VẠN THIỆN ĐỒNG QUY TẬP
Thiền Sư Vĩnh Minh
Việt dịch: Thích Minh Thành
Quyển Hạ
Một niệm nhanh chóng viên mãn thì ba đức đầy đủ, chưa có một pháp nào có thể vượt khỏi nguồn tâm.
Giả sử tu hành vạn hạnh cũng đều từ nơi chơn pháp giới mà thành tựu, hoặc đối trị tập khí nên dùng Tri kiến Phật đoạn trừ. Gọi là không thành mà thành, chẳng trở ngại diệu hạnh; không đoạn mà đoạn, như thế thì đâu trở ngại sự viên tu. Cảnh trái ngược cực ác còn giúp tăng tri thức, việc lành đức tốt lẽ nào chẳng phải là con đường dẫn đến giác ngộ?
Hỏi:
Tại sao không trực tiếp thấu suốt Bản tế? Gốc đã lập, đạo pháp sanh, nếu trình bày rộng về những môn tu hành, e rằng sẽ bị ngưng trệ.
Đáp:
Lý là gốc của đạo, hạnh là ngọn của đạo.
Do gốc mà có ra ngọn, nếu không có gốc, ngọn sao có thể thi hành. Nhân ngọn mà hiển bày cội gốc; không có ngọn, cội gốc đâu thể đứng riêng được. Thế nên nói, gốc và ngọn tuy khác nhau, nhưng chỗ Chẳng Thể Nghĩ Bàn chỉ có một. Do đó nên biết, trước thấu rõ tông chỉ rồi mới có thể tiến đạo, nếu một bề đuổi theo cành ngọn thì thật có sự trở ngại.
Trong kinh nói:
“Không có ai chẳng thấu rõ Chân như mà có thể thành tựu đạo hạnh. Nếu không cũng giống như việc huyễn, dường như có mà chẳng phải thật. Vả lại, người căn cơ viên đốn tiếp nhận nhanh chóng, tuy có sự phá trừ (Quán Không) và chiếu soi (Quán Giả) mà vẫn không trệ ngại.
Ngay nơi sự phá trừ mà chiếu soi, nên phủ định cả hai mà thực hành cả hai. Ngay nơi sự chiếu soi mà phá trừ cho nên thực hành cả hai mà trừ dẹp cả hai. Chẳng hủy hoại cội gốc mà thường vận dụng cành ngọn nên vạn hạnh dấy khởi. Chẳng hủy hoại cành ngọn mà an trụ cội gốc cho nên nhất tâm hằng lặng lẽ”.
Hỏi:
Kinh Pháp Cú nói: “Nếu tâm không dấy khởi, đó là sự tinh tấn không có bờ mé”. Tại sao lại thiết lập sự tướng, dấy khởi tâm tư, trái ngược với đạo vô tác?
Đáp:
Ngay nơi tâm mà vô tâm, Sự chẳng trở ngại duyên.
Thế nên Quốc sư Hiền Thủ nói:
“Bản thể của duyên khởi lặng lẽ, tuy sanh khởi mà thường chẳng khởi. Thấu suốt thể tánh tùy duyên, tuy không sanh khởi mà thường sinh khởi”.
Kinh Đại Tập nói:
“Đức Phật bảo rằng tinh tấn có hai loại:
– Một là tinh tấn mới phát.
– Hai là tinh tấn thành tựu rốt sau.
Bồ Tát dùng sự tinh tấn mới phát tu tập thành tựu tất cả pháp lành, dùng sự tinh tấn thành tựu rốt sau phân biệt tất cả pháp chẳng có tự tánh”.
Trong kinh Kim Quang Minh nói, tuy được Phật quả mà tinh tấn không ngơi nghỉ, cho nên ở trước đại chúng lạy đống xương khô. Huống gì những kẻ phàm phu khoanh tay không làm mà có thể thành tựu được sao? Do đó Mười tám pháp Bất cộng có pháp Tinh tấn Vô giảm.
Luận Đại Trí Độ nói:
“Bồ Tát biết tất cả sự tinh tấn đều là hư vọng mà thường thành tựu Bất thối chuyển. Như thế gọi là tinh tấn chân thật”.
Hỏi:
Tất cả pháp rỗng không, đều trở về vô tướng. Tại sao lại trình bày các điều lành, sanh khởi tâm hữu tướng?
Đáp:
Do các pháp rốt ráo không có gì nên có sự thực hành muôn điều lành. Nếu các pháp có tánh quyết định thì tất cả không thể thiết lập.
Vì vậy kinh Bát Nhã nói: “Nếu các pháp chẳng phải là không thì không có đạo, không có quả”.
Kinh Pháp Cú nói: “Bồ Tát ở trong tánh không rốt ráo mạnh mẽ kiến lập các điều lành”.
Kinh Kim Cang Tam Muội nói:
“Nếu nói có một pháp thì tướng của nó giống như hoa đốm giữa hư không, giống như sóng nắng. Do si mê điên đảo mà có ra các thứ hư vọng.
Nếu thấy pháp là không thì các pháp đồng với hư không, như người mù không có mắt, nói một cách điên đảo rằng các pháp giống như lông rùa”.
Kinh còn nói: “Thà chấp Có như núi Tu Di, không nên chấp Không như hạt cải”.
Trong Luận nói:
“Ở trong Thật tướng của các pháp tìm tướng quyết định không thể được, cho nên gọi là vô sở đắc. Nhưng chẳng phải là không có phước đức, trí tuệ tăng trưởng căn lành”.
Lại nói:
“Người tà kiến phá dẹp các pháp để phù hợp với Không. Người quán xét về Không, biết Tánh chân không của các pháp chẳng phá chẳng hoại. Ví như kẻ quê mùa ban đầu chẳng biết muối, thấy người giàu sang dùng muối nêm vào rau thịt để ăn.
Người ấy hỏi:
– Tại sao làm như thế?
Người giàu kia đáp:
– Muối này có thể làm cho vị của thức ăn ngon hơn.
Người ấy bèn suy nghĩ, muối này có thể làm cho các thức ăn ngon hơn vì vị của nó chắc chắn rất ngon. Kẻ quê mùa bèn vốc muối cho vào đầy miệng mà ăn nên bị dọp lưỡi, bỏng miệng.
Lúc đó, người ấy hỏi rằng:
– Tại sao ông nói muối có thể làm ngon thức ăn?
Người giàu sang bảo kẻ ngu ấy:
– Cần phải lường xét nhiều ít để hòa vào làm cho thức ăn ngon, tại sao ông chỉ ăn muối?”.
Người vô trí nghe về Không – Giải thoát môn thì chẳng thực hành các công đức, chỉ muốn đạt được tánh không, đó là tà kiến đoạn dứt các căn lành.
Đại sư Huệ Viễn ở Lô Sơn giải thích kinh Niết Bàn: “Hỏi rằng:
– Nếu không được gì tại sao làm điều lành?
Đức Phật đáp:
– Biết rõ tánh Phật vốn có nơi các chúng sanh ắt sẽ đạt được quả, giống như đứa bé ở trong thai nhất định nhất định sanh ra. Cho nên theo lý cần phải tu thiện.
Lại nói:
– Nay tôi không biết chỗ tiến vào, làm sao làm điều lành?
Đức Phật đáp:
– Có Như Lai Tạng có thể tiến vào, nên tu tập nghiệp lành”.
Hoằng Minh Tập nói:
“Hoặc có người chấp chặt vào Không một cách sai lầm, phát sanh cái thấy đoạn diệt. Khi nói về Không nơi miệng dường như giống nhau; lúc dùng về Không thì nơi tâm lại khác biệt.
Chánh pháp dùng Không để trừ bỏ tham đắm, tà thuyết dùng Không để bồi đắp ái nhiễm. Đại Sĩ thể hội tánh không tiến triển đạo đức, tiểu nhân nói về tánh không để thối lui điều lành. Bởi do, dùng lời chân chánh một cách trái ngược nên phát sanh tà chấp”.
Chẳng quán xét tánh không để diệt trừ khổ lụy, chỉ bám vào Không mà phế bỏ mọi việc lành. Vả lại, các pháp thiện ác vốn đồng với Không vô tướng. Song, pháp lành thì hỗ trợ tiến đạo, pháp ác lại phát sanh nghiệp chướng.
Nên biết Chân tánh của muôn pháp vốn đồng nhất như, trong pháp nhân duyên chẳng ngại gì có muôn ngàn sai khác.
Thế nên, trong kinh nói: “Tin sâu nhân quả, chẳng phỉ báng Đại thừa”.
Nhân quả ba đời, Đức Phật chẳng lừa dối. Bậc Thập lực khuyên dạy, người nghe chớ nên nghi ngờ. Sao lại bảo rằng thiện ác đều rỗng không, không có sự tổn hại và lợi ích? Pháp nhãn sáng tỏ chẳng có pháp gì chẳng rõ; tướng lưỡi rộng dài mỗi lời nói đều chân thật.
Phân tích về Có thì một cọng lông chia thành muôn vạn, nói về tánh không bình đẳng thì vạn vật đều đồng nhất. Ngăn ngừa lỗi lầm chấp đoạn-thường nên dẹp trừ cả bệnh Không lẫn bệnh Có.
Kẻ chê bai bậc Thánh ắt gặp điều ác, người thuận với đạo rốt cuộc được tốt lành. Chớ bảo rằng không tin, điều đó rõ ràng như mặt trời giữa ban ngày. Cho nên Trung Luận nói:
“Chư Phật nói về pháp Không là vì để trị bệnh chấp Có. Nếu lại chấp trước vào Không thì chư Phật chẳng thể hóa độ”.
Kinh Kim Cang Tam Muội nói:
“Nếu rời Không mà lấy Có, phá dẹp Có mà lấy Không thì đó là cái không giả dối, chẳng phải là cái không chân thật. Nay tuy rời Có mà chẳng ở nơi Không, như thế mới được cái không chân thật của các pháp”.
Do đó Triệu Luận nói:
“Nếu lấy Có làm Có thì lấy Không làm Không. Có đã chẳng phải là Có thì Không cũng chẳng phải là Không. Phàm chẳng ở nơi Không mà quán xét các pháp, có thể gọi là thấy được thật tánh của pháp”.
Tại sao lại lấy Không tổn hại Có, lấy Có tổn hại Không, trái với cội nguồn một vị, tạo thành sự sai lầm của cái thấy hai? Hoàn toàn là do dựa nơi ngôn ngữ mà làm mất đi nghĩa lý, bỏ trí theo tình.
Tuy bảo rằng phá dẹp Có mà chưa thấu suốt cội nguồn của Có, lại gượng chấp Không mà chẳng tỏ rõ trọn vẹn ý chỉ của Không. Nay sơ lược phân biệt rõ để làm tiêu tan sự ngăn trệ của tà chấp.
Phàm nói về “Có” chẳng phải là có mà có, cái có ấy chẳng phải là thật có. “Không” chẳng phải là không mà không, cái không ấy chẳng phải là cái không đoạn diệt.
Nếu quyết định là Có thì chẳng phải là huyễn có, phát sanh sự ngăn cách chướng ngại. Nếu rỗng tếch là Không thì đồng với hư không, không có diệu dụng.
Cho nên từ duyên mà Có là cái không chẳng có tự tánh. Cái không chẳng có tự tánh thì Không chẳng chướng ngại Có. Cái Có từ duyên mà có nên chẳng trở ngại Không. Có do Không mà thành lập, nên trở thành trí viên mãn hưng khởi vạn hạnh; Không từ Có mà sanh ra, do đó phát khởi tuệ nhiệm mầu mà Nhất chân thường rỗng lặng.
Lẽ nào lại đồng với kẻ chỉ chấp không phát sanh cái thấy đoạn diệt, nên biển phước khô cạn; dựa vào thật có khởi tâm chấp thường, do vậy ngọn núi ngã mạn ngất cao.
Vì thế chư Phật nói về Không là Không vô minh mà thành phước nghiệp, phá trừ Biến kế sở chấp<!–[if !supportFootnotes]–>[24]<!–[endif]–> để tỏ rõ trí Viên thành thật. Người ngu nói về Không thì phát sanh sự hiểu biết sai lầm, phỉ báng ý chỉ của chư Phật, tăng thêm chấp không và hủy diệt nhân lành.
Hơn nữa, nói về cái không đoạn diệt thì không thiện không ác không nhân không quả. Còn Đệ nhất nghĩa Không ắt có nghiệp có báo mà chẳng thấy người tạo ra.
Hỏi:
Sao chẳng thâm nhập vô sanh tự nhiên hợp đạo. Hữu vi nhiều lầm lỗi đâu có lợi ích cho người mới phát tâm?
Đáp:
Do nơi lòng từ bi thế gian mà tiến vào tâm từ bi chân thật, từ Sanh nhẫn mà đầy đủ Pháp nhẫn. Sự tu học có phân chia ban đầu và rốt sau, vị thứ đâu thể trình bày lẫn lộn. Vả lại, sanh tức là vô sanh lẽ nào vượt qua khỏi tánh không; vô vi tức là hữu vi thì đâu ra ngoài Thật tướng. Chỉ cần bỏ tâm thủ xả thì đạo lý Chân và Tục hiện bày.
Thế nên, kinh nói: “Bồ Tát chẳng bỏ hết hữu vi, chẳng trụ nơi vô vi”.
Pháp sư Tăng Triệu nói:
“Hữu vi tuy giả dối nhưng bỏ nó thì chẳng thành tựu sự nghiệp lớn. Vô vi tuy chân thật nhưng trụ nơi đó thì trí tuệ không tỏ sáng”.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Hiểu rõ thân Như Lai chẳng phải như hư không. Vì tất cả công đức vô lượng pháp vi diệu đều viên mãn”.
Kinh Đại Tập nói:
“Rời bỏ tâm đại từ mà quán xét về vô sanh, đó là việc làm của ma. Chán nản rời bỏ công đức hữu vi, đó là việc làm của ma”.
Hỏi:
Tánh đức vô lậu vốn tự đầy đủ, đâu cần nhờ vào sự tu hành bên ngoài mà tổn giảm đức lành ở bên trong?
Đáp:
Vốn tự có hai đức: Tu và Tánh, cùng hai duyên trong và ngoài. Nếu nói về Tánh đức vốn đầy đủ, cũng giống như lửa ở trong gỗ chẳng có tác dụng, phải nhờ Tu đức, giống như gặp nhân duyên cọ xát mới có thể phát ra lửa. Thế nên do Tu mà hiển bày Tánh, từ Tánh mà thành tựu sự Tu. Nếu vốn không có Tánh thì Tu cũng chẳng thành tựu. Tu và Tánh không hai, hòa hợp với nhau mới hoàn bị.
Vả lại bên trong có bản giác thường huân tập hạt giống Thánh, bên ngoài nhờ duyên lành hỗ trợ khai mở trí giác. Có trong mà thiếu ngoài thì sự giác ngộ chẳng viên mãn.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Pháp như thế, vì bên trong do có tánh giác bản hữu; bên ngoài do được thần lực của chư Phật hỗ trợ”.
Thế nên tu tập muôn điều lành thì thuận với Pháp tánh; dùng tịnh dẹp nhiễm, tánh đức mới phát khởi. Phàm phu vốn đầy đủ tánh đức vô lậu, nhưng do tạo điều ác nên trái ngược bản tánh. Bản tánh không hiển bày, vì vậy chẳng thành tựu diệu dụng.
Hỏi:
Quên duyên nhanh chóng thể nhập, trong giáo lý có nói rõ ràng. Nay tại sao lại sai lầm đuổi theo pháp nhân duyên?
Đáp:
Một môn Đốn giáo là pháp thích ứng cho hàng thượng căn. Quên duyên thanh tịnh tâm ý, đó là sự tu hành chân thật. Ở đây nói là vì người chấp trước vào pháp, sanh khởi cái thấy nghiêng lệch, một mực hủy hoại sự tướng, chẳng thấu rõ tông chỉ viên dung. Chỉ giải thích tình chấp hư vọng, lẽ nào lại dẹp trừ giáo pháp.
Cũng như một việc thấy Phật mà có năm cách nhìn khác nhau:
1/ Hàng Tiểu Thừa: thấy thân Phật tức là thân do cha mẹ sanh, ở ngoài tâm, có tướng hảo, phân chia ý thức huân tập, có sự phân biệt, chẳng biết nghĩa Duy thức nên thấy từ bên ngoài đến.
2/ Đại Thừa Sơ Giáo: thấy Phật chỉ là hóa hiện chẳng có tướng hảo, thật thể rỗng không, không có gì. Nên nói nếu từ nơi ba mươi hai tướng mà quán xét Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương tức là Như Lai.
3/ Đại Thừa Chung Giáo: thấy Phật tướng hảo quang minh, nhất nhất đều đồng Chân tánh, thân tức là chẳng phải thân, chẳng phải thân tức là thân, Lý-Sự vô ngại.
4/ Đốn Giáo: thấy Phật không có sự khác biệt trước sau thì đâu có sự ứng hiện khác nhau, cũng không có tướng hảo để thiết lập. Vì tất cả phân biệt chẳng phải lẽ thật, chỗ chân thật lìa niệm này gọi là thấy Phật.
5/ Nhất Thừa Viên Giáo: thấy Phật tức là chỗ chân thật lìa niệm này, chẳng những lý thể không sanh khởi hình tướng kia mà còn không trở ngại vạn vật hưng khởi. Đầy đủ y báo và chánh báo, bao quát Sự Lý, người và vật…tròn đầy sáng tỏ. Một sự vật khắp cả mười phương, tất cả thế giới thảy đều đồng thời ảnh hiện, giống như mạng lưới ngọc của Thiên Đế Thích.
Vả lại, một môn Duyên khởi, nếu là Đốn giáo thì chẳng nói về duyên khởi, tức là sự tướng làm cho chân lý chẳng hiện. Phải đợi tướng tiêu hết mới là thật tánh, nếu nói duyên khởi thì cũng như do mắt bệnh mà thấy hoa đốm giữa hư không. Nếu là pháp giới Viên giáo dấy khởi ắt một và nhiều thâu nhiếp lẫn nhau, hữu lực vô lực mới được thành lập. Một và nhiều vô ngại nhiếp nhập đồng thời, đó gọi là môn Đại duyên khởi.
Năm môn trên đều là lối vào còn chẳng quở trách Tiểu thừa, sợ phế bỏ môn quyền biến. Tại sao lại bài xích Viên giáo làm trở ngại đức chân thật?
Giáo lý Tông Thiên Thai nói:
“Nếu thấy Đại thừa không hoằng truyền giáo lý Tiểu thừa thì đánh mất môn phương tiện của Phật”.
Như các bậc Cao đức thuở xưa, dù có những lời nói bác bỏ cũng đều là vì mọi người mà dẹp trừ chấp trước. Thời nay chỉ bắt chước theo lời nói của các Ngài, nhưng chẳng biết ý của người xưa. Hơn nữa, hoàn toàn chưa bước vào môn Đốn giáo, chỉ phỉ báng bừa bãi, như thế thật rất lỗi lầm! Vậy phải nên thương xót họ.
Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Ly Thế Gian thuộc giáo lý Viên đốn nói rằng:
“Phật tử! Đại Bồ Tát phải suy nghĩ thế này:
Đạo Giác ngộ Chân chánh Vô thượng lấy tâm làm gốc. Nếu tâm thanh tịnh thì có thể viên mãn tất cả căn lành, ở nơi sự giác ngộ của Phật ắt được tự tại. Muốn thành tựu đạo Giác ngộ Chân chánh Vô thượng tùy ý liền thành tựu. Nếu muốn đoạn trừ tất cả duyên chấp thủ, trụ ở nơi nhất hướng đạo, ta cũng có thể làm được nhưng ta không đoạn trừ. Vì muốn đạt đến sự giác ngộ rốt ráo của Phật nên cũng không chứng ngay Vô thượng Bồ đề.
Tại sao?
