LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC
Hán dịch: Mất tên người dịch. Nay dựa vào bản sao chép đời Hậu Hán
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 5

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Nan-đà là đoan nghiêm bậc nhất: Vì các Tỳkheo mỗi mỗi vị đều có các tướng. Tôn giả Thân Tử có bảy. Tôn giả Mục-liên có năm. Tôn giả A-nan có hai mươi. Chỉ riêng Tôn giả Nanđà có ba mươi tướng. Tôn giả Nan-đà sắc vàng. Tôn giả A-nan sắc bạc. Tôn giả Nan-đà mặc y phục sáng rỡ, giày dép viền tua vàng, cầm bát lưu ly, vào thành khất thực, những người trông thấy không ai là không vui thích. Tự lìa Đức Như Lai để giảng nói pháp, hành hóa, các vị đệ tử khác không vị nào có thể sánh kịp, nên gọi là đoan nghiêm bậc nhất.

Cũng gọi là các căn tịch tĩnh: Đức Phật dẫn các đệ tử đi đến Tinh xá của Nại-nữ ở thành Tỳ-xá-ly. Lúc ấy, Tôn giả Nan-đà kinh hành ở bên ngoài. Nại-nữ nghe Đức Phật đến, trong tâm vô cùng vui vẻ, muốn bày biện sự cúng dường, tức đi tới thỉnh Phật, thấy Tôn giả Nan-đà đang kinh hành bên ngoài Tinh xá, tình cảm yêu thích dấy mạnh, đảnh lễ tiếp giáp chân, lấy tay xoa lên chân Tôn giả. Tuy nhìn thấy người nữ xinh đẹp, dịu dàng, nhưng Tôn giả Nan-đà hoàn toàn không có tưởng dục. Do hai hình cùng cảm, nên liền xuất “bất tịnh”. Vị ngọt thấm nhuần nơi thân thể, thân thể đầy đủ thì dư thừa. Chỗ dư thừa của bất tịnh, há là do tâm? Nại-nữ không rõ, nghi là có tưởng dục. Đức Phật nhận biết ý ấy, nên nói với nàng: Chớ sinh tâm nghi! Bảy ngày sau đấy, Tôn giả Nan-đà sẽ chứng đắc A-la-hán. Theo đó mà nói, tức biết tâm của Tôn giả không biến đổi.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà-đà khéo giải nghi vướng của người: Là vì chư Phật trong ba đời đều cùng lấy số lượng tám vạn bốn ngàn dùng làm pháp hành. Chúng sinh đạt đạo bất tất phải hành khắp. Các hành tùy theo xứ tỏ ngộ, dùng làm tông chỉ, vì sao kiết sử của chúng sinh chẳng đồng? Bệnh có nhiều, ít, cấu uế có dày mỏng, thế nên Đức Như Lai thiết lập giáo pháp có từng ấy. Hoặc có một loại thuốc trị nhiều bệnh. Hoặc có nhiều loại thuốc trị một bệnh. Cũng như sáu độ cùng hợp lại. Một hành làm chủ thì các hành đều theo. Một hành không chuyên, thường gọi là theo bệnh đã khởi, đối thuốc ứng hợp. Nếu khởi chấp thường thì dùng vô thường đối trừ. Nếu tâm chấp có khởi thì dùng tâm không đối trừ. Nên hiểu rõ về hành vô thường, vì muôn hành đều là vô thường. Cũng như thí tạo ra tám vạn thứ, tám vạn đều là thí, đó gọi là lược nói. Cũng như trong tám âm của Đức Như Lai, một âm hợp với tám tiếng vang, một tiếng vang hợp với trăm giáo pháp, một giáo pháp hợp với trăm nghĩa, mỗi mỗi cùng hợp lại đến ngàn vạn ức. Một âm báo đến vạn ức. Sự biến chuyển như vậy là lược nói về các hành hợp lại. Về dụ cũng thế. Tỳ-kheo nầy chuyên dùng lược nói làm chủ, nên gọi là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Tư-ni là có thể thuyết pháp rộng khắp: Vì Tỳ-kheo nầy, ba mươi năm, ở trong địa phàm phu đã rộng vì mọi người thuyết giảng pháp, phân biệt về nghĩa lý. Thế nào là thuyết giảng rộng? Hoặc nhân một hành mà làm tăng trưởng các hành, chi tiết càng dồi dào cho đến vô số. Cũng như bệnh có cùng nhân mà sinh, do đấy nên đặt các thứ thuốc cùng thuận mà thành. Tỳ-kheo nầy chuyên dùng phân tích, phán đoán làm chủ, không ưu tiên cho việc đoạn dứt lậu, vì thế phải trải qua ba mươi năm mới chứng đạo. Tĩnh lặng, quên lời, nên bỏ sót dấu vết từ trước. Sao chép từ gốc để nối tiếp, nên gọi là thuyết giảng rộng bậc nhất.

Sở dĩ gọi Thiên-tu-bồ-đề là người mặc y đẹp đẽ bậc nhất: Trong số năm trăm đệ tử của Phật có hai vị Tu-bồ-đề: Một vị thuộc chủng tánh vương giả, một vị thuộc chủng tánh Trưởng giả. Thiên-tu-bồ-đề xuất thân từ hàng vương giả. Sở dĩ gọi là Thiên vì trong năm trăm đời thường sinh nơi cõi trời Hóa ứng thanh, sau sinh vào nhà vương giả, hưởng phước tự nhiên chưa từng thiếu thốn. Thời gian Đức Thế Tôn trở về quê hương, vua Tịnh Phạn khuyến khích năm trăm nam tử họ Thích xuất gia học đạo, theo hầu Đức Phật, Tỳ-kheo nầy là một vị trong số ấy.

Bấy giờ, Đức Phật khuyên bảo các Tỳ-kheo: Phàm là người học đạo, đều phải bó buộc thân, giữ hạnh, y thô, ăn dở, nệm cỏ làm giường, thuốc thang dùng theo dân dã. Tỳ-kheo nầy nghe lời Phật dạy, tâm tự tư duy: Ta sinh trong gia đình giàu sang, y phục, thức ăn luôn dồi dào, lầu gác, phòng ốc đều cao rộng, giường nệm, giày dép, các thứ vật dụng quanh người đều quý giá, ít có, thế nhưng cũng còn không thỏa mãn ý ta, huống hồ là nay sẽ mặc y Ngũ nạp! Phải nên trở về nhà là hợp với bản ý của mình. Suy nghĩ rồi muốn trở về. Lúc nầy, Đức Thế Tôn đang ở tại Tinh xá Xá-vệ, thọ thỉnh của vua Ba-tư-nặc, Thiên-tu-bồ-đề liền đi tới chỗ Phật lễ bái, từ tạ mà trở về. Tôn giả A-nan nói: Xin hãy nán lại một đêm. Thiên-tu-bồ-đề bảo: Phòng ốc, giường nệm của Đạo nhân như thế, làm sao có thể ở lại được, chắc phải đến nhà bạch y ngủ nhờ một đêm, sáng hôm sau sẽ trở lại đây thôi. Tôn giả A-nan nói: Nên ở lại. Nay sẽ bày biện khéo đẹp và đủ cả. Tôn giả liền đi tới chỗ vua, các thứ tọa cụ, cờ lọng, hoa hương, bốn thứ đèn dầu, mỗi mỗi sự đều mang về đầy đủ, đẹp đẽ, sang trọng. Tỳ-kheo nầy bèn nghỉ đêm trong căn phòng như thế. Do hợp với bản tâm nên ý liền được định, tư duy về bốn đế, cho đến cuối đêm tức đắc A-la-hán, bay lên hư không. Tôn giả A-nan tâm niệm: Tỳ-kheo nầy chắc là đã bỏ phòng mà đi rồi, các thứ vật dụng mượn ở chỗ vua sợ có người lấy mất, nên vội tới xem thử. Trong phòng chẳng thấy, ngước nhìn lên cao, thấy Tỳ-kheo ấy đang bay nơi không trung. Tôn giả A-nan bạch Phật: Tỳ-kheo Thiên-tu-bồ-đề đã đắc A-la-hán, hiện đang bay nơi hư không. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Y có hai loại: Loại có thể gần gũi, loại không thể gần gũi. Thế nào là có thể gần gũi? Là lúc mặc y đẹp, làm tăng trưởng tâm đạo, đây là có thể gần gũi. Khi mặc y đẹp, làm tổn giảm tâm đạo, đấy là không thể gần gũi. Nầy A-nan! Vì thế, hoặc từ nơi y tốt đẹp đắc đạo, hoặc từ nơi y Ngũ nạp cũ rách mà đắc đạo. Chỗ tỏ ngộ là tại tâm, không câu nệ nơi y phục, hình tướng. Theo đó mà nói, Thiên-tu-bồ-đề là người mặc y đẹp đẽ bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Nan-đà-ca là giáo thọ bậc nhất: Vì như Tôn giả Xá-lợi-phất cũng giáo thọ, tức chỉ dạy trao truyền khắp bốn chúng đệ tử, từ sáng sớm đến giữa ngày, nên khiến một người đạt đến “Đạo tích”. Còn Tỳ-kheo nầy chuyên giáo thọ các Tỳ-kheo, khiến chứng đắc A-la-hán. Ví như người bắn tên giỏi, dùng một phát tên bắn trúng kẻ giặc kia, tức trúng nơi chính yếu nên khiến không còn dấy khởi. Dụ cho Tỳ-kheo nầy, khéo chỉ dạy về tuệ chính, người nghe kiết dứt trừ, đạt đến giải thoát. Người bắn tên không giỏi, tuy dùng nhiều mũi tên mà chỉ có thể một phát bắn trúng. Dụ như Thân Tử tuy diễn nói rộng về tuệ, chung cuộc chỉ thành một bậc. Hơn kém đã khác, xét kỹ dễ thấy. Thế nên nói giáo thọ hàng hậu học là bậc nhất.

