai sử do tư duy đoạn.
Hỏi: Thế nào là duyên với cảnh giới nơi các cõi kia?
Đáp:
Hiện khắp ở nhân khổ
Nghi, kiến và vô minh
Là hết thảy loại sử
Ưa thích trong tất cả.
Kiến khổ đoạn chủng và kiến tập đoạn. Nghi, kiến và vô minh: Phiền não này là hiện có khắp. Tất cả năm thứ đều hành nơi địa mình. Vì sao? Vì tất cả pháp hữu lậu là tánh của khổ, tập.
Hỏi: Vì sao chỉ hành nơi địa mình, không phải ở địa khác?
Đáp: Vì không phải là cảnh giới, nên không hành ở địa trên. Vì lìa bỏ dục, nên không hành ở địa dưới. Đó gọi là mười một thứ phiền não nhất thiết biến của cõi dục. Cõi sắc, cõi vô sắc cũng như vậy. Ngoài ra, do cảnh giới của tự chủng loại nên không nhất thiết biến.
Phiền não đầu: năm thứ
Bốn nói là thứ hai
Cảnh giới nơi cõi trên
Chưa lìa tuệ đã nói.
Do kiến khổ đoạn trừ tà kiến của cõi dục, hủy báng khổ của cõi sắc, cõi vô sắc là trộm kiến. Thọ nhận trộm giới thứ nhất, thọ nhận phương tiện giải thoát là nghi hoặc vô minh là không hiểu rõ.
Kiến tập đoạn trừ tà kiến, hủy báng nhân của cõi sắc, cõi vô sắc là trộm kiến. Đối với nhân thọ nhận nghi thứ nhất hoặc vô minh là không hiểu rõ.
Tất cả địa của cõi sắc, cõi vô sắc là như vậy, cho đến xứ vô sở hữu.
Tà, nghi là câu sinh
Và vô minh không chung
Đạo sổ tức hai đoạn
Nên biết duyên vô lậu.
Kiến diệt đoạn trừ tà kiến, hủy báng đối với diệt, là duyên với diệt nên là duyên với vô lậu. Như vậy, nghi hoặc đối với diệt và tương ưng với vô minh kia là duyên với vô lậu.
Như vậy, kiến diệt là đoạn trừ vô minh không chung, nghĩa là không muốn ở nơi Niết-bàn. Kiến diệt ấy cũng là duyên với vô lậu. Kiến đạo đoạn cũng lại như vậy. Mười tám sử này là duyên với vô lậu.
Hỏi: Thế nào là chủng loại hữu lậu bị các sử trói buộc?
Đáp:
Nếu chủng tại cõi dục
Tất cả các sử khắp
Duyên buộc nơi địa mình
Ở cõi trên cũng vậy.
Tất cả các sử hiện khắp, là ở trong tự địa duyên với hết thảy chủng loại sử.
Các kiết sử khác kia
Nên biết tự chủng duyên
Đã khiến nơi tự cõi
Cùng là phẩm tương ưng.
Các kiết sử khác kia, Nên biết tự chủng duyên, Đã khiến nơi tự cõi: Nghĩa là tất cả sử không hiện khắp, tự ở trong chủng loại duyên với các pháp, tức các pháp kia đã bị sai khiến.
Cùng là phẩm tương ưng: Tức các sử nhất thiết biến và sử không nhất thiết biến, là tất cả đều tương ưng trong tự phẩm đã sai khiến.
Nếu vô lậu đã hành
Địa khác duyên phiền não
Là tương ưng sai khiến
Nên cảnh giới giải thoát.
Nếu vô lậu đã hành, Địa khác duyên phiền não, Là tương ưng sai khiến: Nghĩa là nếu sử duyên nơi vô lậu và duyên nơi địa trên, thì sự tương ưng nơi tự phẩm đã bị sai khiến, không phải duyên nơi sử. Vì sao? Vì đấy là cảnh giới giải thoát. Sử này không duyên nơi cảnh giới, vì các pháp vô lậu đã giải thoát hết thảy phiền não. Các pháp của địa trên giải thoát phiền não của địa dưới.
Hỏi: Sử này nên nói là bất thiện hay vô ký?
Hỏi:
Tự thân kiến, biên kiến
Đây tương ưng vô minh
Là vô ký trong dục
Sắc, vô sắc tất cả.
Tự thân kiến, biên kiến, Đây tương ưng vô minh, Là vô ký trong dục: Nghĩa là thân kiến, biên kiến của cõi dục và tương ưng với vô minh là vô ký. Vì sao? Vì thân kiến của mình luôn luôn hành tác.
Nếu hiện là bất thiện, tức chúng sinh của cõi dục, nên không có an vui, vì đa số đều tạo pháp bất thiện. Lại nữa, nếu là bất thiện tức cùng trái với phước. Ở đây, hành phước chấp ta người, khiến ta được an vui. Lại nữa, bất thiện là cùng trái với thiện, do đấy thân kiến không phải là bất thiện.
Đoạn kiến là chấp vô thường, chán ghét nơi sinh tử, là cũng không phải bất thiện, thế nên không phải là bất thiện. Chấp có thường, cũng không trái với thiện, như thân kiến, cho nên không phải là bất thiện. Ngoài ra, phiền não của cõi dục hoàn toàn là bất thiện.