Vì mãn bổn nguyện, thực hành hạnh Bồ Tát giáo hóa chúng sanh cùng tận tất cả thế giới. Đó là tâm thệ nguyện Đại thừa giống như Kim cang”.
Thế nên, đuổi theo duyên trái với bản tánh, tích lũy tạp nhiễm thì trở thành phàm phu; lìa duyên cầu chứng đắc, đắm chìm nơi không thì trở thành Tiểu thừa.
Duyên và tánh vô ngại tức là Đại Bồ đề; chẳng đoạn trừ môn trần lao mà có thể thành tựu hạt giống vô vi; chẳng đắm chìm trong biển Thật tế mà hay theo lượng sóng hữu tác. Chơn Tục dung thông, Có Không chẳng ngưng trệ. Như thế, đáng gọi là thực hành phi đạo mà thông đạt chánh đạo, ở ngay nơi thế pháp mà đầy đủ Phật Pháp.
Hỏi:
Muôn hành động lành và hạnh thấp kém của Thanh Văn ngưng trệ nơi hóa thành, ẩn mình trong thảo am đâu thể gọi là tâm rộng lớn, làm sao trở thành viên đốn được?
Đáp:
Người mới học trong ba thừa, không ngu đối với pháp. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “Nếu có Tỳ kheo thật đắc quả A La Hán mà không tin pháp này thật là vô lý”.
Còn nói rằng: “Điều mà các ông thực hành là đạo Bồ Tát, dần dần tu học đều sẽ thành Phật”.
Như thế đều là chấp vào sự chứng đắc ở nửa đường mà sanh khởi tâm trụ trước. Vì thế chư Phật quở trách, khuyên bảo tu hành thêm nữa.
Vả lại, hàng Nhị thừa đều bước lên bậc Thánh, vượt qua phiền não của chín cõi, đoạn dứt thân nghiệp chướng trong tam giới, đồng ngồi trên giường giải thoát. Đã đầy đủ trí tuệ thần thông sao có thể đem so sánh với kẻ phàm phu bị nhiều ràng buộc, chỉ hướng theo sự thông hiểu do nương tựa, hoàn toàn không có tu chứng?
Thế nên, Đại sư Chơn Giác nói:
“Pháp Nhị thừa có lỗi lầm gì mà không chịu tu theo? Trong giáo lý hoặc chê hoặc khen, chỉ là đề cao hoặc hạ thấp trong lúc ấy mà thôi. Phàm phu chẳng rõ sợ bị quở trách, đâu biết nếu còn ái kiến thì cách Tiểu thừa rất xa!
Tuy nói rằng tu đạo mà lậu hoặc và kiết sử không diệt trừ, không chỉ thân và miệng chưa đoan chánh mà tâm vẫn còn tà vạy, chấp theo ý tứ của riêng mình, hiểu biết trái ngược với lẽ thật, chẳng y theo lời dạy của bậc Thánh, chưa hề gần gũi minh sư, nhân duyên căn lành chưa tích lũy nhiều đời, còn kiến giải thì chưa phải hạng người sanh ra đã biết, mà chỉ giỏi thông hiểu theo trí thế gian. Bàn luận suốt ngày, có khi lại dẫn nói lời kinh nhưng là sự hiểu biết sai lầm theo ý riêng của mình, đem tà thuyết để dối gạt kẻ ngu, bài bác nhân quả, chỉ trích tội phước.
Thuận tình thì hớn hở vui mừng, nghịch ý thì nổi sân nóng giận. Tướng trạng của ba loại cảm thọ biểu hiện rõ ràng, lại xưng rằng đồng với bậc Bồ Tát. Bốn ba la di còn chưa tránh khỏi mà tâm lại hiềm khích luôn muốn hơn người, chẳng tu tập Đại thừa lại chê bai Tiểu thừa. Ăn to nói lớn nhất thời, lỗi phỉ báng to tiếng phải chịu quả báo đau khổ nhiều kiếp trong vòng luân hồi nơi ba đường ác.
Sách xưa nói:
“Người đang nói mà sợ, phát ngôn mà lo”.
Lại nói:
“Muốn nước đừng sôi tốt hơn hết là bỏ củi ra, muốn dứt lỗi lầm không gì bằng đừng nói”.
Trong kinh còn nói, phàm phu dùng tâm hữu lậu tán loạn xưng một câu Nam Mô Phật, cho đến chỉ hơi cúi đầu, do nhân duyên ấy còn thành Phật đạo. Huống gì tâm vô lậu của bậc Thánh Nhị thừa, dứt hẳn thân đời sau, tự thân chứng đắc trí tuệ thấu suốt vô ngã, chứa nhóm các hạnh lành, lẽ nào không được bước lên Chánh vị hay sao?
Hỏi:
Công đức do tạo tác đều trở về bại hoại, công đức không do tạo tác mới là rốt ráo tồn tại vĩnh hằng. Tại sao lại bỏ ý chỉ “các pháp không đổi dời” mà trình bày hạnh hữu tác?
Đáp:
Trong Triệu Luận nói:
“Công đức của Như Lai lưu truyền muôn đời, đạo pháp của Ngài tồn tại vĩnh hằng trải qua trăm kiếp mà càng thêm vững chắc”.
Kinh nói: “Tam tai dấy lên khắp cả mọi nơi mà hạnh nghiệp vẫn lặng lẽ”.
Nay tin điều này chắc chắn. Nên biết, một mảy may việc lành tuy hữu vi nhưng lại hỗ trợ Bồ đề, tiến thẳng đến thành Phật vẫn không hoại. Dù cho đến khi lửa lớn thiêu đốt cả thế giới, hoàn toàn chẳng đốt cháy hư không; dẫu sóng mòi sanh tử vô biên vẫn không nhận chìm điều lành chân thật.
Hỏi:
Các pháp không có thật thể, từ nhân duyên mà sanh ra một cách huyễn hóa. Các duyên không có chỗ dựa nương, lại từ nơi pháp mà sanh khởi. Duyên và pháp không có tự tánh, rốt ráo đều rỗng không, không chủ, không người, không sanh, không diệt.
Tại sao lại bàn luận rộng rãi về sự tướng vô thường và nói về quả báo giả dối?
Đáp:
Do chân tâm không giữ gìn bản tánh nên theo duyên tạo thành các nghiệp. Tuy dường như có mà tức là không, bản thể rỗng không mà hình thành sự tướng; giống như bóng cây, tuy rỗng không mà có công dụng che mát; lại cũng giống như chiêm bao không thật cũng làm phát khởi tâm lo lắng vui mừng. Tuy không có người làm ra nhưng không mất quả báo nơi nhân duyên.
Thế nên kinh Duy Ma nói: “Không ta, không tạo, không người nhận, nhưng nghiệp thiện ác vẫn không mất”.
Vả lại, cái Không trong giáo lý trình bày là vì không thể được, không thật tánh, chớ chẳng phải là cái không đoạn diệt. Tại sao lại sanh khởi tâm cho rằng giống như lông rùa sừng thỏ? Phát khởi cái nhìn vẽ rắn thêm chân, khác gì kẻ ngu ăn muối!
Hỏi:
Người mới phát tâm vào đạo, lời nói và việc làm trợ giúp lẫn nhau, huân tập muôn điều lành đó là hợp lý. Còn như bậc đã đạt đến quả vị rốt ráo, việc lớn đã xong, cảnh trí rỗng rang, cần gì thực hành những việc ấy?
Đáp:
Quả đức nơi Phật vị rốt ráo vô vi, như vô biên hạnh môn, tám tướng thành đạo đều thuộc về hạnh Phổ Hiền sau khi đã thành Phật, thường tự nhiên như thế cùng tận bờ mé vị lai.
Kinh Duy Ma nói:
“Tuy được Phật đạo, xoay chuyển bánh xe giáo pháp vào nơi Niết Bàn mà chẳng bỏ đạo Bồ Tát. Đó là hạnh của Bồ Tát”.
Trong kinh Hoa Nghiêm nói:
“Biết rõ pháp giới không có bờ mé, tất cả các pháp là nhất tướng vô tướng, đó gọi là pháp giới cứu cánh, chẳng bỏ đạo Bồ Tát.
Tuy biết pháp giới không có bờ mé nhưng lại biết tất cả những tướng sai biệt, khởi tâm đại bi độ các chúng sanh cùng tận bờ mé vị lai mà không thấy mỏi mệt chán nản, đó gọi là Bồ Tát Phổ Hiền”.
Hỏi:
Trong Lục độ, ngoài Bát Nhã ra thì năm độ kia dường như người mù, phải do Bát Nhã dẫn đường. Nay tại sao chỉ tán dương các hạnh lành, nói rộng về những việc lành do tâm tán loạn tu tập?
Đáp:
Nay sở dĩ bàn luận về các hạnh lành cũng chỉ vì để thành tựu trí Bát Nhã. Trong giáo lý Phật quở trách hữu vi mục đích chỉ vì phá trừ sự tham chấp.
Nếu trong lòng đã không sinh khởi sự chấp thủ lấy bỏ thì tất cả đều vô ngại. Nếu chưa tỏ rõ trí Bát Nhã thì dùng vạn hạnh làm trợ duyên.
Kinh Pháp Hoa nói:
“Danh Phật vang mười phương
Rộng ích lợi chúng sanh
Tất cả đủ căn lành
Để trợ tâm vô thượng”.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Ví như tất cả pháp
Do mọi duyên sanh khởi
Thấy Phật cũng như thế
Ắt nhờ các nghiệp lành”.
Nếu đã thấu suốt trí Bát Nhã thì cần phải dùng mọi sự tu hành để trang nghiêm.
Kinh Pháp Hoa nói: “Trưởng giả cho các con một chiếc xe lớn, xe ấy cao rộng, dùng các thứ báu để trang sức”, cho đến “phái nhiều nô bộc đi theo hầu hạ bảo vệ”.
Thế nên sách này cũng gọi là VẠN THIỆN ĐỒNG QUY TẬP.
Tất cả pháp môn tu hành đều về nơi Bát Nhã, tách rời Bát Nhã thì không có pháp môn nào khác nữa. Như mọi dòng sông cùng chảy vào biển cả, đều đồng một vị. Lại giống như các loài chim tạp bay gần núi Diệu Cao thì không có màu sắc khác chỉ thuần một sắc vàng.
Nếu không tin sâu trí tuệ Bát Nhã mà tu tập pháp hữu vi, chỉ thành nhân sanh tử đâu được quả Niết Bàn!
– Nếu tu tập Bố thí mà không có Bát Nhã thì chỉ được một đời vinh hoa, đời sau lại chịu nhiều ương họa.
– Nếu trì giới mà không có Bát Nhã thì tạm thời sanh lên cõi trời Dục, rốt cuộc vẫn phải rơi vào địa ngục.
– Nếu nhẫn nhục mà không có Bát Nhã thì chỉ được quả báo thân hình đoan chánh nhưng không chứng đắc Tịch Diệt Nhẫn.
– Nếu tinh tấn mà không có Bát Nhã thì chỉ gắng công trong sanh diệt mà thôi, chẳng đạt đến biển cả chân thường.
– Nếu thiền định mà không có Bát Nhã thì chỉ thực hành thiền nơi sắc giới, chẳng thể tiến vào Chánh định Kim Cang.
– Nếu tu tập tất cả hạnh lành mà không có Bát Nhã thì chỉ thành tựu nhân hữu lậu suông, chẳng phù hợp với quả vô vi.
Do đó đủ thấy trí Bát Nhã:
– Là thầy dẫn đường trong nẻo hiểm ác.
– Là ngọn đèn sáng tỏ trong ngôi nhà tối tăm.
– Là chiếc thuyền trí tuệ trong biển cả sanh tử khổ đau.
– Là lương y trị bệnh phiền não.
– Là ngọn gió lớn thổi tan vỡ núi tà.
– Là mãnh tướng phá trừ ma quân.
– Là mặt trời chói chan chiếu soi con đường u ám.
– Là tiếng sét cảnh tỉnh tâm thức mê muội.
– Là dụng cụ vẹt màn mắt cho người mù.
– Là cam lồ dứt trừ khát ái.
– Là thanh gươm trí tuệ sắt bén chém nát mạng lưới ngu si.
– Là châu báu ban cho những kẻ bần cùng thiếu thốn.
Nếu như không có trí tuệ Bát Nhã, tất cả sự tu hành cũng chỉ là việc lập bày suông.
Tứ Tổ Đạo Tín nói:
“Nếu không thể hội ý chỉ diệu huyền thì tọa thiền niệm tĩnh sẽ nhọc nhằn vô ích”.
Cho nên, không thể sơ suất trái ngược với trí tuệ Bát Nhã, lãng quên sự chiếu soi dù trong khoảnh khắc. Cho đến ở trong ngôi vị cứu cánh khi thành Phật cũng phải trang nghiêm về sức mạnh thiền định và trí tuệ, dùng đó để độ chúng sanh.
Vì thế Đức Phật nói: “Ta mỗi ngày chỉ thường luôn nói về Bát Nhã”.
Hỏi:
Tướng tịch diệt của các pháp không thể dùng ngôn ngữ diễn bày, sao không chỉ thẳng vào việc này mà nói rộng về nhân duyên, đưa ra những lời hỏi đáp?
Đáp:
Kinh Lăng Già nói:
“Đức Phật bảo Bồ Tát Đại Huệ:
Nếu không thuyết tất cả pháp thì giáo pháp bị hoại diệt, giáo pháp hoại diệt thì không có chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn. Nếu không có các vị ấy, thì ai thuyết pháp cho ai?
Thế nên Đại Huệ! Đại Bồ Tát chớ nên vướng mắc vào lời nói, khéo dùng phương tiện tùy theo sự thích nghi diễn rộng các pháp”.
Nên biết, Tổng trì không có văn tự, nhờ văn tự mà hiển bày Tổng trì; rời lý tánh không có ngôn thuyết, rời ngôn thuyết không có lý tánh. Vì chân tánh trùm khắp nên chỗ không thể nói chẳng khác với chỗ có thể nói. Vì nhân duyên và sự tu hành không tự tánh nên chỗ có thể nói chẳng khác với chỗ không thể nói.
Nếu từ Tứ thật tánh và Tự tướng của các pháp thì đều có thể nói. Nếu dựa theo Tứ tất đàn và Cộng tướng của các pháp thì đều có thể nói. Do đó chư Phật thường dựa vào Nhị đế để thuyết pháp. Chỉ cần thấu suốt được ý chỉ viên dung thì nói mà không có lỗi lầm. Nếu một mực không nói thì do đâu rõ thấu?
Khiến tìm ngôn ngữ để cầu lý mà biết rõ lý viên mãn. Chỉ vì nói thiên lệch nên bảo rằng ngôn thuyết chẳng tới được, chẳng bảo là không nói năng. Vả lại, tánh tuy rời ngôn ngữ không thể nói, nhưng phải do ngôn ngữ mới thể hội chỗ không thể nói.
Nếu như muốn đạt đến nguồn đạo, tiếp nối và hưng thạnh dòng dõi Phật thì trước cần phải thấu suốt trí Bát Nhã để nhận rõ chân tâm. Bát Nhã là thầy của vạn hạnh, là mẹ của ngàn Thánh. Chân tâm là cội gốc của muôn loài, nguồn của các pháp.
Nếu chưa thông suốt trí Bát Nhã thì đối với chân tâm vẫn còn mờ mịt. Cần phải về nương Nhất Thể Tam Bảo, sám hối tội lỗi trong ba đời. Dùng giới luật kiểm điểm lỗi lầm, ngăn ngừa sai quấy. Dùng thiền định diệt trừ hôn trầm, thâu nhiếp tán loạn; gần gũi bạn lành, tán thán đọc tụng kinh điển Đại thừa. Dùng muôn điều lành để sửa trị, nghe nhiều để ứng dụng tu tập, hỗ trợ hiển bày Chân tánh tiến thẳng Bồ đề.
Nghiệp chướng hết, thiền định vi diệu tự tỏ sáng. Trí tuệ phát sanh thì chân tâm thanh tịnh. Đã hay lợi ích chính mình lại còn thương xót những người chưa nghe biết. Do đó làm mọi nhân phước rộng rãi, thực hành đầy đủ Lục độ, tiếp nối gia nghiệp của Phật, dựng ngọn cờ đại pháp, mưa pháp vũ một vị, diệt hết mọi lậu hoặc trần lao, thắp sáng ngọn đèn trí tuệ vô tác, soi sáng cho những người mê mờ tăm tối.
Thế nên, công đức vạn hạnh từ trước đến sau đều hưng khởi, pháp ở trong Phật giáo vốn như thế.
Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm nói:
“Đại Bồ Tát không làm việc bức bách buồn phiền chúng sanh, chỉ nói việc lợi ích cho thế gian”.
Kinh Pháp Hoa nói:
“Nếu người thọ trì đọc tụng kinh này, vì người khác mà nói, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép.
Lại có thể dựng tháp, tạo lập chùa chiền, cúng dường tán thán chúng Thanh Văn Tăng; cũng dùng trăm ngàn muôn ức cách khen ngợi mà khen ngợi công đức của Bồ Tát.
Lại dùng đủ mọi nhân duyên vì người khác tùy nghĩa giải nói về kinh Pháp Hoa này.
Lại có thể trì giới thanh tịnh, cùng ở chung với người nhu hòa, nhẫn nhục không sân, chí niệm bền vững, thường quí ngồi thiền, được các môn định sâu, tinh tấn mạnh mẽ, thực hành các pháp lành, căn cơ lanh lợi có trí tuệ, khéo trả lời các vấn nạn…”.
Cho đến, “Chỗ người ấy hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, trong đó đều nên dựng tháp, tất cả trời người đều nên cúng dường như tháp của Phật”.
Thông thường pháp lành nói gọn có bốn loại:
1. Điều lành nơi tự tánh: Ba căn lành không tham sân si.
2. Điều lành do tương ưng: Khi tâm thiện phát khởi thì tâm vương tâm sở một lúc đều khởi.
3. Điều lành do phát khởi: Phát khởi hành động của thân và lời nói, bày tỏ những điều suy nghĩ trong lòng.
4. Điều lành Đệ nhất nghĩa: tức là thể tánh thanh tịnh.
Lại tóm gọn thì có hai loại:
1. Điều lành ở nơi Lý: tức là Đệ nhất nghĩa.
2. Điều lành ở nơi Sự: tức là Lục độ vạn hạnh.
Thời nay phần nhiều dựa vào điều lành ở nơi Lý. Nếu nói về điều lành ở nơi Lý thì kẻ Xiển đề cũng đầy đủ, tại sao không thành Phật?
Thế nên cần phải thực hành điều lành ở nơi Sự để trang nghiêm và hiển bày Lý tánh. Tích lũy phước đức lớn mới thành tựu thân vi diệu. Giống như trong khoáng có chứa đựng vàng, trong núi có ẩn tàng ngọc, lại cũng như nơi đá có chứa lửa, trong đất có mạch nước ngầm, nhưng nếu chưa gặp nhân duyên thì không có công dụng, dù vốn có đầy đủ mà cũng như không.
Ba nhân của chúng sanh cũng như vậy. Phàm có tâm thì đều đầu đủ Chánh nhân, nhưng nếu chưa được nhân duyên trợ giúp tỏ rõ thì chẳng thành tựu Pháp thân. Liễu nhân là trí tuệ trang nghiêm, hiểu đúng quán xét. Duyên nhân là phước đức trang nghiêm, diệu hạnh hỗ trợ phát khởi.
Ba nhân đầy đủ, mười hiệu sáng ngời, nghĩa lý lợi mình lợi người đến đây là cùng tận.
Do đó, kinh Pháp Hoa nói:
“Ta dùng tướng trang nghiêm
Ánh sáng soi thế gian
Tất cả chúng tôn kính
Diễn nói Thật tướng ấn”.
Vả lại, kẻ đức mỏng phước ít không thể tiếp nhận pháp này.
