QUÁN ÂM HUYỀN NGHĨA
Đại sư Thiên Thai Trí Giả Đời Tùy, nói Học trò là Quán Đảnh ghi
Phiên dịch và chú giải
Bác sĩ Trần Văn Nghĩa & Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
LƠI TỰA
Quán Âm Huyền Nghĩa (觀音玄义), một bộ hai cuốn, có trong Đại Tạng Kinh Việt Nam với kinh số 1726. Quán Âm Huyền Nghĩa còn gọi là Biệt Hành Huyền Nghĩa (別行玄义), Biệt Hành Huyền (別行玄). Quán Âm Huyền (觀音玄). Nó là những bài giảng của Trí Giả Đại Sư (智者大師) nói về cái nghĩa huyền bí của chương Quán Thế Âm Phổ Môn, phẩm thứ 25 của kinh Pháp Hoa. Những bài giảng này do môn sinh của ngài Trí Giả là thầy Quán Đảnh (灌顶) ghi chép lại. Đây là một trong năm cuốn sách gọi là ngũ tiểu bộ của Thiên Thai Tông. Ngũ tiểu bộ này họp vói ba cuốn sách của Tam Đại Bộ tạo nên nền tảng triết lý Phật học của Thiên Thai Tông.
Sở dĩ gọi là Huyền Nghĩa là vì trong những bài giảng này, Trí Giả đại sư không giảng gì về ý nghĩaa trực tiếp của chương Quán Thế Âm Phổ Môn Phẩm. Ngài chỉ xoay quanh cái tựa năm chữ của phẩm này là Quán Thế Âm phổ môn (觀世音普门) và giảng lên những ý nghĩ về Phật học riêng của ngài. Ngài có giảng một bài khác Quán Âm Nghĩa Sớ (觀音义疏), đây là bài ngài giảng trực tiếp về ý nghĩa từng câu của phẩm kinh Quán Thế Âm Phổ Môn. Cũng như vậy, ngài giảng Pháp Hoa Huyền Nghĩa (法华玄义) là cuốn sách giảng về ý nghĩ Phật học riêng của ngài sau khi đọc kinh Pháp Hoa, còn Pháp Hoa Văn Cú (法华文句) là cuốn sách giảng trực tiếp ý Nghĩa từng câu của kinh Pháp Hoa.
Trí Giả đại sư giảng Pháp Hoa Văn Cú vào năm Nam Triều, Nhà Trần (南朝陳朝), Trinh Minh nguyên niên (禎明 587) tai chùa Quang Trạch (光宅寺) ở Kim Lăng (金陵, nay là Nam Kinh). Khi ngài giảng đến phẩm Quán Thế Âm Phổ Môn, ở cuốn 1 chương thứ 10 của Pháp Hoa Văn Cú, ngài có nói là phẩm này đã có hai bài giảng trước đây. Phải chăng ngài muốn nói đến hai bài giảng là Quán Âm Huyền Nghĩa và Quán Âm Nghĩa Sớ? Như vậy bài Quán Âm Huyền Nghĩa này phải được viết trước những năm 587.
Hai cuốn sách Quán Âm Huyền Nghĩa khó đọc, khó hiểu nếu chúng ta không hiểu kết cấu của cuốn sách, không hiểu cách phán giáo dựa theo năm điểm gọi là ngũ trùng huyền nghĩa của Trí Giả đại sư, không có một hiểu biết căn bản về ngũ thời bát giáo của Thiên Thai tông.
Vì vậy tôi đã đưa ra một dàn bài chi tiết để giúp độc giả hiểu được cái kết cấu của cuốn sách, để dễ theo dõi những luận điểm của bài, khỏi bị lạc trong cánh rừng phán giáo của Trí Giả đại sư.
Trong bài này, Trí Giả đại sư cũng áp dụng phương pháp phân tích bài kinh qua năm điểm thường dùng của ngài gọi là ngũ trùng huyền nghĩa (五重玄義). Năm điểm đó là thích danh (釋名), xuất thể (出體), minh tông (明宗), biện dụng (辯用) và giáo tướng (教相).
1) Thích danh là giải thích tên của cuốn kinh, phần này chiếm đến 85% của hai cuốn sách.
2) Xuất thể: Hay hiển thể, Thể ở đây có nghĩa là thực thể hay chủ thể của cuốn kinh. Phần này nói lên cái thể tánh của Quán Thế Âm bồ tát trong bài kinh. Thể này là trí tuệ hợp với pháp thân mà thành.
3) Minh tông: Tông là tông thú (宗趣). Tông là tông chỉ. Thú là đi đến cái tông chỉ đó. Tông chỉ của phẩm kinh này là sự cảm ứng của Quán Thế Âm bồ tát với chúng sinh. Phần này đại sư có bàn nhiều trong sách Pháp Hoa Huyền Nghĩa phần diệu cảm ứng (感應妙).
4) Biện dụng: Sau khi đã hiểu đựơc cái chủ thể, cái tông chỉ, phần tiếp theo là tu tập để đi đến cái tông chỉ đó. Vì vậy trong phần này đại sư lại tóm tắt những bước tu tập của Quán Thế Âm bồ tát để chúng ta noi theo.
5) Giáo Tướng: Giáo tướng của phẩm này như đại sư nói phải thuộc Viên giáo.
Ngũ thời bát giáo có giảng một cách tường tận trong cuốn sách Thiên Thai Tứ Giáo Nghi do cư sĩ Từ Hoa và tôi Việt dịch, xuất bản năm 2014. Có trong Kinh Tạng Việt Nạm và trong trang mạng Thư Viện Hoa Sen. Ở đây tôi cũng xin tóm tắt sơ qua ngũ thời bát giao để tiện cho quý độc giả đọc những điều bàn luận trong hai cuốn sách này:
Ngũ Thời 五時: Đức Phật từ khi thành đạo cho đến khi nhập Niết Bàn, Ngài thuyết pháp tổng cộng là 49 năm. Dựa vào những bộ kinh của Ngài thuyết giảng, Trí Giả đại sư chia làm năm thời kỳ:
1) Thời Hoa Nghiêm: Theo những kinh điển của Đại Thừa thì Đức Phật sau khi đắc đạo, Ngài đã thiền định ở dưới cây bồ đề, trong 21 ngày. Trong thời gian thiền định này, Ngài đã xuất thần đến các cõi trời Đâu Xuất thiên, Tha hóa tự tại thiên giảng dạy kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên có căn cơ cao, có khả năng đốn ngộ. Theo các kinh điển của Phật Giáo Nguyên Thủy thì trong 21 ngày đó Ngài đang hưởng pháp lạc, đang quan sát chúng sinh và nghĩ cách cứu độ chúng sinh. Thời kinh Hoa Nghiêm là 21 ngày.
2) Thời Lộc Uyển hay thời A Hàm: Trong thời này Ngài giảng kinh A Hàm cho những người có căn cơ Thanh văn thừa. Ngài giảng kinh A Hàm trong 12 năm.
3) Thời Phương Đẳng: Trong thời này Ngài giảng kinh về Đại Thừa, gọi chung là kinh Phương Đẳng. Ngài giảng dạy cho những người có căn cơ Đại thừa. Ngài giảng kinh Đại Thừa trong 8 năm.
4) Thời Bát Nhã: Đây là thời thứ tư. Đức Phật giảng dạy kinh Bát Nhã 般若經. Theo quan niệm của Đại Thừa thì Đức Phật đã dùng 22 năm giảng dạy về các kinh Bát Nhã.
5) Thời Pháp Hoa Niết Bàn: Đây là thời thứ năm. Đức Phật giảng dạy về kinh Pháp Hoa trong 7 năm hay 8 năm. Ngài giảng kinh Niết Bàn là một ngày một đêm trước khi Ngài nhập diệt.
Bát giáo 八教: Dựa vào trình độ của chúng sinh mà Đức Phật đưa ra những cách giảng dạy khác nhau, tạo nên tám giáo tướng khác nhau. Tám giáo tướng này là: Đốn giáo, Tiệm giáo, Bí Mật giáo, Bất Định giáo, Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo.
1) Đốn giáo: Đó là thời Hoa Nghiêm, cho những người có căn cơ cao, những thiên nhân.
2) Tiệm giáo: Đây là những giáo môn cho những người có khả năng tu tập theo từng bước một, gồm những giáo phái của Tiểu Thừa và Đại Thừa.
3) Bí Mật giáo và 4) Bất Định giáo: Đây là những giáo môn đặc biệt cho những người có khả năng ngộ đạo không thể xếp vào sáu giáo môn khác.
5) Tạng giáo: Còn gọi là Tam Tạng giáo, đó là giáo phái Tiểu Thừa.
6) Thông giáo: Đây là giáo phái Đại Thừa.
7) Biệt giáo: Đây là giáo môn cho chư Bồ Tát ở ngoài Tam giới.
8) Viên giáo: Đây là giáo môn cho chư Phật.
Những ý mới về Phật học mà Trí Giả đại sư đưa ra trong hai cuốn sách này gồm bốn điểm: 1) Thập nghĩa trong ý nghĩa của Quán Thế Âm, trong ý nghĩa của Phổ môn, trong tự hành và trong hóa tha. 2) Thập Phổ môn. 3) Cảm ứng luân. 4) Ác tính luận.
Vì bài này là bài giảng rộng về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm và từ phổ môn của phẩm Quán Thế Âm bồ tát Phổ Môn phẩm trong kinh Pháp Hoa nên tôi ở đây cũng viết thêm ba bài lược khảo về Quán Thế Âm bồ tát, sự lưu truyền của phẩm Quán Thế Âm bồ tát phổ môn và kinh Pháp Hoa để trong phần phụ lục để làm tài liệu đọc thêm.
Ngày 22 tháng 02 năm 2017
Blairsville, Pennsylvania.
B.S. Trần Văn Nghĩa
THIÊN THAI TÔNG
TRÍ GIẢ ĐẠI SƯ
Quán Âm Huyền Nghĩa
(Quyển Thượng và Hạ)
Phiên dịch và chú giải
Bác sĩ Trần Văn Nghĩa & Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
Đại Tạng Kinh Việt Nam kinh số 1726
Quán Âm Huyền Nghĩa
Quyển Thượng
Thiên Thai Trí Giả Đại Sư đời Tùy thuyết. Môn đồ là Quán Đảnh ghi chép.
Phàm là pháp giới thì viên dung, hình tướng chẳng phải [thực] là hình tướng; chân như thanh tịnh, [tuy] biến đổi [không cùng tận] nhưng biến mà chẳng [thực sự] biến. Hình tướng [của pháp] vì không [trụ] ở một tướng nào [cố định] cả, nên không đâu chẳng phải là tướng.
Vì biến đổi mà chẳng [thực sự] biến đổi cho nên chẳng có gì là chẳng biến đổi. Vốn không [cố định] ở đây [hoặc] không ở đây cho nên [tùy tâm niệm] mà ứng thân trong chín cõi. Đây chưa phải là nơi thường tịch [để có thể] vào được chỗ không hai (….) lấy cái trí của ba nghiệp [thân khẩu ý] để cầu việc vượt qua bể khổ. Trong các thế giới có quả báo [trong tam giới] và các thế giới không có quả báo [ngoài tam giới]. Lấy bốn nguyện sâu nặng khiến an vui thấm nhuần [khắp nơi]. Cho nên thế giới Sa Bà gọi tên Ngài là Vô Úy. Đức Quán Thế Âm [ở nhiều kiếp trước] đã tu hành nơi Đức Phật Bảo Tàng và đã thành tựu các chủng tánh giác ngộ, hiệu là Chánh Pháp Minh, là vị bổ xứ kế tiếp, xưng hiệu là Phổ Quang Công Đức [bồ tát].
Bổn Tích (…) của ngài là như vậy, chúng ta hãy xem xét thêm, phương tiện tùy duyên, kể ở trên đây chỉ là một điều mà thôi. Nay nói về Đức Quán Thế Âm. Theo âm chính thức của phương Tây (Ấn Độ) là A Da Bà Lâu Cát Đê Du (Avalokitesvara). Nghĩa là Quán Thế Âm. Có năng sở viên dung [của trung đạo], thông đạt nhị trí của hưu và của vô [của nhị đế]. Chiếu cùng tánh chân thực, xem xét từ đầu đến đuôi cho nên gọi là quán. Thế âm là cảnh được quán. Vạn vật lưu động hoàn toàn khác nhau, các âm thanh xướng lên cũng khác nhau nhưng đều được ngài cứu thoát đau khổ. Tâm từ sâu rộng của Bồ tát, cùng lúc cứu độ khắp nơi khiến tất cả đều được giải thoát cho nên gọi là Quán Thế Âm.
Mục đích của kinh này là nói rõ cả hai mặt cảnh và trí, năng [quán] và sở [quán] (—) của ngài.
Kinh có nghĩa là dùng những lời văn diễn giảng những giáo lý để giúp hành giả tu tâm. Phổ Môn có nghĩa: Phổ nghĩa là khắp mọi nơi, môn có nghĩa là thông đến được. Dùng một thực tướng khai mở mười Phổ Môn. Vì không có chướng ngại cho nên gọi là Phổ Môn.
Phẩm có nghĩa là loại. Nghĩa của từng loại theo tên mà thành phẩm. Đại kinh này (Pháp Hoa Huyền Nghĩa, một trong tam đại bộ) gồm năm chương, năm chương đó được giải thích và liệt kê như sau:
NĂM Ý [Ngũ trùng trùng huyền nghĩa] (…) là I) THÍCH DANH, II) XUẤT THỂ, III) MINH TÔNG, IV) BIỆN DỤNG, V) GIÁO TƯỚNG.
Thích danh lại có hai phần.
I)THÍCH DANH: [Thích danh lại được chia làm hai phần A) Thông thích danh, B) Biệt thích danh]
Thứ nhất là giải thích về Thông thích danh và hai là giải thích về Biệt thích danh. Thông là người và pháp hợp lại lại để giải thích . Biệt thích danh là tách người và pháp riêng biệt ra để giải thích . Vì sao vậy?. Vì duyên thì có lợi (căn), độn (căn), [giáo] thuyết thì có bao quát hoặc giản lược. Nay giải thích về Thông thích danh, nó lại có bốn điểm.
A) Thông thích danh [Thông thích danh gồm có 4 điểm: 1A) Nêu tên, 2A) Thứ đệ, 3A) Giải thích, 4A) Liệu Giản]
Một là nêu tên, hai là thứ đệ, ba là giải thích, bốn là lệu giản.
1A) NÊU TÊN
[Nêu tên lại có 10 nghĩa 1) Nhân pháp, 2) Từ bi, 3) Phúc tuệ, 4) Chân ứng, 5) Dược Châu, 6) Minh hiển, 7) Quyền thực, 8) Bổn tích, 9) Duyên liễu, 10) Trí đoạn]
Một là nêu tên lại có mười nghĩa, dùng để giải thích về Thông [thích danh]. Vì sao như vậy? Tột cùng của cái lý thanh tịnh là không tên, không tướng, chẳng pháp chẳng người. Vượt qua khỏi số lượng, chẳng một, hai, ba mà diệu lý hư thông ở giữa cái không danh tướng, [tạm dùng] danh tướng để nói. Cho nên lập nên tên của cái không tên này, chỉ giả gọi là người [và] pháp.
Tuy không [thực có] số lượng nhưng cũng lại nói về số lượng. Cho nên Đại Luận nói: Bát Nhã là một pháp, Phật nói dưới rất nhiều tên. Tùy theo chúng sanh mà lập ra những tên gọi khác nhau. Nay dùng mười nghĩa để giải thích qua ý nghĩa của Thông [thích danh].
Mười nghĩa ấy là: một là người [và] pháp, hai là từ [và] bi, ba là phước [và] tuệ, bốn là chân [và] ứng (—), năm là dược châu(—) [nhị thân], sáu là ẩn [và] hiển, bảy là quyền [và] thật (—); tám là bổn [và] tích; chín là duyên [và] liễu(8) ; mười là trí [và] đoạn (—).
2A) THỨ ĐỆ [Gồm 2 điểm: a) Ước quán thứ đệ, b) Ước giáo thứ đệ]
Gồm hai phần: a) Ước quán thứ đệ(…), b) Ước giáo thứ đệ(…)
– Ước quán thứ đệ tức là [nói] tổng quát về tâm đầu tiên, tâm giữa và tâm sau cuối [từ] nhân [tu hành] đầy đủ [cho đến] thành tựu [Phật] quả.
– Ước giáo thứ đệ tức là [nói] khái quát về các kinh [trong đó có] tiệm, đốn, tiểu, đại. Ước quán lấy người và pháp làm chỗ khởi đầu.
a) ƯỚC QUÁN THỨ ĐỆ
[ Dùng thập nghĩa để phân tích ước quán thứ đệ: 1) Nhân pháp, 2) Từ bi, 3) Phúc tuệ, 4) Chân ứng, 5) Dược Châu, 6) Minh hiển, 7) Quyền thực, 8) Bổn tích, 9) Duyên liễu, 10) Trí đoạn]
a/1) NHÂN PHÁP
Muốn hiểu biết quán hạnh hẳn phải xem nơi người vì người là kẻ hành trì pháp. Ví như có người thọ một quả báo, tích tụ các uẩn để thành người. Dù có đầy đủ vô lượng đức hạnh nhưng trước hết cũng cần phải có tên [gọi là gì].
Vì lý do trên nên phải nói về người và pháp trước tiên. Trong chín nghĩa thì người và pháp đứng đầu. Vì sao lại có thừa nói nhân pháp là thứ, vậy hãy căn cứ vào các kinh điển để xem. Kinh nói rằng do nhơn duyên nầy nên gọi là Quán Thế Âm, tức là trước hết nói về người, như đã kể trên, sau mới nói đến dùng sức của các phương tiện hóa hiện khắp nơi. Tức là nói về pháp [mà] người ấy có thể chấp hành; cho nên nói [cả hai] người và pháp vậy.
a/2) TỪ BI
Thứ hai là từ bi. Chính vì do Đức Quán Âm quán pháp Phổ Môn thật tướng mà đạt được cái lý của thật tướng chẳng người, chẳng pháp. Tất cả chúng sanh đều cũng như vậy. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Tâm, Phật, và chúng sinh cả ba không khác biệt nhau(—). Lý nầy thật đầy đủ, không có thiếu sót tí gì. Chúng sanh có đầy đủ lý này nhưng [lại vì] tình mê, điên đảo, khổ não [mà không ngộ được]. Khi [Quán Thế Âm] quán xét như vậy rồi, liền khởi từ tâm, thệ nguyện cứu khổ ban vui. Đó chính là từ bi. Thứ đến nếu dùng phương tiện mà nói thì trước là từ, sau là bi mà đó cũng là bản hoài của Bồ tát, muốn dùng tâm từ để ban an lạc, khi chẳng được an lạc thì dùng đại bi để xóa tan đi những sự khổ não, nên trước là từ, sau là bi. Nếu theo cái dụng [mà nói] thì trước dùng đại bi để cứu khổ, sau đó dùng đại từ để ban vui. Lại nữa, hành giả trước thoát khổ, sau được an lạc. Vì vậy trước là bi, sau là từ. Nay theo nghĩa thứ tự trên mà diễn giảng.
a/3) PHƯỚC TUỆ
Thứ ba là phước tuệ. Trước tiên người thành tựu nhân pháp tướng là nhờ vào tín. Sau [lấy] từ bi và cứu khổ [làm] thệ nguyện. [Nếu] muốn thỏa nguyện thì tất nhiên phải nên tu hành. Tu hành thì không ra ngoài phước và tuệ, tuệ tức bát nhã, phước tức ngũ độ (—). [Phước tuệ] hỗ tương cho nhau, khiến thề nguyện được thuận lợi thành tựu, sự và lý sẽ được đầy đủ. Nếu như trí tuệ gia tăng thì [hiểu được] đại bi, thành tựu thệ nguyện cứu khổ. Nếu phước đức thâm hậu thì thỏa mãn thệ nguyện đại từ và thành tựu ý nghĩa ban vui. Chính vì vậy nên phước tuệ đứng vào hàng thứ ba. Lại nếu dùng phương tiện mà nói thì phước trước, tuệ sau. [Nếu như] muốn dạy người khác thì trước hết phải lấy cái lợi ích của trí tuệ chân thật làm đầu. Nếu như [dung trí tuệ] không thành thì lại phải dùng phước đức, thành ra có lúc phải dùng phước để đưa đường cho tuệ (tùy theo căn cơ mỗi người).
a/4) CHÂN ỨNG
Thứ tư là chân ứng. Nếu trí tuệ [nhờ tu hành] chuyển đổi và trở nên sáng tỏ thì khế hợp với pháp tánh, pháp tánh tức thật tướng, gọi tên là Pháp thân. Pháp thân từ chân thân mà khởi ra ứng thân. Cái chân [thân] mà hiển hiện ra cái ứng [thân] này cũng là từ phước tuệ khai phát cho nên được đưa vào hàng thứ tư. Lại nếu như dùng phương tiện mà hoán chuyển muôn vật thì trước dùng ứng [thân], sau mới dùng chân [thân]. Đây là dựa vào nghĩa trên mà sắp xếp thứ tự.
a/5) DƯỢC CHÂU NHỊ THÂN
Thứ năm [nói về] dược châu nhị thân. Trước hiểu rõ chân thân và ứng thân nhưng đây chỉ mới hiểu được làm thế nào chứng được chân thân và ứng thân, chưa nói đến hai thân này làm thế nào làm lợi cho chúng sinh. Bây giờ cả hai thân đều có khả năng giúp ích cho muôn vật. Chân thân không chấp thủ lấy tướng ví dụ như thuốc. Ứng thân đối trước vạn [vật] cơ [duyên] ví như hạt châu, nương vào hai tên gọi [chân và ứng] để hiểu rõ trước sau cũng tương tự như từ bi đã nói ở trên.
a/6) MINH HIỂN
Thứ sáu nói rõ về ẩn và hiển. Đạo lý về nhị thân đã nói trên có khả năng hiển hiện lợi ích [cho chúng sinh]. Nay còn tùy vào duyên, khi không thấy được những lợi ích đó thì gọi là ẩn ích, khi thấy được những lợi ích đó thì là hiển ích. Do đó mà phải sắp xếp nhị thân trước, [minh hiển] tiếp theo sau để cho rõ.
a/7) QUYỀN THỰC
Thứ bảy nói về quyền [và] thực. Các lợi ích đạt được do những duyên cơ trước đây vì lý do gì mà khác nhau? Nguyên do đó chính là vì áp dụng quyền xảo không có một phương hướng nhất định, nó tùy cơ duyên mà áp dụng một cách thích nghi, nó tùy theo cái khả năng của nhị trí (…) [của chúng sinh] vì vậy nó được xếp sau [minh hiển]. Tiên quyền hậu thực là khi nói về phương diện nông và sâu. Còn dựa vào mặt kinh điển mà nói thì trước hết phải nghĩ đến cái thực ích sau đó mới nghĩ đến các [phương pháp] quyền độ, nói như vậy là tùy theo sự vật mà nói. Còn nếu dựa vào bản ý của đức Phật mà nói thì đây chỉ vì là một đại sự nhân duyên (…), trước hết là hiển thực ích [ra cho chúng sinh] nhưng nếu chúng sinh không thể lãnh hội được thì lúc đó sẽ dung quyền xảo.
a/8) BỔN TÍCH
Thứ tám nói về Bản và Tích. Tuy cái khéo léo của quyền và thực đưa đến ích lợi cho chúng sinh, cái khéo này lại có cao thấp, tức là có trí thượng, trung và hạ. Bản và tích có khác nhau. Đó là chỉ nói sơ lược qua chiều ngang về quyền và thực. Nay muốn phân tích tỉ mỉ thứ bậc cao thấp thì lại nói đến thứ vị. Nếu căn bản này cao, thì làm ra quyền thật của tích cũng diệu dụng. Đó là sau khi luận tổng lược về cái khả năng vi tế và diệu kỳ này. Nếu không có bản thì [làm sao] có tích, nên nói bản trước. Nếu không có tích thì [làm sao] hiển bản, nên nói tích trước.
a/9) DUYÊN LIỄU
Thứ chín [nói về] liễu nhân và duyên nhân. Từ trước đến nay khi phát tâm tu hành thì từ nhân để đi đến quả. Việc độ người lợi vật thì có sâu có cạn không giống nhau, [trong thập nghĩa thì] từ người và pháp cho đến chân [thân] và ứng [thân] là tự mình theo thứ tự tu hành [tự độ]. Từ dược châu cho đến bản tích là làm việc giúp người [hóa tha]. Đây chỉ là lý luận thuận theo [từ tu hành đến đắc đạo] mà chưa bàn thảo gì đến việc căn bản [căm cơ].
Nay xét đến hạt giống tánh đức (…). Nếu một người quán trí, khởi lòng từ bi, phát tâm thề nguyện, tỏ ra cái trí tuệ trang nghiêm(…) của chân thân, tất cả những điều này là do [đức tánh của] liễu nhân chủng tử (…) mà ra. Nếu lấy pháp phổ môn khởi lòng từ tâm thề nguyên để tỏ ra cái phúc đức trang nghiêm(…) của ứng thân, tất cả những điều này là do [đức tánh của] duyên nhân chủng tử (…) mà ra, nên sắp vào hàng thứ chín.
a/10) TRÍ ĐOẠN
Thứ mười là nói rõ về trí đoạn. Trước là nói về duyên liễu là nói về nguồn gốc của nhân. Nay nói đến trí đoạn để luận về cứu cánh. Khởi đầu là liễu nhân, kết thúc là Bồ-đề đại trí (..). Khởi đầu là duyên nhân, kết thúc là Niết-Bàn đoạn đức(…). Khi nhập Niết bàn thì tất cả [phương tiện] tu hành đều kết thúc cho nên nói là thứ mười.
b) ƯỚC GIÁO THỨ ĐỆ [Lại có 2 phần: b1) GIÁO MÔN THỨ ĐỆ, b2) QUÁN MÔN THỨ ĐỆ]
b1) GIÁO MÔN THỨ ĐỆ [ Gồm 5 điểm: b1/1)Thời Hoa Nghiêm Đốn giáo, b1/2) Tam Tạng giáo, b1/3) Thời Bát Nhã, b1/4) Thời Pháp Hoa, b1/5) Thời Niết Bàn]
Thứ hai, [chúng ta] sẽ xem qua các giáo [pháp] để định [vị trí] trước sau. Lại nói về như Thông giáo(12) và Biệt giáo(—).
Ý nghĩa của Thông giáo thì dễ hiểu.
Biệt giáo nay sẽ nói thêm.
b1/1)THỜI HOA NGHIÊM: ĐỐN GIÁO
-Như trong [pháp môn] đốn giáo của kinh Hoa Nghiêm còn gọi là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Trước hết nói về người và pháp. Người nắm giữ pháp hẳn là người có đầy đủ tâm từ bi. Bồ Tát tu nhân đương nhiên là có phước tuệ, lại nhập vào Thập Địa thì hẳn là chứng được chân [thân] và ứng [thân] liền có khả năng lợi vật, tức là giải nghĩa dược châu. Chúng sinh được sự lợi ích nầy, có chỗ ẩn tàng, có chỗ hiển lộ, nhưng ở đây chưa luận đặc biệt về quyền thật, bổn tích, duyên liễu, trí đoạn, cái ý tổng quát thì có, cái ý riêng biệt thì không có. Vì sao như vậy?
Vì chư Phật một khi hóa độ [chúng sinh] tất có đốn và tiệm. Đốn giáo đã thuyết giảng, tiệm giáo thì tạm chưa [thuyết giảng], vì [chúng sinh] chưa hiểu rõ tứ ý(…) cho nên [chúng sinh] chưa hiểu được.
Vì hành giả dù hiểu các kinh của Tiểu thừa thì vẫn còn cách biệt với kinh của Đại Thừa như câm với điếc, là vì các kinh [của Tiểu Thừa] mới chỉ giảng về quyền [giáo] chưa giảng về thực [giáo], cho nên [kinh] nói rằng [Ngài] giữ yên lặng rất lâu, chỗ chính yếu chưa cần nói vội. Vì vậy mà nói không quyền, không thật. Còn nói về không có bổn tích, những kinh đó không thấy Ngài sanh trong hoàng cung là tích, pháp thân của Ngài ở tịch diệt đạo tràng cũng là tích. [Không biết] Chỉ trong [khoảng thời gian] của một cái búng tay hay một tiếng hắt hơi đã phát ra cái bổn của sinh pháp nhị thân (… ) có từ thuở xa xưa. Như vậy mà nói là không có bổn tích sao?
Nói là không duyên liễu và trí đoạn. Vì không rõ căn tánh và cái tâm Tiểu thừa, vốn có cái nhân thường trụ đương nhiên có thể đạt đến trí đoạn, bồ đề và bản quả, nên nói là không có [duyên liễu và trí đoạn].
b1/2) TAM TẠNG GIÁO
Kế đến vì Tam Tạng giáo chỉ hiểu được ba nghĩa nhân pháp, từ bi, phước tuệ, không có bảy [nghĩa còn lại như] chân và ứng… Tại sao vậy? Vì giáo pháp nhị thừa chỉ biết rõ thân tro bụi, trí đoạn diệt; đâu đã đắc được từ chân [thân] mà phát khởi ứng [thân]. Nếu không có tướng chân [thân] và ứng [thân] thì làm sao ích lợi chúng sinh? Đây là cái khó vậy. Luận tổng quát thì thấy có đủ mười nghĩa; luận riêng biệt thì chỉ có ba nghĩa. Ba nghĩa này nếu dựa vào chân đế thì nó có đủ cả thập ý. Đâu phải chỉ có ba ý đâu? Nếu nói riêng biệt thì cái riêng biệt này ứng với trung đạo (—), tức vào được cả ba trung đạo, người, pháp. Do ý gì mà không là bảy [nghĩa còn lại]? Nói riêng giải đáp như sau: Nói chung có mười ý là nói ở Tam Thừa, nói riêng chỉ có ba [nghĩa] là chỉ riêng vào chư Bồ Tát [của Tam Tạng giáo]. .
Tam Tạng Bồ Tát đắc từ bi, phước tuệ với nghĩa điều phục được hoặc, chỉ mới điều phục nhưng chưa đoạn diệt được hoặc nên không có bảy pháp [còn lại như] chân và ứng… Đức Bổn sư nói: Giáo pháp chỉ có ba [nghĩa]. Nếu là pháp Phương Đẳng thì có thể lấy đạo tiểu [thừa] để hiểu Đại [thưa].
Được pháp trung đạo đại thừa, từ nhân pháp đến ẩn tàng và hiển lộ hai lợi ích cho nên có sáu ý, nhưng vẫn còn mang những phương tiện điều thục (…) chúng sinh nên chưa có được quyền thực… bốn ý còn lại.
b1/3) THỜI BÁT NHÃ
Nay nói đến thời Bát Nhã giáo. Người Tiểu thừa chưa hiểu được rằng dù gặp tiểu pháp mà đó cũng là đại thừa ma ha diễn.
Tuy đã hiểu rõ nhân pháp cho đến sáu ý [đầu], cùng với những phương tiện, nhưng chưa thực sự rõ về quyền và thực [bốn nghĩa sau].
b1/4) THỜI PHÁP HOA
Nếu dựa vào giáo lý kinh Pháp Hoa thì người [tin theo] Tiểu thừa cũng nằm trong đó. [Như kinh Pháp Hoa nói] ngươi chính thực là con ta, ta thực là cha ngươi. Các ngươi hành Bồ Tát đạo nầy, khai quyền hiển thật, phát Bổn hiển Tích, rõ nghĩa quyết định, chẳng còn nghi ngờ. Thế mới biết thời Pháp Hoa đã đạt được trung đạo, nhân và pháp đến bản tích nghĩa thứ tám rồi. Những điều không thuyết giảng ở những thời trước đây, nay đến thời Pháp Hoa mới nói ra. Vì vậy nên nói rằng những chuyện từ trước đây chưa từng thuyết giảng là vậy.
Điều vừa mới nói là pháp chân thực. Ba đời chư Phật nhân một đại sự nhân duyên [ứng thân] dạy dỗ, điều phục chúng sinh đến chỗ viên mãn là ở kinh Pháp Hoa nầy, cho nên Nhị Vạn Đăng Minh Phật (…) thuyết xong kinh Pháp Hoa liền nhập diệt. Đức Phật Ca Diếp (…) cũng như vậy.
b1/5) THỜI NIẾT BÀN
Nếu nói về thời Niết Bàn thì có hai loại (—) lợi căn và độn căn. Những người như Thân Tử(…), khi nghe Pháp Hoa liền ngộ nhập, đầy đủ tám nghĩa, chẳng cần phải đợi đến thời Niết Bàn [mới giác ngộ]. Nếu người học có căn tánh ám độn [dù nghe] Pháp Hoa cũng chẳng vào được, phải học lại từ đầu [vì vậy đức Phập trong thời này sẽ giảng lại từ đầu].
Nói rộng về duyên nhân (..), liễu nhân(..) thì hiểu rõ được tam Phật tánh(—). Vi có liễu nhân (..) chủng tử của tánh đức (…) nên tu đức sẽ thành tựu bát nhã và sau cùng thành tựu trí đức(..) bồ đề. Vì có duyên nhân chủng tử của tánh đức, nếu tu đức sẽ thành tựu giải thoát đoạn đức (…) Niết Bàn.
Nếu tánh đức không là duyên nhân hoặc liễu nhân thì đó là chánh nhân [chủng tử] của tánh đức, (—). Nếu tu đức thành tựu tức là tam Pháp thân đó là ba điểm bất tung bất hoành (..).Thời Niết Bàn là thời nói rõ tám pháp từ đầu cho đến khi thành tựu trí đoạn. Mười nghĩa đầy đủ, từ ngũ vị, luận về mười pháp theo thứ tự, giảng giải khái quát về tứ giáo thì cũng dễ hiểu. Cho nên mới biết thập pháp này thu gồm ước quán và ước giáo từ đầu đến cuối đại ý là như vậy.
Thật ra thì pháp quán nào mà không nhiếp thọ, giáo pháp nào mà không thu gồm. Ý tưởng xa rộng, nghĩa lại thâm thúy, trước sau có thứ đệ từ thô thiển cho đến vi tế không nghịch nhau để giải thích cái ý sinh khởi của nhau.
b2) QUÁN GIÁO THỨ ĐỆ [Gồm 5 điểm: b2/1) Thời Hoa Nghiêm, b2/2) Thời Tam Tạng, b2/3) Thời Phương Đẳng, b2/4) Thời Bát Nhã, b2/5) Thời Pháp Hoa]
b2/1) ThỜI HOA NGHIÊM
Hỏi: Những thời trước thời Pháp Hoa cũng có 6 nghĩa [vậy những sau nghĩa của những thời đó có khác với sau nghĩa của thời Pháp Hoa] không? Xin trả lời:
-Thời Hoa Nghiêm có sáu nghĩa, với người lợi căn thì thành đề hồ (…), với người độn căn thì thành sữa.
b2/2) THỜI TAM TẠNG
-Trong tam tạng giáo có ba nghĩa [đầu của mười nghĩa], với người lợi căn thì được bí mật chuyển đi [những giáo môn có trình độ cao hơn], với người độn căn thì thành lạc (…).
b2/3) THỜI PHƯƠNG ĐẲNG
-Thời Phương đẳng có sáu nghĩa [đầu của mười nghĩa], với người lợi căn thì thành đề hồ, với người độn căn thì thành sinh tô.
b2/4) THỜI BÁT NHÃ
-Thời Bát-nhã có sáu nghĩa [đầu của mười nghĩa], người lợi căn thì thành đề hồ, người độn căn thì thành thục tô.
b2/5) THỜI PHÁP HOA
-Thời Pháp Hoa thì có tám nghĩa [đầu của mười nghĩa]. Người độn căn thành đề hồ.
3A) GIẢI THÍCH
a)GIẢI THÍCH NGƯỜI VÀ PHÁP
Phần giải thích thứ ba, người chỉ do một giả danh tạo dựng nên. Pháp tức ngũ uẩn tạo thành pháp này. Người và pháp này chỉ cho tất cả từ phàm đến thánh. Nếu là sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì đó là pháp phàm phu. Vướng mắc trong pháp này thì chỉ thành ra người đi trong vòng sinh tử. Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến là những pháp xuất thế, vào được pháp này thì thành thánh nhân xuất thế. Cho nên Đại Trí Độ Luận nói Phật là một chúng sanh không có ai vượt hơn. Pháp vô thượng là Niết Bàn, tuy từ phàm đến thánh nhưng không phải là không có sai biệt. Thượng, trung, hạ ác thì đi vào người và pháp của tam đồ [địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh]. Thượng, trung, hạ thiện thì đi vào người và pháp của ba đường thiện [trời, người, a tu la]. Cho nên sáu cõi đều khác nhau. Nếu nói rõ ràng chi tiết thì luận cả trăm, ngàn, vạn phẩm [mới hết].
Thánh nhơn, nhân, pháp cũng chẳng giống nhau. Nếu tam tạng hữu môn(—) xem chúng sanh, ta, người giống như lông rùa, sừng thỏ (…) cuối cùng là không có [tôn tại thật], chỉ có cái pháp của ngũ uẩn mà thôi. Đó tức là người không mà pháp chẳng phải không.
Nếu quán những pháp này là vô thường, sanh diệt bất trụ, thì phát sinh ra các quả vị noãn vị, (…) đảnh vị … Đó chỉ là tu tập những phương tiện pháp để thành tương tự [tự đạo] hiền nhân (…).
Nếu như phát khởi chân [thân] thì thành thánh, sinh ở phương tiện hữu dư độ (19). Nếu dựa vào thức của sắc tánh thì sẽ là người sang được bờ bên kia. Nếu Không môn hiểu được cái thể của thực pháp, với thực pháp này người chỉ có giả danh. Quán tam giả (…) này vào được nơi hư không bình đẳng [đến quả vị] noãn vị, đảnh vị là nắm pháp phương tiện, trở thành hiền nhân của tương tự đạo(…). Nếu phát khởi chân [thân] thì trở thành [quả vị] vô học (…), sinh phương tiện độ (…). Với pháp tánh của ngũ uẩn thì thành người đến được bờ bên kia.
Quan niệm về người và pháp của hai môn còn lại [diệc hữu diệc không môn, phi hữu phi không môn] có thể dựa vào các thí dụ mà hiểu.
Đại thừa nói rõ về người và pháp cũng chẳng nói là nhân không pháp chẳng không; cũng chẳng nói là thể có, và cái dụng thì giả tạo; Chỉ quán giả danh, uẩn, nhập, bản tánh vốn là Không. Cho nên Đại phẩm nói: sắc tánh như ngã tánh, ngã tánh như sắc tánh; khởi đầu từ sơ tâm (20); kết thúc nơi hậu tâm(—); thường quán người và pháp đều Không. Vì vậy Đại Trí Độ Luận nói: Bồ Tát thường quán Niết-Bàn mà hành đạo, vì quán người không tức là chủng tử liễu nhân. [Đại Trí Độ] Luận nói: Chúng sanh vô thượng là Phật vậy. Phật tức giác. Giác chính là trí tuệ. Cái giác ban đầu là [thấy được] người không, cái giác sau cùng là [thấy được] pháp không, cho nên quán người không tức là liễu nhân chủng tử. Quán pháp không tức là duyên nhân chủng tử. Đại luận nói: Niết-Bàn là pháp vô thượng. Vì sinh tử chấm dứt thì Niết Bàn hưng khởi. Đại Bát Niết Bàn kinh nói: Nhân diệt thì sắc trở thành thường sắc, thức…. cũng như vậy. Đại Bát Nhã nói: Khi Bồ Tát hành Bát-nhã đắc vô đẳng đẳng sắc, vô đẳng đẳng thọ tưởng hành thức nên biết Niết Bàn là pháp Vô Thượng. Với pháp này thì trở thành một chúng sinh vô thượng gọi là Phật; Cho nên quán pháp Không là chủng tử của duyên nhân, quán người và pháp không tức biết được tam chủng Phật tánh(…). Cho nên Đại Bát Niết Bàn kinh nói: Phật tánh của chúng sinh không ở tại sáu pháp(…), cũng không rời sáu pháp.
Cái bất tức này làm rõ chánh nhân Phật tánh chẳng phải uẩn, chẳng phải ngã. Chẳng phải uẩn cho nên chẳng phải pháp. Chẳng phải ngã cho nên chẳng phải người. Chẳng phải người cho nên chẳng phải liễu [nhân] . Chẳng phải uẩn cho nên chẳng phải duyên [nhân]. Vì vậy nói chẳng phải là sáu pháp (…).
Nói không rời sáu pháp là vì Không rời Chúng Sinh Không(…) nhưng có liễu nhân. Không rời Uẩn Không nhưng có duyên nhân cho nên nói rằng không rời sáu pháp là vậy. Với cái tâm mới vừa phát sinh [để cầu đạo Bồ đề], Phật đã từng quán người và pháp đều Không, tu tam Phật tánh, trải qua hết các quả vị trong Lục-Tức (—) thì thành lục tức nhân pháp.
Nay Quán Thế Âm [thị hiện] chưa đến Cứu Cánh [tức] của người và pháp, tức là tại Phần Chứng Tức (…) [trong lục tức].
Phần vấn đáp ở trên đã phân tích rõ bậc vô thượng nhân, danh hiệu là Quán Thế Âm. Phần vấn đáp sau phân tích rõ pháp vô thượng gọi là Phổ Môn. Vì vậy [dựa vào những giải thích về] người, pháp và nhân duyên [trên đây mà] gọi là Quán Âm Phổ Môn.
b)GIẢI THÍCH VỀ TƯ BI
b1) GIẢI THÍCH TƯ BI TRONG TẠNG GIÁO
Thứ hai giải thích về từ bi. Bi là lòng thương xót, từ là lòng yêu mến. Lòng bi mẫn cứu khổ, lòng yêu mến nên ban vui. Nếu bồ tát chỉ khởi lòng từ bi thì chưa vững chắc, cho nên phải phát hoằng thề nguyện để giữ lòng [từ bi luôn được] kiên cố, ví như một người thợ mộc muốn nối hai khớp vào nhau thì phải dùng keo sơn dính vào nếu không thì sẽ rớt ra. Lời nguyện cũng như keo vậy. Bi là thương xót người khác, cứu người ra khỏi khổ, tập, nhân, và quả; thành lập hai thệ nguyện: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô lượng thệ nguyện đoạn. Hai thệ nguyện này theo đại bi mà khởi.
Từ là lòng yêu thương, lấy nhân quả xuất thế của đạo và diệt mà ban vui cho người. Vì vậy lập thành hai thệ nguyện khác là: vô biên pháp môn thệ nguyện học, vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành. Hai thệ nguyện này phát khởi do đại từ. Như cái hiểu về người và pháp, phàm và thánh trước đây có khác nhau, nên sự phân biệt về từ bi cũng có lớn nhỏ khác nhau. Vì vậy người tu theo Tam Tạng giáo quán tám cái khổ (…) về phần đoạn sanh, lão, bệnh, tử liền khởi thệ nguyện độ vô biên chúng sinh. Nếu quán phần đoạn điên đảo kết nghiệp thì phát nguyện phiền não vô lượng thệ nguyện đoạn. Nếu muốn chúng sinh thấy được nhân quả, vô thường sinh diệt, luôn luân chuyển không ngừng vì tu đạo phẩm này nên khởi thệ nguyện pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Khi quán lý vô vi của chân đế lại phát nguyện vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành. Vì vậy từ bi khởi nguồn từ hữu tác tứ đế (—).
b2) GIẢI THÍCH TƯ BI TRONG THÔNG GIÁO
Nay sét đến Thông giáo, Thông giáo quán tám cái khổ của già, chết… như huyễn hóa nhưng thấy chúng sanh điên đảo có đó là thật, nên khởi thệ nguyện. Tham, sân, si… như huyễn như hóa, [nhưng thấy] chúng sanh điên đảo vì thọ nhận [những khổ não nay] nên Bồ tát khởi thệ nguyện. Khi quán tức sắc là không, tức thức là không, tham, si,… cũng là không. Không có sắc để đưa về Không mà tự tính sắc là Không. Cái Không này cũng bất khả đắc.
Vì chúng sinh không thể thấy sắc là Không, nên bồ tát phát nguyện. Lại quán Niết Bàn nếu có pháp nào đắc được Niết Bàn tôi cũng nói đó cũng là huyễn hóa. Nhưng vì chúng sinh mà nói là Phật đạo có thể cầu được mà phát thệ nguyện thì lời nguyện này chính là thệ nguyện từ bi do vô sinh tứ đế(—) [mà lập nguyện].
b3) GIẢI THÍCH TƯ BI TRONG BIỆT GIÁO
Pháp quán về giả danh của Biệt giáo thì thiên hình vạn dạng nên cần phải phân biệt rõ ràng để dẫn dắt làm lợi ích chứng sinh, đừng để rơi vào chỗ nắm lấy cái trầm không (—) mà cho là chứng đắc. Quán cái khổ quả cũng có rất nhiều loại nên bồ tát phát thệ nguyện. Cái vô lượng khổ này do vô lượng tập gây ra, vì tập vô lượng nên đối trị cũng vô lượng, diệt cũng vô lượng nên bồ tát phát nguyện như vậy. Dựa vào cái khổ, tập, nhân, quả của vô lượng tứ đế trong giới nội và giới ngoại mà khởi lời thề nguyện.
b4) GIẢI THÍCH TƯ BI TRONG VIÊN GIÁO
Viên giáo(—) thì quán pháp giới viên dung, vốn không nghịch, không thuận, không sáng, không tối. [Thông thường người đời cho rằng] vì không sáng không tối nên là nghịch, vì là nghịch nên có khổ tập nhân quả; nhưng nếu với người có trí tuệ thì đó là thuận. Thuận là đạo diệt nhân quả. Dựa vào nghịch thuận của nhân quả này mà khởi tâm từ bi. Ví như một cục nam châm đâu có ý muốn hút lấy sắt đâu mà nó cứ tự hút, nay lòng từ bi của bồ tát cũng không chấp lấy tướng chúng sinh và các pháp nên có thể cứu khổ ban vui một cách vô ngại nên gọi là vô duyên từ bi (—).
Bồ tát sơ phát tâm tu tập vô duyên từ bi trải qua lục-tức vị. Đây chính là phần chứng từ bi của Đức Quán Âm.
Như đã giải thích ở trên đây: Vô duyên đại bi là cứu khổ, vì vậy khi nhất tâm xưng danh liền đắc giải thoát. Nay với câu hỏi về vô duyên đại từ phổ môn mang an vui cứu độ khắp cả chúng sinh, cho nên vì nhân duyên đại từ đại bi này mà gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.
c)GIẢI THÍCH VỀ PHƯỚC TUỆ
Thứ ba, giải thích về phước tuệ, [phước tuệ] cũng gọi là định tuệ. Định là tĩnh ái (,,,), tuệ là quán sách(…). Đại Trí Độ Luận nói rằng định là ái, tuệ là sách, trí tuệ tịch chiếu không nơi nào không sáng tỏ như gương sáng treo trong cao đường, phước đức thiền định đều phát ra một cách tròn đầy như một ngọn đèn sáng đầy dầu sạch, cũng gọi là mắt và chân đều vào được ao thanh lương, ao thanh lương đó chính là Niết Bàn. Niết Bàn còn gọi là nhị chủng trang nghiêm (…) hay trang nghiêm pháp thân. Giải thích về định tuệ cũng có nhiều loại [tùy theo Tứ giáo].
c1) GIẢI THÍCH VỀ PHƯỚC TUỆ TRONG TẠNG GIÁO
Đối với người tu theo Tam Tạng giáo(—) lấy cái hiểu về vô thường làm tuệ, lấy việc thiền định làm phước báu, lấy định giúp cho tuệ, để phát chân vô lậu (…), đó là cái lý thiên nhiên, rồi gọi là pháp thân.
C2) GIẢI THÍCH VỀ PHƯỚC TUỆ TRONG THÔNG GIÁO
Thông giáo lấy Thể pháp(..) khác với Tích pháp(,,)[của Tạng giáo].
c3) GIẢI THÍCH VỀ PHƯỚC TUỆ TRONG BIỆT GIÁO
Biệt giáo lấy duyên tu, trí tuệ, và thiền định để giúp khai mở pháp thân Trung Đạo.
c4) GIẢI THÍCH VỀ PHƯỚC TUỆ TRONG VIÊN GIÁO
Viên giáo lấy cái quán thực tướng làm trí tuệ. Cái tịch tĩnh của thực tướng làm phước, cùng hiển lộ cái lý của phi định, phi tuệ gọi là thực tướng pháp thân.
Nay bồ tát Viên giáo từ sơ phát tâm tu hành bất nhị định tuệ (—), trải qua Lục Tức. Đức Quán Âm lấy ánh sáng của trí tuệ chiếu soi kẻ khổ. Khổ là do điên đảo mê hoặc gây ra. Trí tuệ là pháp phá mê hoặc nên trí tuệ có thể diệt khổ. Kinh Hoa Nghiêm nói: Lại phóng quang minh gọi là trí tuệ, lại phóng quang minh gọi là vô phiền não, kinh Tư Ích Đại Thiên Sở Vấn Kinh(…) cũng như nói như vậy.
Thỉnh Quán Âm Kinh nói: phóng quang minh thanh tịnh khắp nơi để diệt trừ ngu si đen tối. Vì vậy nhưng câu hỏi trước đây chính là nói về sự tùy can cơ cứu khổ; sỡ dĩ được tên đó vì từ tuệ trang nghiêm mà được.
Phần vấn đáp theo sau nói về Thủ Lăng Nghiêm Phổ Hiện Sắc Thân (30) không khởi diệt định(…) mà hiện oai nghi này. An Thiền (…) [pháp sư] viết ngàn câu kệ tán dương pháp vương.
vì vậy phổ môn thị hiện là từ phước đức mà có tên. Đúng là dựa vào phước tuệ nhân duyên mà gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn. d)GIẢI THÍCH CHÂN ỨNG
Thứ tư nói về chân ứng. Chân là bất giả, bất động; ứng là cái khế hợp căn duyên, kết tập [hai cái này] thì gọi là thân. Nếu khế hợp được cái lý không giả, không động của thực tướng tức có thể tùy cơ đáp ứng, cũng như người soi gương thấy ảnh nên chân ứng không rời khỏi tướng. Khổ cho ngoại đạo dù tu đến chỗ thông thạo có thể biến hóa nhưng chỉ như ngói đá không thể hiện ánh sáng, thì đâu thể gọi là ứng. Chưa phá được tứ trụ (—) để hiển lộ lý thiên chân(…), thì đâu phải là chân ứng của Trung Đạo.
d1) GIẢI THÍCH CHÂN ỨNG CỦA NHỊ THỪA
Cái sở đắc của nhị thừa dù biến hóa thông suốt cũng chưa gọi là ứng, ví như mặc dù đã vẽ thành một bức tranh nhưng nào có giống.
d2) GIẢI THÍCH CHÂN ỨNG CỦA ĐẠI THỪA
Còn Đại thừa thì khác, đã đắc chân thực tướng ví như được gương, không cần khởi ý về sắc tướng của pháp giới mà khi đối diện thì tương ứng cũng như tướng hiện trong gương không khác với thực tướng. Đó gọi là chân tịch thân ứng.
Bồ tát sơ phát tâm trải qua lục-tức. Nay qua những điều giảng giải trên đây cho thấy rõ cái chân tịch bất động là cái ích lợi lớn của pháp giới, Quan Âm là từ chân thân mà được danh. Phần sau nói rõ cái tùy cơ làm lợi [cho chúng sinh] dưới nhiều hình thức, Phổ môn là do ứng thân mà được danh. Vì nhân duyên chân ứng này nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.
e)GIẢI THÍCH DƯỢC CHÂU
Thứ năm: Giải thích về thân của dược thụ vương (…) và thân của như ý bảo châu vương (…). Dược Thụ vương trị các bệnh khổ, như trong Nại Nữ kinh (…) nói. Như Ý bảo châu là bảo châu quý báu, đã từng chứng minh qua các giáo phái của nhiều đời là một bảo châu trị được bệnh. Nay dựa vào những kinh điển của Viên giáo như kinh Hoa Nghiêm đã nói có cây thuốc mà rễ ăn sâu và cành lá sum xuê bốn phương. Cành lá và rễ đều có khả năng trị bệnh. Chỉ cần ngửi được hương thơm và chạm vào thân cây cũng được ích lợi. Bồ tát cũng như vậy. Tâm đại bi xông ướp thân hình, âm thanh làm lợi cho muôn vật nên gọi là Đại Dược Vương, thân lại như ngọc châu như ý có thể tùy ý tuôn vô tận báu vật như mưa xuống đại thiên thế giới (..). Bồ tát đại từ bi mang thân thơm ngát khiến chúng sinh được an lạc, nên gọi là Như Ý châu vương, thân này đã trải qua Lục Tức vị.
Theo phần vấn đáp nói trên, bồ tát cứu khổ khắp nơi chính vì có thân Dược Vương mà có tên này. Theo phần sau thì bồ tát đáp ứng mọi sở cầu như mưa thật tướng đưa đến an lạc Niết Bàn vì vậy nên từ Như Ý Châu Vương thân mà có tên này. Vì nhân duyên có hai thân này nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.
f)GIẢI THÍCH MINH HIỂN
Thứ sáu, giải thích về hai ích lợi của ẩn và hiển. Ẩn là ẩn mật, hiển là hiển thị ra bên ngoài. Bậc đại thánh luôn lấy hai ích lợi này để ban cho chúng sinh. Nhưng chúng sinh và các cõi bên dưới ngày nào cũng dùng mà không biết ví như nhật nguyệt soi thế gian mà kẻ mù vì không thấy nhưng vẫn thọ ân sâu. Phẩm Dược Thảo Dụ [của kinh Pháp Hoa] cũng nói rằng: Các cây cỏ không hay, không biết cũng như đất cát, ví như người dưới không thể biết hai cái ích lợi ẩn và hiển của người trên[ban cho]. Cũng như Văn Thù Bồ Tát không biết được thần lực của Bồ tát Diệu Âm (…) tác dụng như thế nào. Vì không biết được ích lợi nên gọi là ích lợi ẩn kín. Đây cũng là dựa vào sự phân chia trong Lục Tức.
Nay theo những vấn đáp trước đây không thấy tướng, không nghe âm thanh mà được bí mật thọ nhận bao thâm ân nên gọi là minh ích. Sự ích lợi từ thánh nhân tuy không thể biết, nhưng nếu thánh nhân muốn chúng sinh biết thì côn trùng cũng có thể biết được.
Lại theo câu hỏi sau đây, chính mắt chúng sinh nhìn thấy sắc thân, chính tai chúng sinh nghe lời thuyết pháp. Tai và mắt đã thấy rõ sự lợi ích hiển nhiên. Nên biết Quán Âm là từ ẩn ích đắc danh, Phổ Môn là từ hiển ích đắc danh. Vì nhân duyên hiển lộ hoặc ẩn tàng mà gọi là Quán Thế Âm Phổ môn.
g)GIẢI THÍCH QUYỀN THỰC
Thứ bảy, giải thích về quyền thực. Quyền là tạm dùng. Thực không phải là tạm dùng. Nói qua về quyền thực thì có ba loại.
Thứ nhất tự tu hành mà nói về quyền thật. Quán trung đạo là thật, nhị quán (…) là quyền.
Thứ hai dựa vào hóa tha mà bàn về quyền thật. Căn tánh của mỗi người khác nhau, cho nên có khi quyền là thật, có khi thật là quyền, khó thể phán định, nhưng có thể nương vào ý của tha nhân mà hiểu quyền thực.
Thứ ba lấy sự khế hợp của tự tu hành và giáo hóa người khác để hiểu về quyền thực.
Nếu quán tam đế (…) thì thấy có cả quyền lẫn thật, nhưng tất cả gọi là thực. Nếu tùy duyên hóa tha thì cũng có quyền có thực nhưng tất cả đều gọi là quyền. Lấy ba nghĩa này đưa vào tứ giáo và lấy tự-hành quyền thật để minh định về sự phân chia của quả vị lục tức. Dựa vào ý của phẩm Quan Thế Âm Phổ Môn này để hiểu về quyền thực trong tự-hành và hóa-tha (…).
Phần trên đã nói rõ về mặt thật trí của tự hành và hóa tha để làm lợi ích cho vạn vật.
Phần sau nói về mặt quyền [trí] của tự hành và hóa tha để làm lợi ích cho vạn vật. Vì nhân duyên của quyền thật kể trên nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.
h)GIẢI THÍCH VỀ BỔN TÍCH
Thứ 8 Nói về bổn tích. Bổn là thực đắc, tích là ứng hiện.
Nếu gọi con đường đi đến là bổn tích thì [tung tích của các bậc] phàm phu thế trí [có thể thấy được] mà bổn ý của họ thì khó mà đoán ra.
Cái bổn của [các thánh hiền của nhị giáo cho đến tương tự vị của] Biệt giáo thì chứng được.
Còn Viên giáo thì không có thủy phát tâm (…) nên Khi bắt đầu phá được vô minh, đắc được pháp thân, thì đó là bổ. Từ đó đưa ra trăm vạn hình tướng cao thấp không cố định, đó gọi là tích. Nếu lấy nhất trụ quả vị để phân chia chân thân và ứng thân thì phần đông nói rằng bồ tát thượng địa là chân thân, là bản, bồ tát hạ địa là ứng thân, là tích. Địa địa đều phân chia như thế. Chân thân và bổn thuộc phần địa cao, ứng thân và tích thuộc phần địa thấp. Cách phân chia thường dùng này cũng chưa đúng hẳn nay nếu xem kỹ về bản và tích lại thấy nó khác với chân và ứng. Bản là cái thực sự đạt được, khi mới ngồi đạo tràng, nhập sơ trụ đắc Pháp thân, đó chính là bản. Tích là chư Phật thượng địa và chư Phật làm Bồ tát thượng địa. Tuy vậy, không thể thấy chỗ đứng cao mà gọi là bản, cũng như không thể thấy bậc sơ trụ mà gọi là tích. Tại sao vậy? Cái thật mà không đạt đến thượng địa thì không phải là bản. Cái thật mà ở hạ địa thì cũng chưa phải là tích. Vì vậy kinh Vô Lượng Thọ nói: “Tùy tự ý và tùy tha ý, đó là ý của bản tích. Từ bản tích mà hiểu được lục tức.
Từ giải thích trên đây chưa thể nói rõ ra. Nay dựa vào hộ niệm ẩn tàng của người xưa mà nói là bản địa. Phần vấn đáp sau với nhiều hình tướng khác nhau để ứng hiện độ người, đó là tích địa. Vì biết được nhân duyên của bản tích nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.
i)GIẢI THÍCH DUYÊN LIỄU
Thứ chín, giải thích về liễu nhân(…) của duyên nhân(…). Liễu là hiển thị, duyên là trợ giúp. Vì sự trợ giúp này mà pháp thân hiển lộ. Liễu chính là trí quán bát nhã cũng gọi là cái tuệ hành chánh đạo trí tuệ trang nghiêm. Duyên là giải thoát đưa đến sự trợ đạo cho phước đức trang nghiêm. Đại Trí Độ Luận nói rằng một người có thể canh tác, một người có thể trồng trọt. Trồng trọt ví như duyên, canh tác ví như liễu. Nói chung các giáo [Tứ Giáo] thì giáo nào cũng có đầy đủ cái nghĩa của liễu nhân và duyên nhân.
Nay với sự hiểu biết về nhân của hai loại trang nghiêm của Viên giáo, thì Phật có quả của hai loại trang nghiêm nay. Dựa vào căn bản của nhân quả này thì đó là tánh đức duyên liễu (…). Cái nguyên bản của tánh đức này tự có không phải từ bên ngoài mà có. Kinh Vô Lượng Thọ nói rằng tánh các pháp là Không, chính vì các bồ tát tu tập pháp Không này nên thấy các pháp là Không, có nghĩa là các liễu nhân chủng tử này tự nó có. Kinh lại nói rằng tất cả chúng sinh đều có thiền vị bậc sơ địa. Kinh Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn nói rằng tất cả chúng sinh có diệt tận định(…), đó chính là cái chủng tử duyên nhân vốn có, nếu tu tập với hai loại phương tiện này thì sẽ dần dần tăng trưởng. Khi mới bắt đầu thì chỉ nhỏ như đầu sợi lông nhưng khi thành tựu thì định lực lớn như đại thụ, đó là Ma ha bát nhã Thủ Lăng Nghiêm định.
Loại định này không nói đến Lục Tức mà chỉ nói về nghĩa căn bản của tánh đức. Những lời bàn luận trên đây là về liễu nhân chủng tử, những vấn đáp sau là về duyên nhân chủng tử. Vì biết được liễu nhân và duyên nhân nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.
j)GIẢI THÍCH VỀ TRÍ ĐOẠN
Thứ mười, giải thích chung về trí đoạn. Trí tức viên mãn công đức hữu vi, cũng còn gọi là viên tịnh Niết Bàn (…). hữu vi công đức đó chính là nhân thời trí tuệ (…), nó có nghĩaa có [tác] dung chiếu soi để đi đến tu thành, nên gọi là [công đức] hữu vi. Nhân tuy vô thường mà quả là thường nếu lấy nhân để gọi quả thì đó là viên mãn công đức hữu vi.
Đoạn (diệt) tức viên mãn công đức vô vi, cũng gọi là giải thoát, cũng còn gọi là phương tiện tịnh Niết Bàn (…).
Cái gọi là vô vi theo như Tiểu thừa chỉ lấy sự diệt phiền não làm vô vi diệt đoạn, chỉ lấy sự rời hư vọng mà gọi là giải thoát, thật sự chưa được giải thoát rốt ráo, được gọi là đoạn đức vô thể (…).
Đại thừa thì là đoạn đức hữu thể (…), không lấy cái diệt vô vi đoạn, nhưng chỉ lấy phương tiện tùy duyên điều phục chúng sinh. Cái ác không thể làm ô nhiễm, tung hoành tự tại, không bị trói buộc, cái đó gọi là đoạn đức, đó chính là vô vi công đức (,,.)
Vì vậy kinh Tịnh Danh nói không đoạn si ái mà lại đạt được sự giải thoát. Kinh Tịnh Danh lại nói: Ở trong cái ái kiến bất động mà tu 37 phẩm, ái kiến không làm lay động cũng gọi là chủng tử Như Lai, cho đến cả ngũ vô gián (…) cũng được giải thoát. Nếu không có ô nhiễm chướng ngại thì gọi là nhất thiết giải thoát, đó chính là đoạn đức vô vi (…).
Tịch(…) mà thường chiếu(…) tức là trí đức. Tiểu thừa thì hủy thân diệt trí. Nếu không có thân tướng thì làm sao vào sinh tử, nói chi đến điều phục [chúng sinh], vô ngại, vô nhiễm. Đã diệt trí thì lấy gì mà tịch chiếu. Với cái đoạn trí viên mãn(..) này thì pháp thân được hiển lộ tức là nghĩa có đầy đủ cả ba loại Phật tánh. Pháp thân viên mãn thì phi nhân, phi quả, và chánh nhân viên mãn. Vì vậy gọi là ẩn danh Như Lai tạng(…), hiển danh Pháp thân(…). Tuy không phải chỉ là nhân mà là chánh nhân (…). Tuy không phải chỉ là quả mà còn là Pháp thân. Kinh Vô Lượng Thọ nói rằng không phải nhân, không phải quả, gọi là Phật tánh. Cái Phật tánh này là chánh nhân Phật tánh. Kinh lại nói rằng cái nhân này không phải là quả nên gọi là Phật tánh. Đây là căn cứ vào cái tánh đức duyên liễu mà gọi là nhân. Kinh lại nói rằng cái quả không phải là nhân này gọi là Phật tánh. Đây là dựa vào sự tu đức viên mãn. Liễu [nhân] chuyển danh là bát nhã, duyên [nhân] chuyển danh là giải thoát. Đó cũng gọi là quả Bồ đề, cũng là quả Đại Niết Bàn. Tất cả quả đều là gọi là quả. Phật tánh thông suốt nhân quả, không ngang không dọc.
Tánh đức là ba nhân, không ngang không dọc. Quả [của tánh đức khi] viên mãn chính là tam đức (—).
Kinh Quán Phổ Hiền nói: “Cái nhân của Đại thừa là thực tướng của các pháp. Cái quả của Đại thừa cũng là thực tướng của các pháp”. Trí đức đầy đủ thì tự nhiên thường chiếu, tùy cơ ứng biến, tức thì giải thoát. Khi đã có đầy đủ đoạn đức thì điều phục ở khắp nơi và cứu độ [chúng sinh].
Phần trên đây giảng về trí đức, khi viên mãn thì gọi là như vậy. Phần sau ở trên đây thì giảng về đoạn đức, khi viên mãn thì gọi là như vậy. Vì vậy dựa vào nhân duyên của trí [đức] và đoạn [đức] mà gọi là Quán Âm Phổ Môn.
4A) LIỆU GIẢN [ Gồm 10 điểm: a) Liệu giản về nhân pháp, b) Liệu giản về từ bi, c) Liệu giản về phước tuệ, d) Liệu giản về chân ứng, e) Liệu giản về dược châu, f) Liệu giản về ẩn hiển, g) Liệu giản về quyền thật; h)t Liệu giản về bổn tích; i) Liệu giản về duyên liễu; j) Liệu giản về trí đoạn ]
Hỏi: “Mười nghĩa này xuất phát từ những kinh khác. Vì vậy không thể dùng để giải thích phẩm kinh này”.
Đáp: “Theo nghĩa Đại thừa thì tất cả các kinh đều thông dụng với nhau. Nếu không thể làm như thế, thì sao Phật tánh xuất từ kinh Niết Bàn, ngũ trụ nhị tử (—) xuất từ kinh Thắng Man thì sao chư tăng có thể dùng phóng khoáng cho tất cả các kinh?
Trong phẩm [Quan Thế Âm Phổ Môn] này tuy không có thập nghĩa. Nay dựa vào hai câu hỏi trên mà mang thập nghĩa đưa vào phẩm này để giải thich. Như vậy rõ ràng và hiểu được.
Như trên đã nói, nay tôi lại đặc biệt mang từng câu một ra để đối chứng với thập nghĩa. Như kinh văn nói: Vì nhân duyên gì mà gọi là Quán Thế Âm. Kinh lại nói rằng: Vì nhân duyên này mà gọi là Quán Thế Âm. Đây cũng căn cứ vào tên người mà nói.
Đoạn kinh văn sau lại nói rằng: Phổ Môn thị hiện tức làm rõ pháp [đây chính là nghĩa thứ 1 nhân pháp].
Vì có thần lực uy nghi làm lợi ích [cho chúng sinh] nên gọi là từ. Vì thương xót tứ chúng nên là bi [đây chính là nghĩa thứ 2 từ bi].
Nếu muốn biết trí tuệ thì trong cách thuyết giảng 19 lần thuyết pháp chính là trí tuệ. Nhất thời lễ bái đã được lợi ích vô biên, vô lượng phước đức thì đó là phước đức [đây chính là nghĩa thứ 3 phước tuệ].
Nghiệp tự tại tức là Pháp thân. Tại sao vậy? Pháp thân đối với tất cả đều tự tại. Trí tuệ kết hợp với những điều này thì gọi là nghiệp. Kinh Vô Lượng Thọ nói rằng: Tuệ quang chiếu vô lượng do tu hành lâu dài mà được. Thần lực uy nghi như vậy, đó là viên mãn tên gọi của chân thân. Lực thần thông thị hiện khắp nơi, đó gọi là ứng thân [đó chính là nghĩa thứ 4 chân ứng].
Chu du khắp các cõi cứu độ, giải thoát chúng sinh, đó là thân Dược Thụ Vương(—). Khi hoạn nạn, kinh hãi thì ban vô úy, đó là thân Như Ý Châu Vương(—) [đó chính là nghĩa thứ 5 dược châu].
Cái phước không mất đi có sự ích lợi ẩn tàng. Hiện 33 ứng thân tức sự ích lợi hiển lộ [đó chính là nghĩa thứ 6 minh hiển].
Hiện Phật thân thì đó là thực trí. Hiện các thân khác thì là quyền trí [đó chính là nghĩa thứ 7 quyền thực chân ứng].
Hiện bản thân của Quán Thế Âm tức là bản, còn hiển những thân khác tức là tích [đó chính là nghĩa thứ 8 bản tích]. Lại lấy đại oai thần lực là bản, phương tiện lực là tích. Ai nghe danh hiệu Quan Thế Âm bồ tát, và nghe phẩm này thì chứng được liễu nhân, thì công đức không phải nhỏ, đó chính là duyên nhân [đó chính là nghĩa thứ 9 duyên liễu].
Vì không thọ nhận, nên thường làm việc thí xả. Ngay khi nghe được âm thanh [của tên Ngài] đó là quán, quán tức là trí, đều được giải thoát. Để dùng chủng chủng điều phục tất cả chúng sinh, nên đã phát tâm tám mươi bốn ngàn, đó là lợi ích, tức là đoạn [đó chính là nghĩa thứ 10 trí đoạn].
a)LIỆU GIẢN VỀ NHÂN PHÁP
Hỏi: “Người đối với Quán Âm, pháp đối với Phổ Môn, Trong Phương Đẳng có nói đến Phổ Môn pháp vương tử, đây là nêu đến tên người, cái nghĩa này tại sao lại nói giống nhau?”.
Đáp: “Điều này phải dựa theo tứ cú để phân biệt: Người không phải pháp, pháp không phải người. Người tức pháp, pháp tức người. Nếu dựa vào thứ tự tu tập của các địa theo ý nghĩa kinh Hoa Nghiêm mà nói thì người [trước khi tu đến quả vị của thập địa] vẫn còn đi trong vòng sinh tử từ, vẫn chưa vào được pháp thực tướng, [vì vậy] pháp này cũng chưa có nơi những người này. Nếu không dựa theo cấp bậc tu tập mà nói thì người tức thật tướng, thực tướng tức người, người pháp không phải hai.
Nếu người theo Tam tạng giáo Hữu môn hiểu không có giả nhân nhưng có thực pháp, và pháp đó không phải là người. Nếu theo [Tam Tạng giáo] Không môn lấy thực pháp làm thành giả nhân thì nhân và pháp là hai. Nếu không rời khỏi nhân mà luận về pháp hoặc nếu không rời pháp mà luận về nhân thì đây là pháp nhị đế chứ chưa phải là nhân pháp của Trung Đạo. Nếu mà Phương Đẳng lấy cái hiểu hạn hẹp để luận rộng về nhân pháp thì cái hiểu hạn hẹp giống như Tam Tạng giáo, cái hiểu rộng giống như Hoa Nghiêm. Bát Nhã và Niết Bàn cũng như vậy.
Nay cái hiểu về phổ môn của Phương Đẳng là theo ý nghĩa đại thừa. Nay hiểu phổ môn là pháp thì làm sao có pháp mà không có người. Nếu chúng ta hiểu phổ môn là người thì làm sao chỉ có người mà không có pháp. Vì vậy nhân pháp hỗ tương. Chẳng qua chỗ kia kinh nói về người, chỗ khác lại nói về pháp mà thôi.
Cũng như Tiểu thừa cho rằng ngài Xá Lợi Phất (Thân Tử) có trí tuệ đệ nhất, các đệ tử khác thì mỗi người thành tựu đệ nhất ở các pháp môn khác. Nếu căn bản là lấy trí tuệ để đoạn diệt mê hoặc để đến chân vô lậu. [Nếu] những người kia không có trí tuệ thì làm sao đắc đạo! Nay tất cả đều đắc đạo quả thì quả đó phải từ trí tuệ.
Chúng ta hiểu rằng đây chẳng qua lấy điều hay nhất ở các vị sơ phát tâm mà gọi là đệ nhất. Ví như lưỡi đao chém vào vật tất nhiên phải có cán dao thì mới dùng được. Nếu nói rằng các pháp kia là cán dao, và tuệ là lưỡi dao, thì nay nghĩa của Phổ môn cũng vậy. Nếu chỉ lấy nhân duyên làm pháp để gọi là Phổ môn thì làm sao có đươc người vô liễu nhân? Nhưng nếu goi chung tên với Quan Âm thì sẽ thông hiểu ngay. Chỉ vì muốn Thế Đế khổi bị hiểu một cách hỗn loạn nên đưa ra những tên khác nhau mà thôi. Ví như trong thân có sáu căn mà sao chỉ nói có tịnh nhãn căn và tịnh ý căn, chẳng lẽ không có các căn khác sao?
b) LIỆU GIẢN VỀ TỪ BI
Hỏi: “Nếu đại bi là cứu khổ, trừ khổ tức được an lạc. Đại từ là ban vui, đã được vui tức hết khổ, tại sao lại phân biệt làm hai?
Đáp: “Nói chung thì như thế, nói riêng thì khác. Ví như người thoát khỏi tội tù ngục nhưng chưa thoát được thân ngũ trần (…) thì dù giảm được thống khổ nhưng không cảm thấy vui