Tỳ-kheo Tu-ma-na sở dĩ gọi là người khéo khuyên dạy Tỳkheo-ni: Vì Tỳ-kheo nầy thường dùng những lời khổ bức để khuyên bảo các Tỳ-kheo-ni: Phàm là người nữ thì có nhiều tình cảm, dáng dấp xinh đẹp được tô điểm luôn huyễn hoặc người đời. Thân hình uế lậu, chín chốn bất tịnh, ba mươi sáu vật, không một thứ nào đáng để tham ái. Sở dĩ gọi Tu-ma-na, tức là dùng tên của hoa. Do lúc sinh ra, trên tai tự nhiên có hoa nầy, nên dùng hoa làm tên người. Bấy giờ, vua Tần-bà-sa-la đi đến chỗ Phật, thấy Tỳ-kheo ấy trên tai có hoa, cho là lạ, liền hỏi Phật: Pháp của Tỳ-kheo được đeo hoa chăng? Đức Phật nói với vua: Nhà vua nên tự tay thâu lấy hoa ấy. Vua liền dùng tay rút nắm lấy hoa, hoa lại sinh ra như cũ, cứ như thế không dừng, bèn thành một đống hoa. Vua càng cho là lạ, nên hỏi nguyên do. Đức Phật nói: Về thời xa xưa, lúc Đức Phật Tỳ-bà-thi xuất hiện ở đời, Tỳ-kheo ấy là một Trưởng giả trẻ tuổi. Lúc nầy là lễ hội hàng năm, Trưởng giả tham dự, đánh đàn, ca hát vui chơi xong, liền đi tới chỗ Đức Phật. Trưởng giả trông thấy Phật hoan hỷ, bèn lấy hoa trên tai mình dâng đặt lên trên tai Đức Phật. Phật tức dùng thần túc, hóa ra hoa ấy, ở trong hư không biến làm đài có bốn trụ, hoa trên tai vẫn như cũ. Trưởng giả trông thấy những biến hóa như thế, liền phát thệ nguyện: Nguyện nơi đời vị lai của con đời đời được gặp Phật, thân tướng sinh ra được đoan nghiêm, trên tai sinh hoa. Do phước nguyện từ xưa, nên nay có được báo đó. Vua nghe Đức Phật giảng nói, tâm tức mở bày, hiểu rõ, nên đến trước đảnh lễ Phật rồi cáo lui, trở về hoàng cung.

Sở dĩ khéo khuyên dạy Tỳ-kheo-ni: Vì các Tỳ-kheo-ni vốn là những người có nhiều tình cảm. Nhiều người trông thấy Tỳ-kheo Tuma-na đoan nghiêm, trên tai có hoa, tâm cũng còn yêu thích. Duyên nơi tình cảm yêu thích ấy để dẫn dạy, nhiếp phục, dùng lời nói khổ bức nên mọi tham ái liền tiêu tan, vì thế nên gọi Tỳ-kheo Tu-ma-na là khéo khuyên dạy Tỳ-kheo-ni về giới cấm là bậc nhất.

Sở dĩ xưng Tỳ-kheo Thi-bà-la là phước đức bậc nhất: Vì lúc Thi-bà-la mới sinh, tay cầm ngọc báu Ma-ni vô giá. Thân vừa chạm đất liền nói: Thế gian có đủ bảy báu như vàng bạc v.v… để có thể đem bố thí chăng? Ta nay muốn hành bố thí lớn. Nói lời như vậy rồi, khiến cha mẹ, người nhà đều hoảng sợ, bỏ đấy mà chạy, hoặc nói là quỷ La-sát, hoặc cho là thiên thần. Phàm là trẻ con, lúc sinh cần phải đủ ngày tháng mới nói được. Nay vừa chạm đất liền nói, là điều rất kỳ lạ. Tình mẹ không nỡ bỏ con, nên trở lại để xem. Đứa con nói với mẹ: Chớ sợ! Con không phải là quỷ. Con đúng là con của mẹ. Người cha là Nguyệt Quang bảo vợ: Nay nên ẳm đứa bé tới chỗ các Sư Nikiền-tử, để hỏi về chỗ dữ, lành. Liền cùng vợ bế con đi đến trụ xứ của các thầy Ni-kiền, thưa lại mọi việc. Sư nói: Đứa bé nầy vô phước, về sau sẽ dẫn tới tai họa. Trưởng giả thưa: Trong tay đứa bé có ngọc báu Ma-ni, vì sao nói là không phước? Ni-kiền bảo: Đến năm đứa bé tám tuổi, tài sản, vật báu trong nhà ông đều hết sạch, chính là do trong tay đứa bé nầy hiện có ngọc báu sẽ tiêu diệt hết, cả nhà đều sẽ chết đói. Trưởng giả sợ hãi, nhưng nghĩ kỹ có chỗ nghi hoặc. Nghe đời có vị Đại Sa-môn, hẳn có thể biết được chuyện lành dữ, nên đi đến nơi ấy để hỏi về việc nầy chăng? Tức đi tới chỗ Đức Thế Tôn. Giữa đường lại nghĩ: Đại Sa-môn là chủng tộc Trưởng giả, sinh trưởng nơi thâm cung, lại không học vấn. Các Bà-la-môn, ngay từ lúc còn trẻ đã học rộng, hãy còn không thể biết về lành dữ, Đại Sa-môn há có thể biết được? Liền muốn trở về nhà. Chư Thiên nơi hư không nói với Trưởng giả: Chỉ nên đi tới trước, sao lại tính trở về? Như Lai là bậc Đại Thánh, không điều gì là không thông đạt, đi tới đó, mọi nghi ngờ sẽ được tỏ rõ, phải trái mau hiện ra. Vợ chồng Trưởng giả y lời, bèn đi đến trụ xứ của Đức Phật, lễ bái, vấn an xong, liền thưa về các sự việc như vừa nói, không tường dữ lành. Đức Phật dạy: Hoàn toàn lành và lợi mới sinh được người con phước đức ấy. Đứa bé nầy, năm hai mươi tuổi sẽ xuất gia tu đạo, thường có năm trăm Đồng tử cùng theo, sẽ chứng đắc A-la-hán, trở về độ cha mẹ. Trưởng giả nghe Đức Thế Tôn giảng nói như thế thì vô cùng vui mừng, không thể tự kìm chế, liền đảnh lễ Phật rồi trở về nhà, cho sắm sửa đủ các thức ăn uống ngon quý, thỉnh Phật cùng chúng đệ tử đến nhà thọ thực, xin Phật đặt tên cho con mình. Đức Phật nói với Trưởng giả: Nếu muốn mang tên là chư Thiên thì con người không hiểu. Nếu muốn mang tên Hiền Thánh thì hàng phàm phu không hiểu. Thời Đức Phật Ca-diếp gọi quỷ là Thi-bà-la, nay nên đặt tên là Thi-bà-la. Thi-bà-la là khai thông âm thanh, ngôn ngữ của quỷ thần, thế nên đặt tên là Thi-bà-la. Tôn giả A-nan, lúc sắp nhập Niết-bàn đã độ hai vị đệ tử, vị thứ nhất tên Ma-thiền-đề, vị thứ hai tên Ma-thân-đề-lợi. Ma-thân-đề-lợi là Địa vương, nếu không làm Đạo nhân, sẽ làm vua châu Diêm-phù-đề cùng ba thiên hạ, nên gọi là Ma-thân-đề-lợi. Tôn giả A-nan dạy vị đệ tử nầy: Con đi đến nước Sư Tử Chử để truyền bá, hiển dương pháp Phật. Người ở nước ấy cùng với La-sát chung nhau. Chính là cần có văn tự, sau đấy mới giao tiếp. Theo “Thị dịch” hiện có sáu mươi thứ sách, trong số ấy có sách của quỷ gọi là A-phù, sách của người gọi là A-la. Ma-thân-đề-lợi vâng theo lời dạy, đi tới nước ấy hiển dương Phật pháp, từ đó, dấu vết của sự giáo hóa ngày nay hiện còn. Thi-bàla khai thông quỷ thần cũng như thế, nên gọi là Thi-bà-la.

