Tịnh Độ Thập Nghi Luận Giảng Ký
凈土十疑論講記
Đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả đại sư thuyết
Pháp sư Trí Viên giảng giải
隋天台智者大師說
智圓法師講解
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Nguồn: Di Đà Nguyện Hải

6. Mối nghi thứ sáu

          (Luận) Đệ lục nghi, vấn: Thiết linh cụ phược phàm phu, đắc sanh bỉ quốc, tà kiến, tam độc đẳng thường khởi, vân hà đắc sanh bỉ quốc, tức đắc Bất Thoái, siêu quá tam giới?          

          ()第六疑。問:設令具縛凡夫得生彼國,邪見三毒等常起,云何得生彼國,即得不退,超過三界?

          (Luận: Mối nghi thứ sáu, hỏi: Giả sử phàm phu đầy dẫy triền phược được sanh về cõi ấy, nhưng tà kiến, Tam Độc v.v… thường dấy lên, lẽ nào sanh về cõi ấy liền đắc Bất Thoái, vượt trỗi tam giới?)

          Đối phương lại nêu câu hỏi: Dẫu cho thần lực của Phật có thể nhiếp trì phàm phu đầy dẫy triền phược sanh về Tịnh Độ, cũng chỉ là thay đổi nơi chốn. Tục ngữ có câu: “Giang sơn dễ đổi, bổn tánh khó dời”. Rốt cuộc kẻ ấy chẳng đoạn phiền não, hễ gặp cảnh duyên, tà kiến, Tam Độc v.v… sẽ thường hiện hành. Lẽ nào hễ sanh về cõi ấy, sẽ đắc Bất Thoái Chuyển, vượt thoát tam giới ư? Đấy vẫn là chuyện khó thể khiến cho kẻ khác tin tưởng nổi!

          Điều này bộc lộ người ấy vẫn chẳng nhận biết đặc điểm của pháp môn Tha Lực. Kinh Anh Lạc nói [phải mất] một vạn kiếp mới đắc Bất Thoái, mà ở đây thì cứ sanh về Tịnh Độ, sẽ liền đắc Bất Thoái, khiến cho người ta chẳng thể không hoài nghi. Họ cảm thấy thành quả quá lớn, quá thần tốc! Có thể nào như vậy hay chăng? Vì sao vừa đến đó bèn đắc Bất Thoái? Chẳng phải là vẫn thường dấy khởi tà kiến, phiền não v.v… đấy sao? Hễ chúng dấy lên, sẽ rơi vào trong cái nhân của tam giới, tất nhiên sẽ phải thọ cái quả tam giới! Lẽ đâu nói là “vượt khỏi tam giới” cho được? Hễ chúng dấy lên, sẽ lui sụt vào luân hồi, lui sụt xuống Tiểu Thừa v.v… lẽ nào nói là Bất Thoái cho được? Đấy là nỗi nghi hoặc của họ!

          Trả lời: Đấy là vì chẳng nhận biết thấu triệt sự sai khác giữa hai thế giới, cho nên mới có nỗi ngờ vực này! Tuy cùng là chúng sanh có chủng tử phiền não, nhưng sống trong những thế giới khác nhau, sẽ có trạng huống thoái chuyển và chẳng thoái chuyển khác biệt rành rành. Dùng thí dụ nông cạn, rõ thấy để nói, khi chúng ta ở gần bậc thầy trọn đủ đức hạnh, sẽ phát hiện [chính mình] chẳng phát tác ác niệm, thiện niệm dễ tăng tấn. Khi ở gần bậc thầy tà ác, sẽ phát hiện [chính mình] tăng trưởng phiền não, thiện niệm diệt mất. Đấy là tác dụng của Tăng Thượng Duyên. Do lý này có thể suy ra, Thoái Chuyển hay Bất Thoái không chỉ do bản thân của cái nhân [gây nên Bất Thoái], mà còn phụ thuộc Tăng Thượng Duyên bên ngoài. Nếu một thế giới đã đạt đến mức triệt để chẳng có duyên gây thoái chuyển, trọn khắp mọi lúc luôn luôn là Tăng Thượng Duyên cho điều thiện, dẫu là kẻ có thể thoái chuyển, cũng sẽ chẳng xuất hiện hiện tượng thoái chuyển; bởi lẽ, nhân và duyên [gây thoái chuyển] chẳng đầy đủ! Nếu một thế giới đầy ắp các duyên gây thoái chuyển, [các duyên ấy] luôn luôn chẳng gián đoạn, dẫu cho có các thiện căn, cũng khó thể giữ cho chẳng lui sụt, sẽ nhận biết [người tu hành trong thế giới ấy] thường là “một tiến, chín lùi”, tu đạo cực khó đạt tới địa vị Bất Thoái Chuyển.

          Dùng lý lẽ như vậy để quan sát, chọn lựa, sẽ có thể xác nhận: Tu đạo trong uế độ do có khá nhiều duyên gây thoái chuyển, đúng như kinh Anh Lạc đã nói: “Kẻ tự lực [tu tập] phải trải qua một vạn kiếp thì mới có thể đạt đến địa vị Bất Thoái Chuyển”. Nhưng thế giới Cực Lạc do được Phật lực gia bị, trọn khắp toàn là tịnh duyên, hoặc Tăng Thượng Duyên cho điều thiện. Vì thế, hễ vãng sanh, sẽ đạt đến địa vị Bất Thoái Chuyển. Đối với chuyện này, [Trí Giả đại sư] đã chia thành hai đoạn để thuyết minh:

          1) Vãng sanh cõi ấy do có năm nhân duyên mà Bất Thoái.

          2) Do Bất Thoái dài lâu, [chúng sanh trong cõi Cực Lạc] đều đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

6.1. Vãng sanh cõi ấy do có năm nhân duyên mà Bất Thoái

          (Luận) Đáp: Đắc sanh bỉ quốc, hữu ngũ nhân duyên Bất Thoái. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, A Di Đà Phật đại bi nguyện lực nhiếp trì, cố đắc Bất Thoái. Nhị giả, Phật quang thường chiếu, cố Bồ Đề tâm thường tăng tấn Bất Thoái. Tam giả, thủy, điểu, thụ lâm, phong thanh, nhạc hưởng, giai thuyết Khổ, Không, văn giả thường khởi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm, cố Bất Thoái. Tứ giả, bỉ quốc thuần chư Bồ Tát dĩ vi lương hữu, vô ác duyên cảnh, ngoại vô thần, quỷ, ma, tà, nội vô Tam Độc đẳng, phiền não tất cánh bất khởi, cố Bất Thoái. Ngũ giả, sanh bỉ quốc tức thọ mạng vĩnh kiếp, cộng Bồ Tát, Phật tề đẳng, cố Bất Thoái dã.

          ()答:得生彼國,有五因緣不退。云何為五?一者阿彌陀佛大悲願力攝持,故得不退。二者佛光常照,故菩提心常增進不退。三者水鳥樹林,風聲樂響,皆說苦空。聞者常起念佛念法念僧之心,故不退。四者彼國純諸菩薩以為良友,無惡緣境。外無神鬼魔邪,內無三毒等。煩惱畢竟不起,故不退。五者生彼國即壽命永劫,共菩薩佛齊等,故不退也。

          (Luận: Đáp: Được sanh vào cõi ấy, bèn có năm nhân duyên Bất Thoái. Những gì là năm? Một là được nguyện lực đại bi của A Di Đà Phật nhiếp trì, cho nên được Bất Thoái. Hai là Phật quang thường chiếu; vì thế, Bồ Đề tâm thường tăng tấn, chẳng thoái chuyển. Ba là nước, chim, rừng cây, tiếng gió, tiếng nhạc đều nói Khổ, Không, kẻ nghe thấy thường dấy lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Vì thế, Bất Thoái. Bốn là cõi nước ấy thuần là các Bồ Tát làm bạn lành, chẳng có cảnh duyên ác. Ngoài thì chẳng có thần, quỷ, ma, tà, trong thì chẳng có Tam Độc v.v… phiền não rốt ráo chẳng dấy lên, vì thế Bất Thoái. Năm là sanh vào cõi ấy, thọ mạng sẽ là muôn kiếp dài lâu, bằng với Phật, Bồ Tát, cho nên Bất Thoái).

          Trong năm nhân duyên [vừa kể trên đây], bốn thứ đầu là Biệt, điều thứ năm là Tổng. Ở đây, nếu quan sát cảnh duyên theo các phương diện chủ và bạn, y báo và chánh báo v.v… sẽ phát hiện toàn là các nhân duyên để tăng tấn. Vì thế, chẳng thoái chuyển. Ba điều đầu là nói do được Phật nhiếp trì cho nên chẳng thoái chuyển, điều thứ tư nhằm nói do được Bồ Tát nhiếp trì, cho nên chẳng thoái chuyển. Đại bi nguyện lực của Phật một mực nhiếp trì cái tâm của người vãng sanh, khiến cho họ chẳng thoái chuyển. Đã thế, do Phật quang thường chiếu, cho nên Bồ Đề tâm tăng tấn Bất Thoái. Thêm nữa, do thần lực của Phật mà biến hiện nước, chim, rừng cây, tiếng gió, tiếng nhạc đều luôn tuyên nói các pháp như Khổ, Không v.v… Người nghe thấy sẽ dấy lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, một mực noi theo pháp đạo, chẳng thoái chuyển. Lại nữa, tiếp xúc các đạo hữu đều là Bồ Tát, chẳng có ác duyên, đều là nhân duyên tăng thượng pháp, chẳng thể khởi phiền não; cho nên chẳng thoái chuyển. Hoặc là nói theo hai phương diện là y báo và chánh báo thì: Trông thấy tướng thanh tịnh của các vị Phật, Bồ Tát, nghe âm thanh thanh tịnh gia trì, cho nên chẳng thoái chuyển. Trong khí thế giới1, các thứ quang minh, nước, hương, hoa v.v… hễ thấy, nghe, nhớ nghĩ, tiếp xúc, sẽ đều tăng thượng thiện căn Bồ Đề. Do vậy, chẳng thoái chuyển. Điều thứ năm là Tổng: Do sanh vào thế giới Cực Lạc, sống lâu tới vô lượng kiếp giống như chư Phật, Bồ Tát, những nhân duyên tăng thượng trên đây niệm nào cũng đều chẳng gián đoạn, lại có thể giữ liên tục trong vô lượng kiếp, đương nhiên là [chúng sanh trong cõi Cực Lạc] quyết định chẳng thoái chuyển.

          Nói chung, trong quốc độ Cực Lạc, quan sát theo hai phương diện Thời và Xứ. Đối với Xứ (處, nơi chốn) thì có chữ Biến (遍, trọn khắp), trọn khắp tất cả đều là Tăng Thượng Duyên cho Pháp. Đối với Thời thì có chữ Hằng (恒, thường hằng), niệm nào cũng không ngừng tăng thượng. Chẳng hạn như nói về âm thanh, trong bản dịch đời Đường của kinh A Di Đà (bản dịch của ngài Huyền Trang) có nói: Nghe âm thanh vi diệu của âm nhạc trong cõi nước, các ác phiền não thảy đều tiêu diệt, vô lượng thiện pháp lần lượt tăng trưởng, mau chóng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Lại nói tới quang minh, sắc, hương v.v… của hoa sen mầu nhiệm, khiến cho người trông thấy sẽ khoan khoái, vui vẻ, chẳng tham đắm, tăng trưởng vô lượng vô số công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Nghe các loài chim chóc do đức Phật hóa hiện thuyết pháp, sẽ có thể dùng vô lượng công đức do niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng huân tu thân mình. Nghe các âm thanh phát ra do gió thổi khua động lưới mành và cây báu… đều dấy lòng nghĩ nhớ vô lượng công đức của Tam Bảo.

          Suy từ sự việc giống như thế, bèn phát hiện: Trọn khắp cõi ấy là Tăng Thượng Duyên tăng trưởng đạo tâm. Đã thế, trong khoảng thời gian [từ lúc vãng sanh] cho đến lúc thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, thọ mạng chẳng gián đoạn, một mực xuất hiện các tướng Tăng Thượng. Do vậy gọi là “đạt đến địa vị Bất Thoái Chuyển”. Do vậy, sẽ thấy tánh chất tột bậc thù thắng của đạo này. Do vì ứng hợp với Phật lực của A Di Đà Phật, chỉ cần vãng sanh, trong vòng mấy năm ngắn ngủi, sẽ đạt được thành quả của việc tu hành vạn kiếp mà chỉ cậy vào tự lực trong uế độ, tốc độ hết sức mau chóng! Do vậy có thể biết: Pháp môn Tịnh Độ là Đốn Giáo, những pháp môn khác như kinh Anh Lạc [đã dạy] là Tiệm Giáo, chẳng thể nói đánh đồng như nhau được!

          Nói thêm đôi chút về nguyên nhân khiến cho phiền não rốt cuộc chẳng thể dấy lên được. Giống như cái kiềng ba chân, hễ khuyết một chân, nó sẽ chẳng đứng vững được. Trong Câu Xá Luận có nói: Ba thứ là chủng tử phiền não, cảnh để duyên theo và suy nghĩ phi lý cùng hòa hợp thì phiền não mới dấy lên. Hễ thiếu một điều, phiền não sẽ chẳng thể dấy lên được. Dẫu phàm phu vãng sanh còn có chủng tử phiền não, nhưng trong cõi ấy chẳng có cảnh duyên dẫn khởi các phiền não sanh xuất. Hơn nữa, đối với trụ xứ, niệm nào cũng đều là suy nghĩ về pháp, phù hợp Chân Đế Vô Ngã, chẳng thể sanh khởi phiền não nữa. Hoặc như Du Già Sư Địa Luận đã nói, phiền não có sáu cái nhân, ba điều trên đây (chủng tử phiền não, cảnh sở duyên, suy nghĩ phi lý) chính là cơ sở, còn có [ba cái nhân nữa là] ổi tạp (猥雜, tạp loạn rối ren), ngôn giáo, và quán tập (慣習, huân tập thành thói quen). Cũng tức là gặp phải những vị thầy ác, ngôn luận ác, chính mình không ngừng huân tập thành thói quen, sẽ dẫn tới sanh khởi phiền não. Nhưng trong thế giới Cực Lạc chẳng có thầy ác và ngôn luận ác. Đến đó, cũng sẽ chẳng có Quán Tập phiền não, mà là Tức Diệt Phiền Não. Đấy là dùng Lý để chứng thực.

6.2. Do Bất Thoái dài lâu nên người trong cõi Cực Lạc đều đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn

          (Luận) Tại thử ác thế, nhật nguyệt đoản xúc, kinh A-tăng-kỳ kiếp, phục bất khởi phiền não, trường thời tu đạo, vân hà bất đắc Vô Sanh Nhẫn dã. Thử lý hiển nhiên, bất tu nghi dã.

          ()在此惡世日月短促。經阿僧祇劫復不起煩惱,長時修道,云何不得無生忍也?此理顯然,不須疑也。

          (Luận: Trong đời ác này, năm tháng ngắn ngủi. [Còn trong cõi Cực Lạc, thọ mạng] trải qua A-tăng-kỳ kiếp, chẳng dấy lên phiền não, tu đạo lâu ngày, lẽ đâu chẳng đắc Vô Sanh Nhẫn ư? Lý này hiển nhiên, chẳng cần ngờ nữa!)

          Ở đây, [đại sư] dùng phương thức so sánh theo từng cặp để hiển lộ sự thù thắng của thế giới Cực Lạc. Trong thế giới ác này của chúng ta, đời người ngắn ngủi, chớp mắt đã sang đời sau, thường gặp nỗi khó khăn khiến [hành giả] chẳng thể tiếp tục tu đạo. Đời này rất khó khăn mới tu hành được đôi chút, chuyển sang đời sau lại quên sạch bách, phải làm lại từ đầu, hoặc là lại bị thoái đọa. Còn trong thế giới Cực Lạc, do thọ mạng đạt đến A-tăng-kỳ kiếp, trong lúc ấy, lại chẳng dấy lên phiền não, tu đạo lâu ngày; như vậy thì lẽ nào chẳng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn? Đạo lý này hết sức rõ ràng, chẳng cần phải hoài nghi nữa!

          Cũng dùng ba cái nhân để chứng thực:

          1) Do bất cứ thời hay xứ nào cũng đều là duyên Bất Thoái, cho nên chẳng có bất cứ lui sụt nào.

          2) Do bất cứ thời hay xứ nào cũng đều trọn đủ Tăng Thượng Duyên, cho nên luôn tiến bộ.

          3) Sự liên tục ấy kéo dài tới vô lượng kiếp. Do như vậy, chỉ có tiến, chẳng lùi. Niệm nào cũng đều liên tục, lẽ nào chẳng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn? Chắc chắn [chúng sanh trong cõi Cực Lạc] đều đạt đến Vô Sanh Pháp Nhẫn, đều đạt tới thành Phật. Do vậy, hễ vãng sanh thì sẽ là một trăm phần trăm được giải thoát, một trăm phần trăm dự vào địa vị Bất Thoái, một trăm phần trăm viên mãn Phổ Hiền hạnh nguyện, một trăm phần trăm đều cùng thành Phật. Cũng vì vậy, cõi Phật ấy xuất hiện vô số Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát. Đấy là kết quả của Nhất Thừa đại bi nguyện hải.

7. Mối nghi thứ bảy

          (Luận) Đệ thất nghi, vấn: – Di Lặc Bồ Tát, nhất sanh bổ xứ, tức đắc thành Phật. Thượng phẩm Thập Thiện, đắc sanh bỉ xứ, kiến Di Lặc Bồ Tát, tùy tùng hạ sanh tam hội chi trung, tự nhiên nhi đắc thánh quả, hà tu cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ da?

          ()第七疑。問:彌勒菩薩一生補處即得成佛,上品十善得生彼處見彌勒菩薩。隨從下生三會之中,自然而得聖果。何須求生西方淨土耶?

          (Luận: Mối nghi thứ bảy, hỏi: – Di Lặc Bồ Tát nhất sanh bổ xứ liền được thành Phật. Bậc thượng phẩm Thập Thiện được sanh về chỗ ấy (Nội Viện cung trời Đâu Suất), gặp Di Lặc Bồ Tát, theo Ngài hạ sanh, trong ba hội tự nhiên đắc thánh quả, cần gì phải cầu sanh về Tây Phương Tịnh Độ?)

          Trong phần trước đã nói phàm phu cậy vào Phật lực có thể cao thăng Tịnh Độ, lại còn đắc Bất Thoái; vì thế, mong cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ở đây lại có nghi vấn: Vì sao nhất định phải chọn lấy Tây Phương? Di Lặc Bồ Tát là bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, sắp thành Phật; người Thượng Phẩm Thập Thiện có thể sanh vào Nội Viện của trời Đâu Suất gặp Di Lặc Bồ Tát, theo Di Lặc Bồ Tát hạ sanh nhân gian. Trong ba hội Long Hoa, tự nhiên chứng đắc thánh quả. Do sanh vào Đâu Suất Nội Viện và đắc thánh quả đều là chuyện phàm phu có thể thực hiện thành công, lẽ nào ắt cần phải cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ nữa?

          Trả lời: Sanh lên Đâu Suất hay là sanh về Cực Lạc tùy thuộc căn khí của cá nhân như thế nào. Trong lịch sử, vào thời cổ có những vị như Huyền Trang, Đạo Tuyên v.v… cận đại thì có Thái Hư, Hư Vân v.v… các Ngài đều lên đến Đâu Suất Nội Viện. Nhưng nói theo phía bọn phàm phu chúng ta, phải suy lường điểm then chốt, đối với hai phương diện trọng yếu là vãng sanh và chứng quả Bất Thoái, hãy lựa chọn con đường nào có xác suất thành công cao hơn? Đấy là nói theo phương diện tương ứng căn cơ. Sau khi đã cân nhắc như trong phần sau, chúng ta sẽ nhận định chính mình phải nên sanh về Tây Phương Tịnh Độ.

          (Luận) Đáp: – Cầu sanh Đâu Suất, diệc viết văn đạo, kiến Phật, thế dục tương tự, nhược tế tỷ giảo, đại hữu ưu liệt, thả luận nhị chủng.

          ()答:求生兜率,亦曰聞道見佛,勢欲相似。若細比校大有優劣,且論二種。

          (Luận: Đáp: – Cầu sanh Đâu Suất thì cũng là nói đến chuyện “nghe đạo, thấy Phật”, tình thế gần như tương tự [như tu Di Đà Tịnh Độ], nhưng nếu so sánh cặn kẽ, sẽ có sự hơn kém to lớn. Hãy luận theo hai điều sau đây).

          Trả lời: Cầu sanh Đâu Suất cũng là nói đến chuyện nghe pháp và thấy đức Bổ Xứ Phật, thoạt nhìn thì tương tự như vãng sanh Tây Phương. Nhưng so sánh cặn kẽ, hai đằng sẽ có ưu khuyết khá lớn. Vẫn là nói theo căn tánh của chúng ta thì có hai điều sai biệt to lớn:

          1) Vãng sanh Tây Phương có xác suất thành công cao, do có phương tiện đặc biệt của Phật nhiếp thọ.

          2) Vãng sanh Tây Phương thì toàn bộ đều đắc Bất Thoái Chuyển, được thành thánh quả. Do lẽ này mà cầu sanh Tây Phương.

7.1. Vãng sanh Tây Phương có xác suất thành công cao, do có phương tiện đặc biệt của Phật nhiếp thọ

          (Luận) Nhất giả, túng trì Thập Thiện, khủng bất đắc sanh. Hà dĩ đắc tri? Di Lặc Thượng Sanh Kinh vân: “Hành chúng tam-muội, thâm nhập Chánh Định, phương thỉ đắc sanh”, cánh vô phương tiện tiếp dẫn chi nghĩa. Bất như A Di Đà Phật bổn nguyện lực, quang minh lực, đản hữu niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả.

          ()一者縱持十善恐不得生,何以得知?彌勒上生經云:「行眾三昧,深入正定,方始得生。」更無方便接引之義。不如阿彌陀佛本願力、光明力,但有念佛眾生,攝取不捨。

          (Luận: Một là dẫu trì Thập Thiện, sợ chẳng được sanh [lên trời Đâu Suất]. Vì sao mà biết? Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Hành các tam-muội, thâm nhập Chánh Định thì mới được sanh”, tức là không có ý nghĩa “phương tiện tiếp dẫn”. Chẳng như sức bổn nguyện và sức quang minh của A Di Đà Phật [gia trì], chỉ cần có chúng sanh niệm Phật, Ngài sẽ nhiếp giữ, chẳng buông bỏ).

          Vì sao nói “vãng sanh Tây Phương dễ dàng hơn, xác suất thành công càng cao hơn”? Có thể thông qua sự cân nhắc trên thực tế và thí dụ để chứng thực điều này. Trước hết, hãy xem tình hình vãng sanh Đâu Suất. Dẫu hành trì Thập Thiện, chỉ sợ chẳng nhất định có thể sanh về đó. Do đâu mà thấy được [điều này]? Di Lặc Thượng Sanh Kinh2 nói: “Tu hành các thứ tam-muội, thâm nhập Chánh Định thì mới có thể sanh về”, có nghĩa là: Trừ những điều kiện trên đây ra, chẳng còn có phương tiện tiếp dẫn nào khác! Chẳng như pháp môn Di Đà, do sức bổn nguyện và sức quang minh của A Di Đà Phật, chỉ cần có người niệm Phật, Phật liền nhiếp thủ chẳng bỏ, có phương tiện thù thắng tột bậc!

          Cũng có nghĩa là điều kiện để vãng sanh Tây Phương chẳng cao! Chỉ cần niệm A Di Đà Phật, dẫu chẳng đắc các thứ tam-muội, vẫn không sao cả! Đã được quang minh của Phật nhiếp thọ, đấy là do sức bổn nguyện của Phật quyết định. Ngài đã thành tựu vô lượng quang, chiếu trọn khắp vô-ương-số thế giới để nhiếp thủ chẳng bỏ chúng sanh niệm Phật. Do sức công đức của đại nguyện và đại hạnh từ vô lượng kiếp đến nay, Ngài thành tựu quang minh, quang minh là phổ biến, sẽ có thể chiếu thấu chúng ta. Đã vậy, yêu cầu của Phật là chỉ cần chúng sanh tin tưởng, niệm Ngài, bèn được Ngài nhiếp thọ. Xét theo hàm nghĩa của sự nhiếp thọ, chúng sanh hết sức dễ dàng được A Di Đà Phật nhiếp thọ.

          (Luận) Hựu Thích Ca Phật thuyết cửu phẩm giáo môn phương tiện tiếp dẫn, ân cần phát khiển sanh bỉ Tịnh Độ. Đản chúng sanh năng niệm Di Đà Phật giả, cơ cảm tương ứng, tất đắc sanh dã. Như thế gian mộ nhân năng thọ mộ giả, cơ hội tương đầu, tất thành kỳ sự.

          ()又釋迦佛說九品教門方便接引,殷勤發遣生彼淨土。但眾生能念彌陀佛者,機感相應必得生也。如世間慕人能受慕者,機會相投必成其事。         

          (LuậnHơn nữa, Phật Thích Ca nói giáo môn cửu phẩm, [lập ra] phương tiện tiếp dẫn, ân cần khơi gợi, đưa [chúng sanh] sanh về cõi Tịnh Độ ấy. Chỉ cần chúng sanh có thể niệm A Di Đà Phật, cơ cảm tương ứng, ắt được vãng sanh. Như trong thế gian tuyển mộ người, người được tuyển mộ mà phù hợp cơ hội, ắt sẽ thành công trong chuyện ấy).

          Lại xét theo góc độ vãng sanh, trong Quán Kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói giáo môn chín phẩm, có các thứ hạnh môn từ hạ hạ cho đến thượng thượng. Từ đó có thể thấy, nhân sĩ thuộc các tầng lớp cao hay thấp đều có thể được nhiếp thọ bởi biển nguyện của A Di Đà Phật, cho đến kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác, chỉ cần hồi tâm niệm Phật, đều được Phật nhiếp thọ, có thể thấy được ý nghĩa thuận lợi tột bậc [của pháp môn này]. Vì thế, Phật Thích Ca ân cần tiễn đưa chúng sanh sang thế giới Cực Lạc, vì vãng sanh dễ dàng, xác suất thành công cao, cũng tức là chúng sanh chỉ cần có đủ tín nguyện, niệm A Di Đà Phật thì sẽ cơ cảm tương ứng, chắc chắn có thể vãng sanh. Nói theo phương diện dễ dàng thì sẽ giống như việc chiêu mộ người trong thế gian, ai bằng lòng chấp nhận chiêu mộ, sẽ có thể đạt được các lợi ích ấy. Nếu có tín tâm, bằng lòng tiếp nhận sự tuyển mộ, thì cơ hội giữa đôi bên (tức người tuyển mộ và kẻ chấp nhận được tuyển mộ) sẽ ứng hợp, sẽ nhất định có thể thành tựu việc này!

          Ví như nhà từ thiện tổ chức đại hội Vô Già Bố Thí, chỉ cần kẻ nào bằng lòng đến nhận, nhất định sẽ ban cho người ấy các thứ cần dùng. Cũng giống như vậy, chỉ cần có tín tâm đối với A Di Đà Phật, bằng lòng đến thế giới Cực Lạc, nhất định sẽ thành tựu chuyện ấy, đạt được điều mong muốn. Điều kiện đã được hạ xuống đến mức độ thấp nhất. Có thể khẳng định điều này! Nói theo phía các hạng phàm phu đầy dẫy triền phược, vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ dễ dàng nhất, xác suất thành công cao nhất. Do đó, chúng ta chọn lựa cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.

