NHỮNG LÁ THƯ TỊNH ĐỘ
(Trích đọc những Lá Thư của Đại Sư Ấn Quang)
Thư Trả Lời Cư Sĩ Đinh Phước Bảo
Diễn đọc: Tạng Thư Phật Học

 

Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo

(thư thứ nhất)

Vừa nhận được thư gởi đến khôn ngăn thẹn thùng, sợ hãi. Ấn Quang là ông Tăng ở đậu, chỉ biết cơm cháo, do bất đắc dĩ nên mới bày ra khá nhiều thứ canh thừa, cơm sót cho xong trách nhiệm, mùi vị chua hôi, hình chất vữa nát, nhờm gớm mắt pháp của người khác, nhưng Úy Như vui thích cho là có ích cho kẻ đói nên đem truyền bá. Nếu các hạ muốn dẫn dắt cho những kẻ đói được ăn no cỗ vua mà trước đó đã dùng những món này để giữ hơi thở cho họ, chính là đã rủ lòng biệt đãi Quang quá mức rồi; há nên suy tôn Quang là người bậc nhất sau ngài Tỉnh Am? Dẫu Quang đáng xách dép cho ngài Tỉnh Am[1] cũng chẳng nên thốt ra lời nói quá phận ấy, huống là nói văn chương của Quang trội hơn ngài Tỉnh Am ư?

Làm người thì phải theo đúng luân thường, tuy các hạ yêu mến Quang rất sâu đậm, nhưng [nói như vậy] thì cũng giống như chính mình đã lỡ lời đó thôi! Ông nên biết rằng: Sau ngài Tỉnh Am có những vị đại cao nhân, họ có hơn ngài Tỉnh Am hay chăng, chẳng dám dùng phàm tình để đoán bừa! Vị đáng xếp vào hàng có thể sát cánh kề vai [ngài Tỉnh Am] vì học vấn, kiến địa, tu dưỡng, đạo đức, hạnh nghiệp chẳng kém cạnh chút nào, chính là thiền sư Triệt Ngộ. [Suy tôn] Ngài làm vị Tổ thứ mười[2] của Liên Tông, chẳng có phẩm đức nào đáng thẹn cả. Quang còn chưa dám xưng là hậu duệ [của các ngài Tỉnh Am, Triệt Ngộ], huống là được xếp vào cùng hàng ư?

Quán Thế Âm Bồ Tát tầm thanh cứu khổ, tùy loại hiện thân, sự nhiều, nghĩa rộng. Trước kia, Quang muốn tu chỉnh Phổ Đà Sơn Chí, đọc khắp các sách vở, chọn lọc hết để biên tập sao lục lại, hễ có ai nghi ngờ, bàn bạc chẳng thể thấu triệt đều thêm vào lời bình luận để mong sao phàm những ai là đồng bào đều được thấm gội ân trạch; nhưng vì túc nghiệp chưa tiêu, có mắt như lòa, không sao thực hiện được. Nay các hạ phát đại tâm ấy, sẽ giải được niềm tiếc hận lớn lao cho Quang, cảm tạ tột cùng, an ủi tột bậc! Bạch Y Chú[3] chưa tìm được xuất xứ, chắc là do Bồ Tát thuận lòng kẻ căn cơ kém cỏi trao truyền trong mộng mà thôi! Dùng tâm chí thành để niệm thì không điều mong cầu nào chẳng được ứng nghiệm, không nguyện nào chẳng được thỏa; nhưng hàng tri thức trong nhà Phật chẳng đem chú ấy dạy cho người khác vì không rõ xuất xứ, sợ khơi ra đầu mối để người khác bịa đặt và nói xằng là “kinh Phật đều chẳng phải đích xác từ Phật quốc truyền đến mà phần nhiều do người đời sau ngụy tạo!” Thế tục niệm thêm mấy câu vốn là lời chú nguyện, hễ có thì cũng chẳng trở ngại, nếu không thì cũng chẳng trở ngại chi! Những điều Vương Uông Dương ghi chép chưa gởi kèm theo thư cũng không cần phải gởi đến nữa. Bồ Tát tùy cơ ban bố sự giáo hóa, chẳng thể dùng những cách thông thường để dò lường được! Há có nên dùng tri kiến phàm phu để phán đoán ư? Chỉ nên tin tưởng, kính ngưỡng, phụng hành thì lợi ích sẽ rộng lớn.

Chiêu Khánh Kinh Phòng (Phòng phát hành kinh sách chùa Chiêu Khánh) ở Hàng Châu có bài Quán Âm Linh Cảm Phú, nhưng những chuyện được trình bày trong ấy có nhiều chuyện bị giản lược quá mức, ngôn từ chẳng đạt ý nghĩa. Lại có cuốn Quán Âm Trì Nghiệm Ký[4] không biết các hạ đã có hay chưa? Năm ngoái, Mạnh Do cậy Úy Như gởi tới [Phổ Đà] bản được sao lục từ Tạng kinh Nhật Bản; bản ấy do Châu Khắc Phục sưu tập, chỉ độ ba bốn chục trang. Nếu không có, xin hãy báo cho biết, tôi sẽ dâng lên ngay! Trong cuốn Hải Nam Nhất Chước[5] sự tích thật nhiều, đều đáng để thâu thập, Quang thẹn mục lực không đủ, chẳng dám theo giúp một bên. Nếu mục lực tốt ắt sẽ vì các hạ ra sức cho được thành tựu tốt đẹp, dẫu chết cũng chẳng nuối tiếc!

Ngày hôm qua, tôi đã gởi thư cho Vân Lôi nhờ ông ta in cho Quang năm trăm bộ Văn Sao, chuyện giữ bản in, dùng loại giấy nào v.v… đều cậy ông ta dọ hỏi. Hôm nay, chùa Pháp Vũ có đại sư Khai Tường đến đất Thân (Thượng Hải), tôi nhờ thầy ấy giao cho ông Vân Lôi một trăm đồng, năm mươi đồng của các hạ cũng giao cho Vân Lôi. Đến khi in xong, sẽ bảo ông ta tính giá gốc mỗi cuốn, năm mươi đồng thì thỉnh được bao nhiêu bộ, chia thành hai phần, một phần sẽ báo cho các hạ cử người đến xưởng in nhận sách, một phần gởi thẳng về Phổ Đà cho Quang. Lần thỉnh này Quang không có sức gởi đi được! Một trăm đồng tiền sách ấy chính để chuẩn bị sẵn [hòng có sách] gởi cho đôi ba người bạn mà thôi (Mồng Bốn tháng Ba năm Dân Quốc thứ sáu – 1917)

Thư gởi cho Vân Lôi xin cầm theo khi giao tiền, ông ta chẳng thường ở xưởng in, đi vào năm giờ chiều thì sẽ chẳng lỡ dịp.

(thư thứ hai)

Hôm qua nhận được một cuốn Phật Học Sơ Giai (Bước đầu học Phật), khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn đến cùng cực. Quang là kẻ vô tri vô thức, gượng ứng theo duyên đời, tùy theo sự thấy nghĩ ngu muội của mình mà nói ra những lời lẽ hủ bại, tuy về ý còn có thể chấp nhận được, nhưng lời văn chẳng tươi đẹp, thông suốt. Các hạ chép mấy thiên văn từ [của Quang] vào cuối sách ấy, sợ bậc thanh nhã, thông suốt lớn lao đọc đến chắc sẽ chê các hạ không xét kỹ. Các hạ chỉ một lòng khơi gợi tâm chánh tín của người khác; năm ngoái, Quang từng tính dùng Phật Học Khởi Tín Biên để kết duyên, nhưng các hạ vẫn tự mình phát tâm, cự tuyệt chẳng nhận tiền.

Nay có ông Cao Thiệu Lân ở Bắc Quan, huyện Phước Đỉnh – Phước Ninh tỉnh Phước Kiến đã có tín tâm từ đời trước, mấy năm gần đây chuyên tu Tịnh nghiệp. Ba năm trước, Quang từng gởi cho ông ta mấy chục loại kinh sách, trị giá khoảng hai mươi mấy đồng. Do cuộc đất ấy ở khuất trong núi, lại do khổ sở, đói nghèo nên không có sức thỉnh [kinh sách] được! Một hai năm gần đây lại có ông Trần Diên Linh cũng là người ở Bắc Quan cùng huyện, Thái Mậu Đường là người ở Nam Quan, thường gởi thư đến. Năm ngoái, Quang đem bộ An Sĩ Toàn Thư đã khắc in gởi cho ba người ấy mỗi người một bộ. Bọn họ cũng muốn lợi người, bèn trong mùa Thu lập hội giảng diễn, thỉnh một vị Tăng đến làm lễ Mông Sơn một buổi, mọi người cùng niệm Phật hồi hướng, rồi sau đó tùy sức giảng diễn quả báo thiện ác và pháp môn Tịnh Độ. Năm ngoái có đến sáu bảy chục người nhập hội, năm nay chỉ còn năm sáu chục người mà thôi.

Do tại huyện ấy từ thời Nguyên – Minh đến nay, chưa hề nghe đến chuyện mở hội diễn giảng, trong mùa Hạ năm nay, bọn họ đặc biệt mời một vị pháp sư thuộc tông Thiên Thai giảng kinh. Chuyện ấy bất quá để phát khởi lòng tin cho người nơi ấy mà thôi! Nếu nói là hiểu rõ ý nghĩa thì thật chẳng phải là chuyện dễ dàng! Huống chi do địa phương cùng khổ, cũng chẳng thể thường xuyên cử hành được. Trộm nghĩ cuốn Phật Học Sơ Giai do các hạ biên soạn khá thích hợp với căn cơ bọn họ, do sách ấy trước hết nói đến nhân quả, sau đó nói về Tịnh Độ. Phàm những người thông hiểu văn nghĩa đều lãnh hội được, người đọc sẽ vui vẻ hướng về điều cao cả, muốn chấm dứt [những điều xấu ác vốn do] tình thế vẫn chưa thể [chấm dứt được], người diễn thuyết cũng có thể dựa theo văn từ ấy để tuyên nói, chẳng cần phải hái Đông nhặt Tây, quả đúng là bước đầu tiên để khuyến thiện dẫn vào Phật pháp. Tôi vốn muốn bảo họ thỉnh sách ấy từ quý thư cục, nhưng sợ bọn họ pháp tài chẳng đủ chắc đành bỏ lỡ lợi ích. Nếu các hạ chịu phát lòng đại từ bi hành đại pháp thí, gởi đến khoảng ba bộ để họ mỗi tháng căn cứ theo lời văn mà diễn giảng khiến cho nhân dân trong huyện ấy đều biết nhân quả, đều tu Tịnh nghiệp thì công đức ấy cố nhiên vượt trội hơn thí cho người phú quý gấp ngàn vạn lần! Phật Học Chỉ Nam, Khởi Tín Biên, Lục Đạo Luân Hồi Lục cũng gởi đi mỗi thứ một hai bộ để tiện cho họ có tài liệu trích dẫn hòng diễn thuyết. Nếu gởi thì phía ngoài [bưu kiện] nên ghi tên người nhận là ông Cao Thiệu Lân ở Bắc Quan, huyện Phước Đỉnh, tỉnh Phước Kiến.

Phần Tịnh Tọa Pháp Tinh Nghĩa (Những ý nghĩa tinh xác về cách tịnh tọa) cuối sách Phật Học Sơ Giai danh chẳng phù hợp với thật cho lắm, có lẽ nên đề là Chư Tông Yếu Điển Lược Kỷ (Ghi chép đại lược về các tác phẩm quan trọng trong các tông), phía dưới có lẽ nên ghi rằng: “Gần đây trước thuật của Phật giáo các tông được khắc in cực nhiều, nếu chẳng biết được chỗ trọng yếu, sợ rằng sẽ dõi nhìn biển cả mà lùi bước; vì thế, chọn lấy những sách trọng yếu trong các tông để nêu bày một hai điều. Muốn nghiên cứu tông nào thì trước hết phải chọn đọc những sách trọng yếu của tông ấy thì sẽ tự có thể do ước lược mà biết được rộng rãi. Hễ đã rõ một thứ thì trăm thứ đều rõ”. Năm ngoái, khi bộ Văn Sao hủ bại của Ấn Quang được gởi đến, đã tính gởi cho nhóm ông Cao Thiệu Lân dăm ba bộ. Do mỗi năm vào tháng Hai có cư sĩ Lý Tuấn Cảnh (cũng ở Bắc Quan, người này chất phác, thật thà, chẳng thông văn lý) theo các thiện tín đến núi dâng hương, muốn đợi ông ta đến đây sẽ bảo ông ta đem về. Ai ngờ năm nay ông ta chưa tới, về sau do nhiều người cần sách nên phải gởi đi hết. Đợi cho nhà in giao sách sẽ đem gởi cùng với những sách do các hạ vui vẻ biếu tặng khiến cho người trong huyện ấy được gội ân lớn khôn cùng của các hạ (Ngày Mười Tám tháng Tư năm Dân Quốc thứ sáu – 1917)

(thư thứ ba)

Ấn Quang thuở nhỏ thiếu học vấn, lớn lên vô tri, ăn bám Phổ Đà hơn hai mươi năm, nhất loạt không giao du với hết thảy Tăng – tục, nào ngờ các hạ là bậc học rộng, văn chương lớn lao, hoằng dương, giảng nói đại giáo, đã rủ lòng ban cho tác phẩm lớn lao, lại còn gọi Quang là người có cùng chí hướng nhất trong những người cùng chí hướng, cảm kích, hổ thẹn khôn ngằn! Quang vừa sanh ra liền bị bệnh mắt, nay đã đến tuổi tai nghe đã thuận (sáu mươi tuổi)[6], suy yếu quá mức, không chỉ chữ trong tác phẩm lớn lao [của các hạ] không thể đọc được nhiều, mà ngay cả Tạng kinh chữ in to cả tấc cũng chẳng thể xem nhiều được! Do sức ác nghiệp trước kia, biết làm thế nào đây? Trong vòng một hai ngày, do ít có chuyện phải bận bịu, [mở tác phẩm của các hạ ra đọc] thấy những lời chú giải khá hợp sơ cơ, lời nào cũng có căn cứ, câu nào cũng hợp đạo, chẳng ngờ là trong đời này mà còn thấy người [có văn tài] như thế. Nhưng trong ấy cũng có những chỗ Quang nhìn không ra, muốn được thỉnh giáo để trừ nghi chướng. Tiếp đó, nghĩ mình chưa minh tâm, người ta có cách nhìn khác. Khi xưa Quang đã từng đối với Phật Học Tùng Báo, vội vàng khởi lên ý niệm “người nước Kỷ lo trời sập”[7], đứa bé con khen chiếu. Do vậy, dâng lên chương trình gồm chín điều, mong họ sẽ sửa đổi quy củ đã định nhằm làm sáng tỏ pháp đạo, cư sĩ Nhất Thừa bỏ qua không thèm đọc tới; nay dám lập lại sự bại nhục ấy nữa ư?

Nay gởi cho ông một bộ Ấn Quang Văn Sao, mong hãy rủ lòng sửa chữa cho đúng. Bộ Văn Sao này do ông Từ Úy Như ở Hải Diêm (tỉnh Chiết Giang) ấn hành, biếu tặng. Năm Dân Quốc thứ hai, ông Cao Hạc Niên tới núi, đem văn cảo hủ bại của Quang đến đất Hỗ (Thượng Hải), cư sĩ Lê Đoan Phủ cho chép lại bốn bài luận ấy để đăng báo. Cố nhiên ông ta biết Quang chẳng muốn được người khác biết tới bèn dùng biệt danh [Thường Tàm] để ký dưới những bài đã đăng trong Phật Học Tùng Báo. Từ cư sĩ thấy vậy, lầm lẫn bội phục, hỏi thăm khắp mọi người nhưng không tìm được. Đến khi đã biết [những bài luận ấy] do chính Ấn Quang viết, liền cậy ông Địch Sở Thanh giới thiệu, muốn trao đổi thư từ trước khi gặp gỡ. Quang viện cớ người hèn đức bạc, học vấn hời hợt, thiển cận để cố từ chối. Ông ta liền dò hỏi khắp bạn bè, sưu tập được bao nhiêu đó lá thư hủ bại và sao lại những bài đã đăng trên Phật Học Tùng Báo cho sắp chữ đem in.

Cuối tháng Ba mùa Xuân năm nay, ông Từ cầm theo ba mươi bản đến núi thăm Quang. Lại còn muốn đem hết những văn cảo hủ bại khác, tính biên tập những phần đã được in và chưa được in rồi đem khắc ván. Mấy chục năm qua, nếu không có chuyện gì Quang chẳng động đến bút mực, nếu bị ai sai bảo hay bày tỏ nỗi lòng với bạn bè thì bút cùn lời thô, trọn chẳng đáng xem! Ông ta đã lầm lạc tán thưởng, chỉ đành đem lầm lạc đáp tạ lầm lạc, tùy duyên mà thôi! Trong bộ Văn Sao ấy vẫn có hơn mười chữ sai lầm, nhưng do mục lục không kham nổi nên chưa thể nêu ra. Bài luận Chẳng Nên Lẫn Lộn Giữa Tông Và Giáo bị tòa soạn Phật Học Tùng Báo thêm vào hơn một trăm chữ, thoạt mới đọc qua, dường như thông suốt, hợp lẽ, nhưng nếu chú tâm đọc kỹ, chẳng ổn thỏa, thích đáng lắm. Do vậy bèn bảo ông ta sao lục theo đúng nguyên bản.

Phổ Đà là chốn môn đình cúng bái, người chuyên tâm nghiên cứu kinh luận ít ỏi; hơn nữa, do Quang trọn chẳng dự đoán được chuyện này, chẳng kết giao cùng sĩ đại phu, rất ít người biết đến, không cách nào thúc đẩy, lo toan chuyện thù thắng (tức chuyện nghiên cứu kinh luận) được, nhưng một niềm ngu thành trộm dâng lên các hạ. Lưu thông kinh Phật chẳng giống như lưu thông báo chí, tiểu thuyết… mà cần phải nghĩ tính đến chuyện về lâu về dài thì mới hữu ích. Đúc bản kẽm tuy thuận tiện, nhưng rốt cuộc khó thể là kế sách lâu dài, vì trong mực in dùng cho bản kẽm đã bỏ thêm nhiều chất nước thuốc, lâu ngày [chữ in] sẽ bị phai nhạt, mất nét. Hãy nên in bằng bản gỗ thì mới lưu truyền lâu dài được. Ấn Quang gởi thư cho báo Phật Học Tùng Thư chính là vì chuyện này. Những phần được trích lục trong Văn Sao đã vì bạn bè mà lược bớt mấy đoạn. [Ông với Quang tuy ở] khác nơi mà cùng một tấm lòng, khác nhà mà như tận mặt trò chuyện. Đã coi nhau là người cùng chí hướng, chớ nên trách tôi chẳng thuận theo những thứ tán dương, khen ngợi này nọ [để gây phiền cho nhau] (Ngày Mười Tám tháng Sáu năm Dân Quốc thứ sáu – 1917)

(thư thứ tư)

Hôm Mười Tám Quang đã kính gởi cho các hạ một lá thư hủ bại và bộ Văn Sao vụng về, không biết đã nhận được hay chưa? Không ngờ các hạ cũng lại gởi thư phúc đáp ngay trong ngày hôm ấy, đồng tâm tương cảm đấy chăng, hay là ngẫu nhiên phù hợp mà thôi?

Nghi thức niệm Phật như đã nói phải chia thành hai loại: Niệm Phật cùng đại chúng và niệm một mình. Nếu niệm cùng đại chúng, hãy nên dựa theo Niệm Phật Khởi Chỉ Nghi (nghi thức niệm Phật) trong kinh nhật tụng để khỏi gây trở ngại [cho những người đã quen hành trì] theo lối thông thường, đây – kia đều hợp lẽ. Còn tu niệm Phật một mình tuy có thể [hành] theo [chương trình do] mỗi người tự lập, nhưng thứ tự niệm tụng chớ nên tán loạn. Tức là nói buông xuống thân tâm, nhắm mắt, lặng thần, niệm Tịnh Pháp Giới Hộ Thân Chú[8] và thầm tưởng bài kệ Tán Phật, lễ Phật và ba vị Bồ Tát xong. Nếu tụng kinh thì tụng kinh Di Đà một biến, Vãng Sanh Chú ba biến xong rồi mới niệm rõ ràng bài kệ Tán Phật xong, liền niệm tiếp “Nam-mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật” rồi chỉ niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Hãy nên vừa đi nhiễu vừa niệm, hoặc niệm mấy trăm tiếng, hoặc niệm một ngàn tiếng. Cuối cùng niệm ba danh hiệu Bồ Tát “Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng”, rồi mới niệm bài Phát Nguyện Văn, niệm xong sẽ đọc Tam Tự Quy. Đấy là nghi thức của một kỳ niệm Phật vậy. Nếu muốn tụng kinh nhiều hơn, hoặc tụng nhiều chú, hãy nên lập một thời tụng kinh khác. Nếu cùng làm trong một lúc thì phải tụng kinh trước, kế đó tụng chú, rồi đến tán Phật, niệm Phật, tiếp theo là phát nguyện, tam quy. Đấy chính là thứ tự quyết định chẳng thay đổi vậy.

Pháp Thập Niệm do ngài Từ Vân Sám Chủ vì hàng quốc vương, đại thần việc nước đa đoan, không rảnh rỗi để chuyên tu mà lập ra. Lại muốn khiến cho họ được tịnh tâm, nhất tâm, nên lập ra cách lấy hết một hơi thở làm một niệm để tâm họ nương theo hơi thở mà thâu nhiếp, không bị tán loạn. Sự mầu nhiệm của pháp ấy nếu không phải là người trí sẽ không thể biết được! Nhưng chỉ có thể dùng một lần vào buổi sáng, hoặc dùng ba lần: buổi sáng, buổi tối và giữa trưa, chớ nên dùng nhiều! Dùng nhiều sẽ bị tổn khí thành bệnh. Chớ nên nói pháp này dễ nhiếp tâm nhất bèn sử dụng thường xuyên thì bị hại chẳng nhỏ đâu!

Niệm Phật niệm ra tiếng hay niệm thầm thì phải xét nơi chốn, quang cảnh như thế nào. Nếu niệm ra tiếng rõ ràng không gây trở ngại gì thì nên niệm rõ tiếng như khi thực hiện nghi thức niệm Phật, nhưng chỉ nên sao cho nghe tự nhiên, đừng niệm quá lớn tiếng. Quá lớn tiếng có thể bị tổn khí mắc bệnh. Nếu tình hình nơi chỗ ta đang ở chẳng tiện niệm ra tiếng thì chỉ niệm nhỏ tiếng và niệm Kim Cang Trì, công đức chỉ ở chỗ chuyên tâm dốc chí, còn âm thanh vẫn là chuyện nhỏ. Trừ lúc riêng thực hành [công khóa] niệm Phật ra, nếu suốt ngày thường niệm thì cố nhiên nên niệm nhỏ tiếng, niệm Kim Cang, hoặc niệm thầm, vì nếu cứ thường niệm ra tiếng rõ ràng, ắt sẽ đến nỗi bị tổn khí. Chưa chứng Pháp Thân, cần phải điều hòa sao cho thích đáng thì mới chỉ có ích, chẳng bị tổn hại. Niệm rõ tiếng tốn sức, niệm thầm dễ hôn trầm. Tuy tán trì có công đức khó nghĩ tưởng, nhưng so với nhiếp tâm tịnh niệm khác nào một trời một vực!

Đối với mấy điều này, Quang từng khá tốn công nghiên cứu, năm ngoái đã tìm ra một cách hay khéo thuận tiện, viết thư trình bày với những người tri kỷ, ai nấy đều khen ngợi. Nếu đã [niệm Phật] thành phiến, cố nhiên không cần dùng tới cách này. Nếu chưa thành phiến và hết thảy những kẻ sơ cơ sử dụng cách này thì không ai chẳng thích hợp, chỉ có ích chứ không bị tổn hại. Tuy các hạ không cần đến cách này, nhưng cũng nên vì những kẻ tu Tịnh Tông chưa nhận được cửa mà thực hành thử để bảo khắp với những người thông sáng mai sau. Cách ấy được ghi nơi hàng thứ tám trong trang bốn mươi lăm bộ Ấn Quang Văn Sao[9], xin hãy kiểm xem.

Trước đây, đọc tác phẩm lớn lao của ông, thấy chữ “tướng hảo quang minh” trong bài Kệ Tán Phật đã bị đổi thành “tướng sắc quang minh”, tôi đoán là do thợ sắp chữ ngẫu nhiên sắp lộn. Trong thư này, lại thấy các hạ viết là “tướng sắc”, mới biết các hạ cố ý sửa đổi. Tám câu kệ này do Anh pháp sư ở Đồng Giang đời Tống[10] tóm lược những ý nghĩa chánh từ ba kinh Tịnh Độ mà soạn ra, không một chữ nào không có lai lịch, há nên sửa đổi bừa bãi? Quán Kinh dạy: “A Di Đà Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo[11], trong mỗi một hảo có tám vạn bốn ngàn quang minh”. Các hạ thông hiểu Phật pháp sâu xa, sao không thấy được chỗ này? Trong hai cuốn Tiên Chú[12] những chữ giống như thế này rất nhiều, Quang tính muốn nói cặn kẽ, nhưng sợ người ta chẳng vừa lòng, nên nói: “Tôi chưa minh tâm, người ta có cái nhìn khác”. Ở đây, do ông đã trống lòng hỏi đến, chẳng ngại gì thừa dịp phô bày [sự hiểu biết] tầm thường. Nếu các hạ thật sự lo tính cho Phật pháp, cho chúng sanh, chắc sẽ chẳng vì xung đột ý kiến mà quở trách. Nếu chỉ muốn khen ngợi thì hãy nên hướng về bọn xu phụ thời thế mà bàn luận; Ấn Quang tuy kém cỏi vẫn chẳng muốn đi theo ngõ rẽ ấy!

Trong sách Di Đà Trung Luận của Vương Canh Tâm, do chẳng biết pháp môn Quyền – Thật của Như Lai, chẳng biết căn cơ chúng sanh sai biệt nên phàm có điều gì chẳng hợp với ý kiến của chính mình đều bảo là sai lầm, mạt sát các vị thiện tri thức trong cả một ngàn năm trăm năm, chỉ đề cao một mình đại sư Nhất Tỉnh nhằm phô rõ chính mình được thánh sư truyền cho chân tông nhà Phật! Tuy nói là hoằng pháp, nhưng quả thật đã chèn ép, hoại loạn Phật pháp, tạo ra mối tệ sâu xa khiến chúng sanh lầm lạc, nghi ngờ, quyết chớ nên lưu thông sách ấy!

Ông Châu Mạnh Do từng thống thiết khen ngợi họ Vương trước mặt Quang, Quang nói đại lược những điểm tệ hại, nhưng ông ta vẫn chưa cam lòng, vẫn gởi sách ấy đến. Xưa kia Quang đã tạo nên cái nghiệp mù mắt, nay chẳng dám đi vào vết xe ấy, bèn hết sức trình bày những điều tệ, nhưng ông ta vẫn chưa tin trọn vẹn, đem thư của Quang gởi cho Từ Úy Như. Úy Như nói Quang phê phán như vậy vốn có hiểu biết riêng; do vậy, bèn đem lời tiên sinh Dương Nhân Sơn chê trách [sách ấy] gởi cho [ông Châu]. Châu Mạnh Do đem lời nói của đôi bên so sánh, mới biết rằng: Ấn Quang thật chẳng phải là nói mò, nhưng lời chê trách của tiên sinh Nhân Sơn đa phần chú trọng tại lời văn, còn lời chê trách của Quang chủ yếu dựa trên đại thể và tâm bệnh. Lưu thông Phật pháp quả thật chẳng phải là chuyện dễ! Phải mong sao khế lý, khế cơ, trọn chớ nên vâng theo cái tâm [thiên kiến riêng tư] rồi tự lập [những ý kiến ức đoán] để khoe lạ phô kỳ, hòng thỏa thích tri kiến một thời của bọn tân học mà thôi! Đã là tri kỷ, chẳng ngại gì dâng lời nói thẳng (Ngày Hai Mươi Ba tháng Sáu năm Dân Quốc thứ sáu – 1917)

(thư thứ năm)

Ngày Hai Mươi Tám tháng trước đã kính nhận được thư và các sách về Nho – Phật do ngài biên soạn, kính cẩn mở ra đọc, cảm kích, hổ thẹn khôn ngằn! Ấn Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo mà thôi, nếu không có việc gì sẽ chẳng đụng đến bút mực, gặp chuyện ép buộc bất đắc dĩ thì bút cùn, lời quê, quấy quá cho xong trách nhiệm! Há nên khen ngợi, tán dương quá đáng, đến nỗi đánh mất lợi ích thật sự do được rèn giũa, gọt mài, lệ trạch[13], giúp cho điều nhân vậy? Các hạ học rộng nghe nhiều, là bậc quân tử tận tụy tu dưỡng trong đạo Nho, biên soạn những cuốn Độc Thư Lục và Thiếu Niên Tấn Đức Lục v.v… thảy đều tinh vi, thuần túy, tôi không chen vào đâu được, đúng là kim thang[14] cho thánh giáo, là khuôn mẫu cho bọn hậu sanh. Tuy vậy, những bộ Tiên Chú cho kinh Phật dù đại thể sâu xa, hay đẹp, bóng bẩy, trong ấy vẫn có khá nhiều chỗ không thích hợp cho lắm. Câu “chẳng che giấu tỳ vết” chính là nói về điều này vậy, vì với học vấn, kiến địa của các hạ mà sao cũng chẳng thấy được chỗ này?

Ấy là vì Phật pháp là pháp siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Trong ấy, dù văn hay nghĩa, dù sự hay lý, có những điều giống với thế gian, có thể dùng thường tình để suy lường. Có những điều chẳng giống với thế gian, chẳng thể dùng thường tình để suy lường được! Cố nhiên Ấn Quang ngu si khôn ví, xuất gia hơn ba mươi năm mà chẳng dám sớ giải kinh điển một chữ, một câu nào, vì chính mình chưa minh tâm, đâu thể nào khế hợp Phật ý! Cổ nhân chú giải kinh, có vị mười năm hay tám năm chú giải một bộ, có vị suốt đời chỉ chú giải một bộ. Còn như các vị Thiên Thai, Hiền Thủ, Vĩnh Minh, Ngẫu Ích v.v… thật sự là những vị đã chứng Pháp Thân từ lâu, nương theo thệ nguyện hoằng pháp [mà thị hiện giáng sanh], chớ nên đem bọn phàm tục thường nhân sánh với các ngài!

Các hạ nghiên cứu kinh Phật, chưa đầy vài ba năm liền có thể thấu đạt tận cùng chỗ sâu xa, huyền áo như thế. Nếu dùng công phu mười mấy năm thì đối với mỗi một chữ trong bản chú giải ấy Ấn Quang sẽ lạy một lạy để báo ân hoằng kinh, mong cho [bản chú giải ấy] được vĩnh viễn lưu truyền. Nay ông đã lầm lẫn coi Quang là người cùng chí hướng và là bạn tri kỷ, lại bảo Quang chỉ ra mỗi chỗ chưa thấy đến, nhưng Quang mắt gần như đã mù khi vừa sanh ra, chẳng thể đọc tường tận mỗi một điều được, chỉ đành nêu đại lược một hai chỗ đã thấy. Nhưng lòng ngu trung chẳng giúp được gì, lời cuồng nhàm tai, chỉ có thể giúp đỡ vặt vãnh cho việc nghiên cứu, bàn bạc, chưa thể coi là lời bàn luận đích xác quyết định bắt buộc phải noi theo. Xin hãy rủ lòng rộng lượng chỉ bảo cho những chỗ sai thì may mắn lắm thay!

Đức Như Lai giáng sanh vào thời nào có nhiều thuyết khác nhau. Tuy mỗi thuyết đều hợp lý, nhưng xét đến cùng, chẳng [thuyết nào] thích đáng bằng thuyết nói đức Phật giáng sanh vào năm hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương (971 trước Công Nguyên). Bởi lẽ, khi [hoàng đế] triều Hán nằm mộng [thấy người vàng, đem chuyện ấy hỏi ý quần thần], Thông Nhân Phó Nghị, Bác Sĩ[15] Vương Tôn đã dùng thuyết này để tâu trình, lại còn dẫn sách Châu Thư Dị Ký để làm chứng[16]. Nay Châu Thư Dị Ký không còn thấy nữa, nhưng cuộc vấn đáp nơi sân chầu nhà Hán quyết chẳng phải là bịa đặt! Huống chi trước thuật Thiền – Giáo các đời phần nhiều đều lấy thuyết này làm chuẩn, quyết chẳng nên bỏ qua ý kiến đã được mọi người tuân theo để tự lập nghĩa mới, gây thêm nghi ngờ cho người thiếu học thức đời sau. Dẫu có một hai bộ sách nói theo kiểu này, nhưng đấy là vì tác giả sẵn chí bảo vệ đạo pháp nhưng chưa đọc rộng rãi các sách vở, cho rằng năm Trang Công thứ bảy[17], hằng tinh[18] chẳng hiện, ban đêm mà trời sáng như ban ngày, nếu không phải đức Phật xuất thế thì ứng với chuyện nào nữa đây? Chẳng biết bậc phi thường đản sanh và pháp phi thường được lưu truyền, đều có những tướng lành phi thường, há phải chỉ mình đức Như Lai mới có, còn các vị Pháp Thân đại sĩ thị hiện thì hoàn toàn không có [những tướng lành ấy] ư?

Sách Thiền chép khi ngài Nam Nhạc [Hoài] Nhượng[19] sanh ra, khí trắng ngút trời, quan Thái Sử tâu lên vua rằng đấy chính là điềm lành, còn những chuyện chẳng được lưu truyền trong sách vở chẳng biết là bao nhiêu? Nếu cứ định là năm thứ chín đời Trang Vương thì những người đời sau các hạ đọc kỹ những sách vở trong nhà Phật sẽ thấy niên đại trước sau đều chẳng thể luận cho xuông được. Vì sao vậy? Do Phật sanh sau mà đệ tử Phật và các di tích, sự thật về Phật đã có trước. Đã chẳng chịu nói là Phật sanh vào thời trước đó mà lại chẳng thể đẩy các sự ấy ra sau; nếu lặng thinh không bàn đến thì thôi, hễ bàn đến sẽ trở thành tự mâu thuẫn! Huống chi trong lời tựa dùng năm thứ hai mươi sáu đời Châu Chiêu Vương để chú thích! (Có người nói năm Giáp Dần là năm thứ hai mươi sáu đời Châu Chiêu Vương, nhưng đa số cho là năm thứ hai mươi bốn), trong kinh lại dùng năm thứ chín đời Trang Vương[20] để chú thích! Cùng là trước tác của một người, sao lại lập luận ngoắt ngoéo như thế, thật tạo trở ngại lớn cho kẻ sơ cơ! Cố nhiên, do các hạ vô ngã, sẵn chí lợi người nên tôi không thể không tận hết một chút ngu thành! Tiếc rằng Quang không có tánh đa văn nên chẳng thể viện dẫn sách vở để chứng minh, thật quá thiếu sót!

