Tập Chư Pháp Bảo Tối Thượng Nghĩa Luận

Quyển Hạ

Lại nữa, bây giờ nói về Sanh, Trụ, Dị, Diệt. Ở đây bốn tướng trong mỗi sát na đều có sự biến chuyển vậy. Tướng bất tương ưng là chẳng thật. Ở nơi bất tương ưng tướng không thật nên chẳng thể khởi lên sự phân biệt, chẳng thể nói một lúc, chẳng thể nói lúc khác. Một lúc và lúc khác không có sanh khởi vậy. Lại nữa, chẳng thể nói không đúng lúc. Cái lý sai biệt vậy. Nếu nói lúc hoại; thì hoại tức là chẳng sanh vậy. Cho nên phải biết: Sanh thì vô trụ, mà lúc trụ lại chẳng có chỗ được. Tánh vô trụ kia vì sao có giảm, vì sao lại có diệt? Sự sanh và sự trụ kia gọi tên là dị. Nếu gốc là vô sanh thì làm sao có trụ? Nếu pháp vô trụ tức làm sao có thể được. Cho nên vô sanh và vô trụ vậy. Ở trong đây nghĩa gì mà nói là diệt? Nếu Pháp có trụ, thì ở nơi pháp trụ ấy có thể nói dị tánh. Pháp tức vô trụ, làm sao có dị tánh. Trong vô dị tánh, chẳng nên phân biệt. Nên biết dị tánh mà chẳng phải tánh trụ. Thật chẳng có một tánh có thể phân biệt. Cho nên các tướng cùng với tâm phân biệt. Đây là hai loại. Nếu không có các tướng, tức không có sự phân biệt. Nếu các tướng kia, hoặc tâm phân biệt có sự phân biệt thì cả hai đều phân biệt. Như nghĩa thật là vô tướng vô phân biệt. Sanh, Trụ, Dị, Diệt nếu có tánh ở nơi tất cả lúc, tất cả chỗ, tất cả pháp; ở đầu giữa, sau chia ra thì chẳng thể an lập vậy. Nếu có thể như thế, y như giáo lý mà tư duy, thì Phật nói người nầy là đại trí, các tánh ở đầu, ở giữa, ở sau, tánh chia ra ba nơi ấy, thật chẳng có một tánh. Có chỗ sanh khởi. Cho nên các pháp chẳng phải một tánh và chẳng phải nhiều tánh. Một nhiều, ở giữa đều chẳng có chỗ được. Nếu tất cả pháp lìa một tánh và lìa nhiều tánh; tức thường và vô thường không có chỗ phân biệt. Cho nên chẳng phải vô thường, chẳng phải chẳng vô thường. Không nên nơi ấy khởi lên hai sự phân biệt. Nên biết sự chia ra ở phần đầu, phần giữa và phần cuối chẳng đều cùng sanh một lúc; chẳng đều cùng có. Như tánh của người kia. Tức ở nơi mình không có. Hoặc tự thể tánh, người kia nói có, thì ở trong đây nói chỗ tự tánh là không. Tánh kia làm sao có. Cho nên tự nầy lại vô tánh, và tha kia cũng vô tánh. Nên biết tất cả pháp làm và công việc làm đều chẳng lìa tánh của nguyên nhân. Nếu hoại, chẳng hoại, đều không phải chỗ của tâm suy nghĩ; chẳng thể phân biệt. Ở đầu, ở giữa, ở sau cùng phân ra như thật tư duy. Tất cả đều là vô vi tướng, chẳng phải biệt dị tướng. Chẳng nên phân biệt kia với các pháp và mỗi mỗi chủng tử kia với mỗi mỗi tánh. Mỗi mỗi chẳng lìa trí chủng tử mà sanh. Mỗi mỗi sát na phân chia rồi chuyển đổi dễ dàng. Cho nên ở kia và tất cả tánh của Pháp kia làm sao nơi tâm có thể tư duy sanh khởi. Ở trong tất cả pháp sai biệt về sự tướng thì nên biết chẳng có nguyên nhân, lại chẳng có sự sai biệt. Các pháp bổn lai chẳng có chỗ tạo tác. Tuy có chỗ tác dụng tương tục nhưng sao gọi là thật. Do vậy chỗ hiểu biết về các pháp cũng nên biết đây là hai, giữa các sát na chẳng thể hoà hợp. Tánh nầy như thế thật chẳng thể chấp thủ. Trong đây không có chỗ sở hữu, lại chẳng có sở đắc. Nên quán các pháp sanh rồi, tức liền hoại. Nếu pháp chẳng hoại tức chẳng có pháp sanh. Vì pháp hoại mà chẳng có chỗ được. Kia chẳng hoại là tánh thường trụ. Tức tánh thường trụ kia lại phải lìa khỏi. Tức sự lìa khỏi lời nói ở trong đây cũng phải lìa. Như thế mà biết rõ nơi các pháp rồi về tánh sai biệt kia là nhân của thường trụ, chẳng phải tánh sai biệt cũng lại như thế. Các pháp hữu vi tức sanh, tức diệt. Cho nên gọi là vô trụ. Nếu có trụ nên có chỗ được; nếu vô trụ tướng thì chẳng có chỗ được vậy. Vô Trụ Pháp kia cũng tương ưng với tất cả các hành và chỗ làm sai biệt. Nếu tánh kia có chỗ được thì ở nơi vô sai biệt hạnh làm sao có thể đối trị? Cho nên vô biệt hạnh thì chẳng thể sanh tánh.