Sắc, vô sắc tất cả: Nghĩa là các sử của cõi sắc, cõi vô sắc đều là vô ký. Vì sao? Vì chánh thọ đã bị hủy hoại. Bất thiện là nhận lãnh báo của khổ thọ, trong các cõi kia không có khổ thọ.
Hỏi: Tất cả các phiền não đều trói buộc cảnh giới hiện có của mình hay là không?
Đáp:
Tham dục, giận dữ, mạn
Biết hoặc buộc quá khứ
Vị lai nhận tất cả
Hai đời khác đều nhận.
Tham dục, giận dữ, mạn, Biết hoặc buộc quá khứ: Nghĩa là ái, giận, mạn của quá khứ, thì bất tất ở trước tất cả cảnh giới của mình dấy khởi ái. Không thể ở trước trong tất cả pháp dấy khởi, vì không phải do không kiến chấp phát sinh.
Vị lai nhận tất cả: Nghĩa là ái, giận, mạn ở vị lai trói buộc tất cả pháp hữu lậu. Vì sao? Vì duyên nơi tất cả hữu lậu.
Hai đời khác đều nhận: Nghĩa là kiến, nghi và vô minh đều duyên chung nơi tất cả pháp. Thế nên chúng đã trói buộc các pháp hữu lậu của quá khứ, vị lai. Riêng sử của hiện tại, vì không nhất định, nên không nói. Nếu có là thọ nhận tự tướng, thì sử ấy nên nói như quá khứ.
Đã nói về cảnh giới của các sử. Về thứ lớp nay sẽ nói.
Thứ lớp là chuyển sinh
Tự địa nơi tự địa
Địa trên cũng sinh dưới
Việc này nên phân biệt.
Thứ lớp là chuyển sinh, Tự địa nơi tự địa: Nghĩa là tất cả các phiền não đối với phiền não của tự địa đều thứ lớp duyên. Cũng có thể có được mỗi mỗi thứ lớp sinh tất cả.
Địa trên cũng sinh dưới, Việc này nên phân biệt: Nghĩa là ở trên cõi Phạm thiên mạng chung, theo thứ lớp sinh nơi cõi dục là tất cả. Nếu ở trong cõi dục kia có tâm cấu uế mạng chung, thì trong ấy hoàn toàn là tâm cấu uế nối tiếp nhau. Tất cả địa đều như vậy.
Đã nói về tự tướng của các sử. Như phiền não này, Đức Thế Tôn khi giáo hóa đã nói có nhiều thứ. Nay sẽ phân biệt.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói có bảy sử: Dục ái, giận, hữu ái, mạn, kiến, nghi và vô minh. Các sử này là thế nào?
Đáp:
Cõi dục năm thứ dục
Đây nói sử dục ái
Sắc, vô sắc như trên
Hữu ái nên phân biệt.
Cõi dục năm thứ dục, Đây nói sử dục ái: Nghĩa là do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn và do tư duy đoạn.
Sắc, vô sắc như trên, Hữu ái nên phân biệt: Nghĩa là ái của cõi sắc có năm thứ, cõi vô sắc cũng như vậy.
Sân tức là sử giận
Năm thứ như trước nói
Kiêu, mạn và vô minh
Mười lăm ở ba cõi.
Sân tức là sử giận, Năm thứ như trước nói: Nghĩa là giận dữ cũng có năm thứ như vậy.
Kiêu, mạn và vô minh, Mười lăm ở ba cõi: Nghĩa là mạn nơi cõi dục có năm thứ. Cõi sắc có năm thứ và cõi vô sắc cũng có năm thứ. Vô minh cũng như vậy.
Sử kiến ba mươi sáu
Nói khắp ở ba cõi
Sử nghi có mười hai
Bảy này có tên khác.
Sử kiến ba mươi sáu, Nói khắp ở ba cõi: Nghĩa là cõi dục có mười hai kiến: Năm thứ do kiến khổ đoạn, hai thứ do kiến tập đoạn, hai thứ do kiến diệt đoạn, ba thứ do kiến đạo đoạn. Cõi sắc, cõi vô sắc cũng như vậy.
Sử nghi có mười hai: Nghĩa là cõi dục có bốn: Do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn. Cõi sắc, cõi vô sắc cũng như vậy.
Bảy này có tên khác: Nghĩa là phiền não này còn được gọi là ách, thọ, lưu, lậu. Vì sao?
Đáp:
Ách buộc cùng thọ lưu
Lậu tất cả không cùng
Các ách và thọ, lưu
Phiền não nói là lậu.
Vì trói buộc tất cả chúng sinh, nên nói là ách. Vì thọ sinh đủ, nên nói là thọ (thủ). Vì cuốn chìm hết thảy chúng sinh, nên nói là lưu (bộc lưu). Vì lậu nơi tất cả là vô cùng, nên nói là lậu.
Đã nói các thứ tướng của sử. Căn tương ưng nay sẽ nói.
Các sử tại ba cõi
Đều tương ưng hộ (xả) căn
Theo địa, các căn sử
Tương ưng nơi sắc hữu.
Các sử tại ba cõi, Đều tương ưng hộ căn: Nghĩa là tất cả chín mươi tám sử đều tương ưng với hộ căn. Các phiền não lúc sau này đều dựa nơi không mong cầu để dừng trụ.