Đối với câu “[Để ra vẻ ta đây] là một vị cư sĩ thông hiểu kinh điển, người chú giải ưa dùng mánh khóe viết sao cho câu văn phức tạp, bóng bẩy” và hai câu kế tiếp đó trong lời tựa của pháp sư Đế Nhàn dành cho bản Di Đà Kinh Tiên Chú, những điều được nói [trong phần chú thích của các hạ] không được ổn thỏa, sát sao cho lắm! Trong lời chú thích, [các hạ] đã dẫn lời Kỷ Đại Khuê:

“Kinh Hoa Nghiêm danh nghĩa hết sức phức tạp, nhưng quả thật đầu mối rành mạch, chỉ nên căn cứ theo danh sắc của nguyên bản mà lãnh hội. Ngài Thanh Lương thêm vào những danh sắc “hàng bố, viên dung[21], tứ pháp giới[22], thập huyền[23]” v.v… để bày vẽ, chồng đệm, dựng nhà v.v… thật khiến cho người ta kinh hãi khôn ngằn!” Chẳng ngờ kiến địa như Hoàng cư sĩ[24] và các hạ mà lại dẫn những câu ấy để chú thích lời tựa của pháp sư Đế Nhàn, khiến cho người thông hiểu đều kinh hãi, lạ lùng, [lại còn] khơi gợi cho người đời sau đua nhau chê trách cổ nhân[25]. Mối tệ ấy thật chẳng nông cạn đâu! Vì thế, chẳng thể không nói, chẳng nỡ không nói!

Trộm nghĩ: Đối với các pháp do đức Phật đã nói, nhằm thích hợp cho chín pháp giới, những nhà chú giải đời sau ai nấy tùy theo căn cơ của từng loại mà lập ngôn nhằm làm lợi cho kẻ sơ cơ. Nếu không chú thích cặn kẽ, giải thích ý nghĩa từ ngữ, ý nghĩa lời văn thì sẽ không thể được! Muốn làm lợi cho hạng căn cơ lớn lao mà chẳng giảng giải ý nghĩa lớn lao để họ thấu hiểu ý Phật thì không thể được! Hai vị đại sư (Thiên Thai Trí Giả và Thanh Lương Trừng Quán) mỗi vị đều có chủ ý, chứ không phải là hai vị đều có chỗ đúng, chỗ sai! Vì thế, ngài Thiên Thai giải thích kinh, dùng nhân, duyên để phán giáo, [phân biệt] Bổn, Tích, quán tâm sai khác; đấy là vì ý nghĩa kinh sâu thăm thẳm, chẳng thể dùng một văn một nghĩa để nói trọn hết được! Nếu chỉ chấp nhận dựa theo ý nghĩa của từ ngữ, ý nghĩa của kinh văn để giải thích kinh thì những văn nhân biết chữ đọc sách trong cả thế gian đều đạo cao như ngài Thanh Lương, tâm khế hợp Phật tâm; mà ngược lại, ngài Thanh Lương là tội nhân phá hoại Hoa Nghiêm bậc nhất! Có lẽ ấy hay chăng? Quân tử do một lời mà được coi là trí, do một lời mà bị coi là bất trí, há chẳng nên cẩn thận ư?

Nếu chỉ y theo ý nghĩa kinh văn [để giải thích kinh điển] thì câu nói “đức Như Lai vì ta diễn nói pháp môn Phổ Nhãn. Giả sử dùng mực có số lượng bằng biển cả, dùng bút chất đống [cao to] như núi Tu Di để viết một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một nghĩa trong một pháp, một câu trong một nghĩa của pháp môn này vẫn chẳng viết được chút phần, huống là có thể tận hết!” của tỳ-kheo Hải Vân trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm sẽ trở thành lời nói dối, tự phá hoại kinh Hoa Nghiêm; các vị tôn túc thuộc tông Thiên Thai và Hiền Thủ đều là tội nhân trong Phật môn hết! Làm sao có thể dẫn lời ông Kỷ Đại Khuê để làm chứng cho được? Xét tới bổn tâm thì [ông Kỷ Đại Khuê] cũng không phải là cố ý bài xích, nhưng [ông ta phạm lỗi] dùng tri kiến văn tự thế gian để luận định đại pháp xuất thế gian chẳng thể nghĩ bàn! Nguyên do là vì chưa thân cận bậc tri thức sáng mắt đến nỗi hoằng pháp lại trở thành báng pháp vậy!

Tiếp đến, bàn về A Di Đà Kinh Tiên Chú, mới đọc [đoạn đầu], “Tinh (星) chính là tam thiên đại thiên thế giới”, khôn ngăn kinh dị! Lại đọc tiếp phần chú giải câu “quá thập vạn ức Phật độ” và lời chú giải câu “tam thiên đại thiên thế giới” lại khôn ngăn kinh dị! Sao các hạ đã biết thật sự, thật lý, mà lại nêu ra những thuyết không tra cứu từ đâu được ấy? Mong rằng trong lần xuất bản kế tiếp của cuốn [A Di Đà Kinh] Tiên Chú, hãy gạt bỏ hoàn toàn [câu ấy] ra khỏi đoạn thứ nhất của phần Tạp Ký. Nếu không, hãy sửa đổi đoạn văn “Tinh (các ngôi sao) chính là tam thiên đại thiên thế giới” sao cho phù hợp với phần chú giải ở phần sau thì sẽ có ích, không bị tổn hại. Tướng lưỡi của đức Như Lai che mặt đến tận mí tóc chính là tướng lưỡi thông thường của đức Phật vốn được nói đến trong Tam Tạng. Nếu nhằm đoạn nghi cho chúng sanh căn cơ nhỏ nhoi trong tam giới, [đức Như Lai] bèn hiện tướng lưỡi này để biểu thị đức Phật chẳng hề nói dối. “Che khắp tam thiên đại thiên thế giới” cũng có thể [hiểu] là nói ví dụ; nhưng nếu bảo hoàn toàn chẳng có chuyện ấy thì những nhà chú giải từ trước đến nay đều là hiểu biết ngốc nghếch hết cả hay sao?

Do kiến giải phàm tục, ông Diệp Tích Phụng đọc sách này khen ngợi khôn cùng, nhưng những vị thông đạt xem đến ắt sẽ đau tiếc than thở, nói các hạ do tấm lòng cực lực hoằng dương kinh điển, rốt cuộc trở thành những lời báng Phật, báng Pháp, báng Tăng. Diệp Tích Phụng là một gã Nho sinh đối với huyết mạch ngữ ý của kinh văn vẫn chưa hiểu rõ nên buông tuồng không kiêng sợ, cho là “những nhà chú giải kinh này thời cổ đều bịa đặt chẳng tuân theo lẽ thường, vô lý đến cùng cực, thật đáng khiến cho người ta phải cười ồ!” Ông ta nói lời ấy cũng là lấy tri kiến phàm phu để suy lường cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, do hoàn toàn chưa hiểu rõ kinh văn mà ra!

Nay tôi chẳng nề hà phiền toái để giải thích đại lược: Tam thiên đại thiên thế giới là cõi nước ngự trị của một đức Phật. Đang trong khi đức Thích Ca Như Lai giảng về những chuyện “y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới, quang minh thọ lượng của Phật Di Đà, chúng sanh trì danh liền được tiếp dẫn” v.v… ở phương Đông có hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới. Trong một thế giới có vị Phật tên là A Súc Bệ, một vị Phật trong thế giới khác tên là Tu Di Tướng, cho đến một thế giới [khác nữa] có Phật hiệu là Diệu Âm. Trong số những vị Phật ở hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới nơi phương Đông, chỉ nêu đại lược năm vị. Tiếp đó [dùng từ ngữ] “như thị đẳng” (giống như vậy) để nêu toàn thể [hồng danh những vị Phật ấy] một cách giản lược. Hằng hà sa số các đức Phật, mỗi vị đều tự ở trong tam thiên đại thiên thế giới do chính mình làm chủ, nghe đức Thích Ca nói bài kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm (khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn được hết thảy chư Phật hộ niệm) này, muốn cho đại chúng trong pháp hội sanh lòng tin, phát nguyện tu trì, nên mỗi vị đều ở tại cõi mình hiện đại thần thông, hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin tưởng bản kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm do đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói này”. Năm phương kế tiếp đó đều giống như thế, còn bản dịch đời Đường thì ghi là mười phương, bất quá nói rộng điều [được thuật] đại lược trong bản kinh này; chứ thật ra bản dịch đời Tần chẳng giảm, bản dịch đời Đường không tăng.

Họ Diệp chẳng biết mỗi vị Phật có cõi nước riêng nên cho rằng “những phương Đông, Tây… của thế giới này ở mỗi phương đều có hằng hà sa số Phật”, rồi lo các Ngài va chạm nhau, nhiễu loạn sông núi khiến nhân dân không có chỗ để dung thân, và lo lưỡi của chư Phật va đụng nhau không có chỗ để đặt lưỡi, thật đáng khiến cho người khác cười rụng răng! Nhưng ông ta vẫn dương dương tự đắc nói: “Ta bù đắp chỗ thiếu sót của kinh, sửa đổi cho đúng chỗ sai ngoa của tăng chúng. Ba kinh Tịnh Độ từ nay mới có thể không còn chỗ nào đáng tiếc nuối!”

Ba ngàn đức Phật ba đời[26] trong thế giới Sa Bà mỗi vị đều có thời gian xuất hiện riêng biệt, trước sau chẳng loạn. Một đức Phật ra đời, hết thảy chư Phật nếu muốn giúp vị ấy hoằng tuyên pháp hóa, đều chẳng được hiện thân Phật. Vì thế, Quán Âm, Văn Thù v.v… đều ẩn đức Thập Lực[27], hiện thân Bồ Tát, giống hệt như một bầu trời không có hai mặt trời, dân không có hai vua, đầu mối pháp đạo được quy về một mối. Họ Diệp chẳng biết nghĩa này mà các hạ vẫn bị ông ta mê hoặc thì những người bị ông ta mê hoặc sẽ nhiều lắm, nhiều đến hằng hà sa số. Tiếc thay!

Phần Tạp Ký, nơi hàng thứ nhất trong trang thứ hai, hai chữ “tinh cầu” nên bỏ đi. Trang mười lăm, câu “phi thị toán số chi sở năng tri” (chẳng thể tính toán mà biết được số) (lời chú giải ghi: nhiều đến nỗi không kể xiết), ý nghĩa tuy rõ ràng nhưng chưa giảng rõ ý nghĩa của chữ [“toán số”]. Toán số (算數) là “toán kế chi số” (con số do tính toán mà có), tức là những con số một, mười, trăm, ngàn, vạn, ức, triệu, kinh, tỷ, cai, nhưỡng, cấu, giản, chánh, tải[28] ở phương này. Trong kinh Phật thì như trong phẩm A Tăng Kỳ của kinh Hoa Nghiêm đã nói tới một trăm bốn mươi con số, “vô lượng, vô biên” cũng nằm trong số ấy. Vì thế, ngài Ngẫu Ích nói: “A Tăng Kỳ, Vô Lượng, Vô Biên đều là danh xưng của các con số, quả thật là vô lượng của hữu lượng. Do đã là tên gọi của các con số nên là hữu lượng (có hạn lượng), nhưng trong kinh quả thật nêu chung chung số lượng nhiều không thể kể xiết nên đấy chính là vô lượng của vô lượng[29]”.

Trong cuốn Quán Thế Âm Kinh Tiên Chú, dưới câu “nhĩ thời Vô Tận Ý Bồ Tát” (lúc ấy, Vô Tận Ý Bồ Tát) nên thêm lời chú giải rằng: “Nhĩ (爾) là lúc này, lúc ấy. ‘Nhĩ thời’ là lúc đã nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát”. Hàng thứ mười tám nơi trang mười sáu (hàng thứ hai chữ nhỏ), chữ Xúc (觸) bị viết sai thành Thương (觴).

Phần Tạp Ký trong Tâm Kinh Tiên Chú, nơi trang thứ hai, các hàng mười một, mười hai, mười ba, mười bốn, “bản Tâm Kinh được khắc trên đá thời [Thanh] Cao Tông (Càn Long), câu chú không giống”. Câu chú khác nhau là do năm đầu đời Cao Tông, lạt-ma Chương Gia[30] đem các bài chú trong Đại Tạng Kinh dịch ra theo cách tụng niệm thông dụng của các lạt-ma Mông Cổ, đặt tên là Mãn Mông Phiên Hán Hợp Bích Đại Tạng Toàn Chú. Chữ Mãn, chữ Mông Cổ, chữ Phiên[31] [chúng ta] đều chẳng biết đọc, ngay cả chữ Hán tuy biết, nhưng có khi phải dùng hai chữ, ba chữ, bốn chữ để viết vào một chỗ[32]. Nếu chẳng hướng đến người Mông Cổ và người Tây Tạng để học [cách đọc] sẽ chẳng thể đọc được, dẫu đọc cũng không đúng cách. Nhưng từ đời Hán đến đời Tống hơn một ngàn năm, người dịch kinh nếu chẳng phải là bậc Pháp Thân thị hiện thì cũng là bậc trượng phu anh liệt siêu quần bạt tụy, há đều chẳng thông hiểu chú ngữ ư? Bất tất phải sanh tâm tôn sùng, coi trọng bản dịch của ngài Chương Gia, nghĩ là kỳ lạ, đặc biệt; đấy chính là bỏ điều được mọi vị thánh cùng cho là đúng để giữ lấy điều chỉ được một vị hiền nhân cho là đúng, há có nên chăng?

Kim Cang Kinh Tiên Chú, nơi trang thứ mười ba, trong hai dòng chín và mười: “Bốn câu kệ xưa nay nói không giống nhau”. Di Lặc là đấng Bổ Xứ, dùng những câu như “không có ngã tướng” v.v… để đáp chính là đối bệnh cho thuốc, như trong nhà Thiền bất luận hỏi đến nghĩa nào đều chỉ về lẽ hướng thượng! Nếu nói ngài Di Lặc đã đáp trọn hết nghĩa lý của bốn câu kệ thì đấy chính là tri kiến của kẻ đứng ngoài cửa! Trung Phong quốc sư nói: “Đối với câu “thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng” trong kinh này, trước từ ngữ “tứ cú kệ” phải có hai chữ “nãi chí” (cho đến), phía sau phải có một chữ “đẳng” (vân vân). [Câu này] ý nói chưa thể thọ trì trọn vẹn bài kinh, hoặc [chỉ thọ trì được] hơn nửa quyển, hoặc gần được nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu hoặc một câu”. Câu nói này của ngài Trung Phong là cách giải thích kinh văn hết sức thông suốt, nhưng các vị chú giải từ trước đến nay thường hiểu hạn hẹp chữ “Kệ” không phải là văn xuôi. Họ chẳng biết ở Tây Vực, kinh tiếng Phạn được viết theo hàng ngang, thường sắp xếp bằng cách lấy ba mươi hai chữ làm chuẩn. Vì thế, [cổ thư] ghi nhận số chữ trong kinh Hoa Nghiêm là “có mười vạn bài kệ”, chứ không phải cả bộ kinh đều là kệ! Lại còn bất luận văn tự nhiều hay ít, hễ cứ giảng trọn hết một nghĩa thì được coi là một Kệ, chứ không phải là ngoài kinh văn ra, chỉ nói đến bốn câu [kệ] mà thôi! Nếu hiểu chữ “kệ” là kệ tụng thì [thọ trì] trọn bài kinh chẳng có công đức, chỉ có bài kệ này[33] mới có công đức! Há chẳng phải là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng ư? Chỉ nội sáu chữ đơn giản “nãi chí tứ cú kệ đẳng” này đã chứa trọn bao nhiêu [ý nghĩa của] muôn quyển kinh luận rồi! Những kẻ văn chương lừng lẫy một thuở mà vẫn chẳng biết làm như thế nào! Kinh Phật há thể nói dễ dàng ư?

Tứ Thập Nhị Chương Kinh Tiên Chú trang thứ chín, hai dòng mười và mười một, đối với câu“tam thế chư Phật cập vô niệm vô trụ” (chữ Trụ 住 bị viết sai thành chữ Nhậm 任), vô tu, vô chứng chi giả” hãy nên y theo cách giải thích của ngài Ngẫu Ích: “Tam thế chư Phật” là y theo quả vị trong Tạng Giáo. “Vô niệm trụ tu chứng” là nói về những bậc từ Sơ Trụ trở lên trong Viên Giáo. Nếu không, sẽ đẩy bậc đứng đầu xuống hàng chót, đưa bậc chót lên hàng đầu! Dẫu có thể cưỡng nói cho hợp lý, rốt cuộc vẫn oan uổng tạo khẩu nghiệp! Kinh Phật há có thể chỉ chấp vào cách giải thích từ ngữ mà giải thích được hay chăng? Trang thứ mười sáu, dòng thứ mười (hai hàng chú thích chữ nhỏ), “trưởng giả như mẫu” (người lớn tuổi hơn thì coi như mẹ) (chữ Mẫu 母 bị viết sai thành Nữ 女). Lại trong hàng mười tám, chữ “công tào” (攻曹) nên giảng là “nguyên soái” (người suất lãnh) thì ý nghĩa của kinh sẽ tự rõ ràng vì phần kinh văn tiếp đó ghi là “công tào nhược chỉ, tùng giả đô tức” ([nếu] ngăn được người thống lãnh, thì những kẻ đi theo đều ngưng nghỉ). Do vậy, Công (攻) là công năng, Tào (曹) chính là “tào bối” (曹輩: lũ, bọn ngươi); công năng của cả bọn đều quy về một mình người thống lãnh, nên mới nói “nguyên soái” là “công tào”.[34]

Phật Di Giáo Kinh Chú, trang mười bảy, dòng thứ năm, nên giảng chữ “đạo” (導) trong từ ngữ “thiện đạo” (善導: khéo dẫn dắt) là dẫn dắt đi đường vì câu kinh văn tiếp đó là “đạo nhân thiện đạo” (導人善道), đạo (道) là con đường vậy, [“đạo nhân thiện đạo”] tức là “dẫn đi trên con đường lành”. Nếu người dẫn đường chỉ cho con đường chánh mà kẻ nghe không đi thì chẳng phải là lỗi của người dẫn đường. Kinh gọi đức Phật là “đại đạo sư” (大導師) đều là vì dẫn người khác đi trên con đường chánh mà đặt tên như vậy.

Vu Lan Bồn Kinh Chú, trang bốn, dòng thứ mười sáu (hai dòng chữ nhỏ), “thoạt đầu tôi trộm cho là tên của đạo sĩ”, chữ Thiết (竊: trộm) bị viết sai thành chữ Cùng (窮: cùng tận).

Cao Vương Quán Thế Âm Kinh Chú, phần Tạp Ký trang một, dòng thứ mười ba: “Vân Thê đại sư gánh vác pháp đạo, rất sợ đời sau vô tri nên ra sức biện định kinh này là ngụy tạo, cho nên nói như vậy. Chứ không phải ngài Vân Thê chưa hề đọc những sách như Pháp Uyển Châu Lâm v.v… mà mạo muội nói như thế”. Kinh này không có văn lý gì cả, [lời biện định của ngài Vân Thê] quả là lời luận đích xác. [Kẻ nào tụng trì kinh này] được công đức [thì công đức ấy] đều thuộc về công đức của danh hiệu Phật, Bồ Tát. Niệm những danh hiệu ấy có thể tiêu nghiệp chướng, tăng phước huệ. Bồ Tát thuận theo cái tâm tầm thường của chúng sanh nên truyền dạy kinh này trong mộng. Nếu là bậc chuyên môn nghiên cứu Phật học thì đã có Đại Tạng Kinh, cần gì phải dốc sức nơi kinh này? Xưa nay có rất nhiều kinh do trong mộng cảm được thần truyền dạy, nhưng đều chẳng dám lưu thông vì rất sợ những kẻ xằng bậy bịa đặt, khơi nên đầu mối ngụy tạo, cắt đứt thiện căn của những người chỉ biết đạo nghĩa Nho giáo, chưa hiểu Phật pháp sâu xa (tức là họ sẽ nói “kinh Phật đều là do người đời sau ngụy tạo”). Vì thế Nhân Hiếu Hoàng Hậu nhà Đại Minh[35] (hoàng hậu của [hoàng đế] Vĩnh Lạc) mộng cảm được Phật nói kinh, tức Đệ Nhất Hy Hữu Đại Công Đức Kinh. Trong thời Vĩnh Lạc, [kinh này] được nhập tạng, đến năm ba mươi (1765) đời Thanh Cao Tông, vâng theo chiếu chỉ, lấy kinh ấy ra khỏi tạng để ngăn ngừa chuyện bịa đặt. Vì thế, phiên dịch kinh Phật ắt phải tuân phụng chiếu chỉ.

Trong dịch trường (đạo tràng dịch kinh), có vị dịch Phạn văn, có vị Dịch Ngữ, có vị Hồi Xuyết (tiếng của Tây Phương đa phần nói ngược, nên cần phải đảo lại, như Ba La Mật là Bỉ Ngạn Đáo, phải viết lại cho đúng thứ tự là Đáo Bỉ Ngạn – đến bờ bên kia), có vị Chứng Nghĩa, có vị Nhuận Văn[36]. Tăng – tục tham gia phiên dịch, ít là mấy người, nhiều thì mấy chục người; vị Nhuận Văn đều do vị quan quyền cao chức trọng đương thời đảm nhiệm. Nghiêm túc như thế, chẳng để cẩu thả, qua quýt chút nào, vậy mà Nho sinh vô tri đời sau còn nói kinh Phật đều là do Tăng chúng ăn trộm, chế biến từ học thuyết Lão – Trang mà có, huống là lưu thông những kinh thật sự mờ mịt chẳng rõ lai lịch ư? Muốn [lưu thông] kinh này mà mong những kinh được phiên dịch [từ Phạn bản] do phương Tây truyền đến chẳng bị nghi ngờ, há chẳng khó khăn lắm ư?

Các hạ chú giải kinh này hãy nên trình bày rõ tấm lòng “bảo vệ chúng sanh, bảo vệ pháp đạo đức Phật” của ngài Vân Thê, đừng nên nói ngài Vân Thê phạm sai lầm khi sửa đổi cho đúng những điều sai lầm thì đôi đàng đều được tốt đẹp. Vân Thê, Ngẫu Ích là những vị đại đạo sư thời Mạt Pháp, là bậc gương mẫu thật sự. Mong hãy nhìn vào thời kỳ các ngài trước tác mà thấu hiểu chỗ dụng ý trong lòng các ngài thì pháp gì, chuyện gì cũng đều tự có thể khế cơ lẫn khế lý vậy!

Trong Phật Kinh Tinh Hoa Lục, trang ba mươi sáu, dòng thứ chín, “Vị Tằng Hữu Kinh”. Mười hai bộ kinh là những đặc điểm chung của hết thảy các kinh. Có kinh trọn đủ cả mười hai bộ[37], có kinh ít hơn, chỉ gồm một hai, ba, bốn, năm bộ. Mười hai bộ vừa nói đó, gọi theo tiếng Hán là Trường Hàng, Trùng Tụng, Thọ Ký, Cô Khởi Tụng, Vô Vấn Tự Thuyết, Nhân Quả, Thí Dụ, Bổn Sự, Bổn Sanh, Phương Quảng, Vị Tằng Hữu, Luận Nghị. Trong ấy, ba bộ loại Trường Hàng, Trùng Tụng, Cô Khởi Tụng được lập ra dựa theo kinh văn, chín thứ kia đều ước theo nghĩa mà lập danh. Bộ loại Vị Tằng Hữu ghi chép những chuyện đại thần biến chẳng thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát. Kinh này[38] cũng do nghĩa ấy mà đặt tên như vậy, chứ không phải là một trong mười hai bộ kinh.

Trang bốn mươi, dòng thứ sáu, nhân – duyên – pháp – nghiệp của mười giới trong kinh Phạm Võng đều bị [sao chép] điên đảo, sai lầm, lộn xộn, tra lời chú giải của các hạ thì có hay không đều bất nhất! Những phần [được ghi] “sao lục từ sách Phạm Võng Kinh Hợp Chú[39] thì [trong phần] Sát giới (dòng thứ mười ba), Phương Tiện Sát (thiếu mất chữ Sát), dòng mười bốn, mười lăm, [theo thứ tự đúng thì phải là] Sát nhân, Sát duyên, Sát pháp, Sát nghiệp, sao lại viết là Sát nghiệp, Sát pháp, Sát nhân, Sát duyên? Nhân là phát ra cái tâm giết ấy. Duyên là những phương tiện giúp cho chuyện giết chóc được thành tựu; chẳng hạn như bày mưu định kế, mài dao, pha thuốc v.v… Pháp là cầm dao, kiếm, thuốc độc đi giết. Nghiệp là đoạn mạng kẻ ấy (tức kẻ bị giết), chuyện giết chóc đã thành. Phàm sự gì đã thành đều nhất loạt gọi là Nghiệp. Thứ tự trước – sau, sâu – cạn, thân – sơ, theo đúng thứ tự chẳng loạn. Sao các hạ tự lập quy cách để dời chuyển như vậy? Hai giới Sát và Dâm thì các hạ đặt theo thứ tự là Nghiệp, Pháp, Nhân, Duyên, còn tám giới kia lại đều đặt theo thứ tự là Nhân, Nghiệp, Pháp Duyên!

Trong giới Vọng Ngữ, dưới phần Duyên của Vọng Ngữ có chú thích rằng “sao chép trọn vẹn từ sách [Phạm Võng Kinh] Hợp Chú”. Sao lại lược bỏ bốn chữ “để hiển thánh đức” [của sách Hợp Chú]? Cần phải biết rằng [kẻ phạm giới vọng ngữ bằng cách đối với] “các thứ oai nghi: tới, lui, cử động, đứng yên, nói năng, im lặng, đủ mọi phương tiện đều là vì muốn làm cho người khác sẽ nói là “ta đã chứng thánh quả”, nên nói là “để hiển thánh đức”. Bỏ đi bốn chữ ấy sẽ chẳng tỏ rõ bổn tâm [của kẻ] vọng ngữ muốn phô trương màu mè, làm dáng vậy. Đoạn kinh văn này vốn không sai lầm, nhưng lời [giảng của sách] Hợp Chú lại hết sức rõ ràng. Há nên trái nghịch kinh, trái phản lời chú giải, tự lập chương trình hay chăng? Nếu một điều thì có thể coi là viết lầm, chứ cả mười điều đều như thế, há có phải là viết lầm ư?

Phàm sao lục kinh luận của Phật, của Tổ, thì đầu tiên là sao lục kinh, rồi đến luận, cuối cùng mới sao lục trước thuật của phương này. Với kinh luận lại cần phải sao lục kinh Đại Thừa trước tiên, kế đó là Tiểu Thừa, chớ nên đảo lộn thứ tự trước sau, như thánh chỉ và cáo thị chẳng thể đảo lộn thứ tự được. Trong một bộ chẳng thể liệt kê như thế, thì trong một môn nhất quyết chẳng thể không y theo cách này để trình bày. Nếu không, sẽ khiến cho kẻ vô tri đều coi thường kinh Phật mà bậc đại thông gia sẽ chê là [người viết chú giải] chẳng biết pháp.

Hơn nữa, trong phần chú giải kinh Phạm Võng [của Tổ Ngẫu Ích] về giới Vọng Ngữ, đối với câu “tiền nhân lãnh giải” thì chữ “tiền nhân” chỉ cho đối tượng [nhận lãnh lời nói dối], tức là vì kẻ ấy [mà người phạm giới Vọng Ngữ] thốt ra lời nói dối, “lãnh giải” là người ấy nghe lời nói dối đã lãnh hội, hiểu rõ. Nếu chẳng lãnh ngộ, hiểu rõ thì nghiệp vẫn chưa thành; lãnh ngộ, hiểu rõ thì nghiệp đã thành! Nay ông sửa thành “sử nhân lãnh giải” (khiến cho người ấy nhận lãnh, hiểu rõ) thì chưa biết người ấy có hiểu hay không? Trong giới thứ mười cũng giống như thế.

Thêm nữa, theo nguyên văn của giới thứ mười: “Nhược Phật tử tự báng Tam Bảo, giáo nhân báng Tam Bảo, báng nhân, báng duyên, báng pháp, báng nghiệp, nhi Bồ Tát kiến ngoại đạo cập dĩ ác nhân nhất ngôn báng Phật âm thanh, như tam bách mâu thích tâm” (Nếu Phật tử tự báng Tam Bảo, dạy người khác báng Tam Bảo, nhân phỉ báng, duyên phỉ báng, pháp phỉ báng, nghiệp phỉ báng, nhưng Bồ Tát nghe âm thanh của một câu báng Phật do ngoại đạo và kẻ ác [thốt ra], [sẽ cảm thấy] giống như ba trăm mũi mâu đâm vào tim), ông bèn rút gọn là “Bồ Tát kiến nhân báng Phật như dữ thích tâm” (Bồ Tát thấy người báng Phật như bị đâm vào tim) (Lời chú giải ghi: “Chữ Dữ[40] đọc âm giống như chữ Dữ 與”), hãy sửa cho đúng phần đã lược bỏ đi.

Ngẫu Ích đại sư chứng Pháp Thân đã lâu, thừa nguyện tái lai, học vấn, kiến địa, hành trì, đạo đức như Ngài chẳng những ít thấy trong đời Mạt Pháp mà ngay trong thời Phật pháp hưng thịnh dưới đời Tùy – Đường, cao nhân như rừng, nếu [Ngài sống] ngay trong thời ấy vẫn thuộc loại Đại Sĩ xuất quần bạt tụy chẳng thể nghĩ bàn! Phàm những trước thuật của Ngài đều khế lý lẫn khế cơ; các hạ hãy nên buông xuống cái tâm chỉ chấp vào sự giải thích văn tự, hãy lắng lòng nghiên cứu đến cùng tận để thấu hiểu thì niềm vui pháp hỷ sẽ riêng khế hợp nơi tâm mà chẳng thể nào mở miệng kể cho người khác biết được! Vì sao vậy? Do những gì đạt được đều mất cả rồi, đều quy về chỗ vô sở đắc rồi!

Chùa Pháp Vũ có Minh Nam Tạng (Vĩnh Lạc Nam Tạng) và Thanh Tạng (Càn Long Đại Tạng Kinh), lại có rất nhiều những kinh sách mới in [đã thỉnh] từ những chỗ khắc kinh ở Dương Châu, Ninh Ba, nhưng người phát tâm đọc khá ít, một là vì ít người thật sự phát Bồ Đề tâm, hai là vì người thật sự có học vấn, có thiên tư ít ỏi, đáng tiếc thay!

Cuối phần Đàm Quỷ (nói về chuyện quỷ thần), đối với chuyện Mục Chương A[41], lời phán định của các hạ tuy hay, nhưng xét ra chưa phải là thật nghĩa. Nay tôi chẳng tiếc khẩu nghiệp để giải thích đại lược. Mục Chương A suy nghĩ, xử sự không gì chẳng phải là ác, đến lúc lâm chung biết trước lúc mất, từ biệt mọi người rồi ngồi mà mất. Người ấy trong đời trước đã tu trì lớn lao, sức Định Huệ sâu xa, cho nên đời này tuy mê muội tạo nghiệp, luận theo đời này ắt phải đọa thẳng vào địa ngục A Tỳ, chịu khổ đến hết kiếp, nhưng do ác nghiệp đời này chưa chín muồi, thiện căn đời trước tỏ lộ. [Do vậy], vẫn có thể nương vào sức lành đời trước, tận lực tu trì Tịnh nghiệp, nương theo Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, chẳng phải thọ ác báo của những ác nghiệp đã tạo trong đời này. Nếu không biết nghĩa này, vẫn noi theo nghiệp y như cũ thì khi thiện nghiệp đời trước đã hết, ác nghiệp đời này sẽ lại phát hiện, nỗi khổ ấy chẳng thể nào diễn tả được!

Trong đời này, do người lành mắc họa, kẻ ác hưởng phước, phàm phu chẳng biết túc nghiệp trong đời trước bèn nói nhân quả sai lầm, báo ứng hay bị lẫn lộn! Người có Tha Tâm Túc Mạng Thông thấy [nhân quả báo ứng] tơ hào chẳng sai, tình lẫn lý đều ổn thỏa. Cái chết tốt lành của Mục Chương A chẳng phải là do may mắn! Dương Kế Thịnh chết oan khuất chẳng phải là bất hạnh! Ai nấy đều có nhân trước và quả sau, ấy là do được đền đáp hay phải trả nợ mà thành khác biệt. Đạo báo ứng có nhiều loại chẳng phải chỉ có một, chẳng thể dùng đời này để phán đoán được!

Vì thế, kinh dạy rõ ba thứ quả báo. Ba thứ quả báo là Hiện Báo, Sanh Báo và Hậu Báo. Hiện Báo là đời này làm thiện, tạo ác, đời này sẽ hưởng phước hay mắc họa. Đây chính là điều phàm phu trong thế gian đều thấy cùng biết được. Sanh Báo là đời này làm thiện, tạo ác, đời sau hưởng phước, mắc họa. Phàm phu trong thế gian tuy chẳng thấy biết được, nhưng đại lực quỷ thần, thiên tiên vẫn có thể thấy biết được! Hậu Báo là đời này làm thiện, tạo ác, đến đời thứ ba, hoặc bốn, năm, sáu, bảy đời sau, hoặc mười, trăm, ngàn, vạn đời, hoặc đến vô lượng vô biên Hằng hà sa số kiếp mới hưởng phước hay mắc họa. Nếu ba, bốn, năm đời và mười trăm ngàn đời, có lẽ thiên tiên còn thấy được, chứ đến năm, sáu, bảy, tám vạn kiếp, đạo nhãn của bậc Thanh Văn vẫn còn thấy được. Nếu đến vô lượng vô biên Hằng hà sa kiếp thì nếu chẳng phải là Ngũ Nhãn viên minh của đức Như Lai sẽ chẳng thể thấy được!

Nương theo các pháp môn khác, cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, phần nhiều đều chỉ gieo thiện căn phước huệ, chẳng thể cao dự dòng thánh. Vương Thập Bằng, Tô Đông Pha, Hoàng Đình Kiên, Tăng Lỗ Công v.v… đều là những vị cao tăng xuất chúng chót vót trong đời trước, nhưng đời này đã kém hơn đời trước, đời sau lại chẳng biết kết cục sẽ như thế nào? Nghĩ đến đây, đúng là đau lòng, ứa lệ, thở dài sườn sượt! Nếu chẳng phát phẫn chuyên tu một pháp “cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tịnh Độ” thì là xong rồi!

