Vãng Sinh Tập
Nguyên tác Hán văn: Đất Cổ Hàng, sa-môn Châu Hoằng ở chùa Vân Thê biên tập.
Việt dịch: Nguyên Lộc-Thọ Phước
Hiệu đính: Định Huệ
Quyển 3
IX. CHƯ THÁNH ĐỒNG QUI
- Lựa chọn sinh về Cực lạc
Kinh Quán vô lượng thọ Phật ghi:
Bấy giờ bà Vi-đề-hi rơi lệ bạch Đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài nói cho con nghe nơi nào không có các điều lo lắng và khổ não để con nguyện sinh về nơi ấy; con không thích ở cõi Diêm-phù-đề xấu ác này nữa!”. Lúc ấy, đức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa chặng mày chiếu soi khắp thế giới mười phương, các cõi nước của chư Phật đều hiện ra trong đó. Bà Vi-đề-hi xem xong, hướng về Đức Phật bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Tất cả cõi nước của chư Phật đều thanh tịnh và có ánh sáng, nhưng nay con chỉ nguyện sinh về cõi Cực lạc của Đức Phật A-di-đà!”.
- Vãng sinh vô số
Kinh Đại vô lượng thọ ghi:
Bồ-tát Di-lặc hỏi Đức Phật: “Ở thế giới này có bao nhiêu vị bồ-tát vãng sinh Cực lạc?”.
Đức Phật đáp: “Ở thế giới này có sáu mươi hai ức vị bồ-tát bất thoái chuyển[15] vãng sinh cõi Cực lạc; còn bồ-tát tiểu hạnh[16] thì không thể tính kể. Không chỉ ở cõi Ta-bà này mà các cõi của chư Phật ở phương khác cũng vậy; như cõi nước của Phật Viễn Chiếu có một trăm tám mươi ức vị bồ-tát đều được vãng sinh. Cho đến cõi nước của chư Phật mười phương, bồ-tát vãng sinh cũng nhiều vô số, nếu Ta nói đầy đủ thì một kiếp cũng không thể nói hết được.
Ghi chú:
Thế giới này và cõi nước phương khác, bồ-tát vãng sinh nhiều vô số, nếu như vậy thì cõi Tịnh độ làm sao dung chứa hết? Ôi! Biển lớn còn chứa hết tất cả trăm sông, hư không hàm chứa cả thiên la vạn tượng và vô biên cõi nước đều nằm trong một lỗ chân lông của bồ-tát Phổ Hiền. Vì thế, một chút đất dính trên đầu mũi kim ở Tịnh độ có thể dung chứa vô số nguời vãng sinh, há chẳng rộng lớn sao! Vậy còn cõi nước nào rộng lớn hơn ư!
- Thấy Phật Di-đà
Kinh Quán Phật tam-muội ghi:
Đức Phật thụ kí cho bồ-tát Văn-thù vãng sinh về cõi Cực lạc. Bồ-tát Văn-thù phát nguyện và nói kệ rằng:
Con nguyện lúc mạng chung
Diệt trừ các chướng ngại
Thấy được Phật Di-đà
Vãng sinh cõi Cực lạc.
Sinh về nước kia rồi
Con đầy đủ đại nguyện
A-di-đà Như Lai
Hiện tiền thụ kí con.
- Tu mười nguyện cầu vãng sinh
Kinh Hoa nghiêm ghi:
Bồ-tát Phổ Hiền đưa ra mười đại nguyện ban trải rộng khắp để chúng sinh tu tập cầu sinh Tịnh độ. Ngài nói kệ:
Cầu nguyện lúc con sắp mạng chung
Diệt trừ tất cả các nghiệp chướng
Nhìn thấy Đức Phật A-di-đà
Liền được vãng sinh cõi Cực lạc.
Ngài lại nói:
Chúng hội Phật kia đều thanh tịnh
Lúc con sinh vào trong hoa sen
Liền thấy Như Lai Vô Lượng Quang
Hiện tiền thụ kí con thành Phật.
Ghi chú:
Bồ-tát Văn-thù là thầy của bảy Đức Phật; mười hạnh nguyện Phổ Hiền là nơi muôn hạnh hướng về mà cầu vãng sinh Tịnh độ, nhưng hai ngài đều ân cần nhắc nhở. Người phụ tá Đức Phật Thích-ca ở Ta-bà cũng tức là người hầu cận đức Di-đà ở An Dưỡng. Việc ấy rất rõ ràng, nếu ai khinh thường Tịnh độ mà không nguyện vãng sinh thì rất sai lầm vậy!
- Kệ luận về Tịnh độ
Bồ-tát Thiên Thân, người Thiên Trúc, là tác giả của nhiều bộ luận. Ngài bay lên nội viện của trời Đâu-suất đỉnh lễ và hầu hạ bồ-tát Di-lặc. Sau đó, ngài lại trứ tác bộ Vô lượng thọ kinh luận và Tịnh độ kệ. Ngài dùng pháp tu năm môn[17] để khuyên mọi người cầu vãng sinh.
