Tống Chung
Pháp Sư Thích Đạo Thế
Giác Chính dịch
XXIX. TỐNG CHUNG
Gồm chín phần: Lời dẫn, Xem bệnh, Chữa bệnh, Sắp đặt, Nhiếp niệm, Mạng chung, Đưa tiễn, Thọ sinh và Cúng tế.
XXIX.1. Lời dẫn
Ba cõi mênh mông, sáu đường đông đúc, tất cả các loài chúng sinh đều nhờ vào bốn đại phò trì, năm căn tạo thành hình thể. Thế nên, khi bốn đại tích tụ thì thành thân, khi phân tán thì trở về không. Tính chất của địa, thủy, hỏa, phong đều khác nhau; mỗi mỗi giữ tính chất riêng, nhưng đều mong dung hợp. Lẽ dung hợp rất khó, vì thế cần phải điều hòa, nếu để chống nhau thì dễ sinh rối loạn. Một đại không điều hòa thì bốn đại đều thương tổn.
Như địa đại tăng thì thân thể sạm đen, da thịt bầm xanh, kết tụ khối u cứng như sắt đá. Nếu địa đại suy giảm thì toàn thân gầy yếu, liệt nửa thân, khô khan, tiều tụy, mắt mờ, tai điếc.
Nếu thủy đại tăng thì da thịt đầy nước, không còn khí sắc, toàn thân vàng bủng, thần sắc tiều tụy, chân tay sưng phù, bàng quang căng trướng. Còn thủy đại giảm thì thân thể gầy gò, xương lộ, gân hiện, mạch chìm, môi và lưỡi khô khan, tai ù, mũi nghẹt, ngũ tạng như thiêu đốt, chất dịch khô cạn, không tiết ra ngoài, lục phủ tiêu hao, không thể đứng vững.
Nếu hỏa đại tăng thì toàn thân bứt rứt, nóng như lửa đốt, mụn nhọt sưng tấy, vết thương lở loét, máu mủ chảy tràn, xông mùi hôi thối. Còn hỏa đại giảm thì thân thể gầy yếu, lục phủ, ngũ tạng lạnh tanh, khí lạnh ngưng tụ nơi ngực, miệng như ngậm sương. [175b] Mùa hạ nóng bức, lại mặc áo da nhiều lớp vẫn không thấy ấm, ăn uống không tiêu, lại thường nôn mửa.
Nếu phong đại tăng thì khí đầy, ngực tức, lục phủ, dạ dày không thông, tay chân chậm chạp, yếu ớt tê đau. Còn phong đại giảm thì thân thể gầy yếu, sức lực mong manh như sợi chỉ, chuyển động mệt mỏi, hơi thở như ngắn lại, ho hen nôn oẹ, khó nuốt, bụng đầy, lưng gù, trong tim lạnh giá, cổ họng, gân mạch sưng phù.
Các bệnh như thế đều do bốn đại tăng hoặc giảm thất thường mà sinh ra. Hễ một đại tăng hoặc giảm thì ba đại kia đều khổ, dần dần phát bệnh, gây ra phiền não. Bốn đại chống nhau thì lục phủ khó điều hòa. Bởi vì đời trước gieo nhân ác, nay gặp quả báo khổ, lại không biết hổ thẹn, chẳng biết ân nghĩa. Luôn theo bốn mùa chu cấp những thứ cần dùng, ngày đêm nuôi dưỡng, thân này chưa từng biết ơn, chu cấp thiếu thốn một chút, liền sinh bệnh khổ.
Đã biết thân này vô ân thì đâu cần lao nhọc nuôi dưỡng. Dẫu chu cấp cho thân thức ăn ngon, mặc đẹp, cuối cùng nó cũng trở thành phẩn uế. Mục đích ăn uống là để giúp thân trừ đói khát, hoàn toàn không vì thân. Nếu cứ tiếp tục chất chứa như vậy, chỉ làm nhọc tâm ta, bỏ phế việc tiến tu đạo nghiệp. Thân này thật là vật chứa khổ, năm ấm như bình gốm, dễ vỡ khó giữ, tan nhanh như bọt nước. Bốn đại không thật, thường chống trái nhau; năm ấm gá nương, sinh nhiều phiền não. Lại chúng ta sinh làm người ở đời năm trược này, nhận chất huyễn làm thân, ở trong cảnh lo sợ. Cõi u minh có vô lượng quỷ thần, giống loài vô kể, không sao tính hết; hoặc nương vào phòng xá, am miếu, núi, gò. Hễ ở đâu có hiển linh thảy đều đến cầu thỉnh, khiến cho tinh thần u tối, thần thức mịt mờ, ngủ hay thức, lòng đều sợ hãi; tất cả đều mong khi gặp nguy hiểm mà nhiếp niệm, không đợi xưng ba lần danh hiệu Phật liền được bình an, đâu nhọc niệm nghìn biến. Cầu cho thánh đạo rộng lớn, đầy đủ oai quang, để làm lợi lạc quần sinh, không ai bị não hại. Sau đây là lời thật đáng ghi, bằng chứng được trình bày.
XXIX.2. Chăm sóc người bệnh
Còn là phàm phu thì ai mà không bệnh? Vì có báo thân nên thường bị bệnh tật. Hoặc có người bỏ tục xuất gia, một mình ở nơi vắng vẻ; hoặc có người nghèo bệnh, già yếu, không nơi nương tựa, nếu không chăm sóc thì họ nhờ cậy vào đâu?
Cho nên, trong luật Tứ phần, Đức Phật dạy: “Từ nay trở đi phải có người chăm sóc, nuôi bệnh. Nếu muốn cúng dường Ta, trước phải cúng dường người bệnh. Cho đến đi trên đường, gặp người trong năm chúng xuất gia bị bệnh, Đức Phật dạy phải ở lại chăm sóc, nếu người nào gặp mà bỏ đi thì [175c] bị kết tội. Tâm của các Đức Phật lấy đại từ bi làm thể. Thực hành đúng theo lời dạy của Ta tức là thể hiện tâm Phật vậy”.
Như luật Tăng-kỳ ghi: “Nếu đi trên đường gặp người trong năm chúng xuất gia bệnh thì phải tìm xe chở về chăm sóc, cúng dường đúng như pháp, cho đến khi người ấy chết, cũng nên hỏa táng, chôn cất, không được bỏ rơi”.
Có chín trường hợp dẫn đến chết oan:
1. Biết thức ăn không tốt mà vẫn ăn.
2. Ăn không chừng mực.
3. Thức ăn chưa tiêu mà lại ăn tiếp.
4. Thức ăn chưa tiêu mà muốn cho ra.
5. Thức ăn đã tiêu, nên cho ra mà ép giữ lại.
6. Thức ăn không hợp với bệnh.
7. Thức ăn hợp với bệnh, nhưng ăn không chừng mực.
8. Lười biếng.
9. Không có trí tuệ.
(Như trong kinh Dược Sư cũng có nói chín thứ chết oan).
Lại nữa, kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các tì-kheo: Có năm lý do mà người chăm sóc khiến bệnh nhân không lành:
1. Không biết phân biệt thuốc tốt
2. Lười biếng
3. Thường sân giận và ham ngủ nghỉ
4. Vì tham cầu ăn mặc mà chăm sóc người bệnh
5. Không chăm sóc đúng, cũng không nói chuyện với người.
Nếu ngược lại năm lý do trên thì bệnh mau lành”.
Trong kinh Thiện sinh, Đức Phật nói kệ khen:
Người chăm sóc bệnh nhân,
Phải sẻ chia nỗi khổ,
Thiện ác có báo ứng,
Như gieo nhân gặt quả.
Đức Thế Tôn là cha,
Các kinh giáo là mẹ,
Đồng học là anh em,
Do đây mà giải thoát.
Lại nữa, kinh Pháp cú dụ ghi: “Ngày xưa có một nước tên Hiền-đề. Bấy giờ, có một vị tì-kheo trưởng lão mắc bệnh đã lâu, thân thể gầy yếu, dơ bẩn, nằm ở tinh xá Hiền Đề, không người chăm sóc. Đức Phật dẫn năm trăm tì-kheo đi đến chỗ ấy. Ngài bảo các tì-kheo thay nhau chăm sóc và lo cơm cháo thuốc men cho tì-kheo bệnh, nhưng khi ngửi thấy mùi hôi, các vị ấy đều sinh tâm khinh rẻ. Đức Phật liền sai Đế Thích lấy một chậu nước ấm đến, Ngài dùng tay kim cương tắm rửa cho vị tì-kheo bệnh kia. Khi ấy, mặt đất bỗng nhiên chấn động, bầu trời rực sáng, mọi người đều kinh sợ. Quốc vương cùng vô số thần dân, trời, rồng, quỷ thần kéo đến, cúi đầu đỉnh lễ và bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn! Ngài là Đấng Chí Tôn trong ba cõi không ai sánh bằng, [176a] đạo đức đầy đủ, tại sao phải hạ mình tắm cho tì-kheo bệnh kia?
Đức Phật bảo:
– Như Lai sở dĩ xuất hiện ở đời chính là vì những người nghèo cùng, khốn khổ không nơi nương tựa này. Nếu ai chăm sóc nuôi dưỡng đạo nhân, sa-môn bệnh tật, những kẻ bần cùng và người già cô độc sẽ được phúc vô lượng, sự mong cầu được như ý, cuối cùng sẽ đắc thánh đạo.
Vua lại bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn! Vị tì-kheo này đời trước tạo tội gì mà bị bệnh hành hạ nhiều năm, chữa mãi không lành?
Đức Phật bảo:
– Ngày xưa có vị vua tên Ác Hạnh, thi hành chính sách rất bạo ác. Vua sai một người có sức mạnh là Ngũ Bá thi hành hình phạt đánh người. Ngũ Bá mượn uy quyền của vua mà tung hoành. Người sắp bị phạt roi, nếu mang nhiều của cải lo lót thì ông ta đánh nhẹ, ai không có thì bị đánh nặng. Do đó, cả nước vô cùng lo sợ.
Bấy giờ, có một hiền giả bị người mưu hại, nên phải chịu đòn roi. Hiền giả kia nói với Ngũ Bá:
– Tôi là đệ tử Phật, vốn không có tội, bị người hãm hại, xin ông tha thứ!
Ngũ Bá nghe nói đệ tử Phật nên đánh nhẹ tay, roi không chạm vào thân. Sau khi Ngũ Bá mạng chung, đọa vào địa ngục, bị tra khảo đánh đập đau đớn muôn lần. Tội địa ngục hết, lại đọa làm súc sinh, thường bị đánh đập trong hơn năm trăm kiếp. Khi tội báo ở loài súc sinh hết thì sinh làm người, thân thường bị bệnh khổ.
Quốc vương lúc ấy nay chính là Điều-đạt. Ngũ Bá là tì-kheo bệnh đây. Người hiền lúc ấy là Ta. Do đời trước Ngũ Bá tha cho Ta, đánh roi không chạm vào thân, nên hôm nay đích thân Ta tắm rửa cho ông. Người tạo thiện hoặc ác thì họa, phúc sẽ báo ứng, dù sống hay chết cũng không tránh khỏi.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Đánh đập người lương thiện,
Vọng cho là không tội,
Thật tội gấp mười lần,
Họa đến không thể cứu,
Sống chịu nhiều khổ đau,
Thân thể không vẹn toàn,
Bệnh tật bất ngờ đến,
Tâm ý luôn sợ hãi,
Bị mọi người chê cười.
Hoặc chịu nạn quan quyền,
Tài sản bị tiêu hao,
Quyến thuộc phải chia lìa,
Nhà cửa bị lửa thiêu,
Chết đọa vào địa ngục,
Đây chính là mười tội.
Tì-kheo bệnh khi nghe Đức Phật nói kệ này và việc kiếp trước, liền dốc lòng tự trách, nên bệnh tật tiêu trừ, liến chứng quả A-la-hán. Vua nước Hiền-đề suốt đời thực hành theo bài kệ, nên chứng quả Tu-đà-hoàn”.
Kinh Thiện sinh ghi: “Người chăm sóc bệnh nhân không nên sinh buồn chán. Nếu mình không có tài vật thì ra ngoài xin. Nếu xin không được thì vay mượn vật tam bảo, đến khi lành bệnh, phải trả lại gấp mười lần”.