Lại nữa nên biết nhãn và các thức có tánh hiện lượng. Đại Mâu Ni Sư thường hay nói: Nếu lìa tánh hiện lượng, biệt thủ lượng, phi lượng, thì ở nơi kia, nơi nầy làm sao có thể được. Ở nơi sở hữu của thế gian, đầu tiên là làm công việc tất cả đều chẳng có chỗ y cứ vào. Như các chỗ làm không có tánh tác dụng. Nếu như thế các việc đã biểu hiện ra, thì nơi hiện tại cũng chẳng có chỗ thành tựu. Ở trong đây nếu có chỗ làm và chẳng phải chỗ làm, tức những sự tác dụng về ý nghĩa đều sai biệt. Cho nên tất cả chẳng thật có việc làm, đều như hư không. Thường và Vô thường đều chẳng thể chấp nên biết các pháp đều từ duyên sanh, tuy sanh lại chẳng ít pháp có thể được. Duyên ấy như huyễn nên sanh ra như huyễn. Tức là như kia xuất sanh ra các pháp là ở nghĩa nầy vậy. Các pháp vô tánh là chẳng phải phi vô tánh. Ở nghĩa nầy, đức Chánh Đẳng Chánh Giác như thật mà nói. Phải biết tất cả pháp vô trước vô ngại. Ở nơi Đại Thừa nói điều chân thật nầy như thế mà rõ biết. Tức tâm Bồ Đề trước sau vẫn bình đẳng. Mười phương ba cõi tất cả Như Lai đều biết như thật. Nên xuất sanh ra phương tiện. Rồi nói tất cả các pháp môn sâu xa. Như thế ở đây gọi tên là phân biệt, cho nên mỗi mỗi sự tuyên thuyết đó đều biểu thị sự xuất sanh của các pháp. Cho nên những pháp kia là pháp Tứ Đế; những pháp kia là pháp Duy Thức, tuy có chỗ nói mà thường chơn thật. Các pháp kia tất cả đều như huyễn. Do như huyễn nên chẳng thể Tầm, chẳng thể Tứ, chẳng thể Tri, chẳng biểu thị, chẳng nhiếp tạng. Nếu lìa như thế tức biết các pháp là chơn thật. Vì biết chơn thật, mà Bồ Đề Tâm liền được giải thoát. Nếu tâm Bồ Đề được giải thoát như thế tức chư Phật lại cũng như vậy; chúng sanh lại cũng như thế. Sanh tử lại cũng như thế, Niết bàn lại cũng như thế, Pháp giới lại cũng như thế, cho nên Phật và chúng sanh cả hai đều bình đẳng. Sanh tử và Niết Bàn lại cũng bình đẳng. Nếu ở nơi nầy như thế mà thật rõ biết nghĩa rồi, thì Phật nói đây là chỗ Bồ Đề của chư Phật. Cho đến tất cả chỗ hành, công việc tất có thể đều thành tựu. Ở đây nói là đệ nhất nghĩa. Lìa điều nầy ra, chẳng riêng có đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa nầy nhiếp tất cả pháp. Là bất tư nghì chơn thật ngữ hạnh, lìa hữu, lìa vô; chẳng trí chẳng ngu; chẳng ít, chẳng nhiều, vô tướng, vô tánh. Lại chẳng phải chỗ chiếu đến. Trí chẳng thể biết, thức chẳng thể biết, Không là tự tánh, và chẳng lìa tự tánh. Vô thủ, vô xả lìa tướng thủ xả. Từ trí như thật mà xuất sanh ra. Tuỳ chỗ mà xuất sanh, cho nên nói: Vô Thủ tướng, vô nhiếp tạng. Chẳng phải tâm là chỗ suy nghĩ, chẳng thể biết được, chẳng phải mắt là chỗ thấy, nên chẳng thể thấy được.