7.2. Vãng sanh Tây Phương thì toàn bộ đều đắc Bất Thoái Chuyển, được thành thánh quả. Do lẽ này mà cầu sanh Tây Phương

          Điều này phải dựa trên sự sai biệt sau khi vãng sanh hai cõi để phán đoán. Từ đó, sẽ quyết định con đường của chính mình.

          (Luận) Nhị giả, Đâu Suất thiên cung thị Dục Giới, thoái vị giả đa. Vô hữu thủy, điểu, thụ lâm, phong thanh, nhạc hưởng, chúng sanh văn giả, tất niệm Phật phát Bồ Đề tâm, phục diệt phiền não. Hựu hữu nữ nhân, giai trưởng chư thiên ái trước ngũ dục chi tâm. Hựu thiên nữ vi diệu, chư thiên đam ngoạn, bất năng tự miễn. Bất như Di Đà Tịnh Độ, thủy, điểu, thụ lâm, phong thanh, nhạc hưởng, chúng sanh văn giả, giai sanh niệm Phật, phát Bồ Đề tâm, phục diệt phiền não. Hựu vô nữ nhân, Nhị Thừa chi tâm, thuần nhất Đại Thừa thanh tịnh lương bạn. Vị thử, phiền não ác nghiệp tất cánh bất khởi, toại chí Vô Sanh chi vị. Như thử tỷ giảo, ưu liệt hiển nhiên, hà tu trí nghi dã.

          ()二者兜率天宮是欲界,退位者多。無有水鳥樹林風聲樂響,眾生聞者,悉念佛發菩提心伏滅煩惱,又有女人皆長諸天愛著五欲之心。又天女微妙諸天耽玩不能自勉,不如彌陀淨土水鳥樹林風聲樂響,眾生聞者,皆生念佛發菩提心伏滅煩惱。又無女人二乘之心,純一大乘清淨良伴。為此煩惱惡業畢竟不起,遂至無生之位。如此比校,優劣顯然,何須致疑也。

          (Luận: Hai là cung trời Đâu Suất là Dục Giới, kẻ thoái thất địa vị đông đảo. Chẳng có nước, chim, rừng cây, tiếng gió, tiếng nhạc khiến cho chúng sanh nghe thấy đều niệm Phật, phát Bồ Đề tâm, chế phục, diệt trừ phiền não. [Đâu Suất] lại có nữ nhân, đều khiến cho cái tâm yêu đắm ngũ dục của chư thiên tăng trưởng. Hơn nữa, thiên nữ vi diệu, chư thiên đắm đuối, chẳng thể tự gắng sức được. Chẳng như Tịnh Độ của Phật Di Đà, nước, chim, rừng cây, tiếng gió, tiếng nhạc khiến cho chúng sanh nghe thấy, đều sanh lòng niệm Phật, phát Bồ Đề tâm, chế phục, diệt trừ phiền não. Lại chẳng có nữ nhân và cái tâm Nhị Thừa, thuần là bạn bè tốt lành Đại Thừa thanh tịnh. Vì lẽ này, phiền não ác nghiệp rốt cuộc chẳng khởi, bèn đạt tới địa vị Vô Sanh. So sánh như thế, [sẽ thấy] sự hơn kém [giữa Cực Lạc và Đâu Suất] rành rành, chẳng cần phải nghi ngờ nữa!)

          Trước hết, hãy nhìn theo tỷ lệ đắc Bất Thoái. Cung trời Đâu Suất là Dục Giới, kẻ lui sụt địa vị rất nhiều. Nơi đó chẳng có nước, chim, rừng cây, tiếng gió, tiếng nhạc lan truyền pháp âm vi diệu, chúng sanh hễ nghe thấy [những âm thanh ấy] đều có thể niệm Phật, phát Bồ Đề tâm, chế phục, diệt trừ phiền não, chẳng được hưởng loại gia bị này! [Đâu Suất] lại có nữ nhân khiến cho cái tâm yêu chấp ngũ dục của chư thiên tăng trưởng. Hơn nữa, hình tướng đẹp đẽ, âm thanh v.v… của thiên nữ đều rất vi diệu, chư thiên đắm đuối yêu mến, chẳng thể tự khích lệ chính mình tu hành. Những chuyện này đều đã nói rõ: Sanh về trời Đâu Suất sẽ dễ bị mê trong ngũ dục, thoái chuyển Bồ Đề.

          Lại xem [tình hình] vãng sanh Tây Phương. Trong Tịnh Độ của Phật Di Đà, nước, chim, rừng cây, tiếng gió, tiếng nhạc đều lan truyền pháp âm vi diệu, chúng sanh vừa nghe thấy đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, phát Bồ Đề tâm, chế phục, diệt trừ phiền não. Lại chẳng có nữ nhân và cái tâm Nhị Thừa, thuần nhất là bầu bạn Đại Thừa thanh tịnh. Do có những trợ duyên ấy duy trì, dìu dắt, phiền não ác nghiệp rốt ráo chẳng thể dấy lên. Vì thế, có thể đạt tới địa vị Vô Sanh. So sánh như thế, [liền biết] vãng sanh Cực Lạc Tịnh Độ sẽ là một trăm phần trăm Bất Thoái. Lại còn hễ sanh đến đó, liền đắc Bất Thoái. Hai đằng sai khác rất rõ ràng, có gì đáng để hoài nghi nữa chăng? Do vậy, nói theo phía chúng ta, hãy nên chọn lựa vãng sanh thế giới Cực Lạc.

          (Luận) Như Thích Ca Phật tại thế chi thời, đại hữu chúng sanh kiến Phật bất đắc thánh quả giả, như hằng sa. Di Lặc xuất thế diệc nhĩ, đại hữu bất đắc thánh quả giả, vị như Di Đà Tịnh Độ, đản sanh bỉ quốc dĩ, tất đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, vị hữu nhất nhân thoái lạc tam giới, vị sanh tử nghiệp phược dã.

          ()如釋迦佛在世之時,大有眾生見佛不得聖果者如恒沙。彌勒出世亦爾,大有不得聖果者。未如彌陀淨土,但生彼國已,悉得無生法忍,未有一人退落三界,為生死業縛也。

          (Luận: Như thuở Phật Thích Ca tại thế, có rất nhiều chúng sanh tuy thấy Phật mà chẳng đắc thánh quả, số ấy nhiều như cát sông Hằng. Phật Di Lặc xuất thế cũng vậy, có rất nhiều người chẳng đắc thánh quả. Chẳng bằng Tịnh Độ Di Đà, chỉ sanh về cõi ấy, thảy đều đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, chẳng có người nào lui sụt, rơi vào tam giới, bị nghiệp sanh tử trói buộc).

          Kế đó, xét theo phương diện chứng quả, cũng có sự hơn kém khác biệt. Như thuở Phật Thích Ca tại thế, có rất nhiều chúng sanh gặp đức Phật mà chẳng đắc thánh quả, số lượng nhiều như cát sông Hằng. Phật Di Lặc xuất thế cũng giống như vậy, có rất nhiều người chẳng đắc thánh quả. Chẳng như Tịnh Độ Di Đà, chỉ cần sanh về cõi ấy, toàn bộ đều đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, chẳng có một ai thoái thất, đọa lạc tam giới, bị nghiệp sanh tử trói buộc. Sanh về Di Đà Tịnh Độ, xác suất chứng quả là một trăm phần trăm! Vì thế, chọn lựa vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ.

          Dưới đây, lại dùng trường hợp thực tế để chứng minh điều này.

          (Luận) Hựu văn Tây Quốc Truyện vân: – Hữu tam Bồ Tát, nhất danh Vô Trước, nhị danh Thế Thân, tam danh Sư Tử Giác. Thử tam nhân khế chí đồng sanh Đâu Suất, nguyện kiến Di Lặc. Nhược tiên vong giả, đắc kiến Di Lặc, thệ lai tương báo. Sư Tử Giác tiền vong, nhất khứ sổ niên bất lai. Hậu Thế Thân vô thường, lâm chung chi thời, Vô Trước ngữ vân: “Nhữ kiến Di Lặc, tức lai tương báo”. Thế Thân khứ dĩ, tam niên thỉ lai. Vô Trước vấn viết: “Hà ý như hứa đa thời thỉ lai?” Thế Thân báo vân: “Chí bỉ thiên trung, thính Di Lặc Bồ Tát nhất tòa thuyết pháp, toàn nhiễu tức lai tương báo, vị bỉ thiên nhật trường, cố thử xứ dĩ kinh tam niên”. Hựu vấn: “Sư Tử Giác kim tại hà xứ?” Thế Thân báo vân: “Sư Tử Giác vị thọ thiên lạc, ngũ dục tự ngu, tại ngoại quyến thuộc, tùng khứ dĩ lai, tổng bất kiến Di Lặc”. Chư tiểu Bồ Tát sanh bỉ, thượng trước ngũ dục, hà huống phàm phu? Vị thử nguyện sanh Tây Phương, định đắc Bất Thoái, bất cầu sanh Đâu Suất dã.

   ()又聞西國傳云,有三菩薩,一名無著,二名世親,三名師子覺。此三人契志同生兜率願見彌勒,若先亡者得見彌勒誓來相報。師子覺前亡,一去數年不來,後世親無常,臨終之時無著語云:「汝見彌勒即來相報。」世親去已三年始來。無著問曰:「何意如許多時始來?」世親報云:「至彼天中,聽彌勒菩薩一坐說法,旋繞即來相報。為彼天日長故,此處已經三年。」又問:「師子覺今在何處?」世親報云:「師子覺為受天樂,五欲自娛在外眷屬,從去已來總不見彌勒。」諸小菩薩生彼尚著五欲,何況凡夫?為此願生西方定得不退,不求生兜率也。

          (Luận: Lại nghe bộ Tây Quốc Truyện chép rằng: – Có ba vị Bồ Tát, vị thứ nhất tên là Vô Trước, vị thứ hai tên là Thế Thân, vị thứ ba tên là Sư Tử Giác. Ba người ấy đồng lòng nguyện cùng sanh lên Đâu Suất, nguyện thấy Di Lặc. Nếu người nào mất trước, được thấy đức Di Lặc, thề sẽ trở lại báo tin. Sư Tử Giác chết trước, chết đã mấy năm, chẳng thấy trở lại. Về sau, Thế Thân vô thường; khi lâm chung, Vô Trước bảo rằng: “Ông thấy đức Di Lặc thì trở lại báo tin ngay!” Thế Thân mất rồi, ba năm sau mới quay lại. Vô Trước hỏi: “Vì sao lâu như vậy mới trở lại?” Thế Thân đáp: “Tôi đến cõi trời ấy, nghe Di Lặc Bồ Tát nói xong một bài pháp, đi nhiễu Ngài một vòng rồi trở về báo tin ngay. Do ngày trên cõi trời ấy dài, cho nên trong xứ này đã trải qua ba năm”. Lại hỏi: “Sư Tử Giác nay đang ở chỗ nào?” Thế Thân đáp: “Sư Tử Giác đang hưởng sự vui trên cõi trời, tự vui sướng trong ngũ dục, còn ở chỗ quyến thuộc bên ngoài, từ lúc mất đcho đến nay, ông ta chưa hề gặp đức Di Lặc”. Các vị tiểu Bồ Tát sanh lên đó, còn đắm đuối ngũ dục, huống hồ phàm phu? Vì lẽ này, nguyện sanh về Tây Phương, chắc chắn đắc Bất Thoái, chẳng cầu sanh Đâu Suất).

          Lại nghe trong bộ Tây Quốc Truyện có chép: Có ba vị Bồ Tát là Vô Trước, Thế Thân, và Sư Tử Giác cùng lập chí nguyện, cùng sanh Đâu Suất, nguyện thấy Di Lặc Bồ Tát. Họ ước định nếu ai chết trước, gặp ngài Di Lặc, sẽ trở lại báo tin. Sư Tử Giác chết đầu tiên, mất đã mấy năm mà chẳng thấy trở lại. Sau đó, Thế Thân thị hiện vô thường; lúc lâm chung, Vô Trước dặn dò: “Ông gặp Di Lặc Bồ Tát sẽ đến báo tin nhé”. Thế Thân mất rồi, ba năm sau mới trở lại báo tin. Vô Trước hỏi: “Không ngờ phải lâu như vậy ông mới trở lại”. Thế Thân trả lời: “Tôi tới cõi trời đó, nghe Di Lặc Bồ Tát giảng xong một thời pháp, đi nhiễu Ngài rồi trở về báo tin ngay. Do thời gian trên cõi trời ấy rất dài, cho nên trong nhân gian đã là ba năm”. Vô Trước lại hỏi: “Sư Tử Giác nay đang ở đâu?” Thế Thân trả lời: “Sư Tử Giác đang hưởng thụ thiên lạc, ông ta đang vui đắm trong ngũ dục, còn ở trong các vị quyến thuộc tại ngoại viện. Từ lúc ông ta mất cho đến nay, vẫn chưa hề thấy Di Lặc Bồ Tát”. Như vậy thì hàng tiểu Bồ Tát sanh lên Đâu Suất còn đắm đuối ngũ dục, huống hồ phàm phu? Thấy rõ ràng tình hình này, bèn phát nguyện sanh về Tây Phương. Như thế thì chắc chắn sẽ đạt được địa vị Bất Thoái Chuyển, chẳng cần cầu [vãng sanh] Đâu Suất.

8. Mối nghi thứ tám

          (Luận) Đệ bát nghi, vấn: – Chúng sanh vô thỉ dĩ lai, tạo vô lượng nghiệp. Kim sanh nhất kỳ bất phùng thiện tri thức, hựu phục tác nhất thiết tội nghiệp, vô ác bất tạo. Vân hà lâm chung thập niệm thành tựu, tức đắc vãng sanh, xuất quá tam giới? Kết nghiệp chi sự, vân hà khả thông?

   ()第八疑。問:眾生無始已來,造無量業。今生一期不逢善知識,又復作一切罪業。無惡不造,云何臨終十念成就,即得往生出過三界,結業之事云何可通?

          (Luận: Mối nghi thứ tám, hỏi: – Chúng sanh từ vô thỉ đến nay đã tạo vô lượng nghiệp. Suốt cả đời này, chẳng gặp thiện tri thức, lại còn tạo hết thảy tội nghiệp, không điều ác nào chẳng tạo. Lẽ nào lâm chung mười niệm thành tựu liền được vãng sanh, vượt khỏi tam giới? Đối với các nghiệp đã kết, làm sao nói cho suông được?)

          Ở đây là nghi ngờ, chất vấn: Vì sao kẻ suốt đời tạo ác do mười niệm vãng sanh bèn vượt thoát tam giới? Nhân quả chẳng tương ứng! Cũng giống như vậy, chúng sanh từ vô thỉ đến nay đã tạo vô lượng nghiệp; đời này, trong khi chẳng gặp gỡ thiện tri thức, lại tạo hết thảy tội nghiệp, không chuyện ác nào chẳng làm, tội nghiệp rất nặng, đáng phải theo nghiệp nặng mà chuyển sanh vào trong các đường sanh tử cực ác! Lẽ nào lâm chung trọn đủ mười niệm “A Di Đà Phật” sẽ vượt thoát tam giới, vãng sanh Tịnh Độ? Định luật “thuận theo nghiệp mà kết thành cái quả [sẽ sanh trong đường nào]” làm sao dung thông cho được? Khi lâm chung, tùy theo nghiệp nặng hay nhẹ để quyết định chốn thọ sanh trong đời kế tiếp; đã là tội nghiệp nặng nề, mười niệm niệm Phật nhẹ bẫng, làm sao có thể ngay lập tức sanh về Tịnh Độ, vượt thoát tam giới cho được? Nhân quả chẳng phù hợp quá mức!

          Đối với nghi vấn ấy, bèn trả lời như thế này:

          1) Một là suốt đời tạo ác hoàn toàn chẳng thể phán định sức túc thiện [của kẻ ác ấy] yếu kém. Trái lại, do khi lâm chung, gặp thiện tri thức, mười niệm bèn thành tựu, cho thấy sức túc thiện mạnh mẽ.

          2) Hai là chẳng quyết định coi vô thỉ ác nghiệp là nặng, xem mười niệm lâm chung là nhẹ.

8.1. Suốt đời tạo ác hoàn toàn chẳng thể phán định sức túc thiện [của kẻ ác ấy] yếu kém. Trái lại, do khi lâm chung, gặp thiện tri thức, mười niệm bèn thành tựu cho thấy sức túc thiện mạnh mẽ

          (Luận) Đáp: – Chúng sanh vô thỉ dĩ lai, thiện ác nghiệp chủng đa thiểu cường nhược tịnh bất đắc tri. Đản năng lâm chung ngộ thiện tri thức, thập niệm thành tựu giả, giai thị túc thiện nghiệp cường, thỉ đắc ngộ thiện tri thức, thập niệm thành tựu. Nhược ác nghiệp đa giả, thiện tri thức thượng bất khả phùng, hà khả luận thập niệm thành tựu?

   ():眾生無始以來,善惡業種多少強弱並不得知,但能臨終遇善知識十念成就者,皆是宿善業強,始得遇善知識十念成就。若惡業多者,善知識尚不可逢,何可論十念成就?

(Luận: Đáp: – Chúng sanh từ vô thỉ đến nay, nghiệp chủng thiện, ác, nhiều, ít, mạnh, yếu, hoàn toàn chẳng biết. Chỉ là kẻ có thể khi lâm chung gặp thiện tri thức, mười niệm thành tựu thì đều là do có túc thiện nghiệp mạnh mẽ, cho nên mới được gặp gỡ thiện tri thức, mười niệm thành tựu. Nếu là kẻ ác nghiệp nhiều, thiện tri thức còn chẳng thể gặp, há có thể bàn đến chuyện mười niệm thành tựu chi nữa?)

          Chúng sanh từ vô thỉ tới nay, tình huống nhân duyên đặc biệt phức tạp! Nghiệp chủng thiện ác tích tập trong tâm mỗi loại nhiều hay ít, mạnh hay yếu, cũng chẳng có cách nào dựa theo biểu hiện nhất thời để luận đoán cho được! Một chúng sanh tạo tác rất nhiều ác nghiệp trong đời này, trong tâm điền của người ấy, nghiệp chủng thiện ác mỗi thứ nhiều hay ít, mạnh hay yếu, chúng ta chẳng có Túc Mạng Thông và Vi Tế Trí, cho nên hoàn toàn chẳng biết. Nhưng dùng cái quả để suy ra cái nhân, khi hạng người này lâm chung có thể gặp gỡ thiện tri thức, lại còn vừa được khuyên bảo bèn phát tâm dũng mãnh, bén nhạy, mười niệm bèn thành tựu, vượt khỏi tam giới. Đấy là biểu hiện của sức túc thiện nghiệp mạnh mẽ! Vì thế mới gặp thiện tri thức, lại còn mười niệm thành tựu. Nếu ác nghiệp nhiều, còn chẳng gặp được thiện tri thức, huống hồ mười niệm thành tựu ư?

          Loại người này đều là hạng căn tánh mạnh mẽ, nhạy bén, bất quá đời này vì tập khí vọng động, lập tức mê hoặc, một mực tạo ác, nhưng thiện căn của người ấy rất sâu, hễ gặp thiện tri thức bèn có thể hoàn toàn tỉnh ngộ, có thể chuyển biến rất nhanh, tâm có thể dấy khởi [ý nguyện vượt thoát tam giới, cầu sanh Tịnh Độ], hiển nhiên là thiện chủng tử từ đời trước mạnh mẽ. Nếu không, do căn tánh chậm lụt, kém cỏi, sẽ chẳng thể dấy khởi cái tâm. Dẫu được thiện tri thức khuyên lơn, vẫn chẳng có cách nào niệm được! Giả sử có niệm thì vẫn chẳng có cách nào dũng mãnh, bén nhạy. Trong cửa ải lâm chung khẩn yếu, thế mà có thể [thành tựu] dễ dàng như vậy, thật sự là bậc đại trượng phu! Hạng người này thuộc loại người có thiện chủng đời trước mạnh mẽ!

8.2. Chẳng quyết định coi vô thỉ ác nghiệp là nặng, xem mười niệm lâm chung là nhẹ

          [Phần này được] chia thành hai phần:

  1. Dùng đạo lý để chứng thực.
  2. Dùng thí dụ và thánh giáo để chứng thực.

8.2.1. Dùng đạo lý để chứng thực

          (Luận) Hựu nhữ dĩ vô thỉ dĩ lai ác nghiệp vi trọng, lâm chung thập niệm vi khinh giả, kim dĩ đạo lý tam chủng giảo lượng khinh trọng bất định, bất tại thời tiết cửu cận, đa thiểu. Vân hà vi tam? Nhất giả tại tâm, nhị giả tại duyên, tam giả tại quyết định.

          ()又汝以無始已來惡業為重,臨終十念為輕者。今以道理三種校量輕重不定,不在時節久近多少。云何為三?一者在心,二者在緣,三者在決定。

          (Luận: Lại vì ông coi ác nghiệp từ vô thỉ đến nay là nặng, mười niệm lúc lâm chung là nhẹ, nay dùng ba loại đạo lý để so sánh nhẹ nặng không nhất định, chẳng do thời gian lâu hay mau, ít hay nhiều. Những gì là ba? Một là tại tâm, hai là tại duyên, ba là tại quyết định).

          Quý vị lại cho rằng ác nghiệp đã tạo nhiều ngần ấy từ vô thỉ tới nay là nặng, lâm chung mười niệm niệm Phật là nhẹ, chuyện này không nhất định! Lý do của quý vị là thời gian từ vô thỉ đến nay đặc biệt dài, số lượng ác nghiệp đã tạo đặc biệt nhiều, còn thời gian mười niệm khi lâm chung đặc biệt ngắn ngủi, số lượng đặc biệt ít ỏi, [tức là] dùng thời gian lâu hay mau, số lượng nhiều hay ít để luận đoán nghiệp nặng hay nhẹ; thế nhưng điều này không nhất định. Do nguyên nhân nào? Vì nghiệp lực là tại tâm, tại duyên, tại quyết định. Nay dùng ba cái nhân ấy để cân nhắc, [sẽ thấy] mười niệm khi lâm chung chưa chắc đã là nhẹ.

          (Luận) Tại tâm giả, tạo tội chi thời, tùng tự hư vọng điên đảo sanh. Niệm Phật giả, tùng thiện tri thức, văn thuyết A Di Đà Phật chân thật công đức danh hiệu sanh. Nhất hư, nhất thật, khởi đắc tương tỷ? Thí như vạn niên ám thất, nhật quang tạm chí, nhi ám đốn diệt, khởi dĩ cửu lai chi ám bất khẳng diệt da?

          ()在心者,造罪之時,從自虛妄顛倒生。念佛者,從善知識聞說阿彌陀佛真實功德名號生。一虛一實豈得相比?譬如萬年暗室,日光暫至而暗頓滅,豈以久來之不肯滅耶?

          (Luận: Tại tâm: Khi tạo tội là từ hư vọng, điên đảo mà sanh. Niệm Phật thì là từ thiện tri thức nghe nói danh hiệu công đức chân thật của A Di Đà Phật mà sanh. Một đằng hư, một đằng thật, há so sánh được ư? Ví như nhà tối ngàn năm, ánh nắng mặt trời vừa tạm chiếu vào, tối tăm nhanh chóng diệt mất, há vì tối tăm đã lâu mà chẳng chịu diệt ư?)

          Trước hết, hãy nhìn vào trạng huống của nội tâm khi tạo nghiệp. Khi tạo tội là từ sự điên đảo hư vọng của chính mình mà sanh. Ví như chấp trước có ta, có sự vui sướng, vì để ta đạt được sự vui sướng mà chẳng nề hà thủ đoạn, tạo các ác nghiệp giết, trộm, dâm v.v… Đấy là từ chấp trước điên đảo, mê hoặc, phân biệt hư vọng mà sanh. Từ vô thỉ kiếp cho đến nay, chúng sanh một mực hãm trong trạng thái mê hoặc, điên đảo, giống như đang mơ một giấc mộng điên đảo. Nay đến lúc lâm chung, bỗng từ thiện tri thức được nghe danh hiệu công đức chân thật của A Di Đà Phật, ngay khi đó, người ấy khởi tâm giác ngộ. Giống như nhà tối ngàn năm, bỗng dưng xuất hiện ánh đèn sáng, chẳng vì tối tăm ngàn năm, nay quang minh trong sát-na sẽ chẳng thể phá trừ tối tăm! Dẫu u tối một ngàn năm, chỉ cần ánh đèn hiển hiện trong sát-na, sẽ ngay lập tức phá tan sự tối tăm chất chứa cả ngàn năm. Hoặc là ngủ say cả ngàn năm, bỗng dưng thức giấc, sẽ nhanh chóng diệt trừ giấc mê mộng cả ngàn năm! Giống như thế đó, lẽ nào cái tâm giác ngộ chẳng thể diệt trừ sự tối tăm si ám ư?

          (Luận) Tại duyên giả, tạo tội chi thời, tùng hư vọng si ám tâm, duyên hư vọng cảnh giới điên đảo sanh. Niệm Phật chi tâm, tùng văn Phật thanh tịnh chân thật công đức danh hiệu, duyên Vô Thượng Bồ Đề tâm sanh. Nhất chân, nhất ngụy, khởi đắc tương tỷ? Thí như hữu nhân bị độc tiễn trúng, tiễn thâm, độc sấm, thương cơ, phá cốt, nhất văn Diệt Trừ dược cổ, tức tiễn xuất, độc trừ, khởi dĩ tiễn thâm độc sấm nhi bất khẳng xuất dã?

          ()在緣者,造罪之時,從虛妄癡心,緣虛妄境界顛倒生。念佛之心,從聞佛清淨真實功德名號,緣無上菩提心生。一真一偽豈得相比?譬如有人被毒箭中,箭深毒滲傷肌破骨。一聞滅除藥鼓,即箭出毒除,豈以箭深毒滲而不肯出也?

          (Luận: Tại duyên là khi tạo tội, từ cái tâm si mê, tối tăm, hư vọng, duyên theo cảnh giới hư vọng điên đảo mà sanh. Cái tâm niệm Phật do nghe danh hiệu có công đức chân thật thanh tịnh của Phật, duyên theo tâm Vô Thượng Bồ Đề mà sanh. Một đằng chân, một đằng ngụy, há so sánh được ư? Ví như có người bị trúng tên độc, mũi tên cắm sâu, chất độc thấm đẫm, hư thịt, vỡ xương, vừa nghe tiếng trống thuốc Diệt Trừ, mũi tên liền rơi ra, chất độc trừ diệt, há vì tên cắm sâu, chất độc thấm đẫm mà mũi tên chẳng chịu rớt ra ư?)

