QUÁN KINH TỨ THIẾP SỚ
Hòa Thượng Thiện Đạo tập ký
Hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch kinh văn
Thích Pháp Chánh dịch sớ văn

Quyển Hai: TỰ

Từ đây trở xuống, chia kinh làm năm phần để giải thích.

1. Từ “Như thế tôi nghe” cho đến “bị ngũ khổ bức não, phải làm thế nào để thấy Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc?”, là giải thích phần “Tự”

2. Từ câu đầu của pháp quán “Mặt trời” cho đến cuối phần “Hạ phẩm hạ sanh” là giải thích phần “Chánh tông.”

3. Từ “Khi đức Thế Tôn nói lời ấy rồi” cho đến “vô lượng chư thiên phát tâm Vô thượng Bồ đề”, là giải thích phần “Lợi ích.”

4. Từ “Khi ấy tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy” cho đến “Vi Đề Hy cùng quyến thuộc thảy đều hoan hỷ”, là giải thích phần “Lưu thông.”

5. Từ “Tôn giả A Nan lại vì đại chúng trùng tuyên việc ấy”, lại là một pháp hội, Kỳ Xà Quật, cũng chia làm ba phần: a. Từ “Bấy giờ đức Thế Tôn bước lên hư không” là phần Tự. b. Từ “A Nan lại vì đại chúng”, là phần Chánh tông. c. Từ “Vô lượng chư Thiên…” là phần lưu thông.

Sự giáo hóa của đức Phật đều có nguyên do, cho nên khởi đầu là nói về phần “Tự.” Sau khi biết rõ nguyên do, thì chính thức bàn đến nội dung, cho nên nói đến phần “Chánh tông.” Sau khi đã giảng giải hoàn tất nội dung, muốn cho những điều giảng giải lưu truyền đến đời sau, khen ngợi khuyến học, cho nên nói phần “Lưu thông.”

Phần Tự chia làm hai: i. “Như thế tôi nghe” gọi là Chứng tín tự. ii. Từ “Một thời Phật ở” nhẫn đến “phải làm thế nào để được thấy Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc”, là giải thích phần Phát khởi tự.

I – CHỨNG TÍN TỰ

Như thế tôi nghe

Chứng tín tự, có hai nghĩa: 1. “Như thế”, tức là nêu tổng quát về đức Giáo Chủ là người giảng pháp. 2. “Tôi nghe”, tức là chỉ riêng cho ngài A Nan là người nghe pháp. Cho nên phải phân “Như thế tôi nghe” ra hai ý để giải thích.

Lại nữa, “Như thế” là chỉ hai môn “định thiện”, “tán thiện.” Chữ “thế” là từ ngữ xác định, ứng hợp căn cơ mà hành trì ắt được lợi ích. Ở đây muốn xác minh rằng những lời dạy của đức Như Lai là chính xác, không có sai lầm, cho nên nói là “Như thế.”

Lại chữ “Như” có nghĩa là “như ý chúng sanh.” Đức Phật tùy theo sự mong cầu mà hóa độ. Căn cơ và giáo pháp tương ưng thì gọi là “thế”, cho nên gọi là “Như thế.”

Lại nữa, “Như thế” lại có nghĩa là những điều Phật dạy, giảng “tiệm giáo” thì đúng theo “tiệm giáo”, giảng “đốn giáo” thì cũng đúng theo “đốn giáo”, giảng “tướng” đúng theo “tướng”, giảng “Không” đúng theo “Không”, giảng “nhân pháp” đúng theo “nhân pháp”, giảng “thiên pháp” đúng theo “thiên pháp”, giảng Tiểu thừa đúng theo Tiểu thừa, giảng Đại thừa đúng theo Đại thừa, giảng pháp phàm phu đúng theo phàm phu, giảng pháp thánh nhân đúng theo thánh nhân, giảng “nhân” đúng theo “nhân”, giảng “quả” đúng theo “quả”, giảng “khổ” đúng theo “khổ”, giảng “vui” đúng theo “vui”, giảng “xa” đúng theo “xa”, giảng “gần” đúng theo “gần”, giảng “giống” đúng theo “giống”, giảng “khác” đúng theo “khác”, giảng “tịnh” đúng theo “tịnh”, giảng “uế” đúng theo “uế.” Giảng tất cả pháp, muôn vàn sai khác, đức Như Lai quán xét biết rõ căn cơ của chúng sanh mà giảng nói khiến cho tất cả đều được lợi ích.

“Tôi nghe”, có nghĩa là ngài A Nan là thị giả thường theo hầu hạ bên cạnh Phật, nghe nhiều hiểu rộng, y giáo hành trì, tự thân gánh vác lời dạy của Phật, không qua một sự trung gian nào khác, cho nên gọi là “tôi nghe.”

Lại nữa, nói “chứng tín”, có nghĩa là ngài A Nan đem lời dạy của Phật lưu truyền đời sau, muốn cho chúng sanh hiểu rõ là những pháp tu quán tưởng này là do chính ta nghe đức Phật giảng nói, có thể hoàn toàn tin tưởng không chút nghi ngờ,

cho nên phần này gọi là “chứng tín tự.”

II – PHÁT KHỞI TỰ

1. Từ “Một thời Phật ở” cho đến “Pháp vương tử là bậc thượng thủ” là “Hóa tiền tự.”

2. Từ “Bấy giờ trong Vương Xá đại thành” cho đến “dung sắc hòa nhã tươi vui” là phần “nhân duyên giam cầm phụ vương.”

3. Từ “Lúc đó, A Xà Thế đến hỏi” cho đến “giam cầm Quốc thái Phu nhân trong thâm cung, không cho ra ngoài nữa” là phần “nhân duyên giam lỏng mẫu thân.”

4. Từ “Vi Đề Hy bị u cấm” cho đến “cùng với Đề Bà Đạt Đa đồng làm quyến thuộc” là phần “nhân duyên những cõi khổ.”

5. Từ “Cúi xin đức Thế Tôn” cho đến “dạy con pháp tư duy và chánh thọ” là “nhân duyên các cõi tịnh.”

6. Từ “Khi ấy đức Thế Tôn liền mỉm cười” cho đến “ba thứ phước này là chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật trong ba đời” là “nhân duyên dạy về pháp môn tán thiện.”

7. Từ “Đức Thế Tôn khen Vi Đề Hy và bảo A Nan” cho đến “phải làm thế nào để thấy được Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc” là “nhân duyên định thiện, chỉ pháp tu quán.”

1 – Hoá tiền tự.

A – Một thời.

Một thời

Chính là lúc bắt đầu khai giảng bộ kinh. Đức Phật giảng pháp, thoạt tiên phải nêu lên thời gian (thời) và nơi chốn (xứ). Muốn cho chúng sanh nghe pháp khai ngộ, phải nhờ vào nhân duyên; đức Giáo Chủ muốn độ sanh, cũng phải đợi thời cơ, nơi chốn.

Lại nữa “một thời”, nói về mười hai thời trong một ngày, hoặc nói về bốn thời (mùa) trong một năm, v.v… Đây đều là những lúc mà đức Như Lai tùy cơ nhiếp hóa.

Còn nói “nơi chốn (xứ)”, tức là tùy sự thuận tiện của nơi chốn. Đức Như Lai có khi nói pháp trong núi rừng, hoặc tại vương cung, thành ấp, hoặc tại đồng hoang mồ mả, hoặc trong những chúng hội trời người, hoặc trong những chúng hội Bồ tát, Thanh văn, hoặc tại chúng hội trời rồng quỷ thần, hoặc giảng cho người phàm, hoặc giảng cho thánh nhân. Tùy theo thời gian, nơi chốn, Đức Như Lai quán xét căn cơ, tùy duyên giảng dạy, làm cho tất cả đều được lợi ích. Đây gọi là “chuông lớn”, âm thanh tuy rềnh, nhưng phải đợi lúc khấu mới vang tiếng. Đức Đại Thánh tuy từ bi, phải đợi thời cơ mới thuyết pháp, cho nên gọi là “một thời.”

Lại nữa, lúc vua A Xà Thế gây tội nghịch, Đức Phật đang ở với hai chúng xuất gia trong núi Kỳ Xà Quật. Đây là “lấy kẻ dưới nghiệm người trên”, nên gọi là một thời.

Lại nữa, lúc Đức Phật và hai chúng xuất gia đang ở núi Kỳ Xà Quật, nghe vua A Xà Thế gây nên tội nghịch. Đây là “lấy người trên nghiệm kẻ dưới”, nên gọi là một thời.

B – Phật.

Phật

Chữ Phật ở đây, nêu rõ vị hóa chủ là Đức Bổn Sư Thích Ca, chứ không phải một vị Phật nào khác.

C – Địa điểm giáo hóa của đức Như Lai.

Ở tại núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá.

Có hai phần:

1/ Du hành trong các tụ lạc thôn ấp của thành Vương Xá là để giáo hóa hàng tại gia.

2/ Du hành nơi núi Kỳ Xà Quật là để giáo hóa hàng xuất gia.

Lại nữa, người tại gia tham cầu ngũ dục, chấp trước tất cả là thường. Giả sử có phát tâm thanh tịnh (cầu xuất ly …) thì cũng như nét vẽ trên mặt nước. Thế nhưng, Đức Phật vẫn không xả bỏ lòng đại bi, tùy duyên làm lợi ích chúng sanh. Hơn nữa, người xuất gia, tại gia, do vì hình tướng khác biệt, cho nên không thể ở chung một chỗ. Đây gọi là “cảnh giới trụ.”

Lại nữa, người xuất gia quên thân, xả mạng, đoạn trừ lòng tham muốn, quy hướng chơn thường, tâm kiên cố như kim cương, trí sáng suốt tợ đại viên kính, mong cầu quả Phật, hoằng dương Phật pháp, lợi ích tự tha. Nếu như không xả bỏ duyên trần, thì không cách nào đạt được những đức tánh như vậy. Đây gọi là “y chỉ trụ.”

D – Các đệ tử của đức Phật

Cùng với một ngàn hai trăm năm mươi bậc Đại tỳ khưu. Nơi chúng hội đây, lại có ba vạn hai ngàn vị Bồ tát, trong ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương là bậc thượng thủ.

Trong đây chia làm hai loại: Thanh văn và Bồ tát.

a – Thanh văn. Có chín nghĩa: 1. cùng với: Đức Phật ở chung với các đệ tử, nên gọi là cùng với; 2. tổng đại; 3. tướng đại; 4. chúng đại; 5. kỳ niên đại; 6. số đại; 7. tôn túc đại; 8. nội hữu thực đức đại; 9. quả chứng đại.

Hỏi: Vì lý do gì, trong phần đầu của tất cả kinh điển đều đề cập đến các vị Thanh văn này?

Đáp: Các vị Thanh văn này, đa số từng là ngoại đạo. Như trong Kinh Hiền Ngu (quyển hai) nói: Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp lãnh đạo năm trăm đệ tử tu tập tà pháp, Già Da Ca Diếp lãnh đạo hai trăm năm mươi đệ tử tu tập tà pháp, Na Đề Ca Diếp lãnh đạo hai trăm năm mươi đệ tử tu tập tà pháp. Tổng cộng một ngàn người, thọ lãnh sự giáo hóa của Đức Phật, đều chứng quả A la hán. Hai trăm năm mươi người còn lại, đệ tử của hai ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, cũng là những người tu tập tà pháp, thọ lãnh sự giáo hóa của Đức Phật, đều chứng quả A la hán. Bốn nhóm này tụ hợp một nơi, tổng cộng một ngàn hai trăm năm mươi vị.

Hỏi: Trong chúng này cũng có những người không phải ngoại đạo, tại sao nêu chung với họ?

Đáp: Trong kinh nói, những ngoại đạo này thường theo hầu bên cạnh Đức Phật không rời. Những nhà kết tập kinh điển chỉ nêu hình tướng bên ngoài, do đó có tên gọi khác biệt. Vả lại, ngoại đạo chiếm đa số.

Hỏi: Không rõ vì sao những ngoại đạo này thường theo hầu bên cạnh Đức Phật?