- Thỉnh tượng Phật
Bồ-tát Ngũ Thông cư trú tại chùa Kê-đầu-ma ở Thiên Trúc, vận thần lực đến nước An Lạc gặp Đức Phật A-di-đà và bạch:
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng sinh ở cõi Ta-bà muốn cầu sinh Tịnh độ, nhưng không thấy tượng Phật, thỉnh Ngài giáng trần!
Đức Phật dạy:
– Ngươi hãy về trước đi, Ta sẽ đến.
Lúc bồ-tát trở về thì đã thấy một tượng Phật và năm mươi tượng bồ-tát ngồi tòa sen ở trên ngọn cây. Bồ-tát Ngũ Thông liền cho chép thành truyện và lưu truyền rộng rãi, nên đặt tên là Cảm thông truyện.
Ghi chú:
Có người không tin: “Không nhờ thần lực mà có thể đến được nước An Lạc”. Than ôi! Một niệm vãng sinh, không nhọc khảy móng tay. Lẽ nào không được như thế sao!
- Tạo luận Khởi Tín
Bồ-tát Mã Minh là vị tổ thứ mười hai của Thiền tông Thiên Trúc, ngài trứ tác bộ luận Khởi tín[18]. Cuối quyển luận, ngài nói cầu sinh Tịnh độ là điều thiết yếu nhất.
- Bồ-tát Long Thọ được thụ kí vãng sinh
Kinh Lăng-già[19] ghi:
Đại Huệ! Ông nên biết: “Sau khi đức Như Lai nhập niết-bàn, đời sau có vị tì-kheo thụ trì pháp của Ta rất nỗi tiếng, hiệu là Long Thọ có thể phá các tông hữu và vô để hiển bày pháp Đại thừa[20] vô thượng của Ta khắp thế gian, chứng Sơ hoan hỉ địa, được vãng sinh nước An Dưỡng.
- Làm lành được vãng sinh
Kinh Đại-bi[21] ghi:
Đức Phật nói: “Sau khi Ta diệt độ, ở nước Bắc Thiên Trúc có vị tì-kheo tên Kì-bà-già tu tập vô lượng căn lành tối thắng bồ-đề. Sau khi ông mạng chung sinh về cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây, cách đây trăm nghìn ức thế giới, rồi ở chỗ Đức Phật A-di-đà tiếp tục gieo các căn lành, sau đó được thành Phật, hiệu là Vô Cấu Quang”.
- Đắc nhẫn vãng sinh
Kinh Bồ-tát sinh địa[22] ghi:
Đức Phật dạy: “Lúc Ma-sai-kiệt đắc Vô sinh pháp nhẫn[23], có năm trăm người nam và hai mươi lăm người nữ đều đắc Bất thoái chuyển. Sau khi họ mạng chung đều sinh về nước thanh tịnh của Phật Vô Lượng Thọ”.
Ghi chú:
Cầu sinh Tây phương là vì muốn ngộ Vô sinh nhẫn và lên Bất thoái địa. Khi đã đắc Nhẫn và Bất thoái mà lại cầu sinh Tịnh độ, là vì bồ-tát muốn gần gũi Như Lai nên làm như thế. Nay hàng phàm phu bị trói buộc là do sức nhẫn chưa đầy đủ, người bị lui sụt thì nhiều vô kể mà lại không để tâm cầu sinh Tịnh độ là sao! Vì thế gọi họ là những kẻ thật đáng thương xót.
- Đại nguyện thứ hai
Kinh Bồ-tát nội giới[24] ghi:
Bồ-tát có ba lời nguyện. Trong đó, lời nguyện thứ hai là: “Con nguyện lúc mạng chung được vãng sinh về nước của Phật A-di-đà”.
- Niệm Phật diệt tội
Luận Đại trí độ[25] ghi:
Có các vị bồ-tát tự nghĩ: “Phỉ báng kinh Đại Bát-nhã sẽ bị đọa vào đường ác, trải qua vô lượng kiếp, dù tu tập pháp môn khác cũng không thể diệt được tội”. Sau này họ gặp bậc thiện tri thức dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nên nghiệp chướng tiêu trừ, siêu sinh Tịnh độ.
Ghi chú:
Chí tâm niệm Phật một tiếng thì diệt được tội nặng trong tám mươi ức kiếp, điều này rất rõ ràng. Vì sao? Vì chí tâm niệm Phật. Nếu không chí tâm niệm Phật thì tội chướng không tiêu trừ. Chớ nói rằng, lời dạy của bậc thánh không có căn cứ!
- Đặt tên Thắng Hội
Thiền sư Trường Lô Trách noi theo tổ Huệ Viễn làm chuẩn mực, nên kiến tạo Liên Hoa Thắng Hội để khuyên mọi người niệm Phật. Một hôm, thiền sư nằm mộng thấy một người mặc áo trắng, chích khăn đen, dung mạo rất đẹp đến vái chào và nói: “Tôi muốn vào Liên Hoa Thắng Hội của ngài xin đặt một cái tên”.
Trường Lô Trách hỏi:
– Tên gì?