[176b] Lại nữa, Ngũ bách vấn sự ghi: “Người chăm sóc bệnh lấy vật của người bệnh cho một người bệnh khác mà không hỏi trước, hoặc hỏi mà người bệnh ấy giận trách thì không được dùng. Nếu đã lấy nên trả lại, không trả thì phạm trọng tội”.
Luật Tứ Phần ghi: “Chăm sóc người bệnh phải có năm đức tính:
1. Biết những thức ăn mà người bệnh dùng được và không được. Nên cho dùng những món có thể ăn được
2. Không nhờm gớm khi người bệnh đại, tiểu tiện, khạc nhổ, nôn mửa
3. Có lòng thương xót, không vì cầu ăn mặc mà chăm sóc người bệnh
4. Luôn chăm lo thuốc men cho người bệnh, đến lúc họ lành bệnh hoặc mạng chung
5. Luôn thuyết pháp khiến cho tâm người bệnh hoan hỷ, chính mình cũng tăng trưởng pháp lành”.
XXIX.3. Chữa bệnh
Phàm là người thì có thân thể, ngũ tạng, khi thức khi ngủ, hơi thở ra vào, tinh khí vận chuyển; nếu lưu thông thì khí huyết tuần hoàn, vượng thì tạo thành khí sắc, phát thì thành âm thanh. Đây là lẽ thường tình của con người. Dương thì thuộc tinh thần, âm thì thuộc hình sắc, tất cả mọi người đều giống nhau. Đến khi không điều hòa, nếu khí huyết nóng thì phát nhiệt, ngược lại thì phát hàn, kết tụ thì thành khối u, ngăn trệ thì sinh ra ung thư, lưu chuyển nhanh thì hồi hộp lo sợ, cạn kiệt sinh ra nóng bức. Cho nên người thầy thuốc giỏi dùng kim châm dắt dẫn tinh khí, dùng thuốc tốt để cứu chứng bệnh. Còn thánh nhân dùng chí đức để điều hòa, dùng việc thế gian để làm lợi ích. Cho nên trừ được bệnh của thân, tiêu được mối họa trong trời đất.
Kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các tì-kheo, có ba căn bệnh lớn: bệnh phong, bệnh đàm và bệnh lạnh.
Nhưng cũng có ba loại thuốc hay để chữa trị: Một, nếu bệnh phong thì dùng váng sữa làm thuốc và thức ăn; hai, nếu bệnh đàm thì dùng mật làm thuốc và thức ăn; ba, nếu bệnh lạnh thì dùng dầu làm thuốc và thức ăn.
Tì-kheo cũng có ba mối họa lớn như thế: tham dục; sân hận và ngu si.
Cũng có ba loại thuốc tốt để đối trị: Một, đối với bệnh tham dục, nên dùng pháp bất tịnh đối trị và tư duy về pháp đó; hai, đối với bệnh sân hận, nên dùng tâm từ đối trị và tư duy về pháp đó; ba, đối bệnh ngu si, dùng trí tuệ đối trị và quán xét pháp nhân duyên sinh”.
[176c] Lại nữa, luận Trí độ ghi: “Bát-nhã ba-la-mật có thể diệt trừ tận gốc tám mươi bốn nghìn căn bệnh. Tám mươi bốn nghìn căn bệnh này đều do bốn bịnh khởi lên tham, sân, si. Bốn bệnh này, mỗi mỗi có hai mươi mốt nghìn căn bệnh. Quán bất tịnh để trừ hai mươi mốt nghìn phiền não tham dục. Quán từ bi để trừ hai mươi mốt nghìn phiền não sân giận. Quán nhân duyên để trừ hai mươi mốt nghìn phiền não ngu si. Dùng chung các phương pháp trên để trừ hai mươi mốt nghìn phiền não gồm cả tham, sân, si. Giống như viên minh châu có thể trừ bóng tối, cũng vậy bát-nhã ba-la-mật có thể trừ phiền não ba độc”.
XXIX.4. Sắp đặt
Luận rằng: Nhà tam giới vốn là nơi chứa tứ đại; cảnh của lục trần, là chỗ trú của năm ấm. Do vọng tưởng dối tạo, điên đảo giao xen, khiến cho muôn thứ khổ tranh nhau trói buộc, trăm mối lo cùng hội tụ. Nay quả báo đã chín muồi, mạng sống như đèn trước gió. Nhưng chúng sinh cứ tham đắm, đến chết cũng không tỉnh ngộ. Lo sợ nếu chúng sinh ở mãi một nơi thì mến tiếc của cải, lưu luyến quyến thuộc, nên Đức Phật dạy thay đổi chỗ ở, khiến cho họ sinh tâm nhàm chán, biết sự vô thường sắp đến, mà khởi tâm chính niệm.
Luật Tăng-kỳ ghi: “Nếu vị đại đức bệnh, nên chọn căn phòng tốt, thoáng mát để tăng, ni, Phật tử đến thăm hỏi kết thiện duyên. Người chăm sóc bệnh, mỗi ngày phải đốt hương đèn, rải nước thơm trên đất để đón tiếp khách”.
Bức tranh ở chùa Kì-hoàn tại Tây Vức có tả: “Góc tây bắc của chùa, hướng mặt trời lặn là viện Vô Thường. Nếu có người nào bệnh thì sắp đặt cho nghỉ trong đó. Phần nhiều họ sinh tâm buồn chán bỏ đi, chỉ còn một vài người ở lại. Trong căn nhà ấy có đặt pho tượng Phật đứng, sơn nhũ vàng, xoay mặt về hướng đông. Phải nên đặt người bệnh ngồi đối diện trước tượng, nếu người bệnh quá yếu thì cho nằm xuống, xoay mặt về hướng tây, quán tướng hảo của Phật. Trong tay pho tượng cầm lá phan năm màu, bảo người bệnh nắm dưới lá phan, nghĩ đến việc vãng sinh Tịnh độ. Người bệnh ngồi ở đó, dù có đại, tiểu tiện, Thế Tôn cũng không cho là dơ bẩn. Vì cõi này vốn là uế trược, nhưng Ngài vẫn đến tiếp độ chúng sinh hạ căn. Huống gì nay đối với người sắp mạng chung, Phật đâu thể bỏ họ được! Tùy theo người bệnh thích cảnh giới nào mà sắp đặt tượng Phật A-di-đà, hoặc Phật Di-lặc, Phật A-súc, bồ-tát Quán Âm… như trước, [177a] rồi luôn đốt hương, rải hoa cúng dường, khiến cho người bệnh phát tâm bồ-đề.”
XXIX.5. Nhiếp niệm
Ba cõi chẳng thật có, năm ấm đều không, nhưng vọng khởi bốn đảo[1], mười triền[2] cùng nhau hòa hợp. Tất cả như điện chớp, vạn kiếp thoáng qua chỉ trong chốc lát; thân già như giếng khô dễ mất, trăm năm vụt nhanh như gảy móng tay, cứ theo mãi đường mê, chẳng biết lối về. Không biết thân bảy thước nhỏ bé này là giả tạm; tai, mắt luôn duyên theo ngoại cảnh, suốt ngày nói suông. Đã không nơi nương tựa, không ai cứu giúp, mà còn không tin nhận, một khi bỏ thân mạng này rồi, thì không hẹn ngày làm người trở lại. Vì thế, phải tự phản tỉnh thương cho chính mình, gặp nguy hiểm mà nên tu tập.
Luật Thập tụng ghi: “Người chăm sóc bệnh phải tùy thuận người bệnh, nên khen ngợi việc tu học của vị ấy ngày trước, không được chê bai mà làm lui sụt tâm tốt ban đầu của họ”.
Luật Tứ phần ghi: “Người chăm sóc bệnh nên thuyết pháp cho người bệnh nghe, khiến họ sinh tâm hoan hỷ”.
Luận Tỳ-ni mẫu ghi: “Nếu người bệnh không nghe lời của người chăm sóc, người chăm sóc làm trái ý người bệnh, cả hai đều mắc tội”.
Kinh Hoa nghiêm có bài kệ nói về người bệnh lúc sắp mạng chung:
Thấy ánh sáng kia là thấy Phật,
Ánh sáng khai ngộ người lâm chung,
Niệm Phật tam-muội sẽ thấy Phật,
Sau khi bỏ thân sinh cõi Phật.
Khuyên người lâm chung nên niệm thiện,
An trí tôn tượng bảo chiêm ngưỡng,
Lại khuyên người bệnh hãy quy y,
Nhân đây thấy được hào quang Phật.
Giải thích: Như trước đã dạy, mang kinh, tượng đến nơi người bệnh, viết rõ tên kinh và danh hiệu của tượng, rồi đọc lên cho người bệnh nghe. Kế đó bảo người bệnh mở mắt ra nhìn, giúp cho họ tỉnh táo và thỉnh người có đức độ đọc tụng kinh điển Đại thừa, khen ngợi tán dương, treo tràng phan, bảo cái, rải hoa khắp trước mắt, xông hương vào mũi, thường nói lời hay, không truyền lời ác. Do lúc sắp mạng chung, người bệnh thấy nhiều cảnh ác hiện ra mà không thể vững chí dẹp trừ. Vì thế, người chăm sóc bệnh phải tìm cách khéo léo để khuyên nhủ, khiến cho niệm niệm nối tiếp trong từng sát-na không gián đoạn. Nhờ vào phúc lực này người bệnh có thể phát ý niệm vãng sinh Tịnh độ.
Luận Đại Trí Độ ghi: “Lúc sống làm việc thiện, đến khi gần chết lại khởi niệm ác thì liền sinh vào đường dữ. Lúc sống tạo nghiệp ác, nhưng khi gần chết khởi niệm thiện thì được sinh lên cõi trời”.
Kinh Duy-ma ghi: “Nhớ đến phúc của mình đã tu và nghĩ đến đời sống thanh tịnh”.
Kinh Chính pháp niệm ghi: “Nếu người giữ giới phục vụ người bệnh phá giới mà không cầu báo đáp, tâm không biết chán, người ấy lúc mạng chung sinh lên [177b] cõi trời Phổ Quang, tha hồ hưởng thụ năm món dục”.
Lại nữa, luận Vãng sinh ghi: “Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu năm niệm môn thành tựu rốt ráo, sẽ được vãng sinh về cõi Cực Lạc, thấy Đức Phật A-di-đà.
Năm môn là: lễ bái, khen ngợi, phát nguyện, quán xét và hồi hướng”.
Kinh Tùy nguyện vãng sinh ghi: “Đức Phật bảo bồ-tát Phổ Quảng: Nếu bốn chúng nam, nữ, đến ngày sắp mạng chung, phát nguyện sinh về cõi Phật trong mười phương, thì quyến thuộc trước phải tắm rửa thân thể, mặc áo sạch sẽ, đốt các hương thơm, treo tràng phan bảo cái, ca ngợi tam bảo, đọc tụng kinh điển, nói pháp nhân duyên thí dụ cho người bệnh nghe. Lại dùng lời lẽ khéo léo diễn nói nghĩa vi diệu của kinh như các hành đều là khổ, không, chẳng phải thật, do bốn đại giả hợp. Thân thể như cây chuối không bền chắc, lại như điện chớp không thể dừng lâu. Cho nên nói sắc thân không thể tươi trẻ mãi, mà cũng sẽ hủy hoại. Chỉ có thành tâm siêng năng học đạo mới được thoát khổ và điều mong cầu đều như ý”.
XXIX.6. Mạng chung
Bốn đại là đồ chứa chất độc, đầy dẫy dơ uế; sáu tên giặc là bọn chủ cuồng loạn, luôn tham đắm ngoại cảnh, không có ngày lội ngược dòng sinh tử, mà cứ chuyển theo thế tuần hoàn của nó. Thậm chí có người chia bớt một mảnh vải để làm lợi ích chúng sinh cũng tiếc, bớt một bữa ăn để tiếp tế lương thực cho người khác cũng không chấp nhận, nên chìm đắm trong sinh tử, chấp chặt pháp hữu vi. Vì điều đó mà các Đức Phật chau mày, bồ-tát tuôn lệ. Trộm nghĩ: Những người giàu sang tôn quý ở đời, khi cha mẹ mạng chung, bày ra nhiều lễ nghi tống táng, giết nhiều sinh mạng, nhóm họp họ hàng, thết đãi quan khách. Chỉ vì cầu danh tiếng hiện tại mà không tránh nghiệp nhân, hoặc sợ người ngoài chê cười mà không làm theo chính pháp. Cho nên, cha chết, vì việc làm này khiến tội khổ chất chồng, mẹ mất càng thêm nhiều nỗi lầm than. Vì thế, họ trôi lăn trong ba cõi, ở mãi nơi sáu đường. Thật là, bốn nẻo dễ vào, muôn kiếp khó thoát ra. Đau xót thay cho vong linh của người mẹ hiền, cha kính; xót xa thay sự báo đáp bằng việc ác của người con bất hiếu!