Đáp: 1. Từ phía Đức Phật giải thích: Các ngoại đạo này đã tu tập tà pháp nhiều đời, tuy quy y Phật pháp, nhưng tập khí vẫn còn tồn tại, cho nên Đức Như Lai giữ họ bên cạnh mình, không cho ra ngoài hoằng dương Phật pháp, e rằng họ sẽ làm tổn hoại cội gốc chánh kiến của những chúng sanh khác, làm tăng trưởng ác nghiệp, khiến cho chúng sanh đời này đời sau không được chứng đắc thánh quả. Do nhân duyên này, Đức Thế Tôn giữ họ bên cạnh, không cho ra ngoài giáo hóa chúng sanh. 2. Từ phía ngoại đạo giải thích: Các ngài Ca Diếp, v.v… tự nghĩ rằng họ nhiều kiếp đến nay trôi lăn sanh tử, luân hồi sáu nẻo, khổ não vô cùng, ngu si ác kiến, bám chặt tà pháp, không gặp minh sư, chìm sâu biển khổ. Nhưng do nhân duyên đời trước, được gặp Đức Phật bình đẳng đem pháp cam lộ tưới rót, vì nhớ ơn đức như trời biển đó cho nên luôn luôn gần gũi hầu hạ Đức Thế Tôn.

Hỏi: Những vị tôn túc này vì sao gọi là Những kẻ quen biết (Hán: sở tri thức) của mọi người?

Đáp: Đức lớn gọi là tôn, tuổi cao gọi là túc. Tất cả phàm thánh đều biết những vị ấy đức hạnh hơn người, hình tướng dị biệt, nên gọi là sở tri thức.

b – Bồ tát: Trong đây được chia làm bảy hạng mục: a. nêu hình tướng, b. nêu số mục, c. nêu địa vị, d. nêu quả vị, e. nêu đức hạnh, f. nêu riêng Đức Văn Thù, g. tổng kết.

Các vị Bồ tát này đầy đủ vô lượng hạnh nguyện, an trụ trong tất cả pháp công đức, biến hiện khắp mười phương, dùng những phương tiện quyền xảo lợi ích chúng sanh, thâm nhập Phật pháp thâm sâu, đã rốt ráo đến bờ bên kia, trong vô lượng thế giới hóa hiện thành Phật, quang minh chiếu sáng khắp cả mười phương, khiến cho vô lượng cõi Phật sáu loại chấn động, tùy duyên khai thị, chuyển bánh xe pháp, đánh trống pháp, cầm kiếm pháp, rền sấm pháp, rưới mưa pháp, bố thí pháp, thường đem pháp âm giáo hóa thế gian, xé rách lưới tà, tiêu diệt ác kiến, phá nát phiền não, lấp mương ái dục, hiển bày thanh bạch, làm sáng Phật pháp, tuyên dương giáo hóa, thương xót chúng sanh, chưa từng phóng dật, chứng pháp bình đẳng, đầy đủ vô lượng trăm ngàn tam muội, đều được chứng quả, trong khoảnh một niệm đến khắp mọi nơi, chăm sóc chúng sanh giống như con một. Tất cả gốc lành, đều đã thành tựu. Đều được vô lượng công đức của chư Phật, trí tuệ sáng suốt, không thể nghĩ bàn.

2 – Nhân duyên giam cầm phụ vương.

A – Địa điểm giảng kinh.

Bấy giờ trong Vương Xá đại thành

Theo truyền thuyết, khi xưa, dân trong thành mỗi khi cất nhà đều bị lửa trời thiêu rụi, chỉ có cung điện vua chúa là không bị cháy. Không biết là lý do gì? Dân chúng đem việc ấy tâu lên, vua bảo: “Từ đây về sau, nếu có ai xây cất nhà cửa, đều phải nói lớn rằng Tôi cất nhà này cho nhà vua.” Mọi người y lời, quả nhiên nhà cửa không bị cháy. Do nhân duyên này cho nên gọi là Vương Xá.

Gọi là đại thành, bởi vì thành này rất lớn, dân cư độ khoảng chín ức (900.000), cho nên gọi là Vương Xá đại thành.

Gọi là địa điểm giảng kinh. Có hai lý do:

1- Vua A Xà Thế khởi ác tâm, gây tạo nhân duyên giam cầm cha mẹ. Nhân bị giam cầm mà bà Vi Đề Hy sanh lòng nhàm chán Ta Bà, cầu sanh Cực Lạc.

2- Đức Như Lai theo lời thỉnh cầu, phóng ánh sáng biến thành bảo đài, hiển thị các cõi Phật, bà Vi Đề Hy nhân đây liền cầu sanh An Lạc, lại còn cầu thỉnh pháp tu. Đức Phật liền khai thị pháp tu ba phước, mười sáu pháp quán và chín phẩm vãng sanh. Do nhân duyên này nên gọi là địa điểm giảng kinh.

B – Vua A Xà Thế, trong lúc hoảng hốt, lầm nghe theo lời xúi giục của kẻ ác.

Có vị Thái tử tên là A Xà Thế, nghe theo lời xúi giục của ông bạn ác Điều Đạt

A Xà Thế, dịch là vị sanh oán (oán thù lúc chưa sanh), còn có nghĩa là chiết chỉ (gãy ngón tay).

Hỏi: Vì sao có tên Vị Sanh Oán và Chiết Chỉ?

Đáp: 1. Chiết Chỉ: Do nhân duyên ngày trước mà có tên này. Vốn là vua Tần Bà Sa La đã lớn tuổi mà vẫn chưa có con trai. Ông đi cầu khẩn khắp nơi mà vẫn chưa được toại nguyện. Một hôm, có thầy tướng đến tâu rằng: “Thần biết trong núi có một vị tiên, không bao lâu sẽ mạng chung, sau đó sẽ đầu thai vào làm thái tử.” Nhà vua nghe xong, vô cùng hoan hỷ, bèn hỏi: “Vị tiên đó còn sống bao lâu?” Thầy tướng trả lời: “Còn ba năm nữa.” Vua nói: “Ta đã già rồi, không người nối dõi. Làm sao có thể đợi thêm ba năm được!” Bèn khiến sứ giả vào núi cầu thỉnh vị tiên rằng: “Nhà vua không có con, không người thừa kế. Đã đi cầu khẩn khắp nơi nhưng chưa toại nguyện. Có một thầy tướng biết được tiên nhân không bao lâu sẽ mạng chung đầu thai vào cung vua làm thái tử. Kính mong tiên nhân dũ lòng thương xót, sớm xả báo thân.” Sứ giả tuân mệnh vào núi, đến chỗ tiên nhân trình lên lời dạy của vua. Tiên nhân nói với sứ giả: “Còn ba năm nữa ta mới mạng chung, nhà vua ra lệnh xả mạng bây giờ, đây là điều bất khả.” Sứ giả nghe xong, bèn trở về cung tâu lại với vua. Vua nói: “Ta là chủ một nước. Tất cả nhân dân tài sản đều thuộc về ta. Hôm nay, ta đã dùng lễ nghi đến cầu thỉnh lại không tuân mệnh. Khanh hãy đi mời lần nữa. Nếu như không tuân mệnh, thì hãy cứ giết hắn. Nếu như hắn chết, không thể nào không đầu thai làm con ta!” Sứ giả tuân lời, đến chỗ tiên nhân trình bày lại ý của nhà vua. Tiên nhân tuy nghe lệnh vua, vẫn không nao núng. Sứ giả tuân mệnh của nhà vua, toan giết ông ta. Vị tiên nói: “Ông về tâu lại với nhà vua, mạng ta chưa hết mà nhà vua dùng tâm, khẩu sai người đến giết ta, nếu ta đầu thai làm con vua, thì ta cũng sẽ dùng tâm, khẩu sai người giết ông ấy.” Sau khi nói xong, vị tiên bèn chịu chết. Đêm hôm ấy hoàng hậu thọ thai. Nhà vua nghe tin, lòng rất vui mừng. Sáng hôm sau bèn mời thầy tướng vào cung đoán xem đứa bé là nam hay nữ. Thầy tướng xem xong, tâu lên vua: “Đứa bé là con trai, nhưng sau này sẽ làm hại tánh mạng bệ hạ.” Nhà vua nói: “Cả giang san này ta đều giao hết cho nó. Nếu như có bị hại, ta cũng chẳng có gì phải sợ.” Tuy nói như thế, nhưng trong lòng nhà vua vẫn cảm thấy bất an, bèn đến tìm hoàng hậu để bàn định việc này. Vua nói: “Ta có chuyện muốn bàn riêng với phu nhân. Hôm nay thầy tướng tâu với ta là đứa bé sau này sẽ làm hại tánh mạng ta. Phu nhân lúc sanh, hãy lên trên lầu cao đẻ cho nó rơi xuống đất, lẽ nào nó không chết. Ta sẽ không còn phải lo lắng, mà việc này cũng không bị tiết lộ!” Hoàng hậu nghe xong, bèn y theo lời dặn của nhà vua. Đến lúc sanh, đứa bé rơi xuống đất nhưng không chết mà chỉ bị gãy một ngón tay. Vì lý do này, mọi người đều gọi A Xà Thế là Thái tử Chiết Chỉ.

2. Vị sanh oán: Đây là do Đề Bà Đạt Đa khởi tâm đố kỵ, nên mới thuật lại cho thái tử nghe những nhân duyên ngày trước. Vì sao do tâm đố kỵ mà khởi ác duyên? Bởi vì Đề Bà là người tính tình bạo ác. Tuy xuất gia nhưng thường ôm lòng ghen ghét Đức Phật được danh văn lợi dưỡng. Vua Tần Bà Sa La là một vị đại thí chủ của Phật, thường đem rất nhiều phẩm vật đến cúng dường. Mỗi lần như vậy chở đến năm trăm xe, những món bảy báu như vàng, bạc, …, y phục quý giá, các món ngon thượng hạng, v.v…Ngoài ra lại còn đoàn tùy tùng trăm, ngàn người, mang theo hương, hoa, âm nhạc, rầm rộ kéo đến, đem phẩm vật cúng dường Đức Phật và chúng tăng. Đề Bà thấy vậy, tâm đố kỵ lại càng dữ dội, bèn đi tìm ngài Xá Lợi Phất, cầu học thần thông. Ngài Xá Lợi Phất bảo: “Ông nên về tu tứ niệm xứ, không cần học thần thông.” Không nản chí, Đề Bà lần lượt tìm năm trăm vị tỳ kheo khác để cầu học, nhưng không vị nào chịu dạy. Mọi người đều bảo học tứ niệm xứ. Cuối cùng, Đề Bà đi tìm ngài A Nan, nói: “Tôi là anh thầy, nay muốn học thần thông, xin thầy dạy cho tôi.” Ngài A Nan tuy chứng sơ quả nhưng chưa đắc tha tâm thông, không biết Đề Bà vì muốn hại Phật mà cầu học, bèn hẹn ông ta đến một nơi vắng vẻ chỉ dạy.

Thoạt tiên, ngồi kiết già, quán tưởng là đang dùng tâm nhấc thân lên. Bắt đầu quán tưởng bay lên khoảng một phân, một tấc, kế đến quán tưởng bay lên độ một thước, một trượng. Sau đó, nhiếp tâm quán tưởng mình bay về chỗ cũ.

Kế đó, dùng thân nhấc tâm. Đầu tiên, quán tưởng rời khỏi mặt đất một phân, một tấc, v.v… cũng giống như trước. Dùng thân nhấc tâm, dùng tâm nhấc thân, cho đến lúc bay bổng lên không trung, sau đó nhiếp thân bay về chỗ cũ.

Kế đó, quán tưởng thân tâm nhấc lên cùng lúc, một phân, một tấc, v.v… cũng giống như trước.

Kế đó, quán tưởng thân tâm xuyên qua các sắc chất, hoàn toàn không bị chướng ngại. Sau đó, quán tưởng các sắc chất như núi, sông, đại địa nhập vào thân mình, giống như hư không, không bị chướng ngại, không còn thấy sắc tướng. Kế đến, quán tưởng tự thân, hoặc to lớn trùm khắp hư không, nằm ngồi tự tại, hoặc nằm hoặc ngồi, lấy tay sờ mó mặt trời mặt trăng, hoặc quán tưởng tự thân nhập vào trong vi trần, tất cả đều không bị chướng ngại.

