LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC
Hán dịch: Mất tên người dịch. Nay dựa vào bản sao chép đời Hậu Hán
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Đức Như Lai sở dĩ đã rộng vì bốn bộ, mỗi mỗi bộ đều nói về bậc nhất, chính là vì trong pháp để lại cho đời cuối của thời vị lai, hoặc có bốn chủng tánh, Phạm-chí ngoại học và bốn chúng đệ tử, cùng nêu bày về thị phi, tự cho là tôn quý, người khác là thấp kém. Những hạng, loại như vậy là không thể tính kể. Thế nên, cần dự phòng cho việc chưa xảy đến ấy, phải mở ra con đường tự biết đủ.

Nay gọi A-nhã-câu-lân là bậc nhất, vì vị ấy thuộc hàng hào tộc của giòng họ Thích, được vua chọn sai theo hầu Thái tử Tất-đạt-đa, công sức khó nhọc đã được báo đáp, nên xếp là bậc nhất. Lại, buổi đầu giáo hóa, việc thọ nhận chánh pháp, không ai có thể được chọn trước hơn mình, cũng là bậc nhất, vì khéo có thể khuyến khích, dẫn dắt, nuôi dưỡng Thánh chúng. Là người nhận lời khen “Thiện lai!” trước tiên, nên lại là bậc nhất. Vì chỗ quy ngưỡng trong loài người, Già-gia-việt là hơn hết. Trong ánh sáng thì ánh sáng của mặt trời là hơn hết. Trong hàng tinh tú thì trăng là hơn hết. Nơi vạn dòng sông thì biển là hơn hết. Trong bốn Thiên vương thì Thiên vương Đề-đầulại là hơn hết. Nơi cõi trời Tam Thập Tam, Thích-đề-hoàn-nhân là hơn hết. Trong sáu cõi trời thuộc Dục giới, Ba-tuần được xem là hơn hết. Nơi mười tám cõi trời thuộc Sắc giới, thì Tịnh Cư là hơn hết. Trong chín mươi sáu bộ Tăng, Tăng chúng của Đức Thích-ca là hơn hết. Nơi chín mươi sáu thứ đạo, Phật đạo là tối thượng. Trong số năm người như Tỳ-kheo A-nhã-câu-lân v.v…, thì Tỳ-kheo ấy là hơn hết. Do đấy nói A-nhã-câu-lân là bậc nhất.

Tỳ-kheo Ưu-đà-di, về việc khuyến khích, dẫn dắt là hơn hết. Tỳ-kheo đều làm công việc khuyến khích, dẫn dắt, sở dĩ gọi là hơn hết, vì Đức Phật sắp trở về hóa độ dân chúng ở quê hương, Tỳ-kheo Ưu-đà-di được Đức Thế Tôn sai hiện thần biến trước tiên, cùng với vua Tịnh Phạn đối đáp, mỗi mỗi đều giải thích, số người được độ trong lần nầy là vô số, nên nói về việc khuyên dẫn là hơn hết.

Tỳ-kheo Ma-ha-đàm, là hạng lợi căn, mẫn tiệp. Các Tỳ-kheo khác đều lậu dứt hết, rồi thành tựu thần thông. Tỳ-kheo nầy thì lậu chưa dứt hết mà đã thành tựu thần thông, nên gọi là bậc nhất.

Phàm đi lại nơi hư không đều do thần túc. Tỳ-kheo nầy có thể đi trên không như đi nơi đất, đó là khả năng của Tỳ-kheo Thiện Chửu, nên xưng là bậc nhất.

Thần túc của Tôn giả Mục-liên im lặng đi đến cõi khác. Thần túc của Tỳ-kheo Bà Phá vượt qua hư không, tiếng tăm chấn động xa gần, có thể thâu phục ngoại đạo, nên gọi là bậc nhất.

Tỳ-kheo Ngưu Cước, do hai việc, nên không được ở nơi thế gian. Vì sao? Vì Tỳ-kheo nầy có đôi chân giống như chân bò. Ăn no thì phải nhai lại. Nếu Phạm-chí của ngoại đạo trông thấy Tỳ-kheo đang nhai lại tức cho là Sa-môn ăn uống không có giờ giấc, sinh tâm phỉ báng. Do đấy, Phật sai lên cõi trời, tại giảng đường Thiện Pháp tọa thiền, nhập định. Tỳ-kheo Thiện Giác thường được chúng Tăng cử lên cõi trời. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả Ca-diếp đánh kiền chùy tập hợp toàn bộ chúng Tăng, sai Tôn giả A-na-luật quán khắp thế giới xem ai không vân tập tới. Tôn giả A-na-luật liền quán khắp, chư vị đều đến cả, chỉ có Tỳ-kheo Kiều-tu-hoàn hiện còn ở tại cõi trời. Tôn giả Ca-diếp bèn sai Tỳ-kheo Thiện Giác lên triệu về. Thiện Giác đến cõi trời Ba Mươi Ba, thấy Tỳ-kheo ấy đang nhập định diệt tận tại giảng đường Thiện Pháp, liền búng ngón tay đánh thức, bảo: Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn đã mười bốn ngày, Tôn giả Ca-diếp tập hợp đại chúng, sai tôi lên đây thỉnh thầy về lại thế gian, cùng đại chúng tập hội. Kiều-tu-hoàn nói: Thế gian đã là không, ngã pháp làm sao có? Không chịu trở về thế gian, muốn nhập Niết-bàn, tức đem y bát giao cho Thiện Giác, trở về với chúng Tăng, còn mình thì Bát-Niết-bàn. Do nhân duyên ấy là khéo ở nơi cõi trời, nên gọi là bậc nhất.

Tỳ-kheo Thiện Thắng vốn là con của gia đình quý tộc, lúc mới sinh tự nhiên có giày vàng mang nơi chân mà sinh. Cha mẹ yêu quý vô cùng, vì con dựng lầu gác hợp ba mùa, kỹ nữ vui chơi không lúc nào rời. Bấy giờ, người vợ ngủ say, Thiện Thắng trông thấy hàm răng trắng, thân hình tuy đẹp nhưng chỉ là xương da. Quán đầy đủ về những thứ lộ rõ mọi xấu ác, thốt nhiên rợn người, quay nhìn lâu đài nhà cửa giống như chốn mộ địa. Kinh hãi chạy ra khỏi cửa, hai vị thần nghinh tiếp. Hỏi hai vị thần: Hiện tại, ai có thể cứu vớt để trừ bỏ ách nạn nầy? Hai vị thần đáp: Chỉ có Đức Thế Tôn là hoàn toàn có thể cứu độ ách nạn. Thiện Thắng hỏi: Đức Thế Tôn hiện đang ở đâu? Đáp: Ở tại Kỳ-hoàn, gần đây thôi, có thể tới đó thưa thỉnh. Cầu tìm ánh sáng nên đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ nơi chân Phật. Đức Thế Tôn nhân nơi bản tâm, vì Thiện Thắng diễn nói pháp diệu, tức thì tâm mở, lậu dứt, kiết tan. Do nhân duyên nầy, nên Tỳ-kheo Thiện Thắng là người quán xét về các chốn hiện rõ sự xấu ác, bậc nhất.

Ưu-lưu-tỳ Ca-diếp sở dĩ được gọi là bậc nhất: Vì từ nơi đời trước đến nay, anh em ba người luôn có một ngàn đệ tử cùng theo. Nay gặp Phật Thích-ca-văn xuất hiện ở đời, Đức Phật dùng mười tám thứ thần biến để độ Ca-diếp và ngàn người. Đại chúng của Phật được thành, bốn sự cúng dường cũng từ đây mà hưng thịnh. Theo đấy mà nói, Ưu-lưu-tỳ Ca-diếp có thể sắp xếp, hộ trì việc cúng dường Thánh chúng, là bậc nhất.

Giang Ca-diếp sở dĩ được gọi là bậc nhất: Vì khi Đức Phật thuyết pháp, ông luôn nhất tâm lắng nghe, thọ nhận, tinh nghĩa nhập thần, các kiết dứt hết, đức thật bên trong sung mãn, vì thấu triệt phần cốt lõi, nên sự tinh túy hiện ra bên ngoài, giống như đổ mồ hôi. Do đó mà nói, tâm ý vắng lặng, có thể hàng phục các kiết, nên gọi là bậc nhất.

Tỳ-kheo Mã Sư theo Phật thọ học, mới trải qua bảy ngày liền đạt đủ oai nghi. Sắp vào thành Tỳ-xá-ly khất thực, nơi bên ngoài cửa thành gặp Ưu-ba-đề-xá. Từ xa, Ưu-ba-đề-xá trông thấy Tỳ-kheo Mã Sư oai nghi thư thái, ung dung, pháp phục chỉnh tề, trong tâm rất vui thích. Gặp nhau, Ưu-ba-đề-xá hỏi: Anh là người gì? Đáp: Tôi là Sa-môn. Hỏi: Anh là do tự mình nhận biết, hay có thầy dạy? Đáp: Có thầy dạy. Hỏi: Thầy anh tên là gì, giảng nói pháp như thế nào? Đáp: Thầy tôi tên là Thích-ca-văn, là bậc trời trong các trời, tôn quý bậc nhất trong ba cõi. Chỗ chỉ dạy của Thầy tôi lấy không, giải thoát làm chính. Dứt tâm đạt gốc, nên gọi là Sa-môn. Ưu-ba-đề-xá nghe những diệu ngữ, liền đạt “Dấu vết đạo” (Dự lưu). Đề-xá đồng học với Câu-luật-đà, cả hai vốn có thệ ước: Nếu người nào được pháp cam lồ trước thì cùng báo cho nhau. Đề-xá liền từ giã Mã Sư, đi đến chỗ Câu-luật-đà. Câu-luật-đà thấy bạn tới, sắc diện có vẻ khác thường, ngờ là đã được cam lồ, liền hỏi: Được pháp cam lồ chăng? Đáp: Được rồi. Hỏi: Cam lồ như thế nào? Đáp: Cam lồ là đạt được các pháp không, giải thoát. Câu-luật-đà tư duy, lại đắc “Dấu vết đạo”.