Hạn hán kéo dài ắt mong được mưa thấm ướt, dịch bệnh nhiều hẳn phải nhờ đến thuốc của lương y. Cha mẹ đã là phàm phu, đâu thể không tạo nghiệp ác. Nếu không diệt nhân của tội thì nghiệp báo khó trừ, nếu không nhờ vào phúc đức thù thắng thì quả vui làm sao có được? Giá như, lúc sắp mạng chung mà phát nguyện đưa vào an táng trong rừng Thi-đà, mong giúp loài cầm thú trừ đói khát, tiền của đem tu tạo công đức, thì sẽ tránh khỏi mối nợ đời sau.
[177c] Trong kinh Thập nhị phẩm sinh tử, Đức Phật dạy về người chết, có mười hai phẩm:
1. Vô dư: bậc a-la-hán không còn chấp trước.
2. Độ ư: bậc a-na-hàm không còn sinh trở lại.
3. Hữu dư: bậc tư-đà-hàm sau khi qua đời sẽ sinh trở lại.
4. Học độ: bậc tu-đà-hoàn thấy được lý đạo.
5. Vô khi: người hướng đến bát bối.
6. Hoan hỷ: tu hành nhất tâm.
7. Sác sác: người phá giới.
8. Hối: hàng phàm phu.
9. Hoạnh tử: người khổ cô đơn.
10. Phược trước: loài súc sinh.
11. Thiêu chước: chúng sinh ở địa ngục.
12. Cơ khát: ngạ quỷ.
Tì-kheo nên biết rõ các điều này, chớ nên buông lung.
Lại nữa, kinh Tịnh độ tam-muội ghi: “Nếu người tạo nghiệp thiện hoặc ác, được sinh lên trời hay đọa địa ngục, lúc sắp mạng chung, mỗi mỗi đều có người đến rước. Lúc sắp chết, họ thấy người đến đón. Nếu là người đáng được sinh lên trời thì thấy chư thiên cầm y phục của trời và trỗi âm nhạc đến rước. Còn người đáng sinh vào phương khác thì thấy người tôn quý nói lời hay. Nếu người tạo nghiệp ác bị rơi vào địa ngục, sẽ thấy binh sĩ cầm đao kiếm, mâu kích đến vây quanh mình. Cảnh tượng mỗi người trông thấy đều khác nhau, khi ấy miệng họ không nói được, chỉ tùy theo nghiệp đã tạo mà thụ quả báo. Phép trời bình đẳng không xử oan ai, theo nghiệp đã tạo mà trị”.
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Người sắp mạng chung, thấy thân trung ấm hiện ra. Nếu tạo nghiệp ác, sẽ thấy chịu khổ trong ba đường ác, hoặc thấy vua Diêm-la cầm các binh khí bắt tội nhân dẫn đi, hoặc nghe tiếng rên xiết đau khổ. Nếu tạo nghiệp thiện, thấy những việc thù thắng như cung điện cõi trời, các kĩ nữ trang sức rực rỡ, nô đùa vui vẻ”.
Kinh Pháp cú dụ ghi: “Ngày xưa, Đức Phật ở tại tinh xá Kì-hoàn, thuyết pháp cho trời và người nghe. Bấy giờ, có vị trưởng giả sống ở bên đường gần tinh xá; ông rất giàu, của cải vô số, nhưng chỉ có một người con trai vừa tròn hai mươi tuổi, mới cưới vợ chưa được bảy ngày. Hai vợ chồng rất thương yêu nhau. Vào tiết xuân tháng ba, hai vợ chồng muốn đến vườn sau nhà ngắm cảnh dạo chơi. Trong khu vườn ấy có một cây táo lớn, trổ hoa rất đẹp. Người vợ muốn có hoa đó mà không có ai hái giúp, nên người chồng leo lên cây, mới bước ra một cành nhỏ thì cành gãy rơi xuống đất chết. Cả nhà ông trưởng giả chạy đến. Ông kêu gào khóc lóc thảm thiết, ngất xỉu một hồi lâu mới tỉnh lại. Mọi người nghe thấy đều đau lòng. Sau khi tẩn liệm xong đưa về nhà mà [178a] mọi người vẫn khóc mãi không thôi.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn thương xót họ ngu muội, nên đến hỏi thăm và an ủi. Cả nhà ông trưởng giả trông thấy Đức Phật, xúc động buồn thương, đỉnh lễ và trình bày hết nỗi khổ đau.
Đức Phật bảo:
– Thôi đừng khóc nữa! Hãy lắng lòng nghe pháp! Vạn vật đều vô thường, không thể bền lâu, có sinh thì có tử, tội và phúc theo nhau. Người con này chết đi khiến ba nơi đều khóc lóc, sầu thương không kiềm chế được. Rốt cuộc nó là con ai? Ai là cha mẹ của nó?
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Mạng như hoa, trái chín,
Luôn lo sợ rụng rơi,
Sinh ra ắt có khổ,
Có ai không chết đâu?
Từ đầu ưa ái dục,
Mong được gá vào thai,
Thụ thân như điện chớp,
Ngày đêm chuyển không dừng.
Thân này là vật chết,
Tinh thần vốn vô hình,
Thân chết rồi lại sinh,
Tội phúc không tan mất.
Trước sau chẳng một đời,
Do si ái dài lâu,
Tự mình thụ khổ, vui,
Thân chết, thần không mất.
Trưởng giả nghe kệ rồi, tâm ý thông suốt, không còn lo buồn, quỳ xuống bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn! Đứa con này kiếp trước tạo tội gì mà nay đang mạnh khỏe lại bị chết yểu? Cúi xin Đức Thế Tôn dạy cho con biết!
Đức Phật bảo:
– Ngày xưa có một đứa bé cầm cung tên đến chơi ở chỗ cây thần, bên cạnh cũng có ba người đứng xem. Trên cây có một con chim sẻ, đứa bé muốn bắn, ba người kia khuyến khích: ‘Nếu có thể bắn trúng con chim đó, ngươi là đứa bé giỏi nhất thế gian’. Nghe nói thế thích quá, nó liền giương cung bắn, chim bị trúng tên chết. Ba người kia cùng nhau cười vui hùa theo đứa bé, rồi mỗi người đi một nơi. Trải qua nhiều kiếp trong sinh tử, sinh vào nơi nào cũng tụ hội mà thụ tội. Trong đó, một người có phúc, nay ở cõi trời; một người sống dưới biển làm long vương; một người nữa nay chính là ông trưởng giả vậy. Ngày trước, đứa bé này sinh lên làm con của trời, cuối cùng rơi trên cây xuống chết; sau đó sinh xuống biển làm con của long vương, vừa mới sinh ra, bị chim đại bàng cánh vàng chúa bắt ăn thịt. Hôm nay ba nơi ấy đều khóc lóc buồn thảm, không thể tả xiết. Ba người này vì đời trước giúp vui cho đứa bé, nên phải chịu quả báo như thế.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Thần thức đến ba cõi,
Thiện ác sinh ba nơi,
[178b] Đến đi trong âm thầm,
Chỗ sinh như tiếng vang,
Cõi Dục, Sắc, Vô sắc,
Thảy do nhân đời trước,
Gieo nhân như hình tượng,
Cảm quả như bóng hình.
Trưởng giả nghe Đức Phật nói kệ rồi, tâm ý thông suốt, cả nhà đều vui vẻ, đắc quả Tu-đà-hoàn”
Luật Tứ phần ghi: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì làm lợi ích cho chúng sinh sắp mạng chung mà nói kệ:
Tất cả sẽ về không,
Lên cao sẽ phải rơi,
Có sinh phải có chết,
Thân mạng đều vô thường,
Chúng sinh đọa rất nhiều,
Thảy đều là hữu vi,
Tất cả các thế gian,
Đều phải có già chết,
Chúng sinh là pháp thường,
Đời đời đều phải chết,
Tùy theo nghiệp đã tạo,
Tội phúc có quả báo,
Nghiệp ác đọa địa ngục,
Nghiệp thiện sinh lên trời,
Thanh cao sinh đường lành,
Được niết-bàn vô lậu”.
XXIX. 7. Đưa tiễn
Giải thích: Sinh tử xoay vần không lìa tục đế. Tuy là người xuất gia chí cầu đạo thù thắng, nhưng phần đoạn sinh tử khó dứt, biến dịch sinh tử chưa trừ, vẫn cứ trôi lăn trong ba cõi, lưu chuyển theo thế tục. Cho đến việc sống chết đều nương vào tứ đại bên trong và các duyên bên ngoài. Lúc sắp mạng chung, nên an trí nơi thuận tiện, nghi thức lễ tang được nói đầy đủ dưới đây.
Luận về người chết, phải đặt theo hướng nam hoặc bắc, hồn và phách không giống nhau, nay chỉ trình bày ngắn gọn.
Chương Lễ vận trong Lễ ký ghi: “Thể phách thì đi xuống, tri khí bay lên. Do đó, người chết thì đặt đầu xoay về hướng bắc, người sống thì nằm đầu quay về phía nam”.
Chương Giao đặc sinh trong Lễ ký ghi: “Hồn khí bay lên trời, hình phách trở về với đất, cho nên cúng tế để cầu thuận lẽ âm dương”.
Chương Tế nghĩa trong Lễ kí ghi: “Khí là thần đầy đủ nơi thân, hồn là quỉ sung mãn nơi thể”.
Tả truyện, chương Lỗ Chiêu công năm thứ 7 ghi : “Tử Sản nói với Triệu Cảnh Tử: Con người lúc sinh ra, vừa hiện thành thì gọi là phách, đã sinh phách, thì dương khí của phách ở nơi thân gọi là hồn. Người dùng nhiều thức ăn ngon thì hồn phách họ mạnh, do đó mà tinh thần đạt đến chỗ sáng suốt. Đàn ông hay đàn bà tầm thường bị chết oan, hồn phách của họ có thể dựa vào người khác để tác oai. Huống là vất vưởng giữa hư không?”
[178c] Hoài Nam Tử[3] nói: “Khí trời là hồn, khí đất là phách.”
Phách hỏi Hồn:
– Đạo lấy gì làm thể? Lấy vô hình hay hữu hình?
Hồn đáp:
– Hữu hình. Nếu vô hình thì cần gì phải hỏi! Tôi đã gặp nó rồi, nhìn thì không thấy hình, lắng nghe thì chẳng có âm thanh, gọi đó là u minh. Nói u minh là để dụ cho đạo, mà chẳng phải là đạo.
Hỏi: Đã biết Hồn và Phách khác nhau, hiện nay tại sao người thế gian chết dùng áo của người chết để gọi hồn mà không nói gọi phách?
Đáp: Hồn là linh hồn, phách là thi thể. Cho nên theo kinh Lễ ghi: “Người mới chết, lấy áo lúc sống họ thường mặc trùm lên, vì hồn đã xuất khỏi xác, mang cái áo đó đi gọi hồn, để hồn biết cái áo của mình, mà trở về nhập vào phách. Nếu hồn trở về nhập vào phách thì miệng của thây chết máy động, nếu hồn không trở về nhập vào phách thì miệng không máy động. Theo lý này, nên nói là gọi hồn, chứ không nói gọi phách”.
Bộ Tiêu táng phục yếu ký ghi: Lỗ Ai Công an táng cha, Khổng Tử hỏi:
– Không làm áo hồn ư?
Lỗ Ai Công đáp:
– Áo gọi hồn này xuất phát từ ông Bá Đào. Bá Đào đến núi Kinh, trên đường đi bị chết rét, người bạn tên Dương Giác Ai đến đưa thi thể bạn về chôn cất và cũng thương xót linh hồn bị lạnh, nên chế ra áo hồn . Khi cha ta còn sống thì mặc gấm vóc lụa là, lúc chết vẫn mặc áo đầy đủ, đâu cần dùng áo hồn?
Hỏi: Tại sao phải viết tên họ của người chết lên lá phan?