Người kia đáp:
– Tôi đã ghi tên là Phổ Tuệ rồi. Lại nói tiếp: “Anh của tôi tên là Phổ Hiền, đồng thời cũng xin được ghi tên gia nhập Thắng Hội”.
Trường Lô Trách tỉnh dậy và xem phẩm Li thế gian trong kinh Hoa nghiêm thì có tên hai vị bồ-tát này, liền đặt tên hai vị ấy đứng đầu Thắng Hội.
Ghi chú:
Phàm tăng mở hội niệm Phật các bậc thánh xưa ghi tên gia nhập nhiều lắm! Tịnh độ không phải là nhân duyên nhỏ. Bởi vì việc lập hội niệm Phật ấy phát xuất từ lòng chân thành nên thầm cảm thông linh ứng, có một điều gì giả dối được sao! Người tự cho mình tốt còn không them giả dối huống gì là cổ thánh! Nay có người cho rằng, sở dĩ gọi là hội niệm Phật là vì Trường Lô Trách thấy việc ấy. Thật là đáng buồn cho họ!
- Lược nêu các vị tôn túc
Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải là đệ tử nối pháp của Mã Tổ. Sư là trụ cột muôn đời của tòng lâm. Sư từng lập ra phương pháp cầu nguyện cho các vị tăng bị bệnh và đưa tiễn những vị tăng đã tịch đều quy hướng về Tịnh độ.
Thiền sư Hoàng Long Tân tham kiến ngài Giác Lão đắc được tông chỉ, nối pháp dòng phái Hoàng Long. Từ đó, tông phong hưng thịnh, nhưng sư hết lòng tu tịnh nghiệp. Sư có trứ tác Khuyến niệm Phật văn, được lưu hành ở đời, khiến mọi người phát khởi lòng tin.
Thiền sư Chân Hiết Liễu nối pháp dòng phái của ngài Đan Hà Thuần, là một tông phái của Tào Động. Đến đời sư thì tông phong hưng thịnh. Sau này, sư dựng một cái am tranh ở Bổ Đà tên là Cô Tuyệt, một lòng cầu sinh Tây phương. Sư giảng thuyết về Tịnh độ để khuyên nhủ bốn chúng tu tập.
Thiền sư Từ Thụ Thâm đắc pháp với ngài Trường Lô Tín. Sư chuyên tâm niệm Phật và cho rằng con đường tắt tu hành không gì qua Tịnh độ! Nên sư thiết lập đạo tràng Tây Phương, hết lòng khuyến hóa mọi người tu Tịnh độ, đến lúc qua đời được vãng sinh.
Pháp sư Thạch Chi Hiểu nối pháp của ngài Nguyệt Đường Tuân. Sư thông suốt kinh giáo, lấy pháp môn Tịnh Độ để dạy người. Sư từng sưu tầm các bộ sách trong Đại tạng nói về Tịnh độ; trong số đó có Lạc bang văn loại[26] được lưu hành ở đời.
Thiền sư Tịch Đường Nguyên học thiền với ngài Mật Am Kiệt. Sư dốc lòng hành trì pháp môn Niệm Phật tam-muội, cảm đến thần Kim Giáp từ trên trời bay xuống. Một hôm, sư nằm mộng thấy hoa sen đỏ từ dưới đất mọc lên. Do đó Liên Tông rất thạnh hành ở khắp mười châu.
Thiền sư Trung Phong Bổn đắc pháp với ngài Cao Phong Diệu, mọi người rất ngưỡng mộ sư như Thái Sơn và sao Bắc Đẩu. Sư có trứ tác Hoài tịnh độ thi gồm một trăm bài, được lưu truyền ở đời.
Đãi chế Vương Dĩ Ninh, tự xưng là đệ tử của Phật A-di-đà.
Hàn lâm Triều Duyệt Chi trả lời thư Triệu Tử Ngang, xưng tán Tây phương Tịnh độ là chân ngữ thật ngữ.
Đãi chế Trần Quán viết bi kí Tịnh Độ Viện của chùa Diên Khánh, trong đó ông cực lực tán dương pháp môn niệm Phật.
Tông chủ Ưu-đàm cư trú tại Thiện Pháp đường của chùa Đông Lâm ở Lô Sơn. Ông có trứ tác bộ Liên tông bảo giám[27] và phụng chiếu khắc bản lưu hành ở đời làm cho pháp môn Tịnh độ được trung hưng.
Ghi chú:
Bắt đầu từ ngài Bách Trượng, cuối cùng đến Ưu-đàm; trải qua nhiều đời các bậc tôn túc không ai mà không tu pháp môn Tịnh độ. Thật hưng thạnh quá!
Tổng luận
Thiền sư Thiên Như nói: “Người đời nay xem thường pháp môn Tịnh độ, chẳng phải là xem thường bọn đàn ông, đàn bà ngu dốt mà chính là xem thường các vị bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ vậy”. Cho nên tôi mới tập hợp các kinh để chứng thật những lời nói này. Hoặc có người còn nghi ngờ: “Hàng bồ-tát đạo lực đã lớn, gần giống với Phật rồi thì không nhất thiết phải cầu sinh Tịnh độ”. Ôi! Nếu chưa đạt được giai vị Diệu giác[28], dù ở giai vị Đẳng giác một ngày cũng không thể xa lìa Phật, huống là hàng phàm phu!