          Lại xem sự sai biệt giữa tạo nghiệp và sở duyên của hai bên. Sở duyên có sức tác dụng. Khi tạo tội, bên trong là cái tâm hư vọng, điên đảo, si ám, bên ngoài thì duyên theo cảnh giới hư vọng, sanh khởi tâm thức tạo tác điên đảo. Còn cái tâm niệm Phật là do nghe danh hiệu có công đức thanh tịnh chân thật của Phật, dùng vạn đức hồng danh làm sở duyên mà sanh. Nhưng vạn đức hồng danh chính là tâm Vô Thượng Bồ Đề của Phật, mà cũng là cái tâm quang minh vô thượng, hóa thành tướng biểu thị là danh hiệu. Ngẫu Ích đại sư nói: “Danh hiệu Di Đà lấy pháp giới làm Thể. Quang thì theo chiều ngang trọn khắp mười phương, Thọ thì theo chiều dọc tột cùng ba đời. Ngang và dọc thấu triệt lẫn nhau chính là Pháp Giới Thể. Nêu lên cái Thể này làm thành danh hiệu Di Đà. Vì thế, danh hiệu Di Đà chính là Bổn Giác lý tánh của chúng sanh”. Sở duyên là “nam-mô A Di Đà Phật”, là tâm Vô Thượng Bồ Đề, là chân thật. Một đằng chân, một đằng ngụy, làm sao có thể so sánh cho được?

          Giống như có người bị trúng tên độc, tên xuyên thấu thịt xương, trúng độc rất sâu, nhưng vừa được nghe âm thanh của cái trống thuốc Diệt Trừ, ngay lập tức, mũi tên rớt ra, chất độc trừ diệt. Lẽ đâu vì mũi tên cắm sâu, trúng độc nghiêm trọng, mà chẳng thể trừ khử ư? Điều này cho thấy cái trống thuốc Diệt Trừ có sức nhổ tên, trừ độc. Người trúng độc duyên theo âm thanh đặc biệt ấy bèn có thể nhổ tên, trừ độc. Cũng giống như vậy, tuy hành giả từ vô thỉ đến nay duyên theo cảnh giới điên đảo, dấy lên rất nhiều nghiệp chướng độc tố, nhưng vừa nghe danh hiệu chân thật Vô Thượng Bồ Đề tâm của Như Lai, ngay lập tức có thể dẹp trừ, khiến cho tâm [người ấy] thoát khỏi tội chướng. Đây là sự khác biệt nơi sở duyên.

          (Luận) Tại quyết định giả, tạo tội chi thời, dĩ hữu gián tâm, hữu hậu tâm dã, niệm Phật chi thời, dĩ vô gián tâm, vô hậu tâm, toại tức xả mạng, thiện tâm mãnh lợi, thị dĩ tức sanh.

          ()在決定者,造罪之時。以有間心有後心也。念佛之時,以無間心無後心,遂即捨命,善心猛利是以即生。

          (Luận: Tại quyết định là khi tạo tội thì dùng cái tâm hữu gián, tâm hữu hậu. Khi niệm Phật, sử dụng cái tâm vô gián, tâm vô hậu, liền xả mạng, thiện tâm mạnh mẽ, nhạy bén, do vậy liền sanh).

          Thứ ba, nhìn theo xu thế quyết định. Lúc bình thường tạo tội, có cái tâm hữu gián, tức là có những cái tâm trái nghịch v.v… gây gián đoạn. Chẳng hạn như sau khi đã tạo [ác nghiệp] bèn hối hận, hoặc là do dự trong khi tạo, có hậu tâm, [tức là] khởi tâm sẽ tiếp tục tạo [cái nghiệp ấy] trong mai sau. Còn lâm chung mười niệm niệm Phật thì chẳng có các tâm khác gây gián đoạn, mà cũng chẳng có tâm tiếp tục tạo tác hành vi ấy trong mai sau. Trong khi ấy, [chỉ là] một niệm tâm mạnh mẽ, nhạy bén niệm Phật hòng vãng sanh, biểu lộ xu thế quyết định vậy.

8.2.2. Dùng thí dụ và thánh giáo để chứng thực

          (Luận) Thí như thập vi chi sách, thiên phu bất chế. Đồng tử huy kiếm, tu du lưỡng phân. Hựu như thiên niên tích sài, dĩ nhất đậu hỏa phần, thiểu thời tức tận.      

          ()譬如十圍之索千夫不制,童子揮劍須臾兩分。又如千年積柴,以一豆火焚,少時即盡。

          (Luận: Ví như sợi dây thừng to mười vòng ôm, ngàn người đàn ông chẳng thể bứt đứt được. Đứa trẻ vung gươm, khoảnh khắc thừng bèn đứt làm đôi. Lại như củi tích tụ ngàn năm, dùng một đốm lửa bé tí để đốt, trong một thời gian ngắn đã cháy sạch).

          Một là thí dụ về đứa bé trai phá vòng vây, tức là dây thừng to mười vòng ôm, ngàn người đều chẳng có cách nào bứt đứt được. Đứa bé trai vung lưỡi đao bén, trong giây lát, thừng đã bị đứt thành hai đoạn. “Dây thừng” ví như ác nghiệp đã tạo từ vô thỉ, “to mười vòng ôm” chỉ số lượng nhiều, “ngàn người chẳng thể bứt đứt được” là nói phàm phu chẳng thể chế phục. “Đồng tử” (Bé trai) là sánh ví hành giả sơ phát tâm niệm Phật. “Vung gươm” là nói mười niệm niệm Phật thành tựu. “Khoảnh khắc đứt làm đôi”: Trong khoảng co duỗi cánh tay, bèn xả cõi này, sanh sang cõi kia. Có nghĩa là đồng tử phát tâm dũng mãnh, nhạy bén, cầm đao bén, tức là trì niệm danh hiệu Di Đà, cho nên trong nháy mắt có thể thoát khỏi nghiệp chướng, tập khí, một đao chặt đứt phăng nghiệp chướng và tập khí từ quá khứ, ngay lập tức bỏ phương này, sanh sang phương kia.

          Hai là thí dụ một đốm lửa đốt rụi củi chất ngàn năm. “Ngàn năm” ý nói từ vô thỉ đến nay. “Củi tích tụ” là nói chất chứa rất nhiều phiền não. “Lửa” là sánh ví trí huệ. “Một đốm lửa” nhằm nói rất ít. Trong khi đó, nghe thiện hữu (thiện tri thức) tuyên nói pháp môn Di Đà, khởi lòng tin tưởng sâu xa, dùng đốm lửa tâm trí huệ trong khoảng thời gian ngắn ngủi bèn nhanh chóng đốt rụi phiền não để vãng sanh. Điều này cũng cho thấy: Do sức quyết định trong khi ấy mà có thể từ đó vượt thoát.

          (Luận) Hựu như hữu nhân, nhất sanh dĩ lai, tu Thập Thiện nghiệp, ưng đắc sanh thiên, lâm chung chi thời, khởi nhất niệm quyết định tà kiến, tức đọa A Tỳ địa ngục. Ác nghiệp hư vọng, dĩ mãnh lợi cố, thượng năng bài nhất sanh chi thiện nghiệp, linh đọa ác đạo. Khởi huống lâm chung mãnh tâm niệm Phật, chân thật, vô gián thiện nghiệp, bất năng bài vô thỉ ác nghiệp, đắc sanh Tịnh Độ, vô hữu thị xứ!

          ()又如有人一生已來,修十善業應得生天。臨終之時起一念決定邪見,即墮阿鼻地獄。惡業虛妄以猛利故,尚能排一生之善業令墮惡道。豈況臨終猛心念佛,真實無間善業,不能排無始惡業,得生淨土,無有是處。

          (Luận: Lại như có người suốt đời tu Thập Thiện nghiệp, đáng được sanh lên trời, khi lâm chung, dấy lên một niệm quyết định tà kiến, liền đọa vào địa ngục A Tỳ. Ác nghiệp hư vọng, do mạnh mẽ, sắc bén, mà còn có thể gạt phăng thiện nghiệp suốt một đời, khiến cho người ấy đọa vào ác đạo. Huống chi thiện nghiệp khi lâm chung, tâm dũng mãnh niệm Phật, chân thật, chẳng gián đoạn, mà lại chẳng thể dẹp trừ ác nghiệp từ vô thỉ, khiến cho người ấy được sanh về Tịnh Độ, chẳng thể nào có chuyện đó!)

          Kế đó, lại dùng ác nghiệp để suy luận tình hình của thiện nghiệp. Ví như có người suốt một đời này tu rất nhiều nghiệp Thập Thiện, hẳn là sẽ sanh lên trời, nhưng lúc lâm chung, dấy lên một niệm quyết định tà kiến, ngay lập tức đọa vào địa ngục A Tỳ. Ác nghiệp hư vọng, nhưng vì nó dũng mãnh, nhạy bén, còn có thể gạt phăng thiện nghiệp suốt cả một đời, khiến cho người ấy đọa vào ác đạo. Huống hồ lâm chung, tâm dũng mãnh niệm Phật, đấy là thiện nghiệp chân thật, chẳng gián đoạn, lẽ nào chẳng thể dẹp phăng các ác nghiệp từ vô thỉ, được sanh vào Tịnh Độ ư? Kiểu cật vấn ấy chẳng thể thành lập được!

          (Luận) Hựu vân: “Nhất niệm niệm Phật, diệt bát thập ức kiếp sanh tử chi tội”, vị niệm Phật thời, tâm mãnh lợi cố, phục diệt ác nghiệp, quyết định đắc sanh, bất tu nghi dã.

          ()又云,一念念佛,滅八十億劫生死之罪。為念佛時心猛利故,伏滅惡業決定得生,不須疑也。

          (Luận: Lại nói: “Một niệm niệm Phật diệt tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp”, vì khi niệm Phật, do cái tâm mạnh mẽ, sắc bén bèn chế phục, diệt trừ ác nghiệp, quyết định được vãng sanh, chớ nên nghi ngờ).

          Trong kinh lại nói: “Một niệm niệm Phật diệt tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp”. Bởi lẽ, khi niệm Phật, do cái tâm dũng mãnh, nhạy bén, bèn có thể chế phục, diệt trừ ác nghiệp phiền não. Do đó, chớ nên hoài nghi, quyết định có thể vãng sanh.

          Trên đây đã dùng ba lý do là “tâm, duyên, quyết định” cùng với các thí dụ tương cận cũng như kinh giáo để chứng minh kẻ ác nghịch khi lâm chung chí tâm mười niệm sẽ quyết định có thể vãng sanh.

8.3. Đừng tin vào những kiến giải quái lạ

          (Luận) Thượng cổ tương truyền, phán thập niệm thành tựu, tác Biệt Thời Ý giả, thử định bất khả. Hà dĩ đắc tri? Nhiếp Luận vân: “Do duy phát nguyện cố, toàn vô hữu hạnh”. Tạp Tập Luận vân: “Nhược nguyện sanh An Lạc quốc độ, tức đắc vãng sanh. Nhược văn Vô Cấu Phật danh, tức đắc A Nậu Bồ Đề giả”, tịnh thị biệt thời chi nhân, toàn vô hữu hạnh. Nhược tương lâm chung vô gián thập niệm mãnh lợi thiện hạnh thị Biệt Thời Ý giả, kỷ hứa ngộ tai! Nguyện hành giả thâm tư thử lý, tự lao kỳ tâm, mạc tín dị kiến, tự đọa hãm dã.

          ()上古相傳判十念成就,作別時意者,此定不可。何以得知?攝論云:「由唯發願故,全無有行。」雜集論云:「若願生安樂國土即得往生,若聞無垢佛名即得阿耨菩提者。」並是別時之因,全無有行。若將臨終,無間十念猛利善行是別時意者,幾許誤哉。願諸行者深思此理,自牢其心莫信異見,自墮陷也。

          (Luận: Từ thuở xưa đã truyền tụng, phán định mười niệm thành tựu là Biệt Thời Ý3, điều này nhất quyết không thể nói như vậy được. Do đâu mà biết? Nhiếp Luận nói: “Do chỉ phát nguyện, hoàn toàn chẳng có Hạnh”. Tạp Tập Luận4

chép: “Nếu nguyện sanh về cõi nước An Lạc, sẽ liền được sanh về. Nếu nghe danh hiệu Vô Cấu Phật, sẽ liền đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”, [những điều vừa nói đó] đều là cái nhân của biệt thời, do hoàn toàn chẳng có hành. Nếu nghĩ thiện hạnh mười niệm mạnh mẽ bén nhạy chẳng gián đoạn là Biệt Thời Ý thì sai lầm lắm thay! Nguyện hành giả suy nghĩ sâu xa lý này, tự kiên định cái tâm của chính mình, đừng tin theo những kiến giải quái lạ, để rồi tự đọa lạc vậy).

          Từ thượng cổ đã lưu truyền thuyết phán định mười niệm Phật thành tựu là ý thú Biệt Thời! Nói như vậy chẳng đúng! Vì sao biết? Vì tình huống được Nhiếp Luận và Tạp Tập Luận phán định là Biệt Thời Ý chính là như thế này: Nếu chỉ phát nguyện mà chẳng hành chút nào, đó là ý thú Biệt Thời. Hoặc là như phát nguyện sanh về cõi An Lạc liền có thể vãng sanh, nghe danh hiệu của Vô Cấu Phật sẽ đắc Vô Thượng Bồ Đề, do những điều đó đều là tạo cái nhân để cảm cái quả trong lúc khác, chẳng có chút hạnh thật sự nào. Đấy là nói theo kiểu Biệt Thời Ý. Nhưng nếu phán định thiện hạnh mười niệm mạnh mẽ nhạy bén không gián đoạn khi lâm chung là Biệt Thời Ý thì đã hiểu lầm rất lớn. Bởi lẽ, lâm chung đã có thiện hạnh mười niệm nhạy bén, dũng mãnh, chẳng gián đoạn; đấy chính là Hạnh. Đã có Nguyện và Hạnh, lẽ đâu chẳng thể vãng sanh? Nguyện các hành giả hãy suy nghĩ sâu xa ý nghĩa này, kiên định tín tâm của chính mình, đừng tin theo những cách nói khác để rồi thoái thất tín tâm, chẳng còn cầu sanh [Cực Lạc] nữa, sẽ bị đọa lạc trong luân hồi, chẳng đạt được lợi ích vãng sanh to lớn.

9. Mối nghi thứ chín

          (Luận) Đệ cửu nghi, vấn: – Tây Phương khứ thử thập vạn ức Phật sát, phàm phu liệt nhược, vân hà khả đáo? Hựu Vãng Sanh Luận vân: “Nữ nhân cập căn khuyết, Nhị Thừa chủng bất sanh”. Ký hữu thử giáo, đương tri nữ nhân cập dĩ căn khuyết giả, định tất bất đắc vãng sanh.

   ()第九疑。問:西方去此十萬億佛剎,凡夫劣弱云何可到?又往生論云:「女人及根缺,二乘種不生。」既有此教,當知女人及以根缺者,定必不得往生。

          (LuậnMối nghi thứ chín, hỏi: – Tây Phương cách đây mười vạn ức cõi Phật, phàm phu hèn yếu, làm sao có thể đến đó được? Vãng Sanh Luận lại nói: “Nữ nhân và kẻ căn khuyết, giống Nhị Thừa chẳng sanh”. Đã có lời dạy ấy, hãy nên biết là nữ nhân và kẻ căn khuyết nhất định sẽ chẳng thể vãng sanh).

          Ở đây, nêu ra hai nghi vấn lớn:

          1) Tây Phương cách cõi này mười vạn ức Phật sát, xa xôi dường ấy, năng lực của phàm phu rất yếu, làm sao có thể đến đó cho được?

          2) Đã là như Vãng Sanh Luận nói “nữ nhân, căn khuyết, và chủng tánh Nhị Thừa chẳng thể sanh về đó”, đấy chẳng phải là nữ nhân và người căn khuyết quyết định chẳng thể sanh về Tây Phương Tịnh Độ ư?

          Đấy là nỗi nghi hoặc rất lớn, dưới đây, sẽ giải trừ từng điều một.

9.1. Chẳng cần lo ngại Tây Phương xa xôi, phàm phu chẳng thể đến được

          Phần này lại thông qua giáo, lý, và tỷ dụ để chứng minh.

          (Luận) Đáp: – Vị đối phàm phu nhục nhãn sanh tử tâm lượng thuyết nhĩ, Tây Phương khứ thử thập vạn ức Phật sát, đản sử chúng sanh Tịnh Độ nghiệp thành giả, lâm chung tại Định chi tâm, tức thị Tịnh Độ thọ sanh chi tâm. Động niệm tức thị sanh Tịnh Độ thời. Vị thử, Quán Kinh vân: “Di Đà Phật quốc, khứ thử bất viễn”.

          ()答:為對凡夫肉眼生死心量說爾,西方去此十萬億佛剎。但使眾生淨土業成者,臨終在定之心,即是淨土受生之心,動念即是生淨土時。為此觀經云:「彌陀佛國去此不遠。」

          (Luận: Đáp: – Vì đối ứng với tâm lượng sanh tử của hàng phàm phu nhục nhãn mà nói như thế này: “Tây Phương cách đây mười vạn ức cõi Phật”, chỉ nhằm khiến cho những chúng sanh đã thành tựu nghiệp Tịnh Độ khi lâm chung, cái tâm tại Định chính là cái tâm thọ sanh Tịnh Độ. Hễ động niệm bèn là lúc sanh vào Tịnh Độ. Do lẽ này, Quán Kinh nói: “Cõi Phật Di Đà cách đây chẳng xa”).

          Trả lời: Trước hết, phải hiểu kinh nói “Tây Phương cách đây mười vạn ức cõi Phật” là nhắm vào hàng phàm phu nhục nhãn, tâm lượng sanh tử mà nói. Ví như chúng ta cách mặt trăng trước mặt bao xa? Cách xa cung trời Tam Thập Tam Thiên cỡ nào? Cứ tính dần lên như thế đó, [sẽ thấy] cách thế giới Cực Lạc khoảng chừng mười vạn ức cõi Phật. Nhưng phải xác định rõ ràng: Giả sử chúng sanh Tịnh nghiệp chín muồi, lâm chung sẽ có Phật từ bi gia hựu, ngay trong lúc đó, nhất tâm bất loạn ở trong Định, đấy là cái tâm thọ sanh Tịnh Độ. Cảnh giới này hoàn toàn chẳng giống hiện tại, lúc đó, [hành nhân Tịnh Độ] đang ở trong thời khắc tâm thức ly thể đặc thù, lại được Phật lực đặc biệt gia bị, thuộc vào trạng huống “cái tâm đang ở trong Định”. Do đó, trong khoảng một niệm, liền sanh về Tịnh Độ. Do duyên cớ này, Quán Kinh nói: “Cõi nước của Phật Di Đà cách đây chẳng xa”.

          Lại cần phải biết: Chân tâm của chúng ta trọn khắp hết thảy mọi nơi, Di Đà Phật quốc ở ngay trong chân tâm. Khi nhân duyên hòa hợp, sẽ có thể tức thời sanh vào Tịnh Độ trong tâm, chẳng cần lo lắng xa xôi! Lại phải nghĩ, A Di Đà Phật là pháp giới tâm, vào trọn khắp tâm tưởng của hết thảy chúng sanh. Khi chúng ta lâm chung niệm Phật, Phật quang đã nhiếp thọ, tự tâm và Phật tâm hòa hợp, ngay khi đó liền có thể sanh vào Tịnh Độ. Điều này giống như tín hiệu do đài truyền hình phát ra trọn khắp lãnh vực không gian rộng lớn, chỉ cần vặn đúng băng tần tương ứng, ngay lập tức sẽ có thể xuất hiện âm thanh và hình ảnh. Cũng giống như vậy, quang minh và nguyện lực của Phật trọn khắp Vô Ương Số thế giới, lúc lâm chung, cái tâm niệm Phật của chúng ta được Phật nhiếp thọ, ngay khi ấy, duyên khởi hòa hợp, bèn được tâm Phật nhiếp thọ, do như vậy bèn có thể sanh về Tịnh Độ, chẳng cần lo lắng không đến Tịnh Độ được!

          Tiếp đó, lại dùng phương thức so sánh để bảo chúng ta: Nhất định có thể tới [Tịnh Độ].

          (Luận) Hựu nghiệp lực bất khả tư nghị, nhất niệm tức đắc sanh bỉ, bất tu sầu viễn. Hựu như nhân mộng, thân tuy tại sàng, nhi tâm ý thức, biến chí tha phương nhất thiết thế giới, như bình sanh bất dị dã. Sanh Tịnh Độ diệc nhĩ, động niệm tức chí, bất tu nghi dã.

          ()又業力不可思議,一念即得生彼,不須愁遠。又如人夢,身雖在床,而心意識遍至他方,一切世界如平生不異也。生淨土亦爾,動念即至,不須疑也。

          (Luận: Lại nữa, nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn, một niệm liền được sanh về đó, chẳng cần phải lo xa xôi. Lại như người nằm mộng, thân tuy ở trên giường, nhưng tâm ý thức đến trọn khắp hết thảy các thế giới ở phương khác, chẳng khác gì lúc bình thường. Sanh về Tịnh Độ cũng thế, vừa động niệm bèn tới, chẳng cần nghi ngờ nữa).

          Hơn nữa, nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn! Ví như trong một niệm liền sanh vào địa ngục, hoặc trong một niệm liền sanh lên cung trời. Cũng giống như vậy, trong một niệm có thể sanh về Tây Phương, chẳng cần lo rầu xa xôi. Lại giống như người nằm mộng, thân thể tuy ở trên giường, mà tâm ý thức có thể đến trọn khắp hết thảy các thế giới ở phương khác. Ban ngày chẳng đến xa được như vậy, nhưng trong mộng, thuộc vào cảnh giới đặc thù, đích xác là trong một niệm có thể đến thế giới ở phương khác. Trong lịch sử, có rất nhiều trường hợp để chứng minh. Hoặc là khi tu hành có thành tựu, có thể tùy ý đến thế giới ở phương khác, trong một niệm liền đến. Vì vậy, nói là xa hay gần, nhanh hay chậm v.v… đều là nói theo trạng thái tương ứng khi đó, chẳng thể do khoảng cách ban ngày xa xôi, do trong một giờ chẳng đi được bao xa, mà suy đoán trong mộng [khoảng cách] cũng xa chừng ấy, trong một giờ sẽ chẳng đi được bao xa [giống như khi ta đi trong ban ngày]. [Nếu suy đoán] như vậy, quá nực cười! Hoặc là chẳng thể dùng trạng huống bình thường để suy đoán tình huống trong Thiền Định, hoặc tình huống được gia bị đặc thù v.v… Phải nghĩ như thế này: Ở trong mộng, một niệm tâm có thể đến xa như thế, căn bản là tốc độ mà nhục thân có thể đi được vào ban ngày chẳng thể nào sánh bằng [tốc độ và khoảng cách] trong mộng được! Cũng như vậy, đến khi lâm chung, trong một sát-na tâm thức ly thể, lại có Phật lực gia bị khiến cho tâm chẳng loạn, trong trạng huống ấy, trong một niệm bèn có thể sanh về Tịnh Độ, chẳng cần hoài nghi!

          Tiếp đó, giải trừ nỗi nghi hoặc thứ hai. Điều này lại cần phải hiểu ý nghĩa bao hàm trong giáo chứng do Vãng Sanh Luận đã nói: Chẳng phải là nói “ba loại người ấy chẳng thể sanh về Tịnh Độ”, mà có ý nói, “sau khi vãng sanh, sẽ chẳng có ba loại tình huống ấy”.

          (Luận) “Nữ nhân cập căn khuyết, Nhị Thừa chủng bất sanh” giả, đản luận sanh bỉ quốc vô nữ nhân, cập vô manh, lung, ấm, á nhân, bất đạo thử gian nữ nhân, căn khuyết nhân bất đắc sanh bỉ. Nhược như thử thuyết giả, ngu si toàn bất thức kinh ý, tức như Vi Đề phu nhân, thị thỉnh sanh Tịnh Độ chủ, cập ngũ bách thị nữ, Phật thọ ký tất đắc vãng sanh bỉ quốc.

          ()女人及根缺,二乘種不生者,但論生彼國,無女人及無盲聾喑哑人,不道此間女人根缺人不得生彼。若如此說者,愚癡全不識經意。即如韋提女人,是請生淨土主,及五百侍女,佛授記悉得往生彼國。

          (Luận: “Nữ nhân và căn khuyết, chủng tánh Nhị Thừa chẳng sanh” chỉ là luận định “đã sanh trong cõi ấy (cõi Cực Lạc), sẽ không có nữ nhân và không có kẻ mù, lòa, ngọng, câm”, chẳng phải là nói “nữ nhân và kẻ tàn tật trong cõi này (Sa Bà) chẳng thể sanh về cõi đó”. Nếu kẻ nào nói như vậy (nữ nhân và kẻ tàn tật chẳng thể vãng sanh Cực Lạc), chính là kẻ ngu si, hoàn toàn chẳng hiểu ý kinh. [Bởi lẽ], như phu nhân Vi Đề Hy là người đứng đầu cầu thỉnh [pháp môn] sanh về Tịnh Độ, và năm trăm thị nữ đều được đức Phật thọ ký sẽ sanh về cõi ấy).

          Nói chung, câu này trong Vãng Sanh Luận nhằm nói: Sau khi đã sanh về Phật quốc, sẽ chẳng có nữ nhân, chẳng có kẻ mù, điếc, ngọng, câm, hoàn toàn chẳng phải là nói “nữ nhân và kẻ tàn tật trong thế giới Sa Bà chẳng thể vãng sanh thế giới Cực Lạc”. Nếu nói như vậy (tức nói “nữ nhân và kẻ tàn tật trong thế giới Sa Bà chẳng thể vãng sanh thế giới Cực Lạc”) rất ngu si, căn bản là chẳng lý giải ý nghĩa của kinh. Một chứng cớ phản bác [cách hiểu sai lầm ấy]: Chẳng hạn như phu nhân Vi Đề Hy là người chủ chốt thỉnh cầu [đức Phật dạy cách] sanh về Tịnh Độ. Đức Phật thọ ký bà ta và năm trăm thị nữ đều vãng sanh cõi ấy, đấy chẳng phải là một trường hợp chứng minh nữ nhân có thể sanh về cõi ấy hay sao? Kinh Pháp Hoa nói: Năm trăm năm sau khi đức Như Lai diệt độ, có người nữ nào nghe được bộ kinh ấy, tu hành đúng như lời dạy, khi cô ta mạng chung, sẽ vãng sanh thế giới Cực Lạc. A Di Đà Phật và các vị đại Bồ Tát sẽ vây quanh chỗ cô ta ở, [cô ta] sẽ sanh trong hoa sen, ngự trên tòa báu. Do điều này bèn biết: Nữ nhân trong cõi này có thể sanh sang Tây Phương.

          (Luận) Đản thử xứ nữ nhân, cập manh, lung, ấm, á nhân, tâm niệm Di Đà Phật, tất sanh bỉ quốc dĩ, cánh bất thọ nữ thân, diệc bất thọ căn khuyết thân. Nhị Thừa nhân đản hồi tâm nguyện sanh Tịnh Độ, chí bỉ cánh vô Nhị Thừa chấp tâm. Vị thử cố vân: “Nữ nhân cập căn khuyết, Nhị Thừa chủng bất sanh”. Phi vị thử xứ nữ nhân cập căn khuyết nhân bất đắc sanh dã. Cố Vô Lượng Thọ kinh tứ thập bát nguyện vân: “Thiết ngã đắc Phật, thập phương thế giới nhất thiết nữ nhân, xưng ngã danh hiệu, yếm ố nữ thân, xả mạng chi hậu, cánh thọ nữ thân giả, bất thủ Chánh Giác”. Huống sanh bỉ quốc, cánh thọ nữ thân? Căn khuyết giả diệc nhĩ.