Sở dĩ xưng Thi-bà-la là phước đức bậc nhất: Tức lúc mới sinh, trong hai tay tự nhiên cầm lấy ngọc Ma-ni. Chuyện kể về thời xa xưa, lúc Đức Như Lai Tỳ-bà-thi xuất thế, Tỳ-kheo nầy là khách buôn đi thuyền vào biển tìm châu báu, trải qua năm nạn mới đến được nơi có châu báu, tìm được một ngọc báu liền trở về, đem dâng lên Đức Phật, nguyện xứ xứ mình sinh ra đều đạt được phước báo tự nhiên. Do nhân duyên ấy, nên lúc sinh có tướng kỳ lạ. Tỳ-kheo Giá Nhị Thập Ức, lúc mới sinh, tự nhiên có ngọc báu hiện rõ nơi tai. Người cha tập hợp các người mua bán, hỏi về giá trị của ngọc báu kia. Cả đám cân nhắc rồi đáp: Giá trị hai mươi ức. Ngọc báu nơi tay của Thibà-la không có hạn lượng, nên gọi là vô giá. Báu ấy đã thấm nhuần đến những bảy đời. Trong bảy đời nầy, không hề đói khổ, thiếu thốn, nên gọi là phước đức bậc nhất.

Đến năm hai mươi tuổi, Thi-bà-la xuất gia học đạo, đến chỗ Đức Thế Tôn. Đức Phật bảo: “Thiện lai!”, tức thành Sa-môn, tư duy về bốn đế liền đắc A-la-hán. Lúc ấy, có năm trăm Đồng tử, cũng xuất gia tu đạo, thường theo hầu Thi-bà-la. Thi-bà-la cung cấp y phục, thức ăn uống cho năm trăm vị nầy. Nơi chốn vừa đến ngụ, cúng dường đầy đủ, nơi chốn du hành hóa độ, đều cúng dường kịp thời. Thi-bà-la và năm trăm vị ấy cùng đi tới thành Vương-xá. Phía Nam thành nầy có ngọn núi lớn, thuộc loại “thâm sơn”, trong núi có nhiều loài rắn độc, cọp, sói, La-sát. Thi-bà-la liền tự nghĩ: Muốn ở trong núi nầy ẩn dật một mùa. Khi đó, Thiên Đế-thích nhận biết tâm niệm của Thi-bà-la liền sai tả hữu đến núi ấy tạo dựng năm trăm phòng cùng Tăng-già-lam và đủ thứ vật cúng dường. Lại trải qua một mùa, kiết hạ đã xong, Thi-bà-la tâm niệm: Xa cách Đức Thế Tôn đã lâu, nên trở về lễ bái, hầu hạ. Thời tiết lúc đó rất nóng, Thi-bà-la nghĩ muốn được mát mẻ, Thiên Đế nhận biết, liền cho tuôn mây mưa. Vừa nghĩ về nước uống, tức mưa cam lồ. Mọi tâm niệm mong muốn, hợp ý liền đến, nên gọi là phước đức bậc nhất.