Bởi vì, cũng như người xưa từng nói: “Người có chức tước càng cao thì càng gần gũi với vua chúa; ngược lại, bọn khuân vác, kẻ cày bừa làm bạn với ngư phủ, tiều phu tự cho là đủ rồi, hoàn toàn không mong đến cung vua và miệng họ thao thao rằng: ‘Vị minh chủ đó không đáng để chúng tôi gần gũi’”. Thật đáng nực cười!
- SINH TỒN CẢM ỨNG
- Quỷ không dám ăn
Khi Đức Phật còn tại thế, có một nước ở gần với nước La-sát[29], người trong nước ấy bị la-sát tha hồ bắt ăn thịt. Vua ra lệnh từ nay tất cả người trong nước, cứ mỗi gia đình một ngày, theo thứ tự thay nhau đem người đến cho quỷ la-sát, đừng để nó giết càn.
Bấy giờ, có một gia đình theo đạo Phật, chỉ sinh được một đứa con, đến phiên gia đình ấy đem con dâng cho la-sát. Lúc đưa con đi, hai ông bà gào khóc thảm thiết và căn dặn người con phải chí tâm niệm Phật, vì oai lực của Phật sẽ làm cho quỷ la-sát không đến gần được. Sáng hôm sau, đến xem, thấy người con vẫn còn, họ vui mừng dẫn về nhà. Và kể từ đó không còn nạn bị quỷ la-sát ăn thịt nữa. Tất cả mọi người trong nước đều rất vui mừng.
- Nằm mộng thấy mình thông minh biện luận vô ngại
Thiền sư Nam Nhạc Huệ Tư sống vào đời Tùy, hết lòng thờ Phật. Một hôm, thiền sư nằm mộng thấy Đức Phật A-di-đà thuyết pháp cho nghe. Từ đó, thiền sư trí tuệ thông minh hơn người, biện tài vô ngại.
- Xả bỏ oán thù
Thiệu Bưu sống vào đời Đường, quê ở Trấn Giang, là một nho sinh thời bấy giờ. Một hôm, ông nằm mộng thấy mình đến phủ Nhất Công, mọi người gọi là An phủ sứ ti. Một lát sau, có một vị quan ra hỏi:
– Ông biết vì sao ông không thi đỗ chăng?
Thiệu Bưu đáp:
– Tôi không biết.
Nhân đó, vị quan dẫn ông đi lên phía trước, Thiệu Bưu thấy con hào nhỏ đang bị nấu ở trong một cái vạc lớn. Con hào ấy nói tiếng người và gọi tên ông; Thiệu Bưu sợ hãi liền niệm Phật A-di-đà, khi mới mở miệng niệm thì thấy con hào nhỏ biến thành chim hoàng tước bay đi. Sau đó, Thiệu Bưu ra thi trúng tuyển làm quan đến chức An phủ.
Ghi chú:
Sát sinh thì tài lộc đến muộn, niệm Phật thì giải được oán thù. Nay nho sinh cứu con vật từ trong vạc ra. Người cầu xin quỷ thần giúp đỡ mà không biết niệm danh hiệu Đức Phật thì sự mưu tính đó cũng dở. Người hiến pháp môn quý báu này, biết việc ấy cũng là nhờ vào kinh sách.
- Hai vợ chồng thấy Phật
Cát Tề Chi sống vào đời Tống, quê ở Cú Dung, là con cháu của Trĩ Xuyên nhiều đời học theo đạo tiên. Vợ của ông là họ Kỉ âm thầm chí thành niệm Phật. Đến niên hiệu Nguyên Gia mười ba (436), bà vừa ngồi vào khung cửi, bỗng thấy trên hư không có ánh sáng lạ, nhân đó bà rời khung cửi, ngắm nhìn bốn phương, thấy ở phương tây có Phật hiện ra và có tràng phan, bảo cái che rợp bầu trời. Bà vui vẻ nói: Trong kinh dạy: “Vô Lượng Thọ Phật lẽ nào là đây sao?”. Bà liền đến trước Phật đỉnh lễ, Cát Tề Chi kinh ngạc đến chỗ bà lạy Phật. Bà chỉ cho ông chỗ Phật hiện thì Cát Tề Chi chỉ thấy nửa thân của Đức Phật mà thôi, trong chốc lát rồi biến mất. Bấy giờ, trên hư không xuất hiện một đám mây lành năm màu, mọi người trong làng đều nhìn thấy. Từ đó, rất nhiều người tin theo Phật pháp.
- Quỷ không hiện
Trần Xí sống vào đời Tống, quê ở Long Thư, từng giết người. Về sau, thấy quỷ hiện ra, ông rất sợ hãi, liền niệm Phật A-di-đà thì quỷ không đến gần được. Nhân đó, ông niệm Phật mãi không ngớt nên quỷ chẳng còn hiện ra nữa.