Ấn Quang cuồng vọng vô tri, phụ lòng ông yêu mến nồng hậu, hôm Ba Mươi tháng Sáu nhận được lá thư thứ tư, liền muốn phúc đáp, nhưng do vướng bận bởi chuyện của người khác, cũng như do ban đêm chẳng thể viết lách được nên lần khân mãi đến ngày mồng Hai nhận được lá thư thứ năm, bèn quên mình kém hèn, vung bút viết thư bừa bãi, cũng biết là gai mắt nhã, [toan] cậy vào lá thư này để biểu lộ lòng ngu thành, thích đáng hay không, mong hãy rủ lòng sáng suốt xét soi (Mồng Năm tháng Bảy năm Dân Quốc thứ sáu – 1917)

Ấn Quang mục lực quá suy, Đại Tạng Kinh chữ to còn chẳng thể đọc được, trước thuật của các hạ chữ quá nhỏ, chẳng dám xem nhiều, chỉ tùy tiện mở đọc mà thôi. Vì thế, thuận theo những gì mình thấy được mà nêu lên, tính chung lại thì trong hai mươi phần vẫn chưa xem được một phần. Về việc soạn lời tự để tỏ rõ ý nghĩa [của từng tác phẩm] hãy nên cậy bậc danh nhân. Ấn Quang chôn sống ngoài hải đảo, lại còn thiếu học vấn, vô đạo đức, bút cùn, lời quê, làm sao nêu tỏ những điểm sâu mầu cho được? Do vậy chẳng dám vâng mạng, xin rủ lòng tha thứ. Tướng lưỡi Như Lai có ý nghĩa vô tận, do mục lực không đủ và do gấp rút nên chỉ luận [đại lược] như thế.

(thư thứ sáu)

Hôm qua nhận được thư và Bát Triều Toàn Thi, cảm tạ khôn cùng! Trộm nghĩ Ấn Quang là một ông Tăng phàm tục thô lậu ở đất Bắc, đối với đạo pháp nhà Phật trọn chẳng đạt được gì, dẫu có bàn nói thì đa phần là cuồng vọng, chẳng bị trách tội là đã may mắn quá rồi! Nào kham khen ngợi quá lố như thế, cảm thấy hổ thẹn cùng cực! Quang đời trước lắm tội lỗi, sanh ra liền mắc bệnh mắt, trong suốt sáu tháng gào thét khóc lóc, trừ lúc ăn ngủ ra, trọn không lúc nào không khóc gào. May nhờ thiện căn đời trước, còn được thấy mặt trời và kinh Phật thật may mắn quá! Bản chú giải của các hạ kích thước chữ quá nhỏ, nhất loạt chẳng dám xem! Một phần hai mươi [như đã nói trong lá thư trước] là một phần này đem chia thành mười phần, trong phần Tạp Ký chiếm đến tám chín phần, lời chú giải chỉ chiếm một hai phần mà thôi. Chỉ lấy phần này xem đại lược, chứ hoàn toàn chưa đọc trọn một trương. Các hạ giữ tấm lòng khiêm hư như thế, nào phải đợi người quáng mắt trình bày mỗi điều, ắt sẽ đúng đúng, sai sai, không điều gì chính mình chẳng biết rõ!

Hoàng cư sĩ biết lỗi mạnh mẽ sửa đổi, có thể là bậc tận tụy tu tập thực tiễn, là bậc anh hùng trong Nho môn, làm kim thang cho Phật pháp. Kính vì pháp môn và chúng sanh mà chúc mừng, pháp vận sẽ thông suốt, đã có người chế ngự những kẻ lấn hiếp [Phật giáo]! Trong lá thư trước đã nói đến Tấn Đức Lục rồi, tôi không nhàn rỗi, làm sao [tìm thấy] có [điểm nào] lầm lạc [trong cuốn sách ấy] cho được? Bát Triều Toàn Thi tuy tôi không đọc được, nhưng sẽ trân trọng cất giữ vì một là để làm kỷ niệm, hai là dùng để tra cứu.

Ma Ha Bát Nhã chỉ cho kinh Bát Nhã được nói đến trong thời thứ tư [của năm thời đức Phật thuyết pháp]. Nói chia chẻ ra thì có tám bộ, nhưng tám bộ ấy đều là các hội[42] trong bộ Bát Nhã sáu trăm quyển. [Do vậy], nói chung chỉ có kinh Đại Bát Nhã mà thôi! “Hoa Nghiêm hải không” (Kinh Hoa Nghiêm như biển cả, như hư không) [nghĩa là] một bộ kinh Hoa Nghiêm vượt trỗi các kinh, lý bao trùm các kinh, gồm vô lượng pháp môn, chỉ rõ Nhất Chân pháp giới, ví như biển cả chứa đựng khắp các dòng nước, dường như hư không mênh mông chứa đựng muôn hình tượng. Vì thế gọi là “hải không”.

Hơn nữa, những pháp được nói trong kinh Hoa Nghiêm chính là pháp để thành Phật ngay trong một đời này. Dù đã thành Phật, bất quá là đích thân chứng được tâm tánh vốn sẵn có mà thôi, chứ trọn chẳng đạt được pháp nào. Vì thế, kinh Lăng Nghiêm nói: “Viên mãn Bồ Đề quy vô sở đắc” (Bồ Đề viên mãn quy về chỗ không có gì để đạt được); Tâm Kinh nói: “Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa nãi đắc cứu cánh Niết Bàn” (Do không có gì để đắc nên Bồ Tát bèn đắc Niết Bàn rốt ráo); kinh Kim Cang nói: “Diệt độ nhất thiết chúng sanh dĩ, thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả” (Diệt độ hết thảy chúng sanh rồi nhưng thật sự chẳng có chúng sanh nào được diệt độ). Đó gọi là “Không – Hữu chẳng lập, một đạo thanh tịnh”. Do vậy, gọi là “hải không”. Tôi thấy biết thô lậu như thế, chẳng biết các hạ nghĩ sao?

Mồng Chín tháng này, Trung Hoa Thư Cục gởi đến ba cuốn Linh Học Tùng Chí, tức là báo ra vào ba kỳ 3, 4, 5, do vậy bèn đọc đại khái. Thấy tạp chí ấy dạy người sửa lỗi hướng lành, bàn cặn kẽ về sanh tử luân hồi, có lợi ích lớn lao cho kẻ không tin nhân quả và chấp trước tà vạy rằng không có ba đời. Còn phần nói về Phật pháp và Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền giáng đàn chỉ dạy, đều là do những linh quỷ hoàn toàn chẳng biết gì về Phật pháp giả danh. Trong số báo thứ tư, cõi trời gồm hai mươi bốn thừa như trong “Phật giáo” do [linh quỷ mạo danh] Văn Thù Bồ Tát dạy, và thứ tự của hai mươi bốn địa vị trong Phật giáo do [linh quỷ mạo danh] Phổ Hiền Bồ Tát giảng dạy đều là nói nhăng nói cuội!

Còn kinh Phật Đảnh Hỗn Nguyên là do [bọn linh quỷ] ăn trộm ý nghĩa từ Kim Cang Kinh, Tâm Kinh ngụy tạo ra. Dẫu trong kinh ấy những lời lẽ phần nhiều trích từ kinh Phật thật sự, nhưng cũng chớ nên lưu truyền thọ trì vì tà – chánh xen tạp, giống như bỏ chất độc vào món ăn ngon, chẳng dùng để đỡ đói được! Vô Lượng Độ Sanh Kinh càng là thứ nói năng mù quáng. Trộm sợ các hạ tín tâm chân thật, thiết tha, cũng xem kinh này giống như Cao Vương Kinh rồi vì đó sẽ tán dương, lưu thông thì hoại loạn Phật pháp, khiến chúng sanh bị lầm lạc, nghi ngờ, tội lỗi chẳng nông cạn đâu! Đã mạo nhận là tri kỷ của ông, nào dám chẳng trình bày đại lược lời lẽ của kẻ cắt cỏ, đẵn củi để ngăn ngừa hậu hoạn “vì thiện tâm mà chuốc lấy ác quả” hay sao?

Các hạ đã ghi tên gia nhập làm hội viên hạng ba của họ, chỉ nên bảo họ chú trọng nêu tỏ những chuyện “sửa ác, hướng thiện và hiếu – đễ – trung – tín – lễ – nghĩa – liêm – sỉ, kiêng giết, kiêng dâm, giữ phận khiêm cung, ghìm mình khiêm nhượng, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” v.v… Vô thượng diệu đạo của đức Như Lai há những đàn cơ thỉnh linh tiên có thể tuyên dương diễn thuyết được chăng? Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát, Tướng Quốc Vương Định Cửu đều do [có kẻ] cầu cơ [mà giáng xuống dạy đạo], nhưng đều nghiêm ngặt răn cấm cầu cơ. Hãy nên lấy đó làm khuôn thước!

Lời luận định của ông Kỷ Văn Đạt về cầu cơ rất có đạo lý, ông ta cho rằng đàn cơ giả nhiều thật ít[43], người thông đạt, bậc sáng suốt hãy nên kính nhi viễn chi, chớ nên chuyên dốc sức vào nơi ấy để rồi bị bọn tiểu quỷ, tiểu thần mê hoặc. Như trong bài Tạp Toản thứ chín của Linh Học Tùng Chí số thứ ba, ông Thạnh Thành thuật chuyện “hồn người sống giáng cơ” như sau: Cha ông ta một bữa nọ đốt bùa thỉnh tiên, cơ lay chuyển mạnh mẽ, vẽ hai vòng tròn và một vạch đứng trên mâm cát suốt hai tiếng đồng hồ chứ không viết gì khác. Cha ông ta bảo những người hiện diện nơi đàn cầu cơ là do họ chẳng nghiêm túc khiến thần bị chọc giận. [Mọi người] sụp lạy liên tiếp, [cơ bút] vẫn vẽ như cũ, mọi người đều sợ hãi. Chợt [trong đám] người nhà, có người từ Đơn Gia Kiều trở về nói: “Phía dưới gầm cầu có một gã gánh phân nằm mê mệt bên đường, miệng lẩm bẩm rì rầm, tình trạng giống như bị bệnh ngặt nghèo, hãy mau đi cứu, sợ để lâu không kịp nữa!” Cha ông ta liền đốt bùa tống tiễn [thần tiên] rồi đi ra xem thì thấy gã gánh phân đã tỉnh, cho biết: “Tôi nằm mộng thấy đến một chỗ nọ, hương đèn sáng choang, mọi người hướng về phía tôi sụp lạy. Tôi không biết đáp ứng ra sao bèn vẽ trên mâm hai cái thùng với một cây đòn gánh của tôi để chỉ cho họ biết, bọn họ càng sụp lạy nhiều hơn, kính cẩn nhiều hơn. Tôi chẳng biết làm thế nào, cứ vẽ đi lại cái hình tả nghề nghiệp của tôi mà thôi!” Ông Thành tự nói: “Do vậy lòng thành tin tưởng vào chuyện cầu cơ ngày càng tăng hơn!”

Tôi nói: “Lòng thành tin tưởng [vào chuyện cầu cơ] của ông Thạnh Thành là chỉ biết tiến mà không biết lùi!” Ôi! Thỉnh tiên mà người gánh phân giáng đàn, vẽ đòn gánh thùng phân chẳng biết bao nhiêu lượt! Nếu không có người từ cầu trở về, chắc [đại chúng trong đàn cầu cơ ấy] sẽ nói cái hình vẽ đó có biết bao điều huyền diệu, sợ rằng đấy là do tiên thánh chỉ dạy ý chỉ huyền áo: “Chấp vào giữa sẽ quán thông tất cả, chấp vào đôi bên, nhưng dùng cái ở giữa!” chắc chắn chẳng dám ức đoán rằng: “Đây là thùng phân, đòn gánh!” Đến khi gặp “tiên nhân gánh phân” nói toạc ra thì hình vẽ ấy chẳng đáng một đồng! Suốt nửa ngày miệt mài cầu khẩn gã gánh phân, khôn ngăn hổ thẹn, bàng hoàng! Vì thế, cần biết rằng: Thật sự có chân tiên, nhưng kẻ giả danh lại chẳng phải chỉ là gã gánh phân mà thôi! Người trí do chuyện này mà ngộ.

Quang tính nửa tháng sau sẽ đi qua chỗ khác, độ hơn một tháng sẽ trở về. Lúc về chắc sẽ đi vòng sang Thượng Hải, sẽ đến quý cục gặp gỡ một phen để thưa hỏi, học lấy những điều lợi ích. Mong từ nay đừng gởi thư đến nữa để khỏi bị lạc mất! (Ngày Mười Hai tháng Bảy năm Dân Quốc thứ bảy – 1918)

(thư thứ bảy)

Cách biệt mấy tháng, mong ngóng thật sâu. Vừa nhận được thư gởi đến cùng với hai bản chú giải kinh như gặp được pháp nhan, cảm kích, hổ thẹn tột cùng. Quang do nghiệp chướng sâu nặng, mắt gần như mù từ lúc mới sanh, tuy thường luôn sám hối, nghiệp vẫn như cũ. Kính cẩn đem hai bài tựa cuốn Phổ Hiền Hành Pháp Kinh đọc một lượt, [thấy] lời tựa của Đại Tâm có thể nói là dùng cái tâm tự lập, lập người, làm chuyện tự lợi, lợi tha, giải trừ mười điều nghi, nêu rõ mười điều lợi ích, đây đâu phải chỉ là bài tựa cho các [bản chú giải] kinh của các hạ mà chính là lời tựa chung cho [những tác phẩm] các bậc hoằng kinh xưa nay. Nào ngờ trung châu có vị vĩ nhân như thế! Một chữ “phẩm” cuối cùng dường như không ổn thỏa lắm, tuy không cố ý ngấm ngầm dùng trộm, nhưng đừng dùng theo cách này, sẽ mạo phạm hình thức của kinh, hãy nên đổi thành lời tựa chung. Lời Bạt của ông Độn Căn xét về ý nghĩa thì hết sức đề cao, nhưng dựa theo Tông, theo Giáo, hai đằng đều chẳng hợp, nhưng cũng không có quan hệ lớn lao chi lắm, hãy bỏ mặc đấy!

Trong lời tựa của các hạ, phần đầu dẫn lời của Diễn Tông có thể nói là lời bàn luận chẳng thể gạt bỏ được, cuối cùng dẫn câu nói của họ Hồ đủ thấy cái tâm hướng theo lẽ chánh. Sau này nhìn lại bây giờ, cũng giống như bây giờ nhìn lại thuở trước. Giữ được cái tâm “sợ thuở mai sau” thì trọn chẳng đến nỗi nghịch kinh, phản cổ, chuốc lấy tiếng chê cười trong tương lai. Phàm chú giải kinh Phật, phải có con mắt riêng; chớ nên dùng cảnh giới phàm phu để suy lường cảnh giới vi diệu chẳng thể nghĩ bàn của đức Như Lai. Như các ông Kỷ Đại Khuê, Diệp Tích Phụng v.v… do vì lẽ này mà hoằng pháp rốt cuộc biến thành báng pháp, khôn ngăn tiếc nuối vậy! Những điều khác do mục lực chẳng thể kham nổi nên đều chẳng dám đọc.

Thêm nữa, những danh tướng Đại Thừa và Tiểu Thừa trong kinh giống nhau rất nhiều; giải thích kinh Đại Thừa chớ nên dẫn những nghĩa trong kinh Tiểu Thừa để giảng giải. Như trong phần Niệm Thiên ở cuối pháp Lục Niệm thì Tiểu Thừa niệm những vị trời ở Dục Giới, Sắc Giới v.v… còn Đại Thừa thì niệm Đệ Nhất Nghĩa Thiên, Đại Niết Bàn Thiên. Nếu với kinh Đại Thừa mà dẫn nghĩa Tiểu Thừa để giải thích sẽ trở thành hoại loạn kinh tông[44], chớ nên không cẩn thận! Chỉ do một nghĩa này, những điều khác có thể suy ra được! (Ngày Hai Mươi Sáu tháng Mười năm Dân Quốc thứ bảy – 1918)

Quang hiện đang đả thất, xin đừng gởi thư đến. Dẫu có chuyện cần phải bàn bạc cũng nên đợi tới tháng Ba năm sau. Nếu gởi thư đến trước tháng Ba, nhất quyết chẳng vâng mệnh phúc đáp, xin hãy từ bi lượng thứ.

Một pháp Niệm Phật hãy nên lấy kinh luận Tịnh Độ làm chuẩn. Chúng sanh đời Mạt nghiệp nặng chướng sâu, tu Quán theo Quán Kinh vẫn khó thể thành tựu! Do vậy, chư Tổ của Liên Tông phần nhiều đều chuyên lấy Trì Danh làm pháp tu chủ yếu vì Trì Danh dễ dàng, hễ niệm liên tục bèn vãng sanh. Phương pháp nhiếp tâm có nhiều thứ, chứ chẳng phải một, tùy theo căn khí của mỗi người mà áp dụng sẽ tự được lợi ích. Nếu xét tới pháp thiết yếu nhất, nói chung chẳng pháp nào hơn được tám chữ “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” của đức Đại Thế Chí.

Pháp môn Niệm Phật tam-muội của Đại Tâm tuy mỗi mặt đều có chỗ thấy biết thông suốt, nhưng chẳng thể dùng để dạy khắp mọi người vì hạ căn chẳng thể tu được, còn thượng căn tuy có thể tu nhưng không bắt buộc phải dùng phương pháp này! Trong nhan đề của sách, chữ Phật viết nguệch ngoạc, cổ quái, đủ thấy người ấy trong xử sự hằng ngày chưa thể chí thành khẩn thiết đối với Phật! Phàm những thói quen xấu như vậy hãy nên tận lực ngăn ngừa!

Lưu Diễn Tông viết về sáu mươi lăm sức chẳng thể nghĩ bàn của kinh Pháp Hoa, có thể nói đã thâm nhập chỗ u viễn sâu xa của Pháp Hoa, nhưng lại đem mỗi một điều so sánh với Tịnh Độ để luận định hơn – kém, quả thật chẳng thấu hiểu pháp môn Quyền Thật của đức Như Lai, chỉ có thể lợi lạc những căn tánh như các vị Nam Nhạc, Thiên Thai trở lên, còn những ai thấp hơn đều bị thuyết ấy cắt đứt thiện căn vãng sanh Tây Phương! Sách ấy tuyệt đối chớ nên lưu thông. Nếu lưu thông tuy có thể làm cho con người tôn kính, tin tưởng Pháp Hoa, nhưng lại khiến cho hết thảy những ai không hiểu rõ giáo lý Quyền – Thật sẽ bởi đó mà miệt thị Tịnh Độ chẳng tu! Tịch Quang Tịnh Độ “đương xứ tức thị” (chính là ở ngay nơi đây), chỉ có một mình đức Phật là có thể chứng trọn vẹn; bậc Đẳng Giác Bồ Tát vẫn là Phần Chứng, huống gì những người khác? Nay đem sự thấy biết, pháp chứng ngộ của bậc Đăng Địa, Đăng Trụ[45] giao cho phàm phu đảm nhiệm, há có nên chăng?

Trong hội Hoa Nghiêm, bậc đã chứng bằng với chư Phật rồi mà vẫn được [Phổ Hiền Bồ Tát] dạy cầu vãng sanh. Nay đối với kẻ trọn đủ Hoặc nghiệp lại dạy họ bỏ Di Đà Tịnh Độ để tu Sa Bà Tịnh Độ của đức Bổn Sư! Tấm lòng quả thật là rộng lớn, to tát, nhưng cái hại ấy chẳng thể nói cho hết được! Phàm cõi An Dưỡng nơi Sa Bà vốn là cõi Thật Báo Tịch Quang (Thật Báo và Tịch Quang vốn là một cõi. Ước theo quả báo cảm được thì gọi là Thật Báo. Ước theo lý được chứng thì gọi là Tịch Quang. Tịch Quang không có tướng, Thật Báo đầy đủ những tướng trang nghiêm mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn nhiều như số lượng vi trần trong Phật sát hải. Tuy vốn đủ trang nghiêm của các cõi nhiều như số vi trần, nhưng vốn là một pháp chẳng lập. Tuy một pháp chẳng lập, nhưng lại đầy đủ trang nghiêm, như gương sáng trọn chẳng có một vật, nhưng hễ Hồ đến Hồ hiện, giống như thể của Hư Không tuy chẳng có các tướng, nhưng chẳng trở ngại mặt trời chiếu rọi, mây đùn). Cõi Thật Báo Tịch Quang Tịnh Độ ấy chỉ có những vị đã đạt đến địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo mới có thể thấy được.

Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư độ nơi Tây Phương không có các nỗi khổ, chỉ hưởng những sự vui; còn Phàm Thánh Đồng Cư độ trong cõi này, ba thứ Hoặc – Nghiệp – Khổ nhóm lại như cái chĩa ba xấu ác, luân hồi sáu nẻo, trọn chẳng có thuở nào xong! Do vậy, đem đối chiếu Thật Báo Tịch Quang cõi này và Phàm Thánh Đồng Cư độ để bàn luận chính là trái nghịch ý chỉ của kinh, trao lầm pháp dược, than thở khôn ngằn! Sao chẳng đem đối chiếu Phàm Thánh Đồng Cư độ cõi này và Phàm Thánh Đồng Cư độ của cõi kia để luận định thì mới là lời nói khế lý, khế cơ, được tam thế chư Phật đều ấn khả vậy? Ấy là vì hiểu biết chưa tinh tường mà đã muốn chê trách đường lối, nhằm tỏ vẻ đang trong thời cải cách cũng có bậc nương theo đại nguyện luân, sửa đổi pháp môn thích hợp khắp ba căn của Như Lai, là chỗ quy tông kết huyệt cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm sao cho nó được tốt lành hơn đấy chăng?

Ấn Quang không đạo, không đức, tham phỏng ít ỏi, học vấn nhỏ nhoi, chẳng thể vì pháp môn ra sức một câu, một chữ nào, nhưng muốn cho hết thảy hữu tình đều cùng sanh về Tây Phương, chẳng thể không mạo muội phạm đến bậc đại gia, dâng lên sự hiểu biết giống như hòn đá nơi núi khác[46] vậy. Nếu coi trọng pháp, ắt sẽ tha thứ. Nếu không, dẫu bảo Quang là tà kiến báng pháp cũng hoan hỷ nhận lãnh, không dám oán trách gì!

Quang mục lực suy kém, gần đây lại bị nhức đầu dữ dội, càng thêm suy kém hơn, do chuyện có quan hệ đến pháp đạo nên chẳng thể không trình bày đại lược lòng ngu thành.

(thư thứ tám)

Kinh Dịch chép: “Quân tử cư kỳ thất, xuất kỳ ngôn thiện, tắc thiên lý chi ngoại ứng chi, huống kỳ nhĩ giả hồ? Xuất kỳ ngôn bất thiện, thiên lý chi ngoại tắc vi chi, huống kỳ nhĩ giả hồ?” (Quân tử ở trong nhà, thốt ra lời lành thì ngoài ngàn dặm còn đáp ứng, huống gì những kẻ ở gần ư? Thốt ra lời chẳng lành, ngoài ngàn dặm còn chống đối, huống là những kẻ ở gần ư?) Cư sĩ Diễn Tông một lòng đau đáu cực lực đề cao sức chẳng thể nghĩ bàn của kinh Pháp Hoa, hiềm rằng chưa biết tường tận về nguyên do, nên viện dẫn kinh văn, phân tích phán định sự hơn – kém, chẳng những trái nghịch pháp môn phổ độ chúng sanh rốt ráo của tam thế chư Phật, mà còn trái nghịch quá đáng những ý nghĩa Bổn, Tích, Khai, Hiển trong kinh ấy! Uổng phí cái tâm tốt đẹp để gây lầm lạc cho mình lẫn người!

Trong thư trước, tôi đã vâng mạng đáp lời, trình bày đại lược những nét đại khái, thưa là quyết chẳng thể lưu thông [sách ấy]. Hai ba bữa nay lại có mấy người bạn tại gia từng đọc sách ấy khôn ngăn đau đớn, biết Ấn Quang lòng dạ thẳng tuột, ăn nói thẳng băng, sẽ dám trình bày, khuyên can, từ ngoài xa mấy ngàn dặm đều gởi thư và sách ấy bảo Ấn Quang hãy làm hòn đá mài để trần thuật lẽ lợi hại, chớ để cho sách ấy được lưu thông hòng bảo toàn danh dự cho ông Lưu trong đời này, tránh khỏi quả báo trong vị lai, khuyên thiện, răn lỗi cho trọn hết tình nghĩa bè bạn trong pháp môn.

Trộm nghĩ: Ấn Quang người hèn đức mỏng, nói ra ai chịu nghe, một lần quấy nhiễu là đã quá đáng rồi, nào dám quấy nhiễu lần nữa? Tiếp đó nghĩ Ấn Quang đời trước bất hạnh, đến nỗi đời này sanh ra liền bị bệnh mắt, xuất gia hơn ba mươi năm, tuy thường siêng năng sám hối, do nghiệp chướng sâu đậm nên tâm chẳng nhập được đạo, mắt ngày càng quáng lòa, đoán rằng chắc là do báo đời trước nói sai Phật pháp làm hại chánh nhãn của người khác nên chiêu cảm quả báo này; suy nghĩ đến đây, lòng càng thêm nhức nhối, từ ta suy ra người, thế khôn ngăn được! Muốn cho ông Lưu và hết thảy mọi người đời đời kiếp kiếp được nhục nhãn sáng ngời, đời đời kiếp kiếp được pháp nhãn thanh tịnh, thấu hiểu sâu xa ý Phật, chứng triệt để tự tâm, dẫn dắt khắp các hàm thức cùng lên bờ giác, vĩnh viễn thoát khỏi nỗi khổ do quả báo chiêu cảm như Ấn Quang; cũng nhờ vào công đức ấy mà Ấn Quang tiêu bớt nghiệp chướng này. Dẫu bị nói là chỉ trích, bài xích trước tác của bậc thông suốt sẽ vĩnh viễn đọa A Tỳ địa ngục, chịu khổ cả kiếp dài lâu, nhưng khiến cho hết thảy chúng sanh đều hưởng lợi ích, chỉ mình ta chịu khổ thì cũng là hạnh phúc lớn lao, được ban thưởng vô cùng không gì bằng!

Xin hãy bảo ông Lưu đừng in thêm sách ấy nữa, những sách đã in từ trước, trừ những sách đã bán ra ngoài, phàm những sách còn lưu giữ đều phó cho Bính Đinh[47] hết! Đừng nói là làm như vậy sẽ uổng phí bao nhiêu đó tiền tài, khó thể làm theo được! Nên biết rằng: Người đời thường dùng tiền tài để làm các công đức, trọn chẳng chịu dùng tiền tài để chuộc tội lỗi. Lại có kẻ chẳng chịu làm công đức, rốt cuộc gặp phải trộm giặc, nước, lửa, vẫn bị hư hao! Huống chi sách này có những điểm gây lầm lạc cho người khác, thiêu đi chính là công đức đấy! Nếu chẳng lượng thứ cho lòng ngu thành, vẫn lưu thông y như cũ, rất sợ rằng những người nhiệt tâm bảo vệ pháp đạo nhà Phật sẽ mạnh mẽ dấy lên, viết luận chê trách, in ra sách, đăng báo, lưu truyền khắp Thần Châu[48] thì danh dự lẫn lợi ích hai đằng đều bị hao tổn!

Nếu xót thương lòng tôi ngu thành, thủ tiêu ngay sách ấy đi, ắt người ta sẽ nói ông Lưu rốt cuộc kiến địa cao minh, nên có thể thông suốt thuận theo lời can gián, chỉ tôn trọng lý. Tuy là mất mặt một lúc, nhưng quả thật chẳng phải là cố ý làm càn. Con người không phải là thánh hiền, ai không phạm lỗi? Hễ có lỗi mà có thể sửa thì không gì tốt lành bằng! Từ đấy, danh dự ngày càng cao, đức hạnh, danh vọng ngày càng thêm rạng rỡ. Tương lai ắt ở địa vị cao cả nắm quyền cai trị nước nhà, hoằng dương pháp hóa lợi lạc quần manh. Lập công, lập đức, lập ngôn, tự giác, giác tha viên mãn, rạng rỡ Tổ tông, nở mày nở mặt tổ tiên, phước lan đến hậu duệ khiến cho ức vạn năm sau vĩnh viễn noi theo dấu thơm thì may mắn nào bằng?

Nếu không, bước thứ nhất xảy chân, khó thể gượng dậy! Sự đã qua rồi, hối chẳng kịp nữa! Nếu chẳng coi Quang là kẻ ăn chực ngoài hải đảo để gởi kiếp sống tàn, ngoài chuyện nghĩ đến cái ăn ra, trăm việc chẳng làm được một việc nào, chỉ vì không làm được gì nên cũng không mong cầu gì, dẫu cho được tôn lên chín tầng trời cũng chẳng tăng thêm được chút nào! Dẫu vùi xuống chín tầng đất cũng chẳng bị hao tổn chút nào! Vì sao vậy? Do không làm được gì nên không mong cầu, cho nên chẳng có chỗ nào để tăng thêm hay bị hao tổn. Dẫu có muốn tăng hay tổn chỉ thành uổng công! Chỉ vì như vậy nên mới dám lòng dạ thẳng băng, ăn nói thẳng thừng, bảo ban cùng bạn thiết trong pháp môn. Còn nghe hay không mặc cho người ta tự liệu, chỉ tận hết lòng trung của tôi để thưa bày tấm lòng mà thôi! (Ngày mồng Một tháng Mười Một năm Dân Quốc thứ sáu – 1917)

(thư thứ chín)

Quang túc nghiệp rất sâu, có mắt như mù. Thường chuyên chú sám hối để tiêu trừ, nhưng nghiệp vẫn như cũ. Có lẽ vì nhiều kiếp đến nay từng dựa vào ý kiến của chính mình để giảng sai Phật pháp, làm hư pháp nhãn của người khác, gây lầm lạc cho chánh trí của người ta mà ra. Vì thế, trong đời này chẳng dám vì tình cảm xấu – tốt đối với người khác mà thốt lời bàn luận. Thà để cho người ta chán ghét, chửi bới, trọn chẳng dám dò tìm những điều người khác ưa thích để khen ngợi hòng tự siểm nịnh, siểm nịnh người! Từ mùa Hạ năm ngoái đến nay, trao đổi thư từ với các hạ đến gần một vạn chữ, lòng ngu thành khăng khăng ấy ắt các hạ đã thấy tận gan ruột rồi!

Ngày Hai Mươi Bốn tháng này, cung kính nhận được cuốn Phật Học Chỉ Nam do các hạ ban cho, liền mở ra đọc đại khái. Thấy những điều được dẫn giải trong phần Thượng Biên là các ngôn luận, sự tích nhân quả do các vị danh sĩ ghi chép; thật đáng chấn động kẻ điếc, làm sáng mắt người mù, khơi gợi, dẫn dắt cho người đời. Dẫu có vài chỗ chẳng thích đáng lắm, nhưng xét về đại thể, sách ấy có ích, tỳ vết nhỏ nhặt nào có hại gì! Nếu phê bình từng điều một thì sự lợi ích càng rộng lớn lắm! Hãy nên cho đăng từng phần trên Thời Sự Tân Báo để làm cho tai mắt người đời được lãnh hội điều mới mẻ, hòng thỏa thích hoằng nguyện của các hạ.

Phần Hạ Biên xét về đại thể cố nhiên là tốt đẹp, nhưng phần luận về mười tông của cụ [Dương] Nhân Sơn, phần [giới thiệu] đại lược về Đại Tạng của ông [Lê] Đoan Phủ đã từng đăng trong Phật Học Tùng Báo rồi! Nguyên bản sách Tam Quốc Phật Giáo Lược Sử vốn rất sơ sài, đại lược, nay ông lại rút gọn hơn nữa [thì càng bị sơ lược lắm]! Những điều khác đều giống như thế, cho đăng hay không đều được cả! Trong những bài ấy, không phải là không có những tỳ vết nhỏ nhặt, nhưng do chẳng quan hệ khẩn yếu, cũng như do [Quang] mục lực không đủ nên chẳng nêu ra.

Trong các tác phẩm do các hạ biên soạn, chỉ có tác phẩm này là lợi ích rộng lớn nhất; vì người căn cơ trung – hạ ắt phải do nhân quả báo ứng mà nhập đạo thì mới có lợi ích thật sự. Nếu không, chỉ là ăn nói trơn tru ngoài miệng, chẳng biết giữ lòng cung kính, cẩn thận để mong đích thân thật sự chứng được. Những kẻ cuồng huệ trong cõi đời đều do lúc ban đầu chẳng uống thuốc nhân quả báo ứng này, nên đối với lời nói “trực chỉ nhân tâm, đương thể tức thị” của Phật, của Tổ, ngược ngạo hiểu lầm thành “mặc tình tùy nghiệp”, [lấy đó làm] căn cứ để trọn chẳng kiêng dè, ác không cần đoạn, thiện chẳng cần tu. Dùng phàm tình để suy lường thánh trí, biến Đề-Hồ[49] trở thành Tỳ Sương[50], chẳng đáng buồn ư? Sách này được xuất hiện, ắt sẽ có kẻ ôm lòng run sợ, bồi hồi, bất an; từ đấy chú trọng đạt được lợi ích thật sự, chú trọng xa lìa mối họa thật sự. Từ một người cho đến nhiều người, từ một đời cho đến nhiều đời, được pháp lợi, tắm gội Phật ân, vượt biển khổ, lên bờ giác liên tục chẳng tận. Kính cẩn dùng điều này để chúc mừng các hạ.

Khi xem tới phần thư mục ở cuối cùng, vẫn thấy nêu tên cuốn Pháp Hoa Kinh Lực của ông Lưu Nhân Hàng (Diễn Tông). Mùa Đông năm ngoái, các hạ đã trống lòng xin chỉ chỗ sai, tôi đã trình bày [lý do] chẳng thể lưu thông sách ấy. Về sau, do bạn bè từ xa gởi thư đến, bảo Quang hãy thẳng thừng bày tỏ lời pháp gián (lời can ngăn về mặt pháp), Quang lại thiết tha trình bày những điểm sai lầm của sách ấy và chỉ rõ “lưu thông sách ấy sẽ bị người khác bài xích!” Nếu Diễn Tông cố chấp không nghe, sao các hạ vẫn lưu thông giùm cho ông ta vậy? Ấn Quang và Diễn Tông trọn chưa hề gặp mặt nhau, chưa nói với nhau một lời nào. Hai lá thư lần trước đa phần là tính kế cho ông Nhân Hàng, và một phần ít là tính kế cho các hạ. Nay thì chuyên vì các hạ tính kế.