Tỳ-kheo Mã Sư sở dĩ có oai nghi bậc nhất: Là do trong năm trăm đời trước làm khỉ, vượn, nay được làm người, tánh vẫn còn nóng nảy, vội vã. Xuất gia bảy ngày liền thay đổi tận gốc. Học tuy cạn, ít, nhưng khéo nêu bày giáo pháp tôn quý, khiến kẻ ở trước mình trông thấy thì mặt vui, hiểu đạo, dùng oai nghi để cảm hóa khiến tỏ ngộ, nên xưng là bậc nhất.

Tôn giả Thân Tử (Xá-lợi-phất) sở dĩ xưng là trí tuệ bậc nhất:

Vì như Đức Thế Tôn đã nói: Muốn nhận biết trí tuệ của Thân Tử nhiều ít, thì dùng núi Tu-di làm nghiên mài mực, nước của bốn biển lớn làm nước mực để biên chép, dùng gỗ tre trong bốn châu thiên hạ làm bút viết, toàn bộ số người có trong bốn thiên hạ ấy làm thầy viết, nhằm biên chép về trí tuệ của Thân Tử, cũng hãy còn không thể hết, huống chi là hàng phàm phu, hàng năm thông mà có thể lường tính.

Tôn giả Mục-liên sở dĩ gọi là thần túc bậc nhất: Vì Đức Thế Tôn cũng nói có chứng: Ngày trước, vào lúc ba tại họa hoành hành khắp, dân chúng hầu hết bị đói, Tôn giả Mục-liên tâm niệm: Bên dưới mặt đất nầy, từ xưa đã có sẵn một lớp đất mầu mỡ ở giữa. Nay dân chúng đói kém, ý muốn lật ngược mặt đất nầy để lấy lớp đất béo bên dưới, dùng cung cấp nuôi sống cho dân chúng. Suy nghĩ như thế rồi, Tôn giả đến bạch Phật, thưa lại ý định của mình, xin Đức Phật cho phép. Đức Thế Tôn nói: Thôi thôi! Thần túc của Tôn giả tuy có thể lật ngược mặt đất nầy không khó, nhưng trong ấy còn có vô số chúng sinh bé nhỏ. Tôn giả Mục-liên thưa: Con có thể dùng một tay nắm giữ các loài trùng, một tay thì lật ngược mặt đất. Đức Phật bảo: Không thể. Sở dĩ như thế là vì Tỳ-kheo nơi đời sau phần nhiều không có thần túc. Giả như vào đời sau, khi có nạn đói, Quốc vương, các quan, dân chúng nhờ các Sa-môn lật ngược mặt đất, nếu họ không thể làm được, sẽ cho không phải là Sa-môn. Dùng thần túc ấy làm chứng cớ, nên gọi Tôn giả Mục-liên là bậc nhất.

Tỳ-kheo Nhị Thập Ức Nhĩ sở dĩ xưng là khổ hạnh bậc nhất: Vì ngày trước, tại nước Chiêm-ba có vị Đại Trưởng giả sinh được một bé trai, khôi ngôi, tuấn tú, dưới bàn chân có lông dài bốn tấc, chân chưa từng đạp đất. Sở dĩ dưới bàn chân sinh lông như thế là vì về thời quá khứ xa xưa, lúc Đức Phật Ca-diếp xuất thế, đứa bè nầy là một Đại Trưởng giả, tài sản, châu báu vô số, đã vì chúng Tăng xây dựng Tinh xá, giảng đường, xong xuôi thì dùng vải dệt bằng lông mịn trải khắp các phòng, khiến chúng Tăng đi lên trên. Do nhân duyên ấy nên có được phước tướng dưới bàn chân sinh lông.

Sở dĩ có tên là Nhị Thập Ức Nhĩ: Là vì lúc sinh ra tự nhiên trong lỗ tai sinh ngọc báu, trị giá hai mươi ức, nên lấy đó đặt tên. Bấy giờ, vua Bình-sa nghe điều kỳ lạ, muốn được trông thấy nên sai sứ cho triệu Ức Nhĩ yết kiến vua. Đường dài, đi xe phải mất mười lăm ngày mới tới, sắp sửa xuống xe, liền có vải dệt bằng lông mịn trải khắp đất, sau đó, Ức Nhĩ đi lên trên. Đã đến cung vua, vua bảo an tọa, hỏa thăm về công việc đi đường, nghe có thể sử dụng đàn, tức lệnh cho Ức Nhĩ đánh đàn. Vui vẻ xong, vua và Ức Nhĩ cùng đến chỗ Đức Phật. Lúc nầy, Đức Thế Tôn đang vì đại chúng diễn nói pháp diệu. Ức Nhĩ thấy Phật, tâm ý hoan hỷ, đầu mặt đảnh lễ nơi chân Phật. Phật cho phép ngồi yên. Ức Nhĩ nghe pháp rất vui thích, liền cầu xuất gia. Phật chấp thuận theo chí hướng ấy, tức làm Sa-môn. Ức Nhĩ tinh tấn dũng mãnh, kinh hành không chút biếng trễ, da thịt như mềm nhũn, bên dưới bàn chân nứt nẻ, máu túa ra, nơi chỗ kinh hành máu đọng thành bùn. Tu tập đã lâu, nhưng lậu vẫn chưa trừ diệt. Tâm sinh biếng, mệt, nên muốn trở về đời sống bạch y. Suy nghĩ: Nhà mình tiền của mặc ý tiêu dùng, rộng làm phước đức cũng tránh khỏi ba đường ác. Đức Thế Tôn nhận biết tâm niệm của Ức Nhĩ, hốt nhiên từ nơi đất vọt lên, hiện ra trước mặt Ức Nhĩ, hỏi: Ông vốn biết đành đàn, vậy lúc chơi đàn các dây đàn thẳng quá hoặc chùng quá thì có thể tạo thành khúc nhạc hay chăng? Ưc Nhĩ thưa: Không thành. Nếu các dây đàn không thẳng quá, không chùng quá, phím đàn tương hợp thì khúc nhạc hay được thành, âm thanh thánh thót chăng? Đáp: Dạ, đúng vậy. Đức Phật dạy: Hành đạo cũng như thế, không quá gấp vội, cũng không quá chậm chạp, hành xứ theo nẻo giữa, thích hợp, tương ưng thì mới có thể chứng đạo. Ức Nhĩ tư duy về lời Phật dạy, tâm chợt mở bày, tỏ ngộ, liền đắc A-la-hán. Do nhân duyên ấy, nên gọi là khổ hạnh bậc nhất.

Tôn giả A-na-luật sở dĩ xưng là Thiên nhãn bậc nhất: Là do lúc Đức Thế Tôn vì đại hội thuyết pháp, A-na-luật ngồi nơi tòa ngủ say, Phật trông thấy, bảo: Nay, Như Lai giảng nói pháp, ông vì sao lại ngủ như thế? Phàm là người ham ngủ nghỉ, tâm ý bị bít lấp, so với kẻ chết đâu có khác gì!

A-na-luật xấu hổ, ghi sâu vào tâm, tự thệ: Từ nay về sau quyết không dám ngủ nghỉ nữa. Quá lâu không ngủ, nên mắt liền mất ánh sáng. Sở dĩ như thế là vì, gồm có sáu thức “ăn”, thì mắt đã có hai: Một là trông thấy sắc, hai là ngủ nghỉ. Năm căn còn lại cũng đều có hai thức ăn. Được ăn thì sáu căn mới bảo toàn. Do mắt mất thức ăn là ngủ nghỉ, nên mất nhãn căn. Phật sai Kỳ-vực chữa trị cho A-naluật. Kỳ-vực nói với A-na-luật: Không ngủ thì không thể chữa trị. Đã mất nhục nhãn thì không còn có thể thấy trở lại được. Năm trăm đệ tử đều bỏ đi tứ tản. Phải nhờ người xỏ kim, sờ soạng, mò mẫn để vá y, chỉ hết, phải xỏ kim lần nữa, không người để nhờ, A-na-luật gọi lớn cho xa gần có thể nghe: Ai muốn cầu phước, nên giúp ta xỏ kim. Đức Thế Tôn bỗng dưng hiện đến trước A-na-luật, nói: Tôi xỏ kim giúp thầy. Hỏi: Thầy là ai? Đáp: Tôi là Phật. Hỏi: Phật, phước đức đã đủ, lại còn muốn cầu phước chăng? Đáp: Phước đức mà có thể chán sao? A-na-luật suy nghĩ: Phật hãy còn cầu phước, huống chi là đối với người thường. Trong tâm cảm kết, vội hướng về phía Phật để nhìn, do chí tâm nên hốt nhiên chứng đắc thiên nhãn. Do đắc thiên nhãn, lại tư duy thêm, liền đắc A-la-hán. Phàm là A-la-hán đều có ba thứ mắt: Nhục nhãn, Thiên nhãn và Tuệ nhãn. A-na-luật hiện có hai thứ mắt là Tuệ nhãn, Thiên nhãn. Ba mắt cùng trông, thì loạn giữa nhục nhãn, thiên nhãn, tạo sự tranh công. Loạn là tinh thô cùng quán lẫn lộn. A-na-luật chuyên dùng thiên nhãn, quán khắp đại thiên thế giới, tinh thô đều thấy, hình riêng trong chất, có thức, không thức, thảy đều nhận biết rõ. Đối tượng nhận biết là hàng trời, người, hoặc có tịnh, chẳng tịnh. Quán cực tịnh: Thấy trong thế giới, các loài hữu tình, có thức, không thức, thấy đều cử động, nghi cho là loài trùng, nhưng không phải là loài trùng. Quán chẳng tịnh: Thấy hạt cơm lay động, đều cho là loài trùng. Chỗ khác nhau của hơn kém đã có từ đấy.