   ()但此處女人及盲聾喑哑人,心念彌陀佛悉生彼國已,更不受女身,亦不受根缺身。二乘人但回心願生淨土,至彼更無二乘執心。為此故云:「女人及根缺,二乘種不生。」非謂此處,女人及根缺人不得生也。故無量壽經四十八願云:「設我得佛,十方世界一切女人,稱我名號厭惡女身,捨命之後更受女身者,不取正覺。」況生彼國更受女身?根缺者亦爾。

   (Luận: Nhưng nữ nhân và kẻ mù, điếc, ngọng, câm trong cõi này tâm niệm A Di Đà Phật, đều sanh về cõi ấy rồi, sẽ chẳng còn thọ thân nữ nữa, mà cũng chẳng thọ thân tàn tật. Hàng Nhị Thừa chỉ hồi tâm nguyện sanh về Tịnh Độ, sanh về cõi đó, sẽ chẳng còn cái tâm chấp trước của hàng Nhị Thừa. Vì vậy bèn nói: “Nữ nhân và căn khuyết, giống Nhị Thừa chẳng sanh”, chẳng phải là nói kẻ nữ và người tàn tật trong cõi này chẳng được vãng sanh [Cực Lạc]. Do vậy, phần bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ có chép: “Nếu tôi thành Phật, hết thảy người nữ trong mười phương thế giới xưng danh hiệu của tôi, chán ghét thân nữ, sau khi xả mạng, lại thọ thân nữ thì tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Huống hồ sanh về cõi ấy lại thọ thân nữ nữa ư? Kẻ căn khuyết cũng giống như vậy).

          Nói “không có ba loại người ấy” là nói nữ nhân và người căn khuyết (tàn tật) trong cõi này niệm Phật, sau khi đã sanh về cõi ấy, sẽ chẳng còn thọ thân nữ, mà là thân trượng phu, chẳng còn thọ thân căn khuyết, mà là sáu căn trọn đủ, hết sức thù thắng. Hàng Nhị Thừa hồi tâm, nguyện sanh về Tịnh Độ, đến đó, sẽ chẳng còn có tâm chấp trước của Nhị Thừa nữa, sẽ chẳng chấp Nhị Thừa là rốt ráo, hoặc vẫn khư khư chẳng bỏ ý niệm thấp hèn “chỉ cầu một mình ta giải thoát [là đủ]”. Vì thế mới nói: Đã tới cõi đó, sẽ chẳng còn có hiện tượng nữ nhân, kẻ thiếu căn, và chủng tánh Nhị Thừa, hoàn toàn chẳng phải là nói “nữ nhân và người căn khuyết trong cõi này chẳng thể vãng sanh phương ấy”.

          Phần bốn mươi tám nguyện của kinh Vô Lượng Thọ cũng nói: “Nếu tôi thành Phật, hết thảy nữ nhân trong mười phương thế giới xưng danh hiệu Phật, chán ghét thân nữ. Sau khi đã xả mạng mà vẫn phải thọ thân nữ, tôi sẽ chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Ngay như xưng danh hiệu Phật, sau khi xả mạng mà còn chẳng thọ nữ thân, huống hồ là sanh về cõi ấy, làm sao có thể thọ thân nữ cho được? Hơn nữa, làm sao có thể thọ thân căn khuyết cho nổi? Nói chung, chẳng phải là nói “xét theo cái nhân, ba loại người ấy chẳng vãng sanh”, mà là nói theo cái quả, tức là sau khi đã vãng sanh, sẽ chẳng có ba thứ hiện tượng ấy!

10. Mối nghi thứ mười

          (Luận) Đệ thập nghi. Vấn: – Kim dục quyết định cầu sanh Tây Phương giả, vị tri tác hà hạnh nghiệp, dĩ hà vi chủng tử, đắc sanh bỉ quốc? Hựu phàm phu tục nhân giai hữu thê tử, vị tri bất đoạn dâm dục, đắc sanh bỉ phủ?

          ()第十疑問:今欲決定求生西方,未知作何行業,以何為種子,得生彼國?又凡夫俗人皆有妻子,未知不斷淫欲得生彼否?

          (Luận: Mối nghi thứ mười. Hỏi: – Nay kẻ quyết định muốn cầu sanh Tây Phương, chưa biết phải làm hạnh nghiệp nào, dùng những gì làm chủng tử để được sanh về cõi ấy? Lại nữa, phàm phu tục nhân đều có vợ con, chưa biết chẳng đoạn dâm dục thì có được sanh về cõi ấy hay chăng?)

          Câu hỏi được nêu ra là “sau khi đã liễu giải sự thù thắng của vãng sanh Tây Phương, nay tôi muốn quyết định cầu sanh Tây Phương, chẳng biết phải làm hạnh nghiệp gì, dùng gì để làm chủng tử, hòng có thể đạt thành diệu quả vãng sanh cõi ấy? Hơn nữa, phàm phu tục nhân đều có vợ con, chẳng biết kẻ không đoạn dâm dục thì có thể sanh về cõi nước Cực Lạc hay chăng?”

          Ở đây, nêu lên hai vấn đề:

          1) Hạnh nghiệp để quyết định thành tựu vãng sanh là gì? Hoặc là chủng tử có thể thành tựu cái quả ấy là gì? Người hỏi biết “để cầu cái quả, ắt cần phải viên mãn cái nhân”. Hễ nhân đã viên mãn, quả sẽ tự nhiên thành; không có nhân, sẽ trọn chẳng có quả. Điều này thuộc về phương diện thật tu, nơi tự tâm cần phải đi theo con đường như thế nào? Tu tập hạnh nghiệp gì thì sẽ có thể cảm được cái quả thù thắng như vậy? Hoặc là gieo chủng tử gì để vun bồi nó (cái nhân ấy) hòng có thể vãng sanh? Câu hỏi này đã đề cập tới vấn đề duyên khởi rất trọng yếu hòng thành tựu vãng sanh.

          2) Tục nhân tại gia có vợ, chẳng đoạn dâm dục, cũng chẳng tránh khỏi lo âu chính mình có thể vãng sanh hay không? Hoặc là phải nên nỗ lực như thế nào thì mới có thể tương ứng với Tây Phương hòng được vãng sanh?

          Dưới đây chia làm [hai phần là] lược đáp (đáp đại lược) và tế đáp (đáp cặn kẽ) để giảng rõ. Trước hết là lược đáp.

          (Luận) Đáp: Dục quyết định sanh Tây Phương giả, cụ hữu nhị chủng hạnh, định đắc sanh bỉ. Nhất giả yếm ly hạnh, nhị giả hân nguyện hạnh.

          ()答:欲決定生西方者,具有二種行,定得生彼。一者厭離行,二者欣願行。

          (Luận: Đáp: Muốn quyết định sanh về Tây Phương thì trọn đủ hai loại hạnh, chắc chắn sẽ sanh về cõi đó. Một là hạnh chán lìa, hai là hạnh ưa thích, nguyện sanh về đó).

          Trả lời: Nếu muốn quyết định được vãng sanh Tây Phương, hễ trọn đủ hai thứ hạnh, chắc chắn có thể vãng sanh. Một là hạnh chán lìa, hai là hạnh ưa thích, nguyện sanh sang đó.

          Chư pháp đều mang tánh chất duyên khởi. Duyên khởi lại ở nơi tâm, điều then chốt trong tâm là ham muốn. Do vậy, ở đây nói: Vãng sanh Tây Phương là quả, nhân duyên của nó phát triển thành hạnh tương ứng với Tây Phương là hạnh chán lìa và hạnh ưa thích, nguyện sanh. Trong ấy, có bao hàm xuất ly tâm và Bồ Đề tâm. Chán lìa phương này (Sa Bà) là tâm xuất ly. Biết Tịnh Độ thù thắng, xét theo phương diện tự lợi thì là do được giải thoát mà mong sanh về Tây Phương; đấy là nội dung của tâm xuất ly. Vì để mau chóng đạt được thành tựu hòng độ chúng sanh mà mong sanh về Tây Phương; đấy là nội dung của Bồ Đề tâm.

          “Chán” (Yếm) là tiêu cực muốn bỏ phương này, “ưa thích” (Hân) là tích cực muốn giữ lấy phương kia. Hai đằng tách ra và hợp lại chính là tướng trạng đầy đủ của nguyện Tịnh Độ. Từ đây, phát triển thành các loại tịnh hạnh, tức là Hạnh. Đã có Nguyện, đương nhiên là nhiếp trì hết thảy thiện căn đều hồi hướng sanh về Tây Phương, thẳng tiến về Tây Phương, khi đã tích tụ đến một mức độ nhất định, chắc chắn sẽ vãng sanh Tây Phương. Vì thế, phải biết: Duyên khởi để vãng sanh Tây Phương ở nơi Nguyện. Tín và Hạnh cũng được bao gồm trong Nguyện, vì có Nguyện thiết tha, tất nhiên sẽ có Tín chân thật và Hạnh thiết thực.

          Kế đó, sẽ giải thích cặn kẽ hai phần Yếm và Hân này.

10.1. Yếm Ly Hạnh

          (Luận) Ngôn Yếm Ly Hạnh giả, phàm phu vô thỉ dĩ lai, vị ngũ dục triền phược, luân hồi ngũ đạo, bị thọ chúng khổ, bất khởi tâm yếm ly ngũ dục, vị hữu xuất kỳ. Vị thử, thường quán thử thân nùng huyết thỉ niệu, nhất thiết ác lộ, bất tịnh, xú uế. Cố Niết Bàn Kinh vân: “Như thị thân thành, ngu si la-sát, chỉ trụ kỳ trung. Thùy hữu trí giả, đương nhạo thử thân?”

   ()言厭離行者,凡夫無始已來為五欲纏縛,輪迴五道備受眾苦,不起心厭離五欲未有出期。為此常觀此身膿血屎尿,一切惡露不淨臭穢。故涅槃經云:「如是身城,愚癡羅剎止住其中,誰有智者當樂此身?」

          (Luận: Nói Yếm Ly Hạnh là vì phàm phu từ vô thỉ đến nay bị ngũ dục trói buộc, luân hồi trong năm đường, chịu đủ mọi nỗi khổ, chẳng dấy tâm chán lìa ngũ dục, sẽ chẳng có thuở nào thoát khỏi. Vì lẽ này mà thường quán thân này máu mủ, phân, tiểu, hết thảy các thứ xấu ác bộc lộ, bất tịnh, hôi thối, bẩn thỉu. Do đó, kinh Niết Bàn nói: “Thân thành như thế, La-sát ngu si ở trong ấy, có bậc trí nào sẽ yêu thích cái thân này?”)

          Nói Yếm Ly Hạnh là phải thấy phàm phu từ vô thỉ tới nay, luôn bị sự tham muốn ngũ dục Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc trói buộc. Do vậy, dấy lên các thứ phiền não, huân tập các loại nghiệp, bị nghiệp lực lôi kéo mà luân hồi chẳng ngớt trong năm đường địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, nhân, thiên, chịu đủ các thứ các dạng khổ. Nếu chẳng dấy lên cái tâm chán lìa ngũ dục, vẫn tham đắm nó, do chẳng đoạn cái nhân, sẽ chẳng đoạn được nỗi khổ sanh tử luân hồi. Vì vậy, chẳng có thuở vượt thoát sanh tử. Sau khi đã biết lỗi hại của tham dục, phải thường quán cái thân này có thể tánh bất tịnh. Bên trong là hết thảy các thứ xấu ác bày ra như máu, mủ, phân, tiểu v.v… Hễ lộ ra, sẽ khiến cho người khác trông thấy bèn ghê tởm, chẳng thể chịu đựng nổi tướng xú uế bất tịnh.

          Trong quá khứ, cứ nghĩ cái thân là bảo bối; hiện thời, sau khi đã thấy nó bất tịnh, bèn nghĩ: “Thân thể này như một thành thị, quỷ la-sát ngu si đang ở trong ấy, có người trí huệ nào sẽ ưa thích thân thể như vậy?” Giống như trong kinh Niết Bàn đã nói; từ đó, trong tâm chẳng còn muốn bận lòng nhiều về tấm thân này, chẳng còn muốn làm nô lệ cho nó, vì nó mà lo toan các thứ ngũ dục, thực hiện các thứ che chở [tấm thân] nữa. Cội nguồn của lòng tham chính là vì quý tiếc, yêu mến, bảo vệ thân thể. Một khi đã phát hiện chỗ chẳng đáng yêu đắm của nó, sẽ cảm thấy thân thể giống như nhà xí này có hai bữa ăn để duy trì mạng sống, có quần áo để che thân là được rồi. Như vậy thì mới thoát khỏi nỗi tham ngũ dục vì cái thân.

          Phần này lại chia thành hai phần:

          1) Lý thú.

          2) Thật tu.

10.1.1. Lý thú

          Nếu nhìn từ phương diện lý thú, [sẽ thấy] phàm phu suốt ngày vì cái Ta riêng tư (tư ngã) mà tìm cầu Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, dấy lên vô số phiền não, tạo trọn hết các nghiệp, ở trong luân hồi chịu khổ trong vô số đời. Vì thế, nhất định phải lìa ngũ dục. Tham đắm ngũ trần sẽ phải chịu khổ không ngừng, đúng là đại tai nạn. Nhãn Thức tham đắm Sắc pháp, giống như con thiêu thân chết cháy trong ngọn lửa đèn. Nhĩ Thức tham đắm âm thanh hay đẹp, giống như dã thú nghe tiếng đàn tỳ bà mà bị thợ săn giết chết. Tỵ Thức tham đắm hương trần, giống như ong mật tham đắm mùi thơm của hoa mà bị nhốt chết trong lòng bông hoa. Thiệt Thức tham đắm mỹ vị, giống như con cá bị móc sắt móc trúng. Thân Thức tham đắm xúc trần, giống như con voi to bị hãm trong bùn lầy. Đấy chính là căn bản của vô số mê loạn hiển hiện trong luân hồi, là cội nguồn của vô số nỗi khổ. Cũng giống như thế, tâm tham đắm ngũ dục, bị tham dục trói buộc chính là cái gốc của các khổ. “Chư khổ sở nhân, tham dục vi bổn” (Cái nhân của các nỗi khổ đều lấy tham dục làm gốc) chính là ý nghĩa này.

          Sau đó, nghĩ tưởng: Chỉ có xa rời sự tham đắm đối với ngũ dục thì mới có thể từ khổ thoát ra. Vậy thì phải buông xuống ngũ dục bằng cách nào? Phải nghĩ, tham hưởng thụ thanh, sắc; tham kẻ khác phái; tham phim ảnh và TV; tham món ăn ngon, tham y phục đẹp đẽ, tham xe hơi v.v… tham bất cứ những món Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc nào cũng đều là vì thân thể! Yêu quý, bảo vệ thân thể nhất, cho rằng trên cõi đời, nó cần được bảo vệ, đáng tôn trọng, cung phụng nhất chính là nó. Hiện thời, nhất định phải thấy rõ ràng bổn tướng của thân thể. Khi phát hiện nó giống như một cái nhà xí di động ô uế, là chỗ căn bản để phát xuất nỗi khổ lớn nhất, sẽ còn vì nó mà tham lam nữa hay chăng? Chẳng cần thiết, khi ấy, sẽ dấy lòng chán lìa, chẳng còn muốn làm chuyện gì vì nó nữa.

          Ví như ở cùng một bệnh viện, ẵm lầm đứa trẻ, ngỡ đứa con của oán gia là con đẻ của chính mình, lãnh về nhà, mấy chục năm ngậm đắng nuốt cay, dốc lòng dưỡng dục, coi nó như tâm can bảo bối. Bỗng có một ngày, kẻ khác nói cho người ấy biết chân tướng: “Đấy là con của kẻ oán gia”. Do vậy mới biết trước kia đã phí công, từ đấy về sau, cũng chẳng còn dấy lòng làm gì cho nó nữa. Đấy là dấy lòng chán lìa. Cũng giống như vậy, một khi đã phát hiện thân thể là một thứ chất chứa cả đống ô uế như vậy, còn muốn vì nó làm gì nữa chăng? Đã thế, nó là nguồn gốc của muôn nỗi khổ, là khí cụ của muôn nỗi khổ, là cỗ máy chế tạo nỗi khổ chẳng có gì lớn hơn nữa, là đồ đựng để tuôn ra nỗi khổ, còn muốn vì nó làm gì nữa hay chăng? Ngay lập tức cảm nhận đấy là cái thân luân hồi, khổ não, hoạn nạn, phải lìa bỏ, chớ nên bảo vệ nó nữa, vì nó mà tham, vì nó mà cầu, tạo trọn hết các nghiệp, chuốc lấy nỗi khổ to lớn dằng dặc trong đời sau; khi ấy, sẽ sanh lòng nhàm lìa. Vì thế, điều trọng yếu là phải thấy cái thân yêu quý nhất của chính mình là bất tịnh, thể tánh của nó là khổ.

          Nói tách ra thì có hai loại là bất tịnh và khổ, nói gộp chung thì là một chữ Khổ. Thấy nó chỉ có khổ, chẳng có lạc, bèn chỉ mong hết sức nhanh chóng thoát khỏi, mà cũng chẳng mong vì nó làm gì nữa! Như vậy thì sẽ có thể từ thân thể mà phát sanh ý nguyện lìa khỏi sự tham đắm ngũ dục. Chán bỏ cái thân này, tức là chán bỏ Sa Bà từ nguồn cội. Sau đó, lại mong thay đổi cái thân này, cầu đạt được cái thân thanh tịnh nơi Tịnh Độ. Đấy là tu phương pháp chán lìa.

          (Luận) Hựu kinh vân: “Thử thân chúng khổ sở tập, nhất thiết giai bất tịnh. Ách phược ung sang đẳng, căn bn vô nghĩa lợi, thượng chí chư thiên thân giai diệc như thị”.

          ()又經云:「此身眾苦所集,一切皆不淨,扼縛癰瘡等根本無義利,上至諸天身皆亦如是。」

          (Luận: Kinh lại nói: “Thân này là các khổ nhóm họp, hết thảy đều bất tịnh. Là cái ách, là trói buộc, là ung nhọt, ghẻ v.v… căn bản là chẳng có nghĩa lợi, trên là cho đến thân của chư thiên cũng đều giống như vậy”).

          [Đoạn này] chia thành năm phần:

          1) Thân này là chỗ các khổ nhóm họp.

          2) Ý nghĩa được bao hàm trong các thí dụ như cái ách, trói buộc v.v…

          3) Ý nghĩa được bao hàm trong các thí dụ như ung nhọt, ghẻ v.v…

          4) Ý nghĩa được bao hàm trong “căn bản vô nghĩa lợi”.

          5) Ý nghĩa được bao hàm trong “trên là cho đến thân của chư thiên cũng đều giống như vậy”.

10.1.1.1. Thân này là chỗ các khổ nhóm họp

          Đối tượng để quan sát chính là cái thân Ngũ Thủ Uẩn5, hoặc tương tục (tiếp nối), không chỉ là nhục thân. Cái thân Ngũ Thủ Uẩn ấy chính là chỗ vô lượng các điều khổ tụ tập. Trong ấy bao hàm hai ý nghĩa:

          1) Là chỗ tạo tác các điều khổ, được gọi là “khổ khí” (苦器), mang ý nghĩa cỗ máy [tạo tác các nỗi khổ].

          2) Là vật dụng sanh ra các nỗi khổ, mang ý nghĩa đồ đựng.

          “Vật dụng sanh ra các nỗi khổ” lại có năm điều:

  1. Vật dụng tạo thành các nỗi khổ trong mai sau.
  2. Vật dụng xuất sanh các nỗi khổ.
  3. Vật dụng Khổ Khổ.
  4. Vật dụng Hoại Khổ.
  5. Có tánh chất của Hành Khổ.

10.1.1.1.1. [Thân Ngũ Uẩn là] vật dụng tạo thành các nỗi khổ trong mai sau

          Do nương vào các Uẩn đã nhận lãnh, sẽ có thể dẫn đến các nỗi khổ từ đời sau trở đi. Hiện thời, đã thành Ngũ Thủ Uẩn, có năm loại pháp là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; do đấy bèn khởi Hoặc, tạo nghiệp, có thể dẫn đến các nỗi khổ từ đời sau trở đi. Hoặc là do trong A Lại Da Thức chứa đựng các thứ chủng tử khổ trong đời quá khứ, nếu trong đời này chẳng cảm lấy quả khổ thì trong tương lai cũng sẽ đời đời xuất sanh các nỗi khổ.

10.1.1.1.2. [Thân Ngũ Thủ Uẩn là] vật dụng sanh ra các nỗi khổ

          Đã thành tựu Ngũ Thủ Uẩn, đấy chính là chỗ nương tựa của các nỗi khổ “lão, bệnh, tử, suy, yêu thương mà phải chia lìa, ganh ghét mà phải gặp gỡ, cầu chẳng được” v.v… Trước mắt đã tạo thành các uẩn thể6; trong tương lai, sẽ không ngừng nẩy sanh các thứ khổ não trong một kỳ sanh tử (một đời người). Nó chính là vật dụng to lớn để phát sanh các nỗi khổ.

10.1.1.1.3. [Thân Ngũ Thủ Uẩn là] vật dụng của Khổ Khổ và Hoại Khổ

          Chủng tử của hai thứ Khổ Khổ và Hoại Khổ theo sát chẳng rời trong uẩn thể. Vì thế, lúc gặp duyên, chúng nó sẽ từ đó mà không ngừng sanh ra Khổ Khổ và Hoại Khổ.

10.1.1.1.4. Có tánh chất của Hành Khổ

          Ngũ Thủ Uẩn đã được tạo thành từ lúc tối sơ sẽ biến thành tự tánh của Hành Khổ. Từ đấy trở đi, hết thảy các Hành đều thuận theo sức của Hoặc Nghiệp trong đời trước mà tự tại chuyển biến, đấy chính là Hành Khổ. Cũng là do lúc ban đầu, một niệm mê mất, cho là có Ngã, có Ngã Sở (những thứ mà ta sở hữu), do như vậy mà khởi Hoặc (dấy lên phiền não) tạo nghiệp, sanh ra tự tánh của Ngũ Thủ Uẩn. Từ đấy một mực chẳng tránh khỏi trạng huống để mặc cho sức Hoặc nghiệp tự tại xoay chuyển, một mực đều là tự tánh đổi dời, chẳng quay trở lại. Vì thế, gọi là “Hành Khổ tánh”. Giống như Hoàng Hà từ chỗ phát nguyên (chỗ bắt nguồn) bèn bắt đầu chảy thành giòng, từ đó cuồn cuộn bất tuyệt tuôn xuống vùng hạ lưu, chưa hề bị cắt đứt. Chỉ có bậc đã đạt được địa vị thánh, dùng Vô Ngã Không Huệ để cắt đứt nó thì mới bắt đầu đi ngược giòng. Trước khi xuất hiện đối trị, một mực luôn dời đổi. Cũng là từ một niệm tưởng lầm “có Ngã”, sau đấy, do sức mạnh của Ngã Chấp mà khởi Hoặc tạo nghiệp, chưa hề ngưng nghỉ. Do vậy, khi cái quả xuất hiện, nghiễm nhiên vẫn do sức mạnh ấy dẫn khởi các Uẩn sau đó. Liên tục chẳng ngừng trong mỗi sát-na như thế, trước khi bị cắt đứt, nó sẽ tạo thành Hành Khổ tánh.

          Nói chung, Thủ Uẩn là năm loại vật dụng để tạo khổ, nên nói là “chúng khổ sở tập” (các khổ nhóm họp).

          Lại xét theo phương diện bất tịnh. Từ một niệm lầm loạn, sau đấy, sẽ đánh mất sự thanh tịnh, hoàn toàn thuộc vào trạng thái của kẻ điên cuồng, ngỡ cái chẳng có là có, ngỡ cái có là chẳng có. Do sức mạnh của sự chấp trước Ngã và Ngã Sở mà không ngừng dấy lên các suy nghĩ lầm loạn và chấp trước lầm loạn. Trong lúc bị cái Ngã riêng tư và lòng ham muốn riêng tư sai khiến, đã dấy lên các loại phiền não và nghiệp, những thứ ấy đều là sự tạp nhiễm nơi cái nhân. Quả báo xuất hiện từ sức mê loạn ấy làm sao có tự tánh thanh tịnh cho được? Vì thế, cái quả được gọi là “sanh tạp nhiễm”. Nói chung, trạng huống từ nhân cho đến quả đều là tạp nhiễm, điều này được gọi là “hết thảy đều bất tịnh”. Do nơi nhân, chỉ có thể phát sanh phiền não tạp nhiễm và nghiệp tạp nhiễm, cho nên bất tịnh; nơi quả thì luân hồi, sanh trong tam giới, nên gọi là “sanh bất tịnh”. Hoặc nhìn từ hai phương diện thân và tâm, thân người do ba mươi sáu vật bất tịnh hợp thành, thuần túy bất tịnh. Trong tâm, không gì chẳng phải là chấp trước cái Ngã riêng tư, dấy khởi các loại phiền não tham, sân, si… cũng như phát khởi các hành động cầu lợi cho chính mình. Đấy chính là trạng thái phiền não và nghiệp đều bất tịnh.

10.1.1.2. Ý nghĩa bao hàm trong thí dụ về cái ách và sự trói buộc

           “Ách phược” (扼縛) là giống như cái ách cày đè trên cổ con trâu, một mực lôi con trâu tiến về trước. Đấy là hình dung uẩn thân (thân do Ngũ Uẩn hợp thành) một mực tùy ý xoay chuyển theo sức của Hoặc nghiệp, là trạng thái khổ sở chẳng có mảy may tự tại.

          Ví như kẻ tù tội bị giam giữ trong ngục tù, bất cứ hành vi gì cũng đều chẳng được tự tại, phải chịu trừng phạt, bị sai khiến làm lao dịch v.v… Cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta bị sức Hoặc nghiệp khống chế, một mực ở trong tình trạng sanh tử khổ sở. Nhìn theo phương diện đại lược thì là không ngừng thọ thân trong tam giới, sanh rồi chết, chết rồi lại sanh, chẳng có cách nào thoát khỏi trạng huống sanh tử. Xét tỉ mỉ, một mực thuộc trong sự dời đổi của các Uẩn; ở trong ấy, sẽ xuất hiện các nỗi khổ sanh, lão, bệnh, chết, yêu thương mà phải chia lìa, oán ghét mà phải tụ hội, cầu chẳng được v.v…, gặp phải những cảnh giới hợp ý, chẳng hợp ý, trung dung (không vừa lòng, không trái ý) v.v… không ngừng dấy lên tham, sân, si. Nói chung, trạng huống nơi cái nhân là trong các Uẩn đều có chủng tử phiền não theo sát, cho nên chẳng ngừng hiện hành phiền não, tạo tác cái nhân của sự khổ. Trạng huống nơi quả là do cái thân Ngũ Uẩn bị các chủng tử khổ theo sát nút, không ngừng xuất hiện các thứ khổ. Tất cả các hành vi đều do sức Hoặc nghiệp khống chế, tất cả quả báo đều do sức Hoặc nghiệp tạo tác, hoàn toàn là trạng huống tự tại xoay chuyển bởi nó (sức Hoặc nghiệp).