A Nan dạy xong, Đề Bà bèn tìm một nơi yên tĩnh, trong bảy ngày đêm, nhất tâm chuyên chú tập luyện, chứng đắc thần thông. Tất cả đều được thành tựu, đều được tự tại. Sau đó, ông ta bèn đến cung điện thái tử, bay lên không trung, hiện đại thần biến. Thân trên phun nước, thân dưới phun lửa; hoặc hông trái phun nước, hông phải phun lửa, hoặc hiện thân lớn, hoặc hiện thân nhỏ, nằm ngồi trên không, tùy ý tự tại. Thái tử thấy vậy, bèn hỏi cận thần: “Vị này là ai?” Cận thần trả lời: “Đó là tôn giả Đề Bà.” Thái tử nghe thế, tâm rất hoan hỷ, bèn vẫy tay gọi: “Tôn giả sao không xuống đây?” Đề Bà nghe gọi, bèn biến thành một hài nhi, nằm trên đùi thái tử. Thái tử ôm hài nhi vào lòng, hun hít vào môi, sau đó nhổ nước bọt vào miệng nó, hài nhi bèn nuốt vào bụng. Một lát sau, hoàn hiện thân cũ. Thái tử thấy Đề Bà hiện nhiều thần biến, càng thêm bội phục. Đề Bà thấy thái tử kính ngưỡng mình, bèn tâu lên chuyện vua cha cúng dường Đức Phật năm trăm xe phẩm vật. Thái tử nghe xong bèn nói với Đề Bà: “Ta cũng có thể cúng dường năm trăm xe phẩm vật cho tôn giả và chúng tăng. Lẽ nào không bằng Phật!” Đề Bà nói: “Ý kiến tuyệt diệu!” Từ đó về sau, Đề Bà được cúng dường trọng hậu, càng lúc càng trở nên kiêu mạn. Ví như lấy gậy đập vào mõm chó, làm cho nó càng hung dữ, việc cúng dường này cũng tương tự như vậy. Thái tử đem gậy lợi dưỡng đập vào mõm chó Đề Bà, làm cho ông ta càng lúc càng thêm hung ác.

Do nhân duyên này, Đề Bà bèn khởi tâm phá tăng, cải đổi giới luật của Phật, tuyên truyền dị kiến. Nhân lúc Đức Phật đang giảng pháp cho đại chúng, Đề Bà bèn đến trước Phật nói: “Đức Phật đã lão suy, phải nên tìm nơi hẻo lánh tịnh dưỡng, yêu cầu ngài giao chúng tăng cùng pháp tạng cho tôi chưởng quản.” Mọi người nghe xong, đưa mắt nhìn nhau, cảm thấy vô cùng quái lạ.

Lúc đó, Đức Thế Tôn ở trước đại chúng nói với Đề Bà: “Các ông Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên thuộc hàng trưởng lão mà ta còn chưa đem Phật pháp giao phó, huống chi ông là kẻ uống nước bọt người khác!” Đề Bà nghe Phật hủy nhục mình trước đại chúng, như bị tên độc bắn trúng tim, càng trở nên điên cuồng sân nộ. Sau đó, ông ta đến cung thái tử mưu bàn gian kế. Thái tử thấy Đề Bà liền hỏi: “Hôm nay tôn giả vì sao mặt mũi tiều tụy, không giống mọi lần?” Đề Bà trả lời: “Thái tử biết không, Thế Tôn đã già, không thể thống lãnh đại chúng, phải nên phế bỏ, để tôi lên làm Phật. Phụ vương ngài cũng đã già, cũng nên phế bỏ, để thái tử lên làm vua. Vua mới Phật mới, lãnh đạo giáo hóa, như vậy không vui sướng sao?” Thái tử nghe xong, vô cùng phẫn nộ, quát lên: “Chớ buông lời sàm sỡ!” Đề Bà nói: “Thái tử đừng nóng. Nhà vua đối với thái tử hoàn toàn không có ân đức. Lúc hoàng hậu sắp sanh, nhà vua ra lệnh cho hoàng hậu từ trên lầu cao trăm trượng đẻ thái tử rơi xuống đất, mong cho thái tử bị chết. Do vì thái tử phước lớn, cho nên chỉ bị gãy một ngón tay. Nếu như không tin, xin thái tử hãy nhìn ngón tay của mình. Đây là điều minh chứng.” Thái tử nghe xong, hỏi lại lần nữa: “Điều này có thật hay không?” Đề Bà đáp: “Nếu như không thật, chẳng lẽ hạ thần đến đây để bỡn cợt thái tử?” Nghe xong, thái tử tin lời Đề Bà, và hoàn toàn tuân hành những ác kế của ông ta.

C – Vua cha bị thái tử giam cầm.

Bắt vua cha là Tần Bà Sa La giam trong ngục kín dày đến bảy lớp cửa, Thái tử lại ra lịnh cấm các quan, không cho một ai được đến thăm.

A Xà Thế nghe lời sàm tấu của Đề Bà bèn vội quên đi tình cảm cha con, không những phụ rãy ơn cha, mà còn bị tiếng xấu bêu rêu khắp chốn.

Hốt nhiên bắt giữ, gọi là giam, bắt lâu không thả, gọi là cầm, cho nên gọi là giam cầm.

Cha, là một biểu hiệu cho sự thân thiết đến cùng cực. Vua, là nêu rõ ngôi vị. Tần Bà là tên. “Giam trong ngục kín dày đến bảy lớp cửa”, mưu tính đã nghiêm trọng, thì việc làm cũng không phải bình thường.

D – Hoàng hậu lén đem thức ăn đến cho vua.

Quốc thái Phu nhân là Vi Đề Hy, vì mến tưởng vua, bà lo nghĩ phương chước cứu giúp. Bà tắm gội sạnh sẽ, lấy bột nhồi với sữa và mật thoa dính nơi thân, đổ đầy nước trái nho vào các hạt chuỗi Anh Lạc, rồi lén đem các thức ấy dâng cho vua.

“Quốc thái Phu nhân”, biểu hiện địa vị cao nhất. Phu nhân là ngôi vị. Vi Đề Hy là tên. “Dâng cho vua”, nghĩa là Phu nhân thấy nhà vua bị giam cầm, thăm viếng rất khó khăn, không có tin tức, sợ rằng nhà vua bị tuyệt mạng, bèn dùng nước thơm tắm gội sạch sẽ, kế đến, lấy tô trộn với mật, phết lên trên thân, kế đến, lấy bột đắp lên trên mật, xong rồi mặc xiêm y như bình thường, khiến mọi người không chú ý. Lại lấy chuỗi anh lạc, mỗi hột anh lạc đựng đầy nước nho, kế đó lấy sáp bịt kín lại. Sau khi trang sức xong, bèn đi vào phòng giam gặp nhà vua.

Hỏi: Quần thần còn bị cấm không được gặp nhà vua, tại sao phu nhân là người trong hoàng tộc mà lại không bị cấm chế.

Đáp: Quần thần thân thế khác biệt, lại là người ngoài, e có mưu kế. Còn Phu nhân là người nữ, không có mưu mô, vả lại, Phu nhân có duyên sâu với nhà vua nhiều đời, tình nghĩa vợ chồng sâu nặng, không ai dị nghị, cho nên được phép vào thăm nhà vua.

E – Vua cha nhân bị giam cầm, cầu thỉnh giới pháp.

Tần Bà Sa La vương thọ dụng thức ăn uống xong, xin nước xúc miệng rửa mặt, đoạn chắp tay hướng về núi Kỳ Xà Quật kính lễ Đức Thế Tôn và thưa rằng: “Ngài Đại Mục Kiền Liên là bạn thân của con, xin khởi lòng từ bi truyền cho con giới Bát Quan Trai.”

Phu nhân vào gặp nhà vua, liền nạo bột trên thân, vò thành viên dâng lên cho nhà vua ăn. Nhà vua ăn xong, phu nhân bèn xin nước cho vua xúc miệng. Sau đó, không thể lãng phí ngày giờ, mà tâm không chỗ nương tựa, nhà vua bèn cung kính chắp tay hướng về núi Kỳ Xà Quật, đảnh lễ Đức Như Lai, thỉnh cầu sự gia hộ. Đây là dùng thân nghiệp kính lễ, mà cũng kèm theo ý nghiệp. Từ “Thưa rằng …” trở xuống, là nêu lên khẩu nghiệp, mà cũng kèm theo ý nghiệp. Câu “Đại Mục Kiền Liên là bạn thân của con …” có hai nghĩa: (i) Ngài Mục Liên lúc còn tại thế là người họ hàng của nhà vua, (ii) Sau khi xuất gia, ngài lại là thầy của vua, ra vào cung cấm tự do. Khi còn tại gia gọi là thân, sau khi xuất gia gọi là bạn, cho nên gọi là bạn thân. Câu “xin khởi lòng từ bi truyền cho con giới Bát Quan Trai”, đây là biểu hiện lòng kính trọng Phật pháp sâu xa của nhà vua, xem trọng người khác hơn bản thân mình. Nếu như không bị giam cầm, phụng thỉnh Phật và chư tăng không phải là điều khó khăn, nhưng nay bị nạn giam cầm, không dám làm lao nhọc Đức Thế Tôn, thành thử chỉ thỉnh cầu ngài Mục Liên đến truyền giới Bát quan trai.

Hỏi: Nhà vua từ xa kính lễ, trước tiên lễ Phật, đến khi cầu giới, lại thỉnh cầu ngài Mục Liên, đây là có ý gì?

Đáp: Bậc cao nhất trong tất cả phàm thánh, không ai hơn Phật. Vừa khởi tâm phát nguyện, đầu tiên là đảnh lễ bậc Đại Sư. Cầu giới chỉ là tiểu duyên, cho nên chỉ thỉnh ngài Mục Liên là đủ. Bởi do nhà vua chỉ cầu đắc giới, cho nên không dám làm lao nhọc đến Đức Như Lai.

Hỏi: Giới pháp của Đức Như Lai rất nhiều, tại sao nhà vua chỉ cầu Bát quan trai giới?

Đáp: Các giới pháp khác phạm vi rộng rãi, lại phải hành trì lâu dài, e rằng có thể vi phạm mà phải luân hồi sanh tử. Còn như giới Bát quan trai, như trong kinh Phật có nói, đây là người tại gia trì giới xuất gia, tâm trì giới này rất vi tế trong khoảng thời gian ngắn. Điều này có nghĩa gì? Vì thời gian ngắn ngủi, chỉ có một ngày đêm, sau đó giới thể tự động xả. Tại sao biết giới này dụng tâm vi tế? Như trong giới văn nói rõ: “Hỏi: Phật tử, từ sáng nay cho đến sáng mai, như chư Phật không sát sanh, có thể giữ được không? Đáp: Giữ được. Kế đến, hỏi: Phật tử, từ sáng nay đến sáng mai, như chư Phật không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu, không trang điểm, không tự múa hát và đi xem nghe, không nằm giường cao rộng. Tám điều này là giới, không phải là trai. Còn điều Quá ngọ không ăntrai mà không phải là giới. Các điều giới này đều dẫn chư Phật làm điển hình. Vì sao? Vì chỉ có chư Phật là dứt sạch phiền não, tập khí. Còn các bậc Đẳng giác trở xuống đều còn tập khí tàn dư, cho nên không dẫn. Do đây biết giới này hành trì rất vi tế. Hơn nữa, Đức Phật nói nếu trì giới này một ngày đêm không phạm thì sẽ có tám công đức, vượt hơn công đức trời người và hàng Nhị thừa. Như các kinh có nói rõ. Vì có lợi ích như thế, cho nên nhà vua mới thọ mỗi ngày.

F – Vì nhờ thỉnh cầu, nên được thánh pháp.

Khi ấy ngài Mục Kiền Liên biết được, liền bay đến chỗ Tần Bà Sa La Vương lẹ như chim ó, chim cắt; mỗi ngày truyền giới Bát Quan Trai cho vua. Đức Thế Tôn cũng sai tôn giả Phú Lâu Na vì vua thuyết pháp.

Ngài Mục Liên có tha tâm trí, từ xa biết được ý cầu thỉnh, liền vận thần thông, chỉ trong khoảnh khắc đã đến chỗ nhà vua. Vì e mọi người không biết hành tướng của thần thông, thành thử đem sự nhanh của chim ưng chim ó để ví dụ, thật ra, thần lực của Mục Liên, trong khoảng một niệm, có thể đi quanh bốn châu thiên hạ trăm ngàn lần, lẽ nào chỉ nhanh như loài ưng ó. Những loại so sánh như vậy, trong các kinh đều có nêu ra rất nhiều, chẳng hạn như Kinh Hiền Ngu, v.v…

G – Vua cha được ăn uống đầy đủ lại được nghe pháp cho nên sau nhiều ngày vẫn sống.

Như thế trải qua hai mươi mốt ngày, nhờ được ăn uống và nghe pháp, nên dung sắc vua hòa nhã tươi vui.

Do phu nhân mỗi ngày đem thức ăn đến, tiêu trừ sự đói khát, hai vị tôn giả đem giáo pháp đến an ủi, làm cho nhà vua khai tâm mở ý. Thức ăn tăng thọ mạng, giới pháp dưỡng tinh thần. Không còn ưu phiền khổ não, cho nên thần sắc nhà vui hòa nhã tươi vui.