Do đó mà nói Tôn giả A-na-luật là thiên nhãn bậc nhất.

Tỳ-kheo Ly-việt ngồi thiền nhập định, sở dĩ xưng là bậc nhất: Vì ngày trước, Tôn giả được vua Ba-tư-nặc cung thỉnh vào cung thọ thực, sau đấy thì Tôn giả tọa thiền dưới một bóng cây, trải qua sáu năm không dời đổi. Đang muốn dời sang bên cội cây khác, nhưng Thần cây không đồng ý. Lấy gì để chứng nghiệm? Lúc sắp sửa dời, Thần cây liền tung rải hoa cúng dường. Lấy đó làm chứng nghiệm để biết là Thần cây không đồng ý. Do đâu biết được ý của Tôn giả kia không có niệm khác? Bấy giờ, Tôn giả Câu-hy-la đi tới chỗ Tôn giả Ly-việt, nói: Sao thầy không ngồi bên cội cây tươi tốt, lại ngồi bên cội cây khô nầy? Đáp: Gọi là người đạt bốn biện tài bậc nhất, có thể phân biệt pháp nghĩa cùng do ứng từ. Không rõ phân biệt về cây khô là ở trong biện tài nào? Tôi từ tọa thiền ở đây đến nay vừa đúng sáu năm, không có phân biệt khô, tươi. Tôn giả mới tới mà liền phân biệt chăng? Vua thỉnh vào cung ngày ngày cúng dường, sai các phu nhân đều tự trông coi công việc ấy. Sáu năm đã đủ, liền thực hành bố thí, phân phát khắp. Lúc nhận được vật cúng dường, không biết tên của chủ nhân. Vua nói: Sáu năm thọ thỉnh, không biết tên người cúng dường, định gì mới như thế? Tôn giả đáp: Tôi tọa thiền bên cội cây, hãy còn không biết cây khô, tươi, huống hồ là biết tên người. Phước của sự cúng dường thiền định, đức ấy là hết sức tinh thuần. Tùy theo sở nguyện của vua, có thể đạt đến Niết-bàn, là phước điền tốt đẹp, do đó gọi là vui thích thiền bậc nhất.

Tỳ-kheo Tha-la-bà-ma khuyên nên thuận theo việc đã làm để lập Trai giảng. Phật giao trông coi công việc của chúng Tăng, đã phân bộ thích hợp. Người chuyên về Khế kinh với Khế kinh làm một xứ. Người chuyên về Tỳ-ni với Tỳ-ni làm một xứ. Đại pháp (Luận) với Đại pháp làm một xứ. Tọa thiền với tọa thiền làm một xứ. Cao tòa với cao tòa làm một xứ. Khất thực với khất thực làm một xứ. Giáo hóa với giáo hóa làm một xứ. Tùy việc nơi bộ phận đều khiến cùng theo. Nếu có Đàn-việt đến thỉnh thì theo thứ lớp sai đi, không hỏi cao thấp. Hoặc có thỉnh riêng thì không cho phép ở đây cử đi.

Lúc nầy, Đàn-việt thỉnh hết, nhóm Tỳ-kheo “Lục quần” theo thứ lớp, gặp phải nhà nghèo, nên ôm giận trở về, hướng tới Phật tả oán: Mala xem thường mọi người, tự nhận nơi tốt, bỏ lại toàn nhà nghèo, há là bình đẳng chăng? Phật cho gọi Ma-la, hỏi: Thầy thật có như vậy không? Đáp: Dạ không. Khi ấy, Ma-la không ăn, chờ cho mặt trời qua khỏi giờ ngọ, liền hòa phân bò uống, xem như vừa thọ trai, nghe các vị “Lục quần” nói, không muốn tự biện bạch, liền tới trước Đức Thế Tôn, nôn ra hết thứ nước phân ấy. Đám Lục quần hổ thẹn, hai người cảm kết, lậu dứt sạch, hai người trở về làm bạch y, hai người từ các lỗ trên mặt túa ra máu nóng, mạng chung, bị đọa nơi A-tỳ.

Trai giảng: Là các bộ chúng tập hợp thọ trai gồm luôn việc hành tập thích ứng, khéo có thể khuyên thành, nên gọi là bậc nhất.

Tiểu-đà-la-bà: Là chủ lập phòng ốc, dấy khởi Tăng-chiêu-đề (Tăng bốn phương), công sức cùng thành, không nêu riêng ra nữa.

Tỳ-kheo Lại-trá-bà-la sở dĩ xưng là hào quý: Vì thuộc chủng tộc vương giả, là người thông sáng, hiểu biết rộng, từ trẻ đã ham học hỏi, nghe Đức Phật xuất hiện ở đời giáo hóa kẻ ngu tối, liền đi đến Tinh xá Kỳ-hoàn, nghe nhận lời pháp, giáo nghĩa nhập thần, suy xét muốn xuất gia, trở về nhà thưa cha mẹ. Cha mẹ không đồng ý, tâm tự nghĩ ngợi: Hết thảy chúng sinh đều là cha mẹ, đâu chỉ riêng là hai vị nầy. Nghĩ rồi liền đến chỗ Phật, cầu làm Sa-môn. Đức Phật hỏi: Cha mẹ đã cho phép chưa? Đáp: Không cho phép. Anh làm Quốc vương, lại chỗ anh thưa xin tu đạo. Anh cũng không thuận. Tâm lại suy nghĩ: Nên tạo phương tiện để xuất gia học đạo. Cha mẹ hiện chỉ một người con, không muốn lìa con nửa bước. Trong chốt lát, Lại-trá-bà-la bảo người nhà đặt chiếc giường hẹp phía trước cha mẹ, rồi ngồi yên ở đấy, không uống chẳng ăn, trải qua sáu ngày. Cha mẹ hoảng sợ, e đứa con mình sẽ chết mất. Nếu đứa con nầy chết thì chẳng được việc gì cả! Nên cho phép nó xuất gia học đạo còn hơn. Lại dặn con: Xuất gia rồi, con nên thường xuyên trở về thăm cha mẹ. Cha mẹ đã đồng ý, Lại-trá-bà-la vội đi tới chỗ Phật. Hỏi: Cha mẹ đã cho phép chăng? Đáp: Đã chấp thuận. Đức Phật bảo: “Thiện lai Tỳ-kheo!” và đưa tay xoa lên đầu, râu tóc tự rụng, như người đã cạo tóc được bảy ngày. Cà-sa mặc vào thân, liền thành Sa-môn. Đức Thế Tôn vì Lại-trá-bàla giảng nói về bốn Đế, liền thành A-la-hán. Do mong muốn của cha mẹ, nên liền trở về nhà, mặc y cầm bát, đứng phía trước cửa. Lúc ấy, người hầu nữ đang vo gạo, sắp sửa đổ nước đã vo xong, Lại-trá-bà-la đưa bát ra xin, người nữ ngước đầu lên nhìn, biết là gia chủ, liền vào nhà báo cho mọi người biết. Cha mẹ rất vui mừng, xem kỹ lại con mình, đúng là đã làm người tốt, liền ra đón vào nhà, bày biện mâm cỗ thịnh soạn. Lại-trá-bà-la nói: Giờ ăn đã quá, đúng pháp là không được ăn. Cha mẹ nói: Hôm nay đã thế rồi, ngày mai con nên đến sớm. Lại-trá-bà-la liền trở về trụ xứ.

Người con đi rồi, cha mẹ dặn kỹ mấy người nữ: Sáng mai, Lạitrá-bà-la sẽ đến, các chị phải tự trang điểm, mặc y phục đẹp đẽ, có thể khiến con trai ta trở về làm người bạch y, đối với các chị là phước lớn. Lại sai kẻ giữ kho xuất các thứ châu báu, bảy báu như vàng bạc v.v…, mỗi mỗi thứ đều để thành từng nhóm riêng, muốn cho tâm ý của người con động nhiễm trở lại nơi thế tục. Hôm sau, vào giờ ăn, Lại-trá-bà-la mặc y cầm bát trở về nhà cũ, an tọa nơi tòa ngồi, xong xuôi, các người nữ, kẻ hầu, ai cũng xinh tươi vui vẻ, hoặc tung rải hoa hương, hoặc rũ áo, khua giày. Bà-la bảo: Các em đâu đủ để thành phiền não! Những người nữ suy nghĩ: Xem chúng ta là em tức sẽ không có lý trở về. Bà-la nói với cha mẹ: Dùng các thứ vật báu nầy làm gì? Chúng chỉ khiến con người bị mê hoặc, do đấy dẫn tới tai họa, sao không đem vất bỏ nơi núi, đầm. Cha mẹ can ngăn: Đạo đức tại tâm, hà tất phải xuất gia. Trưởng giả Chất-đa, cũng là tại gia đắc đạo đấy thôi. Bà-la nói: Chưa hề nghe nói tại gia đạt được lậu tận. Chỗ chứng đắc của Trưởng giả Chất-đa chỉ do có một phần đời là tại gia, đâu đủ để cho là quý. Lại-trá-bà-la tuy ở nơi gia đình hào quý, châu báu đầy dẫy, nhưng đều từ bỏ, nên gọi là quyết chí xuất gia bậc nhất.

Tôn giả Ca-chiên-diên sở dĩ gọi là khéo phân biệt nghĩa: Vì thường khi chuẩn bị soạn tập giáo pháp, trong tâm luôn nghĩ: Nhân gian quen với sự ồn ào, không chuyên tinh tấn tư duy, nên ẩn thân trong lòng đất bảy ngày, soạn tập Đại pháp, xong thì trình lên Phật. Phật khen: Lành thay! Được bậc Thánh đồng ý cho làm một Tạng. Nghĩa ấy vi diệu, có thể hàng phục ngoại đạo, nên gọi là bậc nhất.