Theo địa, các căn sử, Tương ưng nơi sắc hữu: Trời Phạm thiên và Quang diệu đều có hỷ căn, các sử của địa ấy đều tương ưng với hỷ căn và hộ căn. Trời Biến tịnh có lạc căn, các sử của địa ấy đều tương ưng với lạc căn và hộ căn.
Tà kiến và vô minh
Lạc, khổ trong cõi dục
Giận, nghi chỉ có khổ
Còn lại hoàn toàn lạc.
Tà kiến và vô minh, Lạc, khổ trong cõi dục: Nghĩa là tà kiến, vô minh của cõi dục đều tương ưng với lạc căn và khổ căn. Tà kiến là tạo nghiệp ác cho là hỷ nghiệp, tịnh cho là lo sầu. Tà kiến ấy tương ưng với vô minh cũng như vậy.
Giận, nghi chỉ có khổ: Tức nghi gốc là lo buồn, nên không quyết định, không vui mừng. Giận dữ cũng như vậy.
Còn lại hoàn toàn lạc: Nghĩa là các sử còn lại của cõi dục hoàn toàn tương ưng với lạc không phải là khổ, vì chúng đều lấy hoan hỷ làm gốc.
Hai huân chấp chặt thân
Kiến đoạn chỉ nên ý
Các phiền não cõi dục
Căn này là tương ưng.
Hai huân chấp chặt thân: Tức hai thứ ấy gọi là các phiền não do tư duy đoạn. Phiền não kia tương ưng với thân thọ và tâm thọ, trong đó: Thân thọ là lạc căn và khổ căn, tâm thọ là hỷ căn và ưu căn cùng có. Hộ căn là tất cả thân thọ, do tư duy đoạn. Ý căn đều cùng có. Kiến đoạn chỉ nên ý: Là kiến đế đoạn trừ kiết, chỉ tương ưng với ý.
Các phiền não cõi dục, Căn này là tương ưng: Đó gọi là các phiền não của cõi dục.
Đã phân biệt căn tương ưng với phiền não. Các phiền não trên nay sẽ nói.
Không hổ cũng không thẹn
Thùy, hối cùng với xan
Tật, trạo, miên nhiều thịnh
Nên nói phiền não trên.
Tám sự việc này nói là phiền não trên. Các sử là phiền não, trong đó, phiền não trên này là từ giữa sinh khởi. Đây là sử cấu uế, dựa vào sử.
Hỏi: Thế nào là sử cấu uế?
Đáp:
Tất cả phiền não hợp
Nói thùy cùng trạo cử
Không hổ, bất thiện hợp
Không thẹn cũng như vậy.
Tất cả phiền não hợp, Nói thùy cùng trạo cử: Trạo cử gọi là tâm không dừng dứt, tương ưng với hết thảy phiền não, nên phiền não là không dừng dứt. Thùy (ngủ nghỉ) tuy gọi là ý chìm đắm, nhưng sử này cũng tương ưng với tất cả phiền não, vì tâm chìm đắm khiến sinh phiền não.
Không hổ, bất thiện hợp, Không thẹn cũng như vậy: Không hổ là lúc làm ác không biết xấu hổ đối với người khác. Không thẹn là tự làm ác không biết chán bỏ, không biết xấu hổ. Hai thứ này là phiền não trên, hoàn toàn tương ưng với bất thiện, không phải là vô ký.
Gọi khổ ở nơi ý
Hối do tư duy đoạn
Miên chỉ tại ý dục
Ngoài ra tự kiến lập.
Gọi khổ ở nơi ý, Hối do tư duy đoạn: Hối gọi là tạo tác thiện ác, sự việc không thành nên hối. Không thể nói là hỷ, vì nó hoàn toàn tương ưng với khổ, là ý tương ưng với ưu căn. Vì từ hành ác sinh nên nói do tư duy đoạn. Do tương ưng với khổ nên biết là ở cõi dục.
Miên chỉ tại ý dục: Tức lúc miên (Ngủ say) thì ý đóng kín, nên miên là hoàn toàn ở tại địa ý của cõi dục. Miên kia ở nơi cõi dục tương ưng với tất cả phiền não. Hết thảy các phiền não đều hành tác vào lúc ngủ say (miên).
Ngoài ra tự kiến lập: Nghĩa là ngoài hai phiền não trên (Hối, miên), còn có tật (Ganh ghét) và xan (Keo kiệt). Tật là thấy người khác an vui thì sinh nóng giận. Xan là cố giữ gìn, tiếc chấp. Hai phiền não này đều tự tạo lập, không phải tương ưng với phiền não khác.
Hỏi: Các phiền não tương ưng với bao nhiêu thức?
Đáp:
Dục, giận dữ, vô minh
Nên biết dựa sáu thức
Dục do tư duy đoạn
Trong sắc theo chỗ được.
Dục, giận dữ, vô minh, Nên biết dựa sáu thức, Dục do tư duy đoạn: Dục nơi cõi dục do tư duy đoạn. Ái, giận dữ, vô minh đều tương ưng với sáu thức.
Trong sắc theo chỗ được: Nghĩa là ái, vô minh nơi cõi sắc đều tùy theo nơi chốn mà có được, tức thức trên trời Phạm thiên. Trong cõi ấy, hai phiền não này tương ưng với bốn thức. Các phiền não khác đều ở trong ý thức.