3 – Nhân duyên giam cầm mẫu thân.

A – Hỏi tin tức phụ vương.

Lúc đó A Xà Thế đến hỏi người giữ ngục rằng :

Phụ vương ta hôm nay còn sống chăng?

A Xà Thế giam vua cha nhiều ngày, người bình thường nếu không ăn uống, nhiều lắm khoảng hai tuần thì sẽ chết. A Xà thế giam cha đã hai mươi mốt ngày, nghĩ rằng đức vua đã chết, cho nên mới đến hỏi rằng vua cha còn sống hay không?

Hỏi: Người thường, không ăn khoảng bảy ngày thì sẽ chết. Vua cha bị giam hai mươi mốt ngày không cho ăn uống, ắt đã tuyệt mạng. A Xà Thế tại sao không hỏi thẳng: “Vua cha đã chết chưa?”, mà lại có vẻ nghi ngờ hỏi rằng còn sống hay chăng. Đây là nghĩa gì?

Đáp: A Xà Thế hỏi với ẩn ý. A Xà Thế đã làm vua một nước, không thể tùy tiện hành động. Vua cha đã là tình thân cao tột, không thể trực tiếp hỏi chết hay chưa, e rằng bị người ngoài dị nghị. Tuy trong lòng muốn cha chết, nhưng miệng hỏi còn sống chăng, ý muốn ngăn ngừa tiếng đồn mình là người ác nghịch.

B – Người giữ ngục trả lời.

Người giữ ngục đáp:”Tâu đại vương! do Quốc Thái Phu nhân thoa bột với mật vào thân và đựng nước trái nho trong hạt chuỗi đem cung phụng; lại có hai Sa môn là Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na bay đến truyền giới thuyết pháp không thể ngăn cấm, nên hiện tại đức vua vẫn bình yên.”

Nghe A Xà Thế hỏi tình hình vua cha, người giữ ngục bèn tâu rõ việc Phu nhân lén đem thức ăn đến, nhà vua được ăn uống đầy đủ, thành thử trải qua nhiều ngày mà vẫn chưa chết. Đây là ý của Phu nhân, chứ không phải lỗi của người giữ ngục.

Hỏi: Phu nhân mang thức ăn, phết bột trên thân, mặc xiêm y kín đáo, ra vào không ai thấy biết, tại sao người canh ngục lại biết tường tận như vậy?

Đáp: Tất cả việc bí mật, không thể hành sự lâu dài. Dù có dấu diếm, lâu ngày cũng bị tiết lộ. Nhà vua đã bị giam trong nội cung, Phu nhân ngày ngày ra vào. Nếu như không đem thức ăn, nhà vua làm sao sống sót. Nay nói “lén lút” , là người giữ ngục thuật lại “mưu kế” của hoàng hậu. Phu nhân cho là làm lén lút, người khác không biết, nào ngờ gã giữ ngục đã biết tường tận sự việc. Không còn cách nào dấu diếm, thành thử gã ta tâu lại sự việc cho A Xà Thế biết.

Câu “Sa môn Mục Liên …”, nêu rõ việc hai vị tôn giả mỗi ngày từ không trung bay đến thuyết pháp cho vua nghe. Việc phu nhân mang thức ăn, vì không nhận được mệnh lệnh của nhà vua nên không dám ngăn cản, còn hai vị tôn giả từ không trung bay tới, cho nên cũng không cấm chế họ được.

C – A Xà Thế sân nộ.

A Xà Thế nghe xong, nổi giận bảo: “Mẹ ta là giặc vì đã làm bạn với kẻ giặc. Bọn Sa môn kia là hạng người xấu, dùng chú thuật làm cho tên ác vương ấy nhiều ngày không chết!” Nói đoạn, rút gươm muốn đến giết mẹ.

A Xà Thế, sau khi nghe lời tâu lại của người canh ngục, trong lòng phẫn nộ, thốt lên lời thô ác. Hơn nữa, còn khởi ba nghiệp nghịch và ba nghiệp ác. Chửi cha mẹ là gian tặc, đây là khẩu nghiệp nghịch; mạ lỵ sa môn, gọi là khẩu nghiệp ác; cầm gươm giết mẹ, gọi là thân nghiệp nghịch; thân khẩu tác động, đều do tâm chủ động, đây gọi là ý nghiệp nghịch. Lại nữa, trước đó dấy lên phương tiện gọi là ác, sau đó chánh thức tác động gọi là nghịch.

Mẹ ta là giặc …”: nêu rõ sự thốt lên lời ác. Vì sao gọi mẹ là giặc? Vì là bạn của giặc. A Xà Thế, bổn ý là thù người cha, muốn ông ta chết sớm. Người mẹ lại lén lút đem thức ăn, nên ông ta không chết. Cho nên phẫn nộ thốt lên lời chửi rủa “Mẹ ta là giặc, vì đã làm bạn với kẻ giặc.”

Sa môn là hạng người xấu …”, nêu rõ việc A Xà Thế giận mẹ mang thức ăn, lại nghe hai vị sa môn tới nói pháp cho nhà vua, thành thử càng thêm phẫn nộ, nên mới nói: “Dùng chú thuật làm cho tên ác vương ấy nhiều ngày không chết.”

Rút gươm muốn giết mẹ”: A Xà Thế phẫn hận đến cực điểm, định tạo tội nghịch với mẹ mình, thật quá đau lòng! Cúi đầu run rẩy, tánh mạng như chỉ mành treo chuông. Phu nhân lúc đó, cúi đầu run rẩy, toàn thân ướt đẫm, tâm đau lòng sợ, ô hô thương thay! Trong phút giây hoảng hốt, gặp cảnh khổ vô vàn!

D – Hai vị đại thần can gián.

Đang khi ấy, có vị đại thần thông minh tài trí là Nguyệt Quang, cùng với Kỳ Bà, thấy thế vội quỳ xuống làm lễ và can gián rằng: “Tâu đại vương! Hạ thần nghe trong Tỳ Đà Luận Kinh nói từ thuở kiếp sơ đến nay những ác vương tham ngôi báu mà giết hại cha, có một vạn tám ngàn người; song chưa từng nghe có ông vua nào giết mẹ. Nay nếu đại vương làm việc ác nghịch trái đạo này, tức là để vết nhơ cho dòng giống Sát Đế Lỵ, nào khác gì hạng Chiên Đà La. Đây là điều bất nhẫn, ngài không xứng đáng ở ngôi vị này! ii” Nói xong đứng lên đưa tay đè chuôi gươm rồi thối lui quay đi.

Hai vị đại thần là tướng quốc trong triều, làm cương kỷ cho guồng máy quốc gia, khiến cho lân bang kính nể, thần phục. Đột nhiên chứng kiến cảnh ngộ A Xà Thế làm chuyện bội nghịch, cầm gươm định giết mẹ đẻ của mình. Vì không thể nhẫn được việc ác tầy trời như vậy, cho nên đã cùng với Kỳ Bà can gián.

Đang khi ấy”, là lúc A Xà Thế đang muốn giết mẹ. “Cùng với Kỳ Bà”, Kỳ Bà cũng là con vua Tần Bà Sa La, mẹ là một thị nữ, bỗng nhiên thấy anh mình muốn tạo tội nghịch giết mẹ, bèn cùng Nguyệt Quang đứng ra can gián.

Quỳ xuống làm lễ”, muốn can gián bậc trên, trước tiên phải đảnh lễ biểu lộ sự kính trọng. Hiện nay, hai vị đại thần này cũng thế, trước tiên biểu lộ sự cung kính, để gây sự chú ý của nhà vua, sau đó chắp tay cúi đầu, bày tỏ ý kiến của mình.

Và can gián rằng”, đây là Nguyệt Quang, trước khi bày tỏ ý kiến, muốn A Xà Thế chú ý lắng nghe, vì thế phải bẩm bạch trước.

Hạ thần nghe trong Tỳ Đà Luận Kinh”, nêu rõ việc dẫn chứng kinh điển của cổ thánh tiên hiền. Người xưa nói: “Người quân tử cảm thấy rất hổ thẹn nếu lời nói của mình không có dẫn chứng kinh điển.”iii Hiện nay, lời can gián rất trọng đại, lẽ nào dám ăn nói hồ đồ, toàn vô chứng cứ.

Từ thuở kiếp sơ đến nay”, nêu lên thời gian. “Những tên ác vương”, nêu tổng quát những kẻ bạo nghịch phi lễ.

Tham ngôi báu”, nêu việc tham đoạt ngôi của vua cha.

Giết hại cha”, nêu rõ việc đối với vua cha khởi ác nghịch, không thể dằng co, thành thử phải đoạn mệnh.

Một vạn tám ngàn người”, nếu bệ hạ giết cha, thì cũng giống như số người này.

Chưa từng nghe ông vua nào giết mẹ”, nêu rõ từ xưa đến nay, giết cha đoạt ngôi, sách vở cũng từng ghi chép, đến như tham ngôi giết mẹ, đây là việc chưa từng có! Nếu như luận bàn việc từ kiếp sơ đến nay, ác vương tham ngôi, chỉ giết cha mình, chứ chưa hề giết mẹ. Điều xảy ra hôm nay khác hẳn thói thường. Bệ hạ hôm nay tham ngôi giết cha, vì cha có ngôi vị để tranh đoạt, có thể nói là tương tự theo thói thường. Mẹ chẳng có ngôi vị để đoạt, nếu như tạo tội nghịch, thì đây là chuyện trái ngược cổ kim, cho nên nói: “Nay nếu đại vương làm việc ác nghịch trái đạo này, tức là để vết nhơ cho dòng giống Sát Đế Lợi.” Sát Đế Lợi là giai cấp quý tộc trong bốn giai cấp ở Ấn Độ, đời đời truyền thừa, không giống hạng bình dân.

Nào khác gì hạng Chiên đà la”, đây là hạng không thuộc bốn giai cấp (Bà la môn, Sát đế lợi, Phệ xá và Thủ đà la). Hạng người này tính tình hung ác, không biết nhân nghĩa, tuy mang thân người, sống tợ cầm thú. “Bệ hạ dòng dõi cao sang, lại là chúa tể của một nước lớn. Hôm nay khởi việc ác nghịch, thì có khác gì với hạng Chiên đà la.”

Đây là điều bất nhẫn”, nhà vua gây tạo việc ác, tổn hại, ô nhục xã tắc, tiếng xấu loan truyền, đây là điều ô nhục, làm mọi người bất nhẫn.

Ngài không xứng đáng ở ngôi vị này.” Có hai nghĩa: .1. Hiện nay, đại vương tạo ác, không màng đến lễ nghĩa gia phong, đất nước này há để cho một gã chiên đà la thống lãnh hay sao? .2. Đại vương trị vì quốc gia, lại tổn hại tông thân của chúng tôi, chi bằng truất phế ngài đến nơi hẻo lánh hoang vu, không còn ai biết đến.

Hai vị đại thần nói xong”, hai vị đại thần dùng lời thẳng thắn can gián, dẫn chứng cổ kim, tuy có phạm thượng, nhưng chỉ mong nhà vua hồi tâm tỉnh ngộ.

Đưa tay đè chuôi gươm”, hai quan đại thần đưa tay nắm lấy chuôi gươm, cử chỉ thị oai và tỏ ý quyết liệt.

Hỏi: Lời can gián thô ác, không sợ phạm thượng, tình nghĩa quân thần đã sứt mẻ, tại sao không quay lưng bỏ đi, mà lại thụt lùi thoái bước?

Đáp: Lời thô tháo làm nghịch ý vua, mục đích để A Xà Thế ngừng tay không giết mẹ. E cơn giận của vua chưa tan, có thể dùng gươm gia hại, cho nên lấy tay đè chuôi gươm tự vệ, thụt lùi đi ra.

E – A Xà Thế lo sợ.

A Xà Thế nghe qua kinh sợ, bảo Kỳ Bà: “Ông không vì ta sao?”

A Xà Thế thấy hai vị đại thần buông lời thô tháo can ngăn, lại thấy họ tay nắm chuôi gươm đi ra, sợ họ phản mình theo phe vua cha, bàn tính chuyện mưu phản, cho nên trong lòng bất an, cảm thấy sợ hãi.

Kỳ Bà là em của vua. Cổ nhân nói: “Nhà có suy họa, không phải người thân thì không cứu.iv” Ông là em ta, chả lẽ lại cũng giống như Nguyệt Quang!