Vì sao vậy? Tâm vô tự tánh vậy. Do tâm vô tự tánh tức tất cả các pháp đều vô tự và vô tha. Mà vô tự, tha là hai loại sai biệt. Tức tất cả pháp tự tánh tương ưng; chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng tụ, chẳng tán, chẳng trí, chẳng ngu, chẳng có ít pháp, chẳng nơi biểu thị, có nơi chiếu sáng. Nên biết rằng chủng tử Bồ Đề từ nơi tướng kia mà biểu thị rõ ràng vậy. Nếu có thể ở nơi tướng kia, quán vô ngã thì chủng tử Bồ Đề kia lại chẳng có chỗ sanh. Các Bồ Tát Ma Ha Tát tự tánh chân thật, dùng phương tiện lành để xuất hiện nơi thế gian, khởi tâm đại bi, để hiển bày chỗ chứng; mà các Bồ Tát, tự tánh chơn thật chẳng sanh, chẳng diệt. Nên biết thức pháp xa lìa nghi hoặc. Chẳng có ít pháp có thể sanh khởi. Ngã và ngã sở đều không, mà chẳng có tướng hiển thị rõ ràng. Tướng của thức rõ ràng là vô tự tánh. Tánh của ánh sáng kia là tánh tự thường. Cho nên tánh của ngã tướng không có ánh sáng. Không có ánh sáng thì sao nói là có tướng ánh sáng? Như ánh sáng có thể phá đi sự tối tăm, mà sự tối tăm và sáng kia chẳng gần, chẳng hợp. Chẳng gần nghĩa là ánh sáng phá được cái gì? Chẳng hợp nghĩa là sự tối tăm kia phá được cái gì. Nếu tướng của sự sáng tối, xa lìa lại cả hai đều chẳng được. Thì nên biết rằng sáng có thể phá tối, không tức là không lìa, chẳng thể ở trong đó định ra thật tướng để phân biệt. Tối tuy là có phá, nhưng không thể phá pháp. Kia có thể phá pháp vô phân biệt lượng. Vì sao vậy? – Phá có tên là vô trụ vậy. Do điều nầy nên biết tất cả các pháp kia do nhân duyên hoà hợp mà có chỗ sanh, mà nhân duyên do huyễn mà thành tựu. Trong pháp như huyễn đó sự si ám kia lại chẳng phải phiền não; mà vì tri chướng nên chẳng rõ, rồi lìa thức phân biệt. Lại chẳng phải ánh sáng, có chỗ sanh khởi. Đây là hai thật tánh đều chẳng phân biệt. Ở trong nầy, cái thấy một bên mà chẳng thật chỗ được.