Lại nữa, xưng là bậc nhất: Vì Đức Thế Tôn lúc ấy đi tới nước Thích-sí, an tọa bên một cội cây. Phạm-chí Chấp Nhất Trượng cùng với các người họ Thích đến xem Phật. Phạm-chí nói: Trước đây, ông đã bỏ, không nhận con gái tôi, thuộc loại có nhan sắc hơn hết. Nay thì ý thế nào? Đức Phật đáp: Ý không vướng mắc thế gian, không nhiễm nơi tục. Phạm-chí nói: Lành thay! Ra vẻ nhận hiểu rồi trở về. Sau đấy, các Tỳ-kheo không hiểu lời Phật nói, nên hỏi Tôn giả Cachiên-diên: Đức Thế Tôn gọi thầy là biện tài nắm lý, hiểu nghĩa bậc nhất. Đức Thế Tôn đã đáp lại Phạm-chí, nói không nhiễm không vướng, nghĩa ấy là thế nào? Tôn giả Ca-chiên-diên giải thích: Các Tỳ-kheo nên biết! Mắt duyên nơi sắc khởi thọ, duyên nơi thọ khởi tưởng, duyên nơi tưởng qua lại, sinh thức phân biệt khởi tâm nhiễm vướng. Đức Thế Tôn đối với sự nhiễm vướng ấy đã vĩnh viễn lìa bỏ. Các Tỳ-kheo nghe giảng nói như thế, ý cũng vui vẻ. Tôn giả Ca-chiên-diên quán ý của các Tỳ-kheo, biết là chưa hiểu rõ, liền dẫn dụ nói: Có người đối với chỗ nhiễm vướng ấy, muốn cầu tìm được vật bền chắc, lại bỏ gốc rễ mà lấy lá cành, thì có được vật bền chắc chăng? Đáp: Không được. Tôn giả Ca-chiên-diên nói: Các thầy cũng như thế. Đức Phật ở gần đây, lại không đến thưa hỏi, há chẳng phải là bỏ gốc lấy ngọn sao? Các Tỳ-kheo liền đến thưa hỏi Phật, nói lại những lời giải thích của Tôn giả Ca-chiên-diên, như vậy là có xét kỹ, đúng lý chăng? Đức Phật nói: Đúng như những điều Tôn giả Ca-chiên-diên đã giải thích. Do nhân duyên ấy nên lại gọi là bậc nhất.

Tôn giả Quân-đầu-ba-thán sở dĩ xưng là hành trù bậc nhất: Vì phàm là người hành trù phải ghi chép số lượng người, nhận biết họ là thành thật hay không. Thọ nhận “Trù” thì được phước, thọ nhận giả dối thì tội chứa càng lớn. Chữ Hán gọi là Trù, Thiên Trúc gọi là Xá-la. Xá-la cũng gọi là hoại tận. Phước tức tội hết. Tội tức phước hết. Lấy gì để nhận biết về điều ấy? Chuyện kể, Trưởng giả A-nan-bân-nậu gả con gái về làm dâu ở nước Ni-kiền, đã đến hỏi Đức Phật việc ấy nên chăng. Đức Phật bảo: Nên biết là đúng lúc. Về xứ ấy tất có ích. Người nữ đã về nhà chồng, từ xa vọng thỉnh Đức Thế Tôn. Đức Phật nhận biết ý nguyện ấy nên im lặng nhận lời, bảo Tôn giả A-nan: Sáng mai ông sẽ thọ thỉnh của Thíchma-nam. Rồi sai người đánh kiền chùy, tập hợp chúng, hành thần thông. Xá-la luôn là Thượng tọa. Quân-đầu-ba-thán chưa được thần thông, nghe thỉnh hành trù, tự khinh chê mình chưa chứng đắc thần túc, ngắm nhìm, suy xét về hình ảnh đứng đầu các tòa, giống như loài chồn hoang già nơi núi Tử Kim, tiến lui lưỡng lự. Đang muốn nhận “Trù” không theo thông lệ. Đang muốn không nhận sự việc chiếm làm Thượng tọa. Sa-di tám tuổi hãy còn đắc thần thông, công sức tích lũy bao năm mà chẳng đạt được gì cả! Tính nghĩ như thế, thì nên làm những gì? Cảm kết việc nhận “Trù”, thời gian trở lại trao, hốt nhiên lậu dứt hết. Nếu do giả dối nhận “Trù”, thì nơi thân người có chín mươi vạn lỗ chân lông, dùng số ấy làm số lượng, cũng không nhận được số lượng như thế về thân người. Nếu do tinh thành thọ nhận, tức có thể chứng đắc lậu tận.

Do Thượng tọa nầy có thể là minh chứng. Sở dĩ lại làm Thượng tọa, là do khéo có thể thuyết pháp thích hợp với nhiều người, được đại chúng suy cử làm Thượng tọa. Do nhân duyên ấy, nên gọi là Thượng tọa thọ trù bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tôn giả Tân-đầu-lô là hay hàng phục ngoại đạo, vì như chuyện kể: Trong thành Tỳ-xá-ly có Trưởng giả Chất-đa thường hay lo lắng vì đám Lục sư cao ngạo, tự đại, nói: Sa-môn Cù-đàm tự xưng là tôn quý, nên cùng với chúng ta thi đấu về tài năng. Nếu ông ấy hiện ra một, ta sẽ hiện ra hai, như thế chuyển tăng đến ba mươi hai. Bấy giờ, Trưởng giả thỉnh khắp chúng Tăng trong ngoài để cúng dường xong, lại dựng một cột cờ lớn, cao bốn trượng chín thước, đặt bát Chiên-đàn trên ấy, sai người xướng: Ai có thể đưa tay lấy bát nầy, tức được tôn xưng là bậc nhất. Lúc nầy, Tôn giả Tân-đầu-lô tự suy niệm: Nay nên hiện thần túc, khiến cho đám Lục sư được hàng phục phải im miệng. Lại nghĩ: Đức Thế Tôn thường khuyên dạy các đệ tử không được hiện bày thần túc. Nếu hôm nay không hiện bày thì e là đám Lục sư kia vĩnh viễn chỉ mắc tội. Còn nếu hiện thì sợ trái với lời dạy của Đức Thế Tôn. Do dự một hồi, liền hiện thần túc, duỗi cánh tay lên cao lấy chiếc bát Chiên-đàn, rồi vụt lên hư không, bay quanh thành bảy vòng, trở lại nơi tòa ngồi, nói với các Phạm-chí: Xin các vị lại hiện ra gấp hai. Đám Lục sư im lặng. Khi đó, tướng quân Đại quỷ tên là Bán Sư bảo đám Lục sư: Hiện gấp đi! Đồ chúng của đám Lục sư hiện có không biết nên nhóm họp ở đâu. Theo đấy mà nói, nên biết Tôn giả Tân-đầu-lô hàng phục ngoại đạo là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Sấm là người hay thăm bệnh bậc nhất: Vì bấy giờ tại Tinh xá Kỳ-hoàn có một Tỳ-kheo bị bệnh nặng khổ sở. Do nằm dài trên giường nệm lâu ngày, nên bên dưới sống lưng của Tỳ-kheo bệnh thịt rữa, có giòi bọ, đau nhức khiến rên rỉ cả ngày. Đức Phật cùng các Tỳ-kheo lần lượt đi tới các phòng xá, thấy Tỳ-kheo nầy bệnh nặng như vậy. Đức Thế Tôn hỏi: Có người đến thăm bệnh ông chăng? Đáp: Không có. Lại hỏi: Ông lúc trước có thường đi thăm các Tỳ-kheo bị bệnh không? Đáp: Không. Phật bảo: Ông không đi thăm người khác bị bệnh, vì sao lại mong người khác tới thăm bệnh mình? Khi ấy, Đức Như Lai vén y Tăng-già-lê, tự tay xoa nắn trên người Tỳ-kheo bệnh, rồi lại rửa lau, giặt giũ. Thiên Đế-thích liền hiện đến trợ giúp. Đức Thế Tôn chăm sóc người bệnh, Tỳ-kheo bị bệnh nầy nhờ ân đức của Phật nên bệnh được dứt trừ. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay trở về sau, nếu có người bệnh, phải cùng thăm hỏi, chăm sóc lẫn nhau. Đức Thế Tôn lại nhìn khắp các Tỳ-kheo, nói: Ai là người thường có thể thăm hỏi, chăm sóc người bệnh? Chỉ có Tỳ-kheo Sấm là hay làm công việc ấy. Tỳ-kheo Sấm thường dùng năm sự để thăm hỏi chăm sóc người bệnh. Đó là: Phân biệt các loại thuốc hay, cũng không biếng trễ, trước đứng sau nằm, thường vui vẻ chuyện trò, ít khi ngủ nghỉ. Dùng pháp cúng dường, không tham ăn uống, có thể kham nhận việc giảng nói pháp cho người bệnh. Đấy gọi là Tỳ-kheo Sấm dùng năm pháp ấy để thăm viếng, chăm sóc những người bệnh, chưa từng có Tỳ-kheo bệnh nào không thuyên giảm. Sở dĩ như thế là vì Tỳ-kheo Sấm trong vô số đời trước, từng năm trăm đời làm thầy thuốc, thông hiểu về phương dược, nghe tiếng nói, xem sắc diện là nhận biết căn nguyên của bệnh, lại dùng bốn sự để hết lòng nuôi chữa kẻ bệnh. Do nhân duyên ấy, nên gọi Tỳ-kheo Sấm là người hết lòng với người bệnh bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bằng-kỳ-xa là người có khả năng tạo ra kệ tụng: Là vì Tỳ-kheo nầy, lúc trước là con của một Trưởng giả, thường được hàng người, trời tài ba, thông sáng dẫn dạy, tiếp xúc vật, tán tụng. Bấy giờ, xuất hành dạo chơi, gặp một cô gái nhiều tài năng, dung nhan đẹp đẽ, thế gian ít có. Bằng-kỳ-xa trông thấy, tâm ý vui thích liền muốn thâu nạp, bèn trở về nhà thưa với cha mẹ về ý định của mình. Cha mẹ không thuận, bảo: Tộc họ của con là thế nào, sao lại đổi chí hướng, hủy bỏ gia phong của người trước? Tâm ý của người con đã quyết nên thưa lần nữa: Nếu không vì con cưới cô ấy làm vợ thì con không thể sống ở đời. Cha mẹ thấy con nói như vậy thì lại không nhẫn tâm trách cứ, ngăn cản, liền bảo: Tùy ý của con, cha mẹ coi như không biết tới. Bằng-kỳ-xa liền tự sai người cùng báo cho phía cô gái biết. Cô gái thuộc chủng tánh nhiều tài nghệ nên chỉ chú trọng về khía cạnh nầy, liền đáp lại với người được sai tới, nói: Tôi không tham của cải của ông ấy, chỉ ưng thuận khi gồm đủ các thứ tài nghệ thôi. Bằng-kỳ-xa nghe thưa lại như thế, tức thì tìm đến chỗ thầy dạy để học. Không đầy mấy tuần, các nghề đã gồm đủ. Lại sai người báo tin: Việc học đã đầy đủ, nên có thể ban ơn cho nhau. Chủ nhân đáp: Nếu tài nghệ đã gồm đủ thì nên đi tới cung vua để thi thố hơn kém.