Đã nói các phiền não. Như về sự đoạn trừ nay sẽ nói.
Một lúc đoạn phiền não
Trong ấy được giải thoát
Vô lượng thời gian được
Bậc chánh trí đã nói.
Một lúc đoạn phiền não, Trong ấy được giải thoát: Phiền não này do đạo vô ngại một lúc cùng đoạn, không phải đã đoạn, lại đoạn nữa.
Vô lượng thời gian được, Bậc chánh trí đã nói: Nghĩa là các phiền não này luôn luôn đều được dứt hết, như nơi cõi dục do kiến đoạn. Năm thời được dứt hết các phiền não là chứng tự phần và bốn quả Sa-môn.
Như vậy, tất cả như trong phẩm Hiền Thánh nói.
Giải thoát trong cõi dục
Thánh nói bốn trí đoạn
Lìa cõi sắc, vô sắc
Nên biết năm trí đoạn.
Vĩnh viễn dứt hết không còn sót, gọi là trí đoạn. Trong ấy, nếu ở cõi dục do kiến khổ, kiến tập đoạn, nếu đoạn hết thì được giải thoát vô dư, là một trí đoạn. Do kiến diệt đoạn là hai, do kiến đạo đoạn là ba, do tư duy đoạn là bốn. Cõi sắc, cõi vô sắc do kiến khổ, kiến tập đoạn là một trí đoạn. Do kiến diệt đoạn là hai, do kiến đạo đoạn là ba. Cõi sắc do tư duy đoạn là bốn. Cõi vô sắc do tư duy đoạn là năm.
Hỏi: Vì sao ở nơi đoạn gọi là trí đoạn?
Đáp: Vì đấy là quả của trí nên nói là trí đoạn. Như sinh trong họ Cù-đàm cũng gọi là Cù-đàm. Trí đoạn này cũng lại như vậy.
Hỏi: Các sử này là tương ưng với tâm hay không tương ưng?
Đáp: Tương ưng. Vì sao?
Tâm bị phiền não sử
Làm chướng ngại tướng tịnh
Các thiện diệu có được
Nên biết tương ưng sử.
Tâm bị phiền não sử: Nghĩa là nếu tâm không tương ưng với sử thì tâm không bị phiền não. Nếu tâm đã bị phiền não thế nên tương ưng với chướng ngại. Nếu tâm không tương ưng với sử, thì không gây chướng ngại nơi các pháp thiện. Nếu gây chướng ngại thì pháp thiện không sinh. Còn nếu không gây chướng ngại thì pháp thiện liền sinh. Vì vậy tâm tương ưng với các sử.
Làm chướng ngại tướng tịnh, Các thiện diệu có được: Nghĩa là nếu sử không tương ưng với tâm thì không cùng với pháp thiện trái nhau. Nếu không cùng với pháp thiện trái nhau thì tâm thiện cũng nên sinh. Nếu không cùng trái nhau thì tánh của phiền não này cũng không nên tạo ra tai hại. Nếu đã trái nhau thì thường tùy thuộc nhau và không sinh thiện. Vì không tùy thuộc nhau tức sinh khởi thiện. Nhân nơi sự việc này nên nói tâm tương ưng với sử.
Phẩm thứ 5: HIỀN THÁNH
Đã nói phẩm Sử, phẩm Hiền Thánh nay sẽ nói.
Như Thánh đây đoạn Hoặc
Gốc của các sợ hãi
Đẳng phương tiện, chánh trí
Nay nói nên lắng nghe.
Tâm không dừng trụ thì không thể khởi chánh kiến. Do vậy:
Đầu xứ sở tự thân
Buộc giữ tâm khiến định
Cũng nhằm buộc chân thức
Diệt hết phiền não oán.
Là phương tiện nơi thân
Tướng chân thật thường định
Các thọ cùng tâm này
Pháp cũng quán như vậy.
Tướng bất tịnh, tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã của thân này là tướng nhất định chân thật. Tự thân kia phải buộc giữ tâm tại một xứ để lìa tâm tán loạn. Đầu tiên là quán chân thật tướng của thân, tiếp đến là quán thọ, sau là quán tâm. Vì các quán kia đã được tâm hỗ trợ nên đều dựa vào tâm để tương ưng với tâm số pháp khác.
Cũng quán các tâm bất tương ưng hành. Như tánh của chúng, như tướng của chúng hiện có như thế.
Ý chỉ (Niệm xứ) của thân, thọ, tâm, pháp kia đều theo thứ lớp sinh.
Quán chung trong pháp nhập
Đồng quán các pháp tướng
Bốn này là vô thường
Không, vô ngã, phi lạc.
Quán chung trong pháp nhập, Đồng quán các pháp tướng: Nghĩa là trong ý chỉ (Niệm xứ) của pháp nhập, các Thánh kia đều quán chung các hành tướng. Quán các hành tướng xong thì tăng trưởng nuôi dưỡng tâm, sinh khởi mắt trí không cấu uế để quán tổng quát tất cả thân, thọ, tâm, pháp.
Hỏi: Quán như thế nào?
Đáp:
Bốn này là vô thường
Không, vô ngã, phi lạc.
Thân, thọ, tâm, pháp này lần lượt cùng sinh nên là vô thường. Vì không tự tại nên là không. Vì không phải là chủ nên vô ngã. Vì là tai hại xấu ác nên khổ.