Thi-bà-la có người chú, thờ Phạm-chí ngoại đạo, vì người ấy vốn keo kiệt không thích bố thí. Có ông bạn thân khuyên nên tạo “của cải” cho đời sau, liền thỉnh Phạm-chí đến ngàn người, dâng thí trăm ngàn lượng vàng. Thi-bà-la nghĩ: Người chú tham lam bỏn sẻn, sống không tạo phước, giờ lại tuệ thí không gặp phước điền, ta không cứu độ thì vĩnh viễn là hạng vất bỏ. Liền đi tới nhà người chú, cầm bát khất thực. Chú nói: Cháu sao đến muộn thế. Ngày hôm qua ta hành thí lớn. Nếu ngày hôm qua cháu tới, có thể được Tăng-kiệtchi. Thi-bà-la nói: Cháu tự có Kiệt chi, cũng không cần thứ ấy. Chú hỏi: Vậy cháu đến làm gì? Đáp: Cháu muốn khất thực. Người chú không cho. Thi-bà-la liền hiện thân ở trong hư không, tạo ra mười tám thứ biến hóa, thân phát ra nước, lửa. Trưởng giả nghĩ: Đây tất là giận dữ, chắc sẽ đốt cháy nhà ta. Bèn gọi khiến hạ xuống nơi tòa ngồi. Thi-bà-la an tọa, nói: Cháu muốn được ăn. Người chú sai đem các thứ thức ăn dở, thiu, hôi, Thi-bà-la nhận lấy, chú nguyện rồi ăn. Thức ăn vào trong bát, do phước đức cảm ứng nên biến thành cam lồ. Có vị trời nơi hư không tán thán: Lành thay, Trưởng giả! Nay đã tạo thí lớn ấy, phước đức của thí nầy, không ai có thể vượt hơn! Trưởng giả tâm niệm: Ta trước thí cho các Phạm-chí trăm ngàn lượng vàng, mà không ai khen ngợi ta. Nay thí cho người nầy một ít thức ăn dở, mà được khen là thiện, là không vọng ngữ chăng? Vị trời lại bảo: Chỗ bố thí tuy ít nhưng đúng nơi phước điền tốt đẹp, nên gọi là thí lớn. Trưởng giả lại nghĩ: Vị trời tất chân thật, vì đã hai lần báo cho ta biết. Liền đem trăm ngàn lượng vàng thí cho Thi-bà-la. Thibà-la nói: Cháu là Tỳ-kheo, pháp không được nhận vàng. Tức thì đi tới chỗ Đức Phật thưa hỏi về việc ấy. Đức Phật: Có thể nhận lấy rồi tùy ý chuyển thí cho người khác. Thi-bà-la bèn nhận số vàng đó và đem thí cho các đồng học, lại vì người chú thuyết pháp khiến chú liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Do có thể biến các thứ xú uế thành cam lồ, nên gọi là phước đức bậc nhất. Từ lúc sinh cho đến nhập Niết-bàn, chưa từng thiếu thốn. Lúc Bát-Niết-bàn, có vô số thức ăn uống ngon quý mưa xuống trên thân. Sở dĩ được như thế vì nơi tự thân đã đủ, lại muốn cho các chúng sinh cũng được dồi dào, do đấy nên lại gọi là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu-ba-tiên là người đầy đủ các hạnh bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy, bên trong đức hạnh viên mãn, bên ngoài hình tướng đoan nghiêm, trong ngoài tương ưng, mọi sự ưa thích đều vui vẻ. Tôn giả Nan-đà có ba mươi tướng. Tôn giả A-nan có hai mươi tướng. Tướng biểu hiện tuy nhiều, nhưng đối với oai nghi của Samôn không thể đều hoàn bị. Tỳ-kheo nầy, tướng tuy chỉ có mười một, nhưng lễ nghi đều đủ. Do đủ nên tạo thích hợp, không nơi nào đi đến mà không ứng kết. Người lớn, trung niên, trẻ em trông thấy thảy đều hoan hỷ. Gọi là bên trong sung mãn, tức bốn đế như có tám chánh chân vi diệu. “Ngôi nhà tinh thần” (Tâm) thật sự sung mãn, chưa từng hao tổn. Thế nên xưng là đầy đủ các hạnh nơi pháp của đạo phẩm là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà-đà-tiên thuyết giảng vui vẻ, không làm tổn thương ý người khác: Là vì Tỳ-kheo nầy luôn thận trọng nơi miệng, không phạm bốn lỗi lầm. Phàm kẻ sĩ xử thế, búa rìu ở trong miệng, sở dĩ chém thân là do nơi lời nói thô ác. Tỳ-kheo nầy đối với các lời nói xấu ác ấy đã vĩnh viễn dứt trừ, luôn chọn lời, từ từ, suy xét rồi sau mới bày tỏ. Ngôn từ phát ra hợp ý tất khiến hoan hỷ. Hoặc ở nơi người lớn tuổi, trung niên, trẻ con, theo chỗ ưa thích, đều có thể vừa ý. Sở dĩ gọi Tỳ-kheo ấy là có thể khéo nói năng, vì có Tỳkheo đã chứng đắc A-la-hán, tuy lậu đã dứt hết, vẫn còn có lỗi lầm của miệng. Nhân đi qua sông, nước dần dần thêm sâu, liền buông lời ác nói: Đúng là thứ nô tỳ xấu xa, thuộc giống dâm dật! Lúc ấy, thần sông là nữ nghe lời ác đó, tâm niệm: Tỳ-kheo nầy vừa buông lời ác như thế là muốn bước sâu vào trong nước. Do Tỳ-kheo ấy, ta nên thưa hỏi Đức Phật. Liền đi đến hỏi Phật: Có Tỳ-kheo đi qua sông, nước mới sâu một tí liền mạ lỵ, nói: Đúng là thứ nô tỳ xấu xa, thuộc giống dâm dật! Theo pháp của Tỳ-kheo có nên mạ lỵ không? Đức Thế Tôn bèn sai một Tỳ-kheo tới gọi Tỳ-kheo mạ lỵ kia đến chỗ Phật. Tỳ-kheo kia liền tới. Đức Phật bảo: Ông là Sa-môn, vì sao lại mạ lỵ như vậy. Thưa: Đệ tử không mạ lỵ, chỉ nói: Nô tỳ là loài dâm dật. Thần sông nữ nói: Thực sự là Tỳ-kheo đó đã mạ lỵ. Xin Đức Thế Tôn nói rõ về gốc ngọn của sự việc nầy: A-la-hán có còn giận dữ không? Vì sao lại mạ lỵ? Đức Thế Tôn nói: A-la-hán không còn giận dữ, chỉ do thói quen của miệng. Tỳ-kheo nầy từng là Bà-la-môn. Pháp của Bà-la-môn là thích mạ lỵ, như nói: Nô tỳ trong thai, không hẳn là giận dữ, mạ lỵ, chính là do tập quán của miệng mình. Thêm nữa, Tỳ-kheo ấy, trong năm trăm đời trước là chồng của cô, bấy giờ thường hay mắng cô là nô tỳ! Ở đây là do thức của đời trước chưa dứt trừ, nên lại mạ lỵ. Thần sông nữ thưa: Tuy đã là A-la-hán, mà còn có lỗi lầm của miệng, con không nhờ vào A-la-hán. Con nguyện về sau sẽ cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, độ thoát tất cả chúng sinh, như Đức Phật, không khác. Đức Phật nói với Tỳ-kheo: Ông nên hướng tới thần sông nữ kia xin sám hối. Tỳ-kheo vâng lời. Thần sông nữ cũng nên hướng tới Tỳ-kheo để sám hối, lễ bái, xong xuôi thì đều ra đi. Tuy đã dứt hết lậu, nhưng vẫn còn có lời nói thô ác, huống chi là đối với phàm phu mà không thận trọng nơi lời nói sao! Do nhân duyên nầy nên biết Tỳ-kheo Bà-đà-tiên là người giữ gìn lời nói bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ma-ha Ca-diên-na là hành An ban (niệm hơi thở) bậc nhất: Vì trong số một ngàn hai trăm vị đệ tử, chỉ có Tỳkheo nầy cùng với La Vân (La-hầu-la) là có thể hành An ban bậc nhất. Do đâu nhận biết được? Chuyện kể ngày trước La Vân đi theo Đức Phật. Đức Phật dùng phương tiện khéo léo hiện bày phần bụng của cổ chân cho La Vân trông thấy. La Vân thấy rồi, liền nghĩ: Ông già nầy đã bỏ ngôi vị Chuyển luân vương để mang hình tướng như thế, tu đạo, hành khất thực, cớ sao không xấu hổ. Ta không thể lại hành khất thực, mà nên trở về. Ông nội ta là vua Tịnh Phạn vẫn còn ở ngôi, ta sao có thể làm công việc khổ nhọc nầy! Đức Phật nhận biết những ý nghĩ trong tâm của La Vân, nên bảo La Vân: Con nên biết! Trời đất hãy còn vô thường, huống chi là ngôi vị Chuyển luân vương của con, há có thể trường tồn! Nên hiểu rõ về vô thường, có hình tướng đều là khổ, thân vô ngã, đều sẽ hao mòn, hoại diệt, không thể trụ mãi. La Vân tư duy về bốn vô thường, ý cũng chưa tỏ ngộ. Đức Phật dạy hành An ban thủ ý (Quán sổ tức). An ban là hơi thở vào ra. Hơi thở dài cũng biết. Hơi thở ngắn cũng rõ. Hơi thở ngắn là từ tim trở lại. Hơi thở dài là từ giữa gót chân đến. Lại nhận biết về lạnh, ấm. Hơi thở vào là lạnh. Hơi thở ra là ấm. Sở dĩ nhận biết dài ngắn, lạnh ấm, là muốn biết chỗ hướng tới của năm ấm là sâu, cạn. Theo hơi thở ra vào để tìm biết gốc ngọn của nó, cũng biết nguyên do của bệnh. Nếu lúc hơi thở vào, không biết nó từ đâu tới, hoặc khi hơi thở ra, cũng không biết nó đi đến nơi nào, là hiểu rõ về không đến đi. Bệnh cũng lại như thế. La Vân tư duy như vậy bèn chứng đắc A-la-hán. Ma-ha Ca-diên-na hành An ban không giống với La Vân. Đối với hơi thở luôn tự tại, hoặc muốn từ mắt, từ tai, tùy ý ra vào. Lại nhắm mắt, ngăn tai, mũi, miệng, hơi thở liền theo chín mươi vạn lỗ chân lông mà ra. Do đâu nhận biết hơi thở đã theo lỗ chân lông ra ngoài? Tỳ-kheo nầy vốn là tộc họ của vua, anh em hai người, người em đoan nghiêm, đẹp đẽ. Lúc ấy, vua cha băng hà, người anh tức nên nối ngôi. Người em tự cho mình là hơn, nên ngầm mong các quan suy cử. Nhưng phép nước theo lệ không được vượt thứ bậc, liền tôn người anh lên ngôi. Người em tâm không phục, không chịu xưng thần, tự cầu ra khỏi nước. Vua tức đồng ý. Lại cầu xin quân binh, vua cũng cho tự ý. Bèn tuyển chọn tám vạn voi lớn, trang bị áo giáp, đao kiếm, xong xuôi thì nghĩ: Nước nào là hùng mạnh nhất, ta muốn tiến đánh nước ấy. Nước Tỳ-xá-ly là quốc gia mạnh nhất trong các nước, nên đem binh đánh lấy, nhằm làm chỗ dùng cho mình. Người em liền dẫn quân binh tiến tới. Được nửa đường, khi đó, có năm trăm khách buôn đi tìm châu báu trở về, muốn đến nước Ma-kiệt, giữa đường thì gặp đoàn quân binh kia. Người