Lúc nầy, đang là chánh tiết, vua tập hợp đủ khắp các người tài nghệ để tỉ thí xem ai thắng, thua. Nếu hơn hết, thì được vua ban cho ngàn lượng vàng. Vua cũng nghe tiếng cô gái xinh đẹp, nhiều tài nghệ ấy, và muốn thâu nạp vào nội cung. Pháp tỉ thí về tài nghệ, thì leo lên cột cờ là hơn hết, nên cho dựng cột cờ cao bốn trượng chín thước, bên dưới đặt đao kiếm, mũi nhọn đều hướng lên trên, khoảng cách chỉ vừa đủ để chân vào. Khi đó, Bằng-kỳ-xa leo lên cột cờ đã tới đỉnh, quay bảy vòng, liền trở lui, lao người xuống khoảng đất trống. Vua sợ mất cô gái, nên giả vờ bảo là không thấy. Mọi người đều khen: Rất giỏi, nhưng vua vẫn bảo là không thấy. Nếu xét kỹ để được cho là giỏi, lại phải thực hiện lần nữa. Bằng-kỳ-xa suy nghĩ: Nếu lần nầy ta không thuận theo lệnh vua, tất sẽ mất người nữ ấy. Tình phải quyết đạt được. Bằng-kỳ-xa liều chết leo lên lần nữa, đã tới đầu cột cờ, ngắm nhìn thấy gương mặt người nữ, tâm tự suy nghĩ: Sao kẻ ấy có vẻ điềm nhiên đối với ta đang khốn khổ như vầy? Tâm sợ thân run, e chẳng tự bảo toàn. Người nữ giả dối đâu cần công việc nầy. Đức Phật nhận biết Bằng-kỳ-xa tất có thể tế độ, nếu không cứu giúp sẽ rơi vào ba đường dữ. Liền bảo Tôn giả Mục-liên: Tôn giả nên dùng thần túc cứu độ ách nạn kia. Tôn giả Mục-liên vâng theo lời dạy, tức thì đi đến nơi, hiện thần biến, ở trong hư không ngồi kiết già, lại tại bên dưới cột cờ, hiện ra bậc thang bằng bảy báu, người khác không thấy, chỉ riêng Bằng-kỳ-xa thấy rõ, nên thong thả theo bậc thang gồm bảy vòng đi xuống, được thần lực tiếp dẫn, trong an ngoài hiểu. Vua cùng với mọi người đều cho là kỳ lạ. Vua tự tay dẫn người nữ giao cho Bằng-kỳ-xa. Chàng nói: Không dùng vật dối trá nầy, vì chỉ lừa gạt người đời mê lầm cho là trong thật. Nước mất nhà tan không gì là không do đấy. Liền tìm Tôn giả Mục-liên và cùng đi đến chỗ Phật. Đức Thế Tôn nhìn Bằng-kỳ-xa, nói: Thiện lai, Tỳkheo! Thế là thành Sa-môn, lại vì Bằng-kỳ thuyết giảng về bốn đế, tức chứng đắc Ứng chân (A-la-hán). Trong lòng vui vẻ phát khởi mà hiện ra thành lời, bèn làm tụng kệ tán thán Đức Thế Tôn:

Ngày mười lăm thanh tịnh
Năm trăm Tỳ-kheo hợp
Đã đoạn các kiết sử
Tiên nhân không thọ tập.
Cũng như Chuyển luân vương
Trăm quan đều vây quanh
Bốn biển cùng đại địa
Nắm giữ không hiện bày
Hàng phục người như thế
Đạo sư không gì hơn
Dẫn giúp các Thanh văn
Ba minh trừ tánh kiết.
Tất cả con Thế Tôn
Không có nhiễm trần cấu
Đã phá lưới ái dục
Nay lễ trăng trong sao.

Do nhân duyên ấy, nên gọi Bằng-kỳ-xa là người có thể tạo ra kệ tụng tán thán công đức của Như Lai, là bậc nhất.

Sở dĩ xưng Tôn giả Câu-hy-la là bốn biện tài bậc nhất: Vì phàm là Thanh văn bốn biện tài bất tất gồm đủ. Hoặc có pháp biện nhưng không có nghĩa biện. Hoặc có nghĩa biện mà không có pháp biện. Hoặc có ứng biện nhưng không có từ biện. Hoặc có từ biện mà không có ứng biện. Tôn giả Câu-hy-la đều có đủ bốn biện ấy. Tôn giả Xá-lợi-phất, Ca-chiên-diên cũng có đủ bốn biện, sở dĩ không xưng là hơn hết, vì Tôn giả Thân Tử đã lấy trí tuệ làm chính, Tôn giả Cachiên-diên đã lấy việc soạn tập làm chính, nên hai vị đều không xưng về bốn biện tài. Tuy có bốn biện tài, nhưng cũng không bằng Tôn giả Câu-hy-la. Tôn giả chỉ biện giải về nghĩa của một câu, bảy ngày không hết, huống chi là bốn biện, há có thể lường tính được sao! Do sự việc ấy, nên Tôn giả Câu-hy-la được xưng là bốn biện tài bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Nan-đề là khất thực bậc nhất: Vì các Tỳkheo khác tuy cũng khất thực, nhưng hoặc không đủ giới, hoặc có tâm tham, hoặc hay nhìn ngắm hai bên, tâm không chuyên nhất, hoặc tránh lạnh nóng, còn Tỳ-kheo Nan-đề thì lúc đang khất thực đều không có các sự việc ấy. Khất thực đã tinh, người dâng cúng được nhiều phước. Nay nên dẫn dụ để so sánh lớn nhỏ. Có người hỏi về phép bắn tên: Một người đứng cách trăm bước bắn vào sợi lông treo cao. Một người bắn vào đất khiến bụi bốc lên, trường hợp nào là khó? Đáp: Bắn vào sợi lông treo cao là khó, tuy bắn mà không đến nơi đất. Còn trường hợp sau thì không cần nói thêm. Hoặc thí cho khất thực, hoặc thí cho chúng Tăng, trường hợp nào là lớn? Hoặc là thí đích thực nơi A-luyện-nhã? Trong dụ, bắn vào sợi lông treo cao là chỉ cho thí không được thật, là dụ cho bắn vào hư không, sự việc tuy khó, nhưng có được có mất. Tên găm vào đất là dụ cho thí chúng Tăng. Bắn vào sợi lông treo cao tuy tinh, nhưng số bị mất là nhiều. Bắn vào đất tuy dễ nhưng chưa từng mất đất. Đất của phước điền dày nên không tăng giảm. A-luyện-nhã có tinh thô nên có được mất. Tôn giả Nan-đề được tinh nên gọi là bậc nhất.

Sở dĩ xưng Tỳ-kheo Thí-la là “Một tọa một thực”, vì đây là một hạnh Đầu-đà. Phàm là pháp của A-luyện-nhã, tức hoặc khất thực, hoặc tọa thiền bên gốc cây, hoặc ở riêng một mình nơi vắng lặng. Nay “Một tọa một thực” nầy, là từ sáng sớm thức dậy đến giữa ngày, nếu Đàn-việt thí thực, thì không hỏi nhiều ít, chỉ ở nơi một xứ, tọa thực mà thôi. Nếu ăn chưa no, nhưng chỗ ngồi chưa dời thì có thể ăn lần nữa. Nếu đã đứng dậy, thì không được ăn trở lại. Luôn ở nơi một xứ thọ thực mà không lìa bỏ, nên gọi thí là là bậc nhất.

Sở dĩ nói Tỳ-kheo Kim-tỳ-la thường đi đến bảy nhà để khất thực, không được quá bảy, nguyên do của sự việc ấy là vì đã lập thệ giới hạn nơi bảy. Lúc khất thực, muốn dùng phước để hóa độ chúng sinh, nên chuyên tâm niệm đạo, không có tưởng tham. Nếu được thức ăn ngon dở, không lấy đó để thêm, bớt. Theo thứ lớp khất thực không có lựa chọn nghèo giàu. Nếu khi ở một nhà, hai nhà được thức ăn, lại có người bố thí, đã đủ thì dừng, không đủ mới nhận. Nếu đến bảy nhà, không được thức ăn, thì nên trở về trụ xứ, tư duy hành đạo, không nghĩ ngày hôm sau nên đến nhà nầy, không nên đến nhà kia, đều không có tưởng phân biệt, nên gọi là Sa-môn bảy nhà. Trở về thì tĩnh tọa, thâu giữ tâm nơi đạo, nên xưng Kim-tỳ-la nơi bảy nhà khất thực là bậc nhất.