Từ đây gọi pháp noãn
Tức là trong ý sinh
Hành là mười sáu hành
Chánh quán bốn chân đế.
Từ đây gọi pháp noãn, Tức là trong ý sinh: Nghĩa là các Thánh kia quán như vậy, sinh pháp noãn thiện, trong đó sẽ sinh khởi lửa trí vô lậu, có thể đốt cháy củi của tất cả hành.
Hỏi: Hành kia là hành gì? Thuộc cảnh giới nào?
Đáp: Hành là mười sáu hành, Chánh quán bốn chân đế. Hành quán kia là cảnh giới của mười sáu hành. Tức nơi bốn chân đế: Bốn hành quán khổ đế: Khổ này tánh là yếu kém, vì từ nhân duyên sinh nên vô thường. Vì bị sức của vô thường hủy hoại nên khổ. Vì bên trong lìa con người nên không. Vì không tự tại nên vô ngã.
Bốn hành quán tập đế: Tập này tạo thành quả giống nhau nên là nhân. Vì hành cùng nối tiếp nên là tập. Vì tất cả sinh tử là vô cùng, có thể đạt được, nên là hữu. Vì sự việc không giống nhau đã cùng nối tiếp nên là duyên.
Bốn hành quán diệt đế: Diệt này che lấp tất cả tai hại khiến chúng dứt hết nên là diệt. Vì trừ bỏ hết thảy lửa phiền não nên là chỉ. Vì vượt hơn tất cả pháp nên là diệu. Vì xả bỏ sinh tử nên là ly.
Bốn hành quán đạo đế: Đạo này dẫn đến không phải là phẩm loại nên là đạo. Vì không phải điên đảo nên là như. Vì tất cả Thánh đã đi qua nên là tích. Vì tai họa của sinh tử đã chuyển xuất nên là thừa.
Đó gọi là hành quán kia tức bốn chân đế là cảnh giới của mười sáu hành. Căn thiện được sinh gọi là pháp noãn.
Noãn khởi đã thành lập
Sinh Đảnh và đến Nhẫn
Được pháp Thế đệ nhất
Nương dựa nơi một tướng.
Noãn khởi đã thành lập, Sinh Đảnh rồi đến Nhẫn: Nghĩa là nếu pháp Noãn đã thành rồi, thì ở trong ấy lại sinh khởi căn thiện của cõi dục như Đảnh, cũng có mười sáu hành quán bốn chân đế. Vì vượt hơn pháp Noãn nên nói là Đảnh. Đảnh đã tăng thượng thì sinh khởi căn thiện gọi là Nhẫn, cũng có mười sáu hành quán bốn chân đế. Do có thể gắng nhận giữ nên nói là nhẫn. Nếu nhẫn đã thành lập thì Được pháp Thế đệ nhất, Nương dựa nơi một tướng phát sinh căn thiện tối thắng trong tất cả công đức của thế tục, nên gọi là pháp đệ nhất của thế gian, mở rộng cửa Niết-bàn. Vì là hơn hết trong ý của phàm phu, nên nói là pháp đệ nhất.
Hỏi: Vì sao nói nương dựa nơi một tướng?
Đáp: Vì ở trong ý của phàm phu không có hai thứ công đức này. Nếu có thì công đức của phàm phu kia cũng mở ra cửa Niết-bàn, nhưng không có mở, do vậy nên nói là nương dựa nơi một tướng.
Hỏi: Pháp kia có bao nhiêu hành? Duyên nơi gì? Thuộc về địa nào?
Đáp:
Kia hành khổ: bốn hành
Nói gồm dựa sáu địa.
Kia hành khổ: Là pháp kia tức duyên nơi khổ đế. Không phải bốn hành khác: Nghĩa là cảnh giới của hành khổ đế, vô thường là đứng đầu. Vì sao? Vì như tâm vô lậu đầu tiên duyên nơi khổ đế ấy cũng lại như vậy.
Nói gồm dựa sáu địa: Nghĩa là pháp kia gồm thâu nơi sáu địa, là thiền vị lai, thiền trung gian và bốn thiền căn bản, không phải là cõi dục vì đây là cõi bất định, cũng không phải là cõi vô sắc vì ở đây không có kiến đạo.
Hỏi: Căn thiện khác thuộc về địa nào?
Đáp:
Nhẫn cũng gồm sáu địa
Ngoài ra thì dựa bảy.
Nhẫn cũng gồm sáu địa: Nghĩa là đế – thuận – nhẫn thuộc về sáu địa, như pháp thứ nhất của thế gian.
Ngoài ra thì dựa bảy: Nghĩa là Noãn và Đảnh thuộc về bảy địa. Sáu địa này và cõi dục chưa trừ dục, hoặc cõi dục đã trừ dục cùng cõi sắc.
Sau pháp Thế đệ nhất
Tất hưng khởi pháp Nhẫn
Sau nhẫn sinh khởi trí
Đều cùng quán khổ dưới.
Sau pháp Thế đệ nhất, Tất hưng khởi pháp Nhẫn: Nghĩa là theo thứ lớp thì tiếp sau pháp thứ nhất thế gian, là sinh khởi pháp nhẫn vô lậu, gọi là khổ pháp nhẫn. Pháp nhẫn ấy chưa từng quán. Nay lúc quán thì có thể nhận giữ, nên gọi là nhẫn. Đó gọi là đạo vô ngại vô lậu đầu tiên.