          Giống như một thớt ngựa bị dây cương khống chế, bị roi quật, chỉ có thể không ngừng tiến về trước, luôn bị người khác tùy ý xoay chuyển. Lại giống như tù nhân hứng chịu hình phạt, thồ đá đi về phía trước, chẳng có mảy may thong dong, thảnh thơi nào! Lại như chiếc thuyền nhỏ trôi giạt theo gió trong biển cả, sóng gió hung tợn, gấp rút, mạnh mẽ, chẳng ngừng một sát-na nào. Thuyền không ngừng bị sóng gió xô đẩy, chẳng được tự tại tí nào. Lại giống như một chiếc xe hơi loại nhỏ bị hư thắng, một mực chạy như điên, cuối cùng lao xuống vách núi. Cũng là do bị sức Hoặc nghiệp chi phối, Uẩn thân chẳng thể không tiến về trước; sau khi tạm thời an ổn, nhất định sẽ lao xuống vách núi. Đấy là kiếp sống luân hồi, luôn không ngừng tiến về trước, cuối cùng rơi khỏi vách núi! Trạng huống của sức Hoặc nghiệp giống như chiếc xe một mực chạy nhanh, bỗng xuất hiện trạng huống hiểm ác, nhân duyên tụ tập bèn rơi xuống vách núi, xe hủy, người chết. Đã thế, chẳng phải là rơi xuống vách núi một lần, đã rơi xuống vách núi rồi lại xuất hiện một chiếc xe chạy tiến về trước, sau đó lại đụng xe, lại bị hủy hoại. Lại xuất hiện một chiếc xe khác v.v… Cứ như thế chẳng hết, chẳng xong, một mực ở trong tình trạng bị khống chế. Vào thời cổ, chỉ có thể dùng hình tượng cái ách cày của con trâu để thí dụ, ngày nay thì có đủ các loại, các dạng thí dụ. Nói chung là chính mình chẳng tự tại, hết thảy đều là trạng huống mặc tình xoay chuyển theo thứ khác, toàn là trạng thái khổ sở. Do như vậy bèn liễu giải, trạng huống Ngũ Thủ Uẩn liên tục quả thật khó lòng chịu đựng. Đó chính bệnh trạng lớn nhất trên cõi đời.

          Trên đây là nói đến sự tuần hoàn do không ngừng bị sức Hoặc nghiệp hãm trong nỗi khổ, rơi vào trong sự kiềm chế của sự khổ, chẳng có cách nào thoát ra, nên gọi là “ách phược”. Đây cũng là hình dung Hành Khổ, thuộc vào trạng huống một mực bị sức Hoặc nghiệp tự tại xoay chuyển. Phải từ trong ấy mà tỉnh ngộ: Chúng ta từ vô thỉ cho đến đời này bèn ngưng dứt, đã trải qua thời kiếp lâu dài chẳng thấy bờ mé, một mực thuộc trong Hành Khổ bị sức Hoặc nghiệp tự tại xoay chuyển, chẳng tự tại. Đấy là cội nguồn phát sanh hết thảy các nỗi khổ sanh tử. Trong ấy có nỗi hoạn nạn cực đại là sanh tử, chẳng giống như nỗi khổ sanh tử trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trong các tình hình thông thường như ta thường nói; nó được gọi là Sanh Tử Khổ Hải (biển khổ sanh tử). Nếu chẳng tìm được phương pháp để giải trừ, đối trị, sẽ chịu khổ vô hạn giống hệt như vậy. Nếu chẳng thể dùng tự lực để giải trừ cơ chế vận hành này, sẽ vẫn bị nó lôi kéo đi theo hướng duyên khởi ấy. Đương nhiên là vận mạng thuần khổ, chẳng lạc, chớ nên mong mỏi sẽ có thể đạt được sự an lạc chân thật trong ấy!

          Chúng ta ắt cần phải tỉnh táo nhận biết điều này thì vận mạng mới có thể phát sanh chuyển biến. Phương hướng để tiến hành, phương hướng để nỗ lực sẽ biến thành “phải giải trừ Ngũ Thủ Uẩn”, chẳng phải là mong mỏi đạt được an lạc nơi uẩn thể. Đấy chỉ là vọng tưởng của kẻ si mà thôi! Một phen quyết đoán này sẽ khiến cho chúng ta phát sanh cái tâm chán lìa, mà cũng là mong thoát lìa nỗi khổ liên tục do Ngũ Thủ Uẩn.

10.1.1.3. Ý nghĩa bao hàm trong thí dụ về ung nhọt, ghẻ độc

          Khi ghẻ nhọt chạm phải nước nóng, sự cảm nhận khổ sở kịch liệt sẽ khống chế gắt gao thân tâm, đau đớn không có cách nào chịu đựng nổi! Đấy là thí dụ về trạng thái Khổ Khổ. Nếu chạm vào nước lạnh, sẽ chẳng bị nỗi đau đớn kịch liệt bức bách, cảm thấy thoải mái, vui sướng. Trên thực tế, chỉ là sự cảm nhận sai lầm khi Khổ Thọ được giảm nhẹ. Đấy là thí dụ về Hoại Khổ. Nhân duyên hòa hợp bèn tạm thời xuất hiện cảm nhận sai lầm là nỗi đau khổ giảm nhẹ. Hễ nhân duyên tan tác, lại bị hãm vào nỗi khổ. Nó có tánh chất diệt hoại, chẳng phải là sự an lạc chân thật. Hơn nữa, khi ghẻ nhọt chưa chạm vào nước nóng hay nước lạnh, cảm giác rất bình lặng; trên thực tế, sự tồn tại của vi trùng chẳng giảm bớt mảy may, căn bản là chẳng giải trừ. Chỉ cần gốc bệnh còn ẩn tàng, hễ gặp duyên, nó sẽ hiện hành Khổ Khổ và Hoại Khổ chẳng gián đoạn. Do vậy, hiện ra trạng thái tợ hồ bình lặng, thực tế là trạng thái chờ đợi sự khổ bùng phát. Đấy là thí dụ về Hành Khổ, từ đầu đến cuối đều thuộc trong trạng thái của cái nhân gây khổ, đương nhiên là tánh Khổ.

          Nay quan sát thân Ngũ Thủ Uẩn của ta và người khác, phải xác nhận nó đích xác giống như ung nhọt, ghẻ lở. Có thể phóng đại ung nhọt, ghẻ lở to một khoảng thước bảy, nặng hơn một trăm cân, đại khái là to bằng một người, phía ngoài bọc bằng một tầng da mỏng lét, bên trong là cơ chế phát sanh sự khổ. Nó bao gồm trạng huống của một đống lớn tế bào nưng mủ về mặt sinh lý, cùng với các thứ chủng tử phiền não và các thứ chủng tử khổ nơi tâm lý bám theo sát nút. Do vậy bèn biết: Trạng huống của nó là một lớp da bên ngoài bọc lấy các thứ khổ nhân độc tố, một mực dùng A Lại Da Thức làm cơ chế huân tập, cất giữ chủng tử, thuận theo sức duyên khởi mà hiển hiện chẳng dứt, khó thể suy lường được!

          Một mai nhân duyên của sự khổ chín muồi, nơi ung nhọt sẽ phát sanh nỗi khổ to lớn hết sức kịch liệt đối với thân tâm. Khi đó, hết sức khó thể chịu đựng, nỗi khổ kìm kẹp chính mình, chẳng có cách nào thoát khỏi. Có lúc các nhân duyên của phước nghiệp chín muồi, sẽ cảm thấy có những cảm giác vui sướng, tức Lạc Thọ, nỗi thống khổ giảm bớt, khiến cho người ta có cảm giác sai lầm là đang vui sướng. Nhưng đột nhiên lại giống như ghẻ nhọt chạm phải nước nóng, phát sanh Khổ Thọ (cảm nhận sự đau khổ) dữ dội. Có lúc cảm thấy rất bình thản, chẳng khổ, chẳng vui, cảm thấy như thế đó. Nhưng điều này cũng chẳng an ổn, vì chủng tử phiền não và chủng tử khổ trong khối ung nhọt to lớn chẳng giải trừ tí nào, chúng vẫn không ngừng tiếp nối, đang chờ đợi nhân duyên. Khi bỗng dưng gặp phải cảnh vừa ý hay trái ý, sẽ lại phát sanh tham, sân, lại bắt đầu một loạt khổ nhân mới. Hoặc là khi gặp gỡ các nhân duyên, thân thể lập tức ngã bệnh, xuất hiện sự suy lão, khó coi, hoặc là tử vong v.v… sự khổ nạn to lớn bám chặt nơi tự tâm, chẳng có cách nào thoát khỏi. Đó là trạng huống của Khổ Thọ. Hoặc là bỗng dưng gặp các nỗi khổ như yêu thương mà phải chia lìa, oán ghét mà cứ phải gặp gỡ, chiến tranh, ôn dịch, nạn đói v.v… từng đợt khổ sở, ưu sầu đưa tới, cảm thấy sống một ngày bằng cả năm, khi nào mới có thể thoát khỏi? Có khi lại nghênh đón mùa Xuân, ánh nắng tươi sáng, hoan ca, nói cười v.v… dường như có đôi chút vui sướng. Trong đời người, thường có tình trạng này, thật ra là Hoại Khổ. Vì mỗi điều đều là giả tướng do nhân duyên duy trì, hễ nhân duyên qua rồi, sẽ lại rất tịch mịch, rất bất đắc dĩ, chẳng có ý nghĩa gì, lại hãm trong ưu tư, khổ sở. Hoặc là một khi thành công, hạnh phúc, tình yêu v.v… trong quá khứ tan biến, những nỗi ưu tư, khổ sở dữ dội khó thể chịu đựng sẽ khống chế chính mình. Vì thế, những điều khoái lạc trong quá khứ đều là Hoại Khổ. Đấy là trạng huống trong nhân gian.

          Lại nói đến chuyện lên trời hưởng lạc, bất quá cũng chỉ là giảm chậm nỗi đau khổ trong một thời gian khá dài, chẳng bị bức bách, sầu não dữ dội cho lắm! Ngay trong lúc họ đắc ý vênh vang, tưng bừng hưởng lạc, bỗng dưng nhân duyên thay đổi, quang cảnh [đắc ý, khoái lạc] một thời ngay lập tức chẳng còn nữa, xuất hiện nỗi khổ suy diệt to đùng. Khi ấy, hết sức sợ hãi, sắp từ thiên giới đọa xuống, tình huống ngày càng ảm đạm, thê lương, toàn bộ các loại thọ dụng ngay lập tức chẳng còn nữa, hết sức khó chịu đựng, sau đấy, rơi vèo xuống hạ giới! Đáng thương nhất là trở thành củi mới trong địa ngục Vô Gián, ghẻ độc phát tác kịch liệt, các chủng tử địa ngục trong ấy hiện hành, không ngừng bị lửa mạnh thống khổ thiêu đốt triền miên vô số năm tháng không bờ bến, sống những ngày tháng tối tăm, thê thảm chẳng nỡ nhìn. Cho tới khi đỡ hơn đôi chút, sanh vào súc sanh đạo, hoặc làm người, nỗi khổ cùng cực giảm nhẹ đôi chút, nhưng rồi lại rất nhanh chóng đọa xuống. Cũng giống như vậy, do vì chẳng giải trừ Tập Đế, các chủng tử do Ngã Chấp đã huân tập thành sẽ không ngừng hiện hành; sau đấy, lại huân tập thành chủng tử khác, chúng nó lại hiện hành, một mực trôi lăn trong Hoặc nghiệp khổ! Uẩn cũng là diễn biến theo từng giai đoạn, là một thứ trạng huống khổ sở to lớn dường ấy!

          Sau khi đã lý giải như vậy, sẽ biết bản thân ta là một thứ ung nhọt to, một mực chẳng chữa lành! Nó không ngừng biến đổi, đổi mới đủ vẻ, xuất hiện các nỗi khổ chẳng cùng cực trong sáu đường. Đấy chính là chỗ phát sanh sự chán ghét. Một khi đã hiểu rõ Hành Khổ và Ngũ Thủ Uẩn Khổ, sẽ có thể phát sanh lòng chán lìa triệt để.

10.1.1.4. Ý nghĩa bao hàm trong “căn bản vô nghĩa lợi”

          Từ một niệm vô minh, sau khi đã trở thành Ngũ Thủ Uẩn, nó là tự tánh của Hành Khổ, trở thành căn bản để phát sanh vô lượng Khổ Khổ và Hoại Khổ. Nó thuần là khổ nhân (cái nhân tạo ra khổ), thuần là dụng cụ xuất sanh khổ, tạo ra khổ. Vì thế, cũng chẳng có một tí nghĩa lợi nào. Nói cách khác, nếu có thể đạt được một chút an lạc chân thật trong ấy, vậy thì có thể định nghĩa nó còn có nghĩa lợi chân thật, nhưng một tí an lạc chân thật cũng chẳng đạt được. Vì thế, nó lại giống như biển khổ thuần túy, lại giống như một nhà xí thuần túy ô uế, hoặc vùng đất của la-sát, nên gọi là “chốn khổ nạn vĩnh viễn”. Từ đây, có thể thấy là căn bản chẳng có nghĩa lợi! Mong cầu thật nghĩa trong ấy thì đúng là kẻ si nói mớ, mong mỏi những thứ tốt đẹp sẽ xuất hiện trong ấy thì hoàn toàn là suy tưởng điên đảo, rốt cuộc chẳng thể thực hiện được! Từ trong ấy, chúng ta phải thấy thấu suốt triệt để, phát sanh cái tâm chán lìa triệt để.

10.1.1.5. Ý nghĩa bao hàm trong câu “trên là cho đến thân chư thiên cũng đều như thế”

          Nhìn theo trạng huống toàn thể của luân hồi, [sẽ thấy] Ngũ Thủ Uẩn tiếp nối chẳng ngừng. Ngay như lên đến thiên giới, trạng huống này cũng chẳng biến đổi, chỉ là trong toàn thể quá trình lưu chuyển, nó sẽ ngưng nghỉ tạm thời một khoảng thời gian đó thôi. [Khi giai đoạn ngưng nghỉ ấy] qua đi, sẽ lại phát sanh Khổ Khổ. Bởi lẽ, thăng thiên chỉ là do sức mạnh của phước nghiệp khiến cho Khổ Khổ tạm thời ngưng dứt, chẳng phát tác dữ dội trong một khoảng thời gian, nhưng về căn bản là chẳng lành bệnh! Nhìn từ phía Ngũ Thủ Uẩn đã hình thành, họ (chư thiên) một mực mang bệnh của Ngũ Thủ Uẩn, chưa hề lành bệnh. Ngã Chấp và phiền não trong ấy chẳng đoạn mảy may, luôn luôn là trạng thái chủng tử phiền não và chủng tử khổ một mực theo đuổi. Do vậy, chắc chắn là sẽ có hậu uẩn (thân Ngũ Uẩn trong đời kế tiếp). Tình trạng bệnh tật ấy chẳng tiêu trừ chút nào, chắc chắn là sẽ diễn biến thành nỗi khổ vô cùng vô tận.

          Thân của chư thiên giống như tạm thời ngủ say một khoảng thời gian trước khi đọa lạc. Khi sức nhân duyên duy trì [cái thân ấy] tiêu tan, nói theo chư thiên trong Dục Giới, sẽ nhanh chóng xuất hiện “suy tướng”7

. Đó là nỗi khổ to lớn hết sức khó chịu đựng được, sau đấy sẽ đọa lạc. Nhìn từ Sắc Giới Thiên trở lên, họ sẽ nhanh chóng xuất Định. Do chẳng có Định lực, sẽ đọa lạc xuống cõi dưới. Đó là trạng thái của ghẻ độc [âm ỉ], chỉ là tạm thời dùng nước lạnh xoa lên chốc lát, do thực hiện sự bảo vệ rất tốt, cho nên nó tạm thời chẳng phát tác. Ngày nào đó, lìa khỏi sự bảo vệ, chạm phải nước nóng, Khổ Thọ sẽ ngay lập tức bộc phát. Từ đây có thể thấy: Thân trời và thân địa ngục cũng đều ở trong tình trạng bệnh khổ như nhau; bất quá, thân trời thuộc lúc [bệnh tình] chẳng phát tác, còn thân địa ngục nhằm lúc nó phát tác kịch liệt! Nhưng khi thân trời qua đi, sẽ là thân địa ngục, vì rốt cuộc [bệnh khổ] sẽ phát tác, lại còn phát tác rất mạnh. Do đó, nhìn từ toàn thể quá trình diễn biến, có thể nói là thân trời và thân địa ngục đều đáng sợ như nhau! Giống như thấy một người mang chứng bệnh ung thư đang phát tác dữ dội, cảm thấy người ấy hết sức đáng thương, nhưng một người khác có cùng bệnh chứng giống y hệt, tuy chưa phát bệnh, nhưng quan sát từ cơ chế duyên khởi, [sẽ biết là] chẳng mấy chốc, [người đó] cũng rơi vào tình trạng đó. Hai kẻ ấy giống nhau, bất quá sớm hay trễ một bước đó thôi!

          Chúng ta phải có tầm nhìn dài lâu, nhìn thấy cơ chế tạo tác Tam Khổ của Ngũ Thủ Uẩn; một khi đã thấy rõ toàn thể quá trình phát triển của nó, sẽ biết thân trời và thân địa ngục giống nhau. Vì sao nói như vậy? Thân địa ngục tạm thời đọa lạc vào chỗ khổ sở nhất, khi đã qua rồi, sẽ có thể quay lại làm người, làm trời, nhưng chỉ cần chẳng xuất hiện cách đối trị bằng Vô Ngã Không Huệ, vấn đề sẽ chẳng giải quyết. Có thể thấy thân địa ngục tạm thời phát tác dữ dội, nhưng trong nhiều kiếp sau, lại có thể trở về thành thân người, thân trời. Thăng thiên mấy vạn năm, thậm chí bao nhiêu kiếp, sau đó lại đọa lạc, rồi lại thăng lên… Nhìn vào toàn thể quá trình, [sẽ thấy] là họ tạm thời đọa xuống, [thời gian đọa lạc] qua đi, sẽ có thể thăng lên trở lại. Họ hiện thời đang ở trong tình trạng Khổ Khổ, sau đó, sẽ lại xuất hiện trạng thái Hoại Khổ và Hành Khổ. Thân trời hiện thời thuộc trạng thái Hoại Khổ hoặc Hành Khổ, nhưng chắc chắn là bao nhiêu năm hoặc bao nhiêu kiếp mai sau, sẽ rơi vào trạng thái Khổ Khổ. Nhìn vào toàn thể trạng huống, bất quá là tạm thời một đằng ở chân sóng, một đằng ở đỉnh sóng, chứ nhìn vào toàn thể trạng thái của sóng luân hồi, sẽ thấy chẳng khác biệt! Vận mạng luân hồi của chư thiên và vận mạng luân hồi của chúng sanh trong địa ngục, nhìn vào trạng thái trong tương lai, đều là như nhau!

          Chúng ta đừng nên ảo tưởng trong đoàn tàu khổ sở ấy sẽ có trạng thái tốt đẹp đáng nói! Chỉ cần không vãng sanh Tịnh Độ, rơi vào trong luân hồi, bất luận tạm thời là trạng huống gì đi nữa, nhìn theo toàn thể, sẽ thấy đều là giòng luân hồi khổ sở! Xét theo từng giai đoạn nhỏ, chúng ta cảm thấy hiện thời tốt đẹp lắm, có hạnh phúc, vui sướng, nhưng bậc trí thấu triệt nỗi khổ thủ uẩn, sẽ thấy giống như Tứ Bách Luận đã nói, “bậc trí quán cõi trời như địa ngục”, cùng một kiểu, một dạng như nhau! Ví như nhìn vào người trên địa cầu, nhìn theo từng giai đoạn nhỏ, bèn có các loại trạng thái sang, hèn, cao, thấp, nghèo, giàu, khổ, vui v.v… Nhưng nhìn vào trạng huống luân hồi chung của mỗi hữu tình, sẽ phát hiện “đều khổ như nhau!” Bất cứ hữu tình nào cũng đã đều vô số lần làm thiên vương, Chuyển Luân Vương, cũng đã vô số lần vào địa ngục, trạng huống y hệt như nhau! Đấy là trông thấy toàn thể tam hữu (tam giới) hoàn toàn thuộc vào trạng huống tam khổ (Khổ Khổ, Hoại Khổ, và Hành Khổ) tiếp nối chẳng ngừng, toàn là trạng huống luân hồi. Từ đó, sẽ có thể phát khởi cái tâm ghét trọn khắp tam hữu, tâm ghét trọn khắp luân hồi.

10.1.2. Thật Tu

          Chia thành hai phần:

          1) Khổ quán, bất tịnh quán v.v…

          2) Phát nguyện.

10.1.2.1. Khổ Quán, Bất Tịnh Quán…

          (Luận) Hành giả nhược hành, nhược tọa, nhược thùy, nhược giác, thường quán thử thân, duy khổ vô lạc, thâm sanh yếm ly.

          ()行者若行若坐,若睡若覺,常觀此身唯苦無樂深生厭離。

          (Luận: Hành giả đi, ngồi, ngủ, thức, thường quán thân này chỉ là khổ, chẳng lạc, sanh lòng chán lìa sâu xa).

          “Thử thân” (Thân này) chỉ Ngũ Thủ Uẩn. Sau khi đã liễu giải lý thú “khổ, vô lạc”, phải thường xuyên quán hạnh, cũng tức là trong khi đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ nghê, tỉnh giấc v.v… trong hết thảy các thời điểm và vị trí, trong hết thảy oai nghi, đều phải quan sát tánh của Ngũ Thủ Uẩn thuần là khổ, là cội nguồn của đại hoạn (tai ương to lớn), là cội nguồn của vô lượng khổ. Hãy nên quan sát nó chính là pháp đáng chán ghét nhất trên cõi đời, phát khởi lòng chán ghét đối với tự tánh của Khổ Uẩn, tức là có đầy đủ lòng chán ghét. Trong kinh luận, chư Phật, Bồ Tát ở đã dạy rõ ràng: Tâm chán lìa hoặc tâm xuất ly là đối với tự tánh của Thủ Uẩn, sẽ phát sanh lòng chán, lo. Liễu tri rành rẽ, xác đáng nó chính là cội nguồn của nỗi khổ sanh tử to lớn. Chúng ta thường nói “yếm hoạn thử thân” (chán ngán, lo ngại cái thân này), “yếm ly sanh tử” (chán lìa sanh tử), “tùng luân hồi trung giải thoát” (giải thoát khỏi luân hồi) v.v… đều nhằm nói lên ý này.

          Chúng sanh do một niệm mê mất mà nẩy sanh Ngã Kiến, hình thành tự tánh của Thủ Uẩn. Từ đấy, niệm nào cũng tiếp nối, từ đầu đến cuối, không có cách nào thoát khỏi trạng huống bị nghiệp lực tự do xoay chuyển, một mực đều là khổ nhân (cái nhân gây ra khổ), trạng thái khổ, không ngừng hứng chịu cuộc sống luân hồi chẳng hết, chẳng xong, phát triển thành biển khổ không ngằn mé. Đã thấu triệt lý thú trên đây, sẽ biết ghẻ độc ở ngay nơi đây, luân hồi ở ngay nơi đây, thân chính mình vướng phải căn bệnh lớn nhất tên là “Ngũ Thủ Uẩn bệnh”, [chính mình] cũng là tù nhân đáng thương nhất. Hễ nghĩ đến thể tánh của thân thể này, bèn sanh lòng chán lìa rất lớn, mong nhanh chóng giải quyết vấn đề này. Nếu không, khổ sở, ương hoạn sẽ vô biên!

          Giống như thế đó, đã hiểu đạo lý trên đây rồi, lại tác quán, có thể nghĩ tưởng: Cái thân này là căn bệnh lớn nhất, trong ấy, chứa đầy chủng tử phiền não, chủng tử khổ. Hễ gặp duyên, chúng nó sẽ dấy lên hiện hành, lại có thể chiêu cảm cuộc sống luân hồi kế tiếp. Giống như một gã tù nhân, biết chính mình đang ở trong trại tập trung của tam giới, bị phán xử chịu hành hình luân hồi không kỳ hạn, vào những lúc cố định hay bất ngờ, sẽ gặp phải các nỗi khổ lớn, nhỏ, dài, ngắn v.v… đủ hình, đủ vẻ! Gã ấy nhất tâm suy tưởng: “Một mực là thuần khổ chẳng vui như thế, đến khi nào ta mới có thể vượt thoát?” Cũng giống như vậy, một lòng mong vượt thoát. Khi ấy, đối với hết thảy, chẳng có một tí tâm ưa thích nào, chẳng ôm ấp bất cứ ảo tưởng nào, biết ngoài khổ ra thì vẫn là khổ! Tạm thời ăn một bữa ngon lành, sau đấy lại bị roi da hầu hạ. Tạm thời ngủ một giấc, sau đấy, lại bị đánh đấm. Đấy là thọ báo vô cùng vô tận, vĩnh viễn chịu khổ không ngằn hạn. Sự vui tạm thời chỉ bất quá cho quý vị được giảm bớt [nỗi thống khổ], đến lần sau, sẽ càng khổ hơn. Tạm thời lìa bỏ cũng chẳng phải là sự an ổn chân thật, mà là nghênh tiếp một trận khổ của lần sau. Sau khi đã liễu giải như vậy, thời thời khắc khắc đều phải quan sát “chỉ có khổ, chẳng vui”, sanh lòng chán ghét đối với toàn thể cuộc sống luân hồi, sanh lòng chán ghét đối với hết thảy các pháp trong luân hồi.

          Giống như trong một câu chuyện, trong quá khứ ở phương Bắc của Tây Tạng, Tán-ba (糌粑, zanba)8 rất hiếm quý, rất khó có để ăn, người dân nơi đó đa số ăn củ cải9 để sống sót. Trẻ nhỏ bất luận ăn củ cải tươi hay củ cải khô, đều nói: “Lại là củ cải, lại củ cải nữa!” Giống như vậy, pháp luân hồi thuần khổ chẳng vui, phải luôn luôn nhắc nhở chính mình: “Lại là pháp sanh tử, lại là pháp sanh tử. Khi nào ta sẽ có thể từ trong lao ngục tam giới thoát ra, sanh vào chỗ an lạc thanh tịnh?” Nhất tâm mong cầu giải thoát khỏi Ngũ Thủ Uẩn như vậy, thì gọi là Xuất Ly Tâm, bắt đầu mong thoát lìa luân hồi, chẳng phải là mong cầu điều gì trong ấy. Có cái tâm ấy, lại phối hợp với giáo pháp Tịnh Độ, biết A Di Đà Phật từ vô lượng kiếp tới nay, do đại nguyện và đại hạnh, đã thành tựu cõi Tịnh Độ ở ngoài tam giới, dùng phương tiện đơn giản và dễ dàng tột bậc để tiếp dẫn chúng sanh về đó, hòng tránh khỏi nỗi ưu hoạn sanh tử to lớn. Do vậy, nhất tâm sanh về thế giới Cực Lạc.

          (Luận) Túng sử thê phòng bất năng đốn đoạn, tiệm tiệm sanh yếm, tác thất chủng Bất Tịnh Quán.

          ()縱使妻房不能頓斷,漸漸生厭作七種不淨觀。

          (Luận: Dẫu chẳng thể đoạn ngay chuyện ân ái, hãy dần dần sanh lòng ghét bỏ, hành bảy thứ Bất Tịnh Quán).

          Ái dục giữa vợ chồng cũng là một mối hệ lụy rất lớn, trói buộc con người trong biển khổ Sa Bà. Nói theo nguyên tắc, dẫu chẳng thể nhanh chóng dứt bỏ chuyện ân ái giữa vợ chồng, cũng phải dần dần sanh lòng chán nhàm, hãy hành bảy thứ Bất Tịnh Quán. Yêu hay ghét đều dựa trên cách nhìn! Nếu nghĩ thân thể của đối phương rất khả ái, rất thanh tịnh, sẽ sanh lòng yêu mến. Thấy mọi phương diện đều là bất tịnh, sẽ sanh lòng chán nhàm. Vì thế, Bất Tịnh Quán là nhân, sanh lòng chán ngán là quả. Từ các thứ quán duyên, sẽ sanh lòng chán nhàm. Tùy thuộc nhiều lần tập quen, tâm chán nhàm cũng sẽ dần dần tăng trưởng. Do vậy, có thể dần dần thoát ly dâm dục, hướng về cõi nước hoa sen tịnh khiết.