Ghi chú:
Thiếu nợ mạng với quỷ, tại sao niệm Phật mà đuổi được quỷ đi? Bởi vì công đức oai thần của Đức Phật A-di-đà không thể nghĩ bàn. Niệm một câu danh hiệu Phật thì quỷ được siêu thoát, cho nên không hiện ra nữa. Những cấm chú tầm thường sao có thể đuổi được quỷ!
- Siêu độ vong linh
Trương Kế Tổ sống vào đời Tống, quê ở Trấn Giang, một lòng tin sâu về Tây phương Tịnh độ. Lúc mẹ qua đời, ông thường niệm Phật để siêu độ vong linh. Một hôm, ông nằm mộng thấy mẹ trở về nói cảm ơn: “Nhờ con niệm Phật mà mẹ được sinh về đường lành!”.
- Ngủ nghỉ được an ổn
Lưu Trọng Tuệ sống vào đời Tống, quê ở Trường Hưng, Hồ Châu. Ông bị bệnh, ban đêm ngủ thường thấy ác mộng. Có người chỉ cho ông niệm Phật, nên một đêm ông chí thành niệm Phật lớn tiếng một trăm lẻ tám câu, rồi mới ngủ thì đêm ấy tinh thần ông được an ổn. Từ đó, ông niệm Phật mãi không ngớt.
Ghi chú:
Người xưa dụ việc ngủ mê như là chết phần nửa, lời nói này thật là hay. Bởi vì điên đảo, mộng mị so sánh với sự mê muội của sinh tử thì làm sao giấc ngủ an ổn được. Lúc sắp mạng chung, mong được một chút tự do thì phải vâng theo lời đại sư Thiện Đạo dạy mọi người trước khi sắp ngủ phải niệm Phật!
- Mắt mù sáng lại
Chị dâu thứ ba của ông Nguyễn Niệm sống vào đời Tống, là một phụ nữ làm nghề nông ở Hoài Ninh. Hai mắt của bà sắp mù, nên bà thường niệm Phật mãi không ngớt thì hai mắt sáng lại.
- Mắt mù sáng lại
Có người phụ nữ họ Sài hai mắt bị mù. Bà siêng niệm Phật suốt ba năm không chút xao lãng thì hai mắt của bà sáng lại như cũ.
Ghi chú:
Ánh sáng của Đức Phật A-di-đà vô lượng, chiếu soi đến khắp các cõi nước ở mười phương, nếu người nào chí tâm niệm danh hiệu Ngài, dù con mắt thịt không sáng trở lại, mắt tâm cũng được bừng sáng. Nhưng vì người mù thời nay thường làm thầy bói, tạo thêm nghiệp sát; đó gọi là từ chỗ tối đi vào trong tối, mãi mãi không bao giờ thấy được mặt trời. Than ôi! Làm sao tôi có thể đem pháp môn niệm Phật này chỉ bảo cho tất cả người mù trên thế gian này!
- Bệnh sốt rét không phát tác
Lý Tử Thanh sống vào đời Tống, bị bệnh sốt rét đã lâu. Thấy vậy, cư sĩ Long Thư khuyên: “Khi lên cơn sốt ông nên nhất tâm niệm Phật, rồi sau đó mới uống thuốc”. Tử Thanh nghe lời và làm theo. Ngày đầu thấy cơn sốt giảm một nửa, ngày thứ hai ông tiếp tục niệm Phật thì cơn sốt dứt hẳn. Từ đó, ông dốc lòng niệm Phật.
- Xá-lợi hiện ra
Vợ của Liêm Trung đại phu ở Cống Châu, sống vào đời Tống, thêu một bức tượng Đức Phật A-di-đà cao một trượng sáu, mới thêu được một nửa, bỗng xá-lợi hiện ra chiếu sáng trong đường tơ, cả nhà đều kinh ngạc và khen ngợi.
- Xá-lợi hiện ra
Phu nhân của Thiếu sư Chung Li họ Nhâm ở Chân Châu, khắc một pho tượng Phật A-di-đà cao bốn tấc tám phân, thờ trong cái khám rất trang nghiêm, bà thường đội lên đầu hành đạo. Một hôm, bà bỗng thấy ở chặng giữa lông mày của pho tượng hiện ra viên xá-lợi lớn như hạt gạo, ánh sáng chiếu đến thân mọi người.
- Trị bệnh đều lành
Vào đời Tống, ở Tú Châu có một vị tăng thường niệm danh hiệu Phật A-di-đà để trị bệnh cho mọi người. Bất cứ ai bệnh mời sư đến trị đều lành cả. Người trong Châu kính tin sư như kính tin Đức Phật.
- Tù nhân thoát nạn
Vào mùa đông niên hiệu Chí Chính mười lăm (1355) đời Nguyên, Trương Sĩ Thành đem quân tấn công Hồ Châu giao chiến với Thừa tướng Giang Chiết, bắt được bốn mươi người, giam cầm giải về giao cho quan phủ. Trên đường đi, họ được nghỉ qua đêm tại chùa Điểu Khòa ở Tây Hồ. Đêm đó, tình cờ họ thấy thiền sư Đại Du Mưu tản bộ dưới hành lang chùa. Trông thấy sư tinh thần ung dung, nhàn nhã trì tụng suốt đêm, họ nói:
– Xin Trưởng lão cứu chúng tôi!