Sau nhẫn sinh khởi trí: Nghĩa là theo thứ lớp thì nhẫn kia sinh khổ pháp trí, đồng cảnh giới thọ nhận đạo giải thoát của tánh chân thật.
Hỏi: Nhẫn và trí duyên nơi gì?
Đáp: Cả hai đều cùng quán về khổ của cõi dưới. Khổ của cõi dưới là khổ của cõi dục, nhẫn, trí kia đồng duyên.
Khổ trên cũng như vậy
Nhân, diệt, đạo cũng thế
Là chánh quán các pháp
Nói mười sáu tâm tịnh.
Khổ trên cũng như vậy: Khổ trên là khổ của cõi sắc, cõi vô sắc. Quán về khổ của hai cõi ấy cũng như vậy, là sinh nhẫn nơi đạo vô ngại, trí nơi đạo giải thoát cùng khổ vị tri nhẫn và khổ vị tri trí.
Nhân là tập đế. Quán ấy cũng như thế, tức sinh bốn đạo. Như khổ, ở đây là tập pháp nhẫn, tập pháp trí, tập vị tri nhẫn, tập vị tri trí.
Diệt là diệt, cũng như thế tức sinh bốn đạo là diệt pháp nhẫn, diệt pháp trí, diệt vị tri nhẫn, diệt vị tri trí.
Đạo cũng thế: Tức đạo cũng sinh bốn đạo như vậy: Là đạo pháp nhẫn, đạo pháp trí, đạo vị tri nhẫn, đạo vị tri trí.
Là chánh quán các pháp, Nói mười sáu tâm tịnh: Nghĩa là kiến pháp. Kiến pháp gọi là chánh quán, là tên gọi khác của kiến.
Tùy pháp hành lợi căn
Đây tại mười lăm ý
Tùy tín hành nên biết
Độn kiến cũng ở trong.
Tùy pháp hành lợi căn, Đây tại mười lăm ý: Nghĩa là trong khoảng mười lăm tâm kia, nếu là lợi căn thì nói là Tùy pháp hành.
Tùy tín hành nên biết, Độn kiến cũng ở trong: Nghĩa là nơi khoảng mười lăm tâm kia, nếu là độn căn thì nói là Tùy tín hành.
Chưa lìa dục cõi dục
Hướng đến nơi quả đầu
Bỏ sáu hướng đến hai
Ba hướng chín vô lậu.
Chưa lìa dục cõi dục, Hướng đến nơi quả đầu: Là Tùy tín hành và Tùy pháp hành kia lúc hướng đến quả Sa-môn, nếu chưa lìa dục là cùng hướng đến quả Tu-đà-hoàn.
Bỏ sáu hướng đến hai: Tức phiền não của cõi dục có chín thứ: Vi vi, vi trung, vi thượng. Trung vi, trung trung, trung thượng. Thượng vi, thượng trung, thượng thượng. Nếu lúc phàm phu đã lìa sáu thứ phiền não kia thì sau đấy nếu hướng đến chứng đắc thì cùng hướng tới quả thứ hai.
Ba hướng chín vô lậu: Nghĩa là nếu đã lìa bỏ chín thứ, tức cùng hướng đến quả A-na-hàm.
Nếu đến mười sáu tâm
Gọi là trụ nơi quả
Tín giải thoát, độn kiến
Kiến đáo nói lợi kiến.
Nếu đến mười sáu tâm, Gọi là trụ nơi quả: Nghĩa là mười sáu tâm được gọi là đạo vị tri trí, tương ưng với tâm. Tâm kia đã sinh rồi, nói là trụ nơi quả. Chưa từng lìa bỏ dục của cõi dục là cùng có Tuđà-hoàn. Đã từng lìa sáu phẩm là cùng có Tư-đà-hàm. Lìa hết chín phẩm là cùng có A-na-hàm.
Tín giải thoát, độn kiến, Kiến đáo nói lợi kiến: Nghĩa là nếu lúc hướng đến quả người kia là Tùy tín hành độn căn thì gọi là Tín giải thoát. Nếu người kia là Tùy pháp hành lợi căn thì gọi là Kiến đáo.
Chưa tận tư duy đoạn
Cực sinh sinh tử bảy
Gia gia có ba tận
Cùng ở quả Đạo tích.
Chưa tận tư duy đoạn, Cực sinh sinh tử bảy: Nghĩa là bâc Tín giải thoát và Kiến đáo kia chưa lìa bỏ hết phiền não của cõi dục, thì do tư duy đoạn, là bảy lần sinh trong sinh tử. Người kia có bảy lần sinh lên cõi trời và trong loài người, nên nói là tối đa sinh bảy lần trong sinh tử.
Gia gia có ba tận: Nghĩa là nếu dứt hết ba thứ là thượng vi, thượng trung, thượng thượng, thì nói là Gia gia. Người kia trên cõi trời và trong loài người, hoặc sinh nơi hai nhà, hoặc sinh nơi ba nhà, về sau nhập Niết-bàn nên nói là Gia gia.
Cùng ở quả Đạo tích: Nghĩa là tối đa nơi bảy hữu và gia gia, nên nói là cùng trụ nơi Tu-đà-hoàn (Đạo tích).