          Do chẳng thấy rõ cội nguồn của thân thể đối phương, hoàn cảnh sanh nở, quá trình trước và sau của sự thành tựu thân thể, tử vong v.v… lầm tưởng thân thể của đối phương rất đáng yêu, bị sức mạnh của sự tác ý (suy nghĩ, dấy lên ý niệm) phi lý che chắn, sẽ chẳng thấy đó là ô uế. Nay lại thấy các thứ bất tịnh nơi đối phương thì gọi là “tác Bất Tịnh Quán”. Nói chung là quán thân thể của đối phương bất tịnh.

          (Luận) Nhất giả, quán thử dâm dục thân tùng tham ái phiền não sanh, tức thị chủng tử bất tịnh.

          ()一者觀此淫欲身從貪愛煩惱生,即是種子不淨。

          (Luận: Một là quán cái thân dâm dục này sanh từ phiền não tham ái, tức là chủng tử bất tịnh).

          Nếu chẳng liễu giải nguồn cội của thân thể đối phương, sẽ nghĩ đấy là thân thể thiên nhiên thuần khiết. Hoặc là về căn bản, do bị ngăn che bởi cái tâm chẳng nghĩ ngợi, cứ nghĩ nó (thân thể của đối phương) đẹp đẽ, tốt lành mà không ngừng sanh tham. Nay hãy một lần nữa quan sát thân thể này từ đâu mà có. Ví như đối phương là nữ, sẽ thấy thân thể của cô ta do dâm dục mà sanh, do phiền não tham ái mà có. Cũng tức là trong giai đoạn Trung Ấm, trông thấy cha mẹ ăn nằm, đối với cha sanh lòng tham dục, muốn giao hội với ông ta, bài xích mẹ. Do một niệm tâm ấy, bèn vào trong thai mẹ, trở thành nữ nhân. Nhìn như vậy, cô ta là do cái tâm tham ái ô uế mà có! Đấy là “chủng tử bất tịnh” hoặc “nhân bất tịnh”    

          (Luận) Nhị giả, phụ mẫu giao hội chi thời, xích bạch hòa hợp, tức thị thọ sanh bất tịnh.

          ()二者父母交會之時赤白和合,即是受生不淨。

          (Luận: Hai là khi phụ mẫu giao hội, trắng đỏ hòa hợp, tức là thọ sanh bất tịnh).

          Thứ hai, quan sát hoàn cảnh khi đối phương nhập thai như thế nào? Trong lúc cha mẹ đang gần gũi, tinh và huyết hòa hợp, nghiệp thức nhập vào tinh huyết. Từ đấy thai nghén, sanh ra thân thể. Đấy là chỗ nương vào, hoặc là hoàn cảnh thọ sanh bất tịnh. Ví như giòi bọ thọ sanh trong phân nhơ, [chúng nó] thai nghén sanh nở trong ấy. Nghĩ đến những thứ thọ sanh trong tinh huyết ô uế dường ấy, sẽ biết chỗ để nương vào hòng thọ sanh rất bất tịnh!

          (Luận) Tam giả, mẫu thai trung tại sanh tạng hạ, cư thục tạng thượng, tức thị trụ xứ bất tịnh.

          ()三者母胎中在生藏下居熟藏上,即是住處不淨。

          (Luận: Ba là ở trong thai mẹ, ở dưới sanh tạng, ở trên thục tạng, tức là trụ xứ bất tịnh).

          Thứ ba, quan sát hoàn cảnh trụ thai của đối phương sau khi đã thọ sanh, nghĩ [đối phương] được sanh nở từ hoàn cảnh ô uế. Cũng tức là ở trong thai mẹ thì ở dưới “sanh tạng” tức là phía dưới bao tử, ở trên “thục tạng”, tức là phía trên ruột. Trụ xứ hết sức ô uế, tối tăm, chật hẹp, chẳng thấy một chút ánh sáng nào. Hơn nữa, thường xuyên bị chèn ép. Mẹ hoạt động đôi chút, ví như đi lại, xoay eo, nằm ngủ, lật người v.v… sẽ đều khiến cho thai nhi chịu khổ dữ dội. Hơn nữa, bên trong thân mẹ hết sức hôi thối, bẩn thỉu. Dùng thân lợn để thí dụ, khi giết heo, mổ phanh bụng nó ra, ngay lập tức phát ra mùi hôi thối khó ngửi, khiến cho người ta nghe mùi phát ói. Trụ xứ bất tịnh như thế đó!

          (Luận) Tứ giả, tại mẫu thai thời, duy thực mẫu huyết, tức thị thực đạm bất tịnh.

          ()四者在母胎時唯食母血,即是食不淨。

          (Luận: Bốn là khi ở trong thai mẹ, chỉ ăn máu mẹ, tức là ăn uống bất tịnh).

          Thứ tư, quan sát những thức ăn mà đối phương thọ dụng khi ở trong thai. Khi đó, do cuống rốn [của thai nhi] nối liền với thân mẹ, nó ăn kinh huyết của mẹ, rất chẳng thanh tịnh.

          (Luận) Ngũ giả, nhật nguyệt mãn túc, đầu hướng sản môn, nùng huyết câu xuất,  uế lang tạ, tức thị sơ sanh bất tịnh.

          ()五者日月滿足頭向產門,膿血俱出臭穢狼藉,即是初生不淨。

          (Luận: Năm là ngày tháng trọn đủ, đầu hướng đến sản môn, máu mủ cùng túa ra, hôi thối, ô uế hỗn độn, tức là sơ sanh bất tịnh).

          Thứ năm, ở trong thai đã đủ ngày đủ tháng, do gió nghiệp thổi vào, đầu [thai nhi] tự nhiên quay ngược xuống, hướng đến cửa mình [của mẹ]. Từ xương chậu [của mẹ, đứa trẻ] thoát ra, bị sức ép mạnh mẽ, giống như nỗi khổ trong địa ngục Chúng Hợp. Thân thể mang theo máu, nhớt v.v… ô uế hỗn độn. Khi đối phương ra khỏi thai là tình hình bất tịnh như thế đó!

          (Luận) Lục giả, bạc bì phú thượng, kỳ nội nùng huyết biến nhất thiết xứ, tức thị cử thể bất tịnh.

          ()六者薄皮覆,其內膿血遍一切處,即是舉體不淨。

          (Luận: Sáu là da mỏng che lên trên, trong đó máu mủ trọn khắp hết thảy các chỗ, tức là khắp thân bất tịnh).

          Thứ sáu, bắt đầu từ lúc sanh ra làm một đứa trẻ; sau đó, dần dần trưởng thành, thiếu niên, thanh niên, trung niên, lão niên… Trong toàn thể quá trình từng trải ấy, có một cái thân thể, thể tánh của nó như thế nào? Chỉ là một tấm da mỏng phủ trùm lên trên; hễ xé ra, trong ấy sẽ là máu mủ trọn khắp hết thảy các chỗ, hoặc là có thể trông thấy trạng huống của Tứ Đại Địa, Thủy, Hỏa, Phong. Chẳng hạn, xương xẩu, bắp thịt, tim, gan, tỳ, phổi v.v… các nội tạng thuộc về Địa Đại. Mồ hôi, nước tiểu, các chất lỏng trong cơ thể v.v… thuộc về Thủy Đại. Các thứ co bóp, chuyển động v.v… thuộc về Phong Đại. Lại có nhiệt độ thân thể, nhiệt lực v.v… những món ấy thuộc về Hỏa Đại. Nói chung, phải thấy [cái thân của ta] chỉ là Tứ Đại hòa hợp, chẳng có vật gì thanh tịnh. Hoặc là quan sát trạng huống của ba mươi sáu loại vật bất tịnh, hoàn toàn là tình hình bất tịnh. Nếu lột lớp da ấy ra, đặt lên trên thớt, mỗi thứ đều bày ra, có ai cảm thấy nó là thanh tịnh, sanh lòng luyến ái chẳng bỏ nổi ư? Hiện thời, không thứ gì chẳng phải là bọc trong một tầng da mà thôi! Người hiện thời khéo hóa trang, càng làm cho người khác chẳng thấy rõ chân tướng, nhưng thực tế vẫn là bất tịnh y hệt!

          Từ đây sẽ thấy, trong khoảng từ lúc mới đến nhân gian cho tới khi tử vong, thân thể đối phương mà chính mình yêu mến đó thuộc về trạng huống “toàn thể bất tịnh”. Từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, chẳng có được một tí vật thanh tịnh nào! Cái thân thể vốn trước đó được coi là thuần khiết nhất, xinh đẹp nhất trong cõi đời chỉ là [cách nhìn] điên đảo đến cực điểm, chỉ là sự suy nghĩ phi lý, do tập khí dâm dục huyễn tưởng mà ra. Hiện thời, phải nên thấy đối phương chỉ là vật huyễn hóa khắp thân bất tịnh.

          (Luận) Thất giả, nãi chí tử hậu bành trướng, lạn hoại, cốt nhục tung hoành, hồ lang thực đạm, tức thị cứu cánh bất tịnh.

          ()七者乃至死後膨脹爛壞,骨肉縱橫狐狼食,即是究竟不淨。

          (Luận: Bảy là cho đến sau khi chết, trương phềnh, nứt nẻ, hư hoại, xương thịt vung vãi, cáo, sói ăn nuốt, tức là rốt ráo bất tịnh).

          Thứ bảy là quan sát kết cục cuối cùng. Sau khi đã chết, thân thể biến thành sắc đỏ bầm, trương phềnh, hư nát, hư hoại, hư nát từng tầng một như vậy. Cuối cùng, xương xẩu chia lìa, từng miếng thịt vung vãi ngoài đồng, bị cáo, sói ăn nuốt. Trông thấy rốt cuộc bất tịnh như vậy, cuối cùng triệt để bộc lộ bổn tướng bất tịnh.

          (Luận) Tự thân ký nhĩ, tha thân diệc nhiên. Sở ái cảnh giới nam nữ thân đẳng, thâm sanh yếm ly, thường quán bất tịnh. Nhược năng như thử quán thân bất tịnh chi giả, dâm dục phiền não, tiệm tiệm diệt thiểu.

          ()自身既爾他身亦然,所愛境界男女身等,深生厭離常觀不淨。若能如此觀身不淨之者,淫欲煩惱漸漸滅少。

          (Luận: Thân của chính mình là như thế, thân người khác cũng thế. Đối với cảnh giới yêu mến như thân nam nữ v.v… sanh tâm chán lìa sâu xa, thường quán bất tịnh. Nếu có thể quán thân bất tịnh như thế, phiền não dâm dục sẽ dần dần diệt trừ hoặc giảm bớt).

          Thân thể của chính mình là như thế, thân thể của đối phương cũng giống như vậy. Đối với cảnh giới yêu mến, tức thân thể nam nữ v.v… thường quán trạng huống bất tịnh, sẽ sanh khởi lòng chán lìa rất sâu! Nếu có thể quán thân bất tịnh như vậy, phiền não dâm dục sẽ dần dần giảm bớt, có thể thoát khỏi đó, nhất tâm sẽ tương ứng với nhân duyên hóa sanh trong hoa sen thanh tịnh, dùng cái tâm vô nhiễm thanh tịnh để cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          (Luận) Hựu tác thập tưởng đẳng quán, quảng như kinh thuyết.

          ()又作十想等觀,廣如經說。  

          (Luận: Lại quán mười thứ tưởng v.v.… như kinh đã nói chi tiết).

          Thêm nữa là quán mười thứ tưởng, cách quán chi tiết thì như trong kinh đã dạy.

          Thập tưởng: Một, vô thường tưởng, hai là khổ tưởng, ba là vô ngã tưởng; bốn là thực bất tịnh tưởng (tưởng ăn những thứ bất tịnh), năm là thế gian bất khả lạc tưởng (tưởng thế gian chẳng đáng vui), sáu là tử tưởng (suy tưởng cái chết, hoặc tưởng như chính mình đã chết), bảy là bất tịnh tưởng; tám là đoạn tưởng, chín là ly tưởng, mười là tận tưởng. Chữ Đẳng là nói đến [những phép tưởng khác] như cửu tưởng v.v… Cửu tưởng thì một là tưởng [xác chết] trương phềnh, hai là tưởng hư hoại, ba là tưởng máu vấy tràn lan, bốn là tưởng nưng mủ, nát rữa, năm là tưởng xanh bầm, sáu là tưởng [xác chết bị chim thú] ăn nuốt, bảy là tưởng [thịt, xương, da tan tác), tám là tưởng [da thịt rữa nát hết, chỉ còn lại] xương, chín là tưởng bị đốt trụi. Những phép quán tưởng này đều khiến cho người ta thoát lìa dâm dục, trong tâm dần dần thanh tịnh. Nguyên lý của chúng là do quán bất tịnh bèn sanh chán ghét. Do vậy, sẽ thoát khỏi đó.

10.1.2.2. Phát nguyện

          (Luận) Hựu phát nguyện, nguyện ngã vĩnh ly tam giới tạp thực, xú uế nùng huyết bất tịnh, đam hoang ngũ dục nam nữ đẳng thân, nguyện đắc Tịnh Độ pháp tánh sanh thân. Thử vị yếm ly hạnh.

   ()又發願,願我永離三界雜食,臭穢膿血不淨,耽荒五欲男女等身,願得淨土法性生身。此謂厭離行。

   (Luận: Lại phát nguyện, nguyện ta sẽ vĩnh viễn lìa khỏi những thứ thức ăn tạp loạn trong tam giới, hôi thối, máu mủ bất tịnh, tham đắm ngũ dục bừa bãi với thân nam nữ v.v…, nguyện đạt được tấm thân sanh bởi Pháp Tánh trong Tịnh Độ. Đấy gọi là hạnh chán lìa).

          Trong phần trên, đã quán cái thân Ngũ Thủ Uẩn chỉ có khổ, không có lạc. Nó là nguồn gốc của hết thảy các nỗi khổ sở, ương hoạn, là cội gốc của hết thảy nỗi khổ sanh tử, đối với nó mười phần chán ghét. Tiếp đó, nếu chẳng vãng sanh Tịnh Độ, chỉ là bi quan uổng công, vẫn chẳng có ý nghĩa chi hết. Biết vãng sanh Di Đà Tịnh Độ liền có thể vượt thoát Khổ Uẩn ngay trong một đời, bèn nhất tâm mong cầu được tấm thân sanh bởi Pháp Tánh trong Tịnh Độ. Đấy là hạnh chán lìa.

          Điều then chốt ở đây chính là tu nguyện. Trong phần trước là đã đạt được thắng giải (kiến giải thù thắng), lại còn thường xuyên quan sát, đương nhiên là cái tâm chán lìa sẽ mạnh mẽ, sắc bén, thường hằng. Sau đấy, phải phát nguyện, dùng sự ham muốn mạnh mẽ, nguyện xả uẩn thân (cái thân do Ngũ Uẩn kết thành) sanh tử để đạt lấy tấm thân sanh bởi Pháp Tánh của Tịnh Độ. Phải đạt tới mức [dũng mãnh phát nguyện dẫu] một vạn con trâu cũng chẳng lôi lại được. Loại duyên khởi này tương ứng khít khao với bi nguyện nhiếp thủ chúng sanh thoát khỏi nỗi khổ thủ uẩn của đức Di Đà. Do vậy, có thể cảm thông với tâm Phật mà được vãng sanh.

          Nói “vĩnh ly” (vĩnh viễn lìa khỏi) tức là nghĩ đây là kiếp sống cuối cùng, từ nay về sau, vĩnh viễn thoát ly Ngũ Thủ Uẩn. Từ chữ “tam giới” trở đi là giải thích trạng huống của thân thể này. Do quan sát như trong phần trên đã nói, bèn liễu giải: Phạm vi là tam giới, do thủ uẩn liên tục bèn trải qua khắp các chỗ sanh trong Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới. Từ những nơi đó, xuất hiện thân địa ngục, thân ngạ quỷ, thân bàng sanh, thân Tu La, thân người, thân trời. Các thứ trạng huống nơi các thân trong lục đạo đều là các mắt xích trong thủ uẩn, là một thứ biến hóa trong căn bệnh sanh tử không ngơi, không dứt. Hết thảy các thân ấy đều là Khổ Uẩn, chẳng cần những thứ ấy nữa, triệt để chán lìa! “Tạp thực” bao gồm đoạn thực, xúc thực, tư thực, và thức thực11 v.v… những thứ thọ dụng ấy nuôi sống cái thân này.

          “Xú uế nùng huyết bất tịnh” (máu mủ hôi thối, dơ bẩn, bất tịnh): Ví như thân thể con người là do ba mươi sáu món vật bất tịnh hợp thành, chẳng phải là pháp thanh tịnh. “Đam hoang ngũ dục” là nói thân này đặc biệt ích kỷ. Vì để thỏa mãn dục vọng của nó mà thọ dụng Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, pháp quá mức, tham lam chẳng chán! Nói “nam nữ” nhằm biểu thị giới tính khác biệt. Những điều này nhằm miêu tả, trần thuật phạm vi, thể tánh, dục vọng và giới tính sai biệt v.v… nơi cái thân Ngũ Thủ Uẩn.

          Nói chung, xét theo nỗi khổ chung hoặc hình thái khổ sở chung của Ngũ Thủ Uẩn thì tất cả hình thái và tất cả trạng thái ăn uống, trạng thái thể tánh, trạng thái tham dục, trạng thái giới tính sai khác v.v… trong lục đạo, đối với hết thảy những thứ ấy, nhất loạt chán lìa, cũng chẳng cần đến chúng nữa. Trong phần trước đã nói, từ một niệm Ngã Kiến khởi Hoặc, bèn trở thành tự tánh Hành Khổ, đều là cái thân do sức Hoặc nghiệp xuất hiện. Do vậy gọi là Thủ Uẩn. “Thủ” (nắm giữ) có nghĩa là phiền não. [Thân Ngũ Thủ Uẩn] là cái thân do phiền não dẫn khởi, chẳng có bất cứ lạc tánh nào, còn cái thân Tịnh Độ được gọi là “Pháp Tánh sanh thân” (thân sanh bởi Pháp Tánh), thoát ly ba khổ. Sức oai thần to lớn chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật hợp với sức thiện căn và sức tín nguyện của hành giả, sẽ hiện thành Pháp Tánh sanh thân. Nó là cái thân thanh tịnh xuất hiện bởi sức Pháp Tánh, chẳng còn xoay chuyển trong vòng khổ sở, chỉ lạc, không khổ, quá thù thắng!

          Chúng ta chỉ cậy vào tự lực mà muốn đoạn Hoặc chứng Chân sẽ hết sức khó khăn, nhưng cậy thêm Phật lực, bèn có thể vãng sanh Tịnh Độ ngay trong đời này. Hễ vãng sanh, sẽ triệt để cắt đứt sự liên tục của Thủ Uẩn. Do đạo lý này, nên gọi là “vĩnh ly chư khổ” (vĩnh viễn lìa các nỗi khổ). Từ trạng huống “chỉ khổ, không vui” liên tục, biến thành trạng huống “chỉ vui, không khổ” liên tục. Đã có thể nhận biết chắc chắn rất cặn kẽ, vậy thì tất nhiên là [ý nguyện dũng mãnh] cầu sanh Tịnh Độ sẽ tất nhiên là một vạn con trâu không kéo lại nổi, nhất tâm mong đạt được thân Tịnh Độ. Do điều này, có thể đạt đến địa vị Bất Thoái Chuyển, rốt ráo thành Phật trong một đời, chẳng trải qua đời thứ hai, nhanh chóng thành tựu Vô Sanh Pháp Nhẫn, niệm nào cũng tăng tấn trên Bồ Đề đạo, nhanh chóng thành tựu viên mãn phước trí tư lương, hoàn thành Bồ Đề đại đạo, quá thù thắng! Có loại tâm này, nhất định mong thoát lìa trạng huống Thủ Uẩn, giữ lấy thân Tịnh Độ; đấy gọi là Yếm Ly Hạnh.

10.2. Hân Nguyện hạnh

          (Luận) Nhị minh Hân Nguyện hạnh giả, phục hữu nhị chủng: Nhất giả, tiên minh cầu vãng sanh chi ý; nhị giả, quán bỉ Tịnh Độ trang nghiêm đẳng sự, hân tâm nguyện cầu.

          ()二明欣願行者,復有二種,一者先明求往生之意,二者觀彼淨土莊嚴等事欣心願求。

          (Luận: Hai là nói về hạnh Hân Nguyện, lại có hai loại: Một là trước hết nói rõ ý vãng sanh, hai là quán các sự trang nghiêm trong Tịnh Độ, tâm vui thích nguyện cầu).

          Thứ hai, nêu rõ cách thực hiện hạnh Hân Nguyện. Ở đây, lại còn phải hiểu rõ thứ tự khai thông duyên khởi trong tâm, biết phải tiến hành từng cấp, từng bậc như thế nào. Trước hết, hiểu đích xác, rành rẽ dụng ý của việc cầu vãng sanh, cũng tức là vì để nhanh chóng hoàn thành Bồ Đề đạo, thực hiện nguyện vọng phổ độ chúng sanh, mà cần phải dùng cầu sanh về thế giới Cực Lạc làm môn “đường tắt”. Trong ấy, có sự suy xét, dụng tâm, hoặc ý đồ hết sức sâu xa. Nói cách khác, vì sao phải ưa thích mong cầu thế giới Cực Lạc? Nhất định phải thấy lộ trình nơi nghĩa lý to lớn. Chẳng hiểu rõ đạo lý, lòng tin sẽ không sâu đậm, nguyện sẽ chẳng thiết tha, hạnh sẽ chẳng chuyên ròng. Một khi đã hiểu rõ để chọn lựa đạo lý, biết nó là tuyến đường thành Phật nhanh chóng tột bậc thù thắng, hiểu lý hết sức rõ ràng, xác đáng như vậy, tín tâm sẽ sâu đậm. Tín tâm đã sâu đậm thì nguyện sẽ hết sức thiết tha, sẽ có căn bản ưa thích, mong cầu. Sau đó, do cái tâm ưa thích mong cầu thúc giục, sẽ bắt đầu tiến nhập Tịnh Độ quán hạnh, hạnh sẽ hết sức chuyên, nhất tâm tương ứng với Cực Lạc Tịnh Độ và A Di Đà Phật. Như thế thì sẽ xuất hiện điều thứ hai, “quán bỉ Tịnh Độ trang nghiêm đẳng sự, hân tâm nguyện cầu” (quán những sự trang nghiêm trong Tịnh Độ, tâm ưa thích nguyện cầu).

          Thông qua hạng mục thứ nhất để xác lập lộ trình, kiến lập chí nguyện; sau đấy sẽ bất biến, hoàn toàn gieo mình vào Tịnh Độ quán hạnh. Do vậy, một mực duyên theo các sự trang nghiêm trong Tịnh Độ để quán tưởng, tư duy, ức niệm. Do sự duyên khởi của tâm lại dẫn về Tịnh Độ, lại khiến cho nó (tín tâm) đã sâu lại càng sâu hơn, đã thuần lại càng thuần hơn, đã kiên cố lại kiên cố hơn, tiếp thông và tương ứng với biển nguyện của A Di Đà Phật. [Đã hiểu lý rồi thì] nguyện sẽ hoàn toàn chẳng giống với [nguyện của] kẻ chẳng hiểu lý trước đó, [nguyện của kẻ chẳng hiểu lý sẽ] hời hợt, qua loa, người khác nói sao thì ta cũng ừ hử làm vậy, làm theo hình thức bề ngoài v.v… có sự khác biệt cả một ngàn lần, một vạn lần v.v… Vì đã hiểu rõ lý, có lòng tin sâu sắc và nguyện thiết tha, sức tín nguyện sẽ nhiếp trì cái tâm toàn diện dũng mãnh gieo trọn vào [pháp môn Tịnh Độ], tâm chuyên ròng quán hạnh, đương nhiên là quyết định vãng sanh.

          Do đây bèn biết: Sự tu hành được kiến lập sau khi đã đạt được kiến giải thù thắng, sẽ khác biệt một trời một vực với sự tu hành mang tánh cách hình tướng khi chưa đạt được kiến giải thù thắng. Có duyên khởi thiết thực, thâm nhập phát triển, thì mới quyết định được vãng sanh. Nếu không, tuy chẳng dám nói “tuyệt đối không thể vãng sanh”, nhưng do nhân duyên dầy hay mỏng, cạn hay sâu, mạnh hay yếu v.v… mà sẽ có sự khác biệt cực đại.

          Dưới đây, chia làm hai khoa mục để giải thích:

          1) Nói rõ ý nghĩa to lớn của việc cầu vãng sanh.

          2) Quán những sự trang nghiêm của Tịnh Độ, tâm ưa thích nguyện cầu.

10.2.1. Nói rõ ý nghĩa to lớn của việc cầu vãng sanh

          Chia thành hai phần: Nói đại lược và nói chi tiết. Nói đại lược và nói chi tiết đều là cùng một ý nghĩa, đều nhằm nói “cầu sanh Tịnh Độ hòng thành Bồ Đề để độ chúng sanh”. Nói chi tiết là dựa theo chuyện lìa khỏi ba môn chướng ngại Bồ Đề để đạt được ba môn thuận Bồ Đề trong Vãng Sanh Luận, hòng thấy được đường nẻo tiến nhập Đại Thừa đạo. Trước hết là tu Bồ Đề tâm, sau đó bèn thấy rằng: Chỉ có vãng sanh Tịnh Độ thì mới có thể nhanh chóng đạt thành đại dụng của sức bi trí, tự tại vô ngại nhiếp thủ trọn khắp chúng sanh trở về pháp giới thanh tịnh. Do nguyên nhân ấy, nhất tâm cầu sanh thế giới Cực Lạc.

10.2.1.1. Nói đại lược

          (Luận) Minh vãng sanh ý giả, sở dĩ cầu sanh Tịnh Độ, vị dục cứu bạt nhất thiết chúng sanh khổ cố. Tức tự tư thổn, ngã kim vô lực, nhược tại ác thế, phiền não cảnh cường, tự vị nghiệp phược luân nịch tam đồ, động kinh kiếp số. Như thử luân chuyển, vô thỉ dĩ lai, vị tằng hưu tức, hà thời năng đắc cứu khổ chúng sanh? Vị thử cầu sanh Tịnh Độ, thân cận chư Phật. Nhược chứng Vô Sanh Nhẫn, phương năng ư ác thế trung cứu khổ chúng sanh.

          ()明往生意者,所以求生淨土,為欲救拔一切眾生苦故。即自思忖,我今無力,若在惡世煩惱境強,自為業縛淪溺三塗動經劫數,如此輪轉無始已來未曾休息,何時能得救苦眾生?為此求生淨生親近諸佛,若證無生忍,方能於惡世中救苦眾生。

          (Luận: Hiểu rõ ý nghĩa vãng sanh: Sở dĩ cầu sanh Tịnh Độ là vì muốn cứu vớt, dẹp trừ nỗi khổ của hết thảy chúng sanh, bèn tự suy nghĩ, nay ta không có sức. Nếu ở trong đời ác, cảnh phiền não mạnh mẽ, chính mình bị nghiệp trói buộc, chìm đắm luân lạc trong tam đồ trải bao kiếp số. Trôi lăn như thế từ vô thỉ đến nay chưa từng ngưng dứt, bao giờ mới có thể cứu khổ chúng sanh? Vì lẽ này bèn cầu sanh Tịnh Độ, thân cận chư Phật. Nếu chứng Vô Sanh Nhẫn thì mới có thể ở trong đời ác cứu khổ chúng sanh).