Đáp: Phan chiêu hồn đặt phía tây bắc để hồn biết tên của mình tìm về nhà tối mà nhập vào phách, hoặc vào trùng thất. Trong đó sắp đặt đầy đủ các thức ăn để cúng tế. Vì người sống và người chết khác nhau, thấy tối và sáng không đồng. Quỷ thần ăn trong tối, người sống ăn ngoài sáng, cho nên dùng nhiều lớp chiếu cỏ để bọc thức ăn đặt trong trùng thất tại phía tây nam.
Theo Ấn Độ, có bốn cách xử lí thây người chết:
1. Thả trôi theo dòng nước (Thủy táng).
2. Dùng lửa đốt (Hỏa táng).
3. Chôn dưới đất (Địa táng).
4. Để tử thi trong rừng (Lâm táng).
Luật Ngũ phần ghi: “Nếu dùng lửa đốt thì phải đặt tử thi trên đá, không được đốt trên đất cỏ, vì sợ làm tổn thương loài côn trùng”.
Luật Tứ phần ghi: “Đức Như Lai và Chuyển luân thánh vương đều được hỏa táng. Những người khác đều dùng các cách còn lại”.
Luật Ngũ phần ghi: “Thi thể nên chôn cất (Theo pháp vua, không cho bỏ tử thi trong rừng. Lại sợ, mùa hạ hỏa táng làm tổn thương côn trùng, cho nên phải chôn cất). Ngoài ra, những nơi không có nạn thì cho phép thả xuống nước hoặc để trong rừng.”
Luật Tứ phần và Ngũ bách vấn sự ghi: “Nếu thấy tháp miếu thờ Đức Như Lai và lăng mộ của năm chúng xuất gia lớn hơn mình, đều phải viếng thăm và căn cứ theo tuổi hạ lúc còn sống mà lễ bái. Tất cả hàng cư sĩ thấy tháp của năm chúng xuất gia, không luận lớn hay nhỏ, [179a] đều phải cung kính đỉnh lễ”.
Giải thích: Đã biết điều đó, nếu người đạo hay tục mà thấy cha mẹ của sư tăng qua đời, hoặc người ngoài đến thăm viếng, nếu nhỏ hơn người chết thì đến chỗ quan tài thiết lễ như thường lệ, rồi đến các người con chia buồn an ủi, sau đến chỗ đại đức tỏ lòng thương tiếc, chia buồn và đỉnh lễ. Lại thấy những cư sĩ mê muội, thực hành sai lầm, lần lượt dạy người khác không được đỉnh lễ vong linh cha mẹ, chú, bác, bà con. Họ nói: “Ta đã thọ giới, những người kia là quỷ thần, cho nên không đỉnh lễ, vì sợ phá giới.” Đây không phù hợp với ý Phật, trái lại, chuốc lấy tội không hiểu biết.
Thiết nghĩ, thầy tổ nuôi dưỡng pháp thân huệ mạng của ta. Cha mẹ, chú, bác nuôi dưỡng xác thân ta, nhờ vào sữa mẹ mà ta lớn khôn thành người. Nghĩ đến ân đức này như trời cao, khó báo đáp. Phải trả ân này nhiều kiếp, đâu thể một đời mà trả hết được? Có những người không biết tôn trọng ân đức đó mà lại khởi tâm kiêu mạn, noi theo những kẻ ngu hèn, làm sao mà thành người con hiếu thảo được?
Đức Thế Tôn là bậc Thánh cao tột còn tự mình khiêng kim quan của phụ vương đưa đi, huống gì chúng ta là hàng phàm phu ngu muội mà lại thường sinh tâm lười biếng, ngã mạn ư? Cho nên, kinh Niết-bàn ghi: “Biết ân là nền tảng của đại bi. Người không biết ân nghĩa còn tệ hơn loài cầm thú”.
Lại nữa, trong kinh Tịnh Phạn vương nê-hoàn ghi: “Bấy giờ, vua Bạch Tịnh ở tại nước Xá-di, bệnh nặng sắp mạng chung, muốn gặp Đức Thế Tôn và Nan-đà v.v…. Khi ấy, Đức Thế Tôn đang ở trong núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương Xá, cách hoàng cung năm mươi do-tuần. Đức Thế Tôn ở trên núi Linh Thứu, do thiên nhĩ thanh tịnh nên biết được suy nghĩ của phụ vương, liền cùng A-nan v.v… bay trên hư không đến. Khi đến nơi, Ngài lấy tay đặt lên trán của vua và an ủi, sau đó nói kinh Ma-ha Ba-la bổn sinh cho vua nghe. Nghe xong, vua liền chứng A-na-hàm. Vua cầm tay Phật đặt lên tim mình. Đức Phật lại thuyết pháp cho vua nghe, vua liền chứng A-la-hán.
Vô thường chợt đến, vua sắp mạng chung, bỗng chốc qua đời sau. Đến lúc hỏa táng, Phật và Nan-đà v.v… cung kính đứng phía đầu, A-nan và La-hầu-la đứng sang một bên.
Bấy giờ, A-nan-đà quỳ xuống bạch Đức Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn! Xin cho con khiêng kim quan của bác!
La-hầu-la bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn! Cho phép con khiêng kim quan của ông nội!
Đức Phật an ủi: ‘Người đời sau phần nhiều hung ác, không báo đáp công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ. Ta vì những chúng sinh bất hiếu đó mà lập ra pháp giáo hóa, cho nên Đức Như Lai muốn tự mình khiêng kim quan của phụ vương’. Ngay lúc ấy, ba nghìn đại thiên thế giới chấn động sáu cách, tất cả núi đều trồi sụt như thuyền bập bềnh trên sóng.
Bấy giờ, hết thảy các vị trời, rồng, quỷ thần đều đến dự lễ tang, [179b] buồn thảm gào khóc. Tứ thiên vương dẫn trăm nghìn ức chúng quỷ thần đến dự lễ tang và bạch Phật:
– Đức Như Lai khởi tâm đại từ bi thương xót, vì những chúng sinh đời sau bất hiếu với cha mẹ mà tự mình khiêng kim quan của phụ vương!
Tứ thiên vương lại bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con là đệ tử, theo Ngài nghe pháp mà đắc qủa Tu-đà-hoàn. Do đó, Ngài nên để chúng con khiêng kim quan của phụ vương.
Đức Phật chấp nhận. Tứ thiên vương liền biến thành người, khiêng kim quan đi, tất cả nhân dân đều thương xót gào khóc. Đức Thế Tôn bưng lư hương đi trước đến nơi hỏa táng. Đồng thời, Ngài sai một nghìn vị a-la-hán ra một hòn đảo ngoài biển khơi lấy các thứ gỗ thơm như Ngưu-đầu chiên-đàn mang về hỏa táng phụ vương.
Bấy giờ, Đức Phật dạy:
– Các hành khổ, không, vô thường cũng giống như bóng trong gương, trăng đáy nước, đều là huyễn hóa.
Khi thiêu xong, vua các nước, mỗi người cầm năm trăm bình sữa rưới lên dập tắt lửa. Dập lửa xong, họ đua nhau thâu gom hài cốt đựng trong hộp kim cương, rồi xây tháp phụng thờ ngay tại đó, đồng thời treo tràng phan, bảo cái để cúng dường.
Đức Phật nói với hội chúng:
– Vua Tịnh Phạn là người thanh tịnh, được sinh lên cõi trời Tịnh Cư”.
Lại kinh Phật mẫu nê-hoàn ghi: “Tì-kheo ni Đại Ái Đạo là di mẫu của Phật. Bà không nỡ thấy Đức Phật diệt độ, nên muốn diệt độ trước. Bà cùng năm trăm trừ cẩn nữ (Trừ cẩn nữ tức là tì-kheo ni. Khương Tăng Hội chú giải kinh Pháp Cảnh: Hàng phàm phu tham đắm sáu trần, giống như người tham ăn không biết đủ. Nay bậc thánh đã đoạn tâm tham và trừ sự đói khát của sáu căn, cho nên gọi hàng xuất gia ni là trừ cẩn vậy.) Bà lấy tay xoa chân Phật và đi nhiễu quanh ba vòng, đỉnh lễ mà lui ra. Đại Ái Đạo hiện sức thần thông biến hóa, ở trên tòa tự nhiên biến mất, sau đó từ phương đông đi lại, trụ giữa hư không hiện ra mười tám thứ thần biến, tám phương, trên dưới cũng biến hiện như thế, phóng ánh sáng rực rỡ chiếu đến các nơi tối tăm và đến các cõi trời. Năm trăm vị tì-kheo-ni biến hóa cũng như thế, cùng nhập niết-bàn trước Đức Phật.
Bấy giờ, Đức Phật khuyên các gia đình trong làng làm năm trăm cỗ xe chở quan tài, năm trăm cỗ xe chở các thứ gỗ thơm, dầu mè, hoa, hương, trỗi nhạc hay để cúng dường. Tất cả phàm thánh trông thấy đều thương cảm rơi lệ. Sau khi thiêu xong, các tì-kheo mang xá-lợi đến chỗ Đức Phật. Khi ấy, ở bốn phương, mỗi phương có hai trăm năm mươi vị a-la-hán dùng thần túc thông bay đến, đỉnh lễ dưới chân Phật, rồi đến chỗ an trí xá-lợi. Sau khi một nghìn vị tì-kheo an tọa xong, Đức Phật bảo A-nan lấy xá-lợi đựng trong bình bát, rồi đặt vào tay. Ngài A-nan vâng lời. Đức Phật nói với các tì-kheo:
– Xá-lợi này vốn là thân uế trược, hung bạo, xấu xa, ngu muội, ganh tị, mưu mô xảo quyệt, phá đạo hoại đức. Nay di mẫu đã trừ sạch, thực hành hạnh đại trượng phu, chứng quả A-la-hán, đạt được tâm vốn không. Thật là dõng mãnh thay!
Nói xong, Đức Phật dạy xây tháp cúng dường”.
[179c] Kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Đức Phật bảo A-nan-đà và La-hầu-la:
– Các ông hãy khiêng nhục thân của Đại Ái Đạo đến đây, Ta sẽ đích thân cúng dường.
Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân và Tứ thiên vương ở trước bạch Đức Phật:
– Xin Ngài chớ nhọc sức, chúng con sẽ cúng dường!
Đức Phật bảo:
– Thôi thôi! Vì sao? Vì cha mẹ sinh con làm nhiều điều lợi ích cho con; ân sâu nuôi dưỡng, bú mớm, ẵm bồng, chúng ta cần phải báo đáp. Khi mẹ của các Đức Phật trong quá khứ và vị lai diệt độ, các Ngài đều hỏa táng, cúng dường xá-lợi.
Bấy giờ, Tỳ-sa-môn thiên vương sai quỷ thần đến rừng chiên-đàn lấy gỗ về chất nơi đồng trống. Đức Phật, A-nan, La-hầu-la, Nan-đà mỗi người khiêng một chân giường bay trên hư không đến nơi hỏa táng. Đức Phật tự tay lấy gỗ chiên-đàn đặt lên thân tì-kheo ni Đại Ái Đạo.
Đức Phật dạy:
– Có bốn bậc nên xây tháp cúng dường: Phật, bích-chi phật, a-la-hán lậu tận và Chuyển luân thánh vương. Vì bốn bậc này đều dùng mười điều thiện giáo hóa chúng sinh.
Bấy giờ, nhân dân thỉnh xá-lợi và tự xây tháp cúng dường”.
Kinh Tạp A-hàm ghi: “Di mẫu Đại Ái Đạo là mẹ của Nan-đà”.
