TỤC THANH LƯƠNG TRUYỆN

Triều Phụng Lang Quyền Phát Khiển Hà Đông Lộ Đề Điểm Hình Ngục Công Sự Trương Thương Anh soạn thuật
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

LỜI TỰA KHẮC LẠI THANH LƯƠNG TRUYỆN

Từ Bạch Mã đến phương Đông, Tượng giáo lưu truyền ở Trung Hoa, Huyền Phong mới thỏa sướng, hoặc bày thiền tịch để tìm tông, hoặc chuyên thần hóa mà phô pháp, cũng như dòng nước đi trong đất, phân chi riêng phái tuy khác, đến như công phu cứu đời lợi vật, điểm kết quy hẳn chưa chẳng đồng. Từ Lưu Mộng Đắc ở thời Tiền Đường đã vì Phật pháp ở Cửu Châu, tùy phương ấy mà xiển hóa, nhân danh sơn lấy làm cõi nước trang nghiêm, lời phàm đạo thần thị hiện hẳn chủ chốt ở Thanh Lương vậy. Căn cứ theo trong kinh nói: “Vườn nhà của Bồ-tát Văn-thùsư-lợi ở núi Thanh Lương phía Đông bắc, cùng với quyến thuộc gìn giữ giáo pháp của cổ Phật, giáng hiện đại từ bi để tiếp dẫn quần sinh, hoặc hiện Chân Dung để lại quy y, hoặc phát ánh sáng tốt lành để cung kính trông xem ngưỡng mộ, ngàn biến muôn hóa, tùy cảm mà ứng, có những hình dung chẳng thể nghĩ bàn vậy. Cớ sao có khác lạ vậy ư? Xưa kia, có Sa-môn Tường Tuệ và Sa-môn Diên Nhất đều là người trong Truy Lâm (xuất gia) trợ tuyên hoằng hóa. Kịp đến thừa tướng Trương Công Thiên Giác, Hoàng hoa Chu Công Thiếu Chương đều là những kẻ sĩ đại quan hộ pháp, tuy khác đời nhưng cùng hoài vọng, đồng tâm tán thán trợ giúp, lo nghĩ Thánh tích lâu xa chưa rõ bày phương trần, qua thời gian lâu hoặc ngấm tắt, mới rộng sưu tìm mọi sự thấy nghe cùng những điều chỉnh mắt trông thấy, biên tập thành pho quyển. Mới đầu, Sa-môn Tường Tuệ làm “Thanh Lương Trường Tuệ làm “Thanh Lương truyện” hai quyển, tiếp theo Sa-môn Diên Nhất lại làm “Quảng Thanh Lương truyện” hai quyển, còn Trương tướng quốc Chu vâng phụng đi sứ lại làm “Tục truyện ký” để biên phụ ở sau. Ngoài ra các hàng siêu tục đàm huyền cùng những bậc cao nhân đạt sĩ. Làm những bài thơ tụng kệ tán phụ danh ở cuối truyện, sao liền ngọc suốt ánh ngời đủ văn hoa gấm, lưu truyền nơi đời. Phàm trong bốn biển chín châu, tuy chưa đích thân đến nơi Linh Nham tận mắt chiêm ngưỡng Thánh tích, chỉ xem văn bày nơi truyện quyển tự nhiên xoay đổi tư lự càng bền chắc tâm hướng thiện, lợi ích ngoại hộ ấy, chưa dễ khá thuật, gặp phải hồi lục gây tạo tai ương. Đến Long Văn đều thiêu đốt hết, chưa có người phục hưng, Thánh công thần hóa năm tháng lâu dài chẳng truyền. Có Triệu Thống ở Đông An làm tửu quan làm trông coi hạn cục ở Đài Sơn, bùi ngùi mà có cảm đến tâm, tức thưa trình cung vị Tăng chủ sự. Sa-môn tăng chánh Minh Tịnh nói với Triệu Thống, căn dặn rằng: “Việc ấy, chỉ tưởng đã lâu ngày, gặp phải tai họa của hóa cung, dùng sức có trước sau. Nay nhân sự thỉnh cầu ấy mà dốc xuất hết gạo thóc của cải để hoàn thành việc đó, mướn thợ khắc bản, có ngày sẽ tạo thành “Triệu Thống nhân đó đến nhà nhờ tôi biên ghi lời tựa để ở đầu. Sa-môn Minh Tịnh cùng với tiền đề điểm Sa-môn Thiện nghị lần lượt viết thư gởi khuyên thỉnh. Kẻ tớ tôi từng cho rằng: “Đạo chẳng ở nơi pháp y, truyền pháp y có thể vì trao đạo, pháp chẳng ở nơi văn, phô bày văn nhân vì tỏ ngộ pháp kẻ hèn tôi đã vui mừng sự khéo dụng ý của Triệu Thống. Và mười hai vị cao tăng đều ở Thanh Lương có nhân duyên lớn, biết chẳng phải bại phản Phật để mờ hoặc mọi người, nên biên ghi.

Ngày 17 tháng 0 năm Đại Định thứ tư (116) thời nhà Kim, Diêu Hiếu Tích ở Cổ Phong biên ghi lời tựa.

 

QUYỂN THƯỢNG

Tháng hai năm Đinh mão (1087) thuộc niên hiệu Nguyên Hựu (1086-10) thời Bắc Tống, Thương Anh tôi mộng thấy hang Kim Cang ở núi Ngũ Đài, chỗ mà thủa bình sinh mắt tai chưa hề tiếp đối, ý tưởng chưa từng nghĩ tới, sau khi tỉnh giấc mà lấy làm lạ. Bấy giờ ở phủ Khai Phong suy đối quan, tôi mới bảo với Lâm Thiệu, Tài Trung đùa bảo: “Thiên Giác Thống soái ấy đều cùng làng mạc ư?”. Sau đó, đến tháng 05 (1087) Thương Anh tôi trừ bỏ Hà Đông đề điểm hình ngục công sự. Tài Trung lại nói: “Mộng trước đã có ứng nghiệm, hãy gắng đi vậy. Đời người mỗi việc đều đã dự định đâu thể trốn khỏi ư?” Qua tháng tám, đến nơi bộ, tháng 11 tức đến hang Kim Cang xét nghiệm chỗ thấy đều hợp với trong mộng, gặp tiết trời lạnh sợ băng tuyết bít lấp đường nên chỉ dừng nghỉ một đêm bèn xuống núi.

Qua năm sau, mùa hạ năm Mậu Dần (1088), tại huyện Ngũ Đài có bọn giặc cướp chưa bắt được, vì đang phải chức sự nên cầm đầu tìm bắt chúng. Cả gia đình đều lo trái giới để đi, qua ngày 27 tháng 06, đến núi Thanh Lương, vị Tăng chủ sự ở Thanh Lương bảo rằng: “Đây cách chùa Kim Các khoảng ba dặm. Năm trước, Thôi đề cử từng đến đây, thấy ở Nam Đài có cầu vàng và vầng ánh sáng”. Thương Anh tôi im lặng nghĩ suy rằng: “Thôi là người nào ư? Và ta là người gì ư?” Khi đến nơi Kim Các thì trời đã chiều tối, núi rừng mênh mang không một tấc mây mốc, có Sa-môn Tăng Chánh Tỉnh Kỳ đến bái yết, tức cùng thấy gặp ở Tam môn, ngồi chưa yên định. Bỗng nhiên bên cạnh của Nam Đài có mây trắng giăng phủ kín như trải thảm trắng. Tỉnh Kỳ bảo: “Đó là mây tốt lành, chẳng để được thấy gặp”. Bèn nhóm tập tăng chúng mà lễ tụng, mong nguyện sớm được trông thấy tướng ánh sáng. Thương Anh tôi đổi áo Xiêm Công đốt hương kính lễ, vừa mới một lạy chưa dậy, đã thấy chiếc cầu vàng ròng và tướng vòng tròn sắc màu vàng ròng, bên trong vòng tròn sâu xa lại là sắc màu xanh biếc, Thương Anh tôi còn nghi ngờ là mặt nhật lặng xuống bắn xoẹt vào mây biến thành màu sắc. Thế rồi, mịt mờ đen tối, phía trước núi có ráng sáng ba vầng nổi lên thẳng, thì mọi điều nghi trong tôi tự nhiên tan mất. Qua ngày hôm sau (28 tháng 06) đến viện Chân Dung dừng nghỉ tại các Thanh Huy. Bắc Đài thuộc phía bên tả, Đông Đài tại phía trước thẳng đối diện với Long Sơn, phía dưới gối liền khe suối kim giới, thất bắc dục ở phía sau, là vườn nhà biến hóa của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, ở phía trên kim giới là nhà có dấu chân của La Hầu. Tri Khác Biện nói: “Xứ này cũng có Thánh đăng, xưa trước có vị Tăng ở chiếc giang cầu thỉnh, bỗng bay hiện lên trên lan can”, Thương Anh tôi bèn cúi đầu cung kính cầu khẩn. Từ sau giờ Dậu, ở Long Sơn thấy có thềm báu vàng ròng. Đến đầu giờ Tuất, ở Bắc Sơn lại có đuốc lửa lớn. Tri Khách Biện có: “Đó là Thánh Đăng, nên chiêm ngưỡng lễ bái”. Tiếp theo lại hiện một ngọn đèn, giây lâu ở Đông Đài, Long Sơn và Điện La Hầu chung quanh mỗi mỗi đều hiện một đèn, phía sau Dục thất hiện hai ánh sáng lớn như sấm sét kéo lôi. Trên khe suối ở phía nam kim giới hiện hai ngọn đèn. Đến sau giờ Hợi, Thương Anh tôi cúi nhìn trên khe suối, cầm nắm đèn đó là hình người vậy. Nhân đó, suy nghĩ rằng: “Há chư tăng ở chùa sai bảo người thiết đặt đèn để thấy khinh thường ư?” Khi ấy Tri Khách Biện đã ngủ, liền sai sứ Vương Bang tá chức Tầng Nguyện mở cửa để cật hỏi. Tri Khách Biện đáp rằng: “Núi ở đây có trùng vật hổ dữ, ở kia không có người đi cũng không người ở”. Thương Anh tôi nghi ngờ chẳng biết giải quyết thế nào, lại thấy ánh sáng của đèn chợt lớn chợt nhỏ, bỗng thành sắc tỏ, bỗng thành sắc trắng, chợt hóa sắc vàng sắc biếc, bỗng phân chia, bỗng hợp lại, sáng rực cả rừng cây, bèn im lặng tự xét rằng: “Đây là lửa Tammuội mà người đời gọi là đèn vậy”, mới quỳ mà khẩn cầu rằng: “Cảnh thắng thù thắng, chẳng phải chỗ tôi thấy nghe, cõi phàm phu nhận biết có sự ngăn cách. Nếu chẳng phải là đèn của nhân gian thì nguyện xin trước tôi”. Khẩn thỉnh như thế đến mười lần, đèn trước khe suối bỗng như mặt nhật sắc hồng, từ biển tắm bay vọt giữa hư không mà lên tỏa phóng ánh sáng lớn dần đến trước các, ánh sáng ấy gom thâu lại như đại thanh miệng ngậm vòng hỏa châu. Khắp thân thể Thương Anh tôi san sát bay vù như rét băng tuyết, liền khẩn nguyện rằng: “Tâm nghi ngờ đã dứt”. Nói xong lại trở về nơi cũ, ánh sáng khắp đầy trên khe suối, Tầng Nguyện v. v… tự ở bên cạnh mà trông thấy đó như thân sắc màu vàng ròng quanh co mà lên. Vợ và kẻ tớ trông thấy lại khác. Khi ấy, có người mặc áo bào sắc tía mà cổ áo sắc trắng, có người búi tóc mà ngồi kiết già, người cầm kiếm, người đội sừng. Lão tăng bảo rằng: “Đây là sư tử lông vàng bay và trời rồng 08 bộ vậy”. Giây lâu, tại Bắc Sơn mây nổi, trong mây trắng hiện còn báu lớn. Sau khi mây tan lại hiện tướng vàng tròn trắng lớn như vầng minh nguyệt.