em hỏi đám khách buôn: Người trong thiên hạ, về hình tướng, dung mạo, đã từng có ai hơn ta chăng? Các khách buôn liền cười. Vua em hỏi: Vì sao mà cười? Đáp: Là chúng tôi tự cười mà thôi. Lại hỏi: Cười chính là có ý gì? Vì sao không nói ra? Đáp: Vua nếu không giận, thì mới dám nói. Vua em bảo: Nên nói ra, hoàn toàn không giận các ngươi. Khách buôn nói: Tôi nghe có vương tử của vua Bạch Tịnh, tên là Tất-đạt, thân cao một trượng sáu, sắc thuần là vàng ròng, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Bấy giờ, vua em – tức là Ca-diên-na – nghe đám khách buôn nói như thế, tâm ý kinh sợ: Tất-đạt nếu biết ta đến đây, ắt sẽ hưng binh đón đường về hiện ra mà đánh. Tức thì cho quân binh dừng lại giữa đường, không dám tiến lên trước nữa. Người nước Tỳ-xá-ly nghe vua kia hưng binh kéo tới đánh nước mình, không thể tự yên tâm, nên đến thưa hỏi Phật: Làm sao để tai ương nầy được qua khỏi? Đức Phật bảo: Không khổ. Ta tự hóa giải. Đêm ấy, Đức Thế Tôn liền đi đến chỗ có quân binh hiện thần biến, ở trong hư không ngồi kiết già, ánh sáng như núi vàng tỏa chiếu khắp đại chúng. Ca-diên-na ngẩng đầu nhìn thấy, hỏi: Ông là người gì? Đáp: Ta là người mà đám khách buôn đã nói với ông đấy. Liền nói: Khách buôn đã dối ta. Vừa rồi họ không nói ông có thể phi hành, mà nay hiện bày phi hành nơi hư không. Ca-diên-na càng lo sợ vì có thể bị hại, nên chấp tay hỏi: Không rõ đến đây là muốn dạy bảo điều gì? Đức Thế Tôn đáp: Chớ nên sợ hãi! Ta không hại ông đâu. Ta gọi là Phật, luôn cứu độ tất cả. Ta có pháp cam lồ vi diệu, ông muốn nghe chăng? Đáp: Xin được nghe. Phật quán xét về căn của Ca-diên-na, nên theo pháp An ban mà được độ, liền vì Ca-diên-na nói về pháp giữ hơi thở ra vào, nhận biết hơi thở dài ngắn, ấm lạnh. Ca-diên-na nghe Đức Phật thuyết giảng, tâm liền tỏ ngộ, đắc quả Tu-đà-hoàn, liền giải tán quân binh, cầu làm Đạo nhân, Phật liền thâu nhận, nói: “Thiện lai Tỳ-kheo!”, tức thành Sa-môn. Lại tư duy về An ban, phân biệt về thân bốn đại, có ba mươi sáu vật bày rõ xấu ác, bất tịnh, tức thì đạt được quả vô lậu cực diệu. Thế nên gọi trong các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ma-ha Ca-diên-na là người hành An ban bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu-đầu-bàn là người luôn suy xét về ngã, vô thường bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy thường giữ hạnh cung kính. Nếu gặp các vị Trưởng lão, Sư phụ, thì thờ lạy. Hoặc gặp người trung niên thì kính xem như anh. Đối với người nhỏ tuổi thua mình thì yêu mến, xem như em. Luôn khiêm cung hết mực, nên thọ báo là thân tướng cao lớn, đẹp đẽ, được làm Tỳ-kheo hầu cận gần Phật. Tuy có hình tướng cao lớn nhưng không hề tự thị, luôn suy xét về thân vô ngã, vô thường, tuệ sáng thấu đạt, tâm dứt hết thị phi nên có thể bỏ hình tướng, diệt kiêu mạn, khiêm tốn đứng đầu. Do đâu nhận biết là hình thể cao lớn, đẹp đẽ? Thời gian Đức Phật mới thành đạo, hóa độ ba anh em ông Ca-diếp, có ngàn Tỳ-kheo. Du hóa đến nước Ma-kiệt, độ vua Bình-sa, sắp trở về bản quốc. Trước sai Ưu-đà-di báo cho vua Tịnh Phạn biết: Sau bảy ngày nữa, Đức Phật và đại chúng sẽ về thăm. Vua cha nghe tin ấy, vui mừng khôn xiết, liền ban lệnh chuẩn bị xe, ngựa, sửa sang đường sá bằng phẳng, quét dọn, rưới nước, đốt hương, để đợi Đức Như Lai. Đức Phật dẫn một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳkheo đi qua thành Ca-tỳ-la-vệ. Như Lai tâm niệm: Nay phụ vương tất sẽ tới nghênh đón, không thể khiến phụ vương vì tôn kính Phật mà thân phải cúi lạy. Nên hiện thần túc, bay lên không mà đi, cách mặt đất khoảng ngang đầu người, nhằm khiến tay của vua cha chạm vào chân Như Lai mà thôi. Sở dĩ như thế là vì Phật tuy đức quý, nhưng không muốn cha mẹ phải lễ lạy mình. Lúc nầy, Tỳ-kheo Ưu-đầu-bàn đứng bên phải Đức Như Lai, Lực sĩ Mật Tích đứng bên trái, thân Như Lai chỉ cao tới vai Tỳ-kheo nầy. Vua cha hỏi: Các vị hầu hai bên Phật là những người gì mà cao lớn như vậy? Đáp: Bên phải là Tỳ-kheo Ưu-đầu-bàn, bên trái là Kim cang Lực sĩ, quỷ Duyệt-xoa. Lại hỏi: Họ là người của những nước nào mà khác lạ như thế? Đáp: Là người nước Ma-kiệt. Lại hỏi: Đó là thân do thần túc hay là thân do cha mẹ sinh ra? Đáp: Là thân do cha mẹ sinh ra, không phải là thân thần túc. Những người họ Thích suy nghĩ: Thần đức của Đức Như Lai là không thể nghĩ bàn, mới khiến quỷ ác La-sát, người cao lớn hộ vệ hai bên. Do nhân duyên ấy, nên biết thân của Tỳ-kheo đó là cao thấp. Tỳ-kheo nầy hầu cận hai bên Đức Phật, luôn muốn ngăn che Như Lai. Chư Thiên, người đời do đấy đều lo. Như Lai có hai thứ thân: Một là Pháp thân. Hai là Nhục thân. Tỳ-kheo nầy chỉ yêu quý nhục thân sắc vàng ròng, không yêu quý Pháp thân vô lậu. Pháp của đệ tử thân cận là nên dặn dò, e bỏ mất Pháp thân, sẽ thiếu sót đối với vị lai. Do hai sự ấy nên Đức Như Lai đã mở bày để bằng Tôn giả A-nan.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Câu-ma-la Ca-diếp có thể luận bàn đủ loại: Vì Tỳ-kheo nầy thường vì mọi người diễn nói rộng về bốn đế. Lúc ấy, gồm luôn việc tán tụng, dẫn thí dụ để so sánh. Nêu một đế là một kệ tán rồi dẫn một dụ, cho đến bốn đế cũng đều như thế. Do đấy nên gọi là luận bàn xen lẫn bậc nhất. Câu-ma-la là trẻ thơ. Ca-diếp là họ. Câu-ma-la Ca-diếp tức là con trai của đồng nữ. Do đâu nhận biết như thế? Chuyện kể thời xưa có một Trưởng giả tên là Thiện Thí, giàu có vô lượng. Nhà có người con gái chưa xuất giá, một hôm ở nhà ngồi gần lửa, hơi nóng nhập vào thân bèn thành có thai. Cha mẹ kinh ngạc mới vặn hỏi về nguyên do. Cô gái thành thực thưa là không biết vì sao như vậy. Cha mẹ lại hỏi lần nữa và dùng gậy đánh đập, nhưng người con vẫn không đổi lời. Cha mẹ bèn tâu lên vua. Vua lại cật vấn, cô gái cũng thưa như đã thưa với cha mẹ không khác. Vua phán là sẽ giết chết, cô gái tức thì than oán: Thiên hạ đúng là đang có vua vô đạo, giết oan kẻ vô tội. Tôi nếu là bất lương thì tự có thể giữ lấy để tra xét lại. Thấy kẻ oan như thế, vua liền cho kiểm lại, trình lên như lời cô gái đã nói, không thêm bớt gì khác. Vua nói với cha mẹ cô gái: Ta muốn thâu nạp. Cha mẹ cô gái thưa: Tùy ý nhà vua thâu dụng đứa con gái đã chết ấy. Vua liền cho vào nội cung, tùy thời chăm sóc. Ngày tháng đã đủ, sinh được một bé trai, khôi ngô khác thường, theo thời gian khôn lớn, xuất gia học đạo, thông sáng rộng hiểu, tinh tấn không dừng, nên sau đấy đắc đạo A-la-hán trở về độ cha mẹ. Bấy giờ, có quốc vương tên là Ba Tiết, tin theo tà kiến điên đảo, không biết đời nầy đời sau, làm thiện được phước, làm ác nhận tai ương, cho chết thần thức diệt, không còn thọ sinh, không tin có Phật, không biết Niết-bàn. Vua dùng lá sắt lá đồng quấn quanh bụng, sợ trí tràn ra ngoài, khoe khoang, suy tính riêng tự cho là không ai bằng. Lúc nầy, Đồng Ca-diếp đi đến cửa hoàng cung. Vua thấy Ca-diếp y phục khác thường, bước đi ung dung, oai nghi chỉnh tề, bèn đến gần vấn an, bàn luận. Vua hỏi Đạo nhân: Đạo nhân thường nói: Làm thiện có phước, tạo ác phải nhận tai ương. Như nay trong tộc họ nhà tôi có một người hết lòng làm thiện, lúc lâm chung, tôi và nhiều người cùng đến đứng bên cạnh, nói với người kia: Như những việc ông đã làm thì sau khi qua đời phải được sinh thiên. Vậy nếu sinh lên cõi trời, ông phải trở về báo cho chúng tôi biết. Ông ấy chết đã lâu rồi, nhưng chẳng thấy trở về báo cho hay. Theo đấy tôi nhận biết làm thiện là không có phước. Đạo nhân đáp lời vua: Phàm là người trí thì nêu thí dụ tức tự hiểu. Ví như có một người bị rơi vào hầm nhà xí đầy phân dơ, được người kéo ra, tắm gội sạch sẽ xong, cho mặc y phục đẹp đẽ, dùng hương xông ướp thân, an tọa nơi giường cao. Có kẻ nói với người ấy: Ông nên trở lại trong hầm nhà xí ấy đi! Thế người đó có chịu vào chăng? Vua bảo: Không chịu. Đạo nhân nói: Người sinh lên cõi trời so với dụ cũng như vậy. Nơi cõi trời hoan lạc với năm dục tự mặc ý, dùng cam lồ làm thức ăn, ăn uống tự tiêu hóa không lo về đường bài tiết, thân thể thanh khiết, hơi miệng thơm tho, nhìn xuống thế gian cũng như chuồng trại nuôi heo, giả sử muốn đi đến, chỉ ngửi mùi hôi thối là liền quay trở về. Theo đấy mà nói thì sao có thể cùng báo cho biết? Thí dụ như thế đã so sánh nêu ra mười thứ sự, tâm ý của vua được mở bày, thông tỏ, tin nơi tam tôn. Do nhân duyên ấy, nên gọi Tỳ-kheo Đồng Ca-diếp có thể bàn luận nhiều loại bậc nhất.