Ôi! Căn lành dễ mất, nghiệp ác khó trừ. Kinh Niết Bàn nói: “Ví như khắc chữ trên đá, chữ ấy còn mãi, còn viết chữ trên nước thì nhanh chóng tan mất chẳng tồn tại lâu. Sân hận giống như khắc trên đá, các căn lành giống như viết chữ trên nước. Do đó tâm này khó được điều phục”.
Vì vậy phải biết, việc lành dễ quên, thân người khó được, không thể dần dà vì trong khoảng chớp mắt đã qua đời khác.
Kinh Đề Vị nói:
“Như có một người ở trên núi Tu di cầm một sợi chỉ thòng xuống, một người ở dưới núi cầm một cây kim đón sợi chỉ ấy, khoảng giữa có gió lốc cuồng phong thổi, sợi chỉ ấy thật khó mà vào lỗ kim. Thân người khó được còn hơn điều ấy”.
Trong kinh Bồ Tát Xử Thai còn nói:
“Rùa mù bọng cây nổi,
Đúng thời còn gặp được.
Một khi mất thân này,
Ức kiếp khó được lại.
Biển cả sâu rộng lớn
Ba trăm ba mươi sáu
Kim chìm dưới đáy biển
Còn có thể tìm được”.
Lại nói:
“Ta từ vô số kiếp,
Lại qua đường sanh tử
Bỏ thân rồi nhận thân
Chẳng rời khỏi bào thai.
Tính nơi ta trải qua
Nhớ một không nhớ hai
Thuần làm thân chó trắng
Xương chất ức Tu di.
Lấy kim ghim xuống đất
Đều đâm trúng thân ta
Huống gì chó tạp sắc
Số ấy không thể lường
Nên ta nhiếp phục tâm
Chẳng tham trước buông lung”.
Thế nên tạm thời được thân người, trong hai mươi bốn giờ không thể quên điều lành dù trong khoảng khắc, không thể tăng trưởng điều ác dù chỉ phút giây. Thân này khó được gặp, đâu nên để thời gian qua suông. Vả lại sự vô thường nhanh chóng, mỗi niệm mỗi niệm đổi dời giống như ánh chớp, giống như đèn treo trước gió, cũng như dòng nước chảy, khác nào mặt trời sắp lặn, sương móc ban mai.
Sự vô thường của thân này mau chóng còn hơn ví dụ trên.
Kinh Pháp Cú nói:
“Đức Phật bảo Phạm Chí:
Trên đời có bốn việc, không thể được lâu dài:
1. Có thường ắt vô thường.
2. Giàu sang ắt nghèo hèn.
3. Hội họp ắt chia ly.
4. Khỏe mạnh ắt sẽ chết.
Trong kinh còn nói:
“Chẳng phải ở hư không biển cả
Chẳng phải đi vào trong núi rừng
Hoàn toàn không có nơi chốn nào
Tránh khỏi không bị thần chết bắt”.
Những việc trình bày ở trên, muôn đức và các điều lành đều là tư lương của Bồ đề, chỉ trừ hai pháp hay tạo thành sự chướng ngại:
1. Không tin.
2. Sân hận.
– Không tin thì chướng ngại việc lành chưa được thực hành và việc lành muốn được thực hành.
– Sân hận thì tiêu diệt việc lành đã thực hành và việc lành đang thực hành.
Vì không tin giống như hạt giống hư dứt hẳn căn lành, hủy hoại Chánh tông, tăng trưởng tà kiến.
Vì sân hận nên đốt cháy công đức, ngăn trở Bồ đề, mở cánh cửa dẫn đến con đường ác, đóng chặt lối dẫn đến cõi người và trời.
Hơn nữa, không sân hận là do từ bi mà phát khởi, lòng tin rộng lớn là nhờ trí tuệ mà được thành. Gươm trí tuệ vừa vung lên, cội gốc nghi ngờ liền đoạn dứt; mây từ bi kéo mưa nhuần thấm, dần dần tắt lịm lửa sân hận. Thế nên, do trí tuệ vượt qua biển khổ, nhân lòng tin vào cửa Bồ đề; do từ bi được ở trong nhà Đại Giác, nhờ nhẫn nhục mà mặc y Như Lai.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Lòng tin là gốc của đạo, là mẹ sanh ra các công đức, nuôi lớn tất cả các căn lành. Lòng tin hay tăng trưởng công đức trí tuệ. Lòng tin ắt dẫn đến địa vị Như Lai. Lòng tin giúp cho các căn lành thanh tịnh sáng suốt. Sức mạnh của lòng tin vững chắc không gì phá hoại được. Lòng tin có thể diệt hẳn cội gốc phiền não. Lòng tin có thể giúp chuyên hướng về công đức của Phật. Lòng tin là hạt giống công đức bất hoại. Lòng tin hay sanh trưởng cây Bồ đề. Lòng tin có thể làm tăng trưởng trí tuệ tối thắng. Lòng tin có thể hiện ra tất cả Phật”.
Kinh Đại Trang Nghiêm Pháp Môn nói: “Sân hận có thể tiêu diệt nghiệp lành trong trăm kiếp”.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ Tát khởi một tâm sân thì phát sanh muôn ngàn sự chướng ngại”.
Trong kinh còn nói: “Giặc cướp công đức không gì hơn sân hận”.
Hơn nữa, vừa sanh khởi ý niệm sân hận thì đã trở thành kẻ oán tặc của đại đạo rồi!
Hỏi:
Phám tu tập muôn điều lành đều để trợ giúp Bồ đề. Tại sao có sự ngưng trệ chẳng thành tựu, nhanh chóng được viên mãn?
Đáp:
Do buông lung biếng nhác nên không thành tựu, nhờ dũng mãnh tinh tấn nên nhanh chóng hoàn thành.
Kinh Thí Dụ nói:
“Có một Tỳ kheo ăn no rồi vào trong thất đóng cửa ngủ, yêu mến thân mình cảm thấy đó là vui sướng. Bảy ngày sau, vị Tỳ kheo ấy sắp mạng chung.
Đức Phật thương xót bảo Tỳ kheo ấy rằng:
– Ông ở thời Đức Phật Duy Vệ từng được xuất gia, nhưng chẳng tụng niệm kinh điển giới luật, ăn no rồi ngủ, lúc mạng chung thần thức sanh vào loài rít. Trải qua năm vạn năm, khi tuổi thọ đã hết lại làm loài ốc trai, rồi lại đọa vào loài mọt trong thân cây, mỗi lần như thế đều trải qua năm vạn năm.
Bốn loài đó sanh ở nơi tối tăm, yêu quí thân mạng, ưa ở nơi u tối lấy đó làm nhà, chẳng thích ánh sáng, mỗi khi ngủ thì trăm năm mới dậy, lưới tội buộc xiết chẳng mong cầu ra khỏi.
Đời nay tội đã hết, được làm Sa môn, tại sao lại vẫn mê ngủ không chán?
Tỳ kheo nghe rồi hổ thẹn tự trách mình, liền dứt trừ Ngũ cái đắc quả A La Hán”.
Kinh Đại Bảo Tích Đức Phật nói:
“Ví như trên đầu có quấn vải lụa, lửa cháy mảnh lụa ấy mà không có thời giờ rãnh để dập lửa. Tại sao vậy? Vì việc cứu xét lý chân thật rất cấp bách”.
Các việc nói trên đều trình bày rõ giáo lý và sự tu hành; đâu dám xem thường, theo ý riêng của mình mà nói những điều vô ích. Mong mọi người nên tuân theo lời nói chân thành khẩn thiết, đừng làm trái ngược với đạo thuyết cứu cánh!
Hỏi:
Dùng tâm từ bi làm muôn việc lành là đúng như việc làm của Phật, trong giáo lý của Tổ sư hoặc chê hoặc khen, cho nên phát sanh sự nghi ngờ.
Ở trên tuy đã trình bày rõ ràng rộng rãi nhưng vẫn còn chút nghi hoặc, chưa rõ tông chỉ của Phật, chỗ trở về rốt ráo là gì?
Mong được chỉ rõ để dứt trừ hẳn sự ngưng trệ trong lòng!
Đáp:
Tổ sư lập ra ngôn cú, Đức Phật chỉ dạy giáo lý chỉ là để phá trừ Biến kế Sở chấp, chẳng hủy hoại pháp môn Duyên khởi. Biến kế sở chấp tánh theo tình thì có về lý thì không, giống như sợi dây mà cho là rắn, chỗ lá cây lay động lại tưởng quỷ ma, không có mà chấp bừa, toàn thể đều rỗng không.
Y tha khởi tánh<!–[if !supportFootnotes]–>[25]<!–[endif]–> tức là nhân duyên. Nếu theo duyên tịnh thì được thành Thánh, nếu theo duyên nhiễm thì trở thành phàm. Thế nên, theo duyên không có tự tánh thì gọi là Viên thành.
Kinh Pháp Hoa nói:
“Chư Phật Lưỡng Túc Tôn
Biết pháp thường không tánh
Giống Phật theo duyên sanh
Cho nên nói Nhất thừa”.
Trong Luận nói:
“Nếu thấy pháp nhân duyên, gọi là thấy Phật”.
Nên biết không có một trần nào chẳng phù hợp với Lý-Sự, không có một pháp nào chẳng phải Phật thừa. Đều là do không thấu rõ cội nguồn ban đầu của muôn pháp, tự tánh của một trần, nên mới phát sanh tình chấp, ngưng trệ nơi tướng, mê muội theo danh, vọng phân chia ra mình người, gượng phát sanh ly hợp, đến nỗi gây ra sự cạnh tranh giữa Lý và Sự, như nước với lửa chẳng dung nhau. Ai nấy đều dựa vào hai bên, chẳng thành tựu đạo lý một vị.
Do mắt mình bị bệnh nên thấy minh châu có tỳ vết; dùng tâm chấp trước nhìn, muôn điều lành thành lầm lỗi. Tánh của dâm dục, sân hận, ngu si, tà kiến, phi đạo còn là muôn giải thoát. Tôn sùng Tam Bảo làm các hạnh lành lợi ích mọi người, lẽ nào lại trở thành điều chướng ngại?
Thế nên, thông suốt thì ngói gạch thành vàng ròng, chấp trước thì diệu dược thành thuốc độc.
Trong kinh nói:
“Lời nói giả dối cũng là lời chân thật, bởi vì dẹp trừ tà chấp. Lời nói chân thật cũng là lời giả dối, bởi vì làm sanh khởi sự chấp chặt vào ngôn ngữ”.
Chỉ cần dẹp trừ tâm lấy bỏ thì đều đi đến con đường diệu huyền thông suốt. Một khi mọi sự nhận thức sai lầm được dẹp trừ thì chỉ còn chân tâm duy nhất; phiền não trần cấu tan hết, thế giới hiện thực đều là cõi Phật thanh tịnh.
Cho nên trong kinh Đại Bát Nhã nói:
“Đức Phật bảo rằng:
Bởi vì đối với tất cả các pháp không chấp trước, cho nên ta gọi đó là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Ta bình đẳng trụ ở chỗ không chấp trước này, liền có thể đạt được thân sắc vàng chân thật, thường có ánh sáng một tầm”.
Nếu muốn nhận thức chính xác Phật Pháp không sai lầm, chỉ cần Sự-Lý dung thông, tu hành và thệ nguyện theo nhau, từ bi và trí tuệ song hành.
Do đó, Luận Hoa Nghiêm nói:
“Tu tập nghiêng về lý thì ngưng trệ nơi lặng lẽ, tu tập nghiêng về trí không bỏ từ bi, tu tập nghiêng về từ bi thì tập nhiễm tăng trưởng, chỉ phát nguyện ắt dễ sanh khởi tâm hữu vi. Thế nên, Bồ Tát đem pháp dung thông không lấy không bỏ”.
Thiền sư Khuê Phong Tông Mật nói:
“Sự truyền trao giữa thầy và trò cần phải biết theo bệnh cho thuốc, thích hợp thực tế. Thầy dựa vào phương tiện của người xưa, trước tiên cần phải khai thị bản tánh thanh tịnh, sau đó mới khiến đệ tử y theo bản tánh tu thiền.
Mọi người phần nhiều do chấp tướng vì vậy khó mà tỏ ngộ bản tánh. Thế nên, muốn bản tánh hiển bày đầu tiên cần phải trừ chấp trước. Phương tiện phá trừ chấp trước, phải một lúc dẹp hết phàm Thánh, bỏ cả công đức và sự nghiệp, khiến cho tự tâm không dính mắc, đến khi đó mới có thể tu thiền”.
Những kẻ hậu học hiểu biết nông cạn liền chấp vào lời nói này cho là đạo lý rốt ráo. Bởi vì trong quá trình tu tập mọi người phần nhiều buông lung. Cho nên người sau bày tỏ rộng rãi sự ưa thích và chán ghét; chê trách tham dục sân hận, khen ngợi siêng năng khắc khổ; dạy người điều hòa thân và hơi thở, vào đạo theo thứ bậc.
Hậu nhân nghe điều này mà quên mất công dụng của bản giác, liền một mực chắp tay vào sự tướng bên ngoài. Như thế tức là đã ngưng trệ nơi lời nói của giáo lý, lại trái ngược với tông chỉ Thiền môn.
Ngoài ra có một số người học thức nông cạn, họ chỉ biết xa rời cấu nhiễm được thanh tịnh, lìa bỏ nghiệp chướng được giải thoát, do đó công kích cách nói “tâm chính là Phật của nhà Thiền”. Hoặc chỉ biết tự tánh vốn thanh tịnh, tâm tánh thanh tịnh tức là giải thoát, cho nên xem thường những sự tu tập về giáo tướng như trì luật, tọa thiền, điều phục… Họ chẳng biết Đốn ngộ Tự tánh thanh tịnh, đạt được Tánh tịnh giải thoát, đều phải trải qua sự Tiệm tu mới đến chỗ thanh tịnh trọn vẹn, giải thoát rốt ráo. Như thế, chẳng luận là sắc thân hay tâm tánh cũng đều thông đạt vô ngại không còn vướng mắc.
Lại có người cho rằng Không tông chỉ trình bày phủ định, như nói:
– Chẳng phàm chẳng thánh.
– Tất cả không thể nắm bắt được.
Còn Tánh tông thì trình bày có phủ định có khẳng định.
Hiện nay mọi người đều cho rằng, phủ định là sâu xa, khẳng định là cạn cợt. Cho nên một bề xem trọng lối nói “chẳng phải tâm chẳng phải Phật”. Đó chủ yếu là vì họ xem những lời nói bày tỏ phủ định làm huyền diệu, mà hoàn toàn chẳng muốn tự thân chứng ngộ Pháp thể, do đó mới xuất hiện tình trạng này.
Những lời trích dẫn trên, ý tứ của Tổ sư quá rõ ràng. Điều mà các Ngài phá dẹp là hai loại chấp trước:
– Một là chấp tướng rời tánh, phát sinh thường kiến.
– Hai là chấp tánh rời tướng, trở thành đoạn diệt.
Điều mà các Ngài tán đồng là hai loại tỏ ngộ:
– Một là tỏ ngộ tướng ngay nơi tánh, dụng chẳng lìa thể.
– Hai là tỏ ngộ tánh ngay nơi tướng, thể không rời dụng.
Do đó nên biết, sự tướng chính là công dụng của tánh thể, tánh thể chính là bản thể của sự tướng. Nếu muốn khen ngợi tánh thể thì tức là khen ngơi sự tướng. Nếu muốn phá diệt sự tướng thì cũng chính là phá diệt tánh thể.
Tại sao vọng khởi tâm lấy bỏ, tạo thành hai nhận thức sai lầm trên?
Nếu tiến vào pháp môn chân thật bình đẳng thì chê bai hay khen ngợi đều không còn tồn tại.
Hỏi:
Những lời đáp ở trên rất có đạo lý. Nhưng theo tình trạng hiện nay phần nhiều ưa thông lý, ít muốn thực hành. Tự cho rằng lãnh hội môn học diệu huyền, lìa sự vật vượt trần lao. Những người này đối với quả vị Phật còn xem thường không tu, sao có thể yêu cầu họ tu tập hạnh lành nhỏ bé? Chẳng biết thời thượng cổ có giống như vậy chăng?
Xin tiến thêm một bước phá dẹp nghi ngờ để mọi người khỏi rơi vào mạng lưới tà ngụy!
Đáp:
Các bậc Hiền Thánh thuở xưa chí hướng to lớn, tâm địa thuần phát. Các Ngài khi cứu xét Phật lý khoảnh khắc cũng chẳng quên, âm thầm tu hành, thần linh cũng khó lường xét, ngày đêm cẩn trọng như đi chỗ vực sâu, như bước trên băng mỏng, hẹn ngày chứng ngộ như cứu lửa cháy đầu.
Các Ngài chú trọng chân thật xem thường hư giả, quý trọng tu hành giản lược ngôn thuyết, tiếp xúc sự tướng nhưng không chấp trước sự tướng, thực hành lý Không mà chẳng chứng lấy lý Không.
Các Ngài làm từ việc lành nhỏ mà tích lũy vô hạn công đức, dựa vào nhân nhỏ bé mà thành tựu kết quả to lớn.
Hiện nay đang gặp kiếp nhơ đời loạn, thời thế nhiễu nhương, chúng sanh chí hướng nhỏ bé, căn cơ chậm lụt, ngã mạn nặng nề, phần nhiều lười biếng, một hạnh cũng không thành tựu, lại tập theo nhiều điều sai quấy, trí tuệ và giới luật cùng tiêu mất, lý thể và sự tướng chẳng còn, rơi xuống hố sâu vô trí, ngồi trong ngục tù tăm tối. Họ chẳng thể rõ ý chỉ sự tướng và lý thể tức là nhau, mà chỉ nhớ suông những ngôn ngữ phá trừ chấp trước. Đối với điều này người có trí bày tỏ buồn than, người ngu lại bắt chước theo. Những hành vi tư tưởng sai lầm nói trên đã lưu truyền rộng rãi lâu dài, muốn nhanh chóng làm thay đổi rất là khó khăn.
Do đó, ở đây chẳng thể không dẫn dụng lời dạy của Phật Tổ, giới thiệu toàn diện đại ý của kinh Luận, hy vọng do đây mà khiến cho một số người vứt bỏ sự chấp trước trong quá khứ, sửa đổi những sai lầm đã qua.
Mọi người theo dấu chân của Thánh nhân ngày xưa để lại, cùng nhau tiếp nhận lời dạy từ bi của bậc Giác Vương. Như thế thì sẽ không thiếu sót với chí hướng trước nay, chẳng đến nỗi cô phụ bốn ân, cùng bước lên cánh cửa giải thoát, xiển dương phổ biến đạo lý Niết Bàn xa rời sanh tử, thành tựu sự nghiệp của Phật Tổ, viên mãn trí tuệ đại Bồ đề, lấp bít đường tà kiến, mở ra lối chân chánh, kiên định lòng tin giải trừ nghi hoặc. Trang bị con thuyền vượt đến bờ kia, lái thuyền từ bi của trí tuệ Bát Nhã, vượt qua bến khổ sanh tử trong ba cõi, vào nơi biển đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, cứu vớt chúng sanh đắm chìm trong đại dương sanh tử, đặt để chúng sanh nơi thành trì to lớn Niết Bàn.
Vì thế, tôi thệ nguyện qua lại trong trần lao, tiếp đãi chúng sanh ở năm đường, không nghỉ ngơi gián đoạn, không trước không sau mãi mãi kiên trì, giả sử vị lai có cùng mà quyết tâm chẳng cùng, dù cho hư không có tận mà chí nguyện không tận.
Ngưỡng mong có mắt Phật làm chứng, tâm ý chân thành, vì tất cả chúng sanh trên đời, nên tôi mới cung kính viết ra tập văn này.
Hỏi:
Người căn cơ bậc thượng đốn ngộ tự tâm, không biết họ còn cần phải nhờ vào vạn hạnh để trợ đạo huân tu chăng?