Các hạ thông hiểu Phật pháp sâu xa, há chẳng biết “tự làm, dạy người [khác làm], thấy nghe [người khác làm bèn] vui theo” đều cùng chịu một quả báo do nghiệp thiện hoặc ác hay sao? Nhân Hàng là tự làm, các hạ thay ông ta lưu thông chính là đủ cả những chuyện “tự làm, dạy người [khác làm], thấy nghe [người khác làm bèn] vui theo”. Huống chi Quang hai lượt gởi thư tỏ bày lẽ lợi – hại mà các hạ vẫn lưu thông ư? Chắc ý các hạ cho rằng [những lời lẽ] trong lá thư thứ hai vẫn là do Quang nói thác ra, chứ thật sự chẳng có ai gởi thư bảo Quang can gián!

Ông đâu biết đối với chuyện này, Quang phải tốn khá nhiều công đắn đo; do bọn họ muốn Quang dựa theo từng điều [lập luận của Lưu Diễn Tông] để quở trách, rồi cho ấn tống rộng rãi [những lời phê phán ấy] để mong sao ai nấy đều cùng biết, chẳng bị mắc hại. Quang cho rằng: “Do tập khí, văn nhân thường mắc phải thói tệ ‘tâm vẫn chưa còn hiểu rõ đã muốn nêu tỏ’. Ta nên khuyên ông ta thiêu hủy sách, vĩnh viễn chẳng lưu thông là được rồi! Đâu cần phải nói nhiều gây lắm phiền nhiễu, làm chuyện tốn kém tiền tài!” Do vậy, bèn đem lá thư thứ nhất và lá thư thứ hai cùng gởi đi, lại còn dặn đừng đưa thư Quang cho người khác xem. Ông ta gởi thư trả lời, nói Quang muốn thủ tiêu một cách vô hình, đôi bên ai nấy đều được lợi ích. Đọc xong khiến cho người ta ứa lệ.

Nào ngờ năm nay các hạ vẫn ký tên lưu thông thì ra lá thư các hạ trả lời Ấn Quang chính là mưu mẹo để dỗ cho đứa bé nín khóc, chứ không phải là lời lẽ thể hiện sự vui mừng, kính phục từ trong tâm. Ấn Quang yêu mến các hạ còn hơn các hạ yêu mến Quang, vì thế lại khóc oa oa. Nếu các hạ chịu rủ lòng thương, bất luận Nhân Hàng nói trước tác của chính mình cao sâu đến đâu, [các hạ sẽ bảo ông ta] “ông muốn lưu thông thì hãy tự lưu thông, dẫu dùng oai phước để bức bách, tôi cũng chẳng chịu thay ông lưu thông”, Quang sẽ hết khóc liền. Nếu không, Ấn Quang chỉ tự oán mình đời trước khẩu nghiệp quá sâu đến nỗi [đời này] lời nói chẳng được ai tin. Mười pháp giới mặc người tự tạo, nào có liên can gì đến ta? Tuy tâm thật sự chưa thể thỏa thích, vui sướng, nhưng cũng chẳng khóc nữa. Vì sao? Vì vô ích cho người khác, gây tổn hại cho mình; sao bằng thôi đi, lẽ đâu bắt chước chim cuốc (đỗ quyên) gào xuông vô dụng? Các hạ phát hoằng thệ nguyện, muốn lợi khắp hết thảy chúng sanh, nhưng lại cực lực lưu thông sách có hại cho huệ mạng của chúng sanh là vì pháp nhãn chưa thể thấy thấu triệt điều tệ ấy hay chăng? Hay là vì tình cảm mà a dua điều người khác ưa thích đó chăng? Quang chẳng thể nào biết được! Nếu vẫn cứ tiếp tục lưu thông sách ấy thì Quang chẳng dám hướng về các hạ mở miệng nữa đâu!

Tháng Tám năm ngoái, tiên sinh Trương Vân Lôi gởi thư đến, Quang gởi thư trả lời nói đại lược: Thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống, ông chịu trách nhiệm chính ở tờ báo, đối với những ngôn luận kiêng giết, phóng sanh v.v… và những sự tích nhân quả báo ứng v.v…. mỗi ngày hãy nên đăng tải một hai điều, khiến cho người đọc thấy được tấm gương rành rành, giữ lòng răn dè, cẩn thận, dần dần được giồi mài, dần dần được tiêm nhiễm, ngày càng hướng về nơi bậc thánh bậc hiền mà chẳng tự biết. Ông ta gởi thư trả lời cho biết sẽ dành riêng một cột báo, chuyên đăng tải những ngôn luận nhà Phật. Quang đã bắt đầu Phật thất, cố nhiên chẳng trình bày nguyên do. Ông ta cùng với Diệp Bá Cao, Ưng Quý Trung v.v… mười mấy người bàn định chương trình, cho đăng tải hằng ngày. Họ cử ông Diệp Bá Cao chịu trách nhiệm duyệt bài, đọc rồi mới được đăng báo. Đến tháng Chạp, họ đăng thông cáo về việc ấy, mới biết đến biện pháp đó.

Kế đó, Châu Mạnh Do nhiều lượt gởi thư bảo Quang viết luận. Thoạt đầu, Quang cật lực từ chối; tiếp đó, bất đắc dĩ phải ưng thuận, chỉ sao chép lại bao nhiêu đó bài văn hủ bại của chính mình gởi đi. Nghe nói những bài được đăng tải trong tháng Giêng đều là những văn từ hủ bại của Quang. Cũng có những bài không do Quang gởi mà là thư của Quang gởi cho người khác, người ta tự gởi đến tòa báo. Quang xin những đồ ăn thừa, giữ được những thứ cơm thừa, canh cặn ấy, những vị danh nhân ấy nhận lấy, đem dâng lên tai mắt của mọi người, khôn ngăn hổ thẹn đến chết người, nhưng cũng chẳng biết làm sao được? Chỉ đành để mặc mà thôi! Viết ra những điều này để chuốc lấy một tiếng cười vậy! (Ngày Hai Mươi Lăm tháng Giêng năm Dân Quốc thứ bảy – 1918)

Thư gởi cư sĩ Đinh Phước Bảo

(thư thứ mười)

Đã lâu chưa nhận được thư, khôn ngăn mong tưởng. Từ đầu Xuân đến nay, chắc là đứng ngồi đều hưởng phước, các duyên như ý. Xin chúc mừng! Bộ Văn Sao hủ bại của Quang đã được xuất bản. Vào mùa Đông năm ngoái, Quang đã báo cho ông Vân Lôi nhờ Thương Vụ Ấn Thư Quán lúc sách được in ra, hãy gói mười hai bọc, tổng cộng là sáu mươi bộ, báo tin cho người làm của các hạ đến nhận; sáu mươi lăm bộ kia gởi hết về cho Quang. Ông ta đã cùng Quang tính toán: [Mỗi cuốn sách được tính giá] bớt đi ba mươi phần trăm thì với năm mươi đồng sẽ thỉnh được một trăm hai mươi lăm bộ sách. Nhưng thư cục non gan, sợ sách không bán được sẽ cụt vốn, chỉ in ra hai ngàn bộ, đến khi sách được in ra, người thỉnh quá nhiều. Đối với số sách do Quang yêu cầu, dù thúc giục họ cũng không giao. Vân Lôi nhiều lần thúc giục, họ vẫn không giao. Chắc là họ giữ lại để bán ra theo giá thật sự trên thị trường, đợi đến khi tái bản mới giao sách. Chắc là sáu mươi bộ của các hạ, e rằng họ cũng chưa giao.

Tiếp đó, nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn, vì trong cuốn Phật Học Tiệp Kính (Đường tắt trong Phật học) đã đem những lời lẽ hủ bại của Quang xếp chung với ngôn luận của các vị đại tổ sư, các vị đại cư sĩ, càng thêm xấu hổ không chỗ dung thân. Quang là một kẻ vô tri vô thức, đối với Phật học trọn chẳng hiểu biết gì. Tuy đối với một pháp Tịnh Độ tin tưởng sâu xa, nhưng nghiệp sâu huệ cạn, làm sao nêu tỏ cho được? Dẫu có một hai kẻ thấy Phật kính Tăng hỏi đến thì cũng chỉ là lấy những thứ cơm thừa canh cặn để chính mình tự nương cậy, tự giữ mạng sống, hay là những pháp gom cỏ nhóm lá [để đáp lời] hòng khỏi bị quở trách; nào đáng được xếp chung với các ngôn luận của những vị đại tổ sư, các vị đại cư sĩ! Trong bài Kiệt Thành Phương Hoạch Thật Ích Luận (bài luận về cạn hết lòng thành mới đạt được lợi ích thật sự), tôi vốn muốn sưu tập rộng rãi những câu chuyện chứng minh cho vấn đề phước hay tội vì kính trọng hay khinh nhờn để làm khuôn phép răn nhắc lớn lao cho con người hiện thời, nhưng vì mục lực không đủ nên chỉ sao chép được một hai câu chuyện mà thôi!

Sách An Sĩ Toàn Thư trong Thế Đế bao gồm Phật pháp. Do vậy, tiên sinh Nhân Sơn cũng đưa [tên sách ấy] vào trong cuốn Đại Tạng Tập Yếu[51]. Các hạ soạn mục nói về sách ấy trong bộ [Phật Học] Đại Từ Điển sẽ có lợi ích lớn lao. Năm ngoái, [An Sĩ Toàn Thư] đã được khắc in lại ở Vân Nam, ước chừng đến cuối năm sẽ xong, vẫn còn chưa gởi đến. Những văn từ hủ bại của Quang cũng được ghép vào trong ấy. Tuy văn tự hèn vụng, nhưng cũng có thể dùng làm hướng dẫn vụng về cho kẻ sơ cơ.

Huệ Mạng Kinh[52] chính là sách của bọn ngoại đạo chuyên dùng Phật pháp để chứng minh cách luyện đan, lại ngược ngạo lắm phen hủy báng Phật pháp. Các hạ là bậc cao minh, lại còn cực lực hoằng dương [Phật pháp], sao lại đem sách ấy xếp vào Phật điển (những kinh sách nhà Phật)? Chẳng những gây hiểu lầm cho độc giả, lại còn ảnh hưởng lớn lao đến tiếng tăm nghiên cứu Phật học của các hạ! Người sáng mắt đọc đến ắt sẽ cho rằng các hạ tà – chánh không phân, vẫn theo đuổi chuyện luyện đan!

Hơn nữa, nếu chỉ nói đến chuyện luyện đan thì cũng không gây hại lớn lao chi lắm, nhưng sách ấy dẫn toàn kinh Phật, lời Tổ để làm chứng cho phép luyện đan, biến chánh thành tà, khiến cho con người không phân biệt được. Nếu có chỗ nào không thích hợp, ngoại đạo liền sửa đổi câu chữ. Như câu “Duy hữu nhất thừa pháp, dư nhị tắc phi chân” (Chỉ có pháp Nhất Thừa, hai pháp kia chẳng thật) trong kinh Pháp Hoa, chúng liền giảng là “huệ mạng song tu!” Lại còn vẽ hình thận tạng, viết hai bên, một bên thuộc Huệ, một bên thuộc Mạng, cho rằng “huệ mạng song tu thì mới có thể thành đạo!” Dẫn đoạn văn ấy từ kinh Pháp Hoa để làm chứng, nhưng sửa chữ Dư thành chữ Trừ (thành ra “duy hữu nhất thừa pháp, trừ nhị tắc phi chân”) bảo rằng: “Ngoại trừ huệ mạng song tu ra thì không có gì là thật hết!” Phàm những tông Thiền, Giáo, Luật, Tịnh, Mật và lục độ vạn hạnh v.v… được nói trong kinh Phật không gì chẳng bị chúng đả phá, bài xích.

Cuốn sách ấy đều do những kẻ hèn kém vô tri tự ấn tống, lưu hành riêng tư, tự truyền thọ riêng tư, bậc chánh nhân quân tử trông thấy đem đốt đi còn không kịp! Nào ngờ các hạ lại đưa sách ấy vào trong từ điển, tai hại không thể kể xiết! Mong rằng với những bản đã in ra hiện nay, hoặc dùng mực bôi đen đi, hoặc dùng dao rạch bỏ [trang giấy đã in từ ngữ ấy] để người đọc chẳng bị lầm lạc, cũng như bảo toàn được kiến địa của chính mình. Trong lần in sau này, hãy đẽo bỏ [mục nói về sách ấy] khỏi ván in thì một nồi canh thơm ngon chẳng bị phân chuột làm ô uế! Lúc Quang mới xuất gia từng thấy sách ấy. Tới Bắc Kinh cũng nghe nói có hạng người như vậy. Xuống phương Nam tuy chưa thấy, nhưng tại Hàng Châu Kinh Phường hiện đang lưu thông. Những người lưu thông kinh Phật ấy chính là những kẻ được đức Phật gọi là “hạng người đáng thương xót”, nhưng hạng người có thế lực chẳng [ra sức] ngăn cấm thì người sẵn có tín tâm sẽ nhập tà pháp, rồi từ đấy chỗ nào cũng đều có. Thẹn mang tiếng tri tâm, nên nói thẳng không giấu diếm, mong hãy rủ lòng tha thứ (Ngày Hai Mươi Lăm tháng Giêng năm Dân Quốc thứ bảy – 1918).

Pháp sư Ngọc Phong tuy hành trì tốt đẹp, nhưng kiến giải về mặt lý nhiều chỗ thiên vị. Tu theo những điều được nói trong các trước thuật của Sư thì cũng được vãng sanh, nhưng những lời thiên chấp chưa khỏi gây trở ngại lớn lao. Ngay như cuốn Niệm Phật Tứ Đại Yếu Quyết của Sư, về ý thì cũng không có chỗ nào chẳng tốt đẹp, nhưng dùng từ ngữ, lập luận thật mâu thuẫn với những bậc cổ đức. “Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu nhất tâm” là đã trái nghịch, lầm lạc với toàn thể. Kinh dạy người ta nhất tâm, Sư lại dạy người ta chẳng cầu. Chẳng trừ vọng tưởng mà có thể đạt được nhất tâm hay sao? Chọn lấy pháp bậc thượng, chỉ đạt được bậc trung. Há có nên vì chẳng thể đạt được mà chẳng giữ lấy pháp ấy hay sao? Nếu do chẳng đạt được mà dạy người khác chẳng giữ lấy pháp ấy thì chính là dạy người khác học theo pháp bậc hạ vậy!

Đại Thế Chí Bồ Tát nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Sư cực lực dạy người khác tán tâm niệm, chẳng tán dương nhiếp tâm niệm. Niệm Phật tuy hết thảy vô ngại, nhưng muốn đích thân chứng được tam-muội thì cố nhiên giữ tâm cho tịnh vẫn tốt hơn. Nếu chẳng thể tịnh thì cũng không trở ngại gì, đấy chính là “ngay trong nơi động mà tịnh!” Sư một mực coi tịnh là tà, cho rằng [cố giữ cho tâm tịnh] là trái nghịch rất lớn ý chỉ “chấp trì danh hiệu, nhớ Phật, niệm Phật”, lỗi ấy không thể nào diễn tả được!

Hơn nữa, một pháp Niệm Phật bao gồm trọn vẹn hết thảy pháp môn trong một đời [giáo hóa của đức Phật], mà một chữ Tịnh vẫn bị đặt ra bên ngoài thì há có đáng gọi là vị chân thiện tri thức trong Tịnh Tông hay chăng? Mong lần sau tái bản hãy gạt bỏ [mục viết về sách] Tứ Đại Yếu Quyết ngõ hầu kẻ sơ cơ chẳng đến nỗi mắc bệnh, mà người thông suốt cũng không do đâu mà chê cười được! Hoằng pháp lợi sanh thật chẳng phải là chuyện dễ dàng! Hễ hơi thiên chấp, bao mối tệ chen chúc nẩy sanh, chẳng thể không cẩn thận!

Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo

(thư thứ mười một)

Cuốn Phật Học Chỉ Nam do ông đã rộng lòng ban cho trước đây rất có ích cho kẻ học Phật và những kẻ chẳng tin nhân quả, chẳng tin Phật pháp. Những lời nói của các bậc danh nhân được dẫn trong ấy cũng có những câu chẳng thật đúng pháp lắm, nhưng vì mục lực không đủ nên chẳng thể chỉ ra được. Tiếp đó, nghĩ các hạ dùng cuốn sách làm kim chỉ nam để dẫn dắt [người khác] vào biển pháp; nếu cây kim ấy bị cong vẹo đôi chút vẫn chưa chắc không khỏi đi sai hướng. Vì thế, nay nêu lên những điều tôi từng thấy được (Quang mục lực không đủ, chưa thể đọc trọn khắp. Ở đây chỉ nêu lên những gì mình thấy được mà thôi). Đối với những điều chưa thấy được, cũng có thể dựa vào đây để suy ra, để rồi các hạ sẽ sửa đổi đại lược lời văn, hoặc bình luận ngay sau câu ấy khiến cho người thấy nghe không bị nghi ngờ, lầm lạc thì mới thỏa thích được cái tâm hoằng pháp độ sanh của các hạ.

Hàng thứ sáu ở mặt sau trang thứ mười bảy cuốn Thượng Biên, nay trong đoạn văn ấy chỉ viết là “ngày đó, tháng đó là trai kỳ Quán Âm”, ấy chính là chẳng biết duyên do đức Phật rủ lòng tạo phương tiện khiến cho con người từ tạm thời mà đạt đến thường hằng, do giảm dần mà đoạn dứt. Ở dưới đoạn đó, hãy nên luận cặn kẽ rằng: Đức Phật chế ra cách ăn chay theo trai kỳ (ăn chay theo ngày) vốn là pháp phương tiện để vĩnh viễn đoạn dứt sát nghiệp và thói ăn thịt. Đọc những thiên sách do ông Kỷ (Kỷ Hiểu Lam) ghi chép, biết ông ta tin nhân quả nhưng chưa biết Phật pháp. Phật pháp khó được nghe như thế đấy! Những người được nghe là do đời trước vun bồi quả thật chẳng nông cạn đâu! (Nếu chẳng thêm lời bàn thì chỉ nên ngừng ở chữ Tín nơi hàng thứ năm, những phần dưới đều lược bỏ đi).

Thêm nữa, hàng thứ tám nơi trang ba mươi, [dẫn lời Viên Tử Tài khen ngợi ông Hồ Bảo Tuyền]:“Ông một đời chẳng chịu vào miếu, thần Phật trông thấy đều đứng dậy”. Viên Tử Tài thông hiểu rộng rãi mà vẫn lẫn lộn thần với Phật, gọi thần là “thần Phật” do đây cũng biết rằng ông Viên chẳng biết gì về Phật pháp! (Hàng thứ mười một ghi) “những vị khác như Như Lai, Tiên Tử, Quan Công, Tưởng Hầu[53] đều chưa trông thấy”. Tưởng Hầu mà còn chưa trông thấy thì những vị đứng dậy chính là những ông thần như Thành Hoàng, Thổ Địa, hoặc các thần trong năm đường, đều gọi lẫn lộn là “thần Phật”, cũng chẳng phải là gây lầm lẫn cho người khác quá đáng ư? (Hàng thứ mười ba) “Chỉ thần Phật là chánh trực thông minh”, (hàng thứ tám) hãy nên ghi thành “thần trông thấy đều đứng dậy”, (hàng thứ mười ba) nên ghi là “chỉ có thần là chánh trực thông minh” thì kẻ vô tri vô thức chẳng đến nỗi cho là Phật kính trọng ông Hồ [Bảo Tuyền]!

Trong cuốn Thượng Biên, từ hàng cuối trang thứ ba mươi ba cho đến hàng thứ sáu trang thứ ba mươi bốn, hãy nên lược bỏ đi. Đoạn này nói về cách tu luyện của Đạo gia, chứ không phải là Phật pháp. Đem dẫn vào bộ Chỉ Nam, chỉ sợ gây nghi ngờ, lầm lạc cho người ta. Phật pháp chẳng để sót điều thiện nhỏ nhặt nào, nhưng chẳng chấp nhận học chuyện ấy. Điều này khẩn yếu đến cùng cực vậy!

Chương thứ nhất cuốn Hạ Biên, nơi hàng thứ bảy trang ba mươi lăm, nên ghi là: “Phu nhân[54] đến vườn Tỳ Lam, thấy một cái cây to tên là Vô Ưu”. Viết như thế câu văn sẽ trong sáng. Nơi chương thứ nhất, từ hàng mười ba của trang ba mươi lăm cho đến hàng thứ tư nơi trang sau, phần này thuộc về chuyện oán gia đời trước đòi mạng mà hiện ra hình tướng lạ lùng ấy. Do Văn Hiến Công oán ghét sự hiển đạt rạng rỡ của Quân Ngọc mà chẳng biết nguyên do, cho đấy là Bồ Tát thị hiện, thoạt đầu đặt tên là Phật Nô; tiếp đó, nó thiêu đốt ngôi tháp đã xây, trọn chẳng biết là oán gia đời trước đòi mạng vợ chồng đứa con nuôi. “Phật pháp khó thể biết, tà – chánh khó thể rõ” là như vậy đó.

Thêm nữa, dòng thứ mười bốn của mặt sau trang ba mươi lăm, “Quỷ Phương” chính là Tây Vực. Kinh Dịch ghi: “Cao Tông phạt Quỷ Phương, tam niên phất khắc” (Cao Tông đánh Quỷ Phương[55], ba năm chẳng thắng) đủ để chứng minh điều này. Đời Thương gọi là Quỷ Phương, đời Châu gọi là Hiểm Duẫn, đời Hán gọi là Hung Nô.

Cuốn Hạ Biên, nơi dòng thứ tám thuộc mặt sau trang ba mươi tám, dưới câu “nhập Tam Ma Địa” nên ghi là: “Do ta cúng dường Quán Âm Như Lai khiến cho thân ta thành được ba mươi hai thân ứng hóa, tùy cơ thuyết pháp khiến cho các chúng sanh đạt được mười bốn thứ công đức vô úy và bốn thứ vô tác diệu lực chẳng thể nghĩ bàn nơi thân tâm ta”. Như thế mới chẳng trái nghịch ý nghĩa của kinh mà ngữ ý cũng được thông suốt. Nếu chỉ ghi “ta cúng dường Quán Âm, khiến cho mười phương chúng sanh xem thấy âm thanh” thì thành ra có đầu không đuôi, ngữ ý không trọn vẹn.

Trong dòng kế tiếp viết: “Kính xét: Phẩm vị của Bồ Tát vốn thông với chư Phật”, nên viết là: “Phật thuộc quả vị, Bồ Tát thuộc nhân vị. Dù quá khứ đã thành Phật đạo, nhưng lại hiện làm [thân] Bồ Tát thì cũng chẳng nên gọi lẫn lộn là Phật”. Bồ Tát hiện hình trong sáu đường, không thân nào chẳng hiện. Há nên chỉ dựa vào những thân đã hiện để biện định phẩm vị ư? Các hạ chưa suy nghĩ sâu xa ý nghĩa của đoạn kinh văn vừa dẫn nên mới phạm khuyết điểm này (Câu “lúc ta làm Bồ Tát” chính là chỉ lúc trong quá khứ, ngài còn chưa thành Phật).

Mặt sau trang bảy mươi chín, dòng thứ sáu: “Mổ con trai được La Hán, được Quán Âm”, từ dòng thứ tám là “từ trong con trai thấy được tượng Phật, hay tượng Bồ Tát”, những ghi chép thường được lược bớt giống như thế. Hơn nữa, xưa kia có kẻ chẻ đầu lợn tìm được nhục thân Phật nơi răng hàm. Giết dê nấu chân giò mãi không chín, chẻ ra thấy có tượng Phật bằng đồng. Giết trâu cắt lấy thận, mổ ra tìm được tượng Phật bằng thịt. Bắt được con trai to, cạy ra không được, ý muốn bỏ mặc đó cho nó tự há miệng, thấy trong con trai có một vị Phật bằng ngọc trai. Đấy đều là vì Phật, Bồ Tát đại từ bi hiện thân trong dị loại, rốt cuộc hiện Bổn, khiến cho các chúng sanh kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, biết rõ “hết thảy chúng sanh do mê trái bổn tánh nên đọa lạc trong ác đạo, nhưng cội nguồn tâm tánh trọn chẳng khác gì Phật!” Nếu ta chẳng sớm giác ngộ, tương lai cũng đọa vào trong những loài ấy; đâu dám chẳng tự thương mình, xót người, lớn tiếng đau đớn kêu gào cùng làm cho mọi người mau lên bờ giác ư?

Còn như vỏ con trai ở Phổ Đà có hình Phật là do kẻ gian ngụy tạo, được bán quanh năm ở các tiệm đã mấy chục năm rồi! Họ cắt đôi vỏ trai ra, bỏ tượng Phật bằng đồng vào trong ấy rồi ghép lại. Có người nói [kẻ làm giả] bắt con trai còn sống, mổ ra nhét [tượng đồng vào] rồi nuôi trai trong nước, đợi khi chúng lành vết thương bèn bắt ra đem bán. Cách chế biến sống hay chết như thế nào, rốt cuộc không hiểu rõ, nhưng ngụy tạo là chuyện hết sức đích xác! Ôi! Kẻ gian mang tâm cầu lợi, cũng có thể nói là trí trá đến cùng cực, nhưng họ đã che mắt người ta được thì sẽ thường do đấy mà bán được, chẳng đáng buồn sao? ối với chuyện vỏ trai ở Phổ Đà hãy lược bỏ một đoạn, bỏ đoạn ngụy tạo giữ lại đoạn nói về sự thật. Nếu chẳng lược đi thì người ta ắt sẽ đua nhau mua, chắc sẽ đến nỗi do thứ ngụy tạo mà nghi ngờ thứ thật, không thể không cẩn thận).

Dòng mười trang tám mươi ba, “xét ra chú Đại Bi phát xuất từ kinh Đại Bi Đà La Ni thuộc Mật Bộ. Quán Thế Âm Bồ Tát nói chú này xong, mặt đất chấn động sáu cách, trời mưa xuống bốn loại hoa, chư Phật hoan hỷ, chúng hội đều được lợi ích. Đại Phạm thiên vương thưa hỏi tướng mạo của chú này”, Bồ Tát nói “tâm đại từ bi là [tướng mạo của chú này]” cho đến câu thứ mười “vô thượng Bồ Đề tâm là [tướng mạo của chú này]”. Hãy nên viết như thế thì văn tuy đại lược nhưng lai lịch rõ ràng. Ông Lương (Lương Khải Siêu[56]) chẳng nêu bày lai lịch khiến cho cả mười câu đều hỏng.

Dòng thứ bốn thuộc mặt sau trang tám mươi ba, gồm hơn hai mươi điều. Dòng thứ bảy, dùng vị Hộ Pháp Kim Cang để giải thích chữ Kim Cang trong [tựa đề kinh Kim Cang] Bát Nhã[57]. Ông nói là tìm chữ tương đồng để gạt bỏ chỗ sai khác, chẳng đoái hoài về lý là đúng hay sai, sao mà cũng chẳng hiểu nghĩa kinh đến mức cùng cực như thế? Ông Đàm Khê biên soạn nhiều năm mà cũng nói như vậy, Lương Cung Thần[58] thuận theo cách hiểu của cha nên ghi như vậy. Đủ thấy Đàm Khê và cha con họ Lương đều là hạng tin Phật nhưng chẳng biết Phật pháp! Nói chung là vì đời trước thiện căn chẳng chân thật, cho nên đời này suốt đời thọ trì đại pháp của Như Lai mà rốt cuộc vẫn là kẻ đứng ngoài cửa! Hãy nên ghi: “Tiên sinh thường nói kinh Kim Cang nghĩa lý sâu xa, uyên áo, tam thế chư Phật đều do kinh này mà ra. Nếu có thể chí thành biên chép, đọc tụng thì không phước nào chẳng đưa đến, không họa nào chẳng diệt. Vì thế, kinh dạy: “Kinh này nghĩa chẳng thể nghĩ bàn, quả báo cũng chẳng thể nghĩ bàn”.

Dòng thứ mười một nơi mặt sau trang tám mươi ba, từ trang chín mươi trở đi cho đến câu “Phật chẳng đáp [lễ] ta”, hãy nên lược bỏ đi. Ông Viên Tử Tài học rộng, thông đạt, mà trong phần truyện ông Hồ Bảo Tuyền[59] ở cuốn Thượng Biên đã gọi lẫn lộn thần là “thần Phật”, bảo “thần Phật” thấy ông Hồ đều đứng dậy. Trong ấy lại ghi là “các vị khác như Như Lai, Tiên Tử, Quan Công, Tưởng Hầu đều chưa thấy”, phần cuối lại ghi: “Chỉ thần Phật là chánh trực thông minh”, cho nên biết rằng vì [ông Hồ Bảo Tuyền] là quý nhân, chánh nhân (con người chánh trực) mà [thần thánh] kính trọng. Tài tử vẫn là tài tử, đối với chuyện soạn văn ghi chép sự việc, sao lại hồ đồ cùng cực như thế?

Còn trong chương này thuật chuyện ông Dương lạy Phật, tượng Phật liền đứng dậy lạy trả. Đấy chính là do sức ác nghiệp đời trước mà oán gia trái chủ huyễn hiện cảnh ấy, cốt sao ông ta sanh lòng hoan hỷ lớn lao, tưởng mình đắc đạo liền bị ma dựa phát cuồng, phá hoại công phu từ trước để báo oán. May là ông ta có sức công đức sâu nên chưa bị tổn hoại, rốt cuộc được chánh niệm vãng sanh. Ông Tử Tài và bà nội ông ta tưởng đó là chuyện thật, chẳng đáng buồn sao? Phật là tam giới đại sư, Đẳng Giác Bồ Tát lễ bái mà Phật còn chẳng ngăn trở, huống là đáp lễ họ Dương ư? Chánh nhãn chưa mở, chẳng biết cảnh ma. Tử Tài mà còn như thế huống gì những kẻ khác! (Ngày Hai Mươi Tám tháng Giêng năm Dân Quốc thứ bảy – 1918).

(thư thứ mười hai)

Vừa nhận được thư khôn ngăn hổ thẹn. Quang mặc sức nói càn, nào đáng coi như khuôn phép? Nhưng một niệm ngu thành, các hạ đã thương xót sâu xa mà chấp nhận. Đối với sách Phật Học Chỉ Nam, Quang chỉ mới đọc kỹ phần bàn luận thêm của Thượng Biên và Hạ Biên, những phần khác chưa thể đọc trọn hết. Do tiện đâu thấy đấy nên chẳng theo thứ tự nào, nêu lên lôi thôi một hai điều. Gần đây mục lực càng thêm suy kém, nếu đọc hết cả bộ sách chắc là rất phí sức, thật khó thể vâng mạng được (chuyện viết lời tựa thì Quang học thức ở ngoài da, nông cạn, bút mực nhạt nhẽo. Mấy chục năm qua, hết thảy những người tri giao chưa có một ai bày ra chuyện này, xin hãy rộng lòng tha thứ).

Tòa báo Thời Sự cũng bảo đem những phần bàn luận thêm của Thượng Biên và Hạ Biên cho đăng báo từng kỳ một, còn phần chánh văn của Hạ Biên họ chỉ nói đã đăng trong Phật Học Tùng Báo, có lẽ phần sao lục chi tiết từ sách Tam Quốc Phật Giáo Lược Sử không cần phải đăng (Quang lại bảo ông Vân Lôi: Tác phẩm Thiếu Niên Tấn Đức Lục của ông Đinh chính là khuôn mẫu cho bọn thiếu niên, hữu ích lớn lao cho thế đạo nhân tâm, ngoài chuyên mục Phật học, hãy nên đăng tải đầy đủ tác phẩm này để giúp cho công cuộc vãn hồi thế đạo nhân tâm).

Vì sao biết bài Đại Tạng Đại Lược là thủ bút của ông Đoan Phủ? Khi tờ Phật Học Tùng Báo đăng bài văn này, ông Đoan Phủ đang chịu trách nhiệm biên tập [cho tờ Tùng Báo]; hơn nữa, ông ta đã chấp thuận lời mời của Tần Già Hoa Viên hơn nửa năm rồi! Đoan Phủ học thức cao minh, bút mực siêu diệu, Tăng – tục thời gần đây hiếm ai sánh bằng!

Trích lục những câu danh ngôn để phụ trợ giáo lý, dẫu chẳng ghi tên [người nói những câu ấy] cũng chẳng phải là cướp đoạt cái hay của [người khác]. Nếu mạo nhận đề tên chính mình thì mới nói như vậy được, chứ chưa đề tên mình thì cần gì phải quá khiêm tốn? Nhân quả báo ứng là phương tiện đầu tiên để nhập đạo của Nho giáo lẫn Phật giáo, mà cũng là cương tông để chứng đạo của Nho giáo lẫn Phật giáo. Người đời thường coi nhân quả báo ứng là chuyện thiển cận, đến nỗi bao nhiêu kẻ chẳng thể vượt khỏi Thường Kiến và Đoạn Kiến. Nếu chẳng theo gót bọn Xiển Đề thì cũng là phường “kể chuyện ăn, đếm của báu”! Sách [Pháp Hoa Kinh Lực] của ông Lưu [Diễn Tông] đã sớm bỏ đi rồi, công đức vô lượng! Cái hại của sách ấy chẳng thể nào nói tường tận được! Tuy khen ngợi Pháp Hoa nhưng chẳng khen ngợi được đạo của Pháp Hoa. Cái tội trái nghịch Pháp Hoa đã đáng thiêu hủy rồi! Huống chi phá hoại pháp môn Tịnh Độ “rốt ráo thích hợp khắp ba căn khiến cho ai nấy được liễu thoát ngay trong đời này” của tam thế chư Phật ư? Bạn bè đau lòng buốt óc, nuốt lệ bảo với Quang, cho nên Quang mới hai lượt giãi bày lẽ lợi – hại. Nếu chẳng tin, xin hãy tới Phổ Đà, sẽ đưa những lá thư gốc và thư họ trả lời Quang cho ông đọc, ắt sẽ tự biết Quang chẳng nói dối. Quang vô học, vô đức, vì bất đắc dĩ, chỉ đành bắt chước dấu tích “gom chữ, quét lá” để đáp ứng, chỉ mong tắc trách cho xong chuyện, nào đáng khen ngợi quá mức? Hổ thẹn, sợ hãi khôn ngằn!