Sở dĩ xưng Tỳ-kheo Diện Vương mặc y xấu rách, không hề xấu hổ. Có thể gọi là đã hành mười một hạnh Đầu-đà chăng? Hoặc có người nói: Không phải. Vậy do đâu cho là bậc nhất?

Tỳ-kheo ấy mặc một thứ y, trọn đời không đổi. Làm sao nhận biết việc đó? Tỳ-kheo nầy vốn là con cái thuộc họ Thích, lúc mới sinh có thần đức dị thường. Người mẹ khi mới mang thai, đã thỉnh Phạm-chí đến xem tướng. Phạm-chí bảo: Đứa bé nầy trên đầu có tướng “mũ trời”. Bà mẹ nghe Phạm-chí nói như thế thì vui mừng, nhưng giả vờ không vui, suy nghĩ: Phàm là “mũ trời” là tướng của vương giả. Trong một nước không thể có hai vua, sợ nhà vua sẽ hại đứa bé, do đấy nên không vui. Sở dĩ trong lòng vui vẻ vì nếu thật là bậc vương giả thì tự nhiên sẽ có che chở, đâu còn lo không ai cứu giúp. Ngày tháng vừa đủ, sinh được một bé trai, trên đầu có bóng của “mũ trời”. Lại thỉnh Phạm-chí đến đặt tên. Phạm-chí nói: Trên đầu có tướng vua, lại không thể lìa tướng ấy, nên đặt tên là Diện Vương. Vua Tịnh Phạn nghe được, tâm mang sầu lo: Đứa bé nầy có tướng vương giả, về sau tất đoạt ngôi vị của ta, nên như thế nào đây? Nếu muốn giết ngay thì tội không đáng chết, còn như muốn bỏ qua thì sợ tất sẽ đoạt ngôi ta. Do dự, lo buồn không thể tự an. Thời gian Đức Thế Tôn trở về thành Ca-tỳ-la-vệ, vua tuyên lệnh cho các gia đình họ Thích, nếu có anh em hai người phải khiến một người xuất gia hành đạo theo hầu Đức Phật. Đứa trẻ nầy lại chỉ có một, nên không thể khiến xuất gia trong số năm trăm nam tử họ Thích. Thế nên vua càng sầu lo. Năm Diện Vương được mười tuổi, tâm tự suy niệm: Giả sử là Chuyển luân Thánh vương cũng lại vô thường, lại không bằng những nam tử họ Thích đã xuất gia hành đạo. Thân người khó được, Phật xuất hiện ở thế gian khó gặp. Thốt nhiên được gặp ra đời, phải nên xuất gia học đạo. Liền thưa với mẹ: Con muốn xuất gia hành đạo. Mẹ bảo: Mẹ chỉ có một mình con, nếu bỏ mẹ đi xuất gia thì mẹ sao sống nổi. Diện Vương bèn tâu với vua Tịnh Phạn: Con muốn xuất gia, vua sẽ cho phép chăng? Vua Tịnh Phạn hoan hỷ bảo: Rất nên như thế. Diện Vương thưa: Tự xét chỉ một mình, nếu xuất gia thì mẹ không ai nương cậy. Lấy đó làm buồn! Vua nói: Con nếu có thể xuất gia, ta sẽ xem mẹ của con như chị gái, phân nửa nước để cung cấp. Diện Vương hoan hỷ, liền trở về nhà thưa lại với mẹ mọi sự việc, mẹ tức đồng ý. Lúc sắp xuất gia, Diện Vương mặc một lớp y phục bằng dạ trắng, đi tới chỗ Đức Thế Tôn xin được xuất gia. Đức Phật bảo: “Thiện lai Tỳ-kheo!”, liền thành Sa-môn. Phật chế Tỳ-kheo có ba y. Tỳ-kheo Diện Vương nầy tự tay nhuộm y phục dạ trắng ấy, dùng làm cà-sa, ngoài ra đều không dùng y khác. Bạch Phật: Đệ tử chỉ muốn trọn đời mặc một y nầy, xin Đức Thế Tôn cho phép. Đức Phật im lặng chấp thuận. Từ đấy trở đi, luôn mặc một y ấy, nên Đức Thế Tôn nói: Trong số các đệ tử của Ta, người mặc y xấu, rách, không ai hơn Tỳ-kheo Diện Vương. Ở trong tám điều suy niệm của bậc Đại nhân, vị ấy là người thiểu dục, tri túc bậc nhất.

Sở dĩ gọi La Vân là người trì giới, không hủy phạm. Hoặc có người nói: La Vân vui thích nói dối, vì sao bảo là trì giới? Hoặc có người nói: La Vân không nói dối, chỉ là tự giận Đức Phật. Do đâu giận Phật? Do Phật không làm Chuyển luân Thánh vương. Nếu làm Thánh vương sẽ có tám vạn bốn ngàn đại thần, tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, voi, ngựa, xe cộ, mỗi sự đều có tám vạn bốn ngàn. Bỏ ngôi vị như thế mà làm Sa-môn, hành khất khắp chốn đây đó, không đáng xấu hổ sao? Vì xét cái lợi của Thánh vương, nên La Vân giận trách Đức Như Lai, tạo nói dối.