Ngày hôm sau 2 tháng 06, đến Đông Đài, mây lành năm sắc hiện nổi, có vầng ánh sáng sắc trắng từ đất bay vọt lên như xa luân trăm vòng xoay. Thương Anh tôi dùng kệ tụng tán thán rằng: “Mây dán Tây sơn, mặt nhật hiện đông, một vầng tướng sáng hiện trong mây, tu hành chớ nói không mô phỏng, chỉ sợ tu hành lạc đoạn không”. Tiếp theo lại có gió lớn mây mốc ùn nổi hừng hực như muốn ngả đổ sườn núi, xé rách hang hóa. Vị Tăng chủ sự ở Đài bảo rằng: “Binh lính dưới tuần kiểm vừa mang thịt đốt nướng không thể cấm ngăn, nguyện đến ngày mai đều đi tất cả”. Qua ngày mồng 01 tháng 07, từ tạ binh lính tuần kiểm trầm tệ ở Bắc Đài, chiều tối dừng nghỉ tại Trung Đài, gió lớn chẳng ngưng dứt, bốn phía núi đều mờ mịt, Tri Khách Biện v. v… đều đổi sắc mặt, bên cạnh đài có điện cổ Phật, Thương Anh tôi bảo quét tước rồi dẫn tất cả mọi người nhà cùng đi vào lễ kính. Tri Khách Biện và vị Tăng chủ sự ở Đài chỉ sai hai người Thương Đầu và Ngu Hầu, hai người mang trà rượu theo hướng bắc trèo lên vài bộ. Trên đảnh của Trung Đài đã có mây lành năm sắc thoảng tỏa mùi thơm, bỗng chốc ở gốc Tây Bắc mở sáng, hiện bày thế giới sắc màu lưu ly xanh biếc. Hiện vạn vị Bồ-tát Đội Trượng, lầu báu, điện báu, núi báu, rừng báu, phan báu, lọng báu, đài báu, tòa báu, vua trời, La-hán, sư tử, tượng vương sum la bày hiện, không thể nói bày hình trạng. Lại ở trên điện Chân Dung thấy có lọng báu tử chi cán cong, bỗng nhiên tung bày, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cỡi sư tử. Lại có 07-08 tôn giả lên xuống quá vui, hai bên cúi ngưỡng. Vị Tăng chủ sự ở đài đùa bảo: “Hành giả ở bản đài suốt 1 năm chưa từng thấy một ánh sáng một điềm tướng, mong chờ phước lực, gọi mà cho trông thấy đó”. Thế rồi, đã gọi hành giả thì trì binh lính ngầm ẩn có người theo đến lén nhìn. Mặt nhật dần tối, ở sườn núi Bắc Đài có đuốc lửa sắc hồng hiện nổi. Thương Anh tôi hỏi Tầng Nguyện: “Xứ ấy có người nào đốt lửa chăng?” Tầng nguyện lại hỏi Tri Khách Biện, Tri Khách Biện hỏi vị Tăng chủ sự ở đài, vị Tăng chủ sự ở đài đáp: “Xứ ấy toàn sườn trơ đá lớn. Vả lại, gió lớn thổi đánh vào núi, lửa nào có thể dừng đứng, hẳn là Thánh đăng vậy”. Lần lượt lễ bái chiêm ngưỡng, lại thấy có hai ngọn đèn vàng ròng, cách cốc lại hiện ra một ngọn đèn bạc sắc màu như bạc cháy. Vừa gặp men theo bên cạnh có An Phủ Quách Tông Nhan sai người vội đem danh thiếp đến, Thương Anh tôi chỉ vào đèn mà bảo đó: “Ông có thấy chăng?” Kẻ sứ ấy đáp: “Thấy”. Thương Anh tôi bảo: “Nên vì ta mà cảm tạ An Phủ”. Vừa mới chiêm lễ Thánh đăng, gió lớn nổi thổi chẳng thể cầm đuốc, chưa kịp đáp lại danh thiếp. Khi ấy lại kính lễ cầu thỉnh “nguyện hiện ở trước tôi”. Trước ở phía tây sau ở phía Đông mỗi mỗi đều như điều thỉnh nguyện. Cuối cùng một ngọn đèn dưới phía tây nơi trong vầng sắc màu xanh biếc tỏa phóng ánh sáng lớn mà đến. Hai ngọn đèn ở đông và tây đồng một lúc cùng đến. Từ Bắc Đài đến Trung Đài cách xa mười dặm, mà chỉ trong khoảnh khắc xoay nhìn đã ở trong trăm bộ. Xa thì ánh sáng lờ mờ đến gần thì gom thâu lại giống như chén báu lớn bằng ngọc thạch giũa mài nên, bên trong tích trữ hỏa châu. Sáng đượm một màu, chỉ chốc lát cúi lạy vừa ngẫng lên lại trở về nơi cũ. Khi ấy mọi người trên đài khởi sinh ý tưởng hiếm có, nên ân cần cầu thỉnh lại. Liên Châu lại hiện đến. Đêm đã dần tàn, rét lạnh thấu cốt xương, kính lễ bái tạ mà xuống núi, ngọn đèn ở phía Đông liền tắt mất, còn lại hai ngọn đèn dầu mờ tối. Thương Anh tôi nói rằng: “Nghiệp đã kính phụng lễ từ, tâm chiêm ngưỡng lúc nào mới tạm tiêu”. Nói lời ấy xong, ở trong một vầng sắc màu xanh biếc, sáng rực màu hồng khắp đầy núi. Đêm đó, gió lớn thổi bụi mù đến chiều tối hôm sau (ngày mồng 02 tháng 07) cũng vậy. Thương Anh tôi khẳng tiếng nói rằng: “Đêm qua tại Trung Đài trông thấy thù thắng như vậy, ngày nay đến tây đài, Bồ-tát há trái nghịch ý tôi sao?”

Đi đến Hương Sơn thì mây lành đã phủ đậy đảnh đài, trầm tệ rồi, mọi sự trông thấy đều như mới đầu, chỉ không có thế giới lưu ly vậy, bèn đi đến chùa Ngọc Hoa và chùa Thọ Ninh, trở về lại viện Chân Dung, Quách Tông Nhan và Đại châu thông phán Ngô Quân Xương, Ngũ Đài tri huyện Trương Chi Tài, Đô tuần kiểm sứ Lưu Tấn, Bảo giáp ty cú đương công sự Trận Duật, mỗi mỗi đều vì chức sự mà đến nhóm tụ. Thương Anh tôi đem những điều trông thấy mà nói cùng, tuy vậy mọi người đều ngợi khen mà thôi, lường thấy họ nghe mà biết họ cũng như muốn, Thương Anh tôi bảo rằng: “Các ông nên lưu truyền rộng ra vậy”. Đêm đó, trước các Thanh Huy lại thấy đèn vàng ròng, như lúc đầu mới đến, bèn sai người gọi Quách Tông Nhan, Ngô Quân Xứng v. v… cả thảy năm người đồng đến trông xem, trên cây tùng phía sau dục thất bỗng nhiên hiện một đàn đèn như chuỗi châu nối liền, các ông mỗi mỗi đều cúi đầu bái lạy. Khoảnh khắc, ánh sáng ẩn mất, mọi người giải tán. Bên cạnh Điện La Hầu hiện ra ánh sáng sắc trắng lớn như dòng sao chảy, chỉ nơi rừng tùng phía sau dục thất, hơi khí sắc trắng mông hung quá nửa đêm mới tan dứt.

Đến ngày mồng 03 tháng 07 Quách Tông Nhan, Ngô Quân Xứng căn cứ theo hướng đông mà đóng trại, Trương Chi Tài trở về lại, sắc trời cũng rất mờ tối mịt mù, Thương Anh tôi cùng Trận Duật và Hưng Thiện doanh trấn Tào Tư chiều tối đến núi Phạm Tiên. Tào Tư nói: “Đêm qua nghe thấy đèn vàng ròng, lên trộm sau hiên vũ ông mà thấy đó”. Trận Duật hỏi: “Ông thấy tại nơi nào?” Tào Tư đáp: “Tại giữa không trung”. Trận Duật cúi đầu nói: “Thánh thay! Thánh thay! Trận Duật tôi từ cao mà trông nhìn đó như tại trên khe mối, còn ông từ dưới thấp mà trông nhìn nên như ở giữa không trung”. Thương Anh tôi đã nhiều ngày mong cầu không gì chẳng ứng, nhân đó lớn tiếng nói rằng: “Vì hai ông cầu thỉnh mây lành năm sắc” và liền dạy thay đổi áo, lễ bái âm thầm mà khẩn cầu, bỗng chốc từ góc tây nam sắc trời xin đẹp sáng thoáng, mây lành ùn nổi, khí tía cuộn quanh. Thương Anh tôi nói: “Dưới khí tía hẳn có Thánh hiền, xin hai ông nên chỉnh túc chí thành, sẽ thấy linh tích”. Giây lâu, cung điện lầu các, các chúng Bồ-tát, hóa hiện vào ra. Thương Anh tôi lại khẩn nguyện rằng: “Nguyện hiện đội trượng, khiến hai người kia đồng một lúc trông thấy”. Nói xong, bỗng nhiên bày trải, hai ông chỉ tán thán mà thôi. Đến lúc đã chiều tối, muốn đi trông nhìn khoảnh khắc tự nhiên ẩn mất. Hai ông ấy nói: “Thánh thay! Thánh thay! Nếu như gá nơi mây khí mà hiện thì phải ẩn ẩn trầm diệt, sao vụt nhiên mất hết vết tích vậy ư?” Đêm đó, lại dừng nghỉ tại các Thanh Huy, tự suy nghĩ rằng “ngày mai tạm xuống núi đèn báu ấy hãy vì tôi mà hiện lại”, kéo then mở cửa, thì trên khe suối ở phía nam kim giới đã thấy có ánh đuốc lớn, men sau dục thất có hai ngọn đèn, đông tây cùng xuyên suốt mỗi nơi ngọn cây tùng, hợp làm thành một ngọn đèn tỏa sáng ánh ngời chậm rãi từ sườn núi phía Đông mà đến phía nam, nhóm tụ trên bãi cát khe suối ở nơi cuối rừng, tỏa phóng ánh sáng sắc trắng lớn, chẳng phải mây chẳng phải sương mốc. Lâu sau, trong ánh sáng ấy thấy có hai ngọn đèn báu, một ngọn theo hướng nam bay đi, cùng với bốn ngọn đèn trên khe suối kim giới cùng tụ hội, và nơi điện dấu chân La hầu cùng bên cạnh Long Sơn có hai ngọn đèn, một lúc đồng thấy. Thương Anh tôi liền phát thệ nguyện rằng: “Nếu ở trong đời quá khứ, tôi là quyến thuộc của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thì nguyện càng được thấy tướng hy hữu”. Nói xong, hai ngọn đèn cùng lay nhảy đua vũ vài ba phen. Trông thấy việc ấy rồi, Thương Anh tôi phát đại thệ nguyện rằng: “Cầu mong đến lúc chấm dứt báo thân này, thọ học vô biên Phật pháp, nơi có các thứ tà dâm, sát sinh, vọng ngữ, tà kiến và các ác niệm, trọn diệt chẳng sinh. Một niệm nếu sai, thì nguyện nơi nơi chốn chốn có được Bồ-tát soi xét ủng hộ”.

Khi ấy hai ngọn đèn ở hai phía nam bắc, ánh sáng màu vàng cháy rực trắng, trước nghểnh cao sau rũ xuống, bay vọt giữa hư không mà đến trước. Khi ấy đã là nửa đêm, mỗi người trở về lại chỗ cũ.

Ngày đó, Thương Anh tôi đến nơi điện dấu chân La Hầu thấy phòng ốc hiên vũ ở đó hư nát đổ tệ, khởi ý niệm muốn ngày khác sẽ tu chỉnh hoàn bị đó. Đêm đó nơi chỗ thấy đèn ở điện dấu chân rất khác lạ, bèn liền lấy ba vạn tiền sao cho Sa-môn Tăng Chánh Tỉnh Kỳ tu tạo lại.