Cư sĩ hiện đang là người cực lực hoằng dương Phật pháp bậc nhất, để dạy người thì chính mình phải hành, cố nhiên nên ăn chay trường. Ngay cả vợ con, bạn bè, cũng nên bảo họ ăn chay trường. Dẫu nhập đạo chưa sâu, chẳng thể hoàn toàn dứt [ăn mặn được], cũng nên dạy họ do giảm dần mà đoạn được, đấy chính là nghĩa trọng yếu. Người đời chẳng biết loài vật đều do nghiệp lực mà có, tưởng “trời sanh ra những loài ấy vốn để nuôi con người!” Nếu biết được lý sâu “hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai”, ắt sẽ có chuyện ăn vào chẳng thể nuốt xuống được! Cố nhiên cư sĩ hãy nên đem thân làm gương cho người khác, hãy nên vĩnh viễn dứt bỏ chuyện ăn thịt. Dẫu cho ăn rau bên cạnh thịt[60] cũng chẳng cần phải bắt chước hình tích của bậc Đại Sĩ thuở trước, bởi lẽ, người hoằng pháp cần phải hiểu thời cơ. Thời bây giờ chẳng giống như thời cổ, nhằm buổi giọt nước đã đông thành băng thì trọn chẳng thể dạy người khác ăn mặc như trong tiết Hè để đến nỗi làm hại tánh mạng của người ta.

Ông thành lập Bần Dân Giáo Dục Xã (Hội giáo dục dân nghèo) đủ chứng tỏ tấm lòng đau đáu chân thật, thiết tha, tiếc rằng Quang nghèo trơ nghèo trất, chẳng thể tùy hỷ được, thiếu sót vô cùng. Tuy chưa xem Phật Học Tiểu Từ Điển, nhưng đọc qua lời tựa, biết có khảo chứng, tra cứu, có ích lớn lao cho đồng luân. Nhưng sách được in trên giấy có độ bóng, nếu [mực in] bỏ ít chất nước thuốc, sách chỉ giữ được mười mấy năm, hiếm sách nào giữ được hơn hai mươi năm. Nếu [mực in] bỏ nhiều chất thuốc thì mấy năm liền phai nét. Quang đã từng thử nhiều lần rồi. Trước đây, Quang từng đặc biệt vì chuyện này mà gởi thư cho Phật Học Tùng Báo và nhân tiện, thưa trình chín điều. Năm trước, tôi đã vì ông Châu Mạnh Do, giao cho chú tiểu ở Pháp Vũ sao lục [lá thư ấy]; chú ta vì làm biếng viết chữ nên đã lược đi ba điều trước đó và ba điều sau trong bức thư. Tôi cũng đem ý này thưa với ông Đoan Phủ, được đăng tải trong báo Thời Sự. [Xin đọc bài ấy] sẽ biết được nỗi lo canh cánh hèn tệ của Quang.

Cố nhiên, đối với bọn thương nhân chỉ cầu lợi, chẳng thể nào nói với họ về chuyện này được. Các hạ chỉ muốn hoằng pháp lợi sanh, ắt cần [những sách vở in ra giữ được] rất lâu chẳng bị phai nét chữ thì mới có lợi ích thật sự và đạt được lợi ích rộng lớn. Nếu [mau] phai nét thì chỉ phí tiền của, đến nỗi đánh mất lợi ích thật sự. Dám thỉnh các hạ phát lòng từ bi lớn lao, hết thảy những sách hữu ích cho thế đạo nhân tâm đều đừng dùng loại giấy ấy. Chỉ những loại đọc xong liền bỏ đi thì dùng [loại giấy ấy để in] cũng không sao. Quang không có sức làm công đức, tính dùng lời nói này coi như là thí kinh sách cho hàng Phật tử tín tâm khắp thiên hạ trong đời sau. Không chừng nhờ đây mà tiêu nghiệp lụy, được vãng sanh.

Tòa báo Thời Sự cũng đăng tải một trang nêu ra những thiếu sót, giống như thư gởi cho các hạ, nên không cần phải sao chép lại để gởi đi. Cuốn Giáo Dục Sô Nghĩa (những ý nghĩa quê mùa về giáo dục), văn lẫn lý đều hay, nhưng trong đoạn cuối cùng, dường như mắc khuyết điểm khơi gợi con người khinh miệt tam giáo. Phàm là người trong giáo hội, ai có thể cư xử vượt ra ngoài tam giáo, ai có thể tự lập một giáo ở ngoài tam giáo để đối kháng [tam giáo]? Dẫu nhiệt tâm đến tột bực, cũng chỉ tuân theo ý thánh nhân tam giáo để cực lực phụng hành mà thôi. Dẫu cho các tôn giáo ở ngoại quốc và Hồi giáo chẳng tin tưởng tam giáo, nhưng quả vị trong các giáo ấy có vượt ra ngoài quả vị của tam giáo được hay chăng? Những tôn giáo ấy chẳng bao gồm những đạo lý như trời che đất chở trong tam giáo hay chăng? Bất quá, thánh nhân tùy mỗi nơi mà thể hiện hình tích lập giáo, hơi có chút khác biệt.

Dùng ngu kiến để xét, có lẽ nên nói: “Thánh giáo nước ta, gồm ba tông lớn là Nho, Phật và Đạo. Nho mang hoài bão tự lập, lập người, Phật chuyên theo đuổi tự giác, giác tha; Đạo tuy điềm tĩnh, ẩn dật, nhưng xét về đại thể thì giống như Nho. Nhưng người tu luyện phải lấy chuyện tích đức chứa công, giúp đời, cứu dân làm nhiệm vụ trọng yếu. Nay những người trong giáo hội thấu hiểu tấm lòng ‘đối đãi bình đẳng với mọi người, thiên hạ là của chung’, phát khởi tấm lòng giúp già, an trẻ, không chỉ thương yêu riêng người thân của chính mình, không chỉ lo chăm chút con cái của chính mình. Lòng son nhiệt tâm thật sự lấp trời đất, lòa nhật nguyệt. Nếu người trong cả nước đều cùng phát cái tâm này, cùng làm chuyện này thì không một ai chẳng được yên vui, cõi đời đại đồng sẽ lại được thấy trong ngày nay. Lợi ích ấy lớn lao thay! Tôi nguyện ai nấy đều suy xét” (tiếp đó, ghi đúng như nguyên văn).

Những trước thuật của con người gần đây thường đề cao quá đáng [những pháp đang được mình đề xướng] với dụng ý muốn cho người khác tin chắc vào pháp của mình, thói tệ miệt thị cổ nhân phá pháp cũng bắt nguồn từ đây. Khổng Tử đã nói: “Nhất ngôn nhi hưng bang, nhất ngôn nhi táng bang” (Một lời hưng thịnh nước nhà, một lời vùi lấp nước nhà). Một đằng gây nên ích lợi về sau, một đằng gây nên họa hoạn về sau. Viết những sách thông thường chẳng có quan hệ khẩn yếu còn không nên như thế, huống là viết những sách hoằng pháp lợi sanh ư? Cổ đức nói: “Chuyện ấy như cái nạo bằng kim cang để gọt mộng mắt, hơi có chút gì không đúng liền lập tức hư mắt”, há chẳng cẩn thận ư? Ông Kỷ Văn Đạt nói: “Đọc khắp các sách được cất giữ bí mật, biết trước thuật của người đời sau kém xa tiền nhân”. Dẫu có vẻ tinh vi hơn, nhưng vẫn là thoát thai từ màu lam gốc[61] của tiền nhân, mà dám tự phụ là bậc nhất xưa nay không ai sánh bằng, cũng như nói tiền nhân đều sai lầm hay sao? Do các hạ lòng dạ rỗng rang vì pháp, nên tôi mới dám hiến lời bàn luận thẳng thừng này!

Đối với chuyện giáo dục, nhà trường, Ấn Quang vốn là kẻ đứng ngoài, chỉ vì cảm tấm lòng công bình chánh trực “muốn cho thiên hạ đều dùng thiện pháp để lập pháp”, nên nhân đây dâng lên ý kiến ngu muội để ngài xét rõ. Giáo dục trẻ em nghèo thì có lẽ chỉ đối với những đứa có thiên tư cao mai sau ắt sẽ trở thành quan chức, thân sĩ, giúp nước giúp dân [là có thể] chuyên dùng cách giáo dục trong nhà trường bình thường để dạy dỗ. Chứ những đứa chỉ có thể làm thợ, làm con buôn để tự kiếm ăn bằng sức lực của chúng thì có lẽ nên dạy chữ lẫn dạy nghề giống như chương trình của các Cô Nhi Viện gần đây, chắc sẽ giảm được chi phí cho nhà trường mà trẻ nghèo cũng được lợi ích thật sâu. Quang thấy phương pháp của Cô Nhi Viện thuộc hội Phật giáo Ninh Ba như sau: Hễ cô nhi đã có thể tự mặc áo, ăn cơm, không cần có người khác săn sóc thì mới cho vào viện. Cách dạy là đọc sách, viết chữ, học làm toán, học vẽ, bện giày cỏ, bện những thứ chiếu, gối, mũ dùng cho mùa hè, in đá, kiểm sách, may vá v.v… đều nhất loạt học hết. Đợi đến năm mười lăm tuổi khi rời khỏi viện liền có thể tự lực kiếm sống. Dẫu có đi học nghề hay học buôn bán cũng dễ dàng.

Trường học bình thường thì bảy ngày nghỉ một ngày và nghỉ lễ, nghỉ cuối năm, nghỉ hè. Trong một năm, trừ những kỳ nghỉ ra, chỉ còn được hơn sáu tháng. Huống chi trong một ngày, tám giờ [sáng] vào học, bốn giờ [chiều] tan học, thời gian ấy chỉ gồm bảy tiếng đồng hồ, lại có thời gian rảnh rỗi. Nếu chẳng phải là đứa thiên tư vẹn mười thì học được cái gì đâu, chỉ là uổng phí thời gian, uổng phí một phen khổ tâm của những người lo liệu. Nhưng trường học trong thiên hạ đều theo lệ đó, chỉ lợi cho giáo viên, nhưng bất lợi cho học sinh trong nhà trường, thật đáng than thở, cảm khái! Trong Cô Nhi Viện, chẳng lập kỳ nghỉ, thời khắc học hành hằng ngày cũng kéo dài hơn vì đã kèm thêm thời gian học nghề; nếu thời gian học ngắn ngủi sẽ chẳng thể thực hiện được điều nào! Đối với những sản phẩm chế tạo được, ngoài những món để tự sử dụng, đều đem bán ra ngoài. Tiền lời kiếm được cũng có thể giúp đỡ đôi chút cho chi phí nhà trường. Trẻ nghèo và trẻ mồ côi đâu khác nhau cho lắm!

Thật sự muốn cho trẻ dù thượng trung hạ căn đều có thể tự lập thì có lẽ phương pháp này thích hợp nhất. Nhưng người đứng trông coi phải là người thật sự lo liệu; nếu không, chỉ có hư danh, chẳng thành được chuyện gì. Đấy là thói tệ chung của những kẻ làm việc công từ trước đến nay ở nước ta. Nếu dốc toàn bộ cái tâm độ người của Phật, Bồ Tát, tâm kinh bang tế thế của thánh hiền vào việc này thì nước ta được hưng thịnh sẽ trông cậy vào đây, chứ nào phải chỉ dân nghèo được lợi ích!

 (thư thứ mười ba)

Vừa nhận được thư, ông khiêm tốn, khen ngợi [Quang] quá đáng khiến Quang hổ thẹn không chốn nương thân. Những điều Quang đã đọc chỉ là những chỗ bàn luận thêm của Thượng Biên và Hạ Biên, những chỗ khác đều chưa đọc tới. Những điểm nêu ra chỉ là những điều Quang đã đọc được. Lời nói chẳng thành văn, nào đáng khắc vào đầu quyển? Nếu chẳng chê bỏ, xin hãy đợi Quang thong thả đọc kỹ Hạ Biên một lượt, rồi sẽ sửa sai, nêu riêng từng điều một để mọi người thương lượng. Nếu chịu nghe theo, Quang sẽ nhân lúc được rảnh rang mà rườm lời mấy câu nhằm làm lời Bạt cho ngọn đuốc lớn. Còn như những lời lẽ nhờ cậy Quang chỉ bày để sửa sai trọn chẳng cần phải nhắc tới nữa. Nhưng mắt Quang quả thật chẳng kham sử dụng được, sẽ phải mất mấy chục ngày nữa mới có thể phúc đáp được (Ngày mồng Bảy tháng Hai năm Dân Quốc thứ bảy – 1918)

Nếu cả bộ sách được sửa chữa thì xin hãy bảo tòa báo đăng trọn vẹn bộ sách ấy. Do trước kia trong sách ấy có nhiều chỗ chẳng thích hợp lắm, sợ gây hiểu lầm cho người khác nên bảo họ chỉ đăng những phần bàn luận thêm thuộc hai cuốn Thượng Biên và Hạ Biên mà thôi. Nay được thấy mấy phen nhã ý của các hạ, chắc là đã nghe theo ngu kiến của Quang. Trước hết hãy nên nêu đại ý sách ấy, chẳng ngại gì cùng mọi người cân nhắc. Nhưng Quang do tâm mục suy đồi, gần đây lại bận bịu đủ mọi chuyện, khắc hơn một ngàn trang sách thì đối với hơn một nửa số trang đã khắc xong đều chưa giảo duyệt được. Lại do phải trao đổi thư từ thuận theo tình cảm, chẳng thể chuyên tâm làm việc ấy được, cho nên phải chậm trễ. Tôi sẽ sang Dương Châu vào khoảng tháng Năm hay tháng Sáu, đến đấy liền sửa đổi bản khắc chữ để cho in ra biếu tặng. Lại còn những sách được tái bản, phải đợi tới sang năm mới lo liệu được! (tái bút)

(thư thứ mười bốn)

Hôm qua nhận được thư và lời tựa của các hạ dành cho tác phẩm Cú Giải lớn lao, khôn ngăn cảm kích. Bộ kinh Pháp Hoa mầu nhiệm có được một bản hoàn chỉnh, ấn loát lưu thông, quả thật là may mắn lớn. Nhưng theo như những gì các hạ đã nêu ra, cũng có chỗ tự cắt thịt thành vết thương vậy. Cố nhiên Quang chẳng thể trình bày cặn kẽ từng điều một được.

Trong phẩm Phương Tiện, chữ Vĩ (茟) trong câu “nhược thảo mộc cập vĩ” (nếu dùng ngọn cỏ cây), chữ Vĩ (茟) có khi bị viết thành Bút (筆). Trong bộ Chánh Ngoa Tập (sửa đổi cho đúng những điều sai lạc), ngài Vân Thê giải thích chữ Vĩ (茟) âm đọc như chữ Vĩ (緯), có nghĩa là cây hay hoa vừa mới nhú. Nếu xét kỹ ý nghĩa, chưa chắc đã là chữ Bút, bởi lẽ trẻ nhỏ đùa bỡn kiếm được loại cây cỏ và búp hoa của các loại cây cỏ nào đều dùng móng tay để vạch lên đó. Vì thế, vẽ kiểu này trọn chẳng phải là như vẽ trên giấy hay lụa, mà là vẽ trên mặt đất, trên vách, hay trên đồ vật. Sách Tự Vị và Tự Điển[62] đều có thể dẫn làm chứng cứ, chắc không cần phải chèn ép ngài Vân Thê để khoe ra sự hiểu biết.

Chữ Trà (茶), trong kinh của Nhật Bản đều viết thành chữ Đồ (荼), chứ không phải chỉ mình chữ Cưu Bàn Trà (鳩槃茶). Tra trong tự điển thì chữ Đồ cũng có thể đọc là Trà, và cũng có nghĩa giống như chữ Trà. Vì thế, chớ nên dựa theo kinh điển Nhật Bản rồi chê bai kinh sách Trung Quốc đều viết sai. Nếu quyết định phải viết là Đồ thì những chữ [Đồ] phải đọc [thành] âm Trà[63] nhiều lắm! Hãy đem cách đọc chữ 荼 theo âm Đồ (塗) để đọc những chữ khác.

Câu “hình thể thù hảo” (hình thể hết sức đẹp đẽ) hoặc “đoan chánh thù diệu” (đoan chánh tuyệt diệu), [chữ Thù] viết là 姝 mà viết là 殊 cũng được!

Không cần phải dẫn các sách để làm chứng, chỉ cần dựa vào chánh văn của kinh để quyết đoán là được rồi! Há lẽ nào trong hết thảy các sách, đối với cùng một chữ đều không sai khác hay sao? Một pháp tam-muội [được nói] trong kinh Lăng Nghiêm còn có thể hiểu thành ba thứ, chẳng thể nói rạch ròi một thứ nào. Huống là những chữ trọng yếu khác đều theo lệ chung [giống như vậy] hay sao? Ba thứ là tam-muội, tam-ma-đề, tam-ma-địa, trong một kinh mà còn nhiều thứ chẳng duy nhất, huống là nhiều sách ư?

Ông sửa chữ Mạt (末: cuối, ngọn) thành chữ Mạt (抹: nghiền nát)[64], chớ nên quá cố chấp. Nếu bảo ghi theo lối cổ là đúng thì chữ dùng trong Ngũ Kinh, Tứ Thư hiện thời đều phải sửa đổi, bỏ đi quá nửa thì mới tạm thời gần giống ý [những chữ được dùng vào thời cổ]. Nếu lại muốn dùng đúng nguyên văn như trong thời ấy thì e rằng chẳng có chữ [hiện thời] nào dùng [để ghi chép Tứ Thư, Ngũ Kinh] được hết!

Chữ Cập (及: và) sửa thành chữ Nãi (乃: bèn), đúng là sai ngoa, nhưng Quang vẫn chưa thấy bản nào chép sai như vậy, cố nhiên không phải bản nào hiện thời cũng đều chép giống như vậy.

Chữ Danh (名) viết thành chữ Minh (明) cũng chẳng thể tra cứu được. Sách Cú Giải viết: “Chữ Danh liên quan đến phần kinh văn tiếp theo. Chữ này vốn dùng để liệt kê nhiều thứ, sao không có một điều nào khác mà lại dùng chữ Danh? Nếu chỉ có một mình điều này mà dùng chữ Danh thì sẽ thành cách dịch hỗn loạn”[65]. Nguyệt Thiên Tử, Minh Nguyệt Thiên Tử cố nhiên chẳng phải một, chẳng phải hai. Như có người gọi các hạ là cư sĩ, lại có người gọi là đại cư sĩ, có vì một chữ Đại mà gây trở ngại ư?

Chữ Minh (冥: tối tăm) cố nhiên nên viết là Minh (瞑: nhắm tịt mắt lại), Manh Minh (盲冥: mù mờ, tối tăm) cố nhiên phải viết là Manh Minh (盲瞑: mù lòa), chữ có xưa – nay, nhưng nghĩa chẳng tăng – giảm, cớ gì phải nhọc sức so đo tường tận hay dở như vậy?

Chữ Trinh (貞) là thân cây; Thật (實) là trái cây. Cú Giải vẫn thiếu đoạn phân tích giảng giải về chữ này, trong các bản kinh [được lưu thông] phần nhiều viết sai [chữ Trinh thành] chữ Chân (真)[66], thật đáng đau lòng!

Tập (集) là tích tập, còn Tập (習) là tu tập. Chữ tuy khác nhau, nhưng nghĩa có thể dùng lẫn cho nhau. Chẳng riêng gì kinh Pháp Hoa dùng lẫn lộn chữ này, mà trong kinh Hoa Nghiêm cũng thế. Do chẳng hại gì đến nghĩa thì các bản chép sao cứ giữ nguyên như vậy cũng được.

Chữ Thọ (受) có nghĩa là được. Chữ Thọ (授) có nghĩa là trao cho. Chẳng biết dựa theo nghĩa để định danh, làm sao coi trọng chuyện hoằng kinh cho được! Cố nhiên chẳng phải đợi đến khi có chứng cứ mới biết là sai vậy.

Chữ Nghị (議) trong từ ngữ Luận Nghị (論議) viết thành chữ Nghĩa (義) cũng không sao, do trong chữ Luận đã sẵn đủ ý nghĩa của chữ Nghị rồi, mà cái điều được Luận Nghị (bàn bạc) chính là Nghĩa (nghĩa lý) vậy.

Chữ Phạt (伐) sửa thành (罰) thì sai ngoa quá mức. Cư sĩ chấp cổ quá mức, nên mới làm thế. Chẳng biết rằng lỗi nhỏ thì [gọi là] phạt (罰). Như tiểu vương phản nghịch, Luân Vương đi đánh dẹp thì cũng gọi là phạt (罰). Chứ [nếu theo như cư sĩ] thì [những chữ Phạt[67] (伐) trong các câu] “lễ nhạc chinh phạt, Vũ Vương phạt Trụ” (禮樂征伐,武王伐紂: Dùng lễ nhạc để chinh phạt, Vũ Vương dẹp Trụ) đều phải sửa thành chữ Phạt (罰) hết hay sao?

Oán tặc đã cầm dao làm hại thì chữ Nhiễu (繞: vây quanh) ý nghĩa rất khéo, còn ý nghĩa chữ Nhiễu (擾: khuấy nhiễu) rất vụng. Chữ Oán (怨) đổi thành Oán (冤) thì trong kinh sách hai chữ này được dùng lẫn cho nhau. Oán (怨) là oán hận, oán thù; còn Oán (冤) là oan khuất, oan uổng. Trong kinh Hoa Nghiêm có gần một trăm trường hợp như vậy, nhưng hai chữ này mỗi chữ chiếm một nửa, do vậy hãy nên sửa cho đúng. Ngay trong kinh Pháp Hoa thì hai chữ này vẫn dùng lẫn cho nhau.

Chữ Đa (哆)[68] sửa thành chữ Đa (多) thì vẫn là một gốc. Những bản Quang được thấy đều viết là Đa (哆).

Tham Trước (貪著: tham đắm) hay Tham Nhạo (貪樂: tham ưa) về ý nghĩa đều có thể dùng lẫn cho nhau, chẳng cần phải dẫn khắp các kinh để chứng tỏ viết như vậy là sai!

Chữ Xử (處) chính là Thọ (受), Thọ chính là Xử[69], ông tính sửa cho giống hệt nhau có lẽ quá cố chấp. Sách Mạnh Tử chép: “Ngô hôn bất năng tấn ư thị hỹ, nguyện phu tử phụ ngô chí minh dĩ giáo ngã. Ngã tuy bất mẫn, thỉnh thường thí chi[70]. Bốn câu nói này được nói cùng một lúc, thốt ra từ cùng một miệng mà còn chẳng thể dùng nhất quán, đang Ngô chợt thành Ngã, huống chi là đối với kệ tụng do Phạm Thiên các phương nói ra lại cứ muốn phải sửa sao cho giống hệt như nhau ư?

Sửa chữ Đạo (道) thành chữ Huệ (慧) tuy dường như không hợp lẽ, nhưng xét kỹ câu kinh tiếp theo câu “tốc thành tựu Phật thân” (mau thành tựu Phật thân) thì cố nhiên chữ Huệ cũng không sai cho lắm. Các bản ghi sao cứ giữ như vậy là được rồi!

Chữ Số (數) sửa thành chữ Chư (諸) thì Quang trọn chưa thấy bản nào chép sai như vậy.

Văn (聞: nghe) chính là “văn hương” (聞香: nghe mùi, ngửi mùi), tức là một lần mười và hai lần năm vậy. Chèn ép điều này, đề cao điều kia, hay chèn ép điều kia, đề cao điều này đều sai hết, bản nào giữ theo bản nấy là được rồi. Thiêu (燒) hay Phần (焚) đều là đốt. Sửa chữ Đắc (得) thành chữ Đáng (當) thì Quang cũng chưa thấy bản nào ghi như thế, chớ nên nói các bản hiện thời đều như vậy!

Niên hiệu Thái Khang đời Vũ Đế hay niên hiệu Vĩnh Khang đời Huệ Đế[71], các vị [cổ đức] đều chưa thể tra cứu trong Tam Tạng Ký Tập, Đại Đường Nội Điển Lục[72], nên không cách nào biện định để sửa cho đúng điều sai này vì Cao Tăng Truyện chưa ghi rõ năm tháng kinh Pháp Hoa được dịch ra.

[Sách Cú Giải nhắc đến] những chữ bị bỏ sót thì tra trong những bản kinh được lưu thông gần đây đều thấy đúng cả. Nhưng chẳng sót chữ thì ý nghĩa [của kinh] cũng không tăng, mà bị sót chữ thì ý nghĩa [của kinh] cũng không giảm. Hãy nên ai nấy tuân theo một bản nào đó là được rồi! Nếu cứ muốn tham khảo bản này để sửa cho đúng bản kia sẽ trở thành bỏ gốc chạy theo ngọn, uổng phí tinh thần, đối với người, đối với kinh, rốt cuộc có lợi ích gì đâu? Người hoằng kinh hãy nên nương theo Tứ Y. Tứ Y là “y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh” (nương theo pháp chứ không nương theo người, nương theo nghĩa chứ không nương theo lời nói, nương theo trí chứ không nương theo thức, nương theo kinh liễu nghĩa chứ không nương theo kinh bất liễu nghĩa). Kinh lưu truyền mấy ngàn năm khắp cả thiên hạ mà muốn cho mỗi câu mỗi chữ [trong các bản kinh được lưu hành] không một chỗ nào bị so le được chăng? Cốt sao xét về ý nghĩa thông suốt là được rồi. Cố nhiên chẳng nên quá chấp trước câu nệ vậy! (Ngày Hai Mươi Tám tháng Hai năm Dân Quốc thứ bảy – 1918)

 (thư thứ mười lăm)

Bữa Mười Tám hôm trước đã nhận được sách gởi tới, liền vâng mạng phúc đáp ngay. Đến hôm Hai Mươi mới nhận được thư các hạ, bưu cục đều lần lượt chuyển tới các bưu kiện. Các hạ nhắc đến sách Hải Nam Nhất Chước thì sách ấy có lợi lẫn gây tổn hại cho người khác đều có đủ. Thoạt đầu, Quang chấp lý rất nghiêm, sợ người khác mắc bệnh, trọn chẳng hé răng bảo người ta đọc. Rồi sau đấy nghĩ rằng thiện thư trong thế gian thật ít sách tận thiện tận mỹ, chỉ cần có thể tạo được lợi ích thì chẳng ngại gì bảo họ đọc. Dẫu có ai bị tổn hại thì cũng chỉ tùy theo tri kiến của người ấy mà phân biệt lợi – hại. Nếu do có chỗ chẳng thích đáng bèn nhất loạt cự tuyệt thì không khỏi đánh mất phương pháp dẫn người khác tiến vào chỗ thù thắng. Vì thế, gần đây tôi cũng thường bảo người khác thỉnh về đọc.

Người soạn ra sách ấy vốn quê ở Giang Tây, họ Từ tên Khiêm, tự là Bạch Phảng[73], ngoài ba mươi tuổi liền được bổ vào viện Hàn Lâm. Do bẩm tánh chân thật, chất phác nên chẳng muốn làm quan, cũng từng đảm nhiệm chức Sơn Trưởng[74] một hai lần. Sau đấy, ở hẳn nơi nhà, chuyên chú khuyên người làm lành và cầu cơ, dân chúng theo học rất đông. Về sau, do một vị Cử Nhân tại tỉnh thành Giang Tây dạy môn đồ cầu cơ chẩn bệnh khá linh nghiệm, mẹ quan Phủ Đài[75] mắc bệnh, thuốc men không công hiệu; do vậy, thỉnh đồ đệ ông ta đến cầu cơ kê toa. Thuốc vừa uống vào miệng [bà cụ] liền tắt thở ngay. Xét kỹ toa thuốc, thấy trong ấy có những vị thuốc kỵ nhau. Do vậy, bèn bắt kẻ ấy đến tra hỏi, ông ta khai ra tên thầy mình, quan liền bắt thầy ông ta thường mạng. Từ Khiêm nghe tin, bèn thôi không dạy người khác cầu cơ nữa, chỉ chuyên chú dạy sửa lỗi hướng lành, tích công lũy đức, bảo con cháu ông ta mỗi người chuyên một nghề, chẳng được đặt chân vào con đường làm quan. Ông ta thọ đến chín mươi sáu tuổi. Lúc lâm chung, có người bạn thân đi đường nghe tiếng thiên nhạc, trở về hỏi thăm, té ra ngay trong lúc ấy, mọi người đều nghe tiếng thiên nhạc khi ông ta mất. Đệ tử của ông ta thật đông. Sư Liễu Nhất Trụ Trì chùa Pháp Vũ trước kia lúc còn tại gia là môn sinh cuối cùng của ông ta, nay Sư đã bảy mươi chín tuổi rồi, từng kể chuyện này với Quang.

Điều đáng tiếc là ông ta chỉ có tâm thích điều lành, ưa Phật, nhưng trọn chẳng dự vào lò hun đúc của bậc tri thức đủ mắt, đến nỗi trở thành tri kiến hồ đồ “tà – chánh chẳng phân, đúng – sai lẫn lộn”. Trước thuật của ông ta sao trích kinh Phật lẫn lời giáng cơ, coi chân kinh và ngụy kinh giống hệt như nhau. Ông ta thường có những lời nghị luận, phán đoán xét về văn lý cũng phần nhiều gây sướng tai khoái mắt người khác, nhưng bản Tâm Kinh ngụy tạo lời văn lẫn lý đều thô thiển, hèn kém, chẳng đáng để vào mắt, mà ông ta vẫn coi giống hệt như Tâm Kinh! Đúng là xem mắt cá và chân châu hoàn toàn như những vật giống hệt nhau không khác! Nhưng bản Tâm Kinh được ông ta sao lục từ bản do Quách Lan Thạch đã viết thì lại là cùng một bản gốc, khác người dịch, chứ không phải là kinh ngụy tạo, không thể không biết [điều này]! Cái gọi là Quán Âm Sám Pháp chính là do gã Tăng phàm tục vô tri cắt xén Lương Hoàng [Sám] và Thủy Sám ghép thành [sám văn]. Do không hiểu văn lý lại muốn biên soạn thành nghi thức mới nên đến nỗi sự lý và giáo tướng bị mâu thuẫn.

Nội dung của bốn cuốn thuộc phần Nội Hàm [của bộ Hải Nam Nhất Chước] quá nửa là những lời giáng cơ, chẳng đáng để lưu thông. Ông ta tự cho là phần này hết sức tinh vi, hết sức xác đáng. Phần Ngoại Hàm gồm sáu quyển, phần nhiều là chuyện Bồ Tát cảm ứng. Tuy không phải là chẳng mắc khuyết điểm thâu thập tràn lan, nhưng quả thật có lợi ích rất lớn cho thế đạo nhân tâm. Vào đời trước, lúc gieo thiện căn trọn chớ nên gieo lẫn lộn, hễ lẫn lộn thì đời này tà – chánh chẳng phân. Từ Khiêm do đời trước đã gieo thiện căn lộn xộn, nên đời này tuy tu chuyên ròng mấy chục năm, chỉ trở thành một bậc thiện sĩ trong cõi tục! Lúc mất, tuy có thiên nhạc là điềm lạ, nhưng chỉ là sanh lên cõi trời, chứ không phải sanh về Tây Phương vì đối với Phật pháp ông ta trọn chẳng biết đến nghĩa lý đích thực tột cùng, huống chi là pháp môn Tịnh Độ ư?

Cổ nhân nói: “Cộng quân nhất dạ thoại, thắng độc thập niên thư” (Tạm dịch: Một đêm trò chuyện cùng anh, còn hơn đọc sách loanh quanh mười mùa). Nếu là bậc học rộng nghe nhiều, chẳng cùng những vị thông suốt thảo luận mấy phen, sẽ trở thành “nhai bã của cổ nhân chẳng tiêu hóa được”, đâm ra thành đại bệnh! Học hỏi chẳng gặp người thông, đến già rốt cuộc trở thành đống xương. Không riêng gì Từ Khiêm là như thế mà những người giống như Từ Khiêm trong cõi đời quả thật đông lắm đấy! (Ngày Hai Mươi Mốt tháng Năm năm Dân Quốc thứ bảy – 1918).

 (thư thứ mười sáu)

Hôm qua nhận được thư, biết các hạ muốn lưu thông cuốn Thành Đạo Ký Chú[76], khôn ngăn vui mừng. Ba mươi năm trước, tôi đã từng được thấy sách này ở Hồng Loa, chứ ở Pháp Vũ hoàn toàn không có, liền ra phía trước núi hỏi một người bạn, thầy ấy nói [nhà chùa] có một bản nhưng đã bị thầy Đương Gia cầm đi hai ba năm rồi, vị ấy lại không có mặt ở chùa. Do vậy, bảo họ tìm kiếm trong nhà kho, phòng chứa kinh, nhưng vẫn chưa tìm được. Vị sư ấy hứa sẽ viết thư hỏi ông ta. Nhưng một cuốn sách mỏng manh nếu chẳng trân trọng, mến tiếc, chắc đã lạc mất rồi! Do vậy, lại gởi thư sang cho thầy Kỳ Căn là Thư Ký chùa Quán Tông nhờ thầy hỏi khắp đại chúng chùa Quán Tông, ai có thì đem nguyên bản gởi thư bảo đảm cho Quang. Đợi đến khi sắp chữ hoàn chỉnh, sẽ kính gởi trả lại. Trong hai chỗ ấy, may ra một chỗ sẽ có. Chứ nếu sao chép ngay trong núi thì hơi khó kiếm được người. Cơ duyên của Phật, của Tổ ẩn hay hiển có thời, thần vật ngầm gia hộ, ắt được như nguyện (Ngày Hai Mươi Lăm tháng Ba năm Dân Quốc thứ tám – 1919)

(thư thứ mười bảy)

Những sách do các hạ biên soạn như Lục Đạo Luân Hồi v.v… quả thật có thể khiến cho kẻ khinh nhờn chẳng hề thấy nghe hay biết đại đạo sẽ nhanh chóng được mở mang tầm mắt, hồi tâm chuyển niệm, biết chính mình vốn một mực ngồi đáy giếng nhìn trời, lầm lạc suy lường bầu trời bao lớn! Những ghi chép của tiên hiền vốn do túc căn sâu dầy, vâng lời di chúc của đức Phật, cho nên chẳng mê muội linh tánh của chính mình, dùng ngôn ngữ, sự tích của Thế Đế để chuyển pháp luân tùy cơ độ sanh của đức Như Lai. Từ đấy, người sanh lòng chánh tín, phát tâm Bồ Đề, sợ nỗi khổ dữ dội trong luân hồi, hâm mộ sự vui sướng cùng cực nơi An Dưỡng, ắt sẽ một người xướng, trăm người họa, dẫn dắt nhau thoát khỏi cõi Sa Bà này, sanh về cõi Cực Lạc kia, chẳng thể dùng toán số, thí dụ nào để biết được nổi!

Quang đọc xong cảm thấy vui vẻ, may mắn khôn cùng, toan viết một bài tựa để tán dương, nhưng do mục lực không đủ, lại thêm bận bịu không rảnh rang, nên lần chần đến nay. Tuy đã ghép được hơn một ngàn chữ, nhưng do học vấn nông cạn, kém cỏi, kiến địa tầm thường, thấp thỏi, đối với tự tánh ngay chính nơi tâm và đạo tùy cơ lợi sanh [vẫn hệt như] kẻ lòa trong lúc mây dầy sương kín, ngửa trông ánh mặt trời chỉ càng thêm lòa quáng. Vì thế, đối với diệu đạo của Phật, của Tổ, cũng như tâm sự của các hạ đều chưa thể nêu tỏ rõ ràng. Lòng biết lời tựa này trọn chẳng thể dùng được, nhưng muốn biểu lộ lòng ngu thành, nên riêng gởi trình dưới tòa, mong hãy rộng lòng phủ chánh (Ngày Rằm tháng Năm năm Dân Quốc thứ tám – 1919).