Lại nữa nên biết, xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, dục, thắng giải, niệm, định, huệ. Như thế là những tâm sở hữu pháp là những pháp thuộc về sở hữu của tâm. Tất cả những loại kia đều là tướng của Bồ Đề, mà mỗi mỗi tự tánh đều thanh tịnh. Hoặc có pháp chẳng có tướng Bồ Đề, mà ở nơi tự thể lý chẳng tương ưng. Giống như hư không tự tánh thanh tịnh., mà tánh biết kia lại cũng thanh tịnh. Nếu biết ngã tướng thật chẳng có chỗ được, tâm thức kia lại cũng chẳng sanh, nếu thức chẳng sanh thì tất cả pháp kia làm sao mà có? Cho nên phải biết các pháp đều từ chỗ chân thật mà sanh ra. Các pháp do nhân duyên hòa hợp mà sanh. Tuy sự sanh ấy không thật nên chẳng có chỗ có. Các pháp như huyễn, thức tâm như huyễn, duyên lại cũng như huyễn. Do điều nầy, mà thức từ duyên sanh. Nếu biết trí tánh lại cũng như huyễn. Chẳng có chỗ phân biệt, chẳng có chỗ rõ biết, các pháp tự tướng chẳng hiểu chẳng có chỗ hiểu, nên nói rằng tất cả đều chẳng tương ưng. Trong đây nếu có thể lìa các sự phân biệt về sanh diệt, tất cả đều xa lìa. Duyên sanh như huyễn, nên chỗ sanh lại cũng như huyễn.

Thế nào trong như huyễn mà thật có sanh? – Nên biết thức tâm kia như huyễn, nên sự hiểu biết lại cũng như huyễn. Sự hiểu biết như huyễn nên chỗ biết lại cũng như huyễn. Biết và chỗ biết cả hai đều như huyễn cho nên khi pháp sanh ra lại cũng như thế. Pháp sanh như huyễn nên các pháp lại cũng như vậy. Như người ta thấy kia là huyễn mà tạo nên hình tượng. Như chỗ sanh ra đó tức có ba việc. Các việc làm của thế gian lại cũng như thế. Như chỗ sanh nầy lại cũng có ba việc. Ở nơi tâm nầy có chỗ thấy tức nói là chỗ làm. Nếu rõ chẳng có tâm, tức chẳng có chỗ suy nghĩ. Không tâm, không suy nghĩ, pháp làm sao có được. Nếu có tướng của Ngã và Ngã sở có thể nói là có thấy. Còn vô ngã, ngã sở thì sao gọi là thấy? Tướng Bồ Đề kia lại làm sao chứng được? – Đây vô ngã tướng như thế mà nên biết tất cả huyễn pháp đều chẳng có chỗ có. Như huyễn mà hiện ra gọi tên là có. Có tánh, vô tánh, tánh của tự tánh kia, tánh nầy vô trước tất cả nơi hiện hữu. Nếu pháp là có, tức chẳng nên không. Điều có nầy lại cũng cho thấy là hiện tiền vô thể. Nếu pháp là không tức chẳng nên có. Điều không nầy lại cũng là hiện tiền có thật. Cho nên chẳng sanh, lại chẳng nắm giữ. Do điều nầy nên biết pháp nói là có, mà chẳng có. Nếu mà chẳng có tức cũng là không. Trong đây nói có, lại chẳng thể quyết định. Pháp giới tự tánh nên như thế mà nói. Nếu các sắc pháp là thật có thể thì ở nơi đệ nhứt nghĩa lại chẳng có chỗ có. Cho nên ở trong đây, các việc tạo tác đều từ huyễn hoá phân biệt khởi lên vậy. Nếu pháp có tánh, hoặc pháp vô tánh thì trước sau cũng như vậy. Nếu phi hữu tánh hoặc phi vô tánh lại cũng như thế. Hữu tánh, vô tánh, tự tánh tương ưng. Tánh và vô tánh chẳng phải tâm phân biệt. Nếu có nói các pháp là mỗi mỗi vô tự tánh, thì cũng có các pháp nói là khác với vô tự tánh. Ở trong tất cả pháp, tánh chẳng có tự tánh nên nói là chẳng thể được. Cho nên chư Phật tuỳ theo ba đời mà chuyển làm cho thế gian, tất cả chúng sanh đều được giải thoát. Cảnh giới của chư Phật thì chẳng có nhân duyên tăng trưởng. Nơi kia lại cũng chẳng có tánh tăng trưởng. Trong tánh chân thật, chư Phật thường hiện hữu, nên biết tất cả pháp phân biệt ra bốn loại. Cho nên, hoặc có hoặc không, hoặc cả hai, hoặc chẳng phải hai, tâm thế gian như huyễn, lại cũng như huyễn.