Đáp:
Thiền sư Khuê Phong Tông Mật có bốn câu nói lường xét giản biệt:
– Một là “Tiệm tu Đốn ngộ”: như chặt cây, chặt dần dần từng mảnh đến một lúc chợt ngã đổ.
– Hai là “Đốn tu Tiệm ngộ”: như người học bắn tên, mỗi mũi tên đều nhắm vào điểm đích.
– Ba là “Tiệm tu Tiệm ngộ”: như lên đài cao chín tầng, chân bước dần lên cao, chỗ thấy cũng dần dần xa hơn.
– Bốn là “Đốn ngộ Đốn tu”: như nhuộm một sợi tơ thì tất cả muôn sợi lập tức đều nhuộm thành màu sắc.
Bốn câu trên phần nhiều là từ khía cạnh “chứng ngộ” mà nói. Chỉ có “Đốn ngộ Tiệm tu” mới là khía cạnh “giải ngộ” mà nói. “Đốn ngộ Tiệm tu” ví như mặt trời chợt xuất hiện, còn sương móc thì ở dưới ánh sáng thái dương dần dần mới tiêu tan.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Khi mới phát tâm Bồ đề liền thành tựu đạo Giác ngộ Chân chánh, sau đó mới bước lên Sơ địa lần lần tu chứng”.
Nếu chưa tỏ ngộ mà tu thì chẳng phải chân tu, chỉ có Đốn ngộ Tiệm tu này, đã phù hợp với giáo nghĩa Phật thừa, lại không trái ngược với tông chỉ Viên giáo.
Hãy đem việc Đốn ngộ Đốn tu mà nói, trên thực tế ắt cũng đã trải qua sự Tiệm tu nhiều đời trong quá khứ mới có việc Đốn ngộ ở đời này.
Điều này cần phải do người học tự mình thân thiết thể nghiệm tu hành. Nếu lời nói và hành động đồng nhất, hành động và lời nói như nhau thì dung lượng của tâm sẽ rộng thênh vô hạn, có thể phù hợp với đạo lý chân thật. Lúc ấy, tám ngọn gió của thế gian không còn làm dao động, tâm đối với ba loại cảm thọ đều lặng lẽ, chủng tử trong thức A lại da và hiện hành đều tiêu mất, căn bản phiền não và tùy phiền não đồng thời diệt tận.
Nếu như chỉ từ khía cạnh lợi ích tự thân mà nói, thì cần gì phải nhờ vào sự huân tu vạn hạnh. Không có bệnh thì đâu cần uống thuốc.
Nếu như từ khía cạnh lợi ích người khác mà nói, mọi sự tu hành đều không nên buông bỏ. Nếu tự mình không tu hành, làm sao khuyên bảo dẫn dắt người khác?
Cho nên trong kinh Phật nói:
“Nếu như tự mình trì giới, mới có thể khuyên bảo người khác trì giới. Nếu tự mình tọa thiền mới có thể khuyên bảo người khác tọa thiền”.
Luận Đại Trí Độ nói:
“Ví như ông lão trăm tuổi nhảy múa, đó là vì dạy bảo con cháu”.
Bồ Tát trước dùng móc câu ưa thích dẫn dắt chúng sanh, sau đó mới khiến họ đi vào trí tuệ Phật.
Nếu có người tâm chấp trước ngoại vật chưa từng đoạn dứt, phiền não tập khí lại nặng nề, thấy sự vật liền sanh khởi tình chấp, tiếp xúc ngoại cảnh ngưng trệ chẳng thông, dù họ đã hiểu rõ nghĩa lý vô sanh nhưng vì sức mạnh chưa đầy đủ nên không thể chấp mà nói rằng: “Tôi đã thấu rõ bản chất của phiền não chỉ là rỗng lặng. Nếu khởi tâm tu lại trở thành điên đảo”.
Song mà, bản chất của phiền não tuy rỗng lặng, nhưng có thể tạo thành nghiệp quả. Nghiệp quả tuy không có tự tánh, nhưng có thể gây ra nguyên nhân khổ đau. Đau khổ tuy giả dối không thật nhưng rốt cuộc khó mà chịu đựng. Ví như có người bệnh nặng, bản chất của bệnh tật vốn rỗng không, thế thì cần gì phải mời thầy thuốc, uống các thứ thuốc men?
Do đó đủ biết, lời nói và hành động nếu trái ngược nhau thì giả dối và chân thật có thể được kiểm nghiệm. Hãy đo lường căn cơ sức lực của chính mình không nên tự lừa dối. Phải nhận chân chính chắn , xét kỹ ý niệm, phòng ngừa những điều sai quấy.
Hỏi:
Lão Tử cũng mở ra pháp môn tu hành. Khổng Tử thì dốc sức xướng đạo khéo chỉ dẫn tường bước.
Tại sao lại phiến diện khen ngợi Phật giáo, cho là duy nhất tuyệt diệu?
Đáp:
Lão Tử chủ trương dứt tuyệt Thánh Hiền và tri thức, giữ chỗ chuyên nhất (khí rỗng rang), gìn sự nhu hòa. Ông lập giáo lấy thanh hư đạm bạc làm căn bản, dùng tu thiện ghét ác làm nội dung. Nói về báo ứng thì chẳng qua trong một đời, mục đích chỉ là duy trì tánh mạng của tự thân.
Những điều đó chỉ là quan niệm cạn cợt của thế tục, hoàn toàn chẳng cao hơn giáo nghĩa của đạo Phật, tư tưởng ấy trái với đạo lý phổ độ chúng sanh rộng rãi, không có lợi ích công đức chân chánh.
Khổng Tử chủ trương thực hành trung hiếu, đề xướng nhân nghĩa đạo đức.
Những điều đó chỉ mở rộng việc thiện ở thế gian, chưa có thể quên lời mà tinh thần thầm thể nhận, cho nên cũng chẳng phải là phương pháp dẫn đến sự giác ngộ rốt ráo.
Khổng Tử từng trả lời với Tử Lộ rằng: “Đối với sự sanh tồn và việc của con người ông còn chưa biết. Đối với cái chết và quỷ thần, ta làm sao rõ được?”.
Do đó, hai giáo lý của Nho và Đạo đều chưa vượt qua nhận thức thế tục, vẫn còn hạn cuộc trong vòng trần lao. Như thế làm sao có thể xét thấu tông chỉ diệu huyền nơi pháp giới, vận dụng diệu hạnh vô biên?
Hỏi:
Đạo Vô thượng do Đức Phật hoằng truyền được triết nhân đời sau tôn sùng. Hai đạo Nho và Lão đã bày tỏ sự khâm phục tôn kính đối với Phật giáo, như thế tại sao trong đời sau của họ lại có những người hủy báng không tin?
Đáp:
Bậc tiên triết sáng lập hai đạo Nho và Lão cũng đều là Bồ Tát. Các Ngài phản đối tà ác truyền bá chân lý, cùng chung tán trợ Phật thừa.
Lão Tử từng nói:
“Thầy của ta là Phật. Phật có nghĩa là khiến cho tất cả dân chúng đạt được giác ngộ”.
Kinh Tây Thăng nói: “Thầy ta du hóa ở Thiên Trúc, khéo vào Niết Bàn”.
Phu tử nói: “Thầy của Lão tử tên là Thích Ca Văn”.
Liệt Tử nói: “Thương Thái Tể Phỉ hỏi Khổng Tử rằng: Phu tử là Thánh nhân chăng?
Khổng Tử đáp: Khâu này, chỉ là học rộng nhớ hay mà thôi, chẳng phải là Thánh nhân”.
Lại hỏi: “Tam Vương là Thánh nhân chăng?”.
Đáp rằng: “Tam Vương khéo dùng trí dũng, chẳng phải là Thánh nhân”.
Lại hỏi: “Ngũ Đế có phải là Thánh nhân chăng?”.
Đáp: “Ngũ Đế khéo dùng nhân nghĩa, Khâu này cũng không biết rõ”.
Lại hỏi: “Tam Hoàng có phải là Thánh nhân chăng?”.
Đáp: “Tam Hoàng khéo dùng người thân cận và nắm bắt thời cơ, Khâu này cũng không hiểu rõ”.
Thái tể Phỉ rất ngạc nhiên nói: “Vậy thì ai là Thánh nhân?”.
Phu Tử đổi vẻ mặt bảo rằng: “Khâu này nghe ở phương Tây có bậc Thánh, không trị mà chẳng loạn, không nói mà mọi người tự tin, chẳng giáo hóa mà mọi người tự thực hành, đạo đức rộng lớn, mọi người không biết dùng từ gì để gọi cho xứng”.
Ngô Thư nói: “Ngô chủ Tôn Quyền hỏi Thượng thư Lệnh Hám Trạch rằng: Khổng Khâu và Lão Tử bằng với Đức Phật chăng?”.
Hám Trạch đáp: “Nếu đem Khổng và Lão sánh với Phật Pháp ở Thiên Trúc thì kém xa. Cho nên nói, Khổng Tử và Lão Tử thiết lập sự giáo hóa là noi theo trời mà chế định, không dám trái với lý trời.
Chư Phật thiết lập sự giáo hóa thì chư Thiên vâng theo thực hành, không dám trái với Phật. Lấy đây mà nói, Khổng và Lão rõ ràng không thể so sánh với Phật giáo”.
Vua Ngô rất vui thích, phong Hám Trạch làm Thái phó dạy Thái tử.
Trong Kinh Khởi Thế Giới nói:
“Đức Phật bảo rằng:
Ta phái hai vị Thánh Hiền đến Chấn Đán (Trung Quốc) giáo hóa. Một vị tên Lão Tử tức là Bồ Tát Ca Diếp; còn vị khác tên là Khổng Tử là Bồ Tát Nhu Đồng”.
Mọi người đều biết từ xưa đến nay, phàm những điều có lợi ích cho nhân loại thì thuộc về hành vi âm thầm hóa đạo của Bồ Tát, chỉ vì tư tưởng và hành vi của bậc Đại Sĩ cao siêu nên những người bình thường chẳng thể hiểu được. Do đó khiến cho những kẻ thấy nghe nhỏ hẹp, hiểu biết nông cạn xôn xao sanh khởi phí báng.
Có người bởi do không hiểu rõ tự thân hai tông Nho và Đạo, liền vô cớ phát sanh nhiều ngu vọng chấp trước. Người tu theo đạo Lão thì bùa bay ấn chạy, luyện đá đốt vàng, tế tự cá dê tanh hôi, tập theo lời hoang đường của thần tiên. Kẻ vào cửa Khổng thì tâm chí trái ngược với sự chất phát, ý chuộng phù hoa, đuổi theo tài cuồng trên môi lưỡi như chim anh võ, chuyên lo cái khéo léo nhỏ nhặt giống như nhện giăng tơ.
Những việc làm ấy của họ đều đã trái ngược với tư tưởng của bậc tiên triết, lại mất đi diện mạo vốn có của Nho và Đạo. Nếu những người này không phỉ báng thì làm sao có thể hiển bày sự cao thâm của Phật giáo. Kẻ hạ sĩ không cười thì đó đâu phải là Đạo.
Cho nên nói, Phật Pháp rộng lớn như biển cả không có gì chẳng dung chứa; lý tột cùng giống như hư không, không có cửa nào mà không tiến vào được. Tất cả bậc triết nhân thầm quy hội, hết thảy Thánh Hiền đều trở về. Chân đế và Tục đế cùng thi hành, ngu si và trí tuệ đồng nhất soi chiếu.
Nếu như mở rộng Tục đế thì lấy “trung” để khuyên bảo bầy tôi, lấy “hiếu” để khuyên bảo con cái, lấy “thiệu” (tiếp nối) để khuyên bảo nước nhà, lấy “hòa” để khuyên bảo gia đình. Hoằng dương lương thiện thì nói rõ niềm vui nơi thiên đường , răn bảo tà ác thì trình bảy nỗi đau khổ trong địa ngục. Đâu chỉ có một chữ “Nhất” mà cho là rộng lớn, lập điều răn há chỉ có năm hình pháp?
Nếu như diễn bày Chân đế thì phải và quấy đồng thời không còn, năng và sở đều rỗng lặng.
Nhiếp thâu vạn vật làm thành Nhất chân, hội thông ba thừa vào nơi Phật thừa cùng tột. Chỗ cứu cánh của Phật giáo, Nhị đế còn chẳng thể đến được, lẽ nào học thuyết của Bách gia chư tử có thể sánh kịp?
Hỏi:
Đạo ở khắp mọi nơi, Chân tánh chẳng đổi dời; có Phật hay không Phật thì tánh tướng vẫn thường trụ. Đó là Nhất Thể Tam Bảo thường hiện ở thế gian. Cần gì dùng vàng hoặc gỗ Chiên đàn để điêu khắc hình tượng, dùng trúc và lụa chép kinh, cạo tóc xuất trần để tạo lập Tam Bảo?
Đáp:
Bậc thượng căn thấu suốt diệu huyền đâu cần gì thực hành nơi sự tướng, hạng độn căn ắt cần phải nhờ sự tướng để phát tâm.
Chẳng thấy hình tướng chân chánh thì chỉ nhiễm theo tà tông. Như khi giáo pháp và hình tượng Phật chưa đến cõi này, chỉ có ngoại đạo hưng khởi nên đâu biết chân ngụy, chẳng rõ vết tích linh diệu.
Từ khi Hán Minh Đế mộng thấy thân vàng, vua Ngô thấy điềm lành mà hiện bày xá lợi. Từ đó trở về sau, Quốc Vương và Trưởng giả mới biết quy kính Phật Pháp, bậc triết nhân trí giả mới hiểu rõ chỗ gởi gắm tinh thần. Do đó nên biết, dấu vết có thể hiện bày cội gốc, nhờ vào hình tướng mà thấu suốt chân thật, nhân nôm mà được cá, Lý-Sự không phế bỏ.
Thế nên, tượng mẹ đổi sắc, tượng vàng phát quang; đạo nhờ người hoằng truyền, vật do tình mà cảm ứng, có thể phát sanh hạt giống thanh tịnh. Nhờ kính hình tượng giả dối mà khai mở tâm. Nếu không có lòng tin, dù gặp Phật thật cũng như chẳng thấy.
Mê thì gốc ngọn tiêu tan, rõ thì thật và giả đều thông suốt. Nếu nghiệm xét kỹ tập văn này ắt chẳng phát sanh tâm lấy bỏ. Hoặc cúng dường rộng rãi, phát tâm rất mực chí thành thì công phu của ý nghiệp sâu xa, sức mạnh của nhân tu rộng lớn. Vì vậy cô gái nghèo dâng nước vo gạo mà bước lên địa vị Phật Độc Giác, đồng tử cúng dường mười miếng lương khô mà được phước làm Chuyển Luân Thánh Vương.
Hỏi:
Theo nghĩa lý nhân duyên thì các pháp đều rỗng không, mình người không có tự tánh. Niết Bàn sanh tử đồng thể không khác.
Tại sao lại thực hành từ bi, giáo hóa rộng lớn?
Đáp:
Tuy nhân và pháp vốn rỗng không, mình người lặng lẽ, sự mê muội của chúng sanh giống như việc trong mộng, nhưng họ đều chẳng hiểu biết. Vì thế Bồ Tát hưng khởi từ bi dạy dỗ chân thật.
Kinh Đại Bát Nhã nói:
“Đức Phật bảo Tu Bồ Đề: Nên biết loài hữu tình tuy tự tánh rỗng không, rời xa mọi tướng mà lại có tạp nhiễm và thanh tịnh”.
Khởi Tín Luận nói: “Tuy nghĩ về tự tánh của các pháp vốn không sanh mà liền nghĩ về nghiệp thiện ác do nhân duyên hòa hợp, các quả báo khổ vui lại không mất không hoại. Tuy nghĩ về nghiệp báo thiện ác do nhân duyên hòa hợp mà cũng nghĩ về tự tánh của chúng vốn không thật”.
Vì thế, quán xét duyên khởi nên chẳng trụ nơi Niết Bàn, thấu rõ tánh không nên chẳng trụ trong sanh tử.
Hỏi:
Chín mươi sáu thứ ngoại đạo ở Ấn Độ ai nấy đều thiết lập môn tu hành, siêng năng cực khổ làm nghiệp lành. Tại sao khi quả báo hết lại vào trong luân hồi, không được giải thoát?
Đáp:
Chưa thấu suốt chân chánh vô sanh thì chỉ tu tập nhân sanh diệt, khởi tâm tham trước, ôm ấp ý hư vọng lấy khổ mà muốn bỏ khổ, từ mê chồng chất thêm mê, chìm nổi thăng trầm luân hồi không dứt, giống như nấu cát mà muốn thành cơm thật là vô lý!
Hỏi:
Không chỉ ngoại đạo tu thiện không được giải thoát, ngay cả nhũng người tu tập trong Phật Pháp cũng có kẻ chẳng đạt đạo là tại sao?
Đáp:
Đều vì có ngã nên không đoạn dứt được kiết sử. Phàm, khi làm việc đều nói là “ta làm hay”, theo cảnh mà thấy có được, vướng mắc nhân quả. Nếu rõ lý nhị vô ngã thì chứng ngộ nhất tâm, chẳng động trần lao, ngay đó giải thoát.
Hỏi:
Ngay khi làm việc, làm sao thấu rõ vô ngã?
Đáp:
Ngay khi làm việc từ duyên mà khởi, do có động tác thi vi mà không có chủ tể, có phát ra lời gì cũng như gió thoảng, theo cơ duyên mà chủ động cũng giống như người gỗ, chỉ dựa vào nghiệp lực hành động, không có thật ngã. Tứ đại tụ tán sanh diệt tùy duyên, cho đến thọ thân trong sáu nẻo cũng như vậy, thật không có người hay qua lại.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Như người gỗ máy móc
Phát ra các âm thanh
Nó vô ngã, phi ngã
Tánh nghiệp cũng như thế”.
Trong Luận nói: “Do duyên nên sanh lên cõi Trời. Do duyên nên đọa xuống địa ngục”.
Nếu bảo là ngã chẳng phải nhân duyên thì người ác tại sao không sanh lên cõi trời mà lại đọa xuống điạ ngục? Lẽ nào bản ngã lại ưa thích chịu đựng đau khổ nơi địa ngục hay sao?
Ngã đã làm ác thì chẳng thọ nhận điều vui, nên biết sự cảm nên quả báo thiện ác chỉ là do duyên, chẳng phải là ngã. Song, chúng sanh ở trong vô ngã vô tác lại vọng cho là có ngã có tạo tác, gượng bảo rằng có chủ tể. Họ chẳng biết đó là do ý thức làm ra, quyết định không có tác giả.
Ngoại đạo đều chấp vào sự tạo tác cho là có thần ngã, họ nói nếu không có thần ngã thì ai thi vi tạo tác.
Trong Luận Đại Trí Độ phá trừ sự chấp ấy rằng:
“Tâm là tướng của thức nên có thể sai khiến thân chẳng đợi phải có thần ngã, giống như tánh lửa hay thiêu đốt mọi vật không cần nhờ vào con người”.
Luận Duy Thức nói:
“Nếu chấp rằng thật có ngã thể thì ngã thể ấy có suy nghĩ hay không suy nghĩ?
Nếu có suy nghĩ thì phải là vô thường, vì không phải lúc nào cũng có suy nghĩ. Nếu không có suy nghĩ ắt giống như hư không chẳng thể tác nghiệp cũng không thọ quả báo. Cho nên, sự chấp ngã này theo lý đều chẳng thể thành lập”.
Do đó nên biết, nhất định không có thật ngã, chỉ có các thức từ vô thỉ đến nay trước diệt sau sanh, nhân quả tiếp nối, do sự huân tập hư vọng mà hiện ra dường như là có tướng ngã. Người ngu ở trong đó vọng chấp làm ngã.