Ngày mồng 0 tháng 07, đến chùa Phật Quang, Sa-môn Thiệu Đồng chủ sự ở đó nói là: “Đây là đạo tràng của Thiền sư giải thoát, văn bia và khám hiện đang còn”. Nhân đó đọc xem trong văn bia thấy biên ghi rằng: “Giải thoát mặc giải thoát, Văn-thù kệ Văn-thù”. Mới bùi ngùi ngợi khen rằng: “Thật là đại trượng phu thay!” và dùng kệ tụng mà tán thán rằng: “Thánh phàm trên đường tuyệt màn vết, giải thoát Văn-thù mỗi tự bàn phương đây trời tây không chỗ đắm, dưới núi Phật Quang một khám còn”. Ngày đó đã tối, trước chùa mây lành hiện sắc tía đượm nhuần thành nhụy, bèn hỏi Sa-môn Thiệu Đồng rằng: “Chùa này từng có linh tích chăng? Do nhân duyên gì mà hiện hơi khí điềm lành ấy?” Sa-môn Thiệu Đồng đáp: “Nghe nói khoảng trong niên hiệu Hoàng Hựu (10-105) thời Bắc Tống, từng có Thánh đăng”. Thương Anh tôi nói: “Xét nếu thật có hẳn sẽ như tôi thỉnh nguyện”. Bèn hỏi ở phương nào đáp là ở Nam Lãnh. Đêm tối liền thành kính cầu thỉnh, tại lãnh trung quả nhiên thấy có một ngọn đèn bạc, lãnh yêm thấy có 02 ngọn đèn vàng, chỉ sánh như chỗ thấy ở viện Chân Dung thì có chút ít sai khác vậy.

Qua ngày mồng 5 tháng 7 đến Bí Ma Nham, lúc chưa đến các khoảng 10 dặm, từ đài có một luồng hơi khí sắc trắng thẳng suốt trên đảnh nham, phía trước nham thấy Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi cưỡi sư tử. Khi đã đến nơi thì sắc trời mờ tối, rất khác với chỗ từ xa trông, có Samôn kế triết ở viện viên quả tại đại châu dựng am ở phía nam của núi, đọc xem đại tạng kinh, chẳng xuống khỏi núi đã ba năm vậy. Bèn đến nơi am đó, hỏi ở núi lâu ngày như vậy có từng thấy chăng?” Sa-môn Kế Triết đáp: “Trước đây ba năm trên nham cửa mở, có ba vị Tăng mặc áo hạt, áo sắc vàng, áo sắc tía tựa cửa mà đứng, giâu lâu lại bít đóng, lại giữa khoảng sườn núi có Thánh đăng. Kế Triết tôi chỉ nghe mà chưa từng thấy vậy”. Sa-môn Kế Triết mới bảo: “Sắc trời như vậy, há bần đạo ở am không tướng trạng gì, cuối cùng ông trống không đến rồi trống không đi ư? Tuy nhiên xin nguyện được một thiên để ngời sáng nham huyệt”. Bèn phủi vách biên tả một bài kệ tụng rằng: “Đọc hết năm trăm Hàn Lang Cung, ba năm chẳng xuống Bí Ma Nham, phải biết riêng có nói an thân, cởi bỏ Như Lai áo cốt hôi”. Biên chép bài kệ tụng xong, ra ngoài am trông thấy nơi cửa nham, có mây lành sắc màu vàng ròng, sắc thái lóa mắt, Bồ-tát cưỡi sư tử sắc xanh vào giữa khoảng mây. Thương Anh tôi nói: “Đêm nay rất có việc ưu thắng, hẳn chẳng đến trống không vậy. Sườn bờ nham cao trăm nhận, vách đứng trơ trọi, dẫn vợ và kẻ tớ theo hướng đông đi đến Vọng Nhai, lại lễ báo kính thỉnh thụt thùi, có hai ngọn đèn vàng hiện nơi khoảng Xích Nhai, bèn gọi Tăng Dụng chủ sự ở đó mà trông xem. Vừa mới đầu tiên, binh lính đi theo còn chưa ngủ, nghe cả nhà hoan hô gọi, mọi người đều ngẫng đầu trông xem đó, ồn náo đầy cả sân. Phàm có 07 lần mà ẩn, chí thành cầu thỉnh thời gian lâu, nơi mặt bờ sườn như sơn. Tăng Dụng nói: “Thánh cảnh riêng vì ông hiện, đâu cho kẻ lại và binh lính cùng trông thấy ư?” May người định thiếu như, Tăng Dụng lại nói rằng: “Chung quanh đều đã ngủ, có thể cầu thỉnh lại vậy”. Thương Anh tôi thay đổi y phục, cúi rạp chí thành cầu thỉnh như mới đầu, bỗng nhiên bên tả bờ sườn, có Bồ-tát với ánh sáng sắc trắng, đứng trong ánh sáng, ẩn hiện ba lần. Thương Anh tôi được điều chưa từng có, liền phát đại thệ nguyện như trước lại xướng lời rằng: “Nếu ở trong đời trước, tôi thật là quyến thuộc của Bồ-tát, xin nêu hiện lại tướng thù thắng khác lạ”. Nói xong, hai đèn vàng lớn tỏa chiếu nơi sườn núi đá. Thương Anh tôi lại xướng rằng: “Nếu Bồ-tát đem giáo pháp ở trong thời tượng quý giao phó cho Thương Anh tôi gìn giữ hộ trì, thì nguyện xin thị hiện lại”. Nói xong, liền phóng hai luồng ánh sáng như sâm xẹt, một đèn vàng lớn tỏa chiếu trước sườn núi suốt đến nơi ngọn cây tùng. Khi ấy vị Tăng chủ sự v. v… cả thảy mười người cùng đồ chúng ấy xác thực cầu thỉnh rằng: “Kính cẩn y cứ theo kinh Hoa Nghiêm nói là: “Về phương đông bắc có nơi gọi là núi Thanh Lương, từ xưa trước đến nay các chúng Bồ-tát dừng ở trong đó. Hiện tại có vị Bồ-tát tên là Văn-thù-sư-lợi cùng với quyến thuộc các chúng Bồ-tát cả thảy một vạn vị đều ở trong đó và thường vì giảng nói pháp”. Tức ta đến ở trong núi nơi Thánh chúng không biết đã qua mấy ngàn năm vậy. Từ đời vua Minh Đế (Lưu Trang 58-76) thời Hậu Hán, đến thời Bắc Ngụy, thời Bắc Tề, thời nhà Tùy, thời Tiền Đường cho đến thời Ngũ Đại trở về trước, trải qua nhiều triều đạo xây đắp tạo dựng có tốn phí không ít ỏi. Đến đời Hoàng đế Thái Tông (Triệu Quýnh (76-8) thời Bắc Tống chúng ta sau khi đã bình trị dòng họ Lưu, tức dưới các quan bỏ buông thuế khóa các chùa viện ở Đài Sơn, sau đó bốn triều đại cũng chẳng không vâng theo ý chí xưa trước nhờ nhân biên tốt bàn nghi bao quát đất khoán nên núi rừng Thánh cảnh chúng ta làm thành đất gò, chỗ có khai khẩn ruộng nương, chặt phá phát bày hạng nhà của rồng thần, chùa vũ của chúng ta v. v… trong mười ngôi đã hư hại hết 08-0 ngôi, tăng chúng khất cầu tan rãi đến bốn phương, thì chánh giáo của Đại Thánh Vănthù-sư-lợi chúng ta không bao lâu nữa hẳn bị mòn diệt ông phải làm văn để ghi nhớ truyền tin khắp thiên hạ, khiến người đời sau tiếp thừa ý phó chúc của Bồ-tát”. Thương Anh tôi nói rằng: “Kính cẩn cảm tạ đại chúng. Khó thay! biết nói sao? Con người sở dĩ làm người, mắt đối với hình sắc, tai đối với âm thanh, mũi đối với mùi hương, lưỡi đối với mùi vị, thân thể đối với xúc chạm, ý đối với pháp trần, chẳng vượt ra ngoài 06 thứ ấy mà thôi. Nay mới bắt chước đó mà viết là: sắc mà chẳng phải sắc, âm thanh mà chẳng phải âm thanh, xúc chạm mà chẳng phải xúc chạm, pháp trần mà chẳng phải pháp trần, lìa tuyệt thế gian chỗ gọi là thấy nghe hay biết thì trọn đời chu toàn chẳng vượt ngoài đời nhân gian chẳng lấy làm yêu thì quái vậy. tôi chỉ muốn tự tin mà thôi. Sao có thể niềm tin đó đưa đến mọi người và đời sau ư?” Thế rồi, Quách Tông Nham, Ngô Quân xứng gởi thư đến nói rằng: “Nhờ sức của ông mà được hầu thấy việc lớn, từ xưa lưu truyền được nghe mà chưa từng thấy, nay đều ứng nghiệm vậy. Nên có ghi thuật để làm tin cho người sau”. Thương Anh tôi ba lần nghĩ suy rằng: “Đem Thánh nói phàm, đem tịch lắng nói huyên động, đem tinh diệu nói thô thiển, đem trí nói ngu, đem chân nói vọng, đem thông nói bít, đem sáng nói tối, đem lớn nói nhỏ hẹp, vì bờ vức giới hạn chẳng cùng biết, phân tể chẳng cùng kịp. Thí như A-tu-la vương đưa tay lay núi Tu-di mà kiến hơi chẳng thể cử động. Một hạt cải mà Ca-lâu-la vương qua 07 ngày biến thành 0 thiên hạ mà sâu hại chẳng thể bay. Tầm trượng như Thương Anh tôi chẳng phải không mong muốn nói, chỉ sợ nói không ích lợi vậy”. Hoặc có người bảo: “Có từng biết Sa-môn thích pháp chiếu chăng? Trong khoảng niên hiệu Đại Lịch thời Tiền Đường (766-780) vào chùa Trúc Lâm biến hóa, lo ngại người sinh tâm phỉ báng nghi ngờ mà không dám vọng truyền, bỗng thấy một thần tăng bảo rằng: “Điều ông nghe thấy nơi cảnh giới Đài Sơn, sao chẳng như thật biên ghi chỉ bày cho chúng sinh làm lợi ích lớn”. Nay ông lánh sự nghi ngờ phỉ báng ư? Lưu truyền cả trăm mà chỉ một người tin, thì lưu truyền đến ngàn, hẳn có mười người tin, lưu truyền đến vạn có trăm người tin vậy. Trăm người tin mà chỉ một người thực hành còn đủ khả năng để phá tà tông, hỗ trợ chánh pháp, huống gì có cả trăm người hay thực hành ấy ư?” Thương Anh tôi nói rằng: “Khéo thay lời dẫn dụ! Tôi nói một lời giẫm trải dối vọng thì trăm ngàn vạn kiếp, chìm đắm trong đường xấu ác, kính cẩn mà biên ghi đó để phụ sau truyện Thanh Lương vậy”.