Tôi có chỗ muốn thưa hỏi đối với ba cuốn sách ấy, sẽ viết trong một tờ giấy khác.

Hơn nữa, cái hại của thuốc phiện chẳng thể nói trọn hết được. Năm ngoái tôi đã bàn chuyện này với Trần Tích Châu, ông ta cho biết trước đây đã từng hút thuốc phiện, nghiện rất nặng, về sau được một toa thuốc, uống vào trừ được tận gốc. Do vậy, khôn ngăn khâm phục! Năm nay ông ta lại đến núi; nhân đấy, bảo ông ta chép ra toa thuốc ấy để làm lợi đồng nhân. Nhưng Quang ẩn thân ngoài hải đảo chẳng giao du với ai, tuy có toa thuốc ấy vẫn khó thể lợi người được! Trước kia, có người bạn từ Cáp Nhĩ Tân (Harbin) đến nói ở chỗ ông ta bãi bỏ lệnh cấm thuốc phiện, [người ta mặc sức hút] trọn chẳng kiêng sợ gì. Cũng có người muốn cai nhưng không có cách nào hết, thường ưu tư về chuyện ấy. Do vậy, bèn gởi toa thuốc ấy đi, mong ông ta lần lượt truyền bá, để những ai có chí cai nghiện sẽ cùng được lợi ích. Nay nghĩ các hạ có tâm lo cho thế đạo, lại còn hành nghề y, giao du rất rộng, người tin tưởng thật đông. Nếu có ai mắc bệnh này muốn vĩnh viễn trừ tận gốc rễ mà chẳng có được phương cách nào thì chắc là hãy nên đem bài thuốc này tặng cho họ. Do vậy gởi kèm theo thư (lại nói kèm thêm)

* Tiên truyền tuyệt diệu thần phương để cai thuốc phiện

(Dẫu là hạng vốn được xưng quốc thủ danh y cũng chớ nên lầm lạc tăng thêm một vị thuốc nào. Nếu tăng thêm một vị thuốc nào đấy, [toa thuốc] sẽ chẳng linh nghiệm nữa. Hết sức khẩn cầu)

Cam Thảo (Radix Glycyrrhizae) loại tốt: nửa cân, Xuyên Bối Mẫu (Bulbus Fritillariae Cirrhosa): bốn lạng[77]; Đỗ Trọng (Eucommia Ulmoides Oliver): bốn lạng.

Dùng sáu cân nước để nấu chung ba vị thuốc, cho đến khi cạn nước một nửa thì bỏ bã, dùng một cân đường đỏ loại tốt nhất đổ vào nước thuốc, đun tiếp gần khoảng một giờ sẽ thành chất cao.

1) Ba ngày đầu tiên, mỗi ngày uống một lạng cao, hút một tiền thuốc phiện.

2) Ba ngày kế đó, uống một lạng cao, hút tám phân thuốc phiện.

3) Ba ngày kế đó, hút sáu phân.

4) Ba ngày kế đó, hút bốn phân.

5) Ba ngày kế đó, hút hai phân.

Từ đấy trở đi, mỗi ngày dùng một lạng cao, hút một phân thuốc phiện. Lại dùng cho đến ngày thứ mười tám, dùng sau một tháng thì không cần phải hút thuốc phiện nữa, vĩnh viễn trừ được tận gốc rễ.

Nếu trong khi uống thuốc cao, có những bệnh tật phát tác bên ngoài có thể hút thêm lên một phân thuốc phiện. Hút một hai ngày liền thôi, vẫn chiếu theo đúng toa thuốc ban đầu để uống cao, đừng tăng nhiều hơn. Toa thuốc này cai được thuốc mạnh hơn hút thuốc phiện một bậc. Dù ai nghiện nặng, mỗi ngày phải hút mấy lạng thuốc phiện, mà cai bằng toa thuốc này không ai chẳng trừ được tận gốc, lại không bị bệnh gì khác. Nhiều lần thử đều nhiều lần hiệu nghiệm, đúng là toa thuốc thần diệu.

Tiên sinh Trần Tích Châu hằng ngày hút ba bốn lạng thuốc phiện, sau có được toa thuốc này liền nấu một liều uống vào; hết thuốc thì bệnh ghiền cũng hết. Chẳng những không bệnh tật gì mà thân thể còn khỏe mạnh, tinh thần sung túc. Từ đấy bảo khắp với người quen biết, không ai chẳng dùng hết thuốc liền dứt được chứng nghiện. Do tôi nói đến nỗi họa hại của thuốc phiện, ông ta liền kể nguyên do cai thuốc của chính mình. Tôi bèn xin ông ta chép ra để cứu những ai cùng mắc phải bệnh này! Hơn nữa, người cai thuốc phải có tấm lòng “trăm điều thử thách chẳng quay đầu, dẫu chết chẳng thay đổi” thì mới đạt được hiệu quả thật sự của bài thuốc này. Nếu trong tâm trọn chẳng có ý niệm nhất định cai thuốc, đừng nói là dược vị của thế gian chẳng thể hữu ích, dẫu thần tiên đích thân trao cho tiên đan cũng chẳng thể có ích được! Mong [người muốn cai thuốc phiện] hãy gắng chí uống vào thì may mắn lắm thay!

Đạo lập ngôn muôn vàn khó khăn, dẫu học vấn uyên bác, nhưng muốn trước tác hoặc trích lục những câu danh ngôn, ắt phải suy xét, châm chước kỹ càng. Xét đến tình thế của từng câu văn, dựa theo ngữ mạch thì mới chẳng đến nỗi mắc khuyết điểm “vì từ mà hại ý” cũng như đem sai lầm truyền tụng sai lầm. Trước kia, tôi đọc Phật Học Chỉ Nam thấy dẫn sách Chỉ Nguyệt Lục[78] có chỗ giản lược ý câu văn không nhất quán, có khi chép “lão bệnh tử tăng” (ông tăng già bệnh chết) thành “sanh lão bệnh tử”, nghĩ rằng các hạ chưa xét kỹ càng, ngẫu nhiên chép sai! Nay thử kiểm cuốn sách này cũng thấy viết như vậy, khôn ngăn than thở!

Phần lớn những trước tác của người thông minh trong đời sau phần nhiều đều có chỗ không suy xét kỹ càng, tài sức có thừa mà chẳng chịu châm chước đôi ba phen, viết lách cẩu thả! Tuy có thể làm lợi cho người khác, người ta tưởng mình là bậc thông suốt bèn dựa theo đó đem sai lầm lưu truyền sai lầm thì lỗi ấy cũng chẳng phải nông cạn! Quang vô đạo, vô đức, ít tham phỏng, ít học, trót được ông lầm coi là tri kỷ trong pháp môn, thường muốn dốc hết sức dò theo từng dòng mực để đáp tạ tri kỷ. Nhưng mắt ngày càng suy, thật khó thể toại nguyện. Nay đem những điều từng thấy được nêu ra đại lược cho xong trách nhiệm, chẳng nói xuông mà thôi!

Sách Chỉ Nam trang bốn mươi, dòng thứ nhất, Ba-la-môn (chữ Ba 波 nên viết thành Bà 婆), câu “trước hết A Di Đà Phật nhập diệt” nên viết là “trước hết Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt”.

Mặt sau trang bốn mươi, dòng mười ba, những chuyện [được trích từ] Thần Tăng Truyện[79] tường thuật sự việc và ngày tháng sai lầm, lẫn lộn, không theo thứ tự, quả thật chẳng theo đúng như cách trình bày trong Thần Tăng Truyện và Tống Cao Tăng Truyện[80]. Hãy nên sửa cho đúng theo hai sách ấy.

Mặt sau trang bảy mươi lăm, dòng bốn, “những nhà chú giải sai lầm, tùy tiện rất nhiều!” Chú giải của Tâm Kinh rất nhiều, bản đang được lưu thông hiện thời là bản tổng hợp lời chú giải của năm vị [thiện tri thức] gộp thành một bản. Những bản chú giải khác được thấy ở các nơi hoặc trong các sách; nhưng kinh nghĩa vô tận, tùy theo sự thấy biết của mỗi người mà soạn lời chú thích. Các hạ phán định là “sai lầm, tùy tiện rất nhiều” khôn ngăn khiến cho người khác kinh hồn vỡ mật. Nếu nói bản [Tâm Kinh] Tiên Chú dễ lãnh hội, khá có lợi cho kẻ sơ cơ thì được. Nếu nói những bản chú giải cổ đều sai lầm, tùy tiện, lại nói thêm là “rất nhiều” thì không được! Nếu thật sự sai lầm, tùy tiện, xin hãy đem những chỗ sai lầm của năm vị ấy chỉ ra từng điều một để cởi gỡ lòng nghi cho Quang. Nếu không, xin hãy sửa đổi câu này, ngõ hầu chẳng đến nỗi kẻ vô tri vô thức [sẽ vì câu nói ấy mà] miệt thị cổ đức, dấy lên tội lỗi báng pháp, báng tăng.

Các hạ tâm lợi người hết sức tha thiết, do gấp muốn hoàn thành sách nên có nhiều chỗ lập ngôn không xét kỹ lưỡng. Như trong lời chú thích cho lời tựa của ngài Đế Nhàn lại chê trách Tổ Thanh Lương. Trong Di Đà Kinh Tiên Chú khi bàn về sáu phương, tuy là [dẫn] lời lẽ của người khác, há nên đem sai ngoa để lưu truyền sai ngoa? Trong mùa Xuân, tôi thấy sách ấy khá hợp thời cơ, vẫn mong mục lực còn tốt thì sẽ dốc cạn lòng ngu thành, đọc kỹ một lượt để góp sức mọn. Nay mắt đã ngày càng thêm quáng lòa, vì thế chỉ nêu đại khái mà thôi. Quang trọn chẳng kết giao với sĩ đại phu, vì thế ăn nói chẳng hợp lẽ; nếu lỡ mạo phạm, ngàn phần xin đừng quở trách.

Phật Học Khởi Tín Biên, phần nói về Tịnh Độ Tông ở mặt sau trang 107, Lương Nhậm Công (Lương Khải Siêu) sống tại Nhật Bản đã lâu, những điều ông ta trình bày về Phật giáo nói chung đều là dựa theo những điều đã được viết thành sách của người Nhật Bản để luận. Tịnh Độ Tông Nhật Bản coi ngài Thiện Đạo là Sơ Tổ, lý lẽ ấy không xác đáng cho lắm. Vì một pháp Tịnh Độ từ Viễn Công trở đi thì đời nào cũng chẳng thiếu người cực lực hoằng truyền, xiển dương. Ngay như nước ta chọn ngài Thiện Đạo làm Nhị Tổ cũng là chuyện ngẫu nhiên; chứ không phải là sau ngài Viễn Công, không có một ai hoằng dương tông này! Đối với tiết mục này có lẽ nên y theo xưa, theo lệ của nước ta. Há nên đem sai lầm truyền bá sai lầm, đến nỗi gây nghi ngờ bàn định cho người đời sau ư?

Thêm nữa, trong hai mươi bảy vị Tổ ở Tây Thiên của Thiền Tông không có ngài Thế Thân; do Thế Thân là Pháp Thân đại sĩ, đương nhiên cũng triệt chứng Thiền Tông, nhưng ở đây nhằm biểu thị các vị viễn Tổ [truyền thừa Thiền Tông], trọn chớ nên kể tên ngài [Thế Thân] lẫn vào đó.

Trang 114, trong biểu đồ ở dòng thứ hai, dưới phần Thiền Tông ghi “Ấn Độ vô” (ở Ấn Độ không có), phía dưới lại ghi: “Trung Quốc đặc sáng” (Do riêng mình Trung Quốc sáng lập). Bảy chữ này cũng không thích đáng cho lắm. Tây Thiên đương nhiên có hai mươi tám vị Tổ, sao bảo là không có? (Hơn nữa, nơi mặt sau của trang 113 ở phần trước, dòng thứ nhất), đoạn luận về Thiền Tông có lẽ chấp chặt sự truyền thừa của hai mươi tám vị Tổ là lời luận quyết định. Cần biết rằng sự truyền thừa này chẳng qua nhằm thể hiện rõ sự trao truyền [mạng mạch đạo pháp] giữa vị Tổ trước và vị Tổ kế tiếp mà thôi, chứ không phải suốt cả một đời của hai mươi bảy vị Tổ[81] chỉ có một đoạn sự tích này! Hơn nữa, chuyện này thật hay giả cũng khó thể biện định được. Nếu nói là thật thì câu trên (tức câu “ở Ấn Độ không có”) gây hiểu lầm cho người ta thật sâu, nếu đã bỏ câu trên đi thì câu dưới (tức câu “Do riêng mình Trung Quốc sáng lập”) cũng không có lý do gì để giữ lại. Hãy nên bỏ đi ba dòng rưỡi này.

[Qua những nhận định này], đủ thấy Lương Nhậm Công (Lương Khải Siêu) tâm thô gan lớn! Nếu “vì từ hại ý” thì vua Đường Nghiêu lên ngôi mấy chục năm chỉ phát ra chưa quá ba bốn hiệu lệnh để thi hành chánh sự mà thôi! Do cổ nhân chất phác; hơn nữa, năm tháng xa xôi, cho nên truyền lại chẳng được mấy! Chứ không phải là ngoài chuyện ấy ra trọn chẳng làm gì khác! Chuyện của chư Tổ Tây Thiên cứ so theo đây mà biết. Quang học vấn như nhìn vào vách, chẳng qua vì được coi là tri kỷ nên chẳng ngại nói đầu đuôi ngõ hầu ông khỏi phạm lỗi do chấp trước sai lầm mà luận định cổ nhân sai trái mà thôi!

Văn chương của ông Lương [Khải Siêu] bao trùm cõi đời, thông minh hơn người, tiếc rằng chưa nghiên cứu Phật pháp sâu xa, chỉ trình bày theo đúng như những gì người Nhật đã luận. Vì thế, tuy không đến nỗi gây trở ngại lớn lao, nhưng thường thốt ra những luận định chẳng hợp lẽ! Mạnh Tử nói: “Bác học nhi tường duyệt chi, tương dĩ phản thuyết ước dã” (Học rộng rãi, giải nói tường tận, [sau khi dung hội quán thông] sẽ quay về với cách nói giản ước)[82]. Nếu ông Lương lắng lòng nghiên cứu mười mấy năm, rồi mới cầm bút soạn luận thì những bài luận ấy đem treo ở cửa Ngọ Môn[83], ai đổi được một chữ sẽ được thưởng ngàn vàng! Hết năm trọn tháng, hoàn toàn chẳng có một ai dám lãnh thưởng! Huống hồ Ấn Quang là kẻ vô tri vô thức, dám múa mỏ để bươi móc vết tích nhỏ nhặt ư? Ông Lương đã như thế mà các hạ cũng như thế, đều do gấp muốn thành sách, chưa rảnh rỗi để châm chước nên mới ra nông nỗi!

Người đại thông minh, đại danh nhân, lập ngôn ắt phải suy xét kỹ càng, chớ nên cẩu thả bởi người ta sẽ lấy mình làm mẫu mực. Nếu kẻ bình thường có chỗ sai lầm thì người khác còn dễ biết, dễ sửa. Nếu là danh nhân, ắt người ta sẽ tưởng sai là đúng, truyền bảo sai ngoa cho nhau. Như bài văn ghi lại giấc mộng của họ Lý ở cuối sách Long Thư Tịnh Độ Văn, văn ấy rất bình thường, đơn giản, cũng không phải là văn chương sâu xa, nghĩa lý huyền áo gì. Nhưng do viết thiếu một chữ “sơ” (thoạt đầu), những người sao chép về sau đều tưởng là do họ Lý trình bày trực tiếp, chuyện trong lúc còn sống rốt cục biến thành chuyện sau khi chết được mấy tháng, trở thành chuyện cảm được lợi ích sau khi mộng; nhưng phàm những ai sao lục bài văn ấy đều nghĩ như thế cả (như Tịnh Độ Chỉ Quy Tập, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Cư Sĩ Truyện, Liên Tông Bảo Giám, và Nhân Sơn Dương Công Lược Truyện), đủ thấy mọi người càng phải chú ý. Quang một là thiếu học vấn, hai là không có kiến địa, ba là không có hành trì. Vì thế, đối với Phật pháp chẳng dám chú thích một chữ, một câu. Gần đây do một hai người bạn lầm lẫn lưu truyền, chia sẻ cho người khác những thứ cơm thừa canh cặn, khôn ngăn hổ thẹn, không chốn nương thân, nhưng chẳng biết làm như thế nào?

Lại nữa, trong ba cuốn sách, dưới mỗi một điều [được trích dẫn] đều có ghi rõ tên sách, nhưng chỉ có lời của ông Kỷ Văn Đạt là nhất loạt chẳng ghi tên sách, chẳng biết tôn ý ra sao? Nếu theo như ngu kiến thì cũng nên ghi tên sách để gợi tín tâm cho người ta và có chứng cứ để tra khảo.

Thêm nữa, Phật Học Tiểu Từ Điển chữ nhỏ không đọc được. Ngay hôm ấy liền đưa cho người bạn đọc. Lúc mới nhận được, chỉ mở xem qua mấy trang, và đọc phần phương pháp chọn lựa từ ngữ ở đầu sách mà thôi. Ngẫu nhiên thấy phía dưới con số năm mươi hai [địa vị] có ghi chú rằng: “Tức là địa vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác Bồ Tát”. Diệu Giác chính là Phật, sao lại kể vào trong số những địa vị Bồ Tát? Nếu nêu chung chung những địa vị thuộc bậc thánh thì được, còn nếu chuyên giảng về địa vị Bồ Tát thì lầm lẫn lớn lắm! Tiên sinh Châu An Sĩ đã từng liệt kê con số này như thế! Do vậy, tôi biết bậc danh nhân thường có những sai lầm ngoài ý muốn!

(thư thứ mười tám)

Hôm Rằm vừa rồi nhận được một gói Phật Học Toát Yếu, một cuốn Tịnh Tọa Pháp Tinh Nghĩa, liền đọc ngay. Biết các hạ đối với mỗi pháp tịnh tọa của tam giáo đều biết được cốt lõi, đầu mối. Nhưng hoằng dương Phật pháp chớ nên xen lẫn chuyện luyện đan vận khí của Đạo Gia, sợ kẻ chủng tánh tà kiến sẽ biến tà thành chánh thì muốn làm cho người ta được lợi ích hóa ra lại [khiến cho họ bị] mắc hại. Toàn thể cách ngồi để tham cứu bản thể như Nho gia đã luận đều là lấy cách tham cứu của nhà Thiền rồi thay đổi tên gọi, nhưng trọn chẳng nói đến Phật pháp! Dẫu [coi là] bản lãnh cao sâu, đối với mình lẫn người đều có lợi ích, nhưng lén trộm lấy điều hay của người khác để [khoe khoang] chính mình tự có thì cái đạo “thành ý chánh tâm” đã biến thành thiếu sót, khôn ngăn người phải cảm khái, than thở!

Trang mười lăm, dòng thứ tám: “Phật Di Giáo Kinh: Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” (Kinh Phật Di Giáo dạy: ‘Giữ tâm ở một chỗ, thì không chuyện gì chẳng thực hiện được’). Chữ “nhất xứ” ở đây nghĩa là niệm niệm luôn hướng về đạo, tâm hợp với đạo, tâm và Phật hợp với nhau. Phần giải thích của các hạ dưới đoạn văn này quá chấp hình tích. Nơi dòng thứ mười một, chữ Duyên Trung chỉ cho cảnh được duyên bởi tâm, vì thế tiếp đó liền nói: “Nhược mi gian, nhược ngạch thượng, nhược tỵ đoan”. (Hoặc giữa chặn mày, hoặc trên trán, hoặc chót mũi). Đấy chính là những cảnh được duyên, chứ không phải Duyên Trung[84] cũng là tên gọi của cảnh! Nếu Duyên Trung cũng là tên gọi của Cảnh thì phải dùng chữ “cập” (và), chẳng nên dùng chữ “nhược” (như là). Đạo gia ăn trộm kinh Phật, nhưng không hiểu ý, lầm lạc xác định vị trí của Duyên Trung, lại còn muốn ra vẻ khác biệt với Phật, bèn gọi là Hoàng Trung, nực cười đến thế! Các hạ đọc rộng mà vẫn noi theo Đạo giáo một mực hiểu lầm “cảnh được duyên”. Đủ thấy hoằng pháp xen tạp, có chỗ gây lầm lạc cho người khác. Đến hàng thứ mười hai “lắng tâm nơi Đan Điền”, đây chính là cách trị bệnh. Vì thế, phần kinh văn tiếp đó nói: “Lâu ngày ắt trị được nhiều bệnh”, chứ không phải là chẳng vì trị bệnh mà cũng lấy Đan Điền làm cảnh sở duyên.

Dòng mười lăm, mười sáu, “nhĩ thời đương hệ niệm tỵ đoan, linh tâm trụ tại duyên trung, vô phân tán ý” (khi ấy hãy nên chú tâm nơi chót mũi khiến cho tâm trụ nơi cảnh được duyên, ý không bị phân tán) đủ thấy “hệ niệm tỵ đoan” chính là “tâm trụ duyên trung” (tâm trụ vào nơi cảnh được duyên). Nếu nói “duyên trung” chính là cảnh thì nhất tâm hệ niệm hai cảnh, há chẳng phải là tâm và cảnh tách rời, do đâu mà thành Định cho được? Trong dòng mười một ở phần trên, “sơ học hệ tâm duyên trung: nhược mi gian, nhược ngạch thượng, nhược tỵ đoan” (Kẻ mới học buộc tâm nơi cảnh được duyên như là giữa chặng mày, trên trán hoặc chót mũi). Tuy nói ba cảnh, nhưng rốt cuộc chỉ là duyên nơi một. Vì thế, đối với mỗi cảnh đều dùng chữ Nhược.

Các hạ bị lời xằng bậy của Đạo gia xoay chuyển, sao chẳng xét sát sao ý nghĩa kinh văn để thấy được ý chỉ gốc? Đạo gia ăn trộm kinh Phật rất nhiều chỗ giống như vậy đó, hãy nên bỏ qua không bàn đến [mới là đúng lý]. Nếu dẫn tràn lan vào sách nhà Phật, rồi lại chẳng phân biệt được là đúng hay sai thì chúng sẽ trở thành tấm bùa hộ thân cho những kẻ tà kiến. Những kẻ luyện đan thường coi những pháp như trị bệnh v.v… là lạ lùng, đặc biệt, [lấy những chuyện đó] để chứng minh cho phép luyện đan vận khí, nhưng các hạ chẳng biết dụng ý của chúng, lại bình luận là “giống như duyên để buộc tâm chăm chú vào một chỗ” thì những kẻ khác đạo kia sẽ nói Phật pháp cũng là pháp luyện đan vận khí!

Ngài Bảo Chí Công là bậc Pháp Thân đại sĩ hiện khắp mọi sắc thân, há nên đem chuyện tinh hồn[85] xuất thần [biến hóa trong Đạo giáo] để so sánh luận bàn? Hễ lẫn lộn chỗ này thì Môn Cữu Cô Nương[86] và Thuần Dương Lã Tổ sẽ bằng vai phải lứa, chẳng khác chút nào! Sách Lễ Ký chép: “Nghĩ nhân tất ư kỳ luân” (Làm người thì phải noi theo lẽ thường). Các hạ lỡ lời, Quang chẳng thể nào vì kiêng nể các hạ mà không nói! Trang mười chín, dòng thứ chín ghi “chủ nhất” (chú trọng vào một), giảng rất hay. Sao các hạ chẳng áp dụng nghĩa này để giải thích ý nghĩa câu “chế tâm nhất xứ” (chế ngự tâm vào một chỗ). Dòng mười sáu, mười bảy nói đến chuyện “hồi quang” cũng là dấu vết của Đạo gia, nhưng cũng là lời nói do chẳng biết bản thể mà cứ nói vậy! Dòng hai mươi mốt luận về ý nghĩa Pháp Thân cũng chẳng phải là [những ý nghĩa] Pháp Thân vốn có.

Trang thứ chín, từ dòng ba mươi trở đi, Vi Chỉ Thiên của Bão Phác Tử[87] chính là phần rút gọn của Cảm Ứng Thiên, chẳng nên gọi là bản cội nguồn của Cảm Ứng Thiên! Theo Phật Tổ Thống Kỷ[88], quyển năm mươi bốn, năm Quang Hòa thứ hai (179) đời Hán Linh Đế, Lão Quân[89] giáng xuống núi Thiên Thai, đem Cảm Ứng Thiên truyền cho tiên nhân Cát Huyền[90], đủ biết rằng Vi Chỉ là phần trích lục đại cương [của Cảm Ứng Thiên] mà thôi.

Trang ba mươi mốt, dòng thứ mười lăm ghi: “Ấn Quang giới luật trang nghiêm thanh tịnh, tinh thông mười hai bộ kinh”, khôn ngăn hốt hoảng, thật chết người! Phật pháp chẳng thể coi giống như tình cảm thông tục trong cõi đời được! Các hạ rốt cuộc đã biến Phật pháp thành tình cảm thông tục trong cõi đời. Tuy là có ý nồng hậu, nhưng những người biết rõ mười mươi Quang ấp ủ những thứ thấp kém như thế nào sẽ khó thể không chê các hạ nói chẳng đúng sự thật!

Tôi đã gởi Phật Học Toát Yếu sang tỉnh thành Sơn Tây, bảo bạn bè chia ra tặng cho những người có tín tâm, xin vì những người ấy hết sức cám ơn. Thế đạo tình người hiện thời đã hết thuốc chữa, trừ đạo nhân quả ba đời của đức Như Lai ra, dẫu có Tứ Vô Ngại Biện đối trước người ta thuyết pháp cũng vẫn uổng công. Chỉ cần biết có chuyện nhân quả báo ứng luân hồi sanh tử thì tâm người ta sẽ kinh sợ, chỉ sợ do nhân ác sẽ chuốc lấy quả ác mà thôi, thế rồi khởi tâm, động niệm, xử sự chẳng dám phóng túng không kiêng kỵ, mặc tình mà làm! Dẫu ở trong nhà tối vẫn như đối trước Ngọc Hoàng Thượng Đế! Nếu đức Như Lai chẳng mở ra pháp nhân quả thì người đời sau sống trong vòng trời đất muốn được chết yên lành cũng hiếm hoi lắm! Nhưng kẻ cuồng sợ bị trói buộc, kẻ ngu sợ bị ngăn trở chuyện của chính mình; do vậy, nếu chẳng bảo nhân quả là chấp tướng thì cũng chê là mờ mịt. Các hạ sưu tập hết những chuyện nhân quả từ các sách vở, gom soạn thành sách, tuy đối với lẽ bổn phận tợ hồ chưa đạt đến cùng tột, nhưng sẽ có ích lớn lao [để giúp cho] lòng người chưa chết, thiên lý sắp sống dậy vậy! (Ngày Mười Chín tháng Sáu năm Dân Quốc thứ tám – 1919).

Ông Châu Quần Tranh ở Ôn Châu đọc Liễu Phàm Tứ Huấn cho là văn lẫn lý đều tinh vi, thiết thực, tính bảo Thương Vụ Ấn Thư Quán sắp chữ đem in để kết duyên, sai Quang viết lời tựa. Lại do nhằm đúng kỳ [thiện tín lên núi Phổ Đà] dâng hương, thường có người tới đây [thăm viếng] nên đến nỗi chậm trễ mấy ngày, thật là thiếu sót!

(thư thứ mười chín)

Đã lâu chưa gặp gỡ, thường nghĩ đến ông. Nay có một đệ tử ở Thiểm Tây là Vương Tôn Tổ bị bệnh phổi đã lâu, các cách chữa trị đều vô hiệu. Nghe nói cư sĩ là chuyên gia trị bệnh phổi bèn xin Quang giới thiệu. Những sách do Quang in ra trong năm sáu năm qua, sợ cư sĩ không rảnh để xem; vì thế, chẳng gởi. Tôi đã từng gởi hai bộ Sơn Chí của Phổ Đà và Thanh Lương cho ông hay chưa, nay tôi cũng không nhớ rõ! Nay bảo ông ta đem theo cả ba bộ Sơn Chí của Nga Mi, Thanh Lương, Phổ Đà. Ngoài ra còn có Viễn Công Văn Sao, Tang Tế Tu Tri, Niệm Phật Khẩn Từ, Tọa Hoa Chí Quả cùng gói thành một bọc, mong hãy xem khi rảnh rỗi. Cuối cuốn Tọa Hoa Chí Quả có in thêm Tỉnh Mê Lục, cũng rất đúng với căn bệnh phổ biến hiện thời. Cuốn này do một người ở Tứ Xuyên biên tập, một vị cư sĩ gởi đến, do vậy bèn in kèm vào sau.

Vương Tôn Tổ là con trai thứ tư của một người bạn tôi là Vương Ấu Nông. Trước kia, Ấu Nông làm ty trưởng ty Dân Chánh Sự Vụ tỉnh Thiểm Tây, hiện nay làm chủ tịch Hội Cứu Tế Thiên Tai, là người ít thấy trong chánh giới hiện thời. Người đi cùng Vương Tôn Tổ là con thứ của ông ta, tên tự là Thứ Sam, thường sống tại Tô Châu.

***

[1] Tỉnh Am là pháp hiệu của đại sư Tư Tề Thật Hiền, Tổ thứ mười một của Tịnh Độ Tông.

[2] Hiện thời Ngài Triệt Ngộ được tôn là Tổ sư thứ mười hai của Liên Tông. Chúng tôi thấy từ điển Phật Quang Sơn vẫn ghi ngài Tỉnh Am là Tổ thứ chín của Liên Tông, nhưng các tài liệu về chư Tổ Tịnh Tông khác đều tôn Ngài là Tổ thứ mười một. Chúng tôi đoán có lẽ khi Tổ Ấn Quang viết lá thư này thì khi ấy ngài Tỉnh Am vẫn đang được coi là Tổ thứ chín của Liên Tông nên mới suy cử ngài Triệt Ngộ làm vị Tổ thứ mười.

[3] Bạch Y Quán Âm (Pāndaravāsinī), còn được phiên âm là Bạn Đà La Phược Tự Ni, hoặc Bán Noa Ra Phạ Tất Ninh, dịch nghĩa là Bạch Xứ, Bạch Trụ Xứ, chính là một trong ba mươi ba tôn tượng của Quán Âm trong Quán Âm Viện thuộc Thai Tạng Mạn Đồ La, mật hiệu là Ly Cấu Kim Cang. Tôn tượng Ngài thường mặc áo trắng, ngồi trên hoa sen trắng, tay trái cầm hoa sen trắng, tay phải kết ấn Dữ Nguyện. Theo Đại Nhật Kinh Sớ, màu trắng ở đây tượng trưng cho tâm Bồ Đề thanh tịnh. Trong Mật Tạng không hề thấy có bài chú Bạch Y như bản chú Bạch Y đang lưu hành, chỉ thấy bài chú Bạch Y Đại Bi như sau: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa vĩ sái dã, tam bà phệ, bát đàm ma, ma lý nễ, xoa ha” (Namah samanta buddhānām tathāgata visaya sambhave padma mālini, svāhā).

[4] Quán Âm Trì Nghiệm Ký (2 quyển) được Châu Khắc Phục biên soạn vào năm Thuận Trị 16 (1659), còn có tên là Quán Thế Âm Kinh Chú Trì Nghiệm Ký, sưu tập những chuyện linh cảm của Quán Thế Âm Bồ Tát từ đời Tấn đến thời Thuận Trị, gồm 118 câu chuyện. Phần Phụ Lục của quyển cuối bao gồm Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Bạch Y Đại Ngũ Ấn Tâm Đà La Ni Kinh, Lễ Quán Âm Văn và biện định những điều ngoa truyền về Quán Thế Âm Bồ Tát.

[5] Hải Nam Nhất Chước là tác phẩm của Từ Khiêm (hiệu Bạch Phảng) viết vào cuối đời Thanh, sưu tập những chuyện truyền kỳ tại vùng duyên hải Nam Trung Hoa.

[6] Đây là một thành ngữ dựa theo câu nói của Khổng Tử được chép trong thiên Vi Chánh sách Luận Ngữ: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ”. Sách Luận Ngữ Giảng Yếu giải thích câu này phải được hiểu như sau: “Lập có nghĩa là học vấn đã thành tựu, có được cơ sở vững chắc, không còn bị dao động bởi những tà thuyết bên ngoài. Bất Hoặc là không còn ngờ vực nữa, gặp chuyện biết xử sự đúng với đường lối theo lẽ chánh, không xử sự tùy tiện theo cảm tính. Thiên Mạng (mạng trời) không có nghĩa là ý muốn độc đoán của một đấng Tạo Hóa, Thiên Chúa nào mà chính là chân lý, chánh lý, thường được gọi là Dịch, tức sự vận hành của trời đất, theo đúng chân lý, đúng với lẽ nhân quả. Nhĩ Thuận là tai nghe lời nói, nắm bắt được ý nghĩa chánh đáng, tâm không còn cảm thấy trái nghịch với những gì đã nghe vì đã hiểu được bản chất của sự việc, thấy được lẽ chánh. Tùng Tâm là theo đúng thứ tự chánh đáng mà tiến hành. Củ vốn là cái thước để vẽ hình vuông, được hiểu theo nghĩa rộng là chừng mực, quy củ, phương pháp, luật lệ. Do vậy, cả câu này phải hiểu là: “Ta từ năm mười lăm tuổi dốc chí học tập, đến năm ba mươi tuổi đã tự lập được căn bản, đến năm bốn mươi tuổi không lầm lẫn khi phải ứng phó với mọi sự, đến khi năm mươi tuổi liền hiểu thấu mạng trời, năm sáu mươi tuổi dẫu nghe ý kiến trái nghịch vẫn biết lắng nghe, hiểu được ý nghĩa, đến năm bảy mươi tuổi đạt đến mức thuận theo lòng mong muốn, làm điều gì cũng theo đúng thứ tự chánh đáng, không vượt ra ngoài khuôn khổ, mực thước”.

[7] “Kỷ nhân ưu thiên” là một câu chuyện ngụ ngôn trích từ sách Liệt Tử: Ở nước Kỷ có người chỉ sợ trời sập xuống, thiên hạ sẽ chết hết. Sách cổ thường dùng điển tích này để châm biếm những người hay lo chuyện không đâu, vô căn cứ. Chưa rõ chữ “đồng tử tán trách” (đứa bé con khen cái chiếu làm bằng trúc) xuất phát từ điển tích nào.