Sáu hết một qua lại
Lìa tám nói Nhất chủng
Chín diệt tận không lại
Ra khỏi bùn dục cấu.
Sáu hết một qua lại: Nghĩa là nếu dứt hết sáu thứ: Ba thứ trên, ba thứ trung là Tư-đà-hàm. Người kia còn lại một lần sinh lên cõi trời, một lần sinh trong loài người, một lần qua lại, rồi nhập Niết-bàn, nên nói là Tư-đà-hàm.
Lìa tám nói Nhất chủng: Tức nếu tám phẩm đều dứt hết đó là Nhất chủng. Người kia còn lại chỉ có một lần sinh trọn vẹn như thế nên nói là Nhất chủng.
Chín diệt tận không lại: Nghĩa là nếu tất cả chín phẩm đều dứt hết là A-na-hàm, người ấy không còn trở lại cõi dục nữa, nên nói là A-na-hàm. Vì sao? Vì đã Ra khỏi bùn dục cấu.
Chín phiền não như vậy
Nếu tại tám địa trên
Hai đạo kia đã diệt
Đức Thế Tôn đã nói.
Chín phiền não như vậy, Nếu tại tám địa trên: Nghĩa là như chín thứ phiền não của cõi dục, từ vi vi đến thượng thượng, thì nơi cõi trên cũng như vậy. Tám địa trên là Phạm thế, Quang diệu, Biến tịnh, Quả thật, vô lượng không xứ, vô lượng thức xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Hai đạo kia đã diệt, Đức Thế Tôn đã nói: Nghĩa là tất cả phiền não nơi cõi dục này và hai đạo của cõi sắc, cõi vô sắc đã diệt trừ, là do đạo vô ngại diệt trừ, được chứng đạo giải thoát.
Hỏi: Đạo này là thế tục hay là vô lậu?
Đáp:
Đạo có cấu, không cấu
Cùng hay lìa tám địa
Trụ đó gọi Thân chứng
Là được định diệt tận.
Địa của cõi dục có một, địa của cõi sắc có bốn, địa của cõi vô sắc có ba, cũng do đạo thế tục diệt trừ, cũng là đạo vô lậu. Phàm phu từ đạo thế tục hãy còn có thể xa lìa, huống chi là các Hiền Thánh.
Trụ đó gọi Thân chứng, Là được định diệt tận: Nghĩa là trụ ở trong tám địa không dục, tức người học được định diệt tận đó là Thân chứng. Vì sao? Vì pháp giống với Niết-bàn, thân đã tiếp xúc, nên nói là Thân chứng.
Sau định kim cang dụ
Tất đạt được tận trí
Sinh ý: Ngã sinh hết
Lìa nơi tất cả lậu.
Sau định kim cang dụ, Tất đạt được tận trí: Nghĩa là định kim cang dụ gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ. Lúc lìa bỏ dục nơi tâm học sau cùng của đạo vô ngại thứ chín, ở đấy tất cả các phiền não đều vĩnh viễn dứt hết, không còn sót, tất cả hành Thánh đều rốt ráo, nên nói là Tam-ma-đề kim cang dụ. Theo thứ lớp này sinh tận trí, là trí vô học đầu tiên.
Sinh ý: Ngã sinh hết, Lìa nơi tất cả lậu: Nghĩa là người kia sinh khởi định ý, tất cả nẻo sinh tử của ta đã hết. Bấy giờ, vị Thánh này là Vô trước (A-la-hán) giải thoát nơi tất cả lậu.
Hỏi: Bậc Vô trước có bao nhiêu loại?
Đáp:
Vô trước có sáu loại
Là Tùy tín sinh năm
Đạt được nơi hai trí
Nên biết Thời giải thoát.
Vô trước có sáu loại: Tức Đức Thế Tôn đã nói có sáu loại Vô trước (A-la-hán): Là pháp thoái chuyển, pháp niệm, pháp hộ, pháp đẳng trụ, pháp tất thăng tấn và pháp bất động.
Ở đây: Nếu trí cùng tinh tấn yếu kém, là có thể thoái chuyển đủ, liền thoái chuyển nên nói là Pháp thoái chuyển. Trí bậc hạ và tinh tấn bậc hạ luôn luôn chán ghét thân, chán ghét thân rồi thì suy niệm về sự hủy hoại nên nói là Pháp niệm. Trí bậc hạ và tinh tấn thêm rộng, do sức của tinh tấn tức thường tự hộ trì tâm, nên nói là Pháp hộ. Trí bậc trung cùng với tinh tấn là không tăng không giảm, cùng trụ ở quãng giữa nên nói là Pháp đẳng trụ. Có một ít lợi, trí tinh tấn thêm rộng, trí kia tất được bất động, nên nói là Pháp tất thăng tấn. Trí bậc thượng và sức tinh tấn rộng thì bắt đầu được bất động, nên nói là Pháp bất động.
Là Tùy tín sinh năm, Đạt được nơi hai trí: Nghĩa là trong đó năm từng là Tùy tín hành, có hai trí là tận trí và đẳng kiến vô học (Chánh kiến vô học).
Nên biết Thời giải thoát: Nghĩa là đẳng kiến vô học kia nên biết là Thời giải thoát, tức phải tìm cầu thời gian thích hợp không thể nơi tất cả thời, tùy theo chỗ mong muốn mà chứng đắc giải thoát.