Sư nói:
– Tôi không thể cứu các người. Chỉ cần các người chí thành niệm “Nam mô Cứu Khổ Cứu Nạn A-di-đà Phật” thì mới cứu được các người.
Trong đó, có ba người tin và làm theo lời sư chỉ dạy, miệng niệm Phật không ngớt. Sáng hôm sau, trước khi áp giải tù nhân đi, sai dịch kiểm tra lại gông và xiềng, khi kiểm tra đến ba người kia thì phát hiện họ không có mang gông, đeo xiềng mà chỉ bị trói bằng dây. Sau đó, hỏi ra mới biết họ là dân lành bị bắt làm tù binh. Cuối cùng cả ba người đều được tha về.
Ghi chú:
Trong phẩm Phổ môn ghi:
Hoặc giam giữ, xiềng xích,
Tay chân bị gông cùm,
Do sức niệm Quán Âm,
Tháo ra được giải thoát.
Từ xưa đến nay mọi người thường tin như vậy. Vì thế, nói niệm Phật cũng được thoát nạn hoặc có người còn chưa tin. Những người này quen theo thói thường. Hơn nữa, oai lực của Phật lại vượt trội hơn bồ-tát không biết bao nhiêu lần mà họ không biết. Nếu tay chân bị chặt mà niệm Thích-ca Như Lai thì tay chân tự mọc lại! Tay chân còn mọc ra lại thì gông cùm, xiềng xích có nghĩa gì! Nhưng vì người tin điều đó quá ít, cho nên tôi ghi việc này ra đây.
Tổng luận
Mọi người biết pháp môn Niệm Phật chỉ có lợi ích khi chết mà không biết nó có lợi ích lúc còn sống. Cho nên nghe nói trì chú được linh nghiệm thì họ chuyển sang trì chú, nghe nói giảng thuyết được trí tuệ, hùng biện liền quay qua giảng thuyết, nghe nói xây dựng chùa tháp được phúc báo, nghe nói thiết trai cúng dường thì kết duyên với nhiều người, cho đến nghe nói chăm sóc, nuôi dưỡng người thì được sống lâu; ngoài ra, còn nhiều việc khác nữa chưa từng thực hiện, thì đâu thể nào nhất tâm bất loạn để mong thành tựu tịnh nghiệp!
Cho nên tôi biên soạn bộ Vãng sinh tập này, vì để ngăn chặn sự hướng ngoại của người hiện giờ. Thật ra mà nói thì việc cầu sinh Tịnh độ vốn là vì thành Phật độ chúng sinh, chứ chẳng phải cầu sự an lạc cho thân sau. Như vậy, có nên cầu sự lợi lạc cho thân trước hay không?
Bài bạt Vãng sinh tập
Ở Tây phương có Đức Phật triển khai bốn mươi tám lời nguyện của tì-kheo Pháp Tạng, công viên, quả mãn thành bậc Chính giác hiệu là A-di-đà. Ngài thường phóng ánh sáng lớn để ngăn tất cả các đường ác; mở to mắt tuệ để diệt trừ sự mê muội ở cõi này (Ta-bà). Cõi nước của Ngài có ngọc báu trải đất, bảo châu ngất trời, trong ao nước tám công đức, hoa phát ra ánh sáng đủ màu; thân tướng và cõi nước vi diệu vô cùng, hoàn toàn không hai.
Bởi vì, đất báu kia tuy xa tít song thật không thể lìa cõi này. Vả lại, thần thức tuy có đi nhưng chưa bao giờ tách khỏi tự tâm. Tu hành có cao có thấp, lợi ích có sâu có cạn; nhưng nếu tin vào pháp môn niệm Phật thì rất gần chứ chẳng xa, nếu không tin pháp môn niệm Phật thì càng xa lại không có người đến. Người nào có lòng tin kiên cố, thực hành cần mẫn thì chỉ trong chừng khoảng một sát-na đã vượt qua biển khổ; thế thì sao chẳng to tiếng niệm Phật mà đành cam chịu ở mãi trong mê mờ! Nay nói ý chuyên nhất mà không loạn động là mẹ của các điều thiện; chẳng những thuần nhất mà còn không xen tạp là gốc của các hạnh. Người tu tịnh nghiệp sở dĩ chẳng lo cái gốc, vì cái gốc đã vững vàng thì đạo mới phát sinh. Người đã đạt được Niệm Phật tam-muội, dù đi giữa cõi trần vẫn vững vàng không bị nghiêng ngã, nếu gặp phải gió nghiệp cũng chắc chắn không bị lật đổ. Người xưa có nói: “Người cầu vãng sinh Tịnh độ thì dù hợp sức của mười nghìn con trâu cũng không kéo lại được”. Trong đó, tin sâu là “công”, vãng sinh là “dụng”; người nào có đức cao thì dễ dàng đạt được.