F – Hai vị đại thần can gián lần nữa.

Kỳ Bà thưa:”Nếu đại vương muốn cho chúng tôi ở lại giúp đỡ, xin đừng giết hại Quốc Thái.”

Kỳ Bà trả lời: “Nếu muốn chúng tôi ở lại phò trợ, xin đừng giết hại Phu nhân.”

G – A Xà Thế nghe lời can gián, tha chết cho mẹ.

A Xà Thế nghe nói, tỏ vẻ ăn năn vội cất gươm bỏ ý nghĩ giết mẹ.

A Xà Thế được Kỳ Bà can gián, cảm thấy hối hận việc mình đang làm, liền tha chết cho bà mẹ, tra gươm vào vỏ.

H – A Xà Thế giam mẹ vào thâm cung.

Sai nội quan cầm giữ Quốc Thái Phu nhân trong thâm cung, không cho ra ngoài nữa.

A Xà Thế tuy nghe lời can gián tha chết cho mẹ, nhưng vẫn còn giận bà mẹ đã thông đồng với vua cha, bèn ra lệnh nội quan giam mẹ vào trong thâm cung, không cho ra ngoài để gặp vua cha nữa.

4 – Chán sự khổ Ta bà.

A – Phu nhân bị giam cầm.

Vi Đề Hy bị u cấm, sầu lo tiều tụy,

Phu nhân tuy thoát được cái chết, nhưng bị giam trong thâm cung, canh giữ nghiêm mật, không cách nào ra ngoài. Trong lòng lúc nào cũng ưu buồn, càng lúc càng trở nên tiều tụy. Kệ rằng:

Hôm nay gặp họa khổ
Bị vua A Xà Thế
Rút gươm định đoạt mạng
Lại bị giam vào cung.

Hỏi: Phu nhân đã được thoát chết, trở về cung cấm, đáng lẽ phải lấy làm vui mừng, vì sao lại sầu lo, tiều tụy.

Đáp: Có ba nghĩa khác nhau: 1. Phu nhân bị giam cầm, không còn ai đem thức ăn đến cho đức vua; nếu nghe bà gặp nạn, đức vua sẽ càng trở nên ưu sầu. Hơn nữa, nếu không ai đem thức ăn, nhà vua ắt sẽ không còn sống bao lâu nữa. 2. Phu nhân bị giam cấm, không còn cơ hội gặp Phật và các vị đệ tử. 3. Phu nhân bị giam trong thâm cung, canh giữ nghiêm mật, lo sợ cho tánh mạng của chính mình, không biết còn sống được bao lâu. Vì ba lý do này bức bách thân tâm, lẽ nào không tiều tụy.

B – Phu nhân, nhân vì bị giam thỉnh Phật.

Xa trông về núi Kỳ xà quật đảnh lễ Phật và bạch rằng: “Đức Như Lai Thế Tôn ! Lúc trước Ngài thường bảo hiền giả A Nan đến thăm viếng và khuyên dạy con. Nay con có việc lo buồn, không làm sao còn được thấy oai nghi trang trọng của đấng Thiên Nhơn Sư nữa! Xin Đức Thế Tôn thương xót cho hai vị tôn giả Mục Liên, A Nan đến dạy dỗ con.” Bạch xong lời ấy, bà thương khóc nước mắt rơi xuống như mưa, hướng về chỗ Phật thường ngự, cúi đầu đảnh lễ.

Phu nhân do vì bị giam cấm, không thể nào đi đến gặp Phật, chỉ còn biết cách đem tâm thành, hướng về phía núi Kỳ Xà Quật, kính lễ đức Thế Tôn, nguyện Phật từ bi, hiểu rõ lòng sầu khổ của bà.

Đức Như Lai Thế Tôn, lúc trước ngài thường bảo hiền giả A Nan v.v…”, có hai nghĩa: 1. Lúc vua Tần Bà Sa La chưa bị giam cầm, hoặc đức vua hoặc con thường đến nơi Phật, hoặc có lúc đức Như Lai đến cung điện thọ trai. Hiện nay, bà và đức vua đều bị giam cầm, không còn nhân duyên được gặp đức Phật. 2. Từ lúc đức vua bị giam vào ngục, Thế Tôn thường sai tôn giả A Nan đến an ủi bà. Vì sao? Ngài thấy đức vua bị tù tội, sợ phu nhân ưu sầu, cho nên sai ngài A Nan đến thăm nom an ủi.

Không làm sao còn được thấy oai nghi trang trọng của đức Thiên Nhơn Sư nữa”, Phu nhân sùng thượng đức Phật, cảm thấy mình thấp kém. Thân nữ kém hèn, phưóc đức mỏng manh, đức Phật uy đức cao dày, không dám tùy tiện làm phiền đến Phật. Chỉ nguyện ngài sai các đệ tử như Mục Liên, v.v… đến an ủi là đủ.

Hỏi: Đức Như Lai là giáo chủ, tùy thời cơ mà hóa hiện, tại sao phu nhân không khẩn cầu ngài mà lại chỉ mong các ngài Mục Liên, v.v… Đây là có ý gì?

Đáp: Đức Phật uy đức tôn nghiêm, nếu chỉ là nhân duyên nhỏ thì không dám thỉnh. Phu nhân nguyện gặp tôn giả A Nan, để nhờ tôn giả truyền đạt những ý nguyện của mình đến đức Thế Tôn, hầu mong Thế Tôn ban bố chỉ dạy cho bà tu tập. Vì lý do này nên mong gặp ngài A Nan.

Thương khóc nước mắt như mưa”, Phu nhân tự nghĩ mình tội chướng sâu nặng, cầu mong đức Phật thương xót, lòng thỉnh cầu tha thiết, nước mắt lưng tròng. Vì lòng mong cầu khẩn thiết, gập mình cúi lạy, đang lúc rập đầu trên đất, tâm trạng bàng hoàng, chưa kịp ngẩng đầu lên.

C – Thế Tôn tự đến vương cung.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đang ở núi Kỳ Xà Quật biết rõ tâm niệm bà Vi Đề Hy, liền bảo hai tôn giả Mục Kiền Liên, A Nan theo lời thỉnh cầu bay đến cấm thất. Và chính Ngài cũng ẩn thân tại núi Kỳ Xà Quật, hiện ra nơi vương cung. Khi bà Vi Đề

Hy lạy xuống vừa ngước đầu lên, đã thấy Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni ngồi trên toà sen bách bảo, thân sắc tử kim rực rỡ bên tả có Mục Liên, bên hữu có A Nan đồng đứng hầu. Trên hư không, các Phạm Vương, Đế Thích và hộ thế chư thiên mưa nhiều thứ hoa đẹp ở cõi trời phơi phới bay xuống để cúng dường Phật.

Đức Thế Tôn tuy ở núi Kỳ Xà Quật, nhưng đã biết trước tâm niệm của phu nhân Vi Đề Hy.

Bảo hai tôn giả Mục Kiền Liên và A Nan …”, ứng theo lời thỉnh cầu của Phu nhân.

Chính Ngài cũng ẩn thân tại núi Kỳ Xà Quật”, Phu nhân Vi Đề Hy ở trong thâm cung canh phòng nghiêm mật, nếu đức Phật hiện thân đi đến, e rằng A Xà Thế hay tin, sẽ làm khó khăn trong việc gặp gỡ, do nhân duyên này Ngài bèn ẩn hình nơi núi Kỳ Xà Quật, và hiện thân nơi cung cấm.

Khi bà Vi Đề Hy lạy xuống vừa ngước đầu lên”, đây là lúc bà Vi Đề Hy đang đảnh lễ Phật.

Đã thấy Đức Thế Tôn”, đức Thế Tôn đã xuất hiện nơi cung cấm, cho nên khi Phu nhân vừa ngẩng đầu lên là thấy được Phật.

Thích Ca Mâu Ni”, để phân biệt với Phật khác. Chư Phật tên giống nhau, thân tướng cũng không khác. Hiện nay nêu tên Thích Ca Mâu Ni, để cho không lầm với Phật khác.

Phạm Vương Đế Thích và hộ thế chư thiên”, các vị trời thấy Đức Thế Tôn ẩn thân nơi Kỳ Xà Quật, hiện thân nơi cung cấm, biết ngài sẽ thuyết pháp đặc biệt hiếm có, cho nên nhân cơ hội này, muốn được lợi ích nghe pháp chưa từng nghe, bèn cùng nhau tụ tập trên không trung, rải hoa cúng dường.

Hộ thế”, tức là tứ đại thiên vương.

Chư thiên”, tức là các trời cõi dục giới, sắc giới, v.v.. Thấy bốn vị hộ thế thiên vương đến hầu đức Phật, bèn cùng nhau hiện đến, nghe pháp cúng dường.

D – Phu nhân ngẩng đầu thấy Phật, liền thốt lời than van oán kết sâu nặng.

Vi Đề Hy Phu nhân thấy Đức Thế Tôn, liền tự bứt chuỗi Anh Lạc đeo nơi thân, gieo mình phủ phục xuống đất, khóc lóc và thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn ! Kiếp trước con có tội chi nay sanh ra đứa con ác này. Và Đức Như Lai lại có nhân duyên gì, mà cùng với Đề Bà Đạt Đa đồng làm quyến thuộc?

Liền tự bứt chuỗi Anh Lạc”, thân của Phu nhân vẫn còn đeo chuỗi Anh Lạc, do vì lòng thương đối với đức vua còn sâu đậm. Bỗng nhiên thấy Đức Như Lai, cảm thấy hổ thẹn bèn bứt chuỗi ngọc đi.

Hỏi: Tại sao phải bứt chuỗi đi?

Đáp: Phu nhân là bậc mẫu nghi thiên hạ, cao sang quyền quý. Mỗi nhu cầu của bà đều do những người chung quanh cung phụng, mặc áo thay xiêm cũng khiến người khác phục dịch. Nay thấy Đức Phật, cảm thấy hổ thẹn thân phận, không dám theo lệ thường, vội vàng tự mình bứt chuỗi Anh Lạc xuống.

Gieo mình phủ phục xuống đất”, trong lòng Phu nhân ôm ấp nhiều nỗi oán hận, sầu khổ vô vàn, cho nên đang từ ngồi đến đứng, từ đứng đến phủ phục trên đất. Đây là do nỗi oán hờn sâu nặng, không còn nghĩ đến uy nghi lễ bái.

Gào khócv”, Phu nhân lăn lộn gào khóc trước mặt Đức Phật.

Bạch Đức Thế Tôn …”, Phu nhân lăn lộn khóc lóc, một lúc sau tỉnh lại, mới chấn chỉnh oai nghi, chắp tay bạch Phật: “Con từ trước đến nay chưa từng tạo tội đại ác, không biết đời trước tạo ác nghiệp gì mà nay phải làm mẹ con với đứa như vầy?” Đây là vì Phu nhân nghiệp chướng sâu dầy, không hiểu nhân duyên đời trước, hiện nay bị con làm hại, lại cho rằng vô cớ. Nguyện Đức Phật từ bi, chỉ cho bà lối thoát.

Đức Thế Tôn lại có nhân duyên gì v.v…”, Phu nhân đối trước Đức Phật bày tỏ tâm sự: “Con là phàm phu, tội chướng vô cùng, hiện có những ác báo này, cũng phải cam tâm. Còn Đức Thế Tôn tu hành bao nhiêu kiếp, phiền não, tập khí đều tiêu trừ, trí tuệ rạng ngời, thành tựu Phật quả, không rõ vì nhân duyên nào mà lại làm quyến thuộc của Đề Bà

Đạt Đa.” Câu hỏi này có hai nghĩa: .a. Phu nhân oán hận con mình bỗng nhiên điên cuồng tạo tội ác nghịch đối với cha mẹ. .b. Lại oán hận Đề Bà, mưu kế gian ác. Nếu không phải vì Đề Bà, đứa con mình không bao giờ có mưu ý này. Do nhân duyên này nên đặt câu hỏi với Phật.

Lại nữa, Phu nhân hỏi Phật “Cùng với Đề Bà Đạt Đa đồng làm quyến thuộc”, có hai nghĩa: .a. Tại gia quyến thuộc: Chú bác của Phật có bốn người: Đức Phật là con vua Bạch Tịnh, Kim Tỳ là con vua Bạch Phạn, Đề Bà là con vua Hộc Phạn, Thích Ma Nam là con vua Cam Lộ Phạn. Đây là quyến thuộc tại gia. .b. Xuất gia quyến thuộc: các vị hoàng tử kia xuất gia làm đệ tử Phật, cho nên gọi là nội quyến thuộc.