Lại nữa, Tăng nhất a-hàm ghi: “Trong bốn chúng đệ tử chọn ra tám người đắc đạo trước tiên và sau cùng:
– Tì-kheo:
1. Người đắc đạo đầu tiên là tì-kheo Câu-lân, khéo giáo hóa chúng sinh, không mất uy nghi.
2. Người đắc đạo sau cùng là Tu-bạt-đà-la, ngày ông đắc đạo thì Đức Phật sắp nhập Niết-bàn.
– Tì-kheo-ni:
3. Người đắc đạo đầu tiên là tì-kheo-ni Đại Ái Đạo.
4. Người đắc đạo sau cùng là tì-kheo-ni Đà-la-câu-di-quốc.
– Ưu-bà-tắc:
5. Người đầu tiên đắc đạo là một nam thương nhân.
6. Người đắc đạo sau cùng là Câu-di-na-ma-la.
– Ưu-bà-di:
7. Người đắc đạo đầu tiên là Nan-bà nữ.
8. Người đắc đạo sau cùng là Ưu-bà-di Lam-bà”.
XXIX.8. Thụ sinh
Con người khi sống thì tám thức giữ gìn, chết thì bốn đại phân tán. Dù sống đến trăm tuổi rốt cuộc cũng phải chết, luân hồi trong ba cõi, lưu chuyển không dừng. Cho nên trong kinh ghi: “Có đầu tiên thì sẽ có cuối cùng, có sinh ắt có diệt”. Giáo pháp của Đức Phật dạy không thể hư dối, mắt thấy, tay chạm được. Do đó, trong duyên này trình bày sơ lược sáu môn:
Môn thứ nhất: người sắp mạng chung, kiểm tra trên thân thể nóng hay lạnh thì biết được quả báo của họ đời sau thụ sinh vào đường lành hay dữ.
[180a] Luận Du-già ghi: “Loài hữu tình là phi sắc phi tâm, thân giả tạm lớn nhỏ đều giống nhau, nhưng chết có nhanh chậm. Các luận sư cho là người làm điều thiện, khi chết nếu sờ thấy lạnh từ dưới chân lên đến rốn, từ rốn lên vẫn còn hơi ấm, sau đó mới hết hẳn, người ấy sẽ sinh trở lại trong cõi người. Nếu sờ thấy lạnh từ dưới lên, đầu và mặt ấm, sau đó mới hết, người này được sinh lên cõi trời. Còn người làm ác thì ngược lại. Nếu sờ thấy người này lạnh từ trên đầu xuống đến thắt lưng còn hơi ấm, sau đó mới hết hẳn thì người này sẽ đọa vào loài ngạ quỷ. Nếu sờ thấy lạnh từ trên xuống, đến đầu gối còn hơi ấm, người này chết sinh vào loài súc sinh. Nếu chỉ từ đầu gối xuống đến chân có hơi ấm, người này chết bị đọa vào địa ngục. Bậc Vô học khi nhập niết-bàn thì ấm ở tim hoặc trên đảnh đầu”.
Cho nên, luận Du-già ghi: “Yết-la-lam là chỗ nương gá đầu tiên của thức, còn gọi là nhục tâm. Lúc mới gá sinh, thức đến nơi này, cũng là nơi cuối cùng thức lìa thân mạng”.
Giải thích: Theo luận Du-già, do tạo nghiệp thiện được sinh lên các cõi trên, nếu người chết lạnh dần từ dưới lên đến tim, gọi là thượng xả. Do tạo nghiệp ác thì sinh xuống các cõi dưới, nên người chết lạnh từ trên xuống đến tim, gọi là hạ xả.
Theo luận Câu-xá: “Nếu người chết bình thường thì ý thức đoạn diệt trong phần nào của thân? Có hai trường hợp; nếu người chết bình thường thì căn và ý thức cùng diệt một lúc. Nếu người chết lần lượt từng phần thì như bài kệ này:
Nếu người chết dần dần,
Từ chân lên đến rốn,
Đến tim, ý thức diệt,
Hạ, nhân thiên, bất sinh.
Trong luận giải thích: Nếu người chết thụ sinh vào các đường ác và loài người, thì chết thứ tự từng chi phần từ trên xuống; còn bậc a-la-hán, ý thức chấm dứt ở tim. Lại các bộ phái khác nói ý thức diệt trên đảnh đầu. Vì sao? Vì thân căn và ý thức đều diệt cùng một lúc nơi đỉnh đầu. Nếu người chết bình thường thì thân thể như đổ vài giọt nước lên tảng đá nóng, nước dần dần khô, sau đó lạnh dần dần, ý thức và thân căn lần lượt đoạn diệt ở nơi chân và các chi phần khác cũng thế”.
Giải thích: luận Câu-xá trình bày: “Quan điểm Tiểu thừa cho là người chết thì thân và ý thức đều diệt tại các phần trên thân. Nếu theo Đại thừa thì thân và bản thức đều diệt tại các chỗ trên thân”.
Môn thứ hai: Cách thức thụ sinh.
Luận Câu-xá ghi: “Vì để đi đến các đường phải thụ sinh, nên khởi ra thân trung ấm. Chúng sinh do sức mạnh của nghiệp đời trước, nên dù ở nơi rất xa, nhưng nhãn căn có thể trông thấy chỗ thụ sinh thích hợp. Ở đó, thân trung ấm thấy cha mẹ giao hợp. Nếu thân trung ấm sẽ thành con trai thì đối với mẹ liền khởi tâm dâm dục của người nam; nếu sẽ thành con gái, đối với cha liền khởi tâm dâm dục của người nữ; đồng thời cũng khởi tâm sân hận. [180b] Do khởi hai tâm điên đảo ấy, cho nên trung ấm mong muốn đến chỗ thụ sinh, tức là mong muốn mọi thứ thuộc về mình. Lúc khởi ý bất tịnh là đã vào trong thai, liền sinh vui mừng, gá vào đó để thụ sinh. Từ sát-na này, thân năm ấm của chúng sinh hòa hợp bền chắc, thân trung ấm liền diệt, như vậy mới gọi là thụ sinh.
Nếu thai nhi là nam thì ở bên hông trái và ngồi chồm hổm tựa vào hông trái, xoay mặt về lưng của người mẹ. Nếu thai nhi là nữ thì tựa vào hông phải và mặt hướng về bụng của người mẹ. Nếu thai chẳng phải nam, chẳng phải nữ thì tùy theo dục loại mà gá sinh. Trụ trong thai cũng như vậy, các thân trung ấm đều như nhau, nam hay nữ đều đầy đủ các căn. Thế nên dù nam hay nữ khi thác sinh vào thai, thì sau đó ở trong thai dần dần lớn lên, có khi trở thành huỳnh môn. Chúng sinh thác vào loài thai sinh và noãn sinh, cách thức cũng như thế.
Nếu chúng sinh muốn thụ sinh vào loài thấp sinh, chỉ cần ưa thích mùi hương thì liền sinh đến. Mùi hương này sạch hay dơ, tùy theo nghiệp của mình đã tạo kiếp trước mà cảm nhận. Nếu là loài hóa sinh thì tùy theo chỗ ưa thích mà sinh đến.
Như vậy, tại sao chúng sinh ở trong địa ngục ưa nơi đó? Do tâm điên đảo, nên những chúng sinh này luôn thấy gió rét, mưa lạnh hành hạ thân thể, khi thấy lửa địa ngục cháy mạnh thì ưa thích, muốn tiếp xúc, cho nên thụ sinh vào địa ngục. Có chúng sinh lại thấy thân bị gió nóng và lửa cháy thiêu đốt, đau buốt khó chịu, lại thấy địa ngục giá lạnh rất mát mẻ, ưa thích tiếp xúc, cho nên sinh vào.
Hai loài thai sinh và noãn sinh thì khi cha mẹ giao hợp liền sinh vào đó. Hai loài hóa sinh và thấp sinh, không nhờ vào tinh cha huyết mẹ để làm thân, nên không cần sự giao hợp. Loài thấp sinh chỉ thích ngửi mùi hương, liền sinh đến. Tùy theo nghiệp thiện hoặc ác mà thích ngửi mùi hương sạch hay dơ. Loài hóa sinh chỉ ưa thích nơi mình đến.
Địa ngục tuy là nơi đau khổ, nhưng người có tội lại ưa thích thụ sinh vào trong đó. Vì sao? Không ưa thích thì không thụ sinh.
Luận nói: Nếu kiếp trước tạo nghiệp thế nào thì nay thường chiêu cảm quả báo thụ sinh thế ấy. Trung ấm thích thấy thân mình ở vị thế như thế, thấy các chúng sinh kia cũng giống vậy, nên sinh đến đó. Các vị luận sư xưa đã giải thích rằng:
Nếu những người ba mươi tuổi, tạo nghiệp sát sinh, giăng lưới vây bắt chúng sinh, lúc làm việc này chắc chắn có bạn bè của mình, do nghiệp này chiêu cảm đọa vào địa ngục. Sau khi chết, thân trung ấm tự thấy mình làm việc giăng bẫy vây bắt chúng sinh giống như ba mươi năm trước. Cho nên nói là vị thế.
Thân trung ấm lại thấy các bạn ngày xưa và việc làm trước kia không khác. Khi thấy cảnh địa ngục, thân trung ấm như thấy các bạn chài lưới ở sông hồ cũng như ngày xưa, cùng nhau lũ lượt kéo vào trong ấy, do đó khởi tâm ưa thích, nên thụ sinh.
Sau này biết rõ [180c] ngày xưa tạo nghiệp tuy nhiều, nhưng chỉ cần một nghiệp là đã lôi kéo chúng sinh rơi vào địa ngục. Lúc hai mươi tuổi hoặc ba mươi tuổi tạo nghiệp này, sau khi chết thì thân trung ấm tự thấy mình tạo nghiệp lúc hai mươi hoặc ba mươi tuổi như xưa, lại thấy chúng sinh trong địa ngục ngang bằng tuổi mình. Tuổi đã giống nhau, nên chúng sinh khởi tâm luyến ái nơi đó, liền đến chỗ đó thụ sinh. Do sự yêu thích ấy mà đến thụ sinh. Các sư, kinh Bộ[4] giải thích như thế.
Lại nữa, luận Du-già ghi: “Nếu người phúc mỏng, sẽ sinh vào nhà bần cùng thấp hèn, khi chết và lúc gá thai, liền nghe những âm thanh hỗn tạp và vọng thấy vào trong rừng tre trúc, cỏ lau rậm rạp. Nếu người nhiều phúc, sẽ sinh vào nhà giàu sang quyền quý. Bấy giờ người này nghe những âm thanh hay đẹp, trong lắng vừa ý và vọng thấy các cảnh hợp ý hiện ra như thấy mình lên các cung điện rất lộng lẫy”.
Luận Câu-xá ghi: “Nếu người sắp mạng chung mà khởi tâm tà kiến thì đọa vào địa ngục, vì người này lấy nghiệp bất thiện trước đó làm nhân, tà kiến làm duyên. Có một luận sư nói: ‘Tất cả pháp bất thiện đều là nhân của địa ngục. Ngoài pháp bất thiện này ra còn có các ác pháp khác là nhân sinh vào loài ngạ quỷ hay súc sinh’”.
Lại do ngày xưa tạo nhiều nghiệp ác nên bị đọa vào loài súc sinh. Nếu dâm dục nhiều thì sinh làm chim bồ câu, se sẻ, uyên ương. Nếu tâm nhiều sân hận thì sinh làm loài rắn hổ mang, bò cạp. Nếu nhiều ngu si thì sinh làm loài heo, dê, ong, sò. Tâm nhiều kiêu mạn thì sinh làm loài sư tử, hổ, sói. Nếu tâm nhiều vọng động, đùa cợt thì sinh làm loài khỉ vượn. Nếu tâm keo kiệt, ganh ghét thì sinh làm loài chó đói. Nếu có chút phúc thiện còn sót lại, tuy sinh vào loài súc sinh, nhưng vẫn có chút niềm vui.
Hai nghiệp của thân và miệng, tuy do tâm làm chủ, nhưng khẩu nghiệp phải chịu quả báo rất nặng. Như mắng hay khinh khi người khác, ví họ như khỉ, vượn thì liền sinh làm loài khỉ vượn. Hoặc mắng người khác tham lam như quạ, tiếng nói giống chó sủa, lừa rống, ngu ngốc như loài heo, dê, đi như lạc đà, tự cao như voi, hung dữ như trâu hoang, dâm dục như chim sẻ, khiếp sợ như loài mèo hoang, nịnh hót như con cáo. Các việc ác như thế đều theo khẩu nghiệp mà chịu quả báo. Nhưng nguồn gốc là do ba độc, trong đó tham ái là nặng nhất, nó lôi kéo tất cả các nghiệp khác, như nắm một đầu của tấm vải thì những phần còn lại đều thuận theo”.