Lại biên thuật các bài phú và thơ về núi Thanh Lương phụ ở cuối nguyên Phàm núi Thanh Lương, thuộc phía Đông bắc của Đại Đường, phía tây nam của Yên Triệu, núi tên là Tử Phủ, xứ đất hiệu là Thanh Lương, là nơi Bồ-tát tu hành, là quê hương của rồng thần ở lâu dài. Mùa đông trông nhìn trên 05 đảnh như bạc, mùa hạ trông nhìn ngàn ngọn núi tợ gấm, thật là hang nhà của Đại Thánh Văn-thù là vườn rừng của muôn Thánh! Chuông khánh vọng hưởng giữa khoảng núi biếc, lâu đài lấp trong mây trắng. Người thường đi tham lễ, giải thoát quên thân mình, Thiền Khánh đến ở, ma quân chóng dứt. Đây là chẳng lìa cảnh Thánh, có 12 ngôi chùa lớn, được xưng gọi là danh lam của trăm xứ. Gặp lúc thời tiết mùa xuân mùa hạ, hoa trung bay tan đến cực lạc thiên cung, mùa thu mùa đông tùng ảnh bày thành nội viện Đâu Suất. Tám ao sương mốc che phủ, chín động mây mờ cản ngăn, cỏ lành mầm linh, buồn bả cát tường, diệu lý khó cùng, Đại Thánh Văn-thù hiện tướng người già ở trong, La Hầu hóa trẻ thơ nơi giữa, bần đạo tăng tướng thế gian phần nhiều ẩn tàng, 500 Long vương bệnh hoạn tàn tật, từng ẩn mười ngàn vị Bồ-tát, Lầu ca quán trà thường xoay chuyển xe pháp Tứ đế. Tiệm rượu, lò mổ, đều hiện sắc thân Tam-muội, ruồi bay từng lũ đều đàm môn giải thoát, thú chạy sáng láng thảy nói giáo pháp vô sinh. Nay trông nhìn các phương, đi tham lễ xa gần, bè bạn nếu đến trong cảnh Thanh Lương, chẳng sinh tâm dung dễ. Đây là biết thì không thấy, thấy thì không biết, rồng rắn hồn tạp, phàm Thánh đồng ở ấy vậy.

– Đông Đài:

Xa xa mây nước vượt núi cao.
Dầu thấy đáy trời vũ trụ lớn.
Đông bắc rõ ràng nhìn biển cả.
Đông nam tấc thước thấy Trường An.
Vòng sáng hóa hiện châu ngàn hạt.
Vầng nhật vừa lên lửa một đoàn.
Gió mưa thường từ dưới nham nổi.
Trong động Na-la có long bàn.

– Nam Đài:

Xa xa roi gậy lên Nam Đài.
Bắc nhìn Thanh Lương mắt chợt mở.
Một mảnh khói mây trùm tử phủ.
Muôn năm tùng thẳng lấp rêu xanh.
Người đến cảnh linh vượt khe suối.
Ta hỏi Chân Dung đạp đảnh lên.
Từ trước tam tam ít người biết.
Nạp tăng đến đó thật bồi hồi.

– Tây Đài:

Đài báu vút cao chân lút bể.
Sư tử để vết cạnh nước trong.
Trong mây năm sắc lên thượng giới.
Ngài trời chín lớp nhìn phương tây.
Du thời mưa rưới cung rồng lạnh.
Một đêm gió thổi nguyệt quế thơm.
Đất đá còn hay tiêu tội chướng.
Sao nhọc Bồ-tát tỏa thần quang.

– Bắc đài:

Bắc đài cao vút xanh sờ sửng.
Ít nhiều người đi đến bèn lui.
Sợ thấy trước mắt địa ngục sống.
Buồn nghe bên tai sấm gió vang.
Thất tinh mỗi đêm đượm đảnh núi.
Lục xuất lâu năm chứa bờ khe.
Nếu gặp Hắc Long linh sốt ruột.
Tâm niệm nhân gian tự nhiên tan.

– Trung đài:

Trung đài vời vợi rất đáng trông.
Bốn mặt núi rừng bưng xanh biếc.
Muôn hang tiếng tùng lòng đất vọng.
Vài cành sắc núi lạnh cốt lông.
Lớp lớp yến nước Đông nam rỗng.
Mênh mông các vàng tây bắc thoáng.
Đều tin Văn-thù xin quy hướng.
Mọi người cao bước đầu bạch vân.

– Bài thơ tổng quát:

Năm đảnh cao vời tiếp Thái hư.
Tất cả cùng xưng thấy ta ở.
Rồng độc bờ ao mây sinh vẻ.
Hổ dữ trước hang đường khách thông,
Băng tuyết đầy núi bạc chấm xuyên.
Hương hoa tràn đất gấm trải buông.
Mở bày tọa cụ dài ba thước.
Vuông phủ núi sông năm trăm thừa.

– Thơ đề cổ và Tịnh Minh tháp luật:

Trăng tỏa phần xuyên khánh báu lạnh.
Ai đến nơi đây chôn hòm vàng.
A-dục đắc đạo đi giữa không.
Tôn giả sáng bay ra chỉ mối.
Trên trời mây ngưng thường phủ định.
Nhân gian kiếp lửa cháy rụi tàn.
Ba ngàn thế giới không lưu vết.
Hãy đến Diêm Phủ hiện Niết-bàn.

 

QUYỂN HẠ

Truyện đã hoàn thành, sai người dùng đáy gấm đựng một bản và mang theo một năm sớ. Ngày 28 tháng 08 (năm 1088) đến trước Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi ở điện Chân Dung tấu bày rõ. Lời văn sớ đó là “Gần đây đích thân đến Đài Sơn, được chiêm ngưỡng Thánh tượng, từ bi phó cảm, thù thắng hiện bày, mây lành thoảng tỏa giữa hư không, đuốc báu rạng ngời nơi hang cốc. Chư tăng đồng đi nguyện cầu đến đội trượng, chẳng thể nó đến Thánh hiền, gió lớn thổi mịt mù càng rõ tướng lành, vách đỏ cao vời càng bày chân thân. Thương Anh tôi lấy ngay thấy nghe, thuật thành ký truyện ngỏ hầu lưu truyền khắp sa giới, hoặc dẫn dụ ở người có tín tâm, khiến biết được núi báu Thanh Lương của chúng ta, quyến thuộc có cả vạn người cùng ở, thế giới Kim sắc, trời rồng tám bộ đồng nương, cúi đầu trước phạm Vũ vì tán thán rõ ràng, mong bậc đạo sư vì chứng xét”. Sa-môn Tăng Chánh Tỉnh Kỳ nhóm tập chư tăng có hơn 80 vị, đọc văn sớ xong, tại nội điện Bồ-tát bỗng nhiên đèn vàng ứng hiện hơn 0 biến. Thương Anh tôi nghĩ để có nơi quy hướng kính phụng, nên liền đắp họa tôn trượng bằng đất bùn.

Đến tháng 11 ra án Dân Linh, ngày mồng 08 mang đưa tôn tượng đến trước Bồ-tát mà phát nguyện. Với lời văn rằng: “Hết thảy mọi nơi thế giới kim sắc chân trí do đó vô phương. Về phương đông bắc, núi báu Thanh Lương, huyển duyên do đó mà hiện có. Vô phương thì một trần chẳng lập, hiện có thì ba cõi đồng chiêm ngưỡng. Vì vậy, tôi gieo mình quy y, mưa lệ buồn ngưỡng, cúi mong tự nghĩ suy. Thương Anh tôi xưa trước ở trong động Phổ Quang, hoặc ở nơi phía Đông thành Đại Giác, bởi vì một niệm khác sai, nên trôi nổi trong bốn loại chúng sinh, vào ra nơi ba ngàn cõi nước, buộc trói bởi mười hai căn trần. Lại do xưa trước có được nhân lành, ngày nay gặp được việc ưu thắng, nhờ phương tiện chỉ trong sát na, mở tỏa quang minh từ vô thủy. Vì ứ đọng cấu tục đã sâu, sợ cờ kiêu mạn vẫn còn, nương gá tôn tượng bằng đất bùn, phát rõ nguyện luân này. Tam giới không mà ngã tánh cũng không ai chân ai vọng, mười phương huyển, hình ta cũng huyển, nào khác nào đồng. Cúi mong Bồ-tát thâu nhiếp vào cung bi, dẫn đưa về điện trí, dất tín túc lên nơi đảnh núi Diệu Phong, giúp sông biệu đến trong ao A-nậu, thệ nguyện kết thúc thân phần đoạn này, lại hiển bày làm việc hiếm có kỳ đặc”. Đọc văn xong, tại nội điện hiện ba ngọn đèn vàng. Ngày đó có tuyết lớn, sau khi tuyết ngưng, mây lành năm sắc tràn đầy giữa hư không. Đêm đó, trước các Thanh Huy, chung quanh điện La Hầu, hiện 1 ngọn đèn bạc. Trên đảnh hoàng ngôi, hiện ba vầng ánh sáng sắc trắng lớn.

Ngày hôm sau, mồng 0 tháng 11, mây lành năm sắc sáng rỡ vi tế, chẳng đồng như thế thấy ở tháng 06 tháng 07 trước. Há Thương Anh tôi hắc nghiệp chiêu vời nên, hay là Thánh hiền biến hóa cũng có khác lạ giữa xuân ha thu đông. Từng nghe rằng ánh sáng nơi thân chư Phật chư đại Bồ-tát, che lóa mờ cung ma tợ như mực ngưng tụ. Nếu tùy thời mà lớn nhỏ, thì một đại tụng kinh giáo tức là lời hư dối. Khi ấy, trong tuyết trước các hiện ba ánh sáng vàng trông thấy vừa rồi. Thương Anh tôi liền nhảy nhót bái từ, nói rằng: “Tuyết lớn hiện đèn, chẳng phải chỗ mong cầu vậy”. Rồi bảo mở điện Bồ-tát lấy sách tiếp theo, chỗ thấy ở sau. Đã mở điện, mến kính chẳng thể tự thôi. Lại chúc nguyện rằng: “Vốn đường đợi tội, thảng chưa bãi đi. Tháng năm, tháng sáu năm sau mới có thể trở lại, rất mong lại được một lần chiêm ngưỡng tướng ánh sáng mãn nguyện mà đi”. Giây lâu, trước các lại thấy bốn ánh sáng vàng ròng lớn.

Tháng sáu năm sau (108), vì đều mắc gặp hạn hán, đến núi cầu mưa thấm đượm, nhân an đặt tôn phụng Thánh tượng Bồ-tát La Hầu. Ngày Ất tỵ (?) lúc sáng sớm đến các trung thiên, nơi bờ rừng ở phía Đông nam, bỗng nhiên biến thành sắc màu vàng ròng, có ánh sáng các sắc màu xanh đỏ nổi thẳng, xinh đẹp tỏa lóa mắt, qua một thời (giờ) mới ẩn. Đến lúc mặt trời xế bóng lên núi Thanh Lương, có hơi khí khác lạ năm sắc làm tượng Bồ-tát cưỡi sư tử. Ngày hôm sau Bình ngọ, đến viện Chân Dung, thỉnh cụ oai nghi nghinh thỉnh nơi an đặt tôn tượng La Hầu. Vừa đến cửa chùa mà có người báo rằng: “Đèn trong điện vừa hiện vậy”. Đã bái yết Bồ-tát chiêm ngưỡng lần lượt xong, lọng báu trên đảnh bỗng nhiên sáng rực, vị Tăng chủ sự tại điện nói: “Điện ở đây, Phan lọng có nhiều vô số che kín khắp cùng, mà lòng trên đảnh rất cao ẩn kín chẳng thể hiện bày, nay sáng rực như vậy. Thật chưa từng có”. Đêm đó, từ Đông Đài đến điện La Hầu cặp hai bên hiệu hơn mười ngọn đèn vàng lớn, qua lại lên xuống, hoặc qua cả giờ, hoặc qua cả khắc, hoặc hiện thời gian lâu. Ngày hôm sau nửa Đinh mùi, đến trước Bồ-tát, kính bạch rằng: “Trong kinh Hoa Nghiêm nói 08 nơi Đức Thế Tôn tỏa phóng ánh sáng phô bày pháp. Ánh sáng đây nếu là pháp tánh vốn có; không tướng ánh sáng, trông nhìn đó chẳng thấy thì Thương Anh tôi không nghi ngờ, nếu là ánh sáng của chư Phật quả đức viên mãn khiến người có thể thấy, thì nguyện vì thị hiện”. Khi ấy lọng báu trên đảnh bỗng nhiên sáng khắp cùng, lỗ hổng nhỏ cũng lưu tỏa ánh sáng bắn xuyên ra ngoài bốn phía. Thế rồi, nơi gian khâm lĩnh, nơi gian như ý. Mỗi mỗi đều phóng ánh sáng báu sáng rực lay động. Lại ở trước điện, lá hoa sen vàng ròng, ánh đèn giao tỏa mở hợp vô số. Khi ấy các hàng tăng tục xa gần có cả ngàn vị cùng nhóm tụ, gọi nhau mà trông xem, reo vang chấn động, tiếp lại buồn khóc, mỗi người tự than rằng: “Từ vô thỉ đến nay bởi tội nghiệp sâu nặng. Xin từ ngày nay sửa đổi tu tập”. Tiếp ngày hôm sau-mậu Thân, đến Trung Đài, lúc trời sắp tối, bốn phía núi xanh lắng, bỗng có hơi khí khác lạ giăng đạp đến Bắc Đài, núi như bạc cháy sáng, khắc họa dài mười trượng, mọi người nói là: “Cầu bạc hiện”. Thương Anh tôi bảo: “không phải. Đó là đường thềm bạc trắng, lối đường hiền Thánh giẫm bước đi”. Bỗng chốc, hiện một ngọn đèn báu, phân làm hai, khi ấy có mười mấy vị du tăng đã về đài, dừng nghỉ qua đêm trong phòng ốc, kêu gọi ra cùng trông xem. Chư tăng cúi đầu xưng niệm Phật. Thương Anh tôi nói: “Xứ này sẽ có ba ngọn đèn. Mọi người nêu trông xem kỷ”. Giây lâu, ba ngọn đèn đều hiện. Thương Anh tôi đem “Tục truyện” chỉ bày mà nói rằng: “Chỗ viết năm trước của tôi như phương đông tâm tú, đâu phải nói dối ư?”