5 – Cầu sự vui Cực Lạc.

A – Phu nhân, trước cầu thỉnh chung, sau nêu riêng cõi khổ.

Cúi xin Đức Thế Tôn vì con giảng giải rộng những cõi nào không còn lo buồn khổ lụy để con được vãng sanh về đó. Hiện nay con rất nhàm chán cõi Diêm Phù Đề nhơ khổ.

Phu nhân gặp cảnh ngộ khổ đau, cảm nhận thế gian vô thường; sáu nẻo giống nhau, không nơi nào là chỗ có thể an tâm nương tựa. Sau khi nghe Phật nói các cõi tịnh độ vô sanh, bà bèn nguyện xả bỏ uế thân, cầu chứng được niềm vui tịch lạc.

B – Phu nhân nêu lên cõi mà mình nhàm chán.

Bởi cõi (trược ác) này dẫy đầy chúng điạ ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, cùng nhiều điều lỗi lầm xấu ác. Con nguyện kiếp sau không còn thấy người dữ, không còn nghe tiếng ác nữa !

Cõi Diêm Phù Đề này toàn là ác trược, chẳng có gì đáng tham luyến, chỉ là huyển hóa, mê hoặc kẻ ngu, khiến họ đau khổ lâu dài.

Cõi trược ác”, nêu rõ cảnh giới khổ; nêu lên khí thế giới (y báo), nghĩa là cảnh giới mà chúng sanh nương vào đó mà sanh tồn.

Địa ngục, v.v…”, nêu lên quả báo nặng nhất của ba ác đạo.

Dẫy đầy”, ba khổ tụ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) này không phải chỉ riêng Diêm Phù Đề mà còn đầy khắp cõi Ta Bà.

Nhiều điều lỗi lầm xấu ác”, ba cõi, sáu nẻo không đồng, hằng sa chủng loại, tùy tâm mà có sự sai khác. Kinh nói: “Nghiệp có thể trang nghiêm (tác động lên) thức (nghiệp thức), các cõi giới trong mười phương ba đời, tùy nghiệp mà thọ quả báo, đối diện không biết nhau.”

Nguyện con kiếp sau …”, Phu nhân thấu rõ cội nguồn, nhàm sự khổ Ta Bà, cầu niềm vui vô vi vĩnh viễn thường lạc. Thế nhưng cõi vô vi (Niết bàn) không phải thoạt nhiên có thể chứng được, cõi khổ Ta Bà cũng không phải đột nhiên có thể xa lìa. Trừ phi khởi phát chí nguyện kiên cố, vĩnh viễn đoạn tuyệt cội gốc sanh tử; nếu như không theo bước chân Đức Từ Tôn, làm sao có thể tránh khỏi sự đau khổ triền miên này!

Không còn thấy người dữ, không còn nghe tiếng ác”, Như A Xà Thế giết cha, Điều Đạt phá tăng, … cùng những tiếng xấu ác, bà cũng không muốn thấy, muốn nghe nữa. A Xà Thế đối với người sanh ra mình còn khởi tâm ác nghịch giết hại, huống chi là những người xa lạ mà không khởi tâm giết hại nhau. Cho nên Phu nhân không phân biệt thân sơ, đều muốn xa lánh tất cả.

C – Cõi tịnh độ diệu lạc, nếu không có căn lành không thể sanh về. Phu nhân e rằng mình còn nhiều tội chướng, không thể vãng sanh.

Nay con gieo năm vóc trước Đức Thế Tôn, tha thiết cầu xin sám hối!

Bởi thế Phu nhân cầu Phật thương xót, thành tâm sám hối.

D – Phu nhân thỉnh Phật nói chung các pháp hành.

Nguyện đấng Đại Từ soi ánh huệ nhật, chỉ dạy cho con phép quán để sanh về chỗ nghiệp lành thanh tịnh.

Phía trên, Phu nhân cầu thỉnh cõi tịnh để vãng sanh, ở đây, Phu nhân cầu thỉnh pháp tu để vãng sanh.

Đấng Đại Từ soi ánh huệ nhật”, ví như mặt trời xuất hiện, bóng tối đều bị diệt trừ; trí tuệ Phật ánh sáng huy hoàng, phá tan bóng tối đêm dài vô minh.

Dạy con phép quán …”, đã có thể nhàm cõi khổ mong cõi lành, nếu như chuyên tâm quán tưởng, ắt sẽ được vãng sanh về cõi thanh tịnh.

E – Thế Tôn hiện chung các cõi Tịnh Độ, đáp ứng lòng mong cầu của phu nhân.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn, từ nơi tướng bạch hào giữa đôi mi, phóng ra ánh sáng vàng rực rỡ soi khắp vô lượng thế giới ở mười phương. Hào quang ấy trở lại trụ trên đảnh của Phật, hoá thành đài vàng như núi Tu di. Những cõi nước trong sạch nhiệm mầu của chư Phật mười phương đều hiện rõ nơi toà quang minh đó. Trong vô số quốc độ ảnh hiện ấy, có cõi do bảy báu hợp thành, có cõi thuần là hoa sen, có cõi tráng lệ như cung trời Đại tự tại, có cõi sáng suốt như gương pha lê.

Nêu rõ việc Thế Tôn hiện cảnh các cõi Tịnh Độ, đáp ứng lời thỉnh cầu của phu nhân. Đây là do Đức Thế Tôn thấy phu nhân cầu sanh tịnh độ, thành thử phóng hào quang chiếu khắp mười phương. Ánh hào quang này chiếu khắp mười phương , nhiếp thâu các cõi nước, sau đó quay về đảnh môn Đức Phật, hiện thành kim đài, vĩ đại như núi Tu Di. Các cõi Phật mười phương đều hiện trong đó, hình dạng không đồng, sự trang nghiêm cũng khác biệt. Do thần lực của Đức Phật, tất cả đều hiển hiện rõ ràng, đồng thời nhờ sự gia bị của Ngài mà bà Vi Đề Hy đều được thấy rõ ràng, tường tận.

Hỏi: Bà Vi Đề Hy thỉnh cầu Đức Phật nói về các cõi thanh tịnh vô ưu, tại sao Đức Phật không giảng nói tường tận, mà lại hiện các cõi Phật trong kim đài. Điều này có ý gì?

Đáp: Đây là mật ý của Phật. Tuy bà Vi Đề Hy thỉnh Phật giảng thuyết rộng rãi về pháp môn Tịnh Độ. Nếu Đức Phật chỉ giảng giải bằng ngôn từ, e rằng phu nhân không thấy, tâm lại khởi lên nhiều nghi hoặc. Vì thế ngài đã hiện bày tất cả cõi Phật rõ ràng trước mắt, để cho phu nhân tùy tâm tuyển chọn.

F – Phu nhân quán sát các cõi, cảm tạ ơn Phật.

Bà Vi Đề Hy phu nhơn quan sát kỹ các Phật quốc rồi thưa rằng : Bạch Đức Thế Tôn! Các tịnh độ ấy tuy đều nghiêm sạch và có ánh quang minh.

Phu nhân thấy tất cả cõi Phật mười phương, tuy mỗi cõi đều trang nghiêm thù thắng, nhưng nếu so với sự trang nghiêm của cõi Cực Lạc, thì đều không đáng kể. Cho nên nói: “Nay con chỉ thích sanh vê thế giới Cực Lạc.”

Hỏi: Chư Phật mười phương, về phương diện đoạn trừ hoặc chướng, đều giống như nhau, không có sự khác biệt, tu hành viên mãn, chứng quả Bồ Đề, đều không sai khác. Tại sao cùng là những cõi Tịnh độ mà lại có sự hơn kém (Hán: thắng liệt)?

Đáp: Phật là Đấng Pháp Vương, thần thông tự tại, sự hơn hay kém, không phải là chỗ mà phàm phu có thể hiểu được. Ẩn (che dấu), hiển (hiện bày) tùy theo cơ nghi, chỉ mong chúng sanh được lợi ích. Biết đâu Đức Thế Tôn che dấu sự thù thắng của các cõi kia, mà chỉ hiển bày sự thù thắng của cõi Cực Lạc.

G – Phu nhân chọn cõi Phật mà mình mong cầu.

Nhưng nay con chỉ thích được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.

Cõi tịnh độ A Di Đà là do bốn mươi tám nguyện kết thành. Mỗi nguyện đều là nhân duyên thù thắng. Nương vào nhân duyên thù thắng phát khởi công hạnh thù thắng, nương vào công hạnh thù thắng thu hoạch quả báo thù thắng, nương vào quả báo thắng thu hoạch y báo thù thắng, y báo cảm thành cõi nước Cực Lạc, y vào cõi Cực Lạc hiển bày sự từ bi hóa độ, y vào sự từ bi hóa độ, hiển khai cánh cửa trí tuệ. Tâm bi vô tận thì trí tuệ cũng sẽ vô cùng. Bi, trí song hành, ắt sẽ tưới rót Cam Lộ, pháp âm phổ nhuận, nhiếp hóa chúng sanh. Các kinh điển khác cũng khuyến khích vãng sanh rất nhiều; chư thánh hiền cũng đồng tâm xưng dương, chỉ dẫn. Có nhân duyên này, cho nên Đức Như Lai đã bí mật sai khiến Phu nhân tuyển chọn vãng sanh Cực Lạc.

H – Phu nhân thỉnh cầu pháp tu vãng sanh.

Cúi xin đức Thế Tôn dạy con phép tư duy và chánh thọ.

Phu nhân Vi Đề Hy tuy chọn cõi Cực Lạc, nhưng vẫn phải còn tu tập công hạnh vãng sanh, vì thế muốn cầu tu pháp quán để gây nhân duyên về Tịnh độ. “Dạy con phép tư duy”, đây là tiền phương tiện của “định”, tư duy, ức niệm y báo, chánh báo cùng bốn sự trang nghiêm của cõi Cực Lạc.

6 – Dạy pháp môn Tán thiện.

A – Quang minh của Phật làm lợi ích cho nhà vua.

Khi ấy đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ nơi miệng tuôn ra năm sắc quang minh, mỗi tia sáng đều chiếu đến đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La. Lúc đó Tần Bà Sa La vương tuy bị giam cầm song tâm nhãn không chướng ngại từ nơi xa trông thấy đức Thế Tôn liền cúi đầu đảnh lễ, đạo căn tự nhiên tăng tiến, chứng được quả A Na Hàm.

Đức Như Lai thấy bà Vi Đề Hy nguyện sanh Cực Lạc, lại còn thỉnh cầu pháp tu vãng sanh, đúng với bổn hoài của Phật, lại cũng hợp với ý nguyện của Đức Di Đà. Nhân hai lời cầu thỉnh này, Đức Bổn Sư bèn nói rộng về pháp môn Tịnh độ. Không chỉ riêng bà Vi Đề Hy được vãng sanh, mà tất cả chúng sanh thấy nghe đều sẽ dự phần. Do sự lợi ích này mà Đức Như Lai đã mỉm cười.

“Từ nơi miệng (Phật) tuôn ra năm sắc quang minh”, đây là uy nghi thường thấy của tất cả chư Phật. Nếu phóng quang minh, ắt là có sự lợi ích.

Mỗi tia sáng đều chiếu đến đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La”, ánh sáng không chiếu nơi nào khác, mà chỉ chiếu đến đỉnh đầu của nhà vua. Tùy nơi trên thân Phật mà ánh sáng phóng ra có sự lợi ích khác nhau. Ánh sáng từ lòng bàn chân làm lợi ích cõi địa ngục. Ánh sáng từ âm tàng (bộ phận sanh dục) làm lợi ích cõi quỷ thần. Ánh sánh từ đầu gối làm lợi ích cõi súc sanh. Ánh sanh từ rốn làm lợi ích cõi a tu la. Ánh sáng từ tim làm lợi ích cõi người. Ánh sáng từ miệng làm lợi ích bậc Nhị thừa. Ánh sáng từ giữa chân mày làm lợi ich bậc Đại thừa. Nay ánh sáng từ miệng phóng ra, chiếu thẳng đến đảnh đầu nhà vua, tức là thọ ký ông ta đắc quả Tiểu thừa. Nếu từ giữa chân mày Phật phóng ra, rồi trở lại nhập vào đảnh của Phật, tức là thọ ký thành Phật. Những ý nghĩa như vậy, thật nhiều vô lượng, không thể tả hết.