Tỳ-kheo Kiên Lao do thường cư trú nơi chốn núi, đầm vắng lặng để hành đạo. Tỳ-kheo Nan-đề thường dùng việc khất thực, nhẫn nại để hành đạo. Tỳ-kheo Kim-tỳ-la dùng việc khất thực bảy nhà để hành đạo. Thí-la dùng một xứ thực để hành đạo, mười hai hạnh Đầuđà đều chọn lấy một hạnh.

Tỳ-kheo Phù-di nhận giữ ba y, ăn, ngủ không lìa. Hoặc nói: Tạo ra ba y, là do ba lượt chuyển pháp luân, hoặc cho là ba đời, hoặc nói là ba thời (mùa), nên đặt ra ba y. Mùa đông thì mặc dày, nặng, mùa hạ thì mặc nhẹ, mùa xuân thu thì mặc trung bình, đó là ba mùa, nên đủ ba y. Dày là năm điều, vừa là bảy điều, mỏng là mười lăm điều. Nếu là mùa lạnh dữ thì mặc ba y chồng lên nhau, có thể ngăn lạnh. Hoặc nói: Cũng do các thứ ruồi, muỗi v.v… nên chế ra ba y. Do duyên ấy, nên thường nhận giữ không quên. Vì thế gọi là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà-sai là tọa thiền nơi khoảng đất trống bậc nhất: Vì lúc còn tại gia thường cho gia đình là mối lo. Xuất gia cầu đạo luôn an tọa nơi khoảng đất trống. Nếu vào phòng ốc thì luôn khổ vì hơi thở như bị chận lại, giống như bịt miệng. Do đấy luôn cầu được ngồi nơi khoảng đất trống, tư duy hành đạo. Sau đó thân thể điều hòa, hơi thở thông suốt, hành đạo không trở ngại. Do nhân duyên ấy, nên gọi Tỳ-kheo Bà Sai là tọa thiền nơi khoảng đất trống bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tôn giả Ly-việt thường ở bên cội cây: Là vì tại địa phàm phu muốn cầu thiền định, ở tại bên gốc cây, nương dựa nhằm buộc giữ tâm ý, để dứt trừ kiết phược. Các Tỳ-kheo khác cũng tọa thiền cạnh gốc cây, sở dĩ không gọi như thế là do họ không thể một lần nghe mà tự chuyên tâm tư duy. Tỳ-kheo nầy một lần nghe Phật chỉ dạy, liền có thể thực hành, chuyên ý không rời, sáu năm dứt hết kiết. Trước Tôn giả Ly-việt, nhiều vị thích thiền định du hành, đi dừng không khác, nhưng vui thích việc hành tập thì khác, nên đều gọi là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Đà-đa-sách là vui thích không: Vì Tỳ-kheo nầy vào phòng thì hiểu nội không, ra khỏi phòng thì hiểu ngoại không. Nội không dụ cho thức, ngoại không dụ cho thân. Vào phòng thấu tỏ thức không. Ra khỏi phòng hiểu rõ thân không. Đã hiểu rõ nội ngoại không thì các pháp cũng như thế. Tỳ-kheo nầy nghe nói về giáo pháp không, liền thâu giữ vào trong tâm. Vào phòng thấy không tức thấu đạt về thân thức. Các Tỳ-kheo khác, kiết dứt hết, sau đấy mới đạt không. Tâm không khó đạt, quý ở chỗ được trước, nên xưng là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ni-bà dùng y Ngũ nạp là hơn hết: Vì Tỳkheo nầy quán thân với ba mươi sáu vật uế lậu, không thể tham chuộng, chán ghét thân nầy nên cho là do vật hèn kém tự làm chướng ngại. Hoặc nói: Phàm là y, có thứ có thể gần gũi, có thứ không thể gần gũi. Thế nào là có thể gần gũi? Mặc y xấu cũ khiến người xấu hổ, tự thẹn, là có thể gần gũi. Mặc y tốt đẹp khiến người tự đại cho là đẹp, nhã, là không thể gần gũi. Y xấu hổ trợ việc hành đạo, do đấy mặc y Ngũ nạp. Tỳ-kheo nầy khéo có thể trong ngoài cùng đối chiếu, nên gọi là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu-đa-la thường vui thích tọa thiền nơi nghĩa địa: Vì Tỳ-kheo nầy là đệ tử của Tôn giả A-nan, đắc đạo trước thầy, tâm tự suy nghĩ: Thân nầy lưu chuyển, không chốn nào là không lui tới. Lúc tại cõi trời, ăn mặc, cỡi xe tự nhiên, nay nên xả bỏ. Hoặc ở nơi nhân gian làm Chuyển luân Thánh vương, bảy báu cùng theo, cũng lại là quá khứ. Hoặc ở nơi súc sinh luôn phải ăn cỏ gai, đây cũng là quá khứ. Hoặc ở chốn ngạ quỷ, nước đồng sôi là thức ăn. Hoặc ở nơi địa ngục, đao kiếm luôn đối diện. Các tội hình ấy đều do nghiệp tạo từ quá khứ. Nay được làm thân người, ngang với phần nầy là đủ hết. Xưa nay, chỗ đáng quý đều là từ bỏ hình tướng sắc huyễn của mọi vật, không một thứ gì đáng để tham luyến, đều nên dứt bỏ, tức nên trụ nơi nghĩa địa. Lại suy niệm: Đang muốn tọa thiền bên cội cây, nơi núi rừng, đầm rộng vắng, đều sinh khởi tham ái, chỉ có nơi nghĩa địa là chốn con người không vui thích, do đó nên trụ ở đấy. Vui thích nơi mộ địa chỉ có loài quỷ cùng đám chồn, sói, quạ, diều hâu v.v… nay nên nhập Tam-muội từ để cứu độ các loài ấy, vì thế nên lại trụ nơi mộ địa. Do nhân duyên nầy Tỳ-kheo Ưu-đa-la tức thường vui thích tọa thiền nơi nghĩa địa, không ở nơi chỗ có người, nên xưng là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Lô-hê-ninh luôn an tọa trên đệm cỏ bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy thường ngồi trên đệm cỏ để trừ bỏ tâm tham ái. Thế nào là trừ bỏ tâm tham ái? Tức tuy có giường vàng gối ngọc, nhưng đều không tham ái, chấp trước. Hoặc lại nói: Nếu có người thí tòa ngồi tốt đẹp cũng như thí đệm cỏ, không khác. Tâm tham ái đã dứt, các kiết cũng hết. Liền đưa tay nắm lấy cỏ, hướng tới cỏ làm lễ. Có người hỏi: Vì sao hướng tới cỏ làm lễ? Đáp: Ta nhờ nơi cỏ ấy mà tâm ưa đẹp tươi đã dứt hết. Đắc đạo do đấy tức là thầy ta, nên hướng đến làm lễ. Năm trăm con khỉ được sinh lên cõi trời, cũng đã dùng hoa trời Văn-đà-la tung rải nơi tử thi, vì do tử thi mà sinh thiên, nên đến rải hoa. Phàm là sang tất do hèn làm gốc. Do nhân duyên nầy nên gọi Tỳ-kheo Lô-hê-ninh tọa thiền trên đệm cỏ là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu-kìm-ma không cùng nói chuyện với người khác, chỉ nhìn nơi đất mà đi là bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy thường lo về lỗi lầm của miệng, nên muốn sửa đổi. Tự suy nghĩ: Chính là do nơi miệng nầy mà sinh trong cõi người, trời, hay nơi ba đường ác, như địa ngục có nhiều loại, khốn đủ nơi năm đường, khổ thật là vô lượng. Ta nay nên như Thái tử Mộ Phách kết thệ không nói. Bốn lỗi ba họa do đâu mà sinh, nên đã không nói, cứ nhìn thẳng mà đi. Đức Phật cho khả năng ấy là hiếm có, mỗi khi hướng về các Tỳkheo đều khen ngợi về đức ấy. Nói với Tôn giả A-nan: Tỳ-kheo như thế nên ghi chép để nhiều người được biết, noi theo. Do nhân duyên ấy, nên xưng là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Nhất Tâm là hành Tam-muội bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy ngày trước từng tập định, cứu xét từ thô đến tinh, nay công năng của định đã lập, hành như dạo cảnh, ngồi mà quên tưởng. Quên tưởng lý đủ, về dụ thì như thế nào? Cũng như có người ăn trăm vị thức ăn, ý do quá no đủ, nên lại không còn tưởng ăn. Tuy lại bước đi, tiến dừng càng cảm, về sau nên thưa bày, hoạt động. Dựa nơi định lập tên, nên gọi ngồi, đứng, bước đi đều nhập Tam-muội là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Trưởng giả Đàm-ma-lưu-chi ưa thích viễn du bậc nhất: Tức sự việc ấy có nguyên do. Lúc Phật tại thế, có một Trưởng giả tên Đàm-ma-lưu-chi, đi đến chỗ Phật, lễ bái xong thì vấn an. Đức Phật nói: Đàm-ma-lưu-chi riêng đến đã rất lâu, mới có thể tương kiến. Có người hỏi Phật: Không rõ do đâu Đức Thế Tôn nói: Riêng đến đã rất lâu? Đức Phật đáp: Ông muốn biết chăng? Đáp: Muốn biết. Đức Phật nói: Vào thời A-tăng-kỳ kiếp xa xưa, thế gian có một vị Phật hiệu là Định Quang, Ta bấy giờ là Phạm-chí tên Siêu Thuật.