Vì sao chẳng nói là có chỗ nói? Tất cả pháp không đều lìa chỗ đắm trước. Không lại chẳng lìa tánh chân thật kia. Trong đây, chẳng thể hí luận phân biệt, mà ở nghĩa nầy các pháp đều vô tánh. Như thế mà nói hể biết chư Phật Chánh Đẳng Chánh Giác phi tánh và phi vô tánh. Tánh và vô tánh đều lìa sự đắm trước vậy. Đây tức là phi không lại chẳng phải chẳng không. Không có trung gian, lại chẳng có chỗ sở lập. Cho nên tất cả Pháp chẳng sanh và chẳng có tánh. Vô sanh, vô tánh nên tuỳ theo tướng của mỗi nơi mà biểu thị. Rồi do sự chấp trước nầy nên có nghĩa là chẳng có chỗ được. Chẳng có tánh thật để giữ, đây tức là chơn thật. Các pháp vô sanh, lại cũng vô diệt, tất cả Pháp kia đều cùng một tướng. Trong đây như thế cũng đồng một tướng vậy. Tức là tất cả pháp vô nhiễm, vô tịnh hoặc nói các pháp có sanh, có diệt. Nên biết tất cả đều từ chủng tử phiền não, hư vọng mà sanh khởi. Nếu nói các pháp là không sanh, thì sự nói kia gọi là đoạn kiến, lời nói quá. Nếu nói các pháp là không diệt thì lời nói kia gọi là thường kiến, lời nói quá. Cho nên các pháp lìa ngôn ngữ. Chẳng thể nói sanh, mà cũng chẳng thể nói diệt. Ở trong tất cả pháp sự sanh diệt thật chẳng có ít pháp có chỗ được. Nếu hay lìa hai loại nói quá kia, tức tất cả pháp chẳng đoạn chẳng thường. Hữu tánh, vô tánh, tánh ấy tự chân thật. Trong đây không có ít pháp là chỗ được tướng. Chẳng có một việc gì mà thật có thể chuyển được. Tuy các pháp có sanh mà chẳng có chỗ có. Trong đây lại cũng chẳng có biên giới thật. Chẳng biết rằng như hư không, lìa tất cả tướng.

Sự biết và hư không, tất cả đều bình đẳng nên biết tất cả sự sai biệt, sự phân biệt là vì lưới nghi phiền não và tánh thanh tịnh. Chơn như vô tướng lìa các chỗ duyên vào. Tự tánh thanh tịnh vốn có ánh sáng lớn. Cho nên phải biết chư Phật Thế Tôn vốn tánh chơn như. Đây gọi là Phật Bảo, mà nguyên nhân thanh tịnh để biểu thị Pháp thanh tịnh, mở bày sự lý giải chánh đáng và gìn giữ tự tánh. Đây gọi là Pháp Bảo. Chỉ cho con đường chân thật, tự thể tương ưng. Đây là tăng bảo. Như thế ba bảo nầy đều chẳng có tướng, chẳng có pháp chứa đựng, chẳng có chỗ huân tập, chẳng có nơi, chẳng có tướng, chẳng phân biệt, cho nên chư Phật Thế Tôn ở nơi Thắng Nghĩa Đế. Từ con đường như thật, mà đến bằng sự như thật. Cho nên gọi là Như Lai. Trong như thật rõ biết các pháp vô ngã. Cho nên hiện ra các sắc tướng và các pháp công đức. Từ sơ phát tâm tu hành các hạnh để được bất thối chuyển. Cho đến sau cùng nhứt sanh bổ xứ thành đẳng chánh giác. Đây là chỗ nguyên nhân từ vô cấu chơn như mà hiện ra thân Phật. Sự hiện thân nầy là phương tiện sanh ra, để tuyên nói các pháp mà thật sự ra chẳng có tướng nói. Vì sao vậy?