[8] Tịnh pháp giới hộ thân chú: Nói chi tiết, phần này gồm có sáu bài chú nhỏ thường được dùng trong khóa tụng trong Thiền Môn xưa kia, gồm: Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn, Tịnh Khẩu Nghiệp Chân Ngôn, Tịnh Thân Nghiệp Chân Ngôn, Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn, An Thổ Địa Chân Ngôn, và Phổ Cúng Dường Chân Ngôn. Đôi khi các khóa tụng chỉ dùng giản lược hai bài là Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn và Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn. Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn gọi đủ là Thanh Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn. Theo Đại Nhật Kinh Sớ, chú này thể hiện chân thể Phật đã chứng. Thanh Tịnh là bản thể của Chân Như vì Chân Như lìa hết thảy phiền não cấu nhiễm, Pháp Giới là chỗ nương tựa của hết thảy công đức thế gian lẫn xuất thế gian. Như vậy, Tịnh Pháp Giới là công đức vô vi của Chân Như. Chân ngôn này gồm hai bài khác nhau, một là “Nam mô tam mạn đa Phật đà nẫm, đạt ma đà da, tát phạ bà phạ, cú hám” (dành cho Thai Tạng Giới) và bài chú thứ hai là Án Lam (phổ biến hơn, dành cho Kim Cang Giới). Chú Án Lam thường được xử dụng nhất với mục đích thanh tịnh thân tâm và hoàn cảnh, vì theo Du Già Liên Hoa Bộ Niệm Tụng Nghi Quỹ, chữ Án (Aum) tức là bản thể của pháp giới, là lời quy mạng trong Kim Cang Giới, khi tụng chữ Lam, từ trên đảnh đầu sẽ có chữ Lam (Ram) phát sanh từ pháp giới tỏa ánh sáng đỏ chói lọi như ngọn lửa rực rỡ thiêu đốt tất cả những vật ô uế lẫn những tư tưởng ô uế, tịnh hóa thân tâm. Hành nhân trước khi tụng niệm dùng chú này để thanh tịnh bản thân, đồng thời thanh tịnh vật phẩm cúng dường.

Chú Thanh Tịnh Tam Nghiệp (“Án, tát phạ bà phạ thuật đà ta phạ đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám”) như tên gọi nhằm thanh tịnh ba nghiệp, khiến thân tâm hành nhân tương ứng với ba nghiệp của Phật, Bồ Tát. Khi tụng hành nhân phải kết Liên Hoa Hiệp Chưởng Ấn (chắp mười ngón tay khít vào nhau, lưng bàn tay hơi khum như đóa sen búp). Theo Bí Tạng Ký, hai tay chắp lại như thế tượng trưng cho Lý và Trí hợp nhất. Nhiếp Vô Ngại Kinh giải thích tỉ mỉ hơn: Năm ngón bên tay trái tượng trưng cho năm trí của Thai Tạng Giới, năm ngón bên tay phải tượng trưng cho năm trí của Kim Cang Giới. Mười ngón hợp lại tượng trưng cho Thập Độ hoặc mười pháp giới, mười chân như dung hợp. Do vậy, mỗi ngón tay tượng trưng cho một Độ (Ba La Mật). Như vậy Liên Hoa Hiệp Chưởng tượng trưng cho sự viên dung mọi trí, mọi giới, mọi độ.

Trong Tịnh Tông, thường thì những bài chú này không dùng đến vì A Di Đà Phật vạn đức hồng danh đã là vô thượng thần chú, là kết tinh của mọi giáo pháp nên hành giả nhiếp tâm chuyên trì thì công đức chẳng kém gì trì tụng các chú khác mà có phần còn vượt trỗi hơn. Điều này có thể minh chứng qua hành trạng của Tổ Liên Trì: Ngài thông hiểu Mật Pháp vì từng san nhuận nghi thức Du Già Diệm Khẩu, nhưng khi được đại chúng cầu thỉnh ra làm lễ cầu mưa trong lúc hạn hán, Ngài nói không biết thực hiện đàn pháp đảo vũ. Đại chúng cố van nài, Ngài bèn đi quanh bờ ruộng gõ mõ niệm Phật, trời liền đổ mưa lai láng. Hơn nữa, những bài chú chỉ phát huy được diệu dụng khi hành nhân tụng niệm với tâm đại Bồ Đề, nhiếp tâm thanh tịnh, tương ứng với Phật, Bồ Tát, tha thiết như con nhớ mẹ, đồng thời phải kết ấn khế tương ứng. Có những ấn khế phải được A Xà Lê truyền thụ mới được sử dụng, không được kết ấn bừa bãi. Ngoài ra, sử dụng quá nhiều chú ngữ trong khóa tụng sẽ khiến hành giả phân tâm, khởi phân biệt, nên hiện thời các vị hoằng truyền Tịnh Tông đa số lược bỏ các ấn chú khỏi khóa tụng, chỉ giữ lại chú Vãng Sanh cho hành nhân dễ chuyên tâm.

[9] Tức là pháp Thập Niệm Ký Số được viết trong “Thư trả lời cư sĩ Cao Thiệu Lân” (thư thứ tư) trong Ấn Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, quyển một: “Trong lúc niệm Phật, từ một câu đến mười câu phải niệm cho phân minh, lại phải nhớ phân minh, đến mười câu là thôi. Lại phải niệm từ một câu đến mười câu, chẳng được niệm hai mươi, ba mươi. Niệm đâu nhớ đấy, không được lần chuỗi, chỉ dựa vào tâm để nhớ. Nếu nhớ thẳng vào mười câu thấy khó thì chia thành hai hơi, tức là từ câu thứ nhất đến câu thứ năm và từ câu thứ sáu đến câu thứ mười. Nếu vẫn thấy mệt, nên từ câu một đến câu ba, từ câu bốn đến câu sáu, từ câu bảy đến câu mười, chia làm ba hơi để niệm. Niệm cho rõ ràng, nhớ cho rõ ràng, nghe cho rõ ràng, vọng niệm không chỗ chen chân, nhất tâm bất loạn, niệm lâu ngày sẽ tự được”.

[10] Anh pháp sư chính là ngài Đức Tạng Trạch Anh (1045-1099) sống vào thời Bắc Tống, người huyện Đồng Giang (tỉnh Chiết Giang), họ Du, tự Uẩn Chi. Sư mất mẹ từ bé, có lần theo cha đến Hàng Châu, gặp được ngài Nam Sơn Đoan Phong bèn xin theo xuất gia. Năm Thiên Ninh thứ nhất (1068), Sư thọ Cụ Túc Giới, chuyên tâm trì luật cũng như theo học giáo nghĩa Chỉ Quán với ngài Xử Khiêm chùa Bảo Các, rất được ngài Xử Khiêm coi trọng, đặc biệt truyền dạy Thập Bất Nhị Môn Luận, Kim Cang Bễ Luận, do vậy Sư ngộ hiểu sâu xa giáo nghĩa Thiên Thai lẫn chỗ huyền áo của Tịnh Tông. Đồ chúng các tỉnh Giang, Hàng, Hồ… theo học rất đông, Sư chú tâm dạy họ bằng giáo nghĩa Tịnh Độ và thường răn nhắc đại chúng siêng tu Tịnh nghiệp. Do kính trọng, mọi người đều gọi ngài là Đồng Giang pháp sư hay Đồng Giang Anh pháp sư chứ không gọi thẳng tên. Ngài để lại cho đời các bộ chú giải Tâm Kinh, Tam Châu Luận, Tịnh Độ Tu Chứng Nghi, Vãng Sanh Tịnh Độ Thập Nguyện Văn, Biện Hoành Thụ Nhị Xuất, Khuyến Tu Tịnh Độ Tụng…

[11] Tùy Hình Hảo (Anuvyañjana), còn dịch là Tùy Hảo, Tiểu Tướng, Tiểu Hảo, hoặc chỉ gọi gọn là Hảo. Những tướng đẹp dễ thấy của chư Phật, Bồ Tát gọi là Tướng, những vẻ đẹp kín đáo, ẩn mật, khó thể thấy ngay được thì gọi là Hảo. Những vẻ đẹp ấy trang nghiêm, tăng thêm vẻ đẹp cho mỗi tướng chánh nên gọi là Tùy Hình Hảo. Sách Pháp Giới Thứ Ðệ, quyển hạ chép: “Tướng và [tùy hình] hảo đều là sắc pháp, đều để trang nghiêm rạng rỡ thân Phật; nhưng tướng là Tổng quát, tùy hình hảo là chuyên biệt. Nếu một tướng mà không có tùy hình hảo thì chẳng viên mãn. Chuyển Luân, Ðế Thích, Phạm Vương cũng có ba mươi hai tướng nhưng không có tùy hình hảo nên thân họ chẳng vi diệu”. Trí Ðộ Luận cũng giảng: “Tướng thô nhưng tùy hình hảo lại tế. Chúng sanh thấy Phật liền thấy ngay được tướng, nhưng khó thấy được tùy hình hảo. Tướng thì người khác cũng có, nhưng tùy hình hảo thì không phải ai cũng có. Do vậy, phải nói riêng tướng và tùy hình hảo’’.

[12] Tiên Chú: Tiên (笺) là chú giải ngắn gọn, sơ lược. Do những lời chú thích cho những bộ kinh này chỉ gồm một hai câu, nêu lên những nét chánh yếu của mỗi đoạn, hoặc chú thích những chữ quan trọng nên gọi là Tiên Chú.

[13] Lệ Trạch là chữ trích từ phần Tượng Truyện giải thích quẻ Đoài trong kinh Dịch: “Lệ trạch, Đoài, quân tử dĩ bằng hữu giảng tập”. Sách Châu Dịch Chánh Nghĩa giảng: “Lệ Trạch Đoài: Lệ có nghĩa là tiếp nối với nhau, giống như hai cái đầm thông với nhau, hết sức tràn trề đầy ắp cho nên mới nói ‘Lệ trạch, Đoài’ (hai cái đầm thông với nhau, đó là ý nghĩa được biểu trưng bởi quẻ Đoài). ‘Quân tử dĩ bằng hữu giảng tập’: Đồng môn là Bằng, đồng chí là Hữu. Bằng hữu cùng tụ lại một chỗ, giảng giải, nghiên cứu đạo nghĩa, vui vẻ tột bậc, không gì hơn được nữa”. Do vậy, chữ Lệ Trạch thường được dùng với ý nghĩa bạn bè cùng chí hướng tha thiết bảo ban răn nhắc lẫn nhau.

[14] Nói gọn của chữ Kim Thành Thang Trì (tức hào sâu như ao nước sôi, thành vững chắc như sắt), ở đây được dùng với ý ca ngợi người bảo vệ đạo pháp.

[15] Bác Sĩ là một chức quan đã xuất hiện từ thời Chiến Quốc, thường được phong cho những người thông thạo một môn học vấn nào đó, nhất là Kinh Học (ngành nghiên cứu về kinh điển). Quan Bác Sĩ thường là người thông thạo cổ kim có nhiệm vụ quản thủ văn kiện, hồ sơ, biên soạn trước thuật, có khả năng dạy dỗ đào tạo nhân tài. Đời Tần, quan Bác Sĩ chưởng quản mọi sử liệu của đất nước. Đến đời Hán Vũ Đế, do tôn sùng Nho Học còn đặt ra chức Ngũ Kinh Bác Sĩ nhằm nghiên cứu và giảng dạy năm kinh của Nho gia, vai trò quản thủ biên chép sử liệu được giao cho Thái Sử. Đến đời Đường, người tinh thông một môn học nào đều được xưng tụng là Bác Sĩ như Y Học Bác Sĩ, Toán Học Bác Sĩ (Toán ở đây là bói toán, chứ không có nghĩa là toán học) v.v… Đến đời Tống, danh hiệu này mất hẳn tính chất cao quý và chức quan này không còn tồn tại nữa; không hiểu sao dân gian bắt đầu gọi những người phục vụ là Bác Sĩ, chẳng hạn những anh bồi rót trà trong quán cơm, quán trà được gọi là Trà Bác Sĩ. Thời hiện đại, chữ Bác Sĩ dùng để dịch nghĩa học vị Tiến Sĩ (Doctor), còn bác sĩ chữa bệnh được gọi là Y Sinh.

[16] Theo bộ Tục Tập Cổ Kim Phật Đạo Luận của ngài Trí Thăng soạn vào đời Đường, câu chuyện này được chép như sau: “Theo Hán Pháp Bản Nội Truyện, vào niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế, đêm vua nằm mộng thấy người vàng cao một trượng sáu, quang minh sáng lạ lùng, sắc tướng khôn sánh. Minh Đế ngủ không yên giấc, đến sáng hội họp đông đảo quần thần để đoán điềm mộng. Thông Nhân Phó Nghị tâu rằng: ‘Thần nghe nói ở Tây Vực có vị thần hiệu là Phật, ắt bệ hạ nằm mộng thấy vị ấy’. Quốc Tử Bác Sĩ Vương Tuân cung kính thưa: ‘Thần xét thấy Châu Thư Dị Ký chép: Thời Châu Chiêu Vương có thánh nhân xuất hiện nơi phương Tây’. Thái Sử Tô Do tâu: ‘Sách ấy chép rằng một ngàn năm sau, thanh giáo sẽ lan truyền đến đất này, ắt là bệ hạ mộng thấy vị thần ấy’. Minh Đế tin những lời tâu ấy là đúng, bèn sai Trung Lang Thái Âm, Trung Lang Tướng Tần Cảnh, Bác Sĩ Vương Tuân v.v… mười tám người đi tìm hỏi Phật pháp. Bọn họ đến Thiên Trúc gặp được hai vị sa môn Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, bọn Tần Cảnh bèn cầu thỉnh. Hai vị Ma Đằng là bậc trí huệ thông suốt, chẳng nề hà nhọc nhằn, liền cùng với nhóm Tần Cảnh vượt qua Lưu Sa, đến Lạc Dương”.

[17] Trang Công: Ở đây, chúng tôi ngờ rằng nguyên bản ghi sai chữ này, vì trong phần sau đều ghi là Trang Vương. Thời ấy, có rất nhiều vị vua chư hầu có hiệu là Trang Công, nên Trang Công ở đây không rõ là vị nào. Hơn nữa, để đối ứng với Châu Chiêu Vương ở câu trên thì phải nói đến niên đại của một vị hoàng đế khác của nhà Châu. Do vậy, chúng tôi tin rằng đời vua được nói ở đây phải là Châu Trang Vương. Châu Trang Vương làm vua từ năm 697 đến năm 682 trước Công Nguyên. Như vậy, năm Châu Trang Vương thứ bảy là năm 690 trước Công Nguyên.

[18] Hằng tinh (Star) gồm những thiên thể có hình cầu hoặc gần như hình cầu có mật độ vật chất rất cao, chứa toàn những nhiên liệu đang bốc cháy tạo thành, hành tinh gần quả đất nhất chính là mặt trời. Hằng tinh khác với hành tinh (Planet). Hành tinh là những thiên thể xoay quanh một hằng tinh và hành tinh không có khả năng tự phát ra ánh sáng, chẳng hạn như Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh v.v… là hành tinh.

[19] Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744), cao tăng đời Đường, người xứ An Khang, Kim Châu (nay là huyện Hán Âm, tỉnh Thiểm Tây), thường được gọi là Đại Huệ thiền sư. Sư xuất gia năm 15 tuổi, chuyên nghiên cứu Luật Tông, sau tham học với Lục Tổ Huệ Năng, trở thành cao túc của Lục Tổ, ở lại hầu thầy suốt mười lăm năm. Sau khi Lục Tổ thị tịch mới sang chùa Bát Nhã thuộc Nam Nhạc (Hồ Nam) để hoằng dương thiền học của Huệ Năng vào năm Tiên Thiên thứ hai (713) đời Đường Huyền Tông. Đệ tử Sư là Mã Tổ Đạo Nhất cũng là một vị cao tăng nổi tiếng thời ấy. Từ dòng Thiền này, về sau đã phát sanh các dòng thiền Lâm Tế, Quy Ngưỡng… và các vị cao tăng nổi tiếng như Phổ Hóa, Hoàng Bá…

[20] Không rõ ở đây là do bản in Ấn Quang Văn Sao Tam Biên của Báo Ân Niệm Phật Đường ở Cổ Tấn in sai hay sách Tiên Chú ghi sai. Theo đoạn trên, có thuyết cho rằng đức Phật phải giáng sanh vào năm Châu Trang Vương thứ bảy là vì dựa trên sự kiện “hằng tinh chẳng hiện, đêm sáng như ban ngày”. Không hiểu sao trong câu này lại ghi là “năm Trang Vương thứ chín”. Do không có bản Di Đà Tiên Chú trong tay để đối chiếu, chúng tôi xin ghi lại điều này như một điểm tồn nghi.

[21] Hàng Bố nói đầy đủ là Thứ Đệ Hàng Bố Môn. Hàng là Hàng Liệt (để theo từng dãy), Bố là Bố Trí (xếp đặt). Đây là một thuật ngữ nhằm diễn tả từng giai đoạn địa vị tu tập của Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm cho đến khi chứng được Phật Quả. Hàng Bố đối lập với Viên Dung. Theo ngài Thanh Lương, từ địa vị Bồ Tát tiến đến Phật quả gồm hai môn:

1) Sơ Hậu Tương Tức (đầu tiên và sau rốt không sai, không khác): Nghĩa là lúc mới phát tâm thì đã thành Chánh Giác (đây là nói trên mặt Lý, giống như Lý Tức Phật trong Tông Thiên Thai). Đó gọi là Viên Dung Môn.

2) Sơ Hậu Thứ Đệ (Đầu tiên và sau rốt theo thứ tự): Tức là năm mươi hai địa vị tu chứng từ Thập Tín, Thập Trụ… cho đến địa vị Đẳng Giác (Thập Tín chưa được kể là Pháp Thân đại sĩ, nên thường nói là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, tức là những địa vị từ Thập Trụ cho đến Đẳng Giác Bồ Tát). Phải theo thứ tự mà lần lượt tấn tu nên gọi là Hàng Bố Môn.

[22] Tứ pháp giới chính là vũ trụ quan của Tông Hoa Nghiêm: Toàn thể vũ trụ quy về nhất tâm. Nếu quan sát từ trên hiện tượng và bản thể thì có thể chia thành bốn tầng lớp:

1) Sự Pháp Giới: Tức hiện tượng giới sai biệt. Sự có nghĩa là sự tướng, Giới có nghĩa là phân biệt, hạn định. Toàn thể các sự vật trong vũ trụ đều do nhân duyên sanh, đều có giới hạn riêng biệt cho từng loại, thế tục thường tưởng lầm đó là bản tánh đặc trưng của từng loại, rồi khởi lên ý niệm phân biệt đối với từng đối tượng, nên dựa vào tánh chất đặc trưng của từng đối tượng để nhận biết sự vật. Đây gọi là “tình kế cảnh” (cảnh do phân biệt, tình cảm, so đo mà có).

2) Lý Pháp Giới: Tức bản thể giới bình đẳng. Lý là lý tánh. Bản thể của hết thảy vạn vật trong vũ trụ là Chân Như, bình đẳng không sai biệt.

3) Sự Lý Vô Ngại Pháp Giới: Hiện tượng giới và bản thể giới cùng mang quan hệ “cùng là một thể, chẳng hai, chẳng khác”. Nói cách khác, bản thể không có tự tánh, nhờ vào Sự mà hiển lộ (thường nói là “Chân Như lý thể tùy duyên biến hiện”, hoặc “Lý do Sự hiển”), dựa vào Sự mà nhận biết được Lý (thường nói “Sự do Lý thành”), do đây mà tỏ lộ trọn pháp giới Sự Lý viên dung vô ngại.

4) Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới: Bản thân hiện tượng giới là tuyệt đối chẳng thể nghĩ bàn, nghĩa là hết thảy các pháp đều có Thể, có Dụng; tuy mỗi pháp do nhân duyên mà sanh khởi, nhưng mỗi pháp vẫn giữ tự tánh của nó. Thoạt nhìn, mỗi Sự tách biệt nhau, nhưng không một duyên nào chẳng phải do nhiều duyên hợp thành, mà một duyên cũng giúp cho khắp các duyên khác được thành tựu. Vì thế, lực dụng của chúng chồng chéo lẫn nhau, kinh thường diễn tả bằng thuật ngữ “trùng trùng duyên khởi”.

[23] Thập Huyền: Còn gọi là Thập Huyền Duyên Khởi, Nhất Thừa Thập Huyền Môn, gọi đủ là Thập Huyền Duyên Khởi Vô Ngại Pháp Môn. Mười môn này được lập ra nhằm biểu thị tướng trạng của Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới. Tông Hoa Nghiêm cho rằng “thông hiểu những nghĩa này sẽ thâm nhập được biển huyền diệu của đại kinh Hoa Nghiêm”. Thập Huyền Môn gồm:

1) Đồng Thời Cụ Túc Tương Ứng Môn (đồng thời đầy đủ tương ứng): Hết thảy hiện tượng cùng một lúc tương ứng, cùng lúc viên mãn trọn vẹn. Một với nhiều đều cùng một thể, không phân biệt trước sau. Để dễ hiểu ý này, các nhà chú giải thường dùng ví dụ sau: Nước chỉ là một, ý muốn của chúng sanh là nhiều pháp, cùng một dòng nước mà có thể đáp ứng đầy đủ các ý muốn khác nhau của người dùng như uống, giặt, tắm, rửa, bơi lội v.v… Tất cả những hành động ấy đều có thể xảy ra cùng một lúc nhưng nước vẫn đáp ứng trọn vẹn mà các hành động ấy cũng không trở ngại nhau.

2) Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại Môn (rộng hẹp tự tại vô ngại): Đem đối lập không gian rộng và hẹp với nhau thì dường như mâu thuẫn, nhưng từ chỗ đối lập mâu thuẫn ấy lại có thể nhận biết chỗ chúng dung nhập nhau. Chẳng hạn như tấm gương có thể thâu nhận hình ảnh của muôn trùng sông núi. Muôn trùng sông núi bao la hiện trong tấm gương nhưng chẳng ngăn trở nhau, chẳng chồng chất lên nhau, vẫn giữ nguyên hình dáng.

3) Nhất Đa Tương Tức Tự Tại Môn (một chính là nhiều, nhiều chính là một): Như ngàn ngọn đèn cùng thắp, ánh sáng hòa lẫn vào nhau, soi rọi lẫn nhau.

4) Chư Pháp Tương Tức Tự Tại Môn (các pháp chính là lẫn nhau vô ngại): Một và hết thảy đều do cùng một thể mà ra, dung nhiếp lẫn nhau vô ngại. Một ví dụ rất dễ thấy là nước và sóng; sóng do nhiều hạt nước hợp thành, sóng lặng lại trở thành nước, nước động lại biến thành sóng. Hoặc mây do các hạt nước bốc hơi hợp thành, mây chính là nước, nước biến thành mây.

5) Ẩn Mật Hiển Liễu Câu Thành Môn (ẩn mật và hiển hiện đều cùng thành tựu): Trong ẩn có hiển, trong hiển có ẩn, giống như mặt trăng về bản thể không thay đổi, nhưng có lúc trăng sáng hay trăng mờ là do bị mây che hay không. Mây che thì trăng mờ nhưng tánh sáng vẫn không mất, tức là trăng sáng và trăng mờ vẫn cùng một thể.

6) Vi Tế Tương Dung An Lập Môn (các thứ nhỏ nhiệm chứa đựng lẫn nhau, cùng tồn tại): Đối với mỗi một hiện tượng, dùng cái nhỏ đem cái nhỏ bỏ vào cái lớn hay ngược lại mà mọi vật vẫn không hư hoại tướng trạng của nó. Kinh Hoa Nghiêm đã diễn tả điều này bằng hình ảnh: Thiện Tài đồng tử đi vào khắp các lỗ chân lông trên thân Phổ Hiền Bồ Tát, thấy trong mỗi lỗ chân lông có vô lượng vô biên vi trần Phật quốc độ, trong quốc độ có vi trần số đức Phổ Hiền, Thiện Tài lại đi vào lỗ chân lông của mỗi vị Phổ Hiền ấy, lại thấy trong ấy có vô lượng vô biên vi trần số Phật quốc độ, cứ thế cho đến trùng trùng vô tận. Hoặc nói trong mỗi đầu sợi lông có đủ vi trần số quốc độ, có đủ cả chư Phật ba đời v.v…

7) Nhân Đà La Võng Pháp Giới Môn: Dùng hình ảnh cái lưới kết bằng ngàn viên châu của Đế Thích để diễn tả khái niệm này: Mỗi viên châu chiếu rọi bóng của 999 viên châu kia, mà 999 viên châu kia mỗi viên đều dung chứa hình ảnh của viên châu này! Lớn vào trong nhỏ, nhỏ vào trong lớn chẳng loạn, chẳng hoại một tướng nào. Kinh Hoa Nghiêm thường diễn tả bằng ví dụ: Bồ Tát bứt lấy một cõi quăng đi vi trần số cõi Phật nhưng chúng sanh trong cõi ấy vẫn không biết không hay; hoặc đem tam thiên thế giới bỏ vào một vi trần, thế giới ấy không chật hẹp không biến dạng, hoặc dùng một cây lọng che khắp mười phương vi trần số cõi Phật…

8) Thác Sự Hiển Pháp Sanh Giải Môn (nhờ vào sự để hiển lộ pháp khiến cho người học lãnh hội): Lý thâm diệu có thể nhờ vào sự gần gũi tầm thường để hiển lộ; nhưng sự vật được mượn để hiển lý và lý được hiển ấy không hai, không khác. Chẳng hạn nhìn lá rơi, hoa tàn mà ngộ lẽ sanh diệt hoặc Thập Nhị Nhân Duyên; hoặc chúng sanh cõi Cực Lạc nhìn vào cây Bồ Đề sẽ liền chứng ba thứ Vô Sanh Nhẫn.

9) Thập Thế Cách Pháp Dị Thành Môn (mười đời khác biệt nhưng đều cùng thành tựu): quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ba đời ấy mỗi đời đều chia thành ba đời nữa, ba lần ba thành chín, chín đời ấy cũng chỉ trong một niệm nên gọi là Thập Thế (mười đời). Mười đời ấy tuy gián cách về thời gian, nhưng đều dung nhập lẫn nhau không xen hở.

10) Chủ Bạn Viên Minh Cụ Đức môn (chủ lẫn bạn đều cùng đầy đủ phẩm đức tròn sáng): Các hiện tượng duyên khởi tương quan, lấy một pháp làm chủ thì hết thảy các pháp còn lại là bạn, lần lượt làm chủ, làm bạn không xen hở.

[24] Tức ông Hoàng Hàm Chi, pháp danh là Trí Hải.

[25] Pháp sư Đế Nhàn chê những kẻ chú giải kinh điển trong thời ấy do thiếu thực học thường tỏ vẻ thông thái bằng cách viết cầu kỳ bí hiểm khiến người đọc sa vào mê lộ, với dụng ý khen ngợi bản tiên chú của ông Đinh Phước Bảo gãy gọn, đơn giản, dễ hiểu, thiết thực. Nhưng ông Đinh Phước Bảo lại dẫn lời ông Kỷ Đại Khuê chê bai Tổ Thanh Lương khiến cho lời khen của pháp sư Đế Nhàn bị phản tác dụng.

[26] Theo Tam Kiếp Tam Thiên Phật Danh Kinh, trong thế giới Sa Bà, trong kiếp Đại Trang Nghiêm (quá khứ), kiếp Hiền (hiện tại) và kiếp Tinh Tú, mỗi kiếp có một ngàn đức Phật ra đời. Hiện nay là kiếp Hiền.

[27] Thập Lực (Daśa Balāni), gọi đủ là Thập Chủng Trí Lực, còn gọi là Thập Thần Lực, tức là mười món trong mười tám pháp bất cộng của Phật (gọi là Bất Cộng vì chỉ chư Phật mới có, ngay cả hàng Đẳng Giác Bồ Tát cũng không có những lực này) gồm:

1) Xứ phi xứ trí lực: Xứ có nghĩa là đạo lý, tức là Như Lai đối với nhân duyên, quả báo đều biết rõ tường tận, chẳng hạn như thiện sẽ được hưởng thiện báo ra sao. Đấy là “tri thị xứ” (biết chỗ đúng). Nếu làm ác mà lại hưởng lạc báo thì không thể nào như vậy được, đấy gọi là “tri phi xứ” (biết chỗ đúng). Mọi điều như vậy đều cùng biết rõ.

2) Dị nghiệp thục trí lực (tri nghiệp báo trí lực): Như Lai biết tường tận nghiệp duyên, quả báo, chỗ sẽ sanh về của hết thảy các chúng sanh trong quá khứ, hiện tại, vị lai.

3) Tịnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực: Như Lai tự tại vô ngại nơi các Thiền Định, thứ tự sâu cạn của các món Thiền Định không gì chẳng biết rõ.

4) Căn thượng hạ trí lực (hay Tri chúng sanh thượng hạ căn trí lực): Đức Như Lai biết rõ rành rẽ căn tánh chúng sanh là lợi căn hay hạ căn, đắc quả lớn hay nhỏ.

5) Chủng chủng thắng giải trí lực: Đức Như Lai biết chúng sanh đủ mọi ưa muốn, thiện ác khác nhau, thấy biết trọn khắp đúng như thực.

6) Chủng chủng giới trí lực: Đức Như Lai đúng như thực biết trọn khắp đủ mọi phạm vi giới hạn của các chúng sanh giới.

7) Biến thú hành trí lực: Trong lục đạo hữu lậu, đức Như Lai biết tường tận những kẻ đi trong hữu lậu lục đạo sẽ về đâu, biết người đi trong Niết Bàn vô lậu sẽ về đâu.

8) Túc trụ tùy niệm trí lực: Đức Như Lai biết túc mạng của hết thảy chúng sanh trong vô lượng vô biên kiếp.

9) Sanh tử trí lực: Do thiên nhãn đức Như Lai biết rõ đúng sự thực lúc chết, lúc sống của chúng sanh cũng như các nghiệp chướng, quả báo trong những kiếp số ấy.

10) Lậu tận trí lực: Đức Như Lai vĩnh viễn trừ sạch các lậu, tập khí, đúng như thực biến trọn khắp các lậu, các tập khí của chúng sanh.

[28] Đây là tên những con số theo lối đếm thời cổ, do không có chữ tương đương nên chúng tôi chỉ phiên âm tên gọi, chúng được liệt kê theo nguyên tắc số sau lớn gấp mười lần số trước.

[29] Vô lượng của hữu lượng: Nghĩa là con số vô lượng ấy vẫn có thể tính đếm được, vì Vô Lượng là một trong 140 con số được kể trong phẩm A Tăng Kỳ, tuy rất lớn vẫn có thể tính được. Vô lượng của vô lượng nghĩa là một con số cực lớn, không hạn lượng, không cách nào tính đếm hình dung được.

[30] Vị Chương Gia Lạt Ma được nói ở đây là vị Chương Gia Hô Đồ Khắc Đồ đời thứ ba, có tên là Nhã Tất Cát Đa (1716-1786).

[31] Phiên là từ ngữ chỉ chung các sắc dân sống ở phía Tây Trung Hoa, nhưng ở đây được dùng để chỉ chữ Tây Tạng.

[32] Do chữ Phạn đa âm trong khi tiếng Hán đơn âm nên đôi khi phải dùng nhiều chữ Hán để mô phỏng âm đọc một chữ Phạn. Chẳng hạn trong bài chú Nhất Thiết Như Lai Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn, để diễn tả cách đọc chữ Sdriya (âm Phạn chỉ có hai âm), bản tiếng Hán đã phải dùng đến bốn chữ “tất đát rị dã” và ghi chú nhỏ bên cạnh, “hợp tam”, tức là khi đọc phải dồn cả ba chữ đầu thành một chữ, đừng đọc tách rời ra). Do không có âm tương ứng, ngay cả cách đọc thần chú của người Tây Tạng cũng không diễn tả trung thành Phạn âm; ví dụ như họ đọc Vajra thành Ben-za. Người Mông Cổ hầu như không phát âm được âm H nên họ đọc Aum Mani Padme Hum thành Um Ma Ni Pe Me Khun. Tuy thế, tín tâm là quan trọng nhất, dẫu chú đọc không đúng âm, nhưng hành nhân thọ trì với niềm tin mãnh liệt, giữ giới thanh tịnh sẽ được cảm ứng. Chúng tôi đã từng nghe một đạo hữu kể là vị ấy rất siêng trì chú Đại Bi, cũng đạt được một số cảm ứng. Sau này, khi đọc sách Mật Tông bằng tiếng Anh, liền chuyển sang trì tụng theo đúng âm tiếng Phạn theo kiểu Latin hóa thì do tâm phân biệt sợ âm đọc sai sót, đã không còn nhiếp tâm được nữa. Khi trở lại trì chú Đại Bi theo cách phiên âm thông dụng theo tiếng Hán thì do tâm đã khởi lên phân biệt, cũng không hề được cảm ứng gì!

[33] Tức bài “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã…” trong kinh Kim Cang.

[34] Để dễ theo dõi lời phê bình của Tổ Ấn Quang, chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn đoạn kinh ấy như sau: “Hữu nhân hoạn dâm bất chỉ, dục tự đoạn âm. Phật vị chi viết: ‘Nhược đoạn kỳ âm, bất như đoạn tâm. Tâm như công tào, công tào nhược chỉ, tùng giả đô tức. Tà tâm bất chỉ, đoạn âm hà ích?” (Có người mắc thói dâm dục không ngăn dứt được, muốn tự cắt bộ phận sinh dục. Đức Phật bảo với người ấy: “Nếu cắt bộ phận sinh dục thì chẳng bằng đoạn dứt cái tâm. Tâm như người thống lãnh, nếu ngăn được người thống lãnh thì những kẻ đi theo đều ngưng nghỉ. Tà tâm chẳng ngưng dứt, cắt bộ phận sinh dục có ích gì?”)

[35] Nhân Hiếu Văn Hoàng Hậu chính là vợ chánh của Minh Thành Tổ (Châu Lệ), họ Từ, quê ở Hào Châu, là con gái của khai quốc công thần Từ Đạt. Bà được vua Minh Thái Tổ hỏi cưới cho hoàng tử Yên Vương Châu Lệ năm 15 tuổi. Bà nổi tiếng là người nhân đức, ôn hòa, hiếu hạnh, rất được lòng Mã Thái Hậu. Khi Yên Vương làm phản đoạt ngôi của anh là Kiến Văn Đế (Châu Doãn Văn), xưng đế, lấy niên hiệu là Vĩnh Lạc, bà được phong làm Hoàng Hậu. Bà mất năm Vĩnh Lạc thứ năm (1407), thọ được 46 tuổi. Vua hết sức thương tâm, không bao giờ lập Hoàng Hậu nữa, phong tặng bà thụy hiệu Nhân Hiếu Từ Ý Thành Minh Trang Hiến Phối Thiên Tề Thánh Văn Hoàng Hậu.