Có người hỏi La Vân: Đức Như Lai hiện ở đâu? Như Lai thật sự đang ở tại Tinh xá Kỳ Thọ, nhưng La Vân đáp: Ở tại vườn Trú Ám. Thật sự đang ở tại vườn Trú Ám thì nói dối là ở tại Kỳ Viên. Vọng ngữ thường xuyên, lừa dối người lui tới. Tôn giả A-nan bạch Phật: La Vân vọng ngữ. Phật cho gọi La Vân tới, hỏi: Con thật có vọng ngữ chăng? La Vân thưa: Thật có. Đức Phật bảo: Nầy La Vân, vì sao con lại tạo vọng ngữ như thế? Ta sở dĩ bỏ ngôi vị Thánh vương là vì ngôi vị ấy không thể làm nơi chốn nương dựa, đều quy về vô thường, không trường tồn. Cho dù là Đế-thích, Phạm vương đều cũng không thể giữ lấy mãi, huống chi là Thánh vương mà có thể dựa cậy mãi được sao? Nầy La Vân! Ta trước sau đã xả bỏ ngôi vị ấy là không thể tính kể, mà con thì chỉ mới buồn giận! Đức Phật bảo La Vân: Con đi lấy nước đem lại đây. La Vân liền múc đầy bát nước trao cho Như Lai. Đức Phật bưng lấy bát nước, nói với La Vân: Con thấy nước nầy chăng? Thưa: Đã thấy. Đức Phật nói: Nước nầy hiện đầy nơi bát không thiếu, giảm, dụ cho việc trì giới đầy đủ, không giảm, mất. Đức Phật đổ bớt một nửa nước trong bát, nói với La Vân: Con thấy nước nầy chăng? Thưa: Đã thấy. Đức Phật bảo: Nước nầy đã mất một nửa, dụ cho giới không đầy đủ. Lại đổ hết nước trong bát ra ngoài, chỉ cho La Vân thấy và hỏi: Con thấy bát không chăng? Thưa: Đã thấy. Đức Phật bảo: Phạm giới hoàn toàn, dụ như bát không. Lại đem bát úp lên đất, chỉ cho thấy, bảo: Con thấy chăng? Thưa: Dạ thấy. Đức Phật dạy: Người đã phạm giới hoàn toàn sẽ bị đọa nơi địa ngục, dụ như miệng bát áp sát nơi đất. La Vân từ khi được Đức Phật khuyên dạy trở về sau, chưa từng phạm lần nữa, dù là mảy may, thế nên gọi là trì giới bậc nhất.

Hoặc nói: Lại còn có sự việc khác. Tôn giả Thân Tử (Xá-lợiphất) dẫn La Vân vào thành Xá-vệ khất thực. Lúc ấy, có Bà-la-môn thấy La Vân đi sau, liền khởi ý ác đánh vào đầu La Vân, máu chảy ướt cả mặt. La Vân tức sinh niệm ác: Quyết phải tạo phương tiện để báo oán nầy. Tôn giả Thân Tử nhận biết tâm niệm vừa sinh của La Vân, liền lau sạch máu nơi đầu mặt của La Vân, rồi bảo: Nên nhớ nghĩ đến cha mình là Đức Thế Tôn, thời xưa, lúc làm vua Tu Niệm, có kẻ tới xin mắt, liền móc mắt thí cho, cũng không hối hận. Khi tọa thiền trong vườn, bị vua chặt đứt tay chân, cũng không khởi giận. Hoặc lúc làm voi, lấy ngà cho người, cũng không chán mệt. Nay con vì sao lại khởi niệm ác ấy? La Vân nghe thầy nói như thế, liền tự trách mình: Ta nay vì sao lại có tâm ác hướng tới kẻ kia? Tức hành nhẫn như đất, không hề khởi tâm hại, dù chỉ là mảy may. Bấy giờ, kẻ đánh vào đầu La Vân bị đọa vào địa ngục Vô Trạch. Do nhân duyên như trên, nên biết La Vân là trì giới bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bàn-tha có thể ẩn hình không hiện: Vì Bàntha nghĩa là đạo (đường đi). Có hai đứa bé song sinh đem bỏ nơi đường đi, được người nhận lấy đem về nuôi đến khôn lớn, đều xuất gia học đạo. Không có người đặt tên cho, nên mang tên là “Sinh nơi đường đi”, tiếng Ấn Độ gọi là Bàn-tha. Bấy giờ, nước Ma-kiệt thường hay có sấm sét, mưa dữ dội, năm thứ lúa thóc bị mất mùa. Vua tên là Tần-đầu-đồ-la, là tổ phụ của vua A-xà-thế, chiêu mộ khắp bốn phương, nói: Người nào có thể đẩy lùi được mưa dữ, vua sẽ ban tặng nhiều tài sản, châu báu. Lúc ấy, có Bà-la-môn tên Phạm-chí, giỏi về chú thuật, đến ứng mộ, thưa: Tôi có thể đẩy lùi mưa gió dữ. Vua liền chấp thuận, khiến hiện bày pháp thuật làm dứt mưa. Khi đó, thời tiết điều hòa, lúa thóc được mùa lớn, Phạm-chí tâu vua xin trả công cho việc đẩy lùi mưa gió dữ. Vua tuy miệng hứa nhưng rốt cuộc không ban tặng gì cả. Các quan, dân chúng thấy vua không giữ lời hứa, họ đều hứa báo đáp. Gia cảnh của Phạm-chí thiếu hụt, nên thường đến từng nhà để cầu xin. Nhiều nhà không cho nên cầu xin khắp đều không được. Phạm-chí rất tức giận, thề làm Rồng độc, để phá hoại lúa má, hoa màu của con người: Nếu có kẻ nào gieo trồng năm thứ lúa thóc, hoa màu, lúa má tươi tốt, thì sẽ hiện mưa đá giội xuống, tàn hại, khiến cho gốc, cành, thân, lá đều ngã rạp, tan tác. Thế rồi thì mạng chung liền sinh trong loài Rồng, tên là Vô Diệp.

Bấy giờ, dân chúng nước Ma-kiệt gieo trồng lúa mạ vừa mọc, Rồng liền tuôn mưa đá làm hại. Như thế, trải qua mấy năm, dân chúng mất mùa, đói khổ, số người chết càng nhiều. Đức Phật thương xót, muốn hóa độ Rồng ấy, liền dẫn Mật Tích, A-nan, Bàn-tha, đi tới nước Câu Trì, tới thẳng chỗ trú của Rồng. Rồng độc thấy Phật tới, tâm ác dấy khởi, nói: Nay sẽ tuôn mưa đá sát hại Sa-môn nầy. Bèn mưa xuống toàn đá núi. Đức Phật quay sang bên trái nhìn Mật Tích. Mật Tích nhận biết ý Phật, tức dùng chày kim cang hướng tới đỡ lấy, khiến chúng rơi xuống thành núi đá lớn, lấp đầy vực sâu của Rồng. Rồng càng phẫn nộ, lửa từ trong mắt túa ra. Đức Phật quy sang bên phải nhìn Tỳ-kheo Bàn-tha, Tỳ-kheo Bàn-tha nhận biết ý Phật, muốn hàng phục Rồng, liền dùng thần túc ẩn hình, lấy nước dập tắt lửa từ mắt Rồng. Rồng lại từ trong tai, mũi, miệng tuôn ra lửa dữ, Bàn-tha cũng dùng nước dập tắt hết. Tỳ-kheo lại dùng thần lực, ở trong mắt tai mũi miệng của Rồng lần lượt ra vào, nhưng Rồng không thấy. Ẩn hình bên trong, lại hiện tay ra bên ngoài. Rồng thấy những biến hiện ấy, tức liền tâm phục. Đức Phật lại cùng với ba người kinh hành lui tới nơi phía trước. Trên đá có dấu vết của bốn người, nhưng chỉ có ba người hiện, Rồng liền thưa hỏi Phật còn một người hiện ở đâu. Đức Phật bảo: Là dấu vết của thầy ngươi. Lại hỏi: Thầy tên là gì, nay sao không hiện? Đáp: Tên là Bàn-tha. Phật muốn Bàn-tha hiện ra nơi xa. Tỳ-kheo nầy nhận biết ý Phật, liền hiện hình cách một trăm bước, Rồng từ xa trông thấy, hoan hỷ đảnh lễ. Phật bèn trao pháp Bát quan trai cho Rồng, từ đấy trở đi, gió mưa hòa thuận, mùa màng luôn được, muôn dân an ổn. Do nhân duyên như trên, nên biết Bàn-tha hiện thần túc ẩn hình là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Chúc-lợi-bàn-tha có thể hóa hiện hình tướng, tạo từng ấy biến hóa: Vì Chúc-lợi nghĩa là rất tối tăm. Tỳ-kheo nầy tâm ý chậm, tối. Đức Phật dạy tụng hai chữ: Tảo chửu (Dùng chổi quét dọn) nhớ được chữ trước thì quên chữ sau, nhớ được chữ sau thì quên chữ trước. Trong sáu năm chuyên tâm tụng hai chữ ấy, ý bèn tỏ ngộ, tự lý giải: Chửu là cây chổi. Chửu là trừ bỏ. Cây chổi là dụ cho tám chánh đạo. Phân rác là cấu uế của ba độc. Dùng tám cây chổi chân chánh để quét trừ cấu uế của ba độc. Gọi là ý nghĩa của “Tảo chửu”, chính là như thế chăng? Nghĩ sâu về lý ấy, tâm tức mở bày, đắc quả A-la-hán.