Nay có một vị đại đức hiệu là Liên Trì thiền sư, họ Thẩm, người ở đất Cổ Hàng, pháp húy là Châu Hoằng, khi mới sinh ra, sư vốn đã thông minh hơn người, chán đời sống thế tục. Thuở nhỏ sư được dạy dỗ, học hành đàng hoàng và cũng được ít tiếng tăm. Vì sư thấy được cuộc đời vô thường, nên năm ba mươi mốt tuổi, sư xin xuất gia với hòa thượng Vô Môn Đỗng Tánh Thiên Lý. Sau đó, sư xin thọ giới cụ túc với luật sư Vô Trần Ngọc ở chùa Chiêu Khánh. Sau khi thọ giới cụ túc xong, sư khăn gói lên đường, đi khắp nơi tìm thầy học đạo, tham yết các bậc thiện tri thức, tinh thông cả tông và giáo. Về già, sư trụ tại chùa Vân Thê, nối bước thiền sư Phục Hổ[30] tận tâm xiển dương tông Tịnh độ. Vì mến mộ đạo phong của ngài Huệ Viễn, nên sư niệm Phật cầu vãng sinh và làm rạng rỡ tông phong hơn xưa. Tác phẩm của sư có khoảng vài ba bộ, nay chỉ chọn lấy một bộ trong số đó, chính là bộ Vãng sinh tập này để lưu hành ở đời. Các bậc hiền nhân đời trước có hiếu; những người học đời sau có truyền tụng. Cho nên người xưa nói: “Thấy người tài đức vẹn toàn mình phải cố gắng phấn đấu để được như họ”. Nay tôi noi theo các vị ấy để tiến thân.
Than ôi! Người nào tự đề cao mình mà xem thường Tịnh độ thì hiện đời bị tủi nhục, đời sau chuốc lấy khổ lụy. Vì thế, tôi đặc biệt phổ cáo cho các người tu tịnh nghiệp phải hết sức cẩn thận.
Mặc dầu, sự tích của các bậc hiền thánh nhiều đời thường được ghi chép lại thành truyện, lục, nhưng vì biết người đời sau hoang mang nên ngài Châu Hoằng mới tập hợp các truyện biên soạn thành một bộ riêng, đồng thời cắt bỏ những chi tiết rườm rà, thêm vào những chỗ thiếu sót và phân thành chín loại. Lại thêm vào những truyện mới được nghe và làm lời giải thích cho các truyện, làm sáng tỏ những nghĩa hàm ẩn trong đó. Kẻ tăng, người tục, kẻ ẩn, người hiện đều được biên tập và sắp xếp theo từng loại. Có thể ví truyện này giống như nấu chảy hoa tai, trâm, vòng đeo tay trong một cái vạc; như các dòng song, sông Hoài, sông Tế đều chảy về biển cả. Sở học của tôi kém cỏi, thật hổ thẹn với người đời sau, lại thêm văn chương vụng về và chưa đầy đủ, rõ ràng. Nay đem khắc bản lưu hành ở đời, chỉ mong người xem, chuyên tâm, tinh tấn sớm tỉnh ngộ, tin sâu, nguyện thiết cùng lên núi Tam-miệu[31], đồng vào biển Tát-vân[32].
Ngày Tự tứ (rằm tháng 7) năm Nhân Thìn (1652), niên hiệu Khánh An.
Du Tăng họ Hiên, Thích Huệ Cánh ghi lời bạt.
——————————————————
[15] Bất thoái chuyển 不退轉 (S: avinivartanīya): không thoái chuyển. Chỉ sự tu hành không lui sụt cho đến khi thành Phật.
[16] Bồ-tát tiểu hạnh 菩薩小行: là bồ-tát mới phát tâm.
[17] Năm môn (Ngũ môn 五門): 1. Môn lễ bái, 2. Môn tán thán, 3. Môn tác nguyện, 4. Môn quán sát, 5. Môn hồi hướng.
[18] Luận Khởi tín (Khởi tín luận 起信論): Cg: Đại thừa khởi tín luận. do bồ-tát Mã Minh tạo. Có hai người dịch: Một là Chân Đế dịch vào đời Lương, 1 quyển. Hai là Thật-xoa-nan-đà dịch vào đời Đường, 2 quyển. Nội dung khuyên người khởi lòng tin chân chính đối với Tam bảo. Luận này nói lên lí cùng tột của giáo lí Đại thừa.
[19] Kinh Lăng-già (Lăng-già kinh 楞伽經, S: Laṅkāvatāra-sūtra): Cg: Lăng-già-a-bạt-đa-la Bảo kinh, 4 quyển, do ngài Cầu-na-bạt-đa-la dịch vào năm 443, được xếp vào Đại chính tạng, tập 16. “Lăng-già” là tên núi; “A-bạt-đa-la” nghĩa là nhập, tức là bộ kinh quí được Đức Thế Tôn nói khi Ngài vào núi Lăng-già, là 1 trong sáu bộ kinh được tông Pháp Tướng y cứ.