          Trước hết, xác định rõ ràng ý nguyện cầu sanh thế giới Cực Lạc của chính mình. Sở dĩ cầu sanh Cực Lạc Tịnh Độ là vì muốn cứu giúp, dẹp trừ nỗi khổ nạn của hết thảy chúng sanh. Trước đó đã tư duy nỗi khổ Ngũ Thủ Uẩn của chính mình, nhưng hết thảy chúng sanh đều có nỗi khổ ấy, [hành nhân Tịnh Độ bèn] có tâm tưởng suy từ mình mà nghĩ đến người khác. Chính mình đã mong thoát khỏi đại khổ hải, vậy thì hết thảy cha mẹ, chúng sanh cũng đều nên thoát khỏi đại khổ hải. Vì lẽ này, chính mình nguyện gánh vác trọng trách đối với sự nghiệp to tát này. Từ sự suy nghĩ sâu xa ấy, lại trông thấy sự thù thắng của thế giới Cực Lạc, cho nên nhất tâm vui thích, mong cầu vãng sanh.

          Nói cụ thể, chính mình hãy cân nhắc kỹ lưỡng hai con đường:

          – Một đằng là thọ sanh trong uế độ nhằm thời ô trược để thành tựu viên mãn đại nguyện này.

          – Một đằng khác là cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ để thành tựu viên mãn đại nguyện này.

          Phải xem xác suất thành công của hai con đường ấy như thế nào. Đương nhiên là phải chọn con đường nào có xác suất thành công cao, thành tựu nhanh chóng, ngõ hầu nhanh chóng thực hiện nguyện vọng. Cân nhắc khách quan: Hiện thời, chúng ta chẳng có năng lực; giả sử sanh trong thế giới ác, các cảnh duyên dẫn khởi các phiền não tham, sân, si, mạn v.v… càng ngày càng mạnh, nhưng chính mình chẳng có Vô Sanh Nhẫn Lực, ở trong cảnh giới như vậy, sẽ không có cách nào chống chọi, sẽ rất nhanh chóng khởi Hoặc tạo nghiệp. Tới lúc lâm chung, bị nghiệp buộc ràng, quá nửa sẽ luân lạc trong tam đồ. Hễ đọa lạc, sẽ là nhiều kiếp khó thể vượt thoát. Luân chuyển như thế từ vô thỉ cho đến ngày nay, từ đầu đến cuối chẳng hề ngưng ngớt. Do đó, cậy vào tự lực, sẽ rất khó vượt thoát giòng khổ! Chính mình còn chẳng thể vượt qua, làm sao có thể cứu độ chúng sanh đau khổ cho nổi? Có thể thấy là đi theo con đường này, cơ bản là chẳng có cách nào thực hiện đại nguyện độ sanh. Xét theo tình hình thông thường, vô số kiếp sau mới có thể thực hiện được.

          Một con đường khác là nếu cầu sanh Tây Phương, trọn đủ tín nguyện để niệm Phật, ngay trong đời này sẽ có thể sanh về Tịnh Độ thù thắng nhiệm mầu, đạt được Pháp Tánh sanh thân, sẽ ngay lập tức cắt đứt giòng khổ, đạt lên địa vị Bất Thoái Chuyển, nhanh chóng đạt được Vô Sanh Nhẫn Lực, có thể rất nhanh chóng quay về thế giới Sa Bà độ chúng sanh. Đấy là con đường có thể viên thành trong hai đời. Đời này chẳng đầy mấy chục năm sẽ được vãng sanh, đời thứ hai bèn ở trong Tịnh Độ thành Phật ngay trong một đời, xác suất thành công là một trăm phần trăm, tốc độ là hai đời bèn thành Phật. Do vậy, con đường này hết sức thù thắng, vì cậy vào sức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật. Sau khi đã cân nhắc như vậy, vì thực hiện đại nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh, chúng ta phải chọn lựa con đường tắt để nhanh chóng thành tựu Vô Sanh Nhẫn Lực, tức là pháp môn Tịnh Độ tự tha nhị lực hợp tu. Do vậy, nhất tâm cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.

          Thông qua việc cân nhắc hai con đường ấy, xác nhận vì hoàn thành bi nguyện phổ độ chúng sanh, bèn mong muốn đến Tây Phương Tịnh Độ hết sức mau chóng, đích thân thấy A Di Đà Phật, đạt được Vô Sanh Nhẫn Lực. Đấy là đường lối kết hợp với Tịnh Độ nơi cái tâm hòng dẫn phát Bồ Đề tâm.

          (Luận) Cố Vãng Sanh Luận vân: “Ngôn phát Bồ Đề tâm giả, chánh thị nguyện tác Phật tâm. Nguyện tác Phật tâm giả, tắc thị độ chúng sanh tâm. Độ chúng sanh tâm giả, tắc thị nhiếp chúng sanh sanh Phật quốc tâm”.

          ()故往生論云:「言發菩提心者,正是願作佛心。願作佛心者,則是度眾生心。度眾生心者,則是攝眾生生佛國心。」

          (Luận: Do đó, Vãng Sanh Luận viết: “Nói phát Bồ Đề tâm chính là cái tâm nguyện làm Phật. Cái tâm nguyện làm Phật chính là cái tâm độ chúng sanh. Cái tâm độ chúng sanh chính là cái tâm thâu nhiếp chúng sanh sanh về cõi Phật”).

          Do duyên cớ ấy, trong Vãng Sanh Luận có nói: “Phát Bồ Đề tâm” được nói trong Tịnh Độ chính là cái tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật chính là cái tâm mong thực hiện “độ hết thảy chúng sanh”. Cái tâm muốn thực hiện “độ hết thảy chúng sanh” chính là nguyện nhiếp hết thảy chúng sanh sanh về cõi Phật.

          Phải thấy chính mình cũng là một chúng sanh, độ chúng sanh cũng là phải nhiếp cái tâm của chính mình sanh về Phật quốc. Nói cách khác, chúng ta mong cầu Bồ Đề là nguyện làm Phật. Nguyện làm Phật thì trước hết phải độ chúng sanh nơi chính mình, triệt để tiêu trừ hết thảy những tướng rối loạn xuất hiện bởi sức vô minh, như thế chính là độ chúng sanh nơi chính mình. Vậy thì độ như thế nào? Phải là sanh về cõi Phật, được Phật lực gia bị khai phát bổn tánh; từ đấy trở đi, chẳng còn bị sức Hoặc nghiệp xoay chuyển. Đó gọi là Bất Thoái. Sau đấy, có thể dần dần khai phát tâm tánh, hiển hiện vị Phật vốn sẵn có nơi tự tánh. Để thực hiện điều này, chúng ta phải sanh về cõi Phật, dùng sức đại giác của Phật khiến cho tâm tánh của ta mở mang thông sáng, trụ nơi sự sáng suốt vốn có trong tự tánh, chẳng bị mê mất.

          Sau đấy bèn từ mình mà nghĩ đến người khác: Ta đã sanh về cõi Phật, nhưng hết thảy chúng sanh cũng đều ở trong tình cảnh giống hệt. Do vậy, phải nhiếp thọ hết thảy chúng sanh cùng sanh về cõi Phật. Đấy chính là ý nghĩa được bao hàm trong Bồ Đề tâm của Tịnh Độ. Điều này chẳng có gì khác hơn là kết hợp Bồ Đề tâm với chuyện vãng sanh Tịnh Độ, khiến cho ta và người khác nhanh chóng thành tựu viên mãn hai thứ lợi (tự lợi và lợi tha), thành tựu Phật quả. Bởi lẽ, Bồ Đề tâm chung khắp [cho mọi pháp môn] và cầu sanh Tịnh Độ chẳng phải là hai chuyện! Cầu sanh Tịnh Độ hòng làm Phật để độ chúng sanh; vì để làm Phật độ chúng sanh mà dùng Tịnh Độ làm con đường tắt. Đấy chính là liễu giải ý nghĩa được bao hàm trong Bồ Đề tâm của Tịnh Độ.

10.2.1.2. Nói chi tiết

          (Luận) Hựu nguyện sanh Tịnh Độ, tu cụ nhị hạnh. Nhất giả, tất tu viễn ly tam chủng chướng Bồ Đề môn pháp. Nhị giả, tu đắc tam chủng thuận Bồ Đề môn pháp.

          ()又願生淨土須具二行,一者必須遠離三種障菩提門法。二者須得三種順菩提門法。

          (Luận: Lại nữa, nguyện sanh về Tịnh Độ, cần phải có đủ hai hạnh: Một là ắt cần phải viễn ly ba loại pháp chướng ngại Bồ Đề môn; hai là ắt phải đạt được ba loại pháp thuận Bồ Đề môn).

          Tiếp đó, phải hiểu rõ nguyện sanh về Tây Phương Tịnh Độ thì phải tu hành nơi hai phương diện Đại Thừa: Một là ắt phải xa lìa ba loại pháp chướng ngại Bồ Đề môn, hai là ắt phải đạt được ba loại pháp thuận Bồ Đề môn. Vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ là pháp môn để nhanh chóng thành tựu Phật đạo. Trước hết, phải bài trừ ba loại pháp chướng ngại Bồ Đề môn; sau đó, sẽ có thể đạt được ba loại pháp thuận Bồ Đề môn. Cái nhân đã trọn đủ viên mãn thì sẽ có thể vãng sanh. Sau đó, nhanh chóng thành tựu Phật đạo. Do vậy, phải đặc biệt chú ý kiến lập nhân địa.    [Để giảng rõ ý này], chia thành hai phần:

          1) Chỉ rõ cái nhân của Bồ Đề cần phải từ nơi ba phần “bi, trí, lực” mà phát tâm thanh tịnh.

          2) Chỉ rõ vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ thì sẽ có thể nhanh chóng viên mãn đại dụng của “bi, trí, lực”.

          “Bi, trí, lực” tương ứng với trí huệ môn, từ bi môn, và phương tiện môn được nói trong luận (Vãng Sanh Luận).

10.2.1.2.1. Chỉ rõ cái nhân của Bồ Đề cần phải từ nơi ba phần “bi, trí, lực” mà phát tâm thanh tịnh

          (Luận) Hà giả vi (viễn ly) tam chủng chướng Bồ Đề pháp? Nhất giả, y trí huệ môn, bất cầu tự lạc, viễn ly ngã tâm tham trước tự thân cố. Nhị giả, y từ bi môn, bạt nhất thiết chúng sanh khổ, viễn ly vô an chúng sanh tâm cố. Tam giả, y phương tiện môn, đương lân mẫn nhất thiết chúng sanh, dục dữ kỳ lạc, viễn ly cung kính cúng dường tự thân tâm cố.

   ()何者為(遠離)三種障菩提法?一者依智慧門,不求自樂,遠離我心貪著自身故。二者依慈悲門,拔一切眾生苦,遠離無安眾生心故。三者依方便門,當憐愍一切眾生欲與其樂,遠離恭敬供養自身心故。

          (Luận: Những gì là (xa lìa) ba loại pháp chướng ngại Bồ Đề? Một là nương vào trí huệ môn, vì chẳng cầu tự vui sướng, xa lìa cái tâm tham đắm tự thân của ta. Hai là nương vào từ bi môn, dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, xa lìa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an ổn. Ba là nương theo phương tiện môn, hãy nên thương xót hết thảy chúng sanh, vì muốn ban vui cho họ, xa lìa cái tâm cung kính, cúng dường thân tâm của chính mình).

          Chia thành ba điểm để nói rõ: Một là phải xa lìa ba loại pháp chướng Bồ Đề nào? Hai, vì sao phải xa lìa ba loại pháp ấy? Ba là nương theo đường nẻo nào để xa lìa?

          Phải xa lìa ba pháp:

          1) Một, tâm ta tham đắm thân thể của chính mình, tức là vì cái tâm chấp Ngã mà tham đắm tự thân, vì chính mình mà tìm cầu sự yên vui.

          2) Hai là cái tâm chẳng an ổn chúng sanh, tức là chẳng có tâm kéo chúng sanh ra khỏi biển khổ, an lập họ nơi Vô Thượng Bồ Đề tâm.

          3) Ba là cái tâm cung kính cúng dường tự thân, tức coi mình là chánh yếu, hết thảy các phương tiện đều nhằm phục vụ, cung kính, cúng dường lớn nhất cho chính mình!

          Vì sao phải xa lìa các pháp chướng ngại Bồ Đề môn ấy? Bổn tánh và lực dụng của chúng trái nghịch Bồ Đề. Do vậy, ắt cần phải xa lìa. Chúng ta mong cầu sanh về Tịnh Độ hòng thành tựu Bồ Đề, [như vậy thì] nơi cái nhân, phải xa lìa những duyên khởi trái nghịch. Nếu không, sẽ xa rời Tịnh Độ càng ngày càng xa, sẽ lìa khỏi chuyện “phản bổn quy nguyên” (trở lại nguồn cội) càng ngày càng xa. Hết thảy sự tu hành đều phải thuận theo tánh mà tu, Tịnh Độ do tự tâm thanh tịnh hiển hiện, cuối cùng sẽ chứng nhập Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Vì vậy, trong hiện thời, ắt cần phải xa lìa các pháp gây chướng ngại Bồ Đề môn.

          Nói cụ thể, nếu do cái tâm ta tham đắm tự thân, sẽ một mực vì tư dục (ham muốn riêng tư) mà tìm cầu khoái lạc cho chính mình. Điều đó hoàn toàn tương phản với bản tánh Vô Ngã, chỉ trở thành càng đi càng xa, phát triển thành giòng khổ sanh tử càng ngày càng thô. Vì thế, ắt phải xa lìa nó thì mới có thể tương ứng với Tịnh Độ. Nói theo thể tánh, liễu tri Vô Ngã tức là phù hợp Thật Tướng, là trở về. Chẳng biết Vô Ngã, cứ tham chấp Ngã, thì chính là xa lìa Bồ Đề. Nhìn theo lực dụng, do tư dục mà thấy chính mình đáng trọng, coi thường chẳng đoái hoài hết thảy chúng sanh, cũng chẳng thấy nỗi khổ của chúng sanh, chẳng có cái tâm an lập chúng sanh. Như thế thì sẽ chướng ngại sự hiển phát của tâm từ bi. Hơn nữa, do lấy cái Ngã riêng tư làm trung tâm, chỉ mưu cầu lợi lạc cho chính mình, chẳng thể thương xót hết thảy chúng sanh, sẽ chướng ngại sự khai phát lực dụng của Bồ Đề, sẽ chẳng thể dùng trí và bi để phát khởi vô lượng sự nghiệp lợi ích chúng sanh. Nói chung, ba loại pháp chướng ngại Bồ Đề môn đã ngăn chướng thể tánh, từ bi, và lực dụng của Bồ Đề. Vì vậy, phải xa lìa chúng.

          Do đó bèn hiểu rõ, tu Đại Thừa Tịnh Độ, chỗ then chốt gồm có ba điều: Thứ nhất là xa lìa cái tâm tham trước tự thân của ta, thứ hai là xa lìa cái tâm chẳng an ổn chúng sanh, thứ ba là xa lìa cái tâm cung kính, cúng dường tự thân. Đấy là chỗ cần phải nỗ lực. Phải như thế nào để đạt thành hiệu quả thật sự? Ắt cần dùng đường lối hữu hiệu để tiến nhập.

          Nói phân biệt thì:

          1) Thứ nhất là nương vào sự tu tập đường lối Vô Ngã Không Huệ để thấy chẳng có Ngã, quán sát nơi Uẩn chẳng có tư ngã (cái tôi riêng tư) hòng có thể đạt được. Cầu sự vui cho chính mình hoàn toàn là hành động ngu xuẩn, chỉ là do bị sự ngu mê đối với chân thật nghĩa sai khiến bèn khởi Hoặc tạo nghiệp đó thôi. Phải nhìn từ duyên khởi để thấy đấy chính là thứ gây suy tổn, là cội nguồn của khổ não. Nếu vẫn tham đắm, vì chính mình mà cầu vui sướng, chắc chắn nó sẽ phát triển thành nỗi khổ luân hồi to lớn. Chỉ cần dấy lên một niệm tâm riêng tư chẳng hợp thiên lý, sẽ bị trừng phạt, chẳng có cách nào trở lại. Thấy được chỗ này càng sâu xa, càng thấu triệt càng hay! Chẳng hạn như do sự tham danh, từ đó bèn có cái tâm riêng tư chẳng hợp thiên lý. Sau đấy, sẽ tranh giành, so đo, ganh ghét, kiêu mạn v.v… cả một đống vọng động đều xuất hiện. Càng tụ tập càng sâu như thế, chắc chắn sẽ đọa lạc. Hoặc là do tham mối lợi riêng tư, thấm dần chất độc từng chút một, chắc chắn sẽ thọ khổ báo. Do vậy bèn phát hiện: Cầu sự vui sướng cho chính mình là hại chính mình, ngã ái chấp chính là cội nguồn suy tổn. Thông qua điều này, sẽ tự nhiên xa lìa cái tâm tham đắm tự thân của ta.

          Nói chung, để thực hiện điều thứ nhất thì dùng trí huệ làm đường nẻo. Trước tiên là quán chiếu Vô Ngã; kế đó, phát hiện Ngã Chấp là nguồn cội của vạn nỗi khổ. Hết thảy các hành vi như vì ta mà cầu lạc, cầu danh, cầu công lao v.v… toàn bộ rốt cuộc đều thuộc vào suy tổn. Nếu nhận định hết sức quyết đoán ở chỗ này, phương hướng trong tâm sẽ ngay lập tức xoay chuyển: Hễ thấy cái tâm lại tham đắm tự thân thì sẽ thấy sự tham đắm ấy là chất độc, biết nó hết sức nguy hiểm, ngay lập tức xa lìa. Như thế thì sau khi đã phát sanh chánh kiến, đối với dục sẽ khác hẳn, chẳng còn vì tự thân cầu điều gì, lúc nào cũng gạt bỏ cái Ngã, giải trừ tập khí chấp ngã, tham ngã, sẽ bắt đầu làm ngược lại.

          2) Thứ hai, phải dốc sức xa lìa cái tâm chẳng an ổn chúng sanh. Vì thế, phải nương theo đường lối từ bi, cứu vớt, dẹp trừ sự khổ của hết thảy chúng sanh. Phương hướng nỗ lực là thông qua pháp tu nhằm hiển lộ lòng từ bi trong tự tâm. Chẳng hạn như tư duy hết thảy hữu tình đều là mẹ, có ân đức to tát đối với ta; vì thế, phải báo ân. Kế đó, do nghĩ đến nỗi khổ mà phát sanh bi tâm, cũng chính là noi theo đường lối trong cái tâm yếm ly ở phần trên, toàn bộ đều suy nghĩ vì hữu tình. Thấy các hữu tình đều giống hệt như chính mình, gặp phải nỗi khổ sanh tử to lớn vô biên. Lại nghĩ họ đều là mẹ, chẳng thể ngồi xem, chẳng đoái hoài. Nếu không, sẽ mang gánh nặng phụ ân bội nghĩa quá to. Sau khi dấy lòng bất nhẫn như vậy, sẽ vì các hữu tình “mẹ” mà dốc sức suy xét. Giả sử chỉ đặt họ trong quả vị thuộc đường lành, tức là chẳng an bài tốt đẹp. Bởi lẽ, dẫu hưởng đại phú quý trong tam hữu (tam giới), tự tánh [của sự hưởng thụ ấy] vẫn là khổ, cuối cùng sẽ đều đọa lạc. Nếu an bài họ nơi quả vị tịch diệt thuộc Tiểu Thừa, vẫn là chẳng an bài tốt đẹp, vì chẳng hiển phát vô lượng công đức của tự tánh, trọn chẳng phải là rốt ráo. Chỉ có dẹp trừ, cứu vớt nỗi khổ sanh tử thô tháp cùng với nỗi khổ đổi dời, biến hóa vi tế của hết thảy hữu tình thì mới có thể làm cho họ đạt đến nơi an ổn nhất. Cũng giống như vậy, thông qua tu tâm để phát triển lòng từ bi. Tâm từ bi tăng mạnh, sẽ xa lìa phẩm chất trái nghịch, tức là cái tâm chẳng tạo an ổn cho chúng sanh.

          3) Thứ ba, dốc sức xa lìa cái tâm cung kính, cúng dường tự thân. Điều này lại phải dựa theo đường lối “hành phương tiện”. Do thương xót hữu tình thiếu khuyết an lạc mà bình đẳng dấy khởi, tâm tư lẫn trí xảo đều vận dụng để mưu cầu an vui cho chúng sanh. Thông qua chuyện một dạ lập bày phương cách ban cho chúng sanh an vui trong hiện tiền và an lạc rốt ráo mà xa lìa thói quen mang cái tâm “cung kính, cúng dường tự thân”, thoát lìa những phẩm tánh trái nghịch Bồ Đề.

          Nói trắng ra là làm ngược lại. Ai nấy đều có trí lực thiện xảo, sẽ hành phương tiện. Trong quá khứ, đã từng ngỡ tự thân chính là một thứ cần được yêu mến, bảo vệ nhất. Vì thế, tất cả tài trí, tâm tư, kỹ xảo v.v… đều vận dụng để cung kính, cúng dường tự thân. Hiện thời, trước hết phải thấy [cách nghĩ ấy] là sai, các Uẩn chỉ là hiện tướng lầm loạn, trong ấy chẳng có Ngã, thế mà yêu mến, bảo vệ tự thân, cung kính cúng dường tự thân như thế đó. Thật ra là tổn hại chính mình, tăng cường pháp khổ. Hãy nên thấy Ngã Ái Chấp là cội rễ của hết thảy suy tổn, Tha Ái Chấp là cội nguồn của hết thảy lợi lạc, hành vi sẽ đảo ngược lại!

          Kế đó, trước hết phải xác định rõ ràng trong quá khứ chính mình đã cung kính, cúng dường tự thân như thế nào, sử dụng phương tiện môn sai lầm như thế nào. Sau đấy, suy xét để chuyển biến từ chỗ nào, đem hết thảy lực dụng mưu cầu an lạc cho hết thảy chúng sanh. Như vậy thì sẽ chuyển đổi thành công, xa lìa những thứ trái nghịch Bồ Đề, có thể thuận lợi khai phát Bồ Đề. Do vậy, [điều này] hết sức then chốt.

          Trong quá khứ, đã coi thân tâm hoặc Ngũ Uẩn của chính mình là đối tượng yêu mến nhất, dùng hết thảy các phương tiện để cung kính, cúng dường, tô điểm, hết sức yêu quý nó, thậm chí đối với một tấm áo, một miếng bữa ăn, đều hết sức dụng tâm, chú trọng tinh tế. Lại còn ban cho cái thân Ngũ Uẩn của chính mình các thứ địa vị, danh dự khiến cho nó chói rạng lóa mắt, để cho nó được an nhàn hưởng lạc, chẳng để cho nó phải chịu khổ chút nào! Do vọng tâm ái chấp tự ngã thôi thúc, dùng các loại phương pháp hòng thỏa mãn dục cầu riêng tư của ta. Chẳng hạn như yêu thích vẻ đẹp, liền tìm đủ mọi cách hòng thông thạo kỹ xảo trang điểm, mua sắm các thứ mỹ phẩm, tô vẽ đủ mọi kiểu, hòng khiến cho mọi người phải dồn mắt vào mình. Vì cơm áo, sinh hoạt thoải mái mà cũng thâu gom tin tức, trù tính, mưu toan, so sánh, nghĩ bày phương cách để chính mình được no đủ. Vì để chính mình được hiển hách, tôn quý, vinh hiển, được kẻ khác hâm mộ sự thành tựu và phú quý của chính mình, bèn cũng sử dụng trọn hết các loại phương pháp. Giống như vậy, vì thỏa mãn chính mình mà vận dụng tâm tư thủ đoạn, tức là đã vận dụng phương tiện môn sai lầm, vận dụng tài trí sai chỗ mất rồi!

          Hiện thời, phải thấy điều đó hoàn toàn tương phản với phương hướng hiện chứng Bồ Đề. Làm như vậy, sẽ khiến cho tình kết nơi cái Ngã riêng tư càng ngày càng nặng, tăng sâu hơn cảm nhận sai lầm đối với tự ngã, cho là thật sự có một cái Ngã, càng ngày càng chẳng buông xuống được! Ví như một người nữ, hằng ngày đều trang điểm rất tỉ mỉ, muốn cho hình tượng của cô ta đặc biệt to lớn, điều ấy sẽ khiến cho cảm nhận sai lầm về cái Ngã riêng tư càng ngày càng to, hết sức khó buông xuống. Nếu cứ một mực như thế, sẽ được gọi là “thị dục thâm giả, thiên cơ thiển” (tư dục ham muốn càng sâu thì cơ hội trở về bổn tánh chân thật càng cạn). “Thị dục” (嗜欲) chính là tư dục đắm chấp tự ngã, nó ngày càng sâu đậm, “thiên cơ” sẽ ngày càng nông cạn, tức là càng ngày càng khó trở về bổn tánh và khó ngộ được tự tánh thiên nhiên! Vì thế, đây là một đường nẻo mê mất hết sức đáng sợ, chớ nên tăng cường nó. Hễ càng tăng cường, sẽ càng bị hãm sâu hơn, càng chẳng hiểu rõ, đến nỗi đã bị hãm lại càng lún sâu hơn, vô số kiếp đều chẳng thể xoay chuyển được. Giống như vậy đó, vì cái Ngã riêng tư mà mưu lợi chẳng tiếc trả giá hết thảy, vận dụng các thứ xảo tâm, xảo trí, suy tính phương pháp để duy trì thể diện, danh dự cho nó, ban cho nó địa vị, dùng các phương pháp để nuông chiều, bảo vệ nó, tức là đã có cái nhân đọa lạc. Sức tập khí kiên cố ấy sẽ khiến cho chính mình trong bao kiếp lâu xa khó thể chuyển mình. Nay phải thấy đó chính là một phương hướng cực kỳ điên đảo, chân và giả chẳng thể cùng tồn tại. Chấp giả thì sẽ chôn vùi chân. Ngã và vô ngã chẳng thể cùng tồn tại, hễ cố chấp cái Ngã riêng tư thì sẽ chẳng thể hành trì vô ngã, chẳng thấy trọn khắp bản tánh. Vì thế, hết thảy đều phải làm ngược lại!

          Làm thể nào để đẩy lùi cái tâm điên đảo ấy? Phải đổi lòng ích kỷ thành thương xót, suy từ ta mà nghĩ đến kẻ khác: Chúng sanh và chính mình thiếu khuyết an lạc hệt như nhau, sau khi niệm tâm thương xót đã dấy, tâm lượng bắt đầu lớn hơn, bèn có thể hành Đại Thừa. Tâm lượng biến thành lớn, đối với duyên khởi, sẽ dễ dàng quay trở lại. Nếu một mực lẩn quẩn nơi cái Ngã riêng tư, chẳng thoát ra được, sẽ rất khó khai phát thiện tâm, chẳng cần nói đến chuyện “hiện chứng Bồ Đề”, ngay cả Đại Thừa môn cũng chẳng tiến nhập được!