Lúc đó Tần Bà Sa La vương tuy bị giam cầm …”, nhà vua được quang minh chiếu vào đảnh đầu, tâm nhãn được khai thông, tuy ở cách xa Đức Phật, nhưng vẫn trông thấy Ngài. Đây là do quang minh mà bỗng nhiên được thấy Phật, cho nên vội vàng đảnh lễ quy y, liền được tăng tiến chứng đắc thánh quả A na hàm (Tam quả).

B – Đức Phật đáp ứng lời thỉnh cầu của Phu nhân về pháp tu.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Vi Đề Hy: Bà có biết chăng? Phật A Di Đà cách đây không xa, bà nên hệ niệm và quán sát kỹ cõi nước kia, tất tịnh nghiệp sẽ được thành tựu. Nay ta vì bà nói rộng các thí dụ.

Từ lúc Đức Như Lai rời Kỳ Xà Quật đến Vương cung đến giờ, Ngài hoàn toàn ngồi im lặng, chưa nói lời nào. Trong khoảng trung gian, nào là Phu nhân sám hối, thỉnh cầu, phóng quang, hiện cõi Phật, v.v… đều là do ngài A Nan thấy những sự việc xảy ra tại vương cung, sau khi trở về núi Kỳ Xà, thuật lại cho đại chúng nghe.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Vi Đề Hy …”, đức Phật hứa sẽ giảng cho Phu nhân.

“Phật A Di Đà cách đây không xa”, đây là nêu lên cảnh (đối tượng) để tâm trụ vào đó. Có ba nghĩa: .i. Khoảng cách không xa, cõi Cực Lạc cách xa cõi Ta Bà chỉ có mười vạn ức cõi Phật. .ii. Đạo lý không xa, chỉ cần một niệm liền đến. .iii. Bà Vi Đề Hy cùng các chúng sanh đời vị lai, nếu như chú tâm quán niệm, định cảnh tương ưng, hành giả sẽ thường thấy cảnh giới Cực Lạc hiện ra trước mắt.

Do ba nghĩa này nên nói là không xa.

“Bà nên hệ niệm …”, phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, tâm thường phù tán, động loạn. Nếu như không xả bỏ những sự phan duyênvii, thì tịnh cảnh không thể nào hiển hiện. Đây là Đức Phật chánh thức dạy pháp làm tâm an trụ. Nếu y vào pháp này tu hành, gọi là thành tựu tịnh nghiệp.

“Nay ta vì bà …”, cơ duyên chưa đủ, không thể chỉ giảng về pháp môn định thiện (tu quán); Đức Phật quán sát căn cơ, bèn nói thêm pháp tu tam phước.

C – Nêu lên căn cơ, khuyến tu được lợi ích.

Cũng khiến cho đời vị lai, tất cả phàm phu muốn tu tịnh nghiệp, được sanh về thế giới Cực Lạc ở phương tây.

Những điều mà Phu nhân thỉnh cầu, lợi ích vô cùng sâu xa, trong đời vị lai, tất cả chúng sanh quy hướng Tịnh độ đều được vãng sanh.

D – Khuyên tu ba phước.

Muốn sanh về cõi ấy, phải tu ba thứ phước: 1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành. 2. Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, đừng phạm oai nghi. 3. Phát tâm Bồ đề, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

Ba điều như thế, gọi là tịnh nghiệp.

Tất cả chúng sanh, có hai loại căn cơ: một là định, hai là tán. Nếu chỉ dạy pháp định thiện, thì sẽ không thể thu nhiếp tất cả, do đó đức Như Lai mở bày phương tiện, khai pháp tu ba phước để thích ứng với những chúng sanh tâm tưởng phù tán động loạn.

Muốn sanh về cõi ấy”, nêu rõ chỗ quy hướng.

Phải tu ba thứ phước”, nêu rõ hành môn.

Thế nào là ba phước?

1. “Hiếu dưỡng cha mẹ.” Tất cả chúng sanh đều nhờ nhân duyên mà được sanh. Nhờ nhân duyên nào? Hoặc là hóa sanh, hoặc là thấp sanh, hoặc là noãn sanh, hoặc là thai sanh. Trong bốn loại này, mỗi loại lại có bốn loại. Như trong các kinh có nói rõ. Thế nhưng, đã làm nhân cho sự tương sinh, ắt phải có cha mẹ. Đã có cha mẹ, ắt phải có đại ân. Nếu không có cha, nhân của năng sanh ắt không đủ; nếu không có mẹ, duyên của sở sanh cũng không đủ. Nếu không có cả cha lẫn mẹ, ắt sẽ không có chỗ đầu thai. Cần phải có đủ cha mẹ làm duyên, thì mới có chỗ thọ sanh. Nếu muốn thọ sanh, cần phải có nghiệp thức làm nội nhân, dùng cha mẹ làm ngoại duyên; nhân duyên hòa hợp, nên mới có thân này. Do ý nghĩa này, biết rằng ơn cha mẹ rất là sâu nặng. Lúc mẹ mang thai, trong khoảng mười tháng, đi đứng nằm ngồi, thường cảm thấy khổ não, lại lo lúc sanh có thể phải chết vì sản nạn. Sau khi sanh, trong khoảng ba năm, thường nằm chỗ phẩn dãi của con, giường chiếu y phục cũng không được sạch sẽ. Đứa con đến lúc trưởng thành, chỉ lo thương vợ thương con, đối với cha mẹ, có lúc lại còn sanh tâm chán ghét. Người không biết ơn nghĩa hiếu thảo, thật chẳng khác gì cầm thú.

Lại nữa, cha mẹ là phước điền thế gian lớn nhất, còn Đức Phật là phước điền xuất thế gian lớn nhất. Thế nhưng, khi Đức Phật còn tại thế, gặp lúc đói kém, nhiều người chết đói, xương trắng rải rác khắp nơi, các vị tỳ kheo khất thực khó khăn, không ai bố thí. Đức Phật cho phép các tỳ kheo tản mác qua xứ khác. Sau khi các tỳ kheo đi rồi, chỉ còn một mình ngài vào thành khất thực, từ sáng đến trưa, đến từng nhà gọi cửa, không ai chịu bố thí, bèn mang bình bát không trở về. Lúc đó, có một tỳ kheo đi trên đường, thấy đức Phật, gương mặt hốc hác, giống như bị đói, bèn thưa với ngài: “Bạch Thế Tôn!

Hôm nay ngài khất thực rồi chăng?” Đức Phật trả lời: “Tỳ kheo! Đã ba ngày nay, ta khất thực không được. Hiện nay đang đói, không còn sức nói chuyện với ông.” Thầy tỳ kheo nghe xong cảm thấy mủi lòng rơi lệ, tự nói thầm: “Đức Thế Tôn là bậc phước điền vô thượng, chỗ nương tựa của chúng sanh. Ta đem ba y này bán, mua lấy một bát cơm cúng dường Phật. Hôm nay thật là đúng lúc.” Nghĩ xong, bèn bán y, mua được một bát cơm, vội vàng đem đến cúng dường Phật. Đức Thế Tôn biết, nhưng vẫn cố ý hỏi: “Tỳ kheo, đang lúc đói kém, mọi người đang chết đói. Ông từ nơi nào mà xin được một bát cơm trắng như thế này?” Thầy tỳ kheo trình lên sự thực. Đức Thế Tôn nói: “Tỳ kheo, ba y là biểu tướng của chư Phật ba đời. Do nhân duyên này mà rất tôn, rất quý, rất nặng, rất ơn. Ông nay đem đổi bát cơm này cúng dường cho ta. Ta rất cảm ơn lòng tốt của ông, nhưng ta không tiêu nổi bát cơm này.” Tỳ kheo bạch Phật: “Đức Thế Tôn là phước điền của ba cõi, còn không tiêu nổi bát cơm này, vậy ai có thể tiêu được.” Đức Phật đáp: “Ông còn cha mẹ hay chăng?” Đáp: “Dạ còn.” Đức Phật nói: “Ông đem bát cơm cúng dường cha mẹ.” Tỳ kheo nói: “Đức Thế Tôn còn không tiêu nổi, cha mẹ lẽ nào tiêu được!” Đức Phật nói: “Tiêu được. Vì sao? Cha mẹ sanh ra thân ông, đối với ông có ơn sâu nặng, do đó tiêu được.”

Đức Phật lại hỏi: “Tỳ kheo! Cha mẹ của ông có tin Phật không?” Tỳ kheo nói: “Không tin.” Đức Phật nói: “Bây giờ thì tin. Thấy ông đem cơm đến cúng dường, ắt sẽ rất vui mừng, nhân đây sẽ phát khởi lòng tin. Trước tiên, hãy cho họ thọ Tam quy y, ắt họ sẽ có thể tiêu bát cơm này.” Khi ấy, vị tỳ kheo tuân lời dạy của Đức Phật, đảnh lễ mà từ giã. Do ý nghĩa này, phải nên hiếu dưỡng cha mẹ.

Lại nữa, Phu nhân Ma Da, sau khi sanh Đức Phật bảy ngày thì tạ thế, thác sanh lên cung trời Đao Lợi. Sau khi Đức Phật thành đạo, đến ngày rằm tháng tư bèn lên cung trời Đao Lợi, trong một kỳ kết hạ, thuyết pháp cho mẹ nghe, để báo đáp công ơn mang thai mười tháng. Đức Phật còn biết mang ơn, hiếu dưỡng cha mẹ, huống hồ chúng ta là phàm phu mà lại bất hiếu hay sao. Phải nên biết rằng ơn nghĩa của mẹ cha thật bao la trời biển.

Phụng thờ sư trưởng.” Dạy dỗ lễ nghi, học thức thành đạt, đạo hạnh không khiếm khuyết, nhẫn đến thành Phật, đều do công lao của bậc sư trưởng. Đối với ân đức cao dày này, cần phải đặc biệt kính trọng. Cha mẹ và sư trưởng được gọi là Hạnh kính trọng bậc trên.

Giữ lòng từ bi không giết hại.” Tất cả chúng sanh đều lấy sanh mạng làm gốc. Nếu gặp ác duyên, đều sợ hãi tìm cách trốn chạy để bảo vệ sanh mạng mình. Kinh Đại Niết Bàn quyển mười nói: “Tất cả các chúng sanh, không ai không tiếc thân mạng, đừng giết đừng đánh đập, ví như tự tha thứ mình.” Đây là một chứng cứ.

Tu mười nghiệp lành.” Trong mười nghiệp ác, nghiệp giết hại là ác nhất, cho nên nêu ra trước hết. Trong mười điều lành, sanh mạng lâu dài là lành nhất. Còn chín điều ác, chín điều lành khác, trong phần chín phẩm vãng sanh sẽ đề cập đến. Những điều thiện thế gian này gọi là Hạnh từ bi kẻ dưới.

2. “Thọ trì tam quy.” Pháp thiện thế gian rất cạn cợt, chiêu cảm quả báo không được thù thắng; giới đức cao vời, có thể chiêu cảm quả Phật Bồ đề. Thế nhưng chúng sanh quy ngưỡng Tam Bảo, từ cạn đến sâu. Trước tiên cho thọ Tam quy, sau đó mới dạy các giới khác.

Giữ vẹn các giới.” Giới pháp có nhiều loại, hoặc là Tam quy, hoặc là Ngũ giới, Bát giới, Thập thiện giới, Tỳ kheo giới, Tỳ kheo ni giới, Sa di giới, hoặc Bồ tát Tam tụ giới, Thập vô tận giới, v.v…, cho nên gọi là giữ vẹn các giới. Trong mỗi giới phẩm, lại có thiểu phần, đa phần và toàn phần.

Đừng phạm oai nghi.” Thân, khẩu, ý nghiệp trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, đều có thể làm phương tiện cho oai nghi của tất cả các giới. Dù nhẹ dù nặng, đều có thể hộ trì; nếu vi phạm liền sám hối, nên gọi là “đừng phạm oai nghi.” Đây gọi là giới thiện.

3. “Phát tâm Bồ đề.” Chúng sanh hoan hỷ học Đại thừa, nếu như không phát tâm quảng đại, thì làm sao có thể tương ưng với Đại bồ đề.

Xin nguyện thân đồng hư không, tâm trùm pháp giới, cùng tận pháp tánh. Con dùng thân nghiệp, cúng dường lễ bái, đưa đi rước đến, độ thoát tất cả chúng sanh. Con dùng khẩu nghiệp, tán thán Tam bảo, giảng nói Chánh pháp, tất cả đều tiếp thọ sự giáo hoá của con, làm cho tất cả những người nghe pháp đều được đắc đạo giải thoát. Con dùng ý nghiệp, nhập định quán sát, phân thân khắp pháp giới, tùy căn cơ mà hóa độ tất cả, không bỏ sót một ai. Con phát nguyện này, niệm niệm càng tăng trưởng. Giống như hư không, chẳng chỗ nào chẳng đến. Hành trì vô tận, đến cùng tận vị lai. Thân không mệt mỏi, tâm không nhàm chán.