-Vô tánh vô sở hữu vậy. Thức tâm thanh tịnh; thức nầy tức là có chỗ làm các việc lại như thế mà hiện ra. Tuy hiện ra chỗ chẳng chấp mà lại chẳng nói. Ở nơi Thắng Nghĩa Đế chẳng thể thủ, chẳng thế nói vậy. Tức ở đây chẳng thủ và chẳng nói, thể tánh tự chân thật. Lại cũng chẳng thể nói, mà chẳng thể nói tức là không phân biệt. Tánh không phân biệt là thắng nghĩa đế. Ở nơi Thắng nghĩa đế, tuỳ theo sự phân biệt chỗ có và chỗ có nghe các pháp. Như thế, như thế, các pháp nói ấy là tướng của các pháp chẳng nói. Pháp tánh của các pháp đều bình đẳng. Các pháp vô ngã lại chẳng có tự tánh; có tánh vô tánh tự tánh kia lìa có và lìa không; mà chẳng thể thủ, chẳng thể nói. Trong đây như thế hoặc có hoặc không ngữ nghĩa sâu xa lìa tướng mà nói.

Các pháp chẳng có tướng chứng; nên đây có tên là Chánh Đẳng Giác. Các Pháp lìa tướng nói; nên đây nói là chơn thật, chẳng sanh lại chẳng diệt. Nghĩa của các pháp sâu xa vô cùng, mỗi mỗi các cảnh giới vô ngã và chẳng chuyển, Pháp bên ngoài chẳng thể chuyển và pháp bên ngoài chẳng thể thủ. Bố thí, trì giới và các pháp tuy nói nhưng mà vô tướng. Cho nên ở nơi tất cả pháp chẳng có tướng thủ, tức chẳng có chỗ đắm trước. Ở trong đây lại chẳng có tác dụng riêng. Giả thử có chỗ làm, lại có tên là không. Chỗ làm không nên không có tướng thật hành; không có tướng thật hành nên trong pháp ấy không tăng không giảm. Nếu ở nơi các pháp hư vọng phân biệt, thì nên biết tâm kia chấp tướng để chuyển, nên khởi lên tâm kia vậy. Đây là kẻ ngu si đắm trước tánh phiền não và kẻ kia chẳng thể giải thoát. Nếu chẳng khởi lên sự hư vọng phân biệt thì các chỗ làm đều tịch tĩnh. Kia có thể như thật mà được giải thoát. Chẳng phân biệt nên tâm tánh thường tịch, cho nên các pháp từ duyên mà sanh ra. Tuy có chỗ sanh mà nói là không, nên quán tự pháp chẳng có tướng có. Đức Chánh Đẳng Chánh Giác làm và nói như thế. Phải biết các pháp chẳng tụ, chẳng tan, chẳng tự, chẳng tha, chẳng có pháp nhỏ, chấp tướng có thể được. Như đầu lại cũng như cuối, đầu cuối đều tương ưng, mà tánh chơn như kia là ánh sáng quang minh chiếu diệu. Có thể chiếu khắp đến tánh chơn như kia.Các pháp duyên sanh hiện ra vô ngại. Như huyễn mà sanh lại nói như thế. Điều nầy nói rằng xuất sanh nơi Đại Thừa.; nên biết tất cả Pháp, hoặc sanh, hoặc diệt, chẳng phải con đường Tầm Tứ nên biết như thế. Vì sao vậy?