Ngày hôm sau-kỷ Dậu, Thái Nguyên thiêm phán tiền cảnh sơn và kinh lược ty quản cú cơ nghi văn tự Thiệu Quân đến gặp gỡ tại Đông Đài, mà Thương Anh tôi đã trở về viện Chân Dung, tức sai bảo người gọi hai ông ấy trở về, hai ông ấy nói: “Vừa rồi ở Đông Đài thấy vầng ánh sáng tròn gom nhiếp ánh sáng nơi thân, chỉ chưa được thấy Thánh đăng vậy!” Đêm đó, bèn cùng hai ông cầu nguyện đèn hiệu mà trông xem, Hôm sau ngày Canh Tuất, dừng nghỉ qua đêm tại chùa Phật Quang, có mậy lành, hơi khí khác lạ, lẫn lộn vô số. Hôm sau nữa-ngày Tân Hợi đến Bí Ma Nham, chưa đến tới hang, cách khoảng ba dặm, thẳng ngay có ánh sáng hiện, khi đạ đến hang mà ngay trước cửa mặt tôn tượng Phật Lô-xá-na tỏa phóng ánh sáng soi chiếu khắp điện. Đầu đêm, ở nơi tầng bờ sườn, hiện năm ngọn đèn vàng lớn. Ngày hôm sau-nhâm Tý, ra hang, ở giữa hư không, hiện một cầu vàng, cầu ấy chẳng nương tựa nơi núi cốc, chẳng nương tựa nơi mây khí, chẳng gá ánh sáng mặt nhật, phô bày giữa hư không vàng nhuận, như sắc màu vàng thật. Than ôi! Ngay chỗ hiện nối, ngay chỗ ấy ẩn diệt, nếu chẳng phải phương tiện thiện xảo đại huyển, ai có thể cùng như vậy ư? Lần đi ấy, đã vì nắng hạn mà cầu mưa, ở tại núi ba lần cầu khẩn, ba lần ứng nghiệm, chỉ chút chốc liền tạnh ráo. Ngày sau nữa-quý sửu, trở về đến Đại Châu, mưa lớn cả ngày đem ra khô nẩy mầm, biến thành năm được mùa.

Thương Anh tôi bèn đem việc ấy tấu trình, đại khái là “Gần đây vì bản lộ gặp phải nắng hạn, nên đích thân thần (bề tôi đến trước tôn tượng Đại Thánh Văn-thù ở núi Ngũ Đài và ao năm rồng, khẩn cầu mưa đượm, đêm ngày đổi lửa báu ánh sáng linh, hình tướng khác lạ đặc thù rực rỡ hiện bày, chẳng thể nói bày hình trạng ấy. Khi đó, các hàng tăng tục ở bốn phương có hơn ngàn người cùng đồng trông xem. Âm thanh mừng reo chấn động cả núi cốc. Thế rồi, lúc ấy mưa lớn tuôn đổ rộng phủ vài châu. Lúc đầu, thần mới ra đi, cây cỏ khô héo lụi tàn, nông phu buồn than, đến lúc trở về, cây gai tươi tốt, xanh biếc sinh động, thân lạc ca khúc thanh bình, chỉ đời được mùa lớn. Đây bởi triều đình có đạo, các Thánh để giúp, Quan Hữu Ty thôi thúc thi hành chiếu điều, ban bố đến danh sơn cõi khác, được ứng đối như vang hưởng, khám xét nhóm mười chùa ở núi Ngũ Đài, xưa trước gồm 2 nông trang. Sau khi Hoàng đế Thái Tông (Triệu Quýnh 76-8) bình trị đất Tấn, đều bỏ tô thuế, để hiển bày sự sùng phụng. Lại nhân biên thần lừa dối triều đình, cho rằng đất đó là núi hoang, bèn lắm nêu chiếm đoạt ruộng tốt hơn ba trăm khoảnh, vời đặt các tay cung tên có hơn trăm hộ. Nhân đó xua đuổi chùa chiền, kiện tụng chẳng dứt, chư tăng phân tán, chùa vũ nát hư. Thần đã nhiều lần thấy tình trạng đó, xin nêu cấp hoàn trả. Trọn chưa được xét kiểm, thần trộ lấy ngoài lục hợp, bởi có sự chẳng thể đặt để cật vấn. Kia là hóa nhân, đâu phải dùng khuôn phép đất ruộng được mất, làm thành và khuyết, chỉ vì người xưa cúng thí để làm ruộng phước. Người đời sau lấy đó nuôi dưỡng binh lính làng quê. Đối với lý, nghi là chưa an thỏa, muốn xin ban cho bản lộ khám hợp, như chỗ thấy và tỏ bày của thần, riêng không chẳng thật, tức xin kiếm hợp, đã nhiều lần tấu trình sớm ban thi hành. Tuy là như vậy, nhưng kia là Đại sĩ đem mười phương ba cõi làm một thể tòa Tỳ-lô-giá-na mà Thương Anh tôi khư khư lấy vài trăm khoảnh ruộng làm phiền người, chí ý ấy hẹp hòi, cũng chẳng buồn ư?”.

 

PHỤ TRUYỆN

“Tục truyện” đã lưu hành, mọi người tin mà đi, phát tâm chí thành, không ai chẳng được cảm ứng. Tháng hai năm Nguyên Hựu thứ tư (108), Bản lộ Đô đốc Tổng quản Tư Tẩu Mã, Thừa thọ công sự Lưu Hửu Đoan đến trước điện La Hầu, đang trong tuyết cầu thấy một ngọn đèn vàng, phân làm ba, một ngọn nhảy nhót mà lên. Cuối tháng năm, chuyển ánh sáng tròn, gom thâu một ánh sáng thân mình. Ở trước Điện Thanh Huy, trong mưa có một ngọn đèn vàng bay lên. Kinh lược ty chuẩn bị sai khiển Phan Cảnh đến trong rừng tùng trước có Thanh Huy, cầu thấy ba luồng ánh sáng sắc trắng nổi thẳng lên, vạn vị Bồ-tát đội trượng la liệt, sư tử vàng ròng đùa vui phấn tấn, một điện vàng, ba ánh sáng tròn. Trong ánh sáng tròn hiện đảnh đầu Đức Phật tướng trạng như từ đất vọt lên, một vị Bồ-tát cưỡi một sư tử, một Quán Thế Âm mặc áo trắng, ba cầu vàng, một đèn bạc và có tám qua lại, ba ngọn đèn vàng, mà tắt sáng có 15 lược. Phan Cảnh tự vì ba đời kính phụng La-hán, một đời dùng y thuật cứu người, mà chưa từng thấy được tướng trạng La-hán Dược Vương, im lặng mà có sự khẩn cầu, đi đến nơi Kim Các, giữa hư không hiện một chiếc thuyền vàng lớn, trên thuyền có vài trăm vị La-hán, vị đi, vị đứng, vị lễ bái. Lại đi đến đầu tạng, thấy mây trắng từ phương Tây bay lai, Bồ-tát Dược Vương đứng ở đầu ngọn mây, ngay tâm quan tụ lớn, điều đen giày đen. Phàm, những vị thấy của Phan Cảnh riêng có nhiều lại khác, không thể biên ghi hết đầy đủ.

Đến cuối tháng sáu, Sa-môn ôn ước từ kinh đô đến, cúng thí pháp y ca-sa bằng kim tuyến, và mang hương từ trong nội cung đến. Giám Trấn Tào Tư sáng sớm đến địên Bồ-tát, trong khoảnh khắc vừa dâng hương, trước điện trên đèn sáng lớn, bỗng nhiên phóng nhã ánh sáng vàng ròng lớn như bánh xe bay soi chiếu trong điện. Kinh lược tư cá đương công sự Lý Nghị theo hầu thân ánh sáng tròn gom thâu ánh sáng thân mình ngay ánh sáng đèn vàng. Lý Nghị viết thư gửi lại nói rằng: “Ngày nay mới biết “Tục truyện” chẳng phải hư dối vậy”. Tư chính điện học sĩ Tri Hà Nam phú Lý Thanh Thần nghe vậy, nói rằng: “Văn-thù cùng Thích Ca văn khác tên mà đồng một thể. Tuy đã là cổ Phật nhưng tuổi thọ phủ cả đất trời, thị hiện vết tích rũ bày hạnh hóa còn tâm từ bi vậy”. Long Đồ các học sĩ Bản lộ kinh lược An Phủ sứ Tăng Hy nói rằng: “Xưa trước, Tăng Hy tôi chuyển dời quân súy ở Quảng Đông đi đến ao trời ở Lô Sơn, lên đài Văn-thù, gió lớn chấn động cây rừng mờ mịt, chỉ trong khoảnh thước tấc mà không biện rõ đường lối, đèn đuốc rực lửa đều tắt, mà trông nhìn phía dước trong cỏ xanh, đèn vàng tỏa xuất bốn phía hoặc gần hoặc xa, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc ẩn hoặc hiện. Gặp lúc đang đêm mỏi nhọc nên ngủ, chỗ thấy ấy thật chưa phải hết, nhưng gió lớn chẳng thể là Đại Quang Minh vô lượng thần lực chẳng thể nghĩ bàn thì ai có khả năng như vậy ư? Trông xem nói vậy khó tin nên không dám biên ghi để chỉ bày cùng mọi người. Đến lúc đọc xem “Tục Thanh Lương truyện” của Thiên Giác, thì chỗ thấy nghe của Tăng Hy chưa đủ lấy làm quái lạ vậy”. Có người bảo cùng Thương Anh tôi rằng: “ngoại đạo ma ba tuần, quỷ thần sức lực mạnh, sơn tinh mộc mỵ đều có thể làm ánh sáng làm quái lạ, sao ông tin lắm vậy ư?” Xin đáp: “Điều ông nói về ánh sáng và quái lạ, hoặc là đạo quả sắp thành, thấy mà thử đó, hoặc là chánh pháp sắp thắng, xuất hiện mà làm chướng ngại đó. Nay tôi cùng mọi người tự trông thấy quyết vậy, chưa có ai lấy làm đặt để ánh sáng quái lạ thì đâu có gì phải nghi ngờ ư? Tinh tấn, tinh tấn, tổn đó lại tổn, chuyển thìa gỗ nơi nồi cháo là phận thường của bọn tôi”.