Bồ đề”, là một tên khác của quả Phật; “Tâm”, là tâm năng cầu của chúng sanh, cho nên gọi là “Phát tâm Bồ đề.”

Tin sâu lý nhơn quả.” Có hai phần: .a. Nhân quả khổ lạc thế gian. Nếu gây khổ nhân sẽ gặp khổ quả, nếu trồng lạc nhân sẽ gặt lạc quả. Giống như lấy ấn, ấn vào đất sét, thì dấu ấn hiện ra. Không có gì đáng nghi ngờ!

Đọc tụng kinh Đại thừa.” Kinh điển, giáo pháp giống như mặt kính. Thường đọc tụng, tìm hiểu, thì sẽ khai phát trí tuệ. Nếu mở được mắt trí tuệ, thì tự nhiên nhàm chán sự khổ, mong cầu sự vui Niết bàn, v.v…

Khuyến tấn người tu hành.” Pháp khổ như thuốc độc, pháp ác như dao nhọn, lưu chuyển trong sáu nẻo, tổn hại chúng sanh. Hiện nay, việc lành như gương sáng, Phật pháp như Cam lộ. Gương chiếu sáng đường chánh để dẫn về chân, Cam lộ rưới mưa pháp mà không cùng tận. Muốn cho tất cả đều được lợi ích, nhập vào dòng suối pháp. Cho nên cần phải khuyến tấn người tu hành.

E – Nêu lên bậc Thánh để khuyến khích kẻ phàm.

Đức Phật lại bảo bà Vi đề Hy: “Nên biết ba thứ phước này là chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật trong ba đời: quá khứ, vị lai, và hiện tại.”

Chỉ cần quyết định chuyên tâm, ắt sẽ được vãng sanh không còn nghi ngờ.

7 – Dạy pháp môn Định thiện.

A – Đức Phật hứa giảng.

Đức Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hy: “Hãy chú tâm lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Như Lai sẽ vì tất cả chúng sanh đời vị lai bị giặc phiền não bức hại mà giảng nói nghiệp thanh tịnh.

Phần trên, Vi Đề Hy cầu vãng sanh Cực Lạc, lại còn thỉnh pháp tu, và đức Như Lai đã hứa khả. Nay ngài nói đoạn văn này là muốn khai phương tiện cho pháp tu chánh thức. Pháp tu này là nhân duyên rất trọng yếu, rất khó được nghe, hôm nay mới giảng nói. Do ý nghĩa này nên đức Như Lai bảo A Nan và bà Vi Đề hãy chú ý lắng nghe.

Đức Phật bảo A Nan.” Hôm nay ta muốn khai giảng pháp môn Tịnh Độ, ông nên khéo thọ trì truyền bá, không nên để thất lạc.

Bảo bà Vi Đề Hy.” Bà là người thỉnh pháp, ta nay muốn nói, bà nên lắng nghe, tư duy tiếp thọ, đừng để quên mất.

Vì tất cả chúng sanh đời vị lai.” Đức Như Lai thị hiện giáo hóa, phần lớn cho những chúng sanh trôi lăn trong sanh tử. Hiện nay, ngài bình đẳng ban bố từ bi, muốn cho tất cả chúng sanh cũng đều được lợi ích.

Bị giặc phiền não bức hại.” Phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, điên đảo mê hoặc, không biết rằng ba đường ác ở ngay dưới gót chân mình, họ tùy duyên tu tập, mong mỏi tích tập tư lương cho sự tiến đạo, nào ngờ bị lục tặc (sáu căn) bức hại. Nay bị cướp hết pháp tài, làm sao mà không ưu khổ?

Giảng nói nghiệp thanh tịnh.” Đức Như Lai thấy chúng sanh tội chướng, bèn dạy phương pháp sám hối, làm cho tiếp tục đoạn trừ (phiền não), rốt ráo trở nên thanh tịnh!

Lại nữa, “thanh tịnh”, y theo pháp tu quán phía dưới, chuyên tâm niệm Phật, chuyên tưởng Tây Phương, niệm niệm trừ tội, cho nên thanh tịnh.

B – Bà Vi Đề Hy hỏi đúng ý Phật.

Lành thay, bà Vi Đề Hy, khéo hỏi việc này!

C – Khuyên thọ trì và lưu bố.

Này A Nan! ông nên ghi nhớ và thọ trì pháp này, rồi tuyên thuyết cho đại chúng cùng biết (lời dạy của Phật).

Phía trên, Đức Như Lai dặn chung, khiến cho an tâm nghe pháp. Hiện nay, dặn riêng A Nan thọ trì chớ quên, đồng thời phải nên tuyên bố lưu hành.

Lời dạy của Phật.” Đức Như Lai từ kiếp lâu xa đến nay, đã trừ diệt khẩu nghiệp; ngài nói ra điều gì, mọi người đều tự nhiên sinh lòng tin tưởng.

D – Khuyên tu được lợi ích

Nay ta sắp dạy Vi Đề Hy và chúng sanh đời sau phép quán thế giới Cực Lạc ở phương tây . Do nhờ sức Phật, hành giả sẽ được thấy cõi nước thanh tịnh kia như người cầm gương sáng tự trông thấy mặt mình. Khi hành nhơn thấy sự vui rất mầu nhiệm ở cõi kia rồi, sanh lòng vui mừng, liền được trụ vào vô sanh pháp nhẫn.”

Đức Như Lai vì bà Vi Đề Hy và chúng sanh đời vị lai, hiển rõ phương pháp tu quán, chuyên tâm quán tưởng Tây Phương, nhàm chán Ta Bà, mong cầu Cực Lạc.

Do nhờ sức Phật.” Chúng sanh do nghiệp lực, đối với cảnh giới mờ mịt, giống như người mù. Khoảng cách ngón tay, mà cho là ngàn dặm, cách nhau bức tường, mà không biết tăm hơi, huống hồ là cảnh giới của chư Phật, nếu không nhờ sự gia bị của Đức Phật thì làm sao có thể thấy được cõi Tây phương Cực Lạc.

Như người cầm gương sáng tự trông thấy mặt mình.” Phu nhân và chúng sanh nhập quán trụ tâm, chuyên chú một cảnh; tâm cảnh tương ưng có thể thấy đưọc cảnh Tây phương, giống như thấy vật trong gương sáng.

Sanh lòng vui mừng, liền được trụ vào vô sanh pháp nhẫn.” Cõi Phật A Di Đà thanh tịnh quang minh, bỗng nhiên hiện trước mắt, làm sao không hớn hở vui mừng! Do tâm vui mừng, liền dược vô sanh pháp nhẫn. Còn gọi là hỷ nhẫn, hoặc ngộ nhẫn, hoặc tín nhẫn. Ở đây, đức Phật chỉ nói nguyên tắc, chưa nói đến sự chứng ngộ thực sự, hy vọng hành giả tăng trưởng tâm mong cầu, mạnh mẽ chuyên tâm, nếu trong tâm tưởng thấy được cảnh giới thì mới là đắc vô sanh nhẫn. Ở đây, phần lớn là tín nhẫn (nhẫn do tín tâm) chứ không phải là hành nhẫn (nhẫn do giải hạnh).

E – Phu nhân là phàm phu, không phải thánh nhân.

Phật bảo Vi Đề Hy: “Bà là phàm phu, tâm tưởng yếu kém, chưa được thiên nhãn, không thể ở xa mà trông thấy cõi Cực Lạc. Chư Phật Như Lai có phương lạ (khéo) khiến cho bà được thấy cõi kia.”

Vì không phải thánh, cho nên phải nương vào sức gia bị của Đức Phật, mới thấy được cõi Cực Lạc xa tít như vậy. Đây là vì đức Như Lai sợ chúng sanh nghi ngờ, cho rằng Phu nhân là thánh nhân, không phải người phàm, và do lòng nghi này, mà sinh tâm khiếp nhược. Họ cho rằng Phu nhân là Bồ tát thị hiện phàm phu, còn mình là những kẻ tội chướng, làm sao có thể so sánh! Vì muốn đoạn trừ sự nghi hoặc này, cho nên Đức Như Lai bảo Phu nhân là phàm phu, chưa hề có chí nguyện rộng lớn.

Chưa được thiên nhãn.” Phu nhân là người phàm mắt thịt, chỗ thấy gần xa, chẳng có gì đáng nói, huống hồ cõi Tịnh xa vời, làm sao mà bà ta thấy được.

Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ khiến cho bà được thấy.” Nương vào tâm lực để thấy được sự trang nghiêm của cõi Tịnh Độ, không phải là điều mà phàm phu có thể làm được, tất cả đều phải nhờ Phật lực.

F – Phu nhân bày tỏ lòng biết ơn, muốn hỏi thêm vấn đề.

Vi Đề Hy thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay con nhờ sức Phật được thấy quốc độ kia.”

Phu nhân lãnh hội ý của Phật, đã cho bà được thấy các cõi Phật trên bảo đài. Sau khi đức Phật khai thị, phu nhân biết đó là phương tiện (lạ) của Phật, cho nên tỏ lòng tri ơn. Nếu đây là phương tiện của Phật, hiện nay Phật còn tại thế, chúng con có phương tiện thấy được cõi Phật, sau khi đức Phật diệt độ, chúng sanh không được sự gia bị, làm sao thấy được?

G – Phu nhân có lòng từ bi, mong tất cả đều được vãng sanh như mình.

Sau khi Thế Tôn diệt độ, những chúng sanh trược ác không lành, bị ngũ khổ bức não, phải làm thế nào để được thấy Phật A Di Đà và cõi  Cực Lạc?”

Sau khi đức Phật diệt độ.” Đức Như Lai mong muốn trụ tại thế gian, độ chúng sanh đến cùng tận đời vị lai không ngừng nghỉ, thế nhưng thời đại chuyển biến, căn cơ chúng sanh cạn mỏng, cho nên đức Như Lai phải tùy theo nghiệp lực chúng sanh mà giảm tuổi thọ xuống bằng như loài người, thay vì có thể trụ vô lượng kiếp, lại cũng vì muốn nhiếp những loại người căn tính kiêu mạn, thị hiện cho họ biết sự vô thường, giáo hoá những chúng sanh cang cường để họ hiểu rõ tất cả đều quy về tận diệt.

Những chúng sanh.” Sau khi đức Như Lai diệt độ, chúng sanh không nơi nương tựa, điên đảo mê lầm, tới lui luân hồi trong sáu nẻo.

Trược ác không lành.” Trược là ngũ trược. a. Kiếp trược: Kiếp vốn không có tính uế trược. Vì đang lúc kiếp giảm, nên tội ác gia tăng. b. Chúng sanh trược: Vào lúc kiếp sơ (cõi nước mới thành hình), chúng sanh thuần thiện, lúc kiếp sắp tận, tội ác chúng sanh càng lúc càng thạnh. c. Kiến trược: Tự thân làm ác, lại thấy là thiện, người khác không lỗi, cho là có lỗi. d. Phiền não trược: Chúng sanh trong đời trược, tính ác khó thân cận, sáu căn tùy cảnh, khởi tham sân si. e. Mạng trược: Do kiến trược, phiền não trược mà làm chuyện sát hại, không từ bi đối với người có ơn giáo dưỡng mình. Đã tạo nghiệp sát hại, mà lại muốn tuổi thọ dài lâu, làm sao mà có được!

Ngũ khổ bức não.” Trong tám khổ, chọn ra sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, gọi là ngũ khổ. Thêm ba khổ nữa, gọi là bát khổ. a. Ngũ ấm xí thạnh khổ, b. Cầu bất đắc khổ, c. Oán tắng hội khổ (ghét mà phải gần nhau). Năm trược, năm khổ, tám khổ này, chúng sanh trong sáu nẻo đều phải nhận thọ, thường bị bức não thân tâm, không ai được miễn. Nếu như không còn bị tám khổ bức não, thì không còn ở giai vị phàm phu nữa.

“Phải làm thế nào để được thấy.” Phu nhân nêu ra những chúng sanh bị khổ bức. Những hạng người đó tội chướng sâu nặng, lại không được gặp Phật, không được sự gia bị, làm sao thấy được cõi Cực Lạc!

Trang 1 2 3 4