Lúc ấy, Phật Định Quang sắp sửa vào thành, Ta nơi giữa đường được gặp, trông thấy tướng ánh sáng của Phật tỏa chiếu khắp, liền tán thán: Tướng ánh sáng của Đức Thế Tôn tỏa sáng hơn cả mặt trời mặt trăng. Công đức của Đức Thế Tôn thịnh dày như hai nghi. Tâm của Đức Thế Tôn nhân từ hơn cả mẹ hiền. Xem xét hình ảnh, không gì để cúng dường. Nay chính là đúng lúc, phước điền tốt đẹp, có thể gieo trồng căn lành. Thấy nơi đất có một ít bùn, sợ làm bẩn chân Đức Phật, Ta liền trải tóc phủ lên chỗ bùn ấy khiến Đức Phật Định Quang giẫm lên mà đi qua. Đức Phật liền thọ ký, nói: Ông đã dũng mãnh như thế, vào A-tăng-kỳ kiếp về sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca-văn. Khi đó, bên đường đi cũng có một Phạm-chí, tâm liền khởi giận dữ, nói: Kẻ nầy cùng với súc sinh không khác! Bèn đạp lên trên đầu tóc kẻ khác mà đi qua. Từ đấy trở về sau, trong vô lượng vô số kiếp luôn bị đọa trong loài súc sinh. Lại ở trong biển lớn làm cá Ma-kiệt, thân dài bảy ngàn do-tuần. Bấy giờ, có năm trăm khách buôn đi thuyền vào biển lớn để tìm kiếm châu báu, gặp phải cá Ma-kiệt nầy dùng miệng lật thuyền, sắp muốn nuốt vào miệng, năm trăm người kia hoảng sợ đều xưng niệm các bậc mình tôn thờ. Người chủ của đám khách buôn nói với mọi người: Nay thế gian có Phật hiệu là Thích-ca-văn, cứu độ người bị nguy ách, không ai hơn Ngài. Chúng ta nên xưng niệm danh hiệu Ngài cầu mong được thoát khỏi nạn. Tức thì đồng thanh xưng niệm. Cá Ma-kiệt nghe danh hiệu Phật, thức gốc vẫn còn, liền tự nghĩ xét: Phật Thích-ca-văn đã xuất hiện nơi thế gian, thân ta vì sao còn ở trong loài cá? Bèn lặn sâu xuống nước. Năm trăm khách buôn an ổn trở về. Lúc nầy, cá Ma-kiệt liền bày nửa thân hình lên bãi cát, không ăn uống, trải qua hai mươi bảy ngày thì chết, sinh làm con trai nhà Trưởng giả, tên là Đàm-ma-lưu-chi, nay mới đến được cùng ta tương kiến. Do đấy, nên gọi là “Lâu xa”. Đàm-ma-lưu-chi nghe đầu đuôi như thế, liền đi về bờ biển tìm xác chết cũ, thấy nơi bờ biển ấy có bộ xương cá lớn, da thịt đều hết, liền bước đi trên mảng xương sườn, suy nghĩ: Đây là thây chết cũ của ta. Bèn dùng hoa tung rải trên thây chết cũ ấy, lại xét về sự việc đã qua, hốt nhiên đạo thành. Do nhân duyên ấy, nên gọi Trưởng giả Đàm-ma-lưu-chi là viễn du bậc nhất.

Sở dĩ xưng Tỳ-kheo Ca Cừ là tập hợp chúng thuyết pháp bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy âm từ sáng rõ, tiếng vang rất xa, nghe âm thanh ấy, chúng tập hợp vô số, liền vì họ diễn nói pháp sâu xa. Các vị nên biết: Đức Như Lai xuất hiện ở đời, khó có thể được gặp, bốn đế là pháp cam lồ cũng khó được nghe. Các vị vào lúc thư thả, nên tư duy về chân đế, dứt trừ mười hai thứ trói buộc, dẫn dắt, có thể đạt được Niết-bàn. Tỳ-kheo nầy luôn trợ giúp Đức Phật hoằng dương giáo hóa, thường đem giáo pháp ấy truyền bá rộng khắp. Do nhân duyên ấy, nên xưng là tập hợp chúng thuyết pháp, âm thanh bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà-câu-la thọ mạng rất lâu dài: Là do thời xa xưa đã từng cúng dường sáu vạn Đức Phật, ở nơi trụ xứ của chư Phật luôn hành tâm từ. Đối với các loài vật có hình sắc, thọ mạng, dù là rất nhỏ bé, đều luôn gia tăng tâm thương xót, không hề có mảy may tưởng sát hại. Do phước của tâm từ ấy, nên nay có được báo kia. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Như Ta hôm nay, thân tướng thanh tịnh, không có ai hơn, cũng như hoa sen chẳng vướng nơi bùn nước, chính là thọ tám mươi, không như Bà-câu-la thọ một trăm sáu mươi tuổi. Như Lai tùy theo thế gian, muốn thích ứng với chúng sinh, không hiện điều dị biệt, nên thọ mạng tám mươi. Tỳ-kheo Bàcâu-la thọ phước của tâm từ nơi đời trước nên có được quả báo gia tăng về tuổi thọ. Hoặc có người hỏi: Chỉ do tâm từ nên đạt được thọ mạng như thế chăng, hay lại còn có nguyên do khác chăng? Đáp: Có. Vào thời xưa, Đức Như Lai Tỳ-bà-thi xuất hiện ở đời, bấy giờ có mười sáu vạn tám ngàn Tỳ-kheo du hành giáo hóa. Khi ấy, có Trưởng giả, sống theo nẻo sáng suốt, tu tập thuần thành, bẩm tánh lương thiện, khiêm tốn, không ưa rượu chè. Vào ngày hội hàng năm, do những người trẻ tuổi khuyên mời, nên đã uống ít nhiều. Liền do thế của rượu, nên đi đến chỗ Đức Thế Tôn, lễ bái, vấn an xong, bèn thỉnh Phật cùng các đệ tử thọ nhận sự cúng dường của ông và gia đình trong chín mươi ngày. Những Tỳ-kheo bị bệnh đều được mời đến nhà ông nhận các thứ thuốc men, vật dụng cần thiết đều xin cung cấp đầy đủ. Thưa thỉnh xong, ông trở về nhà, sai bảo mọi người trong gia đình: Ta đã thỉnh Đức Phật cùng các vị đệ tử cúng dường chín mươi ngày, vậy bốn sự đều phải lo liệu cho đầy đủ. Sai bảo, dặn dò xong liền đi ngủ. Ngủ rất lâu mới thức, người vợ nói: Trước đây ông có sai bảo sắm sửa đầy đủ các vật dụng cúng dường, sao bây giờ im lặng không thấy nhắc đến? Trưởng giả ngạc nhiên hỏi: Vừa rồi tôi đã nói năng, sai bảo những gì? Người vợ thưa lại: Lúc chưa ngủ, ông không nói gì sao? Trưởng giả bảo: Tôi không nhớ rõ là mình đã nói những gì. Bà vợ nói: Lúc ấy, ông bảo: Ta đã thỉnh Phật cùng các vị đệ tử cúng dường trong chín mươi ngày, mỗi thứ cần dùng đều không được thiếu. Ông chẳng đã nói như thế là gì? Trưởng giả suy nghĩ, nói: Là do rượu khiến con người nhầm lẫn mới dẫn đến sự việc như thế. Cảm thấy hổ thẹn nên quyết định thực hiện việc cung thỉnh ấy. Sáng sớm hôm sau, ở tại nhà mình, ông Trưởng giả đốt hương, từ xa đảnh lễ cung thỉnh Đức Thế Tôn và đại chúng. Có một Tỳ-kheo tới xin thuốc. Trưởng giả hỏi: Thầy bị đau gì? Đáp: Đau đầu. Trưởng giả nói: Đây tất là do phần trên của mạng ngực có nước, xông mạnh lên đầu. Do đấy nên đầu bị đau. Bèn cho một quả Ha-lê-lặc, nói: Chỉ uống thuốc nầy là đủ để dứt bệnh ấy. Tỳ-kheo uống thuốc, bệnh liền khỏi. Do phước báo ấy, nên trong chín mươi mốt kiếp chưa từng bị bệnh, sinh vào nhà Trưởng giả, đến tuổi tám mươi, xuất gia học đạo, trải qua tám mươi năm, đạo tục hợp lại là một trăm sáu mươi năm. Lúc còn tại gia, từng thi đấu sức, giây lát đầu bị đau, tức tìm cách trừ khỏi, từ đấy thường không bệnh tật. Do đó nên nói Bà-câu-la là trường thọ bậc nhất. Ở trong mức thọ mạng một trăm năm mà tăng thêm sáu mươi năm, người nầy, nơi đời năm trược mà thọ mạng như thế là rất đặc biệt. Dụ như trong chốn uế trược mà sinh ra hoa sen.

Tôn giả A-nan hỏi Bà-câu-la: Do đâu không vì người giảng nói pháp? Vì không có bốn biện tài hay là vì thiếu trí tuệ? Đáp: Tôi đối với bốn biện tài, trí đều mẫn tiệp, không phải là không đủ. Nhưng chính là tự vui thích tịch tĩnh, không ưa chốn đông đúc ồn ào, nên không thuyết pháp.

Vấn nạn: Tôn giả Bà-câu-la trường thọ, vì sao không sinh ba phương (ba châu)? Đáp: Chư Phật sở dĩ không sinh là do người của cõi ấy khó hóa độ. Nơi cõi nầy chúng sinh lợi căn, nhanh nhẹn, tuy rất xấu ác, nhưng dũng mãnh giữ đạo không ngại khó khăn. Thế nên, từ xa xưa chư Phật đều sinh trong cõi nầy. Tôn giả Bà-câu-la ứng hợp tại cõi nầy thành tựu đạo, nên không sinh nơi ba phương kia.