Pháp bất động lợi căn
Là bất thời giải thoát
Đạt được nơi ba trí
Thành tựu đẳng giải thoát.
Pháp bất động lợi căn, Là bất thời giải thoát: Tức hoàn toàn là lợi căn là pháp bất động. A-la-hán bất thời giải thoát kia có thể nơi tất cả thời tùy theo chỗ mong muốn của mình đều chứng đắc giải thoát, không cầu tìm thời gian thích hợp.
Đạt được nơi ba trí: Nghĩa là A-la-hán bất thời giải thoát kia có được ba trí, là tận trí, vô sinh trí và đẳng kiến vô học.
Thành tựu đẳng giải thoát: Nghĩa là lúc năm loại Vô trước này được giải thoát, là thành tựu đẳng ý giải thoát, nghĩa là pháp bất động là thành tựu giải thoát bất động.
Tuệ giải thoát nên biết
Không được định diệt tận
Chỉ có Câu giải thoát
Thành tựu định diệt tận.
Tuệ giải thoát nên biết, Không được định diệt tận: Nghĩa là bậc Vô trước (A-la-hán) thứ sáu này, nếu không thành tựu định diệt tận, thì gọi là Tuệ giải thoát, là do sức của tuệ nên được giải thoát, không phải do sức của định.
Chỉ có Câu giải thoát, Thành tựu định diệt tận: Nghĩa là bậc Vô trước thứ sáu này, nếu được định diệt tận, gọi là Câu giải thoát. Sáu loại Vô trước kia đều kết hợp sức của tuệ cùng sức của định để đạt giải thoát.
Đã nói về Hiền Thánh. Pháp và người nay sẽ nói.
Các pháp Tùy tín hành
Và pháp Tùy pháp hành
Thánh đạo, kiến đế đạo
Là đều đồng một tướng.
Pháp Tùy tín hành và pháp Tùy pháp hành là nói về kiến đạo.
Pháp các căn trong ấy
Gọi là vị tri căn
Là pháp hữu học khác
Phật nói dĩ tri căn.
Pháp các căn trong ấy, Gọi là vị tri căn: Nghĩa là ở trong pháp kiến đạo, gọi là căn, căn số như tâm cùng năm căn như thọ, tín v.v… là vị tri căn.
Là pháp hữu học khác, Phật nói dĩ tri căn: Nghĩa là lìa pháp học của kiến đạo, trong các pháp học khác, tức căn kia nói là dĩ tri căn.
Nên biết vô tri căn
Ở ngay trong vô học
Đã được quả liền xả
Đạo trước cần nên nói.
Nên biết vô tri căn, Ở ngay trong vô học: Nghĩa là trong pháp vô học, tức căn kia được gọi là vô tri căn.
Đã được quả liền xả, Đạo trước cần nên nói: Nghĩa là pháp vô lậu này, lúc thăng tấn được quả thì xả bỏ phần thuộc về đạo vô ngại và đạo giải thoát.
Đã hết là giải thoát
Được gồm thâu một quả
Thứ chín không cấu uế
Diệt tận cần nên nói.
Đã hết là giải thoát, Được gồm thâu một quả: Nghĩa là từ đạo vô ngại đến đạo giải thoát, ở nơi khoảng trung gian đó, đã dứt hết phiền não, chỉ vào lúc được quả, thì tất cả phiền não đều diệt hết để được một quả giải thoát.
Thứ chín không cấu uế, Diệt tận cần nên nói: Nghĩa là nói chín thứ các phiền não, đã được đạo diệt trừ, chính là do đạo vô ngại thứ chín không cấu uế đã đoạn trừ trong một lúc không phải là đoạn dần dần.
Nếu có tên tương tợ
Là đạt được bất động
Vô trước cùng Tín thoát
Tánh đồng kia thêm đạo.
Nếu có tên tương tợ, Là đạt được bất động: Nghĩa là bậc Vô trước (A-la-hán) không thể tất cả đều được bất động. Chỉ loại thứ năm là pháp tất thăng tấn mới có được bất động, là tên gọi tương tợ.
Vô trước cùng Tín thoát, Tánh đồng kia thêm đạo: Nghĩa là hàng Tín giải thoát hoàn toàn là tánh tăng trưởng các căn, đạt được kiến đáo, không phải là thứ khác.
Hỏi: Làm sao nhận biết được là dần dần kiến đế?
Đáp:
Kiến lập công đức, ác
Thứ lớp kiến chân đế.
Không phải do lúc thấy công đức mà thấy pháp ác. Cũng không do lúc thấy pháp ác mà thấy công đức. Cũng không phải ban đầu quán chung pháp ác kia. Cũng không phải nơi một lúc đều nhàm chán tất cả. Cũng không phải gồm họp chung công đức là các công đức. Cũng không phải kết hợp cùng một lúc. Do đấy nên kiến lập công đức, pháp ác, rồi theo thứ lớp thấy chân đế.
Hỏi: Làm thế nào nhận biết quả hữu vi, vô vi?
Đáp: Do sức của đạo vô ngại được quả hữu vi, vô vi. Tức từ sức của đạo vô ngại nên được quả hữu vi và quả vô vi. Vì thế do sức của đạo vô ngại mà được quả hữu vi, vô vi.
HẾT – QUYỂN 2