 

 

LẠI THUẬT HAI BÀI TỤNG (CÓ LỜI TỰA)

Thương Anh và Phần châu tây hà tể Lý Kiệt đồng đến bái yết nơi tháp Thiền sư Vô Nghiệp, tiếc tháp ấy bị hư nát nên cùng nhau tu sửa lại hoàn chỉnh. Thế rồi, tháp tỏa phóng ánh sáng, lại mộng thấy Thiền sư Vô Nghiệp thong dong dẫn tiếp, tỉnh giấc mà xem lời ấy, thấy Thiền sư Vô Nghiệp hỏi Mã Tổ về tâm ấn từ Tây Vức truyền lại. Mã Tổ bảo: “Đại đức! Ở nơi ồn náo, hãy tạm đi”. Thiền sư Vô Nghiệp đi. Mã Tổ lại gọi: “Đại Đức!” Thiền sư Vô Nghiệp xoay đầu lại. Mã Tổ bảo: “Là gì vậy?” Thương Anh nhân đó tỏ ngộ chỗ thấy ở Đài Sơn mà làm hai bài tụng rằng:

“Bốn lược vào núi lễ cát tường.
Năm sắc mây sâu nhìn ngời ánh
Mà nay chẳng đánh trống định ấy
Vì báo Thiền sư chớ phóng quang.
Là gì vậy? Là vì vậy?
Trước điện La Hầu đèn tợ lửa.
Chẳng nhân Mã Tổ gọi xoay lại.
Kịp bị Thiện Tài lén trộm nhìn.
Tỳ lam gió bỗng cao chín trời.
Cò trắng mắt mù lá chạy qua”.

Cung bị khố sứ đồng quản cú Hà Đông duyên biên an phủ tuy công sự thị Kỳ Quán, năm Canh Ngọ (100) thuộc trong niên hiệu Nguyện Hựu (1086-10) thời Bắc Tống, lúc đang trấn thủ tại Kỳ Dương. Đề hình Trương Công (Thương Anh) đi bộ qua quận, đem bộ “Tục Ngũ Đài Thanh Lương truyện ký” ra tỏ bày cùng quán, là Trương Công ngày trước tổng lãnh Hiến Hà Đông, biên ghi sự hiện hóa của Bồ-tát Vănthù-sư-lợi ở Ngũ Đài sơn thù thắng kỳ dị, thật là chỗ tai chưa nghe mắt chưa thấy. Quán đọc xem vài ba phen, hận chưa được tiện để chiêm lễ Thánh cảnh, nhưng tâm thành thực đau đáu chưa từng quên ngay trong úc ngủ nghỉ. Mộng thấy đến trước một ngôi tháp cao, có vài vị Tăng mặc y tía lễ bái, reo hô “Bồ-tát xuất hiện”. Quán cũng theo đó mà chiêm ngưỡng trông nhìn. Lâu sau đã tỉnh giấc thì mới cho là bởi tinh thân nghĩ tướng khiến nên, im lặng vã ghi nhận đó. Tháng năm năm đó (100) bỗng lầm nhận ân dời đến nhậm phó tuy, chợt gặp bạn đồng liêu cùng bảo rằng: “mùa hạ nắng nóng, đường dài đáng sợ, mây trắng từ đáy khe suối nhảy vọt ra thắng lên. Sa-môn tăng chánh Tỉnh Kỳ bảo: “Đó là mây tốt lành vậy”, ánh ngời cả núi như bình phong bạc, vách đứng chẳng lay động, chốc lát hiện bốn vầng sáng, cuối cùng hiện một ánh sáng gom nhiếp thân, xoay quanh như bánh xe lớn, năm sắc rực rỡ không thể sánh ví, chẳng gá nơi mây khí, chẳng tựa nơi ánh sáng mặt nhật, hiện trên tảng đá cùng cách trước mặt chưa đến vài thước đất. Tự thấy ảnh bóng sau lưng mình hiện trong tướng ánh sáng qua chốc lát mới tan. Chư tăng đều cùng bảo rằng: “Vầng sáng hiện trong mây, thì từng được chiêm ngưỡng kính lễ, còn như trên đá chỉ khoảng thước tấc, từ trước đến nay chưa từng thấy vậy”. Cùng trông xem có hơn trăm người, không ai chẳng cúi đầu lễ bái, phát khởi kính tin, tán thán sự chí thành cảm nên khác lạ như thế, chỉ thời gian ngắn, mây bay sương mốc tụ đọng, tiếp đến là mưa nhỏ. Bèn cùng mọi người xuống đài. Bởi vì việc quan bức gấp, ngày sau ra núi. Quán tự kính tin chẳng nói cùng mọi người. Lấy tướng ánh sáng mà ngày nay quán trông thấy có thể tin được chỗ thấy Thánh tượng thù thắng, ánh sáng linh cửu báu của Trương Công trước kia, đâu phải là nói hư dối ư? Quán bèn viết thư để báo việc ấy với Trương Công. Trương Công viết thư đáp rằng: “Trước kia có được thư ông gởi đến, muốn đi đến Đài Sơn, phát xuất chí thành, hẳn biết có chỗ thấy, mới biết người xưa trong vô lượng kiếp tu hành, nhân quả chẳng mê muội, đâu có thể cùng hàng thế tục mù điếc mà nói vậy. Sau “Tục truyện”, có thể biên lời tựa thuật về điều thấy và thơ. Sau đó chẳng phải vì khoe khoan với người, mà cốt yếu mọi người trong thiên hạ sinh tâm kính tin. Đó là ý nhận thọ sự ký biệt của Phật vậy”. Quán cố biên ghi, về sau mọi người đọc xem đó, cho là lời tôi, phải ư? Hay là quấy? Đợi người tin, sau mới tin đó, tôi nói hẳn không dối vọng vậy.

Phụng nghi long thú thượng thư hình bộ viên ngoại thố trí hội kế Hà Đông lộ tài dụng Tiều Cái nhất tâm quy mạng kính bạch rằng: “Đại từ đại bi Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát Ma-ha-tát. Cúi mong xét tự nghĩ nhớ Tiều Cái tôi may sinh trong đời người, mừng gặp được thời tốt, được làm thân nam tử, sáu căn đầy đủ, chợt duyên đời ưu thưởng, được tuổi theo đường quan, thẹn không bù bổ việc trợ giúp, nhọc tự càng lắm quá ác, huống gì trải qua vô lượng kiếp, tạo tội nhờ ở Giác Từ, thì đâu có thể khỏi đắm chìm nơi thú khác, dụng phải lâu dài chí thành một niệm, mong nguyện đến Ngũ Đài, tẩy rửa tự tậm, sám bày tội quá. Nay đây, may duyên dẫn mạng, cung kính cúi rạp nơi Linh Đàng, chiêm ngưỡng dung nghi muôn đức, nhìn thấy ánh sáng ngàn thứ, đâu chỉ thấy chỗ chưa từng thấy, thật cũng nghe được điều chưa từng nghe”. Thối lùi trông nhìn, minh ngoan thật làm dung ngộ, đã tỏ bày mừng vui sám hối kính cẩn, cúi đầu bái tay mà nói bài kệ rằng:

“Kính lạy Đức Văn-thù
Xưa làm tổ bảy Phật.
Từng phát nguyện đại bi.
Độ khắp các hữu tình.
Nhớ kia phương đông bắc.
Đó là cảnh Thanh Lương.
Năm trăm rồng thần ở.
Quyến thuộc vạn Bồ-tát.
Giáo hóa nơi nước này.
Thị hiện vô lượng sáng.
Người nghe khen hiếm có.
Huống gì chỗ mắt thấy.
Tôi trong kiếp xa xưa.
Từng gieo giống cúng dường.
Nay lại được thân gần.
Trông nhìn khác với thường.
Nhớ vô lượng kiếp lại.
Có tội tợ hằng sa.
Một được tướng ánh sáng.
Tự nhiên đều tan diệt.
Lại nghĩ các chúng sinh.
Cùng ta đồng thể tánh.
Nương sức thắng diệu này.
Lìa khổ đều giải thoát.
Nay ta trọn quy y.
Kính lễ phát nguyện lớn.
Nguyện suốt đời tương lai.
Thường ở trong hội Phật.
Một nghe lời vi diệu.
Tức chứng đạo vô thượng.
Cõi hư không mười phương.
Hết thảy các hữu tình.
Đều nguyện đồng tâm ta.
Chóng ngộ vô sinh nhẫn”.

Ngày mồng 08 tháng 06 năm Kiến Trung Tỉnh Quốc thứ nhất (1101) thời Bắc Tống, Bái Tán.

“Du Đài Lục”, phụ tiếp theo sau, nói: Năm Kiến Trung Tỉnh Quốc thứ nhất (1101) thời Bắc Tống, Tiều Cái ở Ngô Hưng, sắp nhận mạng đến Hà Đông. Ngày mồng 03 tháng 06, từ Nhạn Môn đi đến Định Tương, trải qua viện Chân Dung ở Đài Sơn. Bấy giờ, Nhâm Lương Bật ở An Lạc, Nương Trực Phương ở Thái Nguyên cùng đồng đi. Đêm đó, khẩn cầu nơi Hiên Thuỵ ứng, có đèn bạc hiện ở phía tây của Bắc Đài. Ngày hôm sau, cúng dường Chân Dung và các Thánh tượng xong, sau giờ ngọ, Bồ-tát hiện đại chân tướng ở nơi đầu ngọn mây, các hàng nương theo đều đầy đủ, lại thấy thế giới kim sắc tỏa sáng khắp xa gần. Đêm đó lại hiện đèn vàng lớn như mâm chén từ trên ngọn rừng tùng phía trước hiên. Ngày mồng 05 trước tiên lên Đông Đài, sau giờ thân, hiện mây lành năm sắc, tướng trạng như Bảo-đà-la, từ từ hiện sắc trắng ngay ba vầng sáng cao bày giữa trời, hai vầng sáng hồng biếc ngay thẳng giăng ngang suốt vài dặm. Trong hai vầng sáng ấy, một vầng tợ như mặt nhật mới ló dạng. Lại hiện hơn mười ngọn đèn vàng. Còn một vầng tợ như đèn sáp có vầng sáng chói tỏa. Ngày mồng 06 đến Bắc Đài, lên Trung Đài cả bầu trời sáng rỡ không mây, sau giờ mùi khẩn thành cầu đảo, trước tiên hiện vô số mây lành năm sắc, giữa ấy có cây bảy báu và tướng trạng tợ cỏ thơm tòa báu, phía trước có người thiết kế lễ kính bái mũ đai đều đầy đủ. Thế rồi mây lành hiện nổi ở trên viện Chân Dung và giữa khoảng các núi, bèn từ phía Đông nam hiện vầng ánh sáng và ba cầu vàng. Đường bằng phẳng mà lan quế đều có đủ. Trên cầu, hiện Bồ-tát đội trượng. Lại ở giữa khoảng mây, hiện cảnh giới Hoa Nghiêm, thềm báu vàng ngọc, hình thể dàn bày ngời ánh, đồng thời hiện sư tử bạch kim ngồi xổm nơi đất, tai mắt hình nghi tợ sống, nhân đó khẩn cầu tướng ánh sáng hiện lại gần để phô bày tín tâm. Bèn ngay dưới hang hiện vầng sáng, hoặc lớn hoặc nhỏ nhiều vô số, từ từ hợp lại làm thành một, phàm có ba lớp năm sắc trong tám vầng sáng, có tượng Bồ-tát cởi sư tử, lại hiện vòng tròn ngay ánh sáng vàng đến chiều tối mới tan. Sáng sớm ngày mồng 07, bái thỉnh tướng ánh sáng gom nhiếp thân, liền hiện ở phía tây của Trung Đài có sáu, bảy vầng, riêng hiện hai vầng sáng thông thân, và 50, 70 vầng sáng năm sắc, tiếp theo hình thể mây nổi ở nơi cửa cốc thẳng lên phủ cả Tây Đài, lâu sau chẳng tan. Lại ở trong mây hiện cầu vàng, và dưới hang hiện vài vầng sáng lớn, gặp gần trên mọi người có ánh sáng rực tỏa ra bốn phía, phàm các thứ kỳ đặc, đã khác so với thường. Lại nhiều ngày tạnh ráo không mưa, cả đạo tràng đại chúng hoan hỷ vui mừng nhảy nhót, ngợi khen điều chưa từng thấy nghe. Nhưng đây chỉ mới đầu biên ghi đại khái. Ngoài ra, các mãy may đều chưa dễ nêu thuật. Trước đó, ngày mồng một, rời khỏi Nhạn môn, vừa đến giữa đường, đã có ánh sáng năm sắc ngay thẳng, hiện ở phía bắc của Đài Sơn, là điềm ứng linh tích ở ngày nay vậy. Sau khi đã trở về lại viện Chân Dung, thiết lễ cúng dường Phạm tăng, kính tin lễ bái cảm tạ mà đi.