          Hiện thời, chuyện phải dốc sức làm là phải thay đổi toàn bộ tâm thái và hành vi của cái tâm “mưu cầu lợi ích cho chính mình”, thay đổi phương hướng, thay đổi đối tượng, tận lực vận dụng [tâm trí và thể lực] vào việc lợi ích hết thảy chúng sanh. Nguyên tắc là phát xuất từ Tha Ái Chấp (chấp trước yêu thương người khác), làm nhiều chuyện lợi tha, hành nhiều phương tiện; đấy chính là vận dụng hết sức xảo diệu để xoay chuyển phương hướng của cái tâm. Trong quá khứ, một mực nghĩ tới chính mình, nay bèn nghĩ tới người khác. Trong quá khứ, cứ một mực nấu cho mình một bữa ăn ngon, tự mình trang điểm, nay đem toàn bộ tâm tư xảo kế đổi thành lợi ích chúng sanh. Nghĩ đến những nghĩa lợi mà chúng sanh đang khuyết thiếu tạm thời cũng như rốt ráo, ta sẽ vì họ mà mưu cầu như thế nào? Thậm chí một tấm áo, một bữa cơm, đều nghĩ lợi ích chúng sanh, hồi thí cho chúng sanh, cho đến nhất cử nhất động đều phải toan tính làm như thế nào để lợi ích chúng sanh. Như vậy thì sẽ dựa vào đường nẻo hành phương tiện mà dần dần có thể xa lìa cái tâm cung kính cúng dường tự thân. Chuyển biến từng bước như thế đó, chuyển tập tánh [ích kỷ] thành lợi tha, sẽ dần dần xa lìa chướng ngại “lúc nào cũng nghĩ cho chính mình”.

          (Luận) Nhược năng viễn tam chủng Bồ Đề chướng, tắc đắc tam chủng thuận Bồ Đề pháp.

          ()若能遠三種菩提障,則得三種順菩提法

          (Luận: Nếu có thể xa lìa ba thứ chướng Bồ Đề, sẽ đạt được ba loại pháp thuận Bồ Đề).

          Nếu có thể xa lìa ba loại chướng ngại thành tựu Bồ Đề đạo quả [như vừa nói] trong phần trên, sẽ đạt được ba loại diệu pháp tùy thuận Bồ Đề đạo quả; tức là xa lìa tâm tham đắm tự thân của ta, sẽ đạt được cái tâm thanh tịnh vô nhiễm, xa lìa cái tâm chẳng an ổn chúng sanh, sẽ đạt tới cái tâm an ổn thanh tịnh, xa lìa cái tâm cung kính cúng dường tự thân, sẽ đạt tới tâm lạc thanh tịnh.

          Ba loại chướng ngại đều là từ Ngã Chấp và ích kỷ mà xuất hiện cái tâm tạp nhiễm, từ chấp trước điên đảo mà phát triển thành tâm thái lầm loạn. Vì thế, sẽ chướng ngại Bồ Đề. Xa lìa chúng nó thì sẽ có thể khôi phục cái vốn sẵn có, xuất hiện tâm thanh tịnh. Đấy là tùy thuận Bồ Đề, gọi là “thuận Bồ Đề pháp”. Nói chung, “ly Bồ Đề chướng” là xa lìa cái tâm tạp nhiễm có nguồn cội là Ngã Chấp để thành tựu cái tâm thanh tịnh. Xa lìa ba thứ chướng Bồ Đề là xa lìa ba thứ tâm tạp nhiễm, đắc ba loại pháp thuận Bồ Đề là đắc ba loại tâm thanh tịnh.

          Tiếp đó, [Trí Giả đại sư] giải thích danh xưng của diệu pháp “ba loại thanh tịnh tâm”, nguyên nhân để thành tựu pháp ấy, và vì sao các pháp này là thuận Bồ Đề môn.

          (Luận) Nhất giả, vô nhiễm thanh tịnh tâm, bất vị tự thân cầu chư lạc cố. Bồ Đề thị vô nhiễm thanh tịnh xứ, nhược vị tự thân cầu lạc, tức nhiễm thân tâm chướng Bồ Đề môn. Thị cố, vô nhiễm thanh tịnh tâm thị thuận Bồ Đề môn.

          ()一者無染清淨心,不為自身求諸樂故。菩提是無染清淨處,若為自身求樂,即染身心障菩提門,是故無染清淨心,是順菩提門。

          (Luận: Một là tâm vô nhiễm thanh tịnh, do chẳng vì tự thân mà cầu các điều lạc. Bồ Đề là chỗ vô nhiễm thanh tịnh, nếu vì tự thân mà cầu lạc, tức là nhuốm nhơ thân tâm, chướng ngại Bồ Đề môn. Vì thế, tâm thanh tịnh vô nhiễm tức là thuận Bồ Đề môn).

          Thứ nhất, sau khi xa lìa cái tâm tham đắm tự thân của chính mình, sẽ đạt được cái tâm thanh tịnh vô nhiễm, lìa phiền não. Vì sao có thể đạt được cái tâm thanh tịnh vô nhiễm? Do sức mạnh trí huệ quyết đoán thấy vốn là Vô Ngã, do duyên theo cái Ngã riêng tư mà dấy khởi tư dục cầu vui sướng, sẽ chỉ chuốc vời nỗi khổ luân hồi to lớn. Do vậy, chẳng còn cầu yên vui cho riêng bản thân, mà cũng sẽ thoát khỏi trạng huống “chuyện gì cũng đều vì Ngã ái chấp, bị tư dục sai khiến bèn khởi Hoặc tạo nghiệp”, đạt được tâm cảnh thanh tịnh vô nhiễm. Đấy là diệu pháp bậc nhất hòng đạt được cái tâm.

          Vì sao nó là thuận Bồ Đề môn? Điều này lại phải quan sát theo chiều thuận và nghịch từ phương diện nhân quả có phù hợp hay không, cũng tức là quan sát Bồ Đề nơi cái quả của những gì đã làm có trạng huống như thế nào, nhưng xét theo cái nhân và tâm thái trước khi thực hiện, chỉ có hai loại là thuận tùng và trái nghịch. Nhìn theo phía trái nghịch, [hãy quan sát những gì đã làm đã] trái nghịch Bồ Đề, ngăn che Bồ Đề như thế nào. Nhìn theo phía thuận thì [những hành vi đã làm] tùy thuận Bồ Đề, khai phát Bồ Đề như thế nào. Sau khi đã nhận thức chắc chắn, sẽ biết: Tâm vô nhiễm thanh tịnh là thuận Bồ Đề môn, mong thành tựu cái quả đại Bồ Đề thì phải trụ trong loại tâm thái này. Nếu không, sẽ xa lìa Bồ Đề, chướng ngại, ngăn che Bồ Đề. Bậc trí sẽ thấu đạt sâu xa lý duyên khởi, nắm vững nguyên tắc bất biến, sẽ có sự quyết đoán trong hành trì, sẽ lại nhiều lượt huân tu, tùy thuận từ nơi ấy, cho đến hoàn toàn đi theo phương hướng thuận tánh, khai phát Bồ Đề. Cuối cùng, chắc chắn sẽ hiển lộ triệt để Bồ Đề, do khế hợp duyên khởi của chánh đạo.

          Trong Bồ Đề chẳng có cái Ngã riêng tư, cũng chẳng có cái Tha (người khác) đối đãi với Ngã. Do vậy, chẳng thể vì cái Ngã riêng tư mà làm gì, cầu gì! Điều này được gọi là “vô nhiễm thanh tịnh xứ”, trạng huống có mảy may Ngã Chấp, phiền não, vì cái Ngã riêng tư mà tạo tác đều chẳng có. Kế đó, nhìn từ địa vị tu nhân, nếu cho là có cái Ngã riêng tư, có cái Ngã đáng yêu mến, bảo vệ nhất, vì Ngã mà cầu lạc, chẳng hạn như cầu dục vọng giữa nam và nữ v.v… sẽ phát hiện: Ngay lập tức, thân tâm thuộc vào trạng thái nhuốm bẩn. Hoặc là vì cái Ngã riêng tư mà cầu danh vị, tôn vinh, quyền lực v.v… cũng có thể thấy ngay lập tức là cái tâm chẳng thanh tịnh. Suy ra tương tự, hễ vì cái Ngã riêng tư mà cầu lạc, cái đẳng khởi12 trước hết chính là chẳng thanh tịnh, dần dần phát triển thành càng ngày càng chẳng thanh tịnh. Giống như Hoàng Hà khởi đầu bằng một giòng nước đục nhỏ nhoi, dần dần phát triển thành sóng bủa tận trời, sẽ xuất hiện các phiền não như tham, sân, si, mạn, ghen ghét v.v… ngày càng mạnh mẽ, cùng với các nghiệp giết, trộm, dâm, dối v.v… thân tâm hoàn toàn thuộc trong trạng thái ô nhiễm. Giả sử trạng thái ô nhiễm ấy tùy thuận Bồ Đề, nói theo lẽ tương đồng, cái tâm ô nhiễm dấy lên càng nhiều, tạo tác ô nhiễm phát triển ngày càng mạnh mẽ, sẽ càng gần với Bồ Đề. Hiển nhiên là [giả thiết ấy] chẳng thể thành lập, [bởi lẽ], trạng huống ô nhiễm càng nặng, càng thô, sẽ lìa Bồ Đề càng xa, càng khó quay trở lại. Do vậy, có thể đoán định, nó là trái nghịch Bồ Đề môn, hay chướng ngại Bồ Đề môn.

          Trái lại, giả sử dùng vô ngã chánh kiến để nhiếp trì, thấy chẳng có cái Ngã riêng tư để có thể đạt được. Dùng duyên khởi chánh kiến để nhiếp trì, sẽ thấy tư ngã và tư dục là cội nguồn của hết thảy các nỗi khổ. Do vậy, buông Ngã xuống, chẳng còn vì Ngã mà lại tính toán, cầu lấy điều gì! Khi ấy, thân tâm sẽ chẳng bị nhuốm bẩn. Cũng có nghĩa là: Chẳng thấy có tư ngã, sẽ chẳng còn vì tư ngã mà suy tính, đối với những lúc bị quở trách, tán thưởng, hay danh lợi ngay trước mặt v.v… đều chẳng bị ảnh hưởng! Tình huống kiểu này là tùy thuận Bồ Đề, có thể trở về Chân Như. Có thể thấy rằng: Chấp trước đối với tư ngã càng nhỏ, sẽ càng dễ quay về, càng tùy thuận Bồ Đề. Khi ngay cả mảy may chấp trước tư ngã còn chẳng có, sẽ có thể tiến nhập tâm thái đạm bạc như tịch, bình đẳng, dần dần chứng đắc pháp giới bình đẳng tánh, trở về Chân Như. Nhận biết chắc chắn cả hai mặt thuận và nghịch như vậy, bèn biết: Nơi duyên khởi, cái tâm vô nhiễm thanh tịnh chắc chắn là thuận Bồ Đề môn. Tu hành như thế, chắc chắn sẽ đạt đến Bồ Đề quả địa.

          (Luận) Nhị giả, an thanh tịnh tâm, vị bạt chúng sanh khổ cố. Bồ Đề tâm thị an ổn nhất thiết chúng sanh thanh tịnh xứ. Nhược bất tác tâm bạt nhất thiết chúng sanh, linh ly sanh tử khổ, tức vi Bồ Đề môn. Thị cố an thanh tịnh tâm thị thuận Bồ Đề môn.

          ()二者安清淨心,為拔眾生苦故。菩提心是安隱一切眾生清淨處,若不作心拔一切眾生,令離生死苦,即違菩提門。是故安清淨心,是順菩提門。

          (Luận: Hai là an thanh tịnh tâm vì dẹp khổ cho chúng sanh. Bồ Đề tâm là chỗ thanh tịnh an ổn hết thảy chúng sanh. Nếu chẳng khởi tâm dẹp trừ cho hết thảy chúng sanh, khiến cho họ lìa nỗi khổ sanh tử, thì sẽ trái nghịch Bồ Đề môn. Vì thế, an thanh tịnh tâm là thuận theo Bồ Đề môn).

          Thứ hai là xa lìa trạng thái tạp nhiễm “không có cái tâm khiến cho chúng sanh an ổn”, hòng đạt tới cái tâm thanh tịnh an ổn chúng sanh. Vì sao sẽ đạt được cái tâm an ổn thanh tịnh? Vì tâm thái đã chuyển, vì lập nguyện dẹp trừ, cứu giúp nỗi khổ của chúng sanh. Trong quá khứ đã bị trần cấu ích kỷ che chắn, chướng ngại nghiêm trọng, hoàn toàn là cái tâm tạp nhiễm ích kỷ, trơ lì, chẳng lập nguyện mong an lập chúng sanh. Nay xa lìa điều đó, sẽ hiện ra cái tâm an ổn thanh tịnh.

          Vì sao nó là thuận Bồ Đề môn? Điều này lại phải từ nhân quả mà quan sát chúng có thuận với nhau hay không. Bồ Đề tâm nơi cái quả là chỗ thanh tịnh để an ổn hết thảy chúng sanh. Bồ Đề tâm ở đây là nói đến cái tâm giác ngộ sau khi bổn tánh hiển lộ thấu triệt, hoàn toàn giác ngộ, nó trở thành chỗ thanh tịnh để hết thảy chúng sanh đạt được an ổn. Bồ Đề của Phật giống như một cái cây to cành lá xum xuê, nó tỏa bóng mát rất lớn, chúng sanh đều có thể hóng mát, được an vui dưới gốc cây to. Nay hãy xét xem trạng thái nơi cái nhân có tương ứng với trạng thái nơi cái quả hay không? Nếu chẳng phát tâm cứu vớt hết thảy chúng sanh, khiến cho họ đều thoát ly nỗi khổ sanh tử, chỉ lo toan cho lợi ích của riêng mình, chẳng che chở, rợp bóng toàn thể chúng sanh giới, do trạng thái ấy, rốt cuộc sẽ làm sao mà trở thành cội đại thụ trong pháp giới phủ rợp, che chở hết thảy chúng sanh cho được? Chẳng thể nào! Chỉ có trong lúc tu nhân đã xuất hiện cái tâm an ổn thanh tịnh, thí xả toàn bộ công đức và phước đức của chính mình cho chúng sanh, ngõ hầu chúng sanh sẽ được thanh lương vì khổ đã dẹp trừ. Cứ như vậy mà không ngừng khai phát, tăng trưởng tâm đại bi; rốt cuộc, tâm đại bi mới có thể che phủ trọn khắp toàn thể pháp giới, khiến cho hết thảy chúng sanh đều được thanh lương. Nếu chỉ vì riêng một mình cá nhân ta, chẳng phát tâm cứu vớt, dẹp trừ nỗi khổ cho chúng sanh, mà nếu do trạng thái ấy vẫn có thể thành tựu Bồ Đề, vậy thì lẽ ra kẻ càng ôm lòng ích kỷ, sẽ thành Phật càng nhanh chóng hơn; còn cái tâm ích kỷ càng nhỏ, sẽ càng chẳng thể hiển phát đức hạnh của tâm đại bi, rời lìa đại Bồ Đề càng xa!

          Ngược lại, nếu xuất hiện cái tâm an ổn thanh tịnh, xa lìa tâm thái nhỏ bé ích kỷ, làm điều gì cũng lấy pháp giới chúng sanh làm chánh yếu, muốn cứu vớt, dẹp trừ nỗi khổ cho chúng sanh, lập nguyện và hồi hướng như vậy, hiện tiền đang ở trong trạng thái thanh tịnh, tương ứng với tâm đại bi được hiển lộ, phát khởi trọn khắp. Tu như vậy, cái tâm chẳng an ổn chúng sanh, hoặc tâm thái ích kỷ tạp nhiễm nhỏ hẹp sẽ dần dần chẳng còn. Tập tánh hễ chuyển biến, sẽ biến thành trạng huống khai phát đại bi. Do nó tương ứng với tâm đại bi trọn khắp nơi quả vị, sẽ tùy thuận đường nẻo khai phát Bồ Đề đại bi. Vì thế gọi là “thuận Bồ Đề môn”. Do xa lìa chướng ngại từ cái tâm chẳng an ổn chúng sanh, sẽ đạt được cái tâm thanh tịnh an ổn. Đấy là cảnh giới “tiến đến, hướng theo quả vị Bồ Đề, đại bi trọn khắp, có thể an ổn hết thảy chúng sanh”. Có thể thấy là phương hướng này hoàn toàn đúng.

          (Luận) Tam giả, lạc thanh tịnh tâm, dục linh nhất thiết chúng sanh đắc đại Bồ Đề Niết Bàn cố. Bồ Đề Niết Bàn thị tất cánh thường lạc xứ. Nhược bất tác tâm linh nhất thiết chúng sanh đắc tất cánh thường lạc, tức giá Bồ Đề môn.

          ()三者樂清淨心,欲令一切眾生得大菩提涅槃故。菩提涅槃是畢竟常樂處,若不作心令一切眾生得畢竟常樂,即遮菩提門。

          (Luận: Ba là lạc thanh tịnh tâm, vì muốn cho hết thảy chúng sanh đạt được đại Bồ Đề Niết Bàn. Bồ Đề Niết Bàn là chỗ thường lạc rốt ráo. Nếu chẳng khởi tâm làm cho hết thảy chúng sanh đạt được thường lạc rốt ráo, tức là ngăn che Bồ Đề môn).

          Thứ ba là xa lìa cái tâm cung kính, cúng dường chính mình, sẽ đạt được lạc thanh tịnh tâm. Vì sao sẽ đạt được lạc thanh tịnh tâm? Vì muốn khiến cho hết thảy chúng sanh đều đắc đại Bồ Đề Niết Bàn, đấy mới là sự an lạc rốt ráo nhất. Cái tâm khi ấy sẽ phát triển lớn nhất. Lúc mang giữ cái tâm cung kính, cúng dường chính mình thì chính là lúc ở trong tạp nhiễm, đặc biệt nhỏ nhen ích kỷ, có thể thấy rõ rệt là trạng thái trong lúc đó đã che lấp tâm lượng thanh tịnh. Ngược lại, phát tâm khiến cho hết thảy chúng sanh đều đắc đại Bồ Đề Niết Bàn, tâm lượng ấy đã phát ra to lớn nhất, ứng hợp bổn tánh. Chuyện gì cũng đều chẳng vì chính mình, mà vì hết thảy chúng sanh. Không chỉ là làm cho họ đạt được niềm vui tạm thời trong cõi trời người, hoặc niềm vui chẳng rốt ráo của Tiểu Thừa, mà là khiến cho họ đạt được niềm vui Vô Thượng Đại Bồ Đề Niết Bàn, chẳng có cái tâm nào to lớn hơn cái tâm ấy! Khi đó, các trạng thái hữu hạn, ích kỷ, hẹp hòi đều bị tiêu trừ. Do vậy, gọi nó là “lạc thanh tịnh tâm”. Niềm vui ấy lấy chuyện chúng sanh đạt được niềm vui rốt ráo làm chủ, chỉ cần coi trọng điều này, cái tâm sẽ thoát lìa [sự chấp trước] riêng tư cho chính mình, tức là trạng thái “cung kính, cúng dường tự thân”, ngay lập tức thuộc trong tâm lượng vô tư, xứng hợp tâm lượng pháp giới, ngay khi ấy sẽ là trạng thái thanh tịnh, cho nên gọi là “lạc thanh tịnh tâm”.

          Vì sao nó là thuận Bồ Đề môn? Vẫn phải quan sát từ phương diện duyên khởi thuận và nghịch. Trạng huống của cái quả Vô Thượng Bồ Đề là như thế nào? Chẳng có lầm lỗi, ương họa thô thiển nơi Khổ và Tập, cũng như lỗi lầm, ương họa chuyển dời, biến đổi vi tế, ngay cả chuyển dời, ngay cả biến đổi trong một sát-na cũng đều chẳng có. Vì thế là chỗ rốt ráo thường lạc. Trong khi chứng đắc quả đại Bồ Đề, tự nhiên sẽ trở thành chỗ nương tựa cho hết thảy chúng sanh được thọ dụng sự an lạc. Lực dụng Bồ Đề đại bi bèn dẫn khởi hạnh lợi tha, chắc chắn sẽ khiến cho chúng sanh đạt được thường lạc rốt ráo, vì chúng sanh và chính mình có cùng một Thể, chẳng thể có một tí tư tâm nào, một tí hạn cuộc nào! Do đó, bất cứ ai thành tựu vô thượng giác đạo sẽ đều nhất định an trí hết thảy chúng sanh hữu duyên nơi Vô Thượng Bồ Đề.

          Ví như lúc chính mình đã giải thoát khỏi nỗi lo âu sanh tử to lớn của Ngũ Thủ Uẩn, chứng nhập pháp giới, chẳng có phân biệt chấp trước ta hay người. Do vậy, đối đãi người khác như chính mình, đối với bất cứ một chúng sanh nào cũng đều có thể dùng phương tiện lực dụng để cứu vớt họa hoạn Ngũ Thủ Uẩn của người ấy, dứt diệt rốt ráo nỗi khổ sanh tử của họ. Nói cao hơn một bước nữa, chính mình xa lìa nỗi khổ chuyển dời, biến đổi vi tế, chẳng có Biến Dịch sanh tử, dùng lực dụng của lòng Đồng Thể Từ Bi, đối với bất cứ chúng sanh nào cũng đều có thể cứu giúp nỗi khổ vì bị chuyển dời, biến đổi của kẻ ấy, khiến cho họ đều thoát lìa Biến Dịch sanh tử. Cũng giống như vậy, do Bồ Đề là chốn thường lạc rốt ráo, khi chứng đắc Bồ Đề, sẽ xuất hiện Đồng Thể Đại Bi, đối đãi pháp giới chúng sanh chẳng có chút tâm thiên vị, lợt lạt, xa cách nào. Do đó, quyết định sẽ dùng lực dụng phương tiện khiến cho chúng sanh đạt được thường lạc rốt ráo.

          Lại nhìn vào trạng thái của cái nhân. Nếu rơi vào tâm thái “cung kính, cúng dường tự thân”, vậy thì sẽ chẳng thể phát tâm làm cho hết thảy chúng sanh đều đạt được thường lạc rốt ráo, mà cũng là từ trong pháp giới vốn sẵn bình đẳng bèn từ Không sanh ra Có, xuất hiện cái Ngã riêng tư. Sau đấy, rất coi trọng cái Ngã riêng tư, thấy các thứ khác đều chẳng liên quan gì với mình. Khi ấy, trọng điểm nơi hành vi sẽ là toàn bộ đều xoay quanh thân tâm của chính mình. Vì để cho nó đạt được danh lợi, dục lạc v.v… mà hành các thứ phương tiện, lúc nào cũng lấy tự ngã làm trung tâm, phục vụ cho tự ngã. Đương nhiên là sẽ trái lìa trạng huống “tự và tha có cùng một Thể, nguyện vì chúng sanh đều đạt được thường lạc rốt ráo mà làm hết thảy các phương tiện”. Cứ phát triển như vậy, chỉ có thể khiến cho chấp trước ngày càng nặng hơn, lìa đại Bồ Đề tâm ngày càng xa hơn! Giả sử nó tùy thuận đại Bồ Đề, vậy thì đáng phải nên tôn trọng, cung kính tự ngã, càng vì tự ngã mà mưu cầu lợi lộc riêng tư, sẽ càng tiếp cận đại Bồ Đề. Nhưng làm như vậy, kết quả chỉ là khiến cho cái tâm ích kỷ của ta ngày càng nặng hơn, tâm càng ngày càng bế tắc hơn, phát sanh các thứ lầm lỗi như tham dục, keo tiếc v.v… Khi tự ngã chẳng được thỏa mãn, sẽ sanh ra các phiền não như ghen ghét, sân khuể v.v… Do tư dục làm gốc mà xuất hiện các thứ tà phương tiện lực dụng, sẽ đẩy con người chìm sâu hơn trong luân hồi, lìa đại Bồ Đề ngày càng xa hơn. Do vậy, thấy rõ điều này chính là pháp ngăn che Bồ Đề môn.

          Trái lại, khi chính mình xuất hiện cái tâm an ổn thanh tịnh, chẳng còn coi tự ngã là trung tâm, sẽ làm cho hết thảy chúng sanh đạt được đại lạc Bồ Đề rốt ráo. Khi ấy, suy nghĩ, phát nguyện v.v… sẽ ngay lập tức thuận hợp Bồ Đề, phát triển dần dần, càng ngày càng phù hợp bổn tánh. Tu thuận tánh như vậy, sẽ tiêu trừ lực dụng điên đảo của chuyện vì tự ngã mà hành phương tiện. Khi khai phát đến mức triệt để, sẽ hoàn thành lực dụng trọn khắp nơi cái quả đại Bồ Đề. Có thể thấy nó là thuận Bồ Đề môn.

          Nói chung, do trí huệ môn, từ bi môn, và phương tiện môn mà xa lìa ba món trái nghịch, thành tựu ba món tùy thuận, trụ trong tâm thanh tịnh mà tu tấn dần dần, rốt cuộc sẽ có thể đạt được quả đại Bồ Đề. Đó cũng là sức trí bi khai phát viên mãn, xuất hiện đại trí, đại bi, đại lực Bồ Đề tâm viên mãn trọn vẹn. Đấy gọi là “thành tựu Bồ Đề”.

           Trên đây là nói rõ về sự nhập môn Bồ Đề đạo. Chúng ta muốn chứng viên mãn quả đại Bồ Đề, trước hết, nhân địa phải chánh đáng, cũng tức là trừ khử tam chướng, phát tam tâm, xa lìa sự tham trước tự thân trong cái tâm của ta, phát khởi tâm vô nhiễm thanh tịnh, xa lìa cái tâm chẳng an ổn chúng sanh để phát khởi cái tâm thanh tịnh an ổn chúng sanh, xa lìa cái tâm cung kính cúng dường tự thân để phát khởi cái tâm lạc thanh tịnh. Ba cái tâm ấy nói phân biệt thì sẽ thuộc về bi, trí, lực, ở nơi nhân vị (địa vị tu nhân), đã tương thuận với đại Bồ Đề quả. Khi bi, trí, lực phát triển đến mức rốt ráo thì sẽ thành Phật, vì chẳng có chút Ngã Chấp nào, trở về trí chiếu sẵn có, lại còn hiển phát đại bi, nguyện an lập hết thảy chúng sanh, lại xuất hiện lực dụng, chỉ vì chúng sanh mà tạo lợi lạc. Cũng giống như vậy, đã có ba cái nhân tương ứng; sau đó, sẽ dần dần hiển lộ, khai phát, đạt đến mức triệt để thì sẽ thành Phật. Nếu chuyển theo hướng trái nghịch, do vì duyên khởi chẳng thuận, chỉ có thể thuận theo sanh tử!

          Nhận thức như vậy để nhập môn; sau đấy, điều then chốt là phải làm như thế nào hòng gìn giữ cái nhân như vậy, cũng như khiến cho nó nhanh chóng viên thành. Đấy mới là vấn đề nơi đạo, dùng vấn đề này để suy xét [phải nên] sanh về Tịnh Độ, hay sanh vào uế độ. Cuối cùng, [nhận biết đích xác]: Phát nguyện sanh về Tịnh Độ sẽ có thể mau chóng viên thành. Do cái tâm ấy mà ưa thích, mong cầu vãng sanh Tịnh Độ.

Trang: 1 2 3