Vả lại, vô ngã tức là không có tự tánh. Tánh tức là thể, thể nghĩa là chủ. Phàm có một pháp đều từ các duyên tạo thành, thật không có bản thể, do không có bản thể nên chỉ là rỗng không.
Thế nên, chúng sanh ở trong tánh không chấp là thật có. Bên trong bị ngã ràng buộc, bên ngoài bị trần cảnh hạn cuộc, cho nên tu hành chẳng ra khỏi tâm và cảnh, đến khi đắc quả cũng chẳng rời nhân. Lên xuống tuy khác nhau nhưng vẫn thường bị ràng buộc trong các cõi; khi cao lúc thấp, luân hồi sau trước, mọi sự lo sợ phát sanh, ngã là cội gốc.
Hỏi:
Vạn pháp đã không thật thể, xưa nay vốn tự rỗng không, tại sao lại có các pháp kiến lập?
Đáp:
Chỉ vì chúng rỗng không, không có thể tánh nên theo duyên sanh. Nếu chúng có tự thể thì không nhờ duyên sanh, đã không từ duyên sanh thì vạn pháp có thể tánh cố định.
Nếu thiết lập tướng cố định, ắt thành lỗi chấp thường, thiện ác không thể đổi dời, nhân quả bèn trở thành rối loạn. Vì làm ác lẽ ra phải sanh lên cõi trời, làm thiện lẽ ra phải bị trầm luân, bởi không có nhân; làm lành lẽ ra không có phước, làm ác lẽ ra không có tội, bởi vì không có quả báo.
Thế nên vạn pháp không có thể tánh, không cố định chỉ theo duyên mà hiện, bởi duyên sanh nên không có tự tánh. Các pháp đều rỗng không vì không có tự tánh, do duyên sanh nên các pháp được kiến lập.
Trong Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Bồ Tát ở trong chỗ không có tự tánh kiến lập tất cả Phật sự. Do đó nhân nơi Không thiết lập Có, nên Có chẳng phải chân thật; từ Có phân biệt rõ Không, cho nên Không chẳng có tự thể.
Hỏi:
Hiện nay thấy các pháp phát sanh, tại sao lại nói là không tự tánh?
Đáp:
Ngay nơi sanh mà không có sanh, cho nên không có thật tánh. Nếu nói rằng có sanh thì tự nó sanh ra, do những thứ khác sanh ra hay nhiều thứ hợp lại sanh ra, hay là không có nhân mà sanh ra?
Nếu nói rằng tự nó sanh ra, ví như tự thân nếu không có cha mẹ làm sao được sanh ra? Nên nói thân này là do cha mẹ mà có, lấy nghiệp quá khứ làm nhân bên trong, gá vào thân thể cha mẹ làm duyên bên ngoài. Nhân duyên trong ngoài hòa hợp mà có thì chẳng phải tự sanh ra.
Hoặc bảo rằng do những thứ khác sanh ra. Nếu không có nhân duyên cũ của chính nó thì hoàn toàn chẳng gá vào bào thai, đều phải do nghiệp của chính nó mà có. Ví như ở bên ngoài có đủ đất và nước nếu không có hạt giống thì quyết định không sanh được.
Nếu nói nhiều thứ hợp lại mà sanh ra, do duyên giả dối mà tạo thành thì làm sao có tác dụng của tự thể? Duyên từ nhân mà sanh khởi, nếu không có công năng trợ giúp từ bên ngoài thì nhân duyên đều không có. Vậy nên, lẽ nào lại có sự hòa hợp, như một hạt cát không có dầu, hòa nhiều hạt cát lại cũng không có dầu; một người mù không thấy, lẽ nào tập hợp nhiều người mù mà thấy được.
Nếu không có nhân mà sanh thì người con gái bằng đá lại có thể sanh con; lông rùa cũng làm phất trần được. Có nhân mà còn không, vô nhân lẽ nào lại có?
Vả lại, từ có nhân mà thiết lập không nhân, có nhân đã không thành thì không nhân cũng dứt tuyệt. Chỉ cần thấu suốt hai câu “tự nó” và “những thứ khác” đều không sanh thì bốn câu bị phá vỡ. Đã không có tự sanh ra và do những thứ khác sanh ra thì lấy gì làm hòa hợp cùng với không nhân mà có? Như thế thì bốn câu tự nhiên lặng lẽ.
Thế nên biết, sanh mà không sanh nên rõ ràng có tướng huyễn hóa; không sanh mà sanh nên tánh chân thật thường lặng lẽ. Do đó, kinh Kim Cang Tam Muội nói:
“Ý nghĩa nhân duyên sanh
Nghĩa ấy diệt chẳng sanh
Nghĩa diệt mọi sanh diệt
Nghĩa ấy sanh chẳng diệt”.
Hỏi:
Tất cả các pháp đã không tự tánh, đã không sanh thì tại sao chúng sanh lại chấp trước cảnh duyên mà thọ quả báo thật?
Đáp:
Chỉ vì không rõ các pháp không tự tánh, mê muội cho là có thật nên thọ quả thật. Nếu thấu suốt tánh của các rỗng không thì chẳng phát sanh tham trước, đã không tham trước thì tùy ý làm việc, không trụ nơi nhân, hoàn toàn chẳng thọ quả báo.
Thế nên trong kinh nói: “Tâm sanh thì các pháp sanh” Lại nói: “Tất cả chỉ do tâm tạo”. Nếu tâm không khởi thì ngoại cảnh thường rỗng lặng, hiểu rõ ngoại cảnh tánh không thì tâm mình tự nhiên lặng lẽ. Vọng tâm đã lặng lẽ, tướng huyễn đâu có phát sanh. Tâm cảnh nhất như tự nhiên hợp đạo.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
Tâm và ý các căn
Tất cả không tự tánh
Vọng tâm phân biệt có”.
Còn nói rằng:
“Tất cả pháp thế gian
Chỉ do tâm làm chủ
Hiểu lầm chấp các tướng
Điên đảo không đúng thật”.
Hỏi:
Đã thọ quả báo thật, tại sao nói tất cả đều không?
Đáp:
Nói rõ ràng rằng, chúng sanh tự vọng nhận là thật nhưng tự tánh của quả báo thường rỗng không. Tuy khi thọ nhận sự khổ vui tâm phát sanh yêu ghét, nhưng con người và sự vật đều rỗng không, không có một pháp nào thật. Giống như trong mộng thấy việc tốt xấu nơi lòng vui buồn khôn xiết, đến khi tỉnh ra rỗng rang không có gì.
Lúc tỉnh, những việc trong mộng chẳng phải có; khi mơ, điều trong mộng chẳng phải không. Đã tập theo điên đảo, ắt có quả giả dối.
Hỏi:
Tâm vọng cảnh huyễn, từ xưa vốn không hay hôm nay mới là không?
Đáp:
Tâm cảnh vốn không.
Hỏi:
Đã là vốn không, tại sao chúng sanh chẳng được giải thoát? Xưa nay vốn không trói buộc, tại sao lại bảo là giải thoát?
Đáp:
Chỉ vì không thấu rõ “vốn không” nên vọng sanh chấp trước là “nay có”.
Do sức huân tập từ vô thỉ đến nay, chẳng hiểu chẳng biết theo nghiệp mà lưu chuyển. Tuy ở trong sự ràng buộc của nghiệp mà tự tánh vẫn thường thanh tịnh.
Hỏi:
Làm sao được thanh tịnh rốt ráo?
Đáp:
Điều này có hai nghĩa:
1.Thấu rõ vốn không nên được sự thanh tịnh nơi tự tánh.
2. Làm trong sạch mọi vọng nhiễm nên được sự thanh tịnh lìa trần cấu.
Bản tánh đã thanh tịnh thì vọng niệm không sanh khởi, hai sự chướng ngại đều tiêu tan, ba vòng (mình, người, vật) rỗng suốt. Khế hợp với nguồn cội thì chủng tử và hiện hành của nghiệp thức đều lặng lẽ.
Hỏi:
Phật đạo xương minh dài xa, phàm thánh đồng tiếp nhận. Tại sao khi có hưng khởi, có lúc chìm lặng bất định, lại có sự hoại diệt nữa?
Đáp:
Phàm vạn vật có sự đổi dời nhưng Tam Bảo thì thường trụ, lặng lẽ không động mà cảm thông hóa độ. Chẳng phải ban đầu đản sanh trong vương cung cũng chẳng phải nhập diệt hẳn nơi song thọ.
Nếu chúng sanh phước mỏng thì Phật sự tiêu tan; nếu cõi nước có duyên sâu thì chùa chiền cùng khắp. Do con người tự phát sanh sự được mất, chẳng phải Phật Pháp có thịnh suy.
Thế nên kinh Pháp Hoa nói:
“Chúng sanh thấy kiếp tận
Lúc lửa lớn thiêu đốt
Cõi ta đây an ổn
Trời người thường đông vầy”.
Hỏi:
Đã tán thán các việc lành, báo ứng không sai. Tại sao lại có người siêng năng khó khổ mong cầu mà hoàn toàn không chứng đắc?
Đáp:
Người tu thiện vốn có được hai điều lợi ích thầm kín và hiển bày. Trong kinh Pháp Hoa Huyền Nghĩa có nói bốn câu dùng để xét rõ:
1. Cơ ứng âm thầm: Nếu ở quá khứ khéo tu ba nghiệp thì hiện tại lúc chưa vận dụng thân miệng đã được nhờ vào sức mạnh của điều lành thuở trước. Đó gọi là cơ cảm âm thầm.
Tuy không thấy linh ứng mà thầm được sự lợi ích nơi Pháp thân. Chẳng thấy chẳng nghe, không hiểu không biết, đó gọi là sự lợi ích âm thầm. Ứng thân phải là sự cảm ứng hiển bày; Pháp thân phải là sự cảm ứng âm thầm.
2. Cơ âm thầm, lợi ích hiển bày: Lúc quá khứ gieo trồng căn lành đã thành tựu cơ cảm âm thầm, lại được gặp Phật nghe pháp, được lợi ích trong hiện tại, đó là sự lợi ích hiển bày. Như Đức Phật vừa xuất hiện ở thế gian, người được độ đầu tiên khi ấy họ đâu từng tu hành. Do chư Phật soi xét căn cơ thuở trước mà tự đi đến độ họ.
3. Cơ hiển bày và sự lợi ích hiển bày: Hiện tại thân và miệng tinh tấn không lười biếng, mà hay cảm nên. Lễ sám nơi đạo tràng có thể cảm nên linh ứng.
4. Cơ hiển bày và sự lợi ích âm thầm: Như có người tuy cả đời siêng năng vất vả, trong hiện tại tích lũy nhiều điều lành tuy không thấy sự cảm ứng hiển bày nhưng vẫn có lợi ích âm thầm.
Nếu hiểu rõ bốn ý trên thì tất cả việc cúi đầu, chắp tay, phước báo đều không mất. Trọn ngày làm mọi việc lành, tuy không thấy cảm ứng vẫn không hối tiếc.
Hỏi:
Hoặc có người cả đời tu thiện nhưng trong hiện tại lại bị nhiều quả báo ác; còn người suốt ngày làm ác mà toàn gặp việc tốt lành là tại sao?
Đáp:
Nghiệp thông cả ba đời, chỉ là thuần thục và chưa thuần thục không nhất định mà thôi; lại thông ba quả báo, dày mỏng lật đổ nhau.
Tổ sư thứ mười ở Ấn Độ, Ngài Cưu Ma La Đa nói:
Đời trước tu công đức
Đã được hơn nửa phần
Vì có chút phá hoại
Đổi tâm làm việc ác.
Tội nghiệp, ít công đức
Chết cũng hưởng phước đức
Ngay lúc hưởng vui sướng
Tâm dường như an lạc
Những việc buồn ập đến,
Gia đình dần suy sụp
Do nghiệp ác trước kia
Tiếp nối gây ra thế,
Chẳng phải nay tu phước
Mà chuốc lấy quả ác.
Lại nói rằng:
Đời trước làm việc ác
Tội ấy hơn nửa phần
Bỗng gặp một người trí
Dạy bảo tu phước đức.
Phước đức tuy tu rồi
Việc lành chưa hơn tội
Công đức ít hơn tội
Chết vẫn sanh bần cùng.
Tâm không tin kính Phật
Cũng không trọng Tam Bảo
Tội kia hơn nửa phần
Gia đình dần giàu có
Của cải nhiều tài sản
Do nghiệp thiện trước kia
Tiếp nối gây nên thế
Chẳng phải nay làm ác
Mà chuốc lấy quả thiện.
Trong Luận nói:
“Hiện nay chúng ta bị bệnh khổ đều do gây nhân trong quá khứ. Đời nay tu phước, tương lai được quả báo. Nếu thấy người hay giết hại mà được trường thọ, thích bố thí lại bần cùng, vẫn có thể nhờ tin lời nói này, không phát sinh tà kiến.
Nếu không hiểu điều này thì lo lắng hối hận, chẳng rõ được lý nhân quả thông cả ba đời, bảo rằng ra công phí sức, quả báo của thiện ác không có gì chứng nghiệm”.
Chỉ cần một lòng tu thiện không thối thất, không gián đoạn thì quả phước mãi thắm tươi. Chỉ lo lắng giữa đường tự phát sanh sự chướng ngại mà thôi. Bậc thức giả, hiền sĩ nên hiểu rõ ý này.
Hỏi:
Ác có thể che lấp thiện, khiến tai họa sanh khởi, phước đức bị nghiêng đổ. Thiện có thể dẹp trừ ác, khiến cho nghiệp chướng tiêu trừ, đạo lý hiển hiện.
Tại sao lại có người cả đời tích lũy nghiệp lành lại bị tai ương? Lương Võ Đế nhiệt thành quy y Tam Bảo, kết quả lại bị khốn đốn chết ở Đài Thành trong cuộc nổi loạn của Hầu Cảnh, hoàn toàn chẳng được gia hộ.
Mọi người đối với việc này đều nghi hoặc không hiểu, xin giải thích rõ?
Đáp:
Ở trước đã xác định rõ, nghiệp thông cả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Đạo lý cũng hoàn toàn tỏ rõ.
Nay lại một lần nữa vì phá dẹp nghi ngờ, từ ba phương diện dưới đây để tiến hành giải thích:
1. Chư Phật và Bồ Tát ứng thuận cơ duyên hiển hiện nhiều loại hình dạng, lập bày thi vi thuận theo chúng sanh thế gian cùng họ đồng khổ đồng vui, thiên biến vạn hóa để tiếp dẫn rộng rãi những chúng sanh phiền não. Các Ngài hoặc giả thân nơi bình an bỗng nhiên nguy ách, để nói rõ đạo lý sự vật đến chỗ cùng tất trở lại; hoặc giả mãi hưởng vinh hoa bất chợt lâm nạn, để tỏ bày quy luật thịnh ắt có suy.
Qua đó khiến cho những người đam mê vinh hoa tỉnh ngộ thế gian tất cả vô thường; cũng khiến cho những người giàu sang tự thị hiểu được mạng sống hữu hạn, âm thầm tiêu trừ tham dục, khéo rửa sạch trần cấu phiền não chúng sanh.
Có khi thị hiện chân chánh, có khi thị hiện tà vạy, có khi nghịch hướng mà đi, có khi tùy thuận mà làm. Những điều lập bày thi vi của Bồ Tát nói trên đều là phương pháp đặc biệt âm thầm hóa độ, những kẻ phàm phu không thể nào hiểu được.
2. Thiện và ác hoàn toàn chẳng cố định; quả báo dựa vào duyên, nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn, thế của nó không thể ngăn cản.
Cho nên trong kinh Niết Bàn nói:
“Nghiệp của chúng sanh tạo có ba loại báo ứng:
– Một là hiện báo: chỉ cho nghiệp thiện ác tạo trong hiện đời, hiện đời chịu quả báo khổ vui.
– Hai là sanh báo: chỉ cho nghiệp làm trong hiện đời, đời sau mới chịu quả báo.
– Ba là hậu báo: chỉ cho nghiệp làm trong hiện đời, phải trải qua trăm ngàn đời sau mới chịu quả báo.
Trong kinh còn nói:
“Có nghiệp hiện tại khiến người đau khổ, tương lai lại có quả báo khổ. Có nghiệp hiện tại khiến người đau khổ, tương lai lại có quả báo vui. Có nghiệp hiện tại khiến người vui vẻ, tương lai lại có quả báo vui. Có nghiệp hiện tại khiến người vui vẻ, tương lai lại có quả báo khổ.
Có người do phước thừa đời trước chưa hết, nên quả báo ác không lập tức đến ngay với họ. Có người tai họa đời trước tuy còn nhưng cơ duyên lành liền phát sanh”.
Ngoài ra nếu thiện nhiều mà ác ít thì trước hưởng vui sau chịu khổ, phước báo tiêu hết tai họa liền phát sanh. Nếu thiện ít mà ác nhiều thì trước chịu khổ sau hưởng vui, tai họa tiêu hết vui mừng tụ họp, những việc ấy đều thuộc về hậu báo.
Nghiệp thiện ác một khi chín mùi, nếu chỉ lấy lực tu thiện trong đời này thì khó mà dẹp hết. Do đó, dù cho đoạn trừ phiền não chứng đắc quả Thánh vẫn còn nợ cũ phải hoàn trả. Như Tỳ kheo Sư Tử, Thiền sư Nhất Hạnh chính là trường hợp đó; huống gì kẻ phàm phu bị nghiệp lực trói buộc làm sao có thể trốn thoát nạn này?
3. Có người thiện căn sâu dày, đồng thời còn có tâm tu hành kiên định, chí quyết không nghi, thệ nguyện lớn có sức mạnh, thì tuy ở hiện đời chịu lấy quả báo nhẹ nhưng có thể đoạn trừ những tội lỗi nghiêm trọng.
Nên trong kinh nói:
“Đời nay làm ác ít làm thiện nhiều thì chuyển quả báo nặng nơi địa ngục thành quả báo nhẹ trong đời hiện tại.
Nếu đời nay làm lành ít làm ác nhiều thì chuyển nghiệp nhẹ đời hiện tại thành nghiệp nặng nơi địa ngục”.
Cho đến, người thuần tu hạnh lành tuy hiện đời tạm thời bị bệnh nhẹ như nhức đầu, nhưng rốt cuộc diệt trừ khổ nạn trăm ngàn muôn kiếp nơi địa ngục. Do đó, Bồ Tát phát nguyện rằng: “Nguyện đời nay hoàn trả nợ nghiệp, chẳng muốn rơi vào đường ác chịu khổ”.
Người tạo nhiều nghiệp ác, tuy hiện đời hưởng thụ an vui nhưng quả báo của họ lại ở nơi địa ngục A Tỳ mãi mãi bị nỗi khổ của địa ngục hành hạ nung nấu không lúc nào ngừng nghỉ.
Ngoài ra, người tu hành đạt đến công lực nhất định thì sẽ thoát khỏi luân hồi, lúc lâm chung tuy chịu chút ít đau khổ nhưng nghiệp ác từ xa xưa đến nay nhất thời sẽ hoàn trả hết.
Ví như Pháp sư Tam Tạng Huyền Trang đời Đường, chín đời làm Tăng ở Trung Quốc, luận về phước đức hay trí tuệ cũng thường được xem là bậc nhất. Lúc Ngài ở đời dốc sức hoằng dương Phật giáo, khai diễn Phật Pháp Nhất Thừa, lợi ích cùng khắp tất cả chúng sanh, công đức vô lượng khó lường xét.
Khi Ngài gần viên tịch, nằm yên tĩnh trong phòng bệnh. Thiền sư Minh Tạng đến thăm, thấy có hai người cao lớn tay cầm một bông sen trắng đến trước Pháp sư nói rằng:
– Những nghiệp ác mà Pháp sư làm tổn hại chúng sanh từ xưa đến nay, do chút ít bệnh tật hiện tại mà đều được tiêu trừ. Đối với việc này Ngài nên cảm thấy vui mừng!