Đề về viện Chân Dung ở núi Ngũ Đài.
Lý sư Thánh ở Bộc Dương biên thuật.
Phạm thư năm đảnh, phủ Thanh Lương.
Đông băng hạ tuyết không nắng đốt.
Tôi đến tháng bảy buồn hết lạnh.
Huống gì tịch mặc thu vẫn mưa.
Tin không nắng tàn cũng không lạnh.
Tự nhiên thiên giới tụ tinh thần.
Chân Dung nền cũ chùa Thứu Phong
Bờ sườn núi cao hùng kim cổ.
Phương tây lầu quán dài thăm thẳm.
Sáng rực vàng ngọc nhà hoa sen.
Sườn cao vòi vọi giá cây gỗ.
Thần vật giữ gìn cậy hiểm nguy.
Vàng ngọc rủ không rèm điện hưởng.
Vô vàn phụng sắt đua chen múa.
Nhớ xưa Văn-thù ra nhà lớn.
Kim Cang hang báu suốt đất tây.
Người già dẫn trâu uống suối ngọc.
Hai con một chó làm nữ nghèo.
Biến hóa vô phương lợi hữu tình.
Như vậy trời tây, tổ bảy Phật.
Lại nghe cảnh giới của Thanh Lương.
Không cùng bày vết ghi diệu ngữ.
Ta có tâm thành rượt mọi người.
Thần kỳ thụy ứng tự mắt thấy.
Phúc chốc tướng sáng hiện thước tấc.
Động ngọc đèn vàng rõ tính được.
Tùng sam lay động, trong núi cốc.
Đêm vắng Thái Âm rồng hổ ẩn.
Lầu son các tía trước hương án.
Kính sợ sinh tâm, ai dám khinh.
Từ trước mê thuật như mộng tỉnh.
Trước tam sao tam cẩn chớ thủ.
Ta nay chẳng khởi tưởng trước sau.
Đốt hương kính lễ chủ Thanh Lương.

Ngày 2 tháng 07 năm Sùng Minh thứ 03 (110) thời Bắc Tống, đốt hương bái tán.
Ghi ký về thụy ứng ở Đài Sơn.
Chu Biện ở Giang Đông soạn thuật.

Chư Phật, Bồ-tát và đại A-la-hán, xót thương hết thảy hữu tình thường tỏa phóng cảnh quang để dẫn dắt kẻ mê khởi sinh tâm tin, nhiếp phục có đồng có dị, phàm núi đất nơi ưu thắng hiện bày cảnh giới, có nơi chốn ở đó, có mắt trông thấy đó. Vì nhân duyên ấy nên người nắm phù ngụ cực, đồ bản trong vườn nhà, thường luôn dàn trải Từ Vân để che phủ đó, dất nông tuệ nhật để soi chiếu đó, rưới mưa pháp để đượm nhuần đó. Mà chẳng quên chú trọng, như Thiên Đài Ngũ Đài, sánh như Châu Quận riêng đặt tăng quan khiến đốc trách chỉnh sửa mọi người mà trang nghiêm cung điện. Bởi búi tóc xa báu, oai thần ở vườn nhà, không thể chẳng chỉnh túc vậy. Nhạn môn sứ quân chiết hầu nhan văn xuống xe chưa qua thời gian ngắn, vì con thơ bùa bởn binh lính nơi cốc khe suối, áo lụa mang búa, vết bắt đến dưới đài, cùng với lệnh tá trong ấp phụng dâng hương hỏa thiết lễ ở trước tòa sư tử. Khó của năm phần hương tỏa khắp giữa hư không cao vứt thẳng lên, chợt nhiên đổi sắc mặt, dẫn người trông nhìn bốn phía, mắt không được nháy, không nhỏ không lớn, mỗi có chỗ thấy, bảy lớp mây năm sắc, sáu lớp mây trắng, một lớp mây đen, ba chiếc cầu vàng, năm vầng ánh sáng tròn, mây năm sắc có đội mây trắng làm mũ, mà trong đó có động, có như vầng sáng tròn, có như mặt nhật vừa ló dạng năm sắc sáu-bảy lớp. Có như đá trơ trọi xanh đen tròn mà cao vút ra ngoài, có như hoa tiên phô bày lẫn lộn, có như hoa tiên mà hiện tượng Bồ-tát ở trên. Trong mấy trắng cũng có trong mấy trắng cũng có tướng Bồ-tát thụy nghiêm, có phấn tấn như chỗ Văn-thù cưỡi, có cầu trời như rồng bay lên, có ánh sáng giăng ngang xanh vàng hồng lục mà cùng gian cách. Có như ngọc thạch làm Phật Quang, trong mây đen có riêng hiện sư tử. Cầu vàng có như cá kình cá nghê mang trời, có như cầu vồng mà giữa cắt đoạn, có trùng điệp như vãy cá sắp lớp. Trong ánh sáng tròn có chuỗi ngọc xâu liền, có hiện lưới vàng mà sáng chói lóa mắt người. Sử quân đồ nghi sự việc ấy mà nó cùng tôi rằng: “Đó là tôi và mọi người đồng trông thấy. Như kia biến hóa sắc thái trăm thứ khéo léo cũng chẳng thể làm nên hình trạng ấy, tôi cũng chẳng thể nói được vậy. Ông hãy vì tôi mà biên ghi việc ấy”. Tôi (Chu Biện) bảo: “Mạn-thù-thất-lợi ở trong núi này, vì dẫn dắt quần sinh mê mờ, hiện bày phương tiện ấy, sứ quân được Đại Thánh mở bày, đâu phải không có sở nhân ư? Xưa kia Đức Thế Tôn ở tại nước Xá-vệ, khắp thân mình tỏa phóng ánh sáng, ánh sáng ấy sắc màu vàng ròng nhiễu quanh vườn kỳ đà khắp cùng bảy vòng, soi chiếu đến nhà Tu-đạt, giống như đoạn mây, cũng toàn sắc màu vàng ròng. Tu-đạt là vị đại đàn-việt của Phật. Đuốc ánh sáng ấy trước đến nơi nhà vì muốn dẫn dắt tâm mê khởi sinh kính tin, nhiếp phục có đồng có khác vậy. Sa-môn Minh Sùng là bậc thượng thư ở núi từng bảo rằng: “Gia đình tôi đã phụng thờ Phật lâu xa, từ đời Cao Tằng lại nay thường đến núi ấy, mở môn đại thí”. Thì Mạn-thù-thất-lợi chỗ thị hiện nay đây, cũng như ở nơi Tu-đạt của Thế Tôn vậy. Có thể chẳng ghi ư? Tôi nghe cư sĩ vô tận (Trương Thương Anh) trong khoảng niên hiệu Nguyên Hựu (108610) thời Bắc Tống, từng đến núi ấy, làm “truyện Thanh Lương”, thần hóa biến dị, và những điều tự thân trông thấy đều biên ghi đầy đủ, mà người tam vị thiền duyệt, hoặc có lấy làm bệnh, tôi cho rằng: “Cư sĩ Vô Tận bình sinh vận tâm từ của chư Phật, Bồ-tát để giúp đời cứu vật, biên thuật về Thanh Lương do vì dẫn dắt người chưa ngộ, cũng vì mọi người mà thiết bày vậy. Do vì thân tâm không thích chẳng thể nên bấy giờ làm nguyên thủ chỗ muôn dân đồng tôn sùng kính ngưỡng, đối với giáo pháp, làm ngoại hệ thì là chỗ cậy nhờ của hàng Thích Tử, sứ quân có thể chẳng rơi lạc mùi thơm ở đời, lấy tâm của cư sĩ Vô Tận làm tâm mình, dùng để báo đáp ý của Mạn-thù-thất-lợi mở bày, và đó là chỗ tôi vốn hoài mong, cũng là điều tôi vui thích viết vậy. Mới đầu, tôi muốn vì sứ quân biên ghi việc ấy mà chưa có được kết quả, các ông do mạc uyển chuyển nói sự khẩn thiết của sứ quân, đã chẳng thể chối từ, lại từng thấy thượng thư ấy là do Sa-môn Minh Sùng bảo: “Ngay lúc ấy, tôi cùng Sa-môn tăng chánh đại đức Tinh Tuệ, Lân phủ tổng chế chiếc chiếc khả trực, kịp cả tăng chúng ở chùa thật theo, chỗ sứ Quán cùng trông thấy, việc ấy chẳng hư đối”. Khi ấy bèn biên ghi.

Ngày Tây tỵ tháng sáu năm Tân Dậu (111) thuộc niên hiệu Hoàng Thống (111-11) thời nhà Kim.

LỜI TỰA SAU (LỜI BẠT)

Văn Sung Lão nhân Tùng Khê ở viện Chân Dung, Tử Phủ thuật rằng.

Cúi nghe: Đại Thánh độ sinh giáng vết vô phương, nơi ứng hiện không gì chẳng ích lợi. Tuy chẳng hạn cục nơi hình giáo, khiến có chỗ quy tâm chẳng chỉ một phương, nên Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi chúng ta khéo giẫm lên chân giác, lắng nghe thói trần, vắng lặng nơi cảnh vức vạn hóa, động dụng ở trong một khu, thị hiện ở nhân vị mà quả suốt nguồn nhân, chẳng xả bỏ tâm bi, thường ở tại Tử Phủ, trong ba ngàn cõi có một Thanh Lương. Giữa muôn ức nước không hai hiện Văn-thù, Tịnh cư Phạm thế đượm phục đạo mà dốc lòng. Hoa tạng các trời cõi dục thấm hưởng phong hóa mà chấp tay. Vì vậy, thống lãnh mười vạn chúng Thánh, nhiếp phục 500 rồng độc. Đèn vàng ban đêm đốt cháy sáng rực trước núi biếc, khí láng sáng sớm đón nghinh tỏa ngời trên núi xanh, tinh ba hy kỳ từ trời rơi xuống đâu hạn cuộc ở xuân thu. Trăng tỏ hiện suối nước nào phân ở đầu cuối tháng. Từ đó, nhiều đời vua tôi kính lễ, trước thuật tích chứa càng nhiều, truyền tỏa trăm đèn tiếp nối chẳng dứt, nên có thể gọi là thắng ngôn. Xưa trước, trong triều đại Bắc Tống, thừa tướng cư sĩ Vô Tận Thiên Giác (Trương Thương Anh), mộng đến Tứ Phủ, khi đã đến nơi thì không khác, thấy cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, trông nhìn thần quang nhiều vô cùng tận, tấu trình đầy đủ. vua nghe thế lại gia tâm tu sửa, nông trang sản vật ruộng đất nhiều gấp bội với Tiên Đế, sơn môn ánh ngời, chúng tăng đông nhiều. Từ đó, non cao núi lớn, vách vút khe hoang, những ngôi nhà lam xưa cỗ không gì chẳng dứt tuyệt. Mãi đến Tuệ Kim vẫn còn Tùng Phong, Linh tích, thơ tụng, ca từ, truyện Thanh Lương v. v… có hơn mười bản. Gần đây, nhân vì giặc dã đổi thay, từng gặp phải hỏa hoạn hư phế, rơi lạc tản mác chẳng còn. May tại chỗ Sa-môn pháp tràng ở Hà Tây. Có được một bộ “truyện Thanh Lương”, tôi bèn sao chép biên tập, xét khám không sai, phỏng tìm các nơi có duyên, chung khắc bản lưu hành. Tại bản sơn có Sa-môn nghĩa tường là bậc anh tuấn bác học, sùng phụng hiền nhân, mến chuộng xưa cổ, xót thương bị thành khẩn của tôi, mà dốc hết y vật của chính mình và khuến dụ các tín sĩ, bảo thợ khắc bản, không mấy ngày mà hoàn tất. Cầu chúc với tôi rằng: “Lão túc ở sơn môn biết được nhiều việc vậy, tường tự biên thuật nguyên do ghi tiếp ở cuối truyện”. Tôi vì ngày trước khuyến thỉnh nay việc đã xong, sự tình không miễn khỏi nên liền thuật lại vậy. Đây là nhân lớn, cầu chúng Nghiêm Hoàng đế muôn năm, thần tể ngàn năm, quyến thuộc thiên tử trong nội cung phước lộc xa lớn, thí chủ trợ duyên tăng thâm tuổi thọ, pháp giới hữu tình đồng lên bờ giác.