Luận Trí độ ghi: “Nếu không chấm dứt được tham ái thì tùy tham ái mà thụ sinh. Cho nên bốn loài đều do ái mà sinh ra. Như nói, nhiều dâm dục thì sinh làm chim se sẻ, quá tham mùi vị thì sinh vào hầm xí. Lại do ái dục nên sinh vào loài mang thai, đẻ trứng. Tham ngửi mùi hương nên thụ thân vào loài thấp sinh. Tùy theo nơi ưa thích mà tạo nghiệp sâu nặng thì thụ thân vào loài hóa sinh. Nếu tâm quá yêu thích tạo tội nghiệp, lúc chết vọng thấy cảnh địa ngục, [181a] liền hóa sinh vào đó. Nếu tâm ưa thích tạo phúc sâu dày thì được hóa sinh lên cõi trời”.
Cho nên, luận Thành thật ghi: “Nếu không nhổ tận gốc rễ thì cây vẫn còn sống, gốc tham không nhổ sạch thì cây khổ còn hoài”.
Luận Du-già ghi: “Thế nào là sinh? Do ngã ái đã sinh khởi liên tục, do từ vô thỉ ưa thích huân tập các nhân hí luận và nghiệp nhân tịnh hoặc bất tịnh. Thể sơ y kia, do sức tăng trưởng của hai nhân này, nên từ chủng tử[5] mà thân trung ấm dị thục thụ sinh liên tục ở nơi ấy. Sinh tử đồng thời giống như đòn cân, hai đầu bằng nhau. Thân trung ấm này đầy đủ các căn. Người tạo nghiệp ác thì màu sắc của thân trung ấm như bóng dê đen, hoặc như đêm tối. Người tạo nghiệp thiện thì màu sắc của thân trung ấm sáng như áo trắng, hoặc như ánh sáng trong đêm tối”.
Luận Câu-xá ghi: “Thân trung ấm này đầy đủ năm căn, các thứ kim cương… cũng không thể ngăn ngại được. Như có con ễnh ương thụ sinh ở trong lớp kim cương dưới núi Tu-di. Thân trung ấm có sắc chất vi tế, kim cương không thể ngăn ngại nó, chỉ người có thiên nhãn mới thấy được việc này.
Lại nêu lên việc đã nghe được để chứng minh. Từng nghe có người nói: “Nung thanh sắt nóng, phá vỡ ra thì sẽ thấy con trùng”.
Môn thứ ba: Thụ mạng dài ngắn.
Luận Câu-xá ghi: “Nếu thân trung ấm chưa xác định nơi thụ sinh vào nơi nào thì đều có thể sinh vào loài khác của cõi ấy. Như loài trâu giao phối vào mùa hạ, loài chó thì mùa thu, loài gấu thì mùa đông, ngựa thì mùa xuân, còn các loài khác như chồn… không theo mùa. Lẽ ra chúng sinh ấy thụ sinh vào loài trâu, nhưng không trúng mùa hạ thì sẽ sinh vào loài chồn, lẽ ra thụ sinh vào loài chó mà không trúng mùa thu thì sẽ sinh vào loài chồn”.
Lại các luận sư Câu-xá có bốn cách giải thích không giống nhau:
1. Lúc mới chết thì thân trung ấm liền thụ sinh
2. Qua bốn mươi chín ngày mà vẫn còn mang thân trung ấm, thì không hạn cuộc thời gian
3. Trong vòng bốn mươi chín ngày, nếu nhân duyên thụ sinh chưa đủ thì thân trung ấm phải chết đi sống lại nhiều lần, sau đó không hạn cuộc thời gian.
4. Thân trung ấm theo duyên mà thụ sinh, cho đến trải qua nhiều kiếp vẫn không mất.
Thuyết thứ năm, theo luận Du-già ghi: “Nếu thân trung ấm chưa đủ duyên để thụ sinh, sống tối đa là bảy ngày, rồi chết đi sống lại, cho đến hết bốn mươi chín ngày. Từ đây trở về sau, thân trung ấm nhất định được duyên thụ sinh”.
Thuyết thứ năm này không giống bốn thuyết trước.
Môn thứ tư: Sức thần thông nhanh hoặc chậm.
Luận Câu-xá ghi: “Thân trung ấm này đi trên hư không. Khi người chết thì thân trung ấm muốn thọ sinh ở vô số thế giới, [181b] chỉ trong thoáng chốc liền đến. Trong khi thần thông của hàng nhị thừa chưa vượt khỏi một thế giới, thân trung ấm đã vượt ra ngoài vô lượng thế giới. Do nghiệp lực quyết định, nên dù sức thần thông của Đức Phật cũng không thể ngăn nó thụ sinh hoặc khiến nó thụ sinh vào các đường khác”.
Nói thân trung ấm nhanh hơn thần thông, đó là căn cứ vào thần thông của hàng nhị thừa và phàm phu.
Luận Tỳ-bà-sa ghi: “Thần túc nhanh hơn, là nói thần thông của Đức Phật”.
Môn thứ năm: Thân trung ấm thấy nhau không đồng.
Luận Câu-xá ghi: “Nếu thân trung ấm cùng sinh vào một cõi thì nhất định sẽ thấy nhau. Nếu người có thiên nhãn thanh tịnh, do tu pháp tứ đế mà chứng được Đạo loại trí, người này sẽ thấy chỗ thụ sinh của thân trung ấm. Nếu là thiên nhãn do phúc báo mà có được thì không thấy, vì sắc chất của thân trung ấm rất vi tế”.
Tát-bà-đa bộ ghi: “Nếu thân trung ấm cùng thụ sinh trong cõi người thì sẽ thấy nhau. Điều này là chắc chắn. Nhưng nó không thấy được thân trung ấm ở cõi khác. Nếu người tu tập mà có thiên nhãn thuộc Đạo loại trí, thì có thể thấy thân trung ấm. Còn thiên nhãn do phúc báo mà có thì không thể thấy được thân trung ấm, vì nó vi tế hơn loại sắc chất khác”.
Bộ Chính lượng ghi: “Thân trung ấm ở cõi trời đều thấy được thân trung ấm của năm đường. Thân trung ấm ở cõi người thì thấy được thân trung ấm bốn đường dưới, trừ thân trung ấm cõi trời. Cứ như thế, lần lượt trừ các cõi cao hơn, cho đến thân trung ấm của địa ngục, không thấy thân trung ấm của bốn cõi trên, chỉ thấy thân trung ấm ở địa ngục mà thôi”.
Môn thứ sáu: thân trung ấm có lớn nhỏ.
Luận Câu-xá ghi: “Thân trung ấm như đứa trẻ sáu bảy tuổi, nhưng hiểu biết lanh lợi. Thân trung ấm của bồ-tát giống như vị thiếu niên khoẻ mạnh, đầy đủ các tướng lớn nhỏ. Thế nên, tuy mang thân trung ấm, nhưng khi vào thai thì ánh sáng chiếu khắp vạn Câu-chi cõi Diêm-phù-đề”.
XXIX.9. Cúng tế
Trộm nghe: Giá trị của vàng ngọc khác nhau, nhưng mọi người đều cho đó là vật báu. Giáo nghĩa của Lão và Khổng sai biệt, nhưng tất cả mọi người đều tuân theo. Lẽ nào Khổng Tử sinh ở nước ta mà lại muốn thờ ông ấy làm thầy, còn Đức Phật ở nơi xa xăm mà có lòng muốn lìa bỏ. Sự việc vô cùng bức thiết, nên tôi trình bày lẽ đúng sai, sáng tối chứ không tự quyết định.
Khổng Tử qua đời , khắc tượng thờ nghìn năm nơi miếu mạo; Đức Phật dựng linh tháp thờ kính muôn đời. Đó là muốn cho người thấy hình thì tưởng nhớ, thấy tượng thì hồi tâm, trọng thầy và trung vua, đều cùng một nghĩa. Đến như ông Đinh Lan buộc lưng kính thờ tượng mẹ bằng gỗ. Ông Vô Tận cởi chuỗi ngọc dâng lên cúng tháp Phật Đa Bảo. Suy tìm việc xưa mờ mịt, nhớ đến thuở ban sơ xa xăm, thật có rất nhiều người noi theo, nhưng cũng không vượt ra ngoài nghĩa lý.
Lại xét trong kinh Lễ: [181c] “Bậc thiên tử thì có bảy miếu, các vua chư hầu có năm miếu, đại phu và khanh sĩ đều có thứ bậc. Thiên gọi là thần, tế trời ở gò tròn. Địa gọi là kỳ, nên tế đất ở đầm vuông. Nhân gọi là quỷ, nên cúng tế ở tông miếu. Rồng thì có công làm mưa, trâu có công dụng kéo cày. Do đó, đều được lập hình tượng ở làng xóm, phố chợ, gốc cây, cổng thành. Huống chi Phật là thầy của ba cõi, cha mẹ của bốn loài, có oai đức được muôn ức người tôn kính, giới hạnh thanh cao làm khuôn phép cho chúng sinh. Cho nên người thiện đều hướng về, như trăm sông đều đổ về biển cả, ánh sáng rực rỡ bao trùm, như mặt trời mặt trăng ở giữa các vì sao. Nước Nhục-chi giữ lại di ảnh, nước Ma-kiệt-đà để thân tro, xá-lợi được lưu bố rộng rãi, xây tháp thờ ở tinh xá Kì-hoàn . Các thánh hiền nương đây mà được phúc lớn, kẻ tôn quý nhờ đó mà an ổn”.
Kinh Trường a-hàm ghi: “Tất cả nhà cửa của người dân, các đường phố, ngõ hẻm, bờ ruộng, lò mổ, chợ quán, cho đến núi đồi đều có quỷ thần ở. Các loài quỷ thần đều được đặt tên theo chỗ ở.
Con người mới sinh ra đều có quỷ thần theo hộ vệ. Những người sắp chết quỷ thần thâu lấy tinh khí. Dù chỉ một người hay trăm nghìn người làm mười điều ác thì chỉ có một vị quỷ thần theo hộ vệ, còn người làm mười điều thiện cũng giống như vua của một nước được trăm nghìn người bảo vệ”.
Kinh Thập phương thí dụ ghi: “Tất cả quỷ thần trong trời đất đều biết được thọ mạng, tội và phúc của con người đang đến hoặc chưa đến, nhưng không thể làm cho con người sống thêm hoặc chết đi, cũng không thể khiến cho con người giàu sang hay nghèo khổ. Chúng chỉ muốn khiến cho con người làm ác, phạm giới sát. Rồi nhân lúc phúc của người ấy suy hao thì chúng làm cho cuồng loạn, nói về tội phúc, khiến cho con người thiết lễ cúng tế chúng” (Nên biết, nếu chỉ biết cúng tế quỷ thần suông mà cầu phúc hiện tại và tương lai thì khó đạt được)
Trong kinh Phổ diệu ghi: “Lúc bấy giờ, ngài Ca-diếp dùng kệ thưa Đức Phật:
Nhớ lại việc cúng tế,
Trải qua tám mươi năm,
Thờ thần gió, lửa, nước,
Nhật, nguyệt và núi, sông,
Đêm ngày không biếng trễ,
Lòng không nghĩ việc khác,
Cuối cùng chẳng được gì,
Gặp Phật mới an ổn”.
Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Ngày xưa, có bà-la-môn ngày đêm cúng bái miếu thờ trời.
Vị trời hỏi:
– Ông muốn cầu điều gì?
Bà-la-môn đáp:
– Nay tôi muốn làm chủ ngôi miếu thờ trời này.
Vị trời nói:
– Đằng kia có một đàn trâu, ông hãy đến hỏi con đi đầu tiên thử xem.
[182a] Bà-la-môn liền đến hỏi:
– Hiện nay ngươi cảm thấy như thế nào? Là khổ hay vui?
Trâu đáp:
– Tôi rất khổ! Hai bên sườn luôn bị đau rát, lưng bị tổn thương, đeo gông, kéo xe chở nặng, không có thời gian nghỉ ngơi.
Bà-la-môn lại hỏi:
– Vì sao ngươi làm thân trâu này?
Trâu đáp:
– Ngày xưa, tôi làm chủ miếu thờ trời, tự ý lấy vật trong miếu dùng, nên sau khi mạng chung đọa làm thân trâu, chịu nhiều đau khổ.
Sau khi nghe nói như thế bà-la-môn trở lại chỗ cũ. Vị trời liền hỏi:
– Nay ông muốn làm chủ miếu thờ trời nữa không?
Bà-la-môn đáp:
– Tôi biết việc này rồi, thật lòng không dám làm nữa!
Vị trời nói:
– Người làm điều thiện hay ác thì tự sẽ nhận lấy quả báo.