Pháp sư chắp tay hướng nhìn hai vị ấy, sau đó bèn nằm nghiêng bên phải.
Đệ tử hỏi rằng:
– Hòa thượng nhất định sẽ vãng sanh về nội viện Đâu Suất chăng?
Ngài đáp rằng:
– Nhất định vãng sanh.
Nói xong hơi thở yếu dần, an nhiên thị tịch.
Nếu hiểu được ba tầng ý nghĩa trên mới gọi là người biết rõ nhân quả. Nếu không rõ những đạo lý này, tất nhiên sẽ phát sanh hoài nghi và phỉ báng.
Hỏi:
Phàm tu thiện căn phải thuần nhất, tại sao lại tạo ác? Đã hay tạo ác thì cần gì đến thiện, nếu thiện ác đều làm, e rằng phí suông công sức.
Đáp:
Nếu Bồ Tát xuất gia không có các chướng ngại nên tu thuần nhất việc thiện, tiến thẳng đến Bồ đề. Còn như Bồ Tát tại gia sự nghiệp buộc ràng chưa được thuần tịnh, nên thực hành các điều lành để đối trị.
Nghiệp khó mà nhanh chóng đổi dời, còn điều ác thì đâu dễ dàng đoạn dứt hoàn toàn, phải dần dần tích lũy công đức, tiến đến Bồ đề. Nếu tích lũy điều ác không lo tu tập việc lành thì việc xấu ác không có cùng tận, nên cần phải thực hành việc lành, diệt trừ nhân xấu ác.
Kinh Thí Dụ nói:
“Thuở xưa có một vị Quốc vương đi săn bắn. Trên đường về đi ngang qua ngôi chùa, nhà vua vào chùa nhiễu tháp và lễ lạy các vị Sa môn.
Lúc ấy quần thần đều cười, nhà vua biết được hỏi rằng:
– Ví như có vàng ở trong vạc nước sôi, có thể dùng tay lấy vàng ra được không?
Quần thần đáp:
– Không thể được!
Nhà vua bảo:
– Đem nước lạnh đổ vào trong, có thể lấy vàng ra được không?
Quần thần thưa rằng:
– Có thể được!
Nhà vua bảo:
– Ta làm việc vua, đi săn bắn, giống như nước sôi. Dâng hương, đốt đèn, đi quanh tháp, giống như đem nước lạnh đổ vào trong nước sôi vậy. Phàm làm vua thì đều có hành vi thiện ác, tại sao lại chỉ làm ác mà không làm lành?”.
Hỏi:
Bồ Tát tại gia cũng phải thuần tu nghiệp lành chăng?
Đáp:
Bồ Tát tại gia nếu vững chí, lòng tin kiên định thì một mực quy kính Phật Pháp. Giống như con nai mắc vào lưới, lửa cháy trên đầu, nhất tâm chỉ muốn cầu được thoát khỏi chẳng quan tâm đến việc thế gian.
Từ xưa đến nay trường hợp này rất nhiều.
Trong kinh Thí Dụ nói:
“Thuở xưa có một vị Quốc vương rất quí đạo đức, thường kinh hành nhiễu tháp Phật. Hôm ấy, ông còn chưa kinh hành mãn một trăm vòng, vua nước lân cận đã dẫn binh đến đánh, muốn chiếm đoạt nước ấy.
Cận thần nghe được tin tức, vô cùng hoảng hốt bẩm báo Quốc vương, xin tạm thời dừng nhiễu tháp lễ kính để tiện chế ngự cường địch.
Quốc vương đáp: “Cứ để cho chúng đánh sang, ta quyết không dừng nhiễu tháp”.
Tâm ý kiên định, nhà vua vẫn đi nhiễu tháp không dừng, kết quả quân địch tan rã”.
Như trên, đủ thấy con người chỉ cần có một lòng tin và ý niệm kiên định không đổi dời thì việc gì cũng có thể làm được. Cho nên núi sông hiển bày không linh nghiệm, đó là vì sự chí thành của con người không đủ. Một khi con người tâm thành chí vững thì tất cả đều sẽ nghe theo mệnh lệnh của mình. Trong truyền thuyết có câu chuyện người con hiếu thảo nằm trên băng được cá, khóc bên khóm tre được măng, những điều đó hoàn toàn chẳng phải do thần lực làm ra mà bởi tâm chí của con người tạo nên.
Hỏi:
Nếu tu tập muôn lành, người người đều sẽ thực hành pháp môn từ bi; chỉ tiếp nhận chân lý, sẽ trở ngại công việc bình thường của thế tục.
Như thế, tuy thân ở nơi đất nước của mình mà lại mất đi công năng trị nước, tuy thân ở nơi nhà mình mà lại khó thành tựu gia nghiệp, tuy bảo rằng lợi ích mọi người nhưng hoàn toàn chưa đạt được chỗ tốt đẹp cả hai.
Đáp:
Phật Pháp có đủ mọi công đức lành, có thể thấm nhuần tất cả hữu tình trong pháp giới, lực dụng của nó tế độ cả người còn kẻ mất, tinh thần bao hàm hai giới đạo và đời. Đối với quốc gia mà nói, có công đức lành thì sẽ phồn vinh lớn mạnh. Đối với gia đình mà nói, có công đức lành thì sẽ giàu sang hưng thịnh. Do đó, sự lợi ích của nó vô cùng rộng lớn, tác dụng sâu xa.
Cho nên sách xưa nói:
“Gia đình tích lũy đức lành, tương lai nhất định có vui mừng để lại cho con cháu. Gia đình tích lũy tà ác, tương lai nhất định có ương họa để lại cho đời sau”.
Còn nói:
“Làm nhiều việc thiện sẽ cảm ứng những điềm tốt lành, làm nhiều việc ác sẽ cảm ứng đủ thứ tai họa”.
Theo lịch sử Lưu Tống ghi chép, Tống Văn Đế trong năm Nguyên Gia hỏi Thị Trung Hà Thượng Chi rằng:
– Phạm Thái, Tạ Linh Vận thường nói, Lục Kinh vốn là dùng cho việc cứu tế thế tục, nếu muốn tỏ rõ yếu chỉ chân thật về tánh linh thì nên lấy kinh điển Phật giáo làm chỉ nam. Nếu cả nước đều tiếp nhận sự giáo hóa của Phật Pháp thì ta có thể ngồi hưởng thái bình”.
Thị Trung đáp rằng:
– Trong làng có một trăm nhà, có mười người vâng giữ năm giới thì có mười người thuần hậu cẩn tín. Trong ấp ngàn hộ, có trăm người tu tập mười điều lành thì có trăm người khiêm hòa thuần phát. Đem nếp sống này truyền bá đến mọi ngõ ngách, hộ dân đã có vô lượng ngàn vạn thì nhân nghĩa đạo đức sẽ có trăm vạn.
Nếu như có thể tu một hạnh lành thì sẽ trừ bỏ một hạnh ác, trừ bỏ một hạnh ác cũng chính là tránh khỏi một lần hình phạt. Trong gia đình tránh khỏi một lần hình phạt thì đối với toàn thể quốc gia mà nói, cũng là tránh khỏi muôn lần hình phạt, đây chính là điều mà Hoàng đế nói ngồi hưởng thái bình”.
Cho nên sự tu tập hạnh lành có thể bao trùm pháp giới, cùng khắp hư không, bất cứ một hạnh lành nào cũng đều được lợi ích. Có thể nói, nó là căn bản của sự xác lập tự thân, phụ trợ giáo hóa, cho đến sửa chỉnh giúp đỡ nước nhà, bảo hộ gia đình của mọi người.
Con người nếu theo đây mà xác lập tự thân thì ai nấy đều có thể gầy dựng. Lấy đây sửa chỉnh nước nhà, bất cứ quốc gia nào cũng an lành. Từ sự lợi ích gần mà nói, có thể đạt được quả báo cõi trời người; từ sự lợi ích xa mà nói, thì rốt cuộc đạt được quả vị Phật.
Hỏi:
Phàm phu tập mọi hạnh lành, lấy gì làm gốc?
Đáp:
Tất cả lý thể và sự tướng đều lấy tâm làm gốc.
Từ lý thể mà nói, thì trong kinh Phật bảo rằng:
“Quán sát tất cả pháp đều phát xuất từ tự tâm; thành tựu thân trí tuệ chẳng do người khác mà tỏ ngộ”.
Đó là chỉ cho lấy Chân như quán sát, tâm chân thật làm gốc.
Từ sự tướng mà nói, trong kinh Phật bảo rằng:
“Tâm như họa sĩ khéo
Vẽ thế giới muôn màu
Cảnh ngũ ấm thế gian
Không pháp nào không tạo”.
Đây là chỉ cho lấy tâm thức quán sát, tâm duyên lự làm gốc.
“Tâm chân thật” là Thể. “Tâm duyên lự” là dụng. Dụng chính là “môn Sanh diệt của tâm”. Thể chính là “môn Chân như của tâm”.
Tuy phân làm hai phần Thể và Dụng, nhưng thực tế chỉ có một tâm. Dụng là Dụng từ Thể, Dụng hoàn toàn chẳng tách rời Thể; Thể là Thể nơi Dụng, thể hoàn toàn chẳng tách rời Dụng.
Sự mở ra và hợp lại của tâm tuy không đồng nhưng bản tánh chân thật lặng yên chẳng động. Tâm đã có thể làm Phật, cũng có thể làm chúng sanh; đã có thể tạo thiên đường, cũng có thể tạo địa ngục.
– Tâm nếu dấy động thì vạn vật sanh khởi.
– Tâm nếu bình lặng thì pháp giới điềm nhiên.
– Tâm nếu ở nơi phàm tục thì bị ba độc ràng buộc.
– Tâm nếu vào nơi cảnh Thánh thì tự tại vô ngại trong sáu đường.
– Tâm nếu rỗng lặng thì một đạo thanh tịnh
– Tâm nếu nhiễm trước thì muôn cảnh tung hoành.
Như hang động trống nên ứng lại tiếng, âm thanh cao thì tiếng vang lớn; lại giống như gương sáng soi vật, hình không ngay thì bóng ắt cong vạy. Đây là nói rõ vạn hạnh đều bắt nguồn từ nơi tâm, tất cả thiện ác đều ở nơi mình.
Bên trong giả dối thì bên ngoài tự nhiên sẽ không chân thật. Bên trong vi tế thì bên ngoài tự nhiên sẽ không thô thiển. Nhân thiện chung quy sẽ gặp được duyên lành; hạnh ác rốt cuộc tất khó tránh khỏi cảnh ác. Đạp mây mù uống cam lồ, hoàn toàn chẳng phải do người khác ban cho; nằm trong lửa khói, uống máu mủ cũng toàn là do chính mình gây nên.
Duyên thiện và cảnh ác chẳng do trời sanh ra, cũng chẳng phải đất tạo nên, mà chỉ do nơi một tâm niệm ban đầu của chúng ta, một tâm niệm thiện ác liền dẫn đến sự thăng trầm về sau. Muốn bên ngoài an hòa, chỉ cần nội tâm yên tĩnh. Tự tâm rỗng rang ngoại cảnh sẽ lặng lẽ. Tâm niệm dấy động, vạn vật sanh khởi. Dòng sông vẩn đục, nước sông lờ mờ; đầm nước lắng trong bóng trăng sáng tỏ.
Then chốt của tất cả sự tu hành đều không thể tách rời tâm, tâm này có thể gọi là cánh cửa của mọi sự mầu nhiệm, chỗ chứa nhóm của mọi sự linh diệu, căn bản thăng trầm, cội nguồn họa phước. Cho nên chỉ cần làm tâm mình chân chánh không cần hoài nghi cảnh giới bên ngoài.
Trong kinh nói: “Làm lành phước theo, làm ác gặp tai họa”. Tiếng vang ứng theo âm thanh, thiện ác cũng giống như âm thanh. Điều đó hoàn toàn chẳng phải do Thiên long quỷ thần trao cho, cũng chẳng phải do ông bà trước kia hay con cháu sau này gây nên. Tạo ra thiện ác chỉ do tâm, làm thành là bởi nơi thân và miệng.
Đức Phật nói bài kệ rằng:
“Tâm là gốc muôn pháp
Tâm đứng đầu, sai sử
Trong tâm khởi niệm ác
Nói ác và làm ác
Thì tội khổ theo ta
Như xe lăn theo vết.
Tâm là gốc muôn pháp
Tâm đứng đầu, sai sử
Trong tâm khởi niệm thiện
Nói thiện và làm thiện
Như bóng theo với hình”.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Bồ Tát Trí Thủ hỏi Văn Thù Sư Lợi:
– Làm sao để được không lỗi lầm ở nơi nghiệp thân, miệng, ý. Cho đến trở thành bậc Giác ngộ Chân chánh Vô thượng?
Văn Thù Sư Lợi đáp:
– Phật tử! Nếu chư Bồ Tát khéo dùng tâm mình thì đạt được tất cả công đức thù thắng vi diệu”.
Kinh Mật Nghiêm nói:
“Giống như đất không phân biệt, mọi vật nương nơi đó mà phát sanh. Tàng thức cũng như thế, là chỗ nương tựa của các thứ cảnh”.
Như người lấy tay chạm vào thân mình, cũng như con voi dùng vòi lấy nước tắm rửa chính mình; lại giống như các đứa bé dùng miệng ngậm ngón tay. Cũng thế, tự trong tâm hiện cảnh rồi lại tự duyên theo. Cảnh giới của tâm này cùng khắp ba cõi. Hành giả tu Quán lâu ngày có thể khéo thông suốt, các thế gian trong ngoài tất cả chỉ do tâm hiện. Do đây mà xét, tâm đâu chỉ là cội gốc của muôn điều lành, mà kể cả hữu tình vô tình, cảnh giới phàm thánh, hư không vạn vật đều bắt nguồn từ nơi tâm. Bảo rằng vô trụ là gốc, cội gốc được thiết lập thì đạo phát sanh. Đó chính là nói về lẽ này.
Hỏi:
Cội nguồn vạn hạnh lấy tâm làm gốc trong môn trợ đạo pháp gì đứng đầu?
Đáp:
Lấy sự chân thật chánh trực làm đầu, từ bi nhiếp hóa làm đạo. Do chánh trực nên quả không cong vạy, hạnh thuận với Chân như. Do từ bi nên không rơi vào Tiểu thừa, công đức bằng bậc Đại Giác. Nhờ hai môn này mình và người đều được lợi ích.
Hỏi:
Ở trên nói rõ, trước phải biết Chánh tông thực hành khắp cả pháp môn trợ đạo. Nay dùng môn vạn hạnh để tiêu trừ nghi ngờ ngưng trệ, chưa rõ lấy gì làm tông chỉ?
Đáp:
Phật Pháp vốn không có tông chỉ nhất định. Chỉ tùy chỗ vào thấy rõ tâm tánh, tạm gọi đó là tông chỉ.
Hỏi:
Dùng phương tiện gì để được ngộ nhập?
Đáp:
Có môn phương tiện phải nên tự vào.
Hỏi:
Lẽ nào lại không chỉ rõ?
Đáp:
Thấy tánh không chỗ nơi làm sao chỉ rõ.
Thật chẳng phải cảnh giới thấy nghe hiểu biết.
Hỏi:
Đã không chỉ ra thì khi thấy sẽ là thấy vật gì
Đáp:
Thấy không vật.
Hỏi:
Không vật làm sao thấy?
Đáp:
Không vật thì không thấy. Không thấy là thấy thật sự, có thấy thì theo trần cảnh.
Hỏi:
Nếu như thế, tại sao trong giáo lý Đức Phật cũng nói “thấy”?
Đáp:
Đức Phật tùy theo pháp thế gian tức là không thấy mà thấy, chẳng đồng với phàm phu chấp là thấy thật. Nói đến cùng, thấy tánh chẳng thuộc về có và không, lắng yên thường lặng lẽ.
Hỏi:
Rốt cuộc là thế nào?
Đáp:
Cần phải tự thân tỉnh xét.
Hỏi:
Ở trước bảo rằng ngoài tâm không có pháp, tại sao ở đây nói có thấy thì theo trần cảnh?
Đáp:
Tất cả cảnh sắc đều là do hiện lượng tướng phần của thức thứ tám tạo nên, thật không có pháp nào ở ngoài. Khi mắt thấy sắc thì chưa sanh phân biệt, trong khoảng sát na chuyển vào ý thức minh liễu, phân biệt hình tướng cho là sự vật ở bên ngoài, bèn chấp thành trần cảnh.
Hỏi:
Cảnh là do thức nào biểu hiện?
Đáp:
Trần cảnh do thức biểu hiện, nội thức biến khởi biểu hiện dường như trần cảnh, như trong gương thấy mặt mình, chẳng phải là bóng của người khác hiện ra. Duy Thức Luận nói:
“Nội thức chuyển biến dường như ngoại cảnh, sự phân biệt về ngã pháp nên khi các thức sanh khởi biến hiện ra ngã pháp của chính nó. Tướng ngã pháp này tuy ở nơi nội thức nhưng do sự phân biệt nên dường như ngoại cảnh hiện ra. Các loài hữu tình từ vô thỉ đến nay duyên đó mà chấp vào thật ngã thật pháp. Giống như chiêm bao, do sức của huyễn mộng nên tâm dường như hiện ra nhiều tướng ngoại cảnh.
Nội thức biểu hiện dường như ngã, dường như pháp tuy có mà không thật”.
Kinh nói:
“Do tự tâm chấp trước nên tâm dường như chuyển hiện ra ngoại cảnh. Mọi vật mà chúng sanh thấy đều chẳng phải có thật. Thế nên nói Duy tâm”.
Ở đây là từ mặt Sự mà nói là thức biến hiện. Nếu đạt sâu Chân như thì tất cả các pháp xưa nay chẳng động, tự tánh của tâm cũng chẳng đợi biến hiện.
Hỏi:
Trần và thức này từ đâu mà lập?
Đáp:
Do chủng tử danh từ ngôn ngữ huân tập mà được kiến lập. Thật ra chúng không có bản chất mà dường như có ý nghĩa và tướng mạo hiển hiện, giống như vật huyễn hóa.
Do danh mà lập pháp, nhân pháp mà đặt danh. Trong danh không có pháp, trong pháp không có danh. Chúng không có bản chất chỉ do kết hợp lẫn nhau mà thành, mọi tướng đều lặng lẽ.
Hỏi:
Thức này đã không lập thì lấy thức nào làm tông?
Đáp:
Các thức cũng không có chỗ trở về rốt ráo, nếu nói tận cùng thì chỉ có một Chân tánh. Vì để dẹp trừ cảnh cho nên thiết lập Loạn thức này. Nếu cảnh diệt ắt thức cũng không còn, năng sở đều không, chỉ có một Chân thức, tức là Thật tánh.
Luận Tam Vô Tánh nói:
“Trước dùng Loạn thức dẹp trừ cảnh, kế đến dùng Yêm Ma La thức dẹp trừ Loạn thức, cuối cùng chỉ còn một Tịnh thức”.
Hỏi:
Lý-Sự vô ngại, muôn việc tu trọn vẹn. Đó là dựa vào giáp pháp nào, thuộc về Đế nào?
Đáp:
Pháp tánh dung thông tùy duyên tự tại, nêu lên một pháp thâu nhiếp trọn vẹn vạn hạnh. Đó tức là y cứ vào Hoa Nghiêm, thuộc về Viên Giáo.
Nếu từ nơi Lục độ vạn hạnh mà thành Phật hóa độ chúng sanh thì tuy là duyên khởi thanh tịnh nhưng đều thuộc về Thế đế.
Nếu thấu rõ Tông này, cứu xét tận cùng biển quả thì lý và trí đều không, ngôn ngữ tâm tư dứt bặt.
Hỏi:
Trong tập văn này trình bày mấy danh mục?