Ngày 1 tháng 06 năm Hồng Võ thứ 27 (13) thời nhà Minh, tôi cùng bốn chúng có hơn 10 người đến Đài Sơn lễ bái cảnh hóa của Đại Thánh Văn-thù, thấy đươc tướng ánh sáng, Thánh Đăng, ngàn muôn trạng thái biến hóa, linh dị chẳng thể lường, mừng vui chẳng thể giăng nổi, thật chỗ đáng gọi muôn kiếp bụi trần, một lúc chóng dứt. Suốt khoảng thời gian đi tham quan, chợt gặp Thiền giả Kim ở Bảo Phong cũng là người thuần hậu, đến nơi chùa cổ Thanh Lương, xả thí hết y vật của cải tiếp nhận các hàng tăng tục đi tham lễ, suốt 13 năm như một lần đầu, tứ sự cần dùng không gì bị thiếu thốn. Quý báu trong pháp môn là chư tăng khổ hạnh tạo phước. Tôi rất lấy làm tốt đẹp đó, một ngày nọ, đốt hương đảnh lễ mà cùng bảo rằng: “Núi này là nơi Đại Thánh ở, sư may đặc biệt chưa chiêm lễ, có thể gọi là ngàn năm khó gặp vậy. Từ xưa, các vị du phương tham quan, phần nhiều là vua tôi quý tộc, Thạc đức đại Nho đều có thi kệ, phát huy Thánh tích, nay xin sự cho một lời tán vịnh về cảnh Thánh và khuyết phát nỗi lòng tôi cũng chẳng được ư?” Tôi nói: “Cảnh giới của Đại Thánh, lấy hư không làm miệng lấy núi Tu-di làm lưỡi còn chẳng thể ngợi ca được một trong muôn phần, huống hồ cảnh giới của Đại Thánh chẳng thể nghĩ bàn, trí thức đâu có thể thấu đáo ư?” Nhưng chối từ chẳng được, bèn vụng viết bài kệ tụng để lấp bít sự thỉnh mời đó rằng:

“Thượng nhân thăm lễ mạn thù già.
Được nghe đất động lông vàng rống.
Tâm dứt nghi ngờ đều hết sạch.
Giữa trưa xoay mặt trông Bắc Đẩu
Năm non rậm vút lạm trời cao.
Cúi nhìn các chùa như bày trải.
Núi sông đất liền toàn vàng ròng.
Cây rừng ao suối tỏa ánh sáng.
Kiếm báu tựa trời lạnh.
Thánh phàm tình quét sạch.
Năm trăm hiền Thánh tăng.
Ngay đó lìa phiền não.
Tựa ngã lão tử Thích Ca.
Dất văng cư sĩ Tịnh Danh.
Thích Ca phân sơ chẳng xuống.
Cư sĩ uống khi nuốt lời.
Giết sống trói bắt ra nghĩ bàn.
Hạnh nghịch hóa thuận vượt tình thường.
Núi đao cùng nhà đẹp.
Thường đàm nói Tứ Đế.
Nhỗ băn bít ngay mới thật nghe.
Đại trí rỗng suốt chẳng ngài được.
Mỗ giết oan trái đều thuyền môn.
Đạo nhân phỏng muốn lại cùng thấy.
Phiên thân ép ngã điện ánh ngời.
Cửu đảnh mất chánh hết hiềm ngờ.
Đầu Phật, đầu Phật, toàn thể hiện.
Từ đâyđi khắc các cõi Phật.
Ở nơi chỗ Phật nghe diệu pháp.
Mỗi một Tam-muội được tổng trì.
Lợi tha tự lợi nguyên không thiếu”.

Sùng thiện ở núi, tánh triệt đỗng nhiên ở am Dã nạp tử tại Nhạn môn biên ghi trên đá ở Thanh Lương-đài Sơn.

Cổ Tinh Sùng Thiện thiền tự.
Thường trú biên ghi.

“Truyện Thanh Lương” của Sa-môn Thích Tuệ Tường thấy ở sử chí thời nhà Tống, “Quảng truyện” và “Tục truyện” thì trong sử chí và tạng thư chí các nhà đều chẳng biên lục. Hà Mộng Hoa (Nguyên Tích) ở Hàng Châu có được đó, chỉ bày cùng Nguyễn Văn Đạt. Nguyễn Văn Đạt biên lục tấu trình, ở đời mới biết có sách ấy vậy.

Quyển trục ở Thiên Phủ đã chẳng phải chỗ tranh cỏ có thể lén nhìn dòng họ Nguyễn Văn chọn soạn lầu sách lại bị hỏa hoạn thiêu hủy, người cất chứa sách vì chẳng được thấy lấy làm hận được nghe, nguyên bản sách này này cất chứa ở lầu nhà họ Lục Bức Tống tại Quy An. Triệu Quân Bá ở Võ Lăng cất chứa nơi kín để lúc rãnh rỗi được mượn đọc xem, giấy đã giòn vỡ chẳng thể xúc chạm, bên trong bỏ sót quyển trung của “Quảng truyện” Thanh Dực sợ có ngày sẽ bị mất tích, mới biên lục phó tử, lại vì sót quyển nên lấy làm giận. Vừa rồi, nhà họ Đinh ở Tiền Đường chỉnh tu nhà kho có bản sao, thì quyền sót thiếu hiện còn vậy. Vội hợp tử ấy phụ giúp thành toàn biên, bản sao, chữ dối ngụy lắm nhiều, nhưng không thể kiểm hiệu chỉnh sửa, mới đầu bèn y như cũ. Nghĩ nhớ Hàm Phong đền trị nhàn vết vân du ngầm lưu ẩn tại Thái Nguyên, cách Đài Sơn chỉ vài trăm dặm, dàm trần buộc vó, cuối cùng chùa đến lễ bái Linh Phong, nay gôm sức ngày một suy yếu, dừng bóng ở Đông nam, năm đảnh núi mây không phân đâu gieo vết, hương hỏa men duyên keo kiệt, vỗ về sách mà thở than.

Tháng mười năm Giáp Thân (188) thuộc niên hiệu Quang Tự (1875-10) thời nhà Thanh, Ngô Huyện Tương Thanh Dực tự là kính thần biên ghi.

Từ khổ chưa gom thâu thư mục đề yếu (ghi trưng khanh thị nghiên kinh thất ngoại tập).

“Cổ Thanh Lương truyện” hai quyển.

“Quảng Thanh Lương truyện” ba quyển.

“Tục Thanh Lương truyện” hai quyển.

Thời Tiền Đường, Sa-môn Thích Tuệ Tường soạn thuật” Cổ Thanh Lương truyện”. Đến thời Bắc Tống, Sa-môn Thích Diên Nhất soạn thuật” Quảng Thanh Lương truyện”. Còn “Tục Thanh Lương truyện” do Trương Thương Anh, Chu Biện ở thời nhà Tống biên thuật, hai bộ Quảng và Tục, các nhà cất chứa sách phần nhiều chưa biên ghi, chỉ có “Cổ Thanh Lương truyện” thấy ở sử nghệ Văn Chí thời nhà Tống. Phàm các thứ phương hướng thành vức danh thắng cho đến Linh tích cao tăng không gì chẳng biên ghi rõ ràng. Sa-môn Diên Nhất gom nhặt nên thật, suy rộng tốt lành lưu truyền, lại ghi chùa chiền danh tiếng, thắng tích. Cho đến các thứ thuốc vật linh di, trong đó phần nhiều xen lẫn đến Nho gia, vả lại có cả nhân văn trong sáu triều đại, như tán thán tôn tượng Văn-thù của Sa-môn Thích Chi Tuần ở thời nhà Tấn, lại thêm có tán thán của Khích Tế Xuyên, Ân Tấn An đều là chỗ ở đời hiếm thấy. Mà lời tựa của Sa-môn Chi Tuần rất đủ để bổ túc chỗ sót của tập gốc, như Vương Bột có Thích Ca Như Lai thành đạo ký, Thích Ca Phật Phú, Kim Tứ kiện tập, Văn Uyển anh hoa đều không có. Biên ấy hoặc do vì trong khoảng niên hiệu Đại Định (1161-110) thời nhà Kim, tạng bản trong chùa cuối cùng phụ biên thân Bổ Đà truyện, Nga My Tán là người thời nhà Nguyên biên tập giải thích rõ ràng lại theo mà phụ biên đó vậy.

Căn cứ nguyên bản sách ấy, nay hiện ở lầu nàh họ Lục Bức Tống tại Quy An, thật là bản khắc của chùa Sùng Thiện tại Sơn Tây trong năm Bính Tý (136) thuộc niên hiệu Hồng Võ (1368)-13) thời nhà Kim, cuối cùng tiếp thêm phần Sa-môn Tánh Triệt ở chùa Chiêu Mộ khắc ghi duyên khởi rằng: “Khắc lại bản in Thích Ca phú, Đế Vương sùng giáo sự tích, Thành Đạo ký, Bổ Đà truyện, Thanh Lương truyện hợp thành bộ mà ấn hành”. Còn hai bài của Vương Bột, mỗi tự làm thành sách, chẳng ở nơi truyện của Sa-môn Diên Nhất. Lại nữa, Khích Tế Xuyên là người sống trong khoảng niên hiệu Gia Hựu (1056-106) thời Bắc Tống. Đề tựa của Quảng Thanh Lương truyện, người biên soạn đó cũng chẳng phải sống trong thời đại Lục Triều. Đó đều là do sự sai nhầm của Đề Yếu. Bổ Đà truyện là do Thạch Hy Minh người thờ nhà Nguyên biên soạn, xuất xứ của Thạnh Hy Minh là trong thư sử hội yếu của Đào Cửu Thánh, Đề Yếu cũng chẳng kịp khảo cứu nguyên bản của Tánh Triệt, không có Nga My Tán. Năm Nhâm Ngọ (162) thuộc niên hiệu Thiên Thuận (157-165) thời nhà Minh, chùa Quảng Duyên ở Ngũ Đài khắc lại bản in sách ấy, mới bắt đầu phụ tiếp theo (nhà họ Đinh ở Tiền Đường sửa chữa nhà, có được bản sao, là y cứ vào ảnh bản khắc trong niên hiệu Thiên thuận mà biên tả, hàng chữ thảy đều đồng như ở bản khắc trong niên hiệu Hồng Võ, chỉ có bản tiếp khắc tên họ người cúng thí tiền là khác).

Nay, Thích Ca Phật Phú và Thành Đạo Ký của Vương Bột đã khắc vào trong bộ Vương Tử An tập quyển thứ 20 theo chỗ ghi chú của Thanh Dực. Còn Sùng giáo sự tích, phần nhiều nịnh hót lời Phật, Nga My Tán rất là hẹp lận quê kệch. Đại khái tước bỏ chẳng khắc, chỉ khắc Thanh Lương truyện, Bổ Đà truyện v. v…

Tháng mười năm Giáp Thân (188) thuộc niên hiệu Quang Tự (1875-10) thời nhà Thanh. Ngô huyện Tương Thanh Dực tự là Kính Thần biên ghi v. v…

-HẾT –