[36] Vị dịch Phạn văn sẽ cầm nguyên bản tiếng Phạn đọc lên cho những người cùng dịch dò theo những bản Phạn vốn có để đảm bảo không bị sai sót thiếu tiếng Phạn nào trong nguyên bản, vị Dịch Ngữ sẽ dịch những câu ấy sang tiếng Hán cho vị Bút Thọ chép lại. Vị Hồi Xuyết sẽ kiểm bản dịch nháp ấy để sửa đổi thứ tự cho đúng với cú pháp tiếng Hán. Vị Chứng Nghĩa sẽ kiểm nhận bản dịch trung thành với nguyên bản, không diễn tả sai lạc ý kinh luật luận, đồng thời thêm vào những chỗ người dịch ngữ đã bỏ sót hay sửa đổi những câu văn dịch tối nghĩa. Vị Nhuận Văn gọt giũa lời văn sao cho bóng bẩy, trang nhã, nhưng không mất ý nghĩa hoặc thay đổi ý nghĩa của lời dịch ban đầu. Do đó, vị Nhuận Văn vừa phải có tài văn chương vừa thông hiểu kinh điển.

[37] Bộ ở đây có nghĩa là thể loại, thể tài. “Thập Nhị Bộ Kinh” tức mười hai thể loại thường được dùng trong kinh Phật.

[38] Bản kinh được nhắc đến ở đây vốn có tên là Vị Tằng Hữu Nhân Duyên Kinh.

[39] Bộ Hợp Chú được nói ở đây chính bộ Phạm Võng Kinh Hợp Chú (bảy quyển) do Tổ Ngẫu Ích viết. Tác phẩm này có tên đầy đủ là Phạm Võng Kinh Tâm Địa Phẩm Hợp Chú. Sách được ngài Đạo Phưởng giảo chánh và cho in vào năm Sùng Trinh thứ 10 (1637). Bản chú giải này rất đặc sắc, được coi như bản chú giải kinh Phạm Võng độc đáo nhất do Tổ chú trọng đến Vô Tác Giới Thể. Ngài đưa ra bảy ý nghĩa của giới thể (Tánh, Nhân, Duyên, Thể, Tướng, Kỳ, Quả), lập ra mười môn để giải thích giới tướng: Tùy văn thích nghĩa (dựa theo kinh văn giải thích ý nghĩa), tánh giá trọng khinh (phân định giới tướng ấy là tánh giới hay giá giới, nặng hay nhẹ), thất chúng giản liệu (phân định giới ấy tùy theo bảy chúng, tức là người phạm giới sẽ bị kết tội nặng hơn nếu là chúng xuất gia), đại tiểu đồng dị (sự khác biệt giữa giới tướng Đại Thừa và Tiểu Thừa), thiện thức khai giá (khéo biết mở, đóng, tức biết luận theo lý, theo sự để biện định có phạm giới hay là không), dị thục quả báo (quả báo sẽ kết thành sớm hay muộn), quán tâm lý giải, sám hối hành pháp, tu chứng sai biệt và tánh ác pháp môn. Khi giảng kinh Phạm Võng tại Bồ Đề Lan Nhã (Sài Gòn) vào năm 1968, pháp sư Diễn Bồi đã dựa chủ yếu vào lối diễn giải của Tổ Ngẫu Ích để giảng giải. Bài giảng kinh Phạm Võng của hòa thượng Diễn Bồi đã được hòa thượng Trí Minh dịch sang tiếng Việt với nhan đề Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký.

[40] Ở đây, khi rút gọn lời trích từ bản Phạm Võng Kinh Hợp Chú, ông Đinh Phước Bảo đã viết sai chữ Mâu (矛: cái mâu, cái giáo) thành chữ Dữ (予: cho).

[41] Mục Chương A (1782-1856), tự là Tử Phác, hiệu Hạc Phưởng, thuộc cánh quân Cờ Viền Lam của quân đội Mãn Châu. Đỗ Tiến Sĩ năm Gia Khánh thứ 10 (1805), giữ nhiều chức vụ quan trọng, được cử vào Quân Cơ Xứ dưới thời Đạo Quang. Do khéo nịnh nọt nhà vua, nên được phong chức Tào Vận Tổng Đốc, coi về thủy binh và giao thông đường thủy nhiều tỉnh Bắc Trung Hoa. Khi cuộc chiến tranh Nha Phiến nổ ra, để lấy lòng vua, họ Mục đã quy tội và cách chức các vị trung thần như Lâm Tắc Từ, Đặng Đình Trinh. Khi Hàm Phong lên ngôi, vua xét án cũ, tái sử dụng Lâm Tắc Từ, đồng thời kết tội Mục Chương A “bảo vệ địa vị, tham đắm vinh hoa, hại người hiền, phá đất nước” đuổi về làm dân, vĩnh viễn không được tham gia triều chánh. Về sau, họ Mục bị bệnh chết.

[42] Những bản kinh mang tên Bát Nhã trước thời ngài Huyền Trang chỉ là các hội hoặc một phần của các hội trong kinh Đại Bát Nhã, chẳng hạn hội thứ 10 Bát Nhã Lý Thú Phần, đã được ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch với tên gọi là Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật Kinh, ngài Kim Cang Trí dịch là Kim Cang Đảnh Du Già Lý Thú Bát Nhã Kinh, ngài Bất Không dịch là Đại Nhạo Kim Cang Bất Không Tam Ma Da Kinh….

[43] Trong lá thư gởi cho cư sĩ X… của Ấn Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, quyển một, Tổ Ấn Quang đã dẫn lời nhận định của ông Kỷ Văn Đạt (Kỷ Quân): “Cầu cơ đa phần là linh quỷ giả vờ. Tôi cùng anh là Thản Nhiên hầu cơ bút, tôi làm được thơ nhưng viết chữ xấu. Khi tôi hầu cơ bút thì thi từ mẫn tiệp, chữ viết nguệch ngoạc. Thản Nhiên hầu cơ bút thì thi từ tầm thường, chữ viết ngay ngắn, cứng cỏi. Quỷ giả mạo cổ nhân, hỏi đến những điều bí hiểm, sâu kín trong những tác phẩm của cổ nhân, bèn bảo niên đại quá lâu, không còn nhớ được. Do vậy, biết không phải là thật!“

[44] Tông là những điều được đề cao trong một bộ kinh, tức giáo pháp chủ yếu của một bộ kinh.

[45] Đăng Địa: bậc Bồ Tát đã chứng từ Sơ Địa trở lên, Đăng Trụ: Bậc Bồ Tát đã chứng từ Sơ Trụ trở lên.

[46] Đây là thành ngữ “thác tha sơn chi ngọc’ (mượn hòn đá nơi núi khác để làm ngọc) nhằm tỏ ý khiêm tốn, những ý kiến đóng góp của mình vừa thô kệch vừa thiếu giá trị.

[47] Ý nói đem hỏa thiêu hết, vì theo Dịch Học, hai thiên can Bính Đinh thuộc hành Hỏa, nên thần lửa cũng thường gọi là Bính Đinh Đồng Tử.

[48] Thần Châu là danh xưng để gọi Trung Hoa đã có từ thời cổ. Tương truyền, vào thời cổ đại, có hai vị vua là Hoàng Đế và Viêm Đế, lãnh thổ của Hoàng Đế được gọi là Thần Châu, lãnh thổ của Viêm Đế gọi là Xích Huyện. Về sau, Hoàng Đế đánh bại Viêm Đế, sát nhập lãnh thổ của Viêm Đế vào Thần Châu. Do vậy, người Hoa vẫn tự gọi mình là Viêm Hoàng Tử Tôn (con cháu Viêm Hoàng) và gọi đất nước Trung Hoa là Thần Châu.

[49] Đề Hồ (Manda) là một món ăn ngon được tinh luyện từ sữa, là vị tinh thuần nhất trong năm thứ vị ngon được chế biến từ sữa (tức sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ). Do món này ngon nhất nên trong kinh thường dùng để ví với Niết Bàn, Phật Tánh v.v…. Theo suy luận thông thường, có lẽ Đề Hồ tương ứng với phó-mát (cheese) hiện thời. Ở Trung Hoa còn có một món ăn cũng được gọi là Đề Hồ chế biến bằng cách đun nóng sữa tươi riu riu cho đến khi chất kem và chất béo trong sữa đọng thành váng trên mặt. Hớt lấy váng đó cùng chất dầu trong sữa đựng trong chén để nguội gọi là Đề Hồ. Xưa kia, món này được coi là một món ăn quý, chỉ có giai cấp quyền quý mới được ăn.

[50] Tỳ Sương là oxide Thạch Tín (Arsenic) rất độc, còn gọi là Nhân Ngôn, ăn vào người bị trúng độc hộc máu, giẫy dụa, co quắp rất đau đớn trước khi chết. Do chất này không có mùi vị, nên người bị hãm hại khó thể nhận biết được.

[51] Cuốn này có tên đầy đủ là Đại Tạng Tập Yếu Mục Lục được Kim Lăng Khắc Kinh Xứ ấn hành vào năm 1866, nội dung giới thiệu danh mục những tác phẩm trọng yếu trong Tam Tạng kinh Hán truyền. Đồng thời, đối với mỗi tác phẩm giới thiệu những nội dung tư tưởng chánh yếu của bộ kinh sách ấy.

[52] Huệ Mạng Kinh là một cuốn kinh của Đạo Giáo chuyên xuyên tạc những câu kinh Phật để chứng tỏ pháp luyện đan, tu tiên do Liễu Hoa Dương soạn ra vào cuối đời Minh. Họ Liễu thuở nhỏ đã từng vào chùa tu, nên thường tự xưng là Liễu Hoa Dương Thiền Sư. Về sau, gặp được đạo sĩ Ngũ Xung Hư bèn “hoát nhiên khai ngộ”, từ đó tận lực hoằng dương cái gọi là Tiên Phật Hiệp Tông, tức là xuyên tạc, cắt xén kinh văn Phật giáo để chứng minh phép tu tiên.

[53] Tưởng Hầu chính là Tưởng Tử Văn, làm Huyện Úy xứ Mạt Lăng (nay là Nam Kinh) thời Đông Hán, đánh giặc bị tử thương, nhiều lượt hiển linh nên Tôn Quyền nhà Đông Ngô lập miếu thờ, phong tặng tước hiệu Trung Đô Hầu, sắc phong làm sơn thần của Chung Sơn, đổi tên Chung Sơn thành Tưởng Sơn.

[54] Phu nhân ở đây là Ma Gia phu nhân, mẹ đức Phật. Vườn Tỳ Lam tức là vườn Lam Tỳ Ni (Lumbini). Vô Ưu (Aśoka được phiên là A Thúc Ca, hoặc Kimśuka – Chân Thúc Ca, Khẩn Chúc Ca, Kiên Chúc Ca), còn được dịch là Xích Sắc, Nhục Sắc Hoa, được coi là một loài cây thánh ở Ấn Độ, có tên khoa học là Butea Frondosa, thường chỉ mọc ở bán đảo Ấn Độ cho đến Tích Lan. Cây cao đến hai ba mét, lá và hoa đều to. Lá thường được dùng để chế thuốc nhuộm, hạt cây ép ra dầu có tính sát trùng, hoa màu đỏ, trông từa tựa như hình bàn tay người.

[55] Theo từ điển Từ Hải, Quỷ Phương là tên một dân tộc thời cổ, thuộc thị tộc Quý Phương. Vào thời nhà Ân, nhóm dân này sống ở Thiểm Tây và phía Bắc tỉnh Sơn Tây, là cường địch của nhà Ân Thương lẫn nhà Châu. Cao Tông chính là vua Vũ Đinh nhà Ân đã đánh nhau với tộc người này dai dẳng suốt ba năm. Do dân Quỷ Phương sống ở phía Tây Trung Hoa nên chữ Quỷ Phương thường để chỉ chung các dân tộc sống ở phía Tây Trung Hoa.

[56] Rải rác trong Văn Sao, nhất là trong những lá thư gởi cho Đinh Phước Bảo, Tổ thường chê ông Lương Khải Siêu học Phật chưa đến nơi đến chốn, chỉ viện dẫn ý kiến của một hai tác giả Nhật Bản, chứ không đích thân nghiên cứu kinh điển tường tận, nên thường nêu ra nhận xét hết sức võ đoán, hồ đồ về Phật pháp.

[57] Gọi là Kim Cang Hộ Pháp (Vajrapani) vì các vị hộ pháp này thường cầm chày kim cang (kim cang xử) hiện tướng mạo phẫn nộ, nhằm thể hiện ý đối trị phiền não, biến phiền não thành giác ngộ, đập tan chướng ngại. Còn chữ Kim Cang (Vajra) trong tựa đề kinh Kim Cang là mượn chất kim cang cứng chắc, phá hoại được mọi thứ, không gì phá hoại được để thí dụ Phật Tánh thường hằng bất biến có diệu dụng không thể nghĩ bàn.

[58] Lương Cung Thần (1814-?) là một văn học gia nổi tiếng dưới đời Thanh quê ở Phước Châu, tỉnh Phước Kiến, là con trai thứ ba của đại văn học gia Lương Chương Cự. Trước tác nổi tiếng nhất là Bắc Đông Đường Bút Ký, được đánh giá chẳng hề thua kém tác phẩm Doanh Quan Tùng Thoại Toàn Biên của cha. Ông Đàm Khê cũng là một văn nhân nổi tiếng vào đời Càn Long – Gia Khánh, thường xướng họa mật thiết với Kỷ Hiểu Lam, Vương Lan Tuyền v.v…

[59] Hồ Bảo Tuyền (1694-1763) là một danh sĩ đời Thanh, vốn có tên lúc bé là Kim Lan, tự là Thái Thư, người Thanh Phố, phủ Tùng Giang, tỉnh Giang Tô, đỗ Tiến Sĩ dưới thời Ung Chánh, từng đảm nhiệm chức vụ Tuần Phủ nhiều tỉnh, cuối cùng được thăng lên Binh Bộ Thượng Thư kiêm Thái Tử Thiếu Phó, Thái Tử Thái Bảo dưới thời Càn Long. Trước tác còn để lại bộ Thi Văn Tập gồm 20 quyển. Ông được coi là người chánh trực, khiêm cung, cẩn trọng, nên rất được các bạn đồng liêu và hoàng đế kính trọng.

[60] Theo Pháp Bảo Đàn Kinh, khi phải trốn tránh do bị môn nhân của ngài Thần Tú truy bức nhằm đoạt lại y bát, Tổ Huệ Năng đã phải sống nhờ đám thợ săn. Đến mỗi bữa ăn, Ngài chỉ gắp ăn những lá rau bên cạnh thịt.

[61] Câu nói này dựa theo câu tục ngữ: “Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam” (Màu xanh dương phát xuất từ màu chàm, mà trỗi hơn màu chàm).

[62] Tự Vị (Tự Vựng) là bộ tự điển do Mai Ưng Tộ soạn vào đời Minh, gồm 14 quyển, có đến 33.179 từ ngữ, được hoàn tất vào năm Vạn Lịch 43 (1615). Bộ sách này được dùng làm tài liệu tham khảo chính để soạn Khang Hy Tự Điển về sau này.

Tự Điển được nói đến ở đây gồm hai bộ tự điển: Khang Hy Tự Điển và Trung Hoa Đại Tự Điển. Khang Hy Tự Điển được hoàn thành vào năm Khang Hy 55 (1716) do Văn Hoa Điện Đại Học Sĩ Trương Ngọc Thư và Văn Uyên Các Đại Học Sĩ Trần Đình Kính chủ biên. Bộ tự điển này là công sức suốt sáu năm trời của hai mươi tám vị danh sĩ như Sử Quỳ, Vạn Kinh, Lưu Nghiễm, Vương Vân Cẩm v.v… cùng biên soạn. Khang Hy Tự Điển có đến 47.035 chữ, chia theo 214 bộ thủ, phiên thiết cách đọc khá hợp lý, đồng thời dẫn chứng chi tiết cách dùng các từ ngữ trong thư tịch cổ nên cho đến nay vẫn được coi là tài liệu tham khảo hữu ích nhất về chữ Hán thời cổ. Bộ Trung Hoa Đại Tự Điển được soạn vào năm 1915, với mục đích sửa chữa những sai lầm trong Khang Hy Tự Điển, đồng thời bổ sung những danh từ mới, nhất là các thuật ngữ khoa học, đồng thời chú trọng sửa đổi cho cách phiên âm và giải thích từ ngữ đơn giản, chính xác hơn.

[63] Vì chữ Trà gần với âm tiếng Phạn hơn.

[64] Trong kinh Pháp Hoa vận dụng rất nhiều lối viết giả tá. Mạt được nói ở đây là chữ Mạt trong Mạt Hương (末香), đáng lý ra phải viết là Mạt Hương (抹香), nhưng kinh luôn viết là Mạt Hương (末香). Tuy thế, ai đọc đến cũng hiểu, không cần phải cầu kỳ sửa lại những chữ trong những bản đã được lưu hành từ bao đời đến giờ cho nên Tổ mới chê ông Đinh Phước Bảo quá cố chấp.

[65] Đây là một câu kinh trong phẩm Tự kinh Pháp Hoa (theo bản của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh): “Nhĩ thời, Thích Đề Hoàn Nhân dữ kỳ quyến thuộc nhị vạn thiên tử câu. Phục hữu danh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, tứ đại thiên vương, dữ kỳ quyến thuộc vạn thiên tử câu” (Khi ấy, Thích Đề Hoàn Nhân và quyến thuộc hai vạn thiên tử cùng đến. Lại có những vị như Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, bốn đại thiên vương và quyến thuộc một vạn thiên tử cùng đến). Sách Cú Giải cho rằng chữ Danh ở đây là sai, phải là chữ Minh mới đúng! Đa số các bản Pháp Hoa lưu hành hiện thời ở Việt Nam đều chép là chữ Minh.

[66] Hai chữ này trích từ câu nói của đức Phật trong phẩm Phương Tiện sau khi những người nghe đức Phật chấp nhận lời thỉnh của ngài Xá Lợi Phật giảng kinh Pháp Hoa liền đứng lên lễ Phật rồi lui về. “Ngã kim thử chúng, vô phục chi diệp, thuần hữu trinh thật. Xá Lợi Phất! Như thị tăng thượng mạn nhân, thoái diệc giai hỹ!” (Trong chúng ta không còn cành lá, chỉ còn thân cây và quả. Xá Lợi Phất! Những kẻ tăng thượng mạn ấy lui về cũng là tốt). Do không để ý đến sự đối xứng giữ “chi diệp” và “trinh thật” nên nhiều bản đã tùy tiện sửa “trinh thật” thành “chân thật”.

[67] Hai chữ Phạt này ý nghĩa rất khác nhau, bầy tôi phản nghịch, vua là người bề trên đem quân đánh dẹp thì gọi là Phạt (罰), tức trừng phạt. Còn vì mọi người, vì đại thể mà Vũ Vương phải đem quân diệt Trụ hầu đem lại sự yên vui cho dân chúng (nên nhớ Vũ Vương là chư hầu của Trụ Vương) thì việc đánh dẹp do đại nghĩa ấy sẽ được gọi là Phạt (伐).

[68] Chữ Đa này thường được dùng để phiên âm thần chú, thường để phiên các âm Ta trong Phạn văn. Khi phiên sang tiếng Việt chữ này thường được đọc trại thành Đá.

[69] Trong phẩm Hóa Thành Dụ, khi chư Thiên mười phương đem cung điện của chính mình dâng lên, đã nói kệ cầu thỉnh đức Phật tiếp nhận, có vị nói là “duy nguyện thùy nạp thọ”, có vị nói là “duy nguyện thùy nạp xử”. “Xin Phật rủ lòng nhận lấy” hay “xin Phật rủ lòng nhận để ở” thì cũng chẳng khác gì nhau lắm.

[70] Đây là một câu nói của Lương Huệ Vương được chép trong sách Mạnh Tử. Khi sang nước Lương gặp nhà vua, được hỏi về kế sách, Mạnh Tử đã bảo: “Nay nhà vua cai trị bằng cách thực thi lòng nhân khiến cho kẻ sĩ trong thiên hạ đều muốn đứng trong sân chầu của nhà vua, kẻ nông phu đều muốn cày ruộng cho vua, con buôn đều muốn tích trữ hàng hóa nơi chợ của vua, người đi xa đều muốn đi trên đường của vua… Làm được như thế thì còn ai ngăn trở nhà vua được nữa?” Lương Huệ Vương bèn thưa: “Con tối tăm chưa thể làm được như vậy, xin phu tử giúp con, dạy cho con được sáng chí. Con tuy không lanh lợi, nhưng xin thầy cứ dạy thử”.

[71] Vĩnh Khang (280-289) là niên hiệu của Tư Mã Viêm (Tấn Vũ Đế) sau khi diệt được Đông Ngô. Còn Thái Khang (300-301) là niên hiệu của Tấn Huệ Đế (Tư Mã Trung) chỉ sử dụng chưa đầy hai năm. Đây là vấn đề tranh luận bộ kinh Chánh Pháp Hoa được dịch trong năm nào. Chánh Pháp Hoa là bản dịch kinh Pháp Hoa cổ nhất do ngài Trúc Pháp Hộ làm Dịch Chủ. Đa phần thiên về thuyết cho rằng kinh này được dịch năm Thái Khang thứ bảy (286) đời Tấn Vũ Đế.

[72] Tam Tạng Ký Tập gọi đủ là Xuất Tam Tạng Ký Tập do ngài Tăng Hựu (445-518) soạn vào đời Lương, còn gọi là Xuất Tam Tạng Ký Mục Lục, Lương Xuất Tam Tạng Tập Ký, hoặc Tăng Hựu Lục. Nội dung ghi chép duyên do, danh mục các kinh và những bản dịch kinh điển khác nhau từ thời Hậu Hán đến đời Lương.

Đại Đường Nội Điển Lục do ngài Đạo Tuyên (596-667) soạn vào đời Đường ghi chép hai trăm hai mươi dịch giả, tên gọi của hai ngàn bốn trăm tám mươi bảy bộ kinh.

[73] Sách Tam Biên ghi là Bạch Hàng (白航) nhưng trong các tài liệu viết về ông này cũng như trong Tục Biên đều ghi là Bạch Phảng (白舫), nên chúng tôi cũng phiên âm là Bạch Phảng.

[74] Tương đương chức vụ trưởng ty Kiểm Lâm hiện thời.

[75] Phủ Đài là tên gọi khác của chức quan Tuần Phủ (đôi khi đọc là Tuần Vũ), tức quan đứng đầu một tỉnh dưới thời Minh – Thanh, thuộc ngạch Tùng Nhị Phẩm. Gọi là Tuần Phủ nhằm ngụ ý “tuần hành thiên hạ, phủ quân án dân” (đi tra xét trong thiên hạ, cai quản quân dân). Chức này được đặt ra từ năm Hồng Vũ 24 (1430)

[76] Thành Đạo Ký Chú có tên đầy đủ là Thích Ca Như Lai Thành Đạo Ký Chú, do Huệ Ngộ đại sư viết để chú giải tác phẩm Thích Ca Như Lai Thành Đạo Ký của Vương Bột đời Đường. Sách này hiện được xếp vào Vạn Tục Tạng, tập 75. Vương Bột làm quan Bác Sĩ thời Đường Cao Tông, cùng với cha và anh đều nổi danh văn tài thời ấy, được xưng tụng là Vương Thị Tam Châu Thụ (ba cây ngọc nhà họ Vương). Vương Bột còn có bài phú Đằng Vương Các Ký rất nổi tiếng.

[77] Một Lạng (lượng) gồm 10 Tiền, một Tiền là mười Phân. Tùy theo địa phương mà chênh lệch từ 36g đến 40g. Hiện thời, tại Trung Hoa Đại Lục quy định một Lạng là 50g, trong khi Đài Loan và Hương Cảng quy định một lạng là 37,429g. Một Cân là mười sáu Lạng (theo Wikipedia)

[78] Chỉ Nguyệt Lục (tên đầy đủ là Thủy Nguyệt Trai Chỉ Nguyệt Lục) là bộ sách gồm ba mươi hai quyển do Cù Nhữ Tắc biên soạn vào đời Minh, chép sự tích của quá khứ thất Phật và hành trạng, pháp ngữ của chư Tổ sư Ấn Độ và các Tổ sư Đông Độ cho đến ngài Đại Huệ Tông Cảo v.v… Tổng cộng là 650 vị cổ đức. Đến đời Thanh, có ông Nhiếp Tiên, hiệu Lạc Độc, soạn tiếp cuốn bộ Tục Chỉ Nguyệt Lục gồm 20 quyển chép hành trạng của cổ đức từ năm Long Hưng thứ 2 (1164) đến năm Khang Hy mười tám (1679).

[79] Thần Tăng Truyện (chín quyển) là tác phẩm do Minh Thành Tổ soạn, thâu thập những truyện ký, sự tích thần dị của các bậc danh tăng từ xưa cho đến thời Minh như các vị Trúc Ma Đằng, Trúc Pháp Lan, Đạo An v.v… Tổng cộng 208 vị.

[80] Tống Cao Tăng Truyện (30 quyển) được biên soạn bởi Tán Ninh (919-1002) đời Tống. Bộ sách này được coi như phần tiếp theo của bộ Tục Cao Tăng Truyện, được khởi soạn vào năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 7 (982), chép hành trạng của các vị đại đức cao tăng từ niên hiệu Trinh Quán đời Đường Đại Tông (627-649) đến Đoan Củng nguyên niên (988) đời Tống Thái Tông. Do sách được soạn thành ở chùa Thiên Thọ nên còn gọi là Thiên Thọ Sử. Phần chánh truyện chép 531 vị, phần phụ truyện chép thêm 125 vị nữa; chia thành mười khoa như dịch kinh (32 vị), nghĩa giải (giảng giải kinh điển, 72 vị), tập thiền (103 vị)… Riêng phần Tập Thiền được coi là một tài liệu đặc sắc rất hữu ích về lịch sử truyền thừa của Tông Vân Môn cũng như hành trạng của các thiền sư trọng yếu.

[81] Theo truyền thống Thiền Tông, ở Ấn Độ có hai mươi tám vị Tổ, Trung Hoa có sáu vị Tổ. Ngài Bồ Đề Đạt Ma là Tổ thứ hai mươi tám ở Ấn Độ, đồng thời là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Vì vậy, trong đoạn trên Tổ mới nói ‘trong hai mươi bảy vị Tổ Tây Thiên không có ngài Thế Thân’. Hơn nữa, ngoài Tổ Bồ Đề Đạt Ma được ghi chép nhiều sự tích ra, danh hiệu hai mươi bảy vị Tổ kia chỉ được nhắc đến trong lịch sử truyền thừa chứ không ghi chép rõ hành trạng, nên mới nói ‘chứ không phải suốt cả một đời của hai mươi bảy vị Tổ chỉ có một đoạn sự tích này’.

[82] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của Tứ Thư Bạch Thoại Giải Thích.

[83] Ngài Huyền Trang sau khi tham học với các bậc Tông tượng tại Thiên Trúc đã trở thành một bậc Đại Luận Sư lẫy lừng tại Ấn Độ. Năm 41 tuổi, khi Sư muốn trở về Trung Hoa, vua Giới Nhật bèn Tổ chức đại pháp hội tại thành Khúc Nữ, triệu tập quốc vương mười tám nước cùng tăng sĩ Đại, Tiểu thừa Bà La Môn, hơn bảy ngàn người về tham dự pháp hội tranh biện Đại Thừa. Sư nhận lời thỉnh làm Luận Chủ. Để tuyên dương Đại Thừa, Sư viết ra bài luận Chân Duy Thức Lượng treo ở ngoài cửa thành suốt mười tám ngày. Vua hạ lệnh ‘nếu ai đổi được một chữ trong bài luận ấy sẽ được thưởng ngàn vàng’, nhưng suốt cả mười tám ngày không ai bắt bẻ được một chữ nào.

[84] Chữ Duyên khi được dùng như danh từ thì chỉ những nguyên nhân gián tiếp dẫn đến kết quả. Nhưng ở đây Duyên được dùng như một động từ thì có ý nghĩa nhận biết, dính líu, vướng mắc. Chẳng hạn, ‘tâm duyên nơi cảnh’, tức là tâm hướng đến một cảnh nào đó, nhận biết cảnh ấy qua lăng kính kiến giải, thiên kiến của chính mình. Để cho rõ, đôi khi các bộ luận thường viết “năng duyên tâm” và “sở duyên cảnh”. Năng Duyên Tâm chính là cái tâm phân biệt, nhận thức cảnh, còn Sở Duyên Cảnh chính là đối tượng được nhận thức bởi cái tâm ấy. Chẳng hạn như, khi ta nhìn bông hoa nhận biết đó là bông hoa thì cái tâm nhận biết ấy là Năng Duyên Tâm, bông hoa là Sở Duyên Cảnh. Cùng là một đối tượng, nhưng cảnh sở duyên trong sự nhận biết của mỗi người sẽ khác. Chẳng hạn như cùng một bông hoa, nhưng mỗi người sẽ thấy đẹp – xấu khác biệt. Nguyên câu này phải hiểu là “duyên trung [cảnh] nhược mi gian, nhược ngạch thượng, nhược tỵ đoan” (những cảnh được tâm duyên đến [trong khi tịnh tọa] như giữa chặng mày, như trên trán, như chót mũi)… Như vậy, ba nơi vừa kể chỉ là liệt kê đại lược những cảnh được duyên. Bọn đạo sĩ hiểu lầm bèn cho “duyên trung” cũng là một trong những vị trí trên thân thể như giữa chặng mày, giữa trán, chót mũi, nên mới bịa ra khái niệm Hoàng Trung!

[85] Đây cũng là một thuật ngữ của Đạo Gia, họ cho rằng linh hồn của mỗi người là một tiểu linh quang, tức từ Đại Linh Quang của Thượng Đế chia nhỏ ra, nên linh hồn còn được gọi là ‘tinh hồn’ tức phần tinh túy nhất được tiếp nhận từ Thượng Đế – tinh túy của vũ trụ. Theo họ, những vị tu tiên đắc đạo sẽ vận dụng được khả năng biến hóa thần kỳ của tinh hồn.

[86] Môn Cữu Cô Nương: Đây là một tập tục của phụ nữ thôn quê miền Hoa Nam thường dùng để bói vận may trong ngày lễ Nguyên Tiêu (rằm tháng Giêng), còn gọi là “thỉnh Đoàn Cơ thần” (thỉnh thần sọt). Họ bẻ rúm miệng sọt (cần-xé), phủ vải hoa lên, đem đặt ở ngưỡng cửa, rồi “niệm chú”. Tùy theo hình dáng của miệng sọt bung ra khi giở miếng vải lên mà bói xem năm ấy mùa màng, cưới gả, làm ăn tốt xấu như thế nào. “Vị thần” được cầu khấn trong khi bói toán ấy được dân gian gọi là Môn Cữu Cô Nương (cô nương ngạch cửa). Ở đây, Tổ chơi chữ, dùng Môn Cữu Cô Nương (là một vị thần quê mùa thấp kém trong tín ngưỡng dân gian, do dân chúng bịa ra) để sánh với vị thần tiên nổi tiếng nhất của Đạo Giáo là Lã Động Tân.

[87] Bão Phác Tử là hiệu của Cát Hồng (283-363), tự là Trĩ Xuyên, quê ở huyện Cú Dung, Đan Dương (nay thuộc tỉnh Giang Tô) là một nhà giả kim thuật thời Đông Tấn, thường được Đạo Giáo xưng tụng là Cát Tiên Ông. Ngoài những tư tưởng hoang đường về thuật luyện đan, Cát Hồng đóng góp khá đáng kể cho y thuật Trung Hoa cổ đại qua những ghi chép về triệu chứng bệnh tật. Trước tác nổi tiếng nhất là bộ Bão Phác Tử và Thời Hầu Cứu Tốt Phương. Ông ta là người đề xướng đường lối Ngoại Đan tức dùng khoáng vật (như thủy ngân, vàng v.v…) nấu với thuốc để chế kim đan, uống kim đan sẽ thành tiên bay lên trời. Do những kim đan ấy có chứa nhiều chất độc hại nên rất nhiều người đã hộc máu chết tươi ngay khi vừa uống xong kim đan theo toa của Cát Hồng. Cho đến cuối đời Thanh vẫn có những người mê muội luyện đan theo sách Bão Phác Tử!

[88] Phật Tổ Thống Kỷ do ngài Chí Bàn soạn vào thời Nam Tống, chủ yếu thuyết minh về hệ thống truyền thừa của giáo học Thiên Thai. Sách này lấy các bộ Tông Nguyên Lục và Thích Môn Chánh Thống làm cơ sở. Sách được phỏng theo cách chép của Sử Ký nên chia thành các phần Bản Kỷ, Thế Gia, Liệt Truyện, Biểu, Chí. Bản Kỷ bao gồm truyện đức Phật Thích Ca, và truyện của các vị Tổ mà Tông Thiên Thai tôn thờ là 24 vị Tổ ở Ấn Độ, 9 vị ở Trung Quốc và tám vị Tổ từ thời ngài Hưng Đại trở xuống. Phần Thế Gia gồm truyện của 198 vị Tổ thuộc Tông Thiên Thai, Nam Nhạc. Phần Liệt Truyện gồm truyện ký của 378 vị Tổ từ Từ Vân cho đến Nam Bình. Phần Biểu gồm những biểu đồ hệ thống truyền thừa ở Ấn Độ và Trung Quốc. Phần Chí gồm danh mục các trước tác của Tông Thiên Thai, Tịnh Độ, Thiền Tông, Hoa Nghiêm v.v… Tuy sách này lấy Tông Thiên Thai làm chính, nhưng nội dung sử liệu phong phú, biên chép kỹ lưỡng nên thường được coi là một sử liệu quan trọng để nghiên cứu Phật giáo Trung Quốc.

[89] Lão Quân chính là Lão Tử. Lão Tử tên thật là Lý Nhĩ, tự là Bá Dương, theo truyền thuyết ông sống trong khoảng 600 đến 470 trước Công Nguyên. Các đạo sĩ do tôn xưng ông là Thủy Tổ của Đạo gia đã đặt ra rất nhiều chuyện huyền thoại quanh ông và tôn xưng ông là Thái Thượng Lão Quân, Hỗn Nguyên Lão Quân, Thái Thanh Đại Đế, Đạo Đức Thiên Tôn v.v…

[90] Cát Huyền (164-244) là em của ông nội Cát Hồng, cũng là một đạo sĩ nổi tiếng, được người đời sau xưng tụng là Thái Cực Cát Tiên Ông. Cùng với Trương Đạo Lăng, Hứa Tôn và Tát Thủ Kiên được gọi là ‘tứ đại Thiên Sư’ của Đạo Giáo.