Đáp:
Nếu như hỏi về khái niệm giả danh thì có vô số danh mục. Nay nói khái lược gọi chung là Vạn Thiện Đồng Quy, nếu phân biệt mà nói thì có mười ý nghĩa.
1. Lý-Sự vô ngại.
2. Quyền-Thật song hành.
3. Nhị đế cùng trình bày.
4. Tánh-Tướng dung thông.
5. Thể-Dụng tự tại.
6. Có-Không làm thành với nhau.
7. Chánh hạnh-Trợ hạnh gồm tu.
8. Đồng-Dị bình đẳng.
9. Tu-Tánh không hai.
10. Nhân-Quả không sai.
Hỏi:
Danh từ nhân nơi ý nghĩa của sự vật mà xác lập, ý nghĩa của sự vật nhờ vào danh từ mà được rõ ràng. Đã xác lập những giả danh ấy, thì làm sao hiểu được ý nghĩa của chúng?
Đáp:
1. Lý-Sự vô ngại:
Lý chỉ vô vị, Sự chỉ hữu vi. Tuy trọn ngày làm mà chưa từng hữu vi, tuy trọn ngày không làm mà chưa từng vô vi. Hữu vi và vô vi đã chẳng phải một, cũng chẳng phải khác, đều bắt nguồn nơi Pháp tánh, đồng với hư không.
– Nếu nói là “một” thì trong kinh Nhân Vương nói rằng: “Chư Bồ Tát đối với công đức hữu vi và công đức vô vi đều được thành tựu”, nếu chỉ là “một”, ở đây không nên nói có hai loại công đức.
– Nếu nói là “khác” thì trong kinh bát Nhã cũng bảo rằng: “Không thể tách rời hữu vi mà nói vô vi, không thể tách rời vô vi mà nói hữu vi”.
Do đó “Lý và Sự” tương tức, chẳng phải đoạn chẳng phải thường, sanh khởi và tịch diệt đồng thời, nơi nơi viên dung vô ngại.
2. Quyền-Thật song hành:
Thật là chỉ lý chân thật, Quyền là chỉ pháp môn quyền biến hóa độ. Từ chỗ chân thật mà sanh khởi giáo hóa thì ngoài chân thật không có quyền biến; thông qua vết tích mà được căn bản thì ngoài quyền biến không có chân thật.
Nếu trước và sau thầm hợp tông chỉ đồng nhất thì “Quyền” và “Thật” có thể cùng thực hành, không cách ngại chi cả. Sự phá dẹp và chiếu soi đồng thời, thế thì bản thể và hiện tượng sẽ đồng loạt hiện rõ.
3. Nhị đế cùng trình bày:
Chư Phật thường y vào Nhị đế Chân và Tục mà thuyết pháp.
Tại sao?
Bởi vì Tục đế là văn cú hiển bày chân lý, biết rõ Tục đế vốn không tự tánh tức là Chân đế. Cho nên nói, nếu không thấu suốt Tục đế thì cũng không thấu suốt Đệ nhất nghĩa đế (Chân đế). Vì vậy, Chân đế không đợi kiến lập mà thường luôn hiện rõ. Tục đế không đợi dẹp bỏ mà tự nó rỗng không.
Nhị đế đồng thời tồn tại, như sự quan hệ của sóng và nước. Song, nước bao hàm tất cả sóng, sóng và nước không thể phân chia; sóng thấu suốt cội nguồn của nước, động và ướt một mé bình đẳng.
4. Tánh-Tướng dung thông:
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói: “Vô lượng vô số nghĩa lý đều từ một pháp mà sanh khởi”.
Pháp đó chính là chân tâm. Từ một chân tâm này có đủ hai ý nghĩa “bất biến” và “tùy duyên”.
“Bất biến” là chỉ lý tánh. “Tùy duyên” là chỉ sự tướng. Lý tánh là bản thể của sự tướng, sự tướng là tác dụng của lý tánh.
Mọi người do không thấu rõ cội nguồn trong đó, vì vậy mà vọng sanh những tranh luận. Hiện nay, có người phá dẹp sự tướng là vì không rõ tác dụng của tâm; có người phản đối lý tánh là vì không biết bản thể của tâm. Nếu như có thể dung thông thì sự lấy bỏ đều dứt hẳn.
5. Thể-Dụng tự tại:
Thể ở đây là chỉ cho lý thể của Pháp tánh, còn Dụng chỉ cho sự tướng của trí tuệ ứng đối; toàn Thể là toàn Dụng, như thế Dụng cũng chẳng phải là một; toàn Dụng là toàn Thể, như thế Thể cũng chẳng phải là khác.
Dụng ở ngay nơi Thể, Thể hoàn toàn không cách ngại Dụng; Thể ngay nơi Dụng, tuy động Dụng mà cũng không mất Thể. Cho nên, nhất vị mà phân chia ra làm hai, tự tại vô ngại.
6. Có-Không làm thành nhau:
Là chỉ cho tất cả vạn pháp vốn không có tướng cố định, chúng thành tựu lẫn nhau, phá hoại lẫn nhau, thâu nhiếp lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau.
Không dựa vào Có mà xác lập. Có nương nơi nhân duyên mà sanh, bản chất là rỗng không; Có nhờ vào Không mà thành lập, do không thật thể nên là nhân duyên hòa hợp.
Không và Có do ý nghĩa không đồng mà hiển bày sai biệt, mọi người dựa vào nhận thức của riêng mình mà phân biệt đối đãi. Ở nơi người mê vọng mà nhìn thì tướng trạng vạn vật đều không đồng nhau; ở nơi người giác ngộ thì kiến giải của bậc Thánh ba thừa không khác.
Tại sao?
Ví như nói có một pháp, Tiểu thừa xem là thật; Đại thừa Thỉ giáo quán sát nó là huyễn có; Đại thừa Chung Giáo thì thấy sắc và không vô ngại, do Không chẳng giữ tự tánh, tùy duyên mà sanh khởi các loại sự tướng; Đốn giáo thì cho rằng tất cả sự vật đều là Chân tánh. Còn ở nơi hàng Viên giáo mà nhìn, tất cả sự vật đều về nơi pháp giới vô tận duyên khởi.
Nếu có thể dung thông như thế liền thành tựu Chân không Diệu hữu. “Hữu” có thể bày muôn đức, còn “Không” thì có thể thành tựu tất cả.
7. Chánh hạnh và Trợ hạnh gồm tu:
Chánh tức là chủ, trợ tức là bạn. Nhân có bạn mà thành lập chủ, không có trợ hạnh thì chánh hạnh không thể viên mãn; nương theo chủ mà thành lập bạn, không có chánh hạnh thì trợ hạnh cũng không từ đâu mà thành lập.
Cho nên chủ và bạn phải làm thành lẫn nhau, chánh và trợ phải gồm đủ. Cũng là Chỉ-Quán vận hành song song, ẩn và hiển phát động lẫn nhau, trong và ngoài bồi đắp nhau, trí tuệ và trì giới đồng thời xem trọng.
8. Đồng-Dị bình đẳng:
Đồng là chỉ cho dựa vào lý thể bất biến. Dị là chỉ cho từ nơi sự tướng tùy duyên. Chính vì lý thể bất biến nên hay tùy duyên; chính vì tùy duyên nên bất biến. Chỉ vì có lý thể không khác nên mới tạo thành sự tướng sai biệt, chỉ vì có sự tướng sai biệt nên mới thiết lập pháp môn tương đồng.
Nếu như có sai biệt (dị) thì bị sai biệt phá hoại, đó là vì mất đi lý thể. Nếu như có tương đồng thì không thể thành lập tương đồng, đó là vì vô dụng.
Do đó, trong tương đồng không có tương đồng mà có sai biệt, trong sai biệt không có sai biệt mà có tương đồng. Chấp trước thì sẽ rơi vào sai lầm đoạn thường, dung thông thì thành tựu Phật Pháp.
Cho nên, trong kinh nói:
“Kỳ lạ thay! Thế Tôn ở trong chỗ không sai biệt mà diễn thuyết sự sai biệt của các pháp”.
9. Tu và Tánh không hai:
Tánh đây là chỉ cho cái vốn có, hoàn toàn chẳng do quán sát tư duy mà thành. Tu là chỉ cho sự tu hành trong hiện tại, do trí tuệ mà được hiện bày.
Do sự Tu có thể hiển bày Tánh vốn có, do bản Tánh mà phát khởi sự Tu trong hiện tại. Toàn bản Tánh thành tựu sự tu, toàn sự Tu thành tựu bản Tánh. Tu và Tánh trên bản chất không hai, chỉ từ khía cạnh nhân duyên mà nhìn thì dường như có sự phân chia.
10. Nhân-Quả không sai:
Ở đây là nói nhân từ quả khởi, quả mãn thì mới trở thành nhân; quả theo nhân sanh, nhân viên thì có thể thành lập quả.
Nhân và quả ở trên thời gian tuy có sự phân chia trước sau, nhưng từ lý thể mà nói thì đồng thời không trước sau. Cả hai hỗ trợ và thù đáp lẫn nhau, nghiệp dụng không mất.
Hỏi:
Các điều trình bày trong tập này xứng với những căn cơ nào, được những lợi ích gì?
Đáp:
Mình và người đều lợi ích, căn cơ đốn và tiệm đều thâu nhiếp.
Về phương diện lợi mình, đây là môn Viên giáo trợ giúp đạt đạo, là chiếc gương huyền diệu của sự tu hành. Về phương diện lợi người, đây là vầng nhật tỏa sáng cho những người ngưng trệ nơi chân thật, là lương y chữa bệnh khiến chấp đoạn thường.
Từ khía cạnh Đốn ngộ mà nói thì không trái với pháp môn Tự Tánh Duyên Khởi, có thể thành tựu hạnh pháp giới. Từ khía cạnh Tiệm tu mà nói thì tránh khỏi việc phế bỏ giáo pháp phương tiện, rốt cuộc trở về Phật thừa cứu cánh.
Nếu người tin được tức là tiếp nhận lời dạy của Phật. Nếu người chê bai tức là hủy báng ý chỉ của Phật. Tin tưởng và hủy báng đều có quả báo, nhân quả rất rõ ràng.
Nơi đây, tôi trình bày sơ lược một hạt cát trong biển cả giáo pháp, đem bố thí khắp cả chúng sanh trong pháp giới. Nguyện hoằng dương chánh đạo, dùng đây để báo đáp ân đức rộng lớn của Phật Tổ.
Tụng rằng:
Bồ đề không phát mà phát
Phật đạo vô cầu nên cầu
Diệu dụng vô hành mà hành
Chân trí vô tác mà tác
Khởi bi tỏ ngộ đồng thể
Hành từ thâm nhập vô duyên
Không xả bỏ mà bố thí
Không giữ gìn mà đủ giới
Tiến tu rõ không chỗ khởi
Tập nhẫn thấu chẳng tổn thương
Bát Nhã rõ cảnh vô sanh
Thiền định biết tâm vô trụ
Tỏ không thân mà đủ tướng
Chứng vô thuyết mà luận bàn
Xây dựng đạo tràng trăng nước
Trang nghiêm thế giới tánh không
Bày biện vật dụng huyễn hóa
Cúng dường Như Lai bóng vang
Sám hối tội tánh vốn không
Khuyến thỉnh Pháp thân thường trụ
Hồi hướng rõ vô sở đắc
Tùy hỷ phước bằng Chân Như
Tán thán ta người rỗng rang
Phát nguyện năng sở bình đẳng
Lễ bái pháp hội ảnh hiện
Hành đạo cất bước hư không
Đốt hương thấu suốt Vô sanh
Tụng kinh tỏ thông Thật tướng
Tán hoa hiển bày vô trước
Khảy tay bày tỏ khử trần
Thực hành Lục độ chẳng thật
Tu tập vạn hạnh không hoa
Thâm nhập biển tánh duyên sanh
Thường dạo pháp môn như huyễn
Thệ đoạn trần lao vô nhiễm.
Nguyện sanh Tịnh độ Duy tâm
Bước trên Thật tế lý địa
Ra vào vô đắc quán môn
Hàng phục ma quân bóng gương
Làm mọi Phật sự trong mộng
Rộng độ chúng sanh như huyễn
Đồng chứng Bồ đề tịch diệt.
HẾT QUYỂN HẠ
PHẦN PHỤ
THIỀN SƯ VĨNH MINH
DẠY CHÚNG
Học đạo không có gì kỳ lạ đặc biệt, chỉ cần rửa sạch những chủng tử nghiệp thức nơi căn trần từ vô lượng kiếp đến nay.
Các ông chỉ hay tiêu trừ tình niệm, đoạn dứt vọng duyên, đối với cảnh giới ái dục của thế gian tâm giống như cây đá. Dù cho đạo nhãn chưa sáng tỏ nhưng tự nhiên cũng thành tựu thân thanh tịnh
Nếu gặp bậc đạo sư chân chánh, cần phải siêng năng thân cận. Giả sử tham cứu mà chưa thấu triệt, việc học chưa thành tựu nhưng nghe qua nơi tai thì đã trở thành hạt giống đạo mãi mãi, đời đời không rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thân người, vừa sanh ra đời một nghe ngàn ngộ.
Nên tin rằng, gặp được bậc thiện tri thức chân thật là nhân duyên lớn nhất trong đời người. Bậc thiện tri thức ấy có thể chỉ dạy cho chúng sanh thấy được tánh Phật.
Than ôi! Người tu thời mạt pháp cuồng loạn nói Thiền, chỉ là học nói suông hoàn toàn không có sự hiểu biết chân thật.
Mỗi bước thực hành ở nơi Có trên môi thì lại nói Không, chẳng tự trách mình bị nghiệp lực kéo lôi, lại dạy bảo người bác không nhân quả, còn nói uống rượu ăn thịt chẳng ngại Bồ đề, trộm cướp hành dâm đâu chướng Bát Nhã.
Những kẻ ấy, lúc sống thì bị pháp luật trừng trị, khi chết phải đọa A Tỳ chịu nghiệp báo nơi địa ngục, hết rồi lại đọa vào đường súc sanh ngạ quỷ, trăm ngàn muôn kiếp không có ngày ra, trừ khi một niệm soi trở lại, lập tức đổi tà thành chánh. Nếu không tự sám hối, tự tu hành thì dù chư Phật có ra đời cũng không thể cứu.
Nếu các ông khi bị cắt tim gan mà vẫn như cây đá thì mới có thể ăn thịt. Nếu uống rượu mà giống như uống nước tiểu thì mới được dùng rượu. Nếu thấy người nam nữ đoan chánh như tử thi thì mới có thể hành dâm. Nếu thấy tài sản của mình như phân đất thì mới có thể trộm cắp.
Dù cho các ông luyện được đến chỗ đó nhưng vẫn chưa thuận ý, phải đợi đến khi chứng vô lượng Thánh thân mới có thể thực hành mọi việc thuận nghịch trong thế gian.
Các bậc Thánh ngày xưa lập bày lẽ nào lại có tâm khác?
Chỉ vì Tăng Ni thời mạt pháp ít trì giới cấm, sợ e những kẻ phàm phu tục tử hướng thiện phần nhiều thối thất đạo tâm, cho nên rộng rãi thực hành sự can ngăn bảo hộ.
Ngàn kinh muôn luận đều nói rõ:
– Nếu không trừ bỏ dâm dục thì đoạn dứt tất cả hạt giống thanh tịnh.
– Nếu không trừ bỏ uống rượu thì đoạn dứt tất cả hạt giống trí tuệ.
– Nếu không trừ bỏ trộm cắp thì đoạn dứt tất cả hạt giống phước đức.
– Nếu không trừ bỏ ăn thịt thì đoạn dứt hạt giống từ bi.
Chư Phật trong ba đời chung miệng tỏ bày, Thiền Tông khắp thiên hạ cùng lời chỉ rõ, tại sao kẻ hậu học lại phớt lờ chẳng nghe theo? Tự mình hủy hoại chánh nhân, trở lại thực hành theo lời nói của ma. Chỉ vì chủng tử nghiệp huân tập từ đời trước, hiện tại sanh ra lại gặp thầy tà, sức mạnh lành thì dễ tiêu mất, cội gốc ác lại khó nhổ trừ.
Đâu chẳng nghe bậc Thánh thuở xưa nói:
“Thấy một việc ma như vạn mũi tên ghim vào tim, nghe một lời ma như ngàn ngọn giáo đâm vào tai, cần phải mau chóng rời xa chẳng nên nghe thấy”.
Mỗi người nên tự cứu xét tâm mình, thận trọng chớ xem thường!
Các vị đứng đã lâu rồi. Trân trọng!
Mùa an cư kiết hạ, Phật lịch 2547
Dịch xong 7/7/2003
Tại chùa Bửu Liên.
CHÚ THÍCH
Nhi đế: là chỉ cho Chân đế và Tục đế. Chân đế là lẽ thật tuyệt đối xuất thế gian. Tục đế là lẽ thật tương đối trong thế gian. Kinh Niết Bàn quyển 13, phẩm Thánh Hạnh nói: Điều thông thường mà người ta có thể biết, đó là Thế đế (Tục đế); điều mà người xuất thế chứng biết, đó là Đệ nhất nghĩa đế (Chân đế). Lại nữa, có danh có thật, đó là Đệ nhất nghĩa đế; có danh không thật, đó là Tục đế.
Thật tế: là chỗ chân thật cứu cánh; chỉ cho sự thực chứng Niết Bàn, lìa hẳn giả dối; còn chỉ cho lý thể chân như. Kinh Kim Cang Tam Muội nói: “Đức Phật bảo: Pháp Thật tế, pháp không có bờ mé (tế), tâm không có bờ mé thì thể nhập Thật tế.
Pháp nhẫn: gọi đủ là Vô sanh Pháp nhẫn, quán xét lý không sanh không diệt của các pháp, thể nhận vững chắc, an trụ chẳng động tâm.
Thập huyền môn: Trong Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký của Ngài Hiền Thủ, nêu ra mười môn để tóm thâu cương yếu của bộ kinh Hoa Nghiêm.
– Môn “đồng thời đầy dủ các pháp tương ứng”. Nghĩa trong mỗi một pháp nào, đồng thời đều có đủ, bao hàm tất cả các pháp trong vũ trụ..
– Môn “rộng hẹp tự tại không ngại”: nơi một hạt bụi nhỏ biến khắp pháp giới, vạn hữu pháp giới có thể ở trong một hạt bụi. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Trong một mảy trần, hết thảy cõi nước rộng rãi an trụ”.
– Môn “một và nhiều dung nhau không đồng”: nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau, mà vẫn không phá hoại tướng riêng biệt (an lập) của mỗi vật.
– Môn “các pháp tương tức tự tại”: ngoài một pháp không có tất cả pháp, ngoài tất cả pháp không có một pháp, một pháp tức tất cả pháp, tất cả pháp tức một pháp, các pháp dung thông tương tức tự tại.
– Môn “ẩn mật, tỏ rõ đều thành”: nghĩa là một pháp có nhiều phương diện, khi phương diện này hiện thì phương diện kia ẩn; khi phương diện kia ẩn thì phương diện này hiện, trong ẩn có hiện, trong hiện có ẩn, hai tướng ẩn hiện đồng thời thành tựu.
– Môn “vi tế dung nhau an lập”: Trong một vật cực nhỏ có thể hàm chứa một vật nhỏ nhiệm khác mà không cản trở nhau, không phá hoại tướng của nhau.
– Môn “cảnh giới tướng võng nhơn-đà-la”: nghĩa là trên cõi trời Nhơn đà la có màn lưới bằng bửu châu, mỗi hạt bửu châu chói hiện đến muôn vật, hạt này hạt khác phản chiếu nhau chói sáng lẫn nhau, lớp lớp không cùng tận. Môn này cũng như vậy: trong mỗi pháp có nhiều pháp khác, cứ thế cho đến vô cùng tận.
– Môn “nhân sự rõ ràng, sanh trí hiểu biết”: Nghĩa là nhờ sự mà hiểu được lý, nhưng khi lý đã rõ thì lý lan rộng làm cho ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác.