Bà-la-môn nghe rồi liền sám hối tội lỗi, tu các pháp lành, sửa đổi lỗi lầm xưa”.
Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Ngày xưa, có một ông lão, nhà rất giàu có. Vì muốn ăn thịt, nên ông ta tìm cách nói dối, chỉ vào cái cây ở đầu ruộng mà bảo các con:
– Sở dĩ hôm nay gia đình chúng ta giàu có đều nhờ ân đức của thần cây này. Nay các con nên bắt một con dê trong đàn làm thịt để cúng tế.
Bấy giờ, các người con vâng lời, liền giết một con dê cúng tế để trả ơn và lập miếu thờ thần ngay gốc cây. Sau đó, người cha mạng chung, theo nghiệp đã tạo, liền sinh vào trong bầy dê nhà mình. Đến lúc muốn cúng tế thần cây, các người con bắt một con dê làm thịt thì bắt nhằm con dê mà cha mình thụ sinh. Lúc sắp bị giết, con dê gào khóc và nói: ‘Cây này không có thần linh gì đâu! Vì ngày xưa ta muốn ăn thịt, nên nói dối cho các con cúng tế, để cùng nhau ăn thôi. Nay một mình gánh chịu, đền trả tội lỗi đời trước’.
Bấy giờ, có vị a-la-hán đi khất thực ngang qua, thấy cha của những người này chết đọa làm thân dê, vị a-la-hán liền cho người chủ mượn đạo nhãn để tự quan sát. Biết được con dê đó chính là cha mình, lòng vô cùng đau khổ, họ liền chặt cây thần đó, rồi sám hối tội lỗi, tu phúc, không còn giết hại chúng sinh nữa”.
Kinh Ưu-bà-tắc giới ghi: “Đức Phật dạy:
– Có thuyết cho là người con tu pháp lành, cha làm việc ác, thì nhờ người con tu pháp lành mà người cha không đọa vào ba đường ác. Điều đó không đúng. Vì sao? Vì ba nghiệp thân, khẩu, ý đều khác nhau. Nếu người cha chết bị đọa làm ngạ quỷ, người con vì cha làm phúc, người cha sẽ hưởng được phúc đó. Nếu người ấy sinh lên cõi trời thì không còn nghĩ đến những vật trong loài người. Vì sao? Vì cõi trời đã đầy đủ những vật báu vi diệu. Nếu đọa vào địa ngục chịu các sự đau khổ, không còn rảnh rỗi để nhớ nghĩ gì, cho nên không hưởng được phúc ấy. [182b] Sinh vào loài người hay súc sinh cũng giống như vậy.
Vì sao chỉ riêng loài ngạ quỷ hưởng được? Do chúng vốn tham lam, bỏn xẻn, nuối tiếc nên đọa làm ngạ quỷ, song lúc đã thọ thân ngạ quỷ chúng thường ăn năn tội lỗi xưa, luôn nhớ nghĩ muốn được thụ hưởng, vì thế chúng được hưởng. Nếu người được cầu phúc đã sinh vào các đường khác mà quyến thuộc của họ còn đọa trong loài ngạ quỷ thì cũng đều hưởng được. Vì thế, người trí nên khuyên mọi người vì loài ngạ quỷ mà làm phúc” (Đại ý kinh Chính pháp niệm cũng giống ở đây).
Có người hỏi:
– Nếu cúng tế thì ai thụ hưởng?
Đáp: Hễ cúng tế nơi nào thì quỷ thần ở đó thụ hưởng. Nếu gần rừng thì thần cây ở đó thụ hưởng. Các trường hợp như ở nhà, sông, suối, giếng, núi rừng, gò đống cũng giống như vậy. Người cúng tế cũng được phúc. Vì sao? Vì họ khiến cho những kẻ thụ hưởng sinh tâm vui mừng. Do phúc đức cúng tế này mà bảo vệ được tính mạng và tài sản của họ.
Nếu nói giết chúng sinh để cúng tế mà được phúc, điều này không đúng. Vì sao? Vì ở thế gian chưa thấy ai gieo hạt y-lan[6] mà mọc cây chiên-đàn bao giờ. Nếu giết thân mạng chúng sinh mà được phúc đức, điều đó không bao giờ có.
Nếu muốn cúng tế thì nên dùng hương thơm, hoa quả, sữa, bơ để cúng. Nếu vì người chết mà làm phúc thì có ba thời điểm: tháng giêng mùa xuân; tháng năm mùa hạ; tháng chín mùa thu.
Nếu đem các thứ cần dùng như phòng nhà, ngọa cụ, thuốc men, vườn, rừng, ao, giếng, voi, ngựa, trâu, dê bố thí cho người khác, thì sau khi mạng chung sẽ được phúc. Tùy theo vật bố thí được thụ dụng lâu hay mau mà phúc đức theo đó mà sinh. Phúc theo người đó như bóng theo hình.
Hoặc có thuyết: Sau khi chết thì mất tất cả. Điều này không đúng. Vì sao? Vì vật hư hoại không thể sử dụng sẽ tiêu mất trong sớm tối, còn thân mạng thì không phải mất là hết.
Luận Tỳ-bà-sa ghi: “Vì loài ngạ quỷ mà làm phúc, ngạ quỷ được ăn uống, thân chúng ta cũng tăng thêm lợi ích. Như người có mùi hôi thì được thơm, người xấu trở thành đẹp”.
Kinh Ưu-bà-tắc giới lại ghi: “Thức ăn uống của các loài ngạ quỷ không giống nhau, có loài ăn máu mủ, có loài ăn phân dơ. Nhưng khi được bố thí thì tất cả vật thí biến thành thức ăn ngon. Nếu loài ngạ quỷ thụ sinh vào các nơi khác, khi người thân bố thí cho họ, ngạ quỷ kia do nghiệp lực, từ xa biết được, sinh tâm vui mừng. Hoặc sinh trở lại trong nhà mình chịu các quả báo khổ đau, hàng thân quyến bố thí cho họ, ngạ quỷ đích thân thấy được, nên sinh lòng vui mừng”.
[182c] Luận Tỳ-bà-sa ghi: “Có người cầu tiền tài một cách phi pháp, đến khi được rồi thì lại tham tiếc, không muốn cho người thân của mình, huống gì người ngoài? Vì không có tâm bố thí, nên lúc mạng chung họ bị đọa vào loài ngạ quỷ, ở trong hầm xí dơ bẩn bên cạnh nhà mình. Những người thân của họ biết vậy rất đau khổ và nghĩ: ‘Người kia chất chứa tài vật, bản thân không dám tiêu xài, lại không bố thí cho người’. Vì đau khổ nên họ muốn mời những bà con, bạn bè, bậc tri thức, sa-môn, bà-la-môn đến để cúng dường các thức ăn uống.
Bấy giờ, ngạ quỷ thấy vật của người thân bố thí thì tưởng là của mình và nghĩ: ‘Những tài vật này do ta gom chứa, nay đem ra bố thí cho người khác’. Họ rất vui mừng, sinh lòng kính tin ruộng phúc. Nếu sinh vào những đường khác, họ không hưởng được. Dù người chết không hưởng được phúc, nhưng người tu tạo phúc cho người chết sẽ được nhiều lợi ích, giống như khởi lòng từ thì mình sẽ được phúc”.
Luận Đại trí độ ghi: “Như người khởi lòng từ bi nhớ nghĩ chúng sinh, muốn cho họ đều được vui vẻ. Tuy chúng sinh không được vui vẻ, nhưng người nhớ nghĩ cũng được phúc rất lớn. Nếu người không thích bố thí, dù sinh lên cõi trời hay đắc thánh quả cũng vẫn bị thiếu y phục và thức ăn uống”.
Kinh Ưu-bà-tắc giới ghi: “Người trì giới tuy không thích bố thí, dù chứng quả A-la-hán nhưng vẫn không tránh khỏi nạn khổ đói khát. Nếu thích bố thí, tuy đọa vào loài ngạ quỷ, súc sinh cũng thường được no đủ”.
Kinh Vị tằng hữu ghi: “Có vị vua hỏi Đức Phật:
– Tiên vương của tôi phụng thờ ngoại đạo, thường bố thí để cầu phúc của cõi Phạm thiên. Công đức như thế, tiên vương của tôi sinh vào cõi trời nào?
Đức Phật đáp:
– Tiên vương nay chịu quả báo bị đọa vào địa ngục. Vì sao? Vì tiên vương bố thí không nhằm thời gian thích hợp, không gặp thiện tri thức, không có phương tiện khéo léo, cho nên dù tu tạo công đức, vẫn không tránh khỏi tội, nhưng công đức bố thí ấy vẫn không mất. Sau khi vua chịu tội xong mới hưởng phúc. Nên biết tội và phúc không lẫn lộn. Tiên vương có năm nghiệp ác nên bị đọa vào địa ngục: một, kiêu mạn, tật đố, không luận tội nặng hay nhẹ đều xử phạt, không có tâm nhẫn nhục; hai, tham lam của cải, vật báu, phân xử không công bằng, khiến cho thiên hạ oán hận; ba, ham vui chơi, săn bắn, làm nhân dân khốn khổ, tổn hại sinh mạng chúng sinh; bốn, tham đắm nữ sắc, được mới chán cũ, sủng ái không công bằng, dẫn đến mọi người oán hận; năm, phá giới”.
Dùng đoạn văn này để minh chứng, thì biết được việc thờ tà và tu phúc chiêu cảm thiện, ác khác nhau, quả báo khổ và vui không lẫn lộn. Lẽ nào bậc lợi căn, học nhiều, chính tín tam bảo mà chiêu cảm quả khổ ư?
[183a] Kinh Duy vô tam-muội ghi: “Thiện nam tử! Người muốn cầu đạo tu thiền, trước hết phải chấm dứt vọng niệm. Người sống ở đời, sở dĩ tu hành không đắc đạo là do họ ngồi thiền mà tâm nhiều tạp niệm. Niệm này qua thì niệm kia đến, một ngày một đêm có đến tám ức bốn nghìn vạn niệm sinh khởi, niệm niệm không dừng. Nghĩ một niệm thiện cũng được quả báo tốt, khởi một niệm ác sẽ bị quả báo xấu, giống như âm vang đáp tiếng, như bóng theo hình. Cho nên thiện ác, tội phúc đều khác nhau”.
Kinh Trung a-hàm ghi: “Thân quyến vì người chết mà bố thí và cúng tế, nếu họ sinh vào loài ngạ quỷ thì hưởng được, còn sinh các đường khác thì không hưởng được. Vì mỗi loài đều có thức ăn nuôi mạng sống khác nhau. Nếu người thân không sinh vào trong loài ngạ quỷ thì người bố thí cũng được phúc. Cho đến người thí chết, thụ sinh trong sáu đường thì vật bố thí thường theo người đó. Người do phúc trì giới mới được làm người, nhưng nhất định phải nhờ các phúc khác trợ giúp”.
Kinh Tùy nguyện vãng sinh ghi: “Vì người chết mà làm phúc, trong bảy phần công đức, người chết hưởng được một phần, sáu phần còn lại thuộc về người đang làm phúc”.
Kinh Quán đỉnh ghi: “A-nan thưa Đức Phật:
– Nếu người qua đời được đưa vào trong núi vắng hoặc xây lăng mộ chôn cất thì linh hồn họ có ở trong đó không?
Đức Phật đáp:
– Cũng có mà cũng không. Nếu khi còn sống, người này không gieo trồng căn lành, không biết tam bảo, nhưng không làm điều thiện để hưởng phúc, không tạo việc ác để chịu tai ương, lại không có thiện tri thức làm phúc cho họ, thì thần hồn vẫn ở trong lăng mộ, chưa có chỗ để thụ sinh. Thế nên, ta nói thần hồn ở trong đó.
Nếu khi còn sống, tạo nhiều phúc thiện, siêng năng tu đạo, họ được sinh lên cõi trời Ba Mươi Ba hưởng phúc, hoặc sinh vào nhà giàu sang ở thế gian, theo nghiệp thụ sinh vào bất cứ nơi nào, nên nói là không ở trong đó. Hoặc người này lúc còn sống thờ cúng tà đạo, không tin chính pháp , sống bằng nghề không đúng chính pháp, nịnh hót, dối người nên bị đọa trong loài ngạ quỷ, súc sinh, chịu sự đau khổ, trải qua nhiều kiếp trong địa ngục, cho nên nói là không ở trong lăng mộ.