Gọi là hóa hiện hình tướng: Là dùng diệu tuệ của bốn đế hóa hiện hình tướng năm ấm. Nếu như có hóa hiện nầy, lại còn có trường hợp khác. Chuyện kể, có một Bà-la-môn tên là Phạm-thiên, cũng gọi là Thế Điển. Sở dĩ gọi là Thế Điển, vì người ấy xem rộng khắp các thứ sách vỡ, đồ tượng, bí sấm. Thiên văn, địa lý, không gì là không tham cứu, hành tập. Vì vậy gọi là Thế Điển. Tự cho là đức cao, mạng ở trên, là chủ mà đi, ai có thể cùng ta bàn luận, tranh luận? Nghe trong số các Tỳ-kheo họ Thích, kém nhất có Chúc-lợi-bàn-tha, trong đám Ưu-bà-tắc, kém nhất có Cù-mật-đa-la, Thế Điển bảo: Ta sẽ cùng với hai người nầy cùng luận bàn. Liền đi tới chỗ Bàn-tha nhằm cùng bàn luận, nói với Tỳ-kheo kia: Có thể cùng với tôi tranh luận chăng? Bàn-tha nói: Ta hãy còn có thể cùng với tổ phụ của ông là Phạmthiên cùng tranh luận, huống chi ông là kẻ mù không mắt. Phạm-chí liền dựa theo lời nói hỏi vặn: Người mù và không mắt có những gì khác nhau? Bàn-tha im lặng không đáp, tâm niệm: Không dùng ngôn từ để cùng đối đáp. Nên dùng thần túc để cùng đáp. Liền dùng thần túc bay vụt lên hư không, cách mặt đất bốn trượng chín thước, ngồi kiết già. Phạm-chí ngẩng đầu nhìn thấy Bàn-tha hiện thần biến, trong lòng phát khởi tình cung kính, mong được đối đáp giản lược. Lúc nầy, Tôn giả Xá-lợi-phất đang kinh hành bên ngoài Tinh xá Kỳ-hoàn, dùng thiên nhĩ nghe Phạm-chí cùng với Bàn-tha tranh luận, biết là Tỳ-kheo kia ngôn từ không đủ, nên đã hiện thần biến để đáp lại, liền nghĩ: Ta nếu không đến nơi, Tỳ-kheo kia phải chịu thua, Phạmchí không được độ. Tức thì dùng thần túc hiện thành hình Bàn-tha, khiến hình gốc của Bàn-tha không hiện. Hình hóa hiện hỏi Phạm-chí: Ông là trời hay là người? Đáp: Là người. Lại hỏi: Người, là nam tử chăng? Đáp: Là nam tử. Lại hỏi: Nam tử cùng với người có những gì khác nhau? Đáp: Không khác. Lại hỏi: Người là tên gọi được hợp lại. Nam tử là căn cứ theo hình tướng mà nói, sao cho là không khác? Ông vừa nói người mù, tức là không thấy đời nay đời sau có báo của thiện ác. Còn người không mắt tức là không có mắt trí tuệ để đoạn trừ kiết sử. Phạm-chí nghe biện giải như thế, tâm ý thông tỏ, liền được pháp nhãn thanh tịnh. Do nhân duyên như trên, nên biết Chúc-lợibàn-tha là biến hình bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Thích Vương thuộc tộc họ giàu sang, thiên tánh hòa nhã, dịu dàng: Vì chủng tánh gồm có bốn: Sát-đế-lợi, Bàla-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Sở dĩ nói sang: Vì do làm Sa-môn, đồng một họ Thích, do đấy gọi là sang. Ví như bốn sông Hằng: Miệng bò, miệng sư tử, miệng ngựa, miệng voi, mỗi dòng đều có năm trăm nhánh, hội nhập vào biển lớn, cùng là một loại nước, không có từng ấy vị khác nhau, nên biển được gọi là lớn, là rất quý đối với trăm sông. Họ Thích cũng như thế, nên gọi là hào quý bậc nhất.

Vua Chân Tịnh (Tịnh Phạn) có ba người em trai: Người em nhỏ nhất tên là Ngộ Tịnh, có đứa bé trai được bốn tuổi. Bấy giờ, vua Chân Tịnh đang ngồi tại cung điện chánh, họp trăm quan, vua tự suy nghĩ, nói: Con trai ta nếu không xuất gia, ta phải nên làm Thánh vương. Con trai ta đã sinh, phải nên làm Thánh vương, nhưng lại xuất gia rồi, ta còn dùng mũ “Thiên quan” nầy làm gì. Liền cởi mũ Thiên quan ném xuống đất, bảo: Có người nào nên làm thì làm. Các quan buồn bã, áy náy, tâm đều không vui. Lúc nầy, đứa bé trai con của Ngộ Tịnh, là Thích Vương đang dạo bước ở phía trước, trông thấy mũ Thiên quan nơi đất, liền cầm lên đội vào đầu, ngồi yên trên đất, dùng tay trái đỡ vai, tay phải xoa vuốt các tua nơi mũ. Vua Chân Tịnh cùng các quan đều ngạc nhiên, cho là lạ. Vì thế vua nói: Đứa bé nầy đúng là thiên sứ, hoặc có thể làm Thánh vương. Tướng Thánh vương của con trai ta đều thuận có nơi đứa bé nầy, nên mới khiến như thế. Các quan đều cùng tâu: Hoặc có thể như đại vương đã nói. Vua nghĩ ngợi, bảo: Tất-đạt đã xuất gia, lại thấy tướng của đứa bé nầy. Tức tự phế bỏ ngôi vua. Trải qua tám năm, nghe Tấtđạt đã thành Phật, hóa độ ba anh em ông Ca-diếp, đám đệ tử của ba người nầy được một ngàn Tỳ-kheo. Lại độ Ưu-ba-đề-xá, Câuluật-đà, môn đồ của hai vị nầy được hai trăm năm mươi người, hợp thành một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, từ nước Ma-kiệt, muốn trở về Thích-sí-xá, trước sai Ưu-đà-di về thưa lại mọi tin tức. Vua Chân Tịnh nghe tin thì vô cùng hoan hỷ, liền đội mũ Thiên quan trở lại, cho người sửa sang đường sá thêm bằng phẳng, quét dọn, đốt hương để đón Đức Như Lai. Đức Phật đã về tới nơi, vua thấy các Tỳ-kheo, tuy tâm ý tinh thuần, nhưng dung mạo không được hiện rõ, nên đã cho tuyển chọn năm trăm người thuộc họ Thích, hình tướng đoan nghiêm, xuất gia làm Sa-môn, theo hầu Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Thích Vương là người có mặt trước nhất trong số ấy. Khi đó, Đức Phật ở tại Tinh xá, đại chúng vây quanh. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Luận khắp về chúng tánh, nên có ý tưởng về hào quý. Vua Chân Tịnh cũng đến đứng trong đại chúng hướng về Tỳ-kheo Thích Vương làm lễ. Các Tỳ-kheo đều ngạc nhiên về sự việc ấy. Đức Phật nhận biết ý của vua cha, muốn giải điều nghi của đại chúng, nên hỏi vua cha: Vì sao phụ vương lễ Tỳ-kheo nầy? Vua đáp: Sở dĩ lễ là do Tỳ-kheo nầy có hai việc hơn ta. Phàm là thiên (trời) có ba: Cử thiên, Sinh thiên và Thanh tịnh thiên. Ta chỉ có Cử thiên, Tỳ-kheo nầy còn có Sinh thiên, Thanh tịnh thiên. Sở dĩ nói Sinh thiên, là do lúc mới bốn tuổi, đã cầm mũ Thiên quan của ta đội lên đầu mình, ý tự nhiên sinh, không có người trao cho, nên gọi là Sinh thiên. Thanh tịnh thiên là nay đã lậu tận, kiết tận, không còn phiền não cấu nhiễm, nên gọi là Thanh tịnh thiên. Do hai việc nầy hơn ta, nên ta làm lễ. Do nhân duyên như thế, nên biết Tỳ-kheo Thích Vương thuộc tộc họ hào quý bậc nhất.

Pages: 1 2 3 4 5