Sở dĩ gọi Tôn giả Mãn-nguyện-tử là thuyết pháp bậc nhất: Vì có ba sự việc nên được gọi là bậc nhất. Các Tỳ-kheo khác cũng thuyết pháp, nhưng không có ba sự việc đáng ghi, nên không gọi là bậc nhất. Tôn giả Mãn-nguyện-tử lúc thuyết pháp, trước hết dùng biện tài xướng phát âm thanh vi diệu, khiến mọi người nghe đều cùng hoan hỷ hướng về mình. Tiếp theo, dùng ngôn từ “khổ sở” để trách cứ nơi tâm khiến cho phần không thông đạt bên trong kịp sợ hãi, phát khởi tưởng khó gặp. Sau cùng thì dùng tuệ sáng để chỉ dạy về vô thường, không, vô ngã. Người nghe kiết tan, sử lặng, trí kết hợp, phát triển. Đức Thế Tôn diễn nói pháp đầu giữa cuối đều thiện. Tôn giả Mãn-nguyện-tử cũng vậy, ba sự cùng thiện (hoàn hảo). Tự lìa Đức Như Lai để giảng nói pháp, không vị nào có thể hơn mình. Tôn giả Thân Tử tự thệ: Từ sáng sớm đến giữa ngày, phải độ một người khiến đạt đến Đạo tích. Tôn giả Mục-liên cũng thệ nguyện độ người, ở trong bốn hướng định tính tiến một bậc, sau đấy mới thọ thực. Các Tỳ-kheo khác đều cũng độ người, nhưng so với Tôn giả Mãn-nguyện-tử thì không bằng một phần trăm. Tôn giả nầy từ lúc thành đạo cho đến Niết-bàn, đã độ chín vạn chín ngàn người, trong hàng Thanh văn là vị hóa độ chúng sinh nhiều hơn hết, nên gọi là thuyết pháp bậc nhất.

Sở dĩ xưng Tôn giả Ưu-ba-ly là trì luật bậc nhất: Vì vào thời trước, Đức Thế Tôn trở về thăm quê hương, theo lời thỉnh của vua cha là Tịnh Phạn. Số lượng các Tỳ-kheo đi cùng với Đức Phật, tuy tâm đều tinh thuần, nhưng dung mạo thì chưa tiêu biểu. Khi ấy, vua Tịnh Phạn muốn khuyên con em thuộc hào tộc họ Thích xuất gia làm Tỳ-kheo, để theo hầu Đức Phật, liền tuyên lệnh: Những gia đình họ Thích, nếu có hai anh em thì đều phải cho một người xuất gia tu đạo. Nếu không tuân lệnh thì sẽ bị phạt nặng. Lúc nầy, có một nam tử thuộc họ Thích, tên Diện Vương, là người lớn tuổi nhất trong đám con em họ Thích được xuất gia, theo thứ tự thì được xuống tóc trước. Đức Phật bảo Ưu-ba-ly cạo tóc cho người nầy. Lại dặn: Các người họ Thích thường hay kiêu ngạo, thân thể vốn mềm mại, ông nên từ từ, nhẹ tay trong việc cạo tóc. Ưu-ba-ly vâng lời, cạo nhẹ tay, lại quá nhẹ tay, hầu như không chạm vào da. Ưu-ba-ly lại lật ngược lưỡi dao, dùng sống lưng dao để cạo tóc. Đức Phật bảo: Không thể dùng mãi phần bụng của dao để cạo như thế. Cũng nói: Không thể tức thì cạo từ trên đảnh trở xuống một lượt hết nhẵn, nên từ từ. Năm trăm nam tử họ Thích thảy đều được cạo như vậy. Đức Phật bảo Ưuba-ly: Thiện lai Tỳ-kheo! Liền thành Sa-môn. Phật bèn trao giới tức đắc A-la-hán. Tiếp theo, trao giới cho năm trăm con em họ Thích. Ưu-ba-ly làm Thượng tọa, dùng tay xoa lên đầu năm trăm người kia là đệ tử. Thọ giới xong, lần lượt phải lễ bái Ưu-ba-ly. Những nam tử họ Thích ngày trước vốn thường kiêu ngạo, cho là hơn người, không thể hạ mình, lại thêm Ưu-ba-ly là “con em” của họ, nên đều nói: Đây là kẻ giúp việc cho gia đình chúng tôi, duyên cớ gì phải lạy. Đức Phật bảo: Không phải thế. Pháp không có sang hèn, ai đạt trước là anh, sau là em. Do dự một lát, chế ngự tâm ý rồi lễ bái. Tức thì trời đất chấn động lớn. Chư Thiên nơi hư không tán thán: Lành thay! Lành thay! Hôm nay các người họ Thích đã hàng phục được tâm ý cao ngạo. Ý ấy khó thắng nên đại địa chấn động. Cùng lúc với năm trăm nam tử họ Thích xuất gia hành đạo, cũng có chín vạn chín ngàn người xuất gia tu đạo. Tôn giả Ưu-ba-ly từ lúc theo Phật thọ giới trở đi, chưa từng vi phạm dù là mảy may. Do nhân duyên ấy, nên gọi là trì giới bậc nhất.

Chỉ do như thế hay còn có sự việc khác?

Phía Bắc Tinh xá Kỳ-viên có một Tỳ-kheo mắc bệnh, trải qua sáu năm vẫn chưa khỏi. Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly đến thăm hỏi Tỳkheo ấy: Thầy đau ốm đã lâu, có điều gì cần, nên nói ra. Thưa: Điều tôi cần thì không thể nói được. Hỏi: Thầy muốn cần vật gì? Nếu ở đây không có, tôi sẽ cho người đi khắp nơi tìm. Giả như ở thế gian không tìm ra thì lên cõi trời tìm. Đáp: Thứ tôi cần, trong thành Xá-vệ có, do trái với lời Phật dạy nên không thể nói. Hỏi: Song nói ra thì không khổ. Đáp: Tôi chỉ nghĩ nhớ về rượu. Được năm thăng rượu thì bệnh liền hết ngay. Tôn giả Ưu-ba-ly bảo: Hãy chờ đấy. Tôi sẽ vì thầy nên thưa hỏi Đức Phật. Tôn giả trở về chỗ Đức Phật, thưa: Tỳkheo bị bệnh cần rượu làm thuốc, không rõ có thể được uống chăng? Đức Thế Tôn dạy: Pháp Ta chế ra là để trừ bệnh. Tôn giả Ưu-ba-ly bèn đi lấy rượu cho Tỳ-kheo bệnh uống, bệnh liền khỏi. Lại nói pháp cho Tỳ-kheo đó, khiến chứng đắc A-la-hán. Đức Thế Tôn khen ngợi Tôn giả Ưu-ba-ly: Tôn giả đã thưa hỏi Như Lai về việc ấy, khiến cho Tỳ-kheo bệnh nhờ đấy mà khỏi, lại khiến đắc đạo. Tỳ-kheo nầy nếu không được độ, về sau sẽ bị đọa nơi ba đường dữ, không có kỳ hạn ra khỏi. Tôn giả nên vì các Tỳ-kheo vị lai nói về giới cấm, khiến họ nhận biết chỗ khinh, trọng, để được cứu độ nguy ách. Tôn giả đích thực là có thể trì luật, nên đem Luật tạng giao phó cho Tôn giả, chớ khiến bị thất tán. Trong các Tạng, Tạng nầy là tối tôn, không nên để cho hàng Sa-di cùng bạch y xen vào. Do nhân duyên ấy, nên lại xưng là bậc nhất.

Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà-ca-lợi đạt được tín giải thoát: Vị Tỳkheo nầy bị bệnh đã lâu, nằm mãi nơi giường trải qua sáu năm, những người chăm nuôi thảy đều bỏ đi. Tỳ-kheo bệnh tự nghĩ: Ta bị bệnh quá lâu, những người chăm nuôi đều mỏi mệt rất có thể chán nản, lại không được Đức Như Lai rủ lòng thương xót! Nên tự xử để dứt trừ bệnh khổ. Liền tìm lấy đao, hướng về đao, nói: Chỉ cần giết ta, là cũng sẽ đoạn trừ kiết chăng? Nói xong thì cầm dao tự đâm vào cổ, mũi dao vừa vào tới nửa yết hầu, đã được lậu tận, kịp khi đầu bị đứt, là chứng đắc Niết-bàn. Lúc ấy, đại địa chấn động, âm vang đến tận trú xứ của Ba-tuần. Ba-tuần nghĩ: Đây chắc là điềm gì ứng hiện nên đại địa mới chấn động như thế. Liền dùng “Thiên nhãn” xem khắp, thấy một Tỳ-kheo vừa tự hại, nhưng không biết thần túc của vị ấy đã đi về nẻo nào. Quán khắp các cõi trời, không thấy. Lại xem trong cõi người cũng không gặp. Lại xem nơi ba đường ác, cũng đều không thấy đâu. Bấy giờ, Đức Phật dẫn các Tỳ-kheo đến chỗ Tỳ-kheo vừa qua đời, chuẩn bị hỏa thiêu, thấy nơi tử thi có lửa hiện lên. Đây là do Ba-tuần phóng lửa để tìm thần thức của vị ấy, nhưng đều không biết hiện ở đâu. Sở dĩ Ba-tuần tìm kiếm là muốn biết nẻo thần thức tiến tới để hủy hoại, khiến không thành. Các Tỳ-kheo liền thực hiện việc hỏa thiêu. Đức Phật khen Tỳ-kheo nầy đã đạt được tín giải thoát. Hoặc nói: Phàm người tín tâm chí thành, mạng phó cho tự nhiên, hãy còn không cầm gậy để tự phòng hộ, huống chi là lại tự hại sao? Đáp: Tín, sở dĩ cầm đao, vì đao là tuệ kiếm, muốn dùng đấy để đoạn trừ các kiết. Thân tức là gốc của kiết. Căn phát triển tức là nhánh cành. Thân đoạn thì kiết trừ. Do đấy, người cầm đao không bị ngăn ngại. Cầm đao tín, chặt đứt cây nghi hoặc, nên câu tiếp theo viết: Ý không do dự. Từ tín giải thoát đến giải thoát không nghi, tức chuyển độn làm lợi. Do nghĩa ấy, nên gọi Tỳ-kheo Bà-ca-lợi là tín giải thoát bậc nhất.

Pages: 1 2 3 4 5