– Môn “mười đời cách pháp dị thành”: nghĩa là ba đời mỗi đời có ba (quá khứ, hiện tại, vi lai) hợp lại thành chín đời, nhiếp trong một niệm thành mười đời, pháp pháp dung thông, trước sau cách biệt, nhưng nhờ vậy các pháp được thành tựu.
– Môn “chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức sáng suốt hoàn toàn”: khi một pháp là chủ thì pháp khác là bạn, tất cả vạn pháp cũng đều như thế, một pháp viên mãn tất cả công đức nhơn đó gọi là đức đủ tròn sáng.
Lục tướng nghĩa:
– Tổng tướng: nghĩa là cái tướng bao trùm tất cả tướng sai biệt.
– Biệt tướng: nghĩa là các tướng riêng biệt hợp lại thành tổng tướng. Thí như cái nhà là tổng tướng, kèo, cột, ngói, đá…là biệt tướng.
– Đồng tướng: là cái tướng chung đồng, dung hòa lẫn nhau, không ngăn ngại, không chống trái nhau. Thí như: kèo, cột, ngói, đá…hợp chung lại thành cái nhà.
– Dị tướng: là các tướng riêng biệt nhưng vẫn dung hòa thành một thể.
– Thành tướng: là tướng thành tựu. Sự chung cùng để thành tựu, gọi là thành tướng. Thí như kèo, cột, ngói, đá…hợp nhau mà thành nhà cửa, gọi là thành tướng.
– Hoại tướng: là cái tướng độc lập của các pháp. Thí như nhà cửa tuy một, nhưng kèo, cột, tường, mái…vẫn giữ nguyên vị trí của nó không mất.
Nhất hạnh Tam muội: là chỉ chánh định chuyên tâm nơi một hạnh mà tu tập, được chia làm hai : Một là Nhất hạnh Tam muội về mặt lý, là tam muội định tâm quán pháp giới bình đẳng nhất tướng. Vào tam muội này thì biết Pháp thân của tất cả chư Phật và thân chúng sanh bình đẳng không hai, không có tướng sai biệt, cho nên ở nơi tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm có thể thuần nhất được tâm, chẳng động đạo tràng mà liền thành Tịnh độ. Hai là Nhất hạnh Tam muội về mặt Sự, là Niệm Phật Tam Muội nhất tâm niệm Phật. Kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật quyển hạ nói: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn vào Nhất hạnh Tam muội phải ở chỗ vắng vẻ, bỏ mọi ý tưởng tán loạn, chẳng nắm lấy tướng mạo, buộc tâm nơi một Đức Phật chuyên xưng danh hiệu; tùy theo phương hướng của Đức Phật, thân trang nghiêm hướng về phía ấy, có thể niệm niệm tiếp nối nơi một Đức Phật, tức là trong mỗi niệm thấy được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.
Mười trí lực:
– Tri thị xứ phi xứ Trí lực: Như Lai đối với tất cả nhân duyên quả báo biết đúng như thật, như làm việc lành nhất định quả báo an vui và ngược lại…
– Tri tam thế nghiệp báo Trí lực: Như Lai đối với nghiệp duyên quả báo, chỗ sanh trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai của tất cả chúng sanh thảy đều biết rõ.
– Tri chư thiền giải thoát tam muội Trí lực: Như Lai đối với các Thiền định tự tại vô ngại, sự sâu cạn thứ lớp của chúng sanh đều biết rõ.
– Tri chư căn thắng liệt Trí lực: Như Lai đối với căn tánh của chúng sanh cao thấp, được quả lớn hay nhỏ, đều biết rõ.
– Tri chủng chủng giải Trí lực: Như Lai đối với mọi sự ưa muốn thiện ác bất động của chúng sanh đều biết rõ.
– Tri chủng chủng giới Trí lực: Như Lai đối với mọi cảnh giới của chúng sanh ở thế gian đều biết rõ.
– Tri nhất thiết chí xứ đạo Trí lực: Như Lai đối với nơi mà do hạnh lữu lậu trong sáu đường dẫn đều và nơi mà do hạnh vô lậu Niết Bàn dẫn đến, đều biết rõ.
– Tri túc mệnh vô lậu Trí lực: Như Lai đối với bao nhiêu đời trước, từ một đời cho đến trăm ngàn đời, một kiếp đến trăm ngàn muôn kiếp, chết nơi đây, sanh nơi kia, chết nơi kia sanh nơi đây, tên họ, ăn uống, vui khổ, thọ mạng thảy đều biết rõ.
– Tri thiên nhãn vô ngại Trí lực: Như Lai nhờ Thiên nhãn biết rõ khi sanh lúc chết, và con đường thiện ác ở đời vị lai của chúng sanh, cho đến những nghiệp duyên thiện ác của sự đẹp xấu, giàu nghèo.
– Tri vĩnh đoạn tập khí Trí lực: Như Lai đối với tất cả hoặc dư tập khí dứt hẳn không sanh đều biết rõ.
Ba thứ kiên cố: Kinh Bổn Sự quyển 7 đem ba thứ không kiên cố (tài sản, thân thể, tánh mạng) đổi thành ba pháp kiên cố.
– Đem tài sản không kiên cố đổi lấy tài sản kiên cố: nghĩa là tất cả tài vật ở thế gian, bản chất chẳng kiên cố, tụ tán vô thường, không thể bảo đảm lâu dài. Nếu người có thể thực hành bố thí phạm hạnh thanh tịnh, xa thì mong cầu Niết Bàn an lạc vô thượng, hoặc cầu quả vui cõi trời người ở tương lai, tức là tài sản kiên cố.
– Thân không kiên cố đổi lấy thân kiên cố: nghĩa là thân do cha mẹ sanh là tứ đại giả dối hòa hợp, mong manh chẳng thật, bản chất chẳng kiên cố sanh diệt vô thường, chẳng thể tồn tại. Nếu có thể giữ gìn năm giới, trong sạch không nhiễm, tu tập Bồ đề Vô thượng để chứng đắc thân kim cang bất hoại, đó tức thân kiên cố.
– Tánh mạng không kiên cố đổi lấy tánh mạng kiến cố: nghĩa là tánh mạng con người thọ yểu không đồng, đều như mộng huyễn, bản chất chẳng kiên cố, bỗng chốc vô thường, chẳng thể bảo đảm lâu dài. Nếu hiểu được Tứ đế, tu tập chánh pháp, vượt qua sanh tử để tiếp nối tánh mạng trí tuệ thường trụ bất hủ, đó tức là tánh kiên cố.
Thất thánh tài: Kinh Niết Bàn quyển 17 nói: Tín (đức tin), Giới (giữ gìn giới luật), Tàm, quý, Đa văn, trí tuệ, xả là thất thánh tài, giữ được bảy món ấy là thánh nhân.
Bảy đức thanh tịnh: theo Ngài Cưu Ma La Thập giải thích thì bảy đức thanh tịnh là:
– Giới tịnh: là thanh tịnh xuyên suốt trước sau. Tức là những việc làm của thân và miệng không phạm điều ác nhỏ, ý chẳng sanh khởi trần cấu cũng không nắm vào tướng mạo, cũng không mong thọ sanh. Ban cho người sự vô úy, không hạn cuộc một ai.
– Tâm tịnh: tâm chế phục phiền não, tâm đoạn kiết sử của hàng Tam thừa, cho đến tâm lậu tận của hàng Tam thừa, gọi là tâm tịnh.
– Kiến tịnh: là thấy tánh chân thật của các pháp, chẳng khởi vọng tưởng.
– Độ nghi tịnh: là cái thấy hiểu sâu sắc thấu suốt dứt trừ nghi hoặc.
– Phân biệt đạo tịnh: là khéo có thể phân biệt đúng sai, hợp với đạo thì nên làm, không hợp với đạo thì nên bỏ.
– Hạnh đoạn tri kiến tịnh: “Hạnh” là chỉ bốn hạnh: Khổ khó, khổ dễ, vui khó, vui dễ. “Đoạn” chỉ cho đoạn trừ các kiết sử (hoặc). Tức là người chứng được Tận trí, Vô sanh trí của bậc vô học, có thể thấy biết những hạnh mình làm, những kiết sử mình đoạn, thấu suốt rõ ràng.
– Niết Bàn tịnh: đạt đến Niết bàn là chỗ thanh tịnh rốt ráo.
Ngũ vị: chỉ cho năm vị: vị nhũ, vị tô, vị sanh tô, vị thục tô, vị đề hồ. Là các vị được hình thành theo thứ tự trong quá trình chế tạo sữa bò. Các kinh luận thường dùng để ví dụ thứ tự sai biệt của căn cơ mọi người (hoặc giáo pháp). Như kinh Đại Niết bàn quyển 10 nói, Thanh Văn như nhũ, Duyên Giác như lạc, Bồ Tát như sanh tô thục tô, chư Phật Thế Tôn giống như đề hồ.
Tam đức: chỉ cho ba loại đức tướng mà Đại Niết bàn đầy đủ Pháp thân, Bát nhã, Giải thoát. Theo Đại Thừa Nghĩa Chương quyển 18 ghi: Pháp thân là chỉ cho chân như vốn đầy đủ nơi tất cả pháp, hoặc chỉ cho thân do pháp công đức làm nên. Giải thoát là thoát ly sự trói buộc của phiền não. Bát nhã là chỉ cho trí tuệ của sự giác ngộ. Ba thứ này, tuy ba mà là một, tuy một mà là ba. Song khi ở nhân vị thì gọi là Tam Phật tánh; khi ở quả vị thì gọi là Tam đức.
Tam niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Bản tế: là lý thể tuyệt đối bình đẳng. Kinh Viên Giác nói: “Bản tế bình đẳng, tròn đầy mười phương”.
Tứ tất đàn: “Tất đàn” là tiếng Phạn, dịch ý là thành tựu. Đức Phật giáo hóa chúng sanh luôn dùng bốn pháp này để giúp họ thành tựu an lạc giải thoát.
*Thế giới Tất đàn: là thuận theo pháp thế gian mà nói về nghĩa lý nhân duyên hòa hợp, cũng là dùng tư tưởng ngôn ngữ quan niệm thông thường của thế gian để thuyết minh chân lý duyên khởi, khiến phàm phu vui vẻ và được trí tuệ chân chánh của thế gian.
*Vị nhân Tất đàn: là thích ứng theo căn cơ và năng lực khác biệt của mỗi chúng sanh mà nói các pháp thực tiễn xuất thế, làm cho chúng sanh sinh khởi căn lành.
*Đối trị Tất đàn: là nhắm vào những phiền não tham, sân, si của chúng sanh, theo bệnh mà cho thuốc pháp.
*Đệ nhất nghĩa Tất đàn: là phá dẹp tất cả ngôn ngữ luận nghị, trực tiếp dùng Đệ nhất nghĩa tỏ bày lý Thật tướng của các pháp, giúp cho chúng sanh chân chánh thể hội đạo lý.
Viên giáo: theo sự phân định của Tông Thiên Thai giáo pháp Đức Phật, nội dung gồm có bốn loại: Tạng giáo, Tông giáo, Biệt giáo, Viên giáo
*Tạng giáo: gọi đủ là Tam tạng giáo (kinh, luật, luận), chỉ cho giáo pháp Tiểu thừa.
*Thông giáo: chỉ cho các bộ Bát Nhã, nghĩa thông cả Đại và Tiểu thừa, bao quát đạo lý sâu xa và dễ hiểu.
*Biệt giáo: chỉ cho các kinh Đại thừa Phương Đẳng khác, chuyên vì các bậc Đại Bồ Tát mà giảng nói.
*Viên giáo: chỉ cho giáo nghĩa viên mãn của kinh Pháp Hoa.
Mãn tự giáo: Giáo nghĩa Đại thừa viên dung, giống như chữ đã hoàn thành, gọi là Mãn tự giáo. Gọi chung với Bán tự giáo là Bán Mãn nhị giáo. Song, theo Pháp Hoa Huyền Nghĩa quyển 10, Bồ Đề Lưu Chi thời Bắc Ngụy cho rằng; Những giáo nghĩa Tiểu thừa hữu tướng mà Phật đã nói 12 năm sau khi thành đạo, đều thuộc về Bán tự giáo; 12 năm trở về sau, vì hàng Đại thừa nói năm thời Bát nhã, giảng về lý không vô tướng, đây thuộc về Mãn tự giáo.
Thất khuyến: Bồ Tát hàng Thất địa, ở chỗ này hướng lên trên thì không có Bồ để cầu, nhìn xuống dưới không có chúng sanh để độ, do đó đắm chìm nơi lý vô tướng vắng lặng, có mối lo chẳng thể tu hành, đây gọi là tai nạn đắm chìm vào chỗ không của hàng Thất địa. Khi ấy chư Phật trong mười phương dùng bảy pháp khuyến khích tinh tấn, khích lệ phát khởi dũng khí tu hành để tiến đến Bát địa.
Lục tức Phật: Tông Thiên Thai từ nơi Phật mà phán lập vị thứ “Lục tức”, gọi là “Lục tức Phật”. Theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ Diệu Tông Sao quyển thượng, Lục tức Phật là:
– Lý tức Phật: là chỉ cho tất cả chúng sanh. Bởi vì tất cả chúng sanh vốn đầy đủ lý Phật tánh, không hai không khác với các Đức Như Lai, đều tức là Phật, cho nên gọi là Lý tức Phật.
– Danh tự tức Phật: là chỉ người hoặc từ thiện tri thức nghe biết, hoặc từ trong kinh điển mà thấy được, hiểu rõ danh từ “lý tánh tức Phật” này. Những người ấy nơi danh tự thông suốt, thấu rõ tất cả các pháp đều là Phật pháp nên gọi Danh tự tức Phật.
– Quán hạnh tức Phật: là chỉ người đã hiểu rõ tất cả pháp đều là Phật pháp, tiến thêm y theo giáo pháp tu hành, đạt đến chỗ tâm quán rõ ràng, lý và tuệ tương ưng, quán hạnh tương tức. Những người này nói thế nào làm thế ấy, lời nói và việc làm nhất trí. Do chứng vị này nên gọi Quán hạnh tức Phật.
– Tương tợ tức Phật: là chỉ cho người ở nơi vị Quán hạnh tức Phật nói trên, càng quán càng sáng, càng dừng (chỉ) càng lặng, được sáu căn thanh tịnh, đoạn trừ kiến tư hoặc, chế phục vô minh. Những người này tuy chưa thể thật chứng lý ấy, nhưng nơi lý dường như thật chứng, cho nên gọi là Tương tợ tức Phật.
– Phần chứng tức Phật: là chỉ đoạn vô minh từng phần mà chứng từng phần Trung đạo.
– Cứu cánh tức Phật: là chỉ cho bậc đoạn trừ nguyên phẩm vô minh (là vô minh rốt ban đầu vi tế nhất, khó đoạn trừ nhất), hiển phát trí giác cứu cánh viên mãn, tức là chứng nhập quả vị Phật Diệu Giác cùng tột.
Sáu vị thứ Phật này, tuy do mê ngộ sâu cạn mà có sáu sự sai biệt, nhưng vì thể tánh không hai, kia đây tức là nhau, cho nên gọi là “tức”.
Mạn: đối với người tu học bằng mình thì chấp rằng chỉ bằng mình; còn đối với người tu học yếu kém thì chấp rằng mình hơn mà sinh khởi tâm cao mạn.
Quá mạn: đối với người tu học bằng mình thì chấp rằng mình hơn; đối với người hơn mình thì chấp rằng mình bằng họ.
Mạn quá mạn: tranh lấy phần hơn, như người ta vốn hơn mình mà chấp rằng mình hơn người mà nói quyết rằng mình hơn.
Bát điên đảo: là tám sự thấy biết sai lầm, mê chấp của phàm phu và Nhị thừa. Phàm phu chấp pháp hữu vi sanh diệt là thường, lạc, ngã, tịnh. Hành giả Nhị thừa chấp vô vi Niết Bàn là chẳng thường, chẳng lạc, chẳng tịnh.
*Thường điên đảo: đối với pháp thế gian vô thường mà cho là thường.
*Lạc điên đảo: cái vui ngũ dục của thế gian đều là nguyên nhân chuốc lấy đau khổ, phàm phu chẳng rõ lý này, vọng chấp là vui.
* Ngã điên đảo: thân này đều do tứ đại giả dối hoà hợp mà thành vốn không có “ta”, phàm phu chẳng rõ lý này ở nơi tự thân gượng cho là có chủ tể, vọng chấp là ta.
*Tịnh điên đảo: thân mình, thân người đều có năm thứ nhơ nhớp, phàm phu chẳng rõ lý này vọng sanh khởi tham đắm chấp cho là thật.
*Vô thường điên đảo: nơi Pháp thân thường trụ của Như Lai vọng cho là có tướng sanh diệt biến đổi.
*Vô lạc điên đảo: nơi niềm vui Niết Bàn thanh tịnh cho là không vui.
* Vô ngã điên đảo: nơi chân ngã Phật tánh, vọng cho là vô ngã.
*Vô tịnh điên đảo: thân Như Lai thường trụ, chẳng phải thân tạp thực, chẳng phải thân phiền não, chẳng phải thân máu thịt, gân xương ràng rịt, hàng Nhị thừa chẳng rõ lý này nên chấp là bất tịnh.
Biến kế sở chấp tánh: tức là sự chấp trước mọi sự vật và lượng định một cách sai lạc, ví như người nhận lầm dây là rắn.
Y tha khởi tánh: là tánh chất nương nơi cái khác khởi hiện, như sợi dây nương nơi xơ gai mà có.
* Mười dạng thọ trì: Ghi chép, cúng dường, bố thí, lắng nghe, xem đọc, thọ trì, diễn thuyết, phúng tụng, tư duy, tu tập.
*Bốn duyên:
(1) Nhân duyên: Tự thể sanh tự quả là nhân, lấy nhân làm duyên.
(2) Đẳng vô gián duyên: Tâm và tâm sở lần lượt không gián đoạn tiếp nối sinh khởi.
(3) Sở duyên duyên: Tâm và tâm sở theo duyên mà sinh, hay là chỗ mà tự tâm duyên lự (nghĩ ngợi).
(4) Tăng thượng duyên: Sáu căn hay soi cảnh vật phát khởi thức, có lực dụng tăng thượng, khi các pháp sinh, chẳng sanh chướng ngại.
*Sáu nhân: Luận về thể của nhân, có sáu thứ: năng tác nhân, câu hữu nhân, đồng loại nhân, tương ưng nhân, biến hành nhân, dị thục nhân.
* Năm quả: là quả hữu vi, vô vi do sáu nhân sinh ra và từ đạo lực mà chứng được:
(1) Đẳng lưu quả, còn gọi là Tập quả.
(2) Dị thục quả, còn gọi là Báo quả.
(3) Ly hệ quả, còn gọi là Giải thoát quả.
(4) Sĩ phu quả, còn gọi là Công dụng quả.
(5) Tăng thượng quả.
Trong đó, Ly hệ quả thuộc về quả vô vi, bốn quả còn lại đều thuộc về hữu vi.
*Tứ môn Viên giáo: Có, không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không.
*Sơ môn của Tạng giáo: là phát khởi tứ hoằng thệ nguyện.
*Năm điều sợ hãi: Người chưa thấy đạo có năm điều sợ hãi:
1. Khi bố thí sợ mình không đủ sống nên không thể cho hết.
2. Sợ tiếng xấu nên không thể hòa quang đồng trần.
3. Sợ chết nên không thể bỏ thân vì đạo.
4. Sợ đọa đường ác nên đối trị pháp bất thiện.
5. Sợ uy đức của đại chúng, không thể diễn thuyết tự tại trước họ.
* Ba loại Bồ đề: Chân tánh Bồ đề, Thật trí Bồ đề, Phương tiện Bồ đề.