Các ngữ nghĩa đều chẳng có chỗ đắm trước vậy. Tánh chân thật kia đều chẳng thể biết vậy. Cho nên hiện tiền chẳng có chỗ chấp trước. Kẻ trí như thật mà lìa những lời nói. Tâm phân biệt kia gọi là lưới. Lìa sự phân biệt kia tức được giải thoát. Tâm giải thoát kia như bình đẳng vậy. Như thế chỗ nói pháp ấy thật sâu xa. Ở trong nầy như thật tín giải. Đây là người Đại Trí. Tâm tín giải kia cùng với ba cảnh. Tâm nầy thanh tịnh lìa các trần cấu. Lại nữa có thể xa lìa tất cả những sự nhiễm trước. Tức ở nơi các pháp chẳng thủ và chẳng xả. Tất cả sự chấp trước ngu si đều xa lìa. Kẻ kia có thể rộng được 10 loại tự tại. Kẻ kia ở nơi tự pháp ấy giác ngộ rõ ràng thật tánh. Trong vô tự tánh lại chẳng có chỗ trụ. Ở nơi các Pháp như thật tín giải. Như chỗ tín giải như thật mà trụ. Giống như hư không khắp biến không thiếu. Tất cả pháp kia viên mãn xuất sanh lại cũng như thế. Pháp nầy bình đẳng phổ biến tất cả. Ở trong đó chẳng có pháp, chẳng đến chẳng đi. Chẳng đến đi nên các pháp hiện tiền. Biết nghĩa nầy là thông đạt lời dạy của chư Phật. Tất cả pháp sanh tất chẳng có chỗ đắm trước. Khác với điều nầy lại cũng chẳng có pháp biệt hữu. Điều nầy ở nơi Đại Thừa là con đường quan trọng của các Pháp. Tối thượng thậm thâm như thật mà chuyển. Tâm thức tịnh rồi, cho nên tất cả đều chẳng đắm trước cùng với tất cả pháp lý chẳng tương ưng. Cho nên phải biết tất cả tâm chấp hết các nơi của các pháp có, thì pháp kia sâu xa chẳng thể dùng trí để mà quan sát. Lại chẳng rõ biết. Chẳng có hai nơi đều chẳng thể lập mà nên nghĩa nầy vậy.

Tin Phật Bồ Đề chẳng thể chứng cũng không có nơi chứng. Trong pháp Bồ Đề chẳng có chỗ để ở. Nếu có thể như thật chứng, tự Phật cùng với tất cả Pháp đều tự tương ưng. Các pháp chẳng có nguyên nhân, lại chẳng có chỗ làm mà những kẻ ngu si suy nghĩ phân biệt. Nếu chẳng có nguyên nhân lại chẳng thể huân tập các việc phước đức; khởi tâm nhiễm trước cảm đến quả báo của ác thú cho nên kẻ trí phải biết ở nơi đây trong pháp thậm thâm vi diệu như thật tín giải, tôn trọng cung kính. Tức được vô lượng tối thượng Phước tụ. Đây tên là bậc chân thật tu Đại Thừa. Cho nên có người rõ biết con đường nầy rồi thật hành theo con đường như thật đó, không đắm nhiễm vào con đường đó, tối thượng tối thắng, mà có thể phát sanh tín tâm thanh tịnh rồi xưng tán chư Phật. Có những kẻ vô trí, tà kiến, ngoại đạo, chẳng thể xả bỏ nơi kia những chấp trước của Tăng, thì đây là pháp sâu xa chẳng nên nói ra. Nếu nói cho kẻ kia nghe về lý ấy thì chẳng tương ưng.

Những gì con tán dương Pháp tối thượng
Đầu, giữa, sau lành lý tương ưng
Tổng nhiếp tối thượng chơn thật cú
Thậm thâm vi diệu bất tư nghì
Nhóm các công đức thật vô biên
Phổ thí tất cả chúng sanh giới

Hết Quyển Hạ

Dịch xong cùng ngày 16 tháng 12 năm 2004 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi

Trang: 1 2