Hoặc khi thân thể, xương cốt chưa tan rã, thì còn linh hồn. Lúc xương cốt hủy hoại thì linh hồn liền biến đi, không còn năng lực, cũng không thể gieo họa hoặc ban phúc cho người khác. Về linh hồn chưa biến, như có người lúc còn sống không tạo phúc, lại làm việc tà ác, nịnh hót nên sau khi chết đọa làm quỷ thần, hoặc làm tinh linh của cây cối hay những vật khác, không được hưởng phúc trời, địa ngục cũng không dung chứa. Cho nên, dẫu chết, nhưng vẫn phiêu bạt trong thôn xóm, [183b] không có thức ăn, kinh động mọi người, lại biến hiện những thân hình quái dị, khiến mọi người sợ hãi, hoặc dựa vào yêu mị, tà sư tạo phúc. Con người vì cầu phúc, mong được sống lâu, nên ngu si tà kiến, giết hại chúng sinh để cúng tế, khi chết sẽ bị đọa vào ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh không có ngày ra khỏi. Như thế, há không cẩn thận sao?
Trong nhà nếu có người sắp mạng chung, người thân nên đốt hương, thắp đèn sáng liên tục, treo tràng phan, bảo cái trên cột chùa tháp, đọc tụng kinh Phật suốt hai mươi mốt ngày. Vì sao? Vì thân trung ấm của người chết nhỏ như đứa trẻ, tội phúc chưa định, người thân nên vì họ mà tu phúc để cầu cho thần thức người chết sinh về vô lượng cõi nước ở mười phương. Nhờ công đức này nhất định được vãng sinh. Người này lúc sống tạo nhiều nghiệp ác, lẽ ra phải rơi vào trong tám nạn, song nhờ công đức đốt đèn, treo tràng phan mà được giải thoát.
Hoặc người chết có nguyện được sinh vào nhà cha mẹ ở phương xa, nhưng thụ sinh chậm, nhờ công đức đốt đèn, treo tràng phan nên được nhanh chóng, không còn sinh trở lại trong tám nạn nữa. Khi được thụ sinh rồi, cha mẹ nên tu tạo phúc cho con. Người con này không bị loài tà mị, quỷ quái làm hại, đồng thời dòng tộc được giàu sang. Cho nên phải tu tạo công đức phúc thiện đốt đèn, treo tràng phan.
Lại nữa, trong bốn chúng có người sắp chết hay đã chết. Ngày đó, thân quyến làm lá phan màu vàng treo trên cây, khiến cho người chết được phúc, xa lìa các khổ trong tám nạn, sinh vào cõi nước thanh tịnh của chư Phật trong mười phương. Treo tràng phan, bảo cái cúng dường thì sẽ đạt được như ý nguyện, cho đến thành tựu quả Bồ-đề.
Tràng phan chuyển theo gió, đến khi nát vụn như bụi. Gió thổi bụi bay khắp nơi, thì phúc đó vô lượng. Lúc lá phan mới lay chuyển thì phúc báo làm Chuyển luân thánh vương, cho đến khi gió thổi phan nát vụn như bụi bay đi thì phúc báo làm vị vua nhỏ. Lại đốt bốn mươi ngọn đèn chiếu sáng đến các nơi tối tăm, chúng sinh đau khổ đều nhờ ánh sáng này mà được thấy nhau. Do phúc này cứu giúp, tất cả chúng sinh đều chấm dứt sự đau khổ”.
Kinh Tịnh độ tam-muội ghi: “Vào những ngày bát vương[7], trời Đế Thích và ba mươi hai vị quan trấn giữ, Tứ Trấn thiên vương, Ty Mạng, Ty Lục, Diêm-la đại vương, Bát Vương sứ giả đi tuần khắp nơi. Cứ đến ngày mười lăm và ba mươi mỗi tháng, bốn vị thiên vương đem những việc làm thiện, ác của mọi người tâu lên để xét xử. Đồng thời, địa ngục cũng sai các tiểu vương đi tuần tra khắp nơi, ai phạm tội thì ghi chép lại. Phạm tội trước ngày trai bát vương, nếu người đó phúc nhiều thì được cứu, sẽ an ổn, không bị hại, nhờ phúc lớn nên được ân xá. Sau ngày trai bát vương, nếu tái phạm nhiều thì tuổi thọ giảm sút, bị ghi tên, xác định giờ, ngày, tháng, năm chết sẽ đưa xuống địa ngục. Y theo văn thư ghi chép, Địa ngục vương liền sai quỷ ngục lục tìm tên của những người đó. [183c] Quỷ ngục không có lòng từ, nên dù người chưa đến ngày chết, chúng xúi giục họ làm điều ác, khiến cho mạng sống mau hết. Người có phúc nhiều thì tuổi thọ càng tăng, được trời sai thiện thần bảo vệ, đồng thời truyền xuống địa ngục xóa hết tội danh, miễn tử, được sống, sau khi chết được sinh lên cõi trời”.
Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Bấy giờ, quỷ thần ở đồng hoang thưa Đức Phật:
– Chúng tôi thường ăn thịt chúng sinh, nay Ngài bảo không sát sinh thì chúng tôi ăn gì?
Đức Phật bảo quỷ vương:
– Chỉ cần các ngươi không giết hại chúng sinh, Ta sẽ bảo đệ tử bố thí cho các ngươi. Cho đến khi Phật pháp diệt, nhờ thần lực của Ta, các ngươi sẽ được no đủ.
Nghe xong, quỷ vương rất vui mừng, liền thụ trì năm giới cấm của Phật. Cho nên, kinh Niết-bàn ghi: “Đức Phật dạy các đệ tử thanh văn, phải xuất sinh cho loài quỷ thần sống nơi hoang vắng”.
Lại nữa, luận Đại trí độ ghi: “Loài quỷ thần được người thí cho một ít thức ăn uống, thức ăn uống ấy có thể biến thành nhiều, khiến chúng được no đủ”.
Kinh Thí dụ ghi: “Đức Phật cùng A-nan đang đi dạo bên bờ sông, thấy năm trăm ngạ quỷ vừa đi vừa hát ngâm nga; lại thấy mấy trăm người tốt đi ngang qua khóc than.
Bấy giờ, A-nan bạch Đức Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn! Tại sao loài ngạ quỷ ca múa, còn loài người vì sao lại khóc?
Đức Phật đáp:
– Bởi vì gia đình, con cái, quyến thuộc của loài ngạ quỷ làm phúc cho chúng, nên chúng được giải thoát, do đó mà họ ca múa. Còn gia đình, con cái, quyến thuộc của những người tốt kia chỉ lo sát sinh, không tạo phúc đức, về sau luôn bị lửa lớn của địa ngục bức bách, do đó họ khóc”.
Kinh Túc nguyện quả báo ghi: “Ngày xưa, có hai vợ chồng bà-la-môn rất giàu có, của cải vô số, nhưng không có con thừa kế. Đến lúc sắp mạng chung, họ cùng bảo nhau: ‘Mỗi người sẽ nuốt tiền để làm vốn liếng’. Theo phong tục của đất nước này, người chết không được chôn cất, chỉ để ở gốc cây. Mỗi người nuốt năm mươi đồng tiền vàng, đến khi thân thể tan rã thì tiền lộ ra. Bấy giờ, trong nước có vị hiền giả đi ngang qua thấy, thương cảm rơi lệ, xót xa cho sự tham lam, keo kiệt của họ, bèn lấy số tiền đó về làm phúc. Ông thỉnh Phật và chúng tăng đến, dùng hết số tiền mua sắm thức ăn bày trước Đức Phật để cúng dường, xưng tên và chú nguyện. Khi ấy, hai vợ chồng bà-la-môn keo kiệt kia đang chịu khổ trong loài ngạ quỷ, nhờ hiền giả thỉnh bốn chúng cúng dường, nên họ được sinh lên cõi trời. Lúc được sinh lên cõi trời rồi, liền được thiên nhãn, biết được việc làm phúc đó, nên từ trên cõi trời bay xuống, hóa thành một thiếu niên, làm vị đàn-việt giúp đỡ chúng tăng.
Đức Phật dạy, vị thiếu niên này là đàn-việt chân chính. Đức Phật nói pháp cho vị thiếu niên nghe thì người này liền thấy được lý đạo, vị hiền giả kia cũng như thế. Chúng tăng hoan hỷ cũng đều được sinh lên cõi trời”.
Kinh Bách dụ ghi: “Ngày xưa, các vị khách buôn muốn ra biển tìm của báu, nên cần một người dẫn đường. Họ liền tìm được một người dẫn đường, rồi cùng nhau xuất phát. Đến đồng vắng, ở đó [184a] có một ngôi miếu thờ trời, cần giết một người để cúng tế, mới đi qua được. Khi ấy, những người khách buôn cùng suy nghĩ và nói: ‘Chúng ta đều là người thân thì làm sao giết được, trong đây chỉ có người dẫn đường này có thể dùng để tế trời mà thôi.’ Thế là họ liền giết người dẫn đường tế trời. Khi tế trời xong, họ bị lạc trên biển không biết đi đường nào, hết sức khổ sở, cuối cùng họ đều bị chết.
Tất cả người đời cũng lại như thế, nếu muốn ra biển tìm châu báu thì phải tu mười điều thiện để làm người dẫn đường. Ngược lại, không giữ mười điều thiện vĩnh viễn không có ngày ra khỏi đường sinh tử mênh mông, phải trôi lăn trong ba đường, chịu khổ mãi mãi. Như những thương nhân kia muốn ra biển lớn mà giết mất người dẫn đường, nên không biết lối vào bờ, cuối cùng mắc nạn chết.
Tụng rằng:
Nhà lớn là quán trọ,
Mang nghiệp ắt bị lôi,
Hộp ngọc không nhìn đến,
Đài vàng cũng chẳng cần!
Tiếng vang đến chốn xa,
Bóng rêu bám thân tùng,
Đâu thể giữ mười niệm,
Chỉ chạy theo bốn duyên,
Ảo thuật tạo muôn trạng,
Khéo biến thành nhiều thân,
Người ngu tranh nhân, ngã,
Đâu chẳng cho là chân,
Người mê nghi càng chặt,
Kẻ trí biết huyễn thân,
Thăng, trầm, khổ, vui khác,
Luống cúng, khóc trời xanh.
————————————————
[1] Bốn đảo (tứ điên đảo 四顛倒; S:viparyāsa): phàm phu không biết tướng chân thật của cõi mê, nên đối với sự vô thường của thế gian chấp là thường, đối với các khổ chấp cho là vui, đối với vô ngã cho là ngã, đối với bất tịnh cho là tịnh.
[2] Mười triền (thập triền 十纏): mười thứ phiền não do nương vào tham sân si mà khởi, tương ưng với tâm nhiễm ô, tạo các ác hạnh, trói buộc chúng sinh trong sinh tử. Đó là vô tàm, vô quí, tật, san, hối, miên, điệu cử, hôn trầm, phẩn, phú.
[3] Hoài Nam Tử 淮南子 (Cg: Lã Lãm, Lã Bất Vi): một vị tướng đời Tần.
[4] Kinh Bộ 經部 (Gđ: kinh Lượng bộ): một trong mười tám bộ của Tiểu thừa. Sau khi Đức Phật niết-bàn bốn trăm năm, người của phái Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ chỉ lấy kinh làm chính.
[5] Chủng tử 種子 (S: bīja): hạt giống có công năng sinh ra tất cả pháp hữu lậu, vô lậu và tất cả pháp hữu vi. Đó là nhân duyên chính của pháp hữu vi, thực thể của nhân duyên. Theo Duy thức học, đó là chủng tử trong thức a-lại-da.
[6] Y-lan 伊蘭 (S:eraṇḍa): một loại thực vật, thuộc họ Tương hà, sống ở nam Ấn Độ, bên ngoài hơi giống cây lau, thân cứng, lá dài như thanh kiếm, lá chính xếp song song, hoa hình chiếc mũ, màu trắng có lông tơ, quả hình trứng, vỏ có những lằn ngang, hạt màu tro xám, mùi thơm nồng, giống như uất kim, gừng, dùng làm thuốc.
[7] Ngày bát vương (bát vương nhật 八王日): tám ngày. Đó là lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông, đông chí. Tám ngày này là ngày chuyển giao của chư thần và ngày âm dương trong trời đất, nên ai trì trai giới thì được tăng thọ và được lợi ích.