[20] Đại thừa 大乘 (S: mahā-yāna): vốn chỉ phương tiện chuyên chở lớn như xe cộ, thuyền bè… trong kinh điển thường dùng từ này để dụ cho giáo pháp sâu xa vi diệu của Đức Phật có thể chuyên chở vô lượng chúng sinh từ bờ phiền não đến bờ giải thoát.
[21] Kinh Đại-bi (Đại-bi kinh 大悲經, S: Mahā-karuṇā-puṇḍarīka): kinh, 5 quyển, do ngài Na-liên-đề-da-xá ở chùa Thiên Bình dịch vào năm 570, được xếp vào Đại chính tạng, tập 12. Nội dung kinh này ghi chép lúc Đức Phật sắp Niết-bàn, truyền trao chính pháp cho tôn giả Ca-diếp và A-nan, đồng thời tuyên dạy công đức cúng dường xá-lợi và cách thức kiết tập.
[22] Kinh Bồ-tát Sinh Địa (Bồ-tát Sinh Địa kinh 菩薩生地經): kinh 1 quyển, do Ngô Chi Khiêm dịch. Nội dung là do trưởng giả Ma-sai-kiệt Thích Chủng thưa hỏi: Tu pháp môn nào cho mau thành Phật? Đức Phật đáp: Hãy dùng Tứ sự của Nhị chủng, đây là pháp tu có thể sinh quả Phật.
[23] Vô sinh pháp nhẫn 無生法忍 (S: anutpattika-dharma-kṣānti): một trong ba nhẫn, nhẫn thứ tư trong năm nhẫn nói trong kinh Nhân vương, tức là quán lý không sinh không diệt của các pháp, nhận kỹ lý ấy, an trụ tâm bất động.
[24] Kinh Bồ-tát Nội giới (Bồ-tát Nội giới kinh 菩薩內戒經): gồm 1 quyển, do ngài Cầu-na-bạt-ma dịch vào đời Lưu Tống. Nội dung là vào Đức Phật thuyết giới ngày 15. Bồ-tát Văn-thù hỏi: Bồ-tát đạo, tục mới phát tâm phải tạo công đức gì để Đức Phật nói 12 thời giới pháp?
[25] Luận Đại Trí Độ (Đại Trí độ luận 大智度論, S: Mahāprajñāpāramitaśastra): Cg: Trí độ Luận. Đây là bộ luận gồm 100 quyển, do Bồ-tát Long Thụ soạn, ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Hậu Tần, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 25. Nội dung luận này giải thích kinh Đại Phẩm Bát-nhã, luận này giải thích rất rõ ràng về học thuyết, tư tưởng, dụng lệ, truyền thuyết, lịch sử, địa lí, qui định thực tiễn, Tăng già.
[26] Lạc Bang văn Loại 樂邦文類: tác phẩm, 5 quyển do ngài Tông Hiểu (1151-1214) biên soạn vào đời Nam Tống, Trung Quốc, hoàn thành vào năm 1200, được xếp vào Đại chính tạng, tập 47. Nội dung biên tập những bài văn trọng yếu có liên quan đến các kinh luận của tông Tịnh độ, cho đến những trước thuật, thi kệ và truyện kí của các vị tăng.
[27] Liên Tông Bảo Giám 蓮宗寶鑑: Cg: Lô Sơn Liên Tông Bảo Giám Niệm Phật Chính Nhân. Tác phẩm, 10 quyển, do ngài Phổ Độ biên soạn vào đời Nguyên, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 47. Sách này dựa trên tông chỉ Niệm Phật tam-muội của ngài Lô Sơn Huệ Viễn để soạn thành.
[28] Diệu giác 妙覺: giai vị cuối cùng trong quá trình tu hành của bồ-tát Đại thừa, đã trừ sạch vô minh, chứng được trí tuệ không thể nghĩ bàn. Đây là 1 trong 42 giai hoặc 52 vị bồ-tát.
[29] La-sát 羅剎 (S: rākṣasa): loại ác quỉ trong thần thoại Ấn Độ, được thấy ghi đầu trong bộ Lê-câu-phệ-đà. Tương truyền La-sát nguyên là tên gọi dân tộc Thổ Trứ ở Ấn Độ, sau khi người Arya chinh phục Ấn Độ, La-sát trở thành một Đại danh từ chỉ kẻ ác, dần dần dùng gọi chung cho loài ác quỉ. Quỉ La-sát có sức thần thông, có thể bay nhanh trong hư không hoặc đi nhanh trên mặt đất, bạo ác đáng sợ.
[30] Thiền sư Phục Hổ 服虎禪師: là hiệu của thiền sư Chí Phùng, người đời Tông, niên hiệu Càn Đức thứ năm (967), sư ở núi Vân Thê, sư hang phục được hỗ, nên được gọi là Phục Hổ thiền sư.
[31] Tam-miệu 三藐: nói đủ là Tam-miệu tam-bồ-đề. Cựu dịch (La-thập) là Chính Biến Tri, tân dịch (Huyền Trang) là Chính Đẳng Giác.
[32] Tát-vân 薩雲: nói đủ là Tát-vân-nhã: Hd: Nhất thiết trí tức là Phật trí.
[/vc_column_text][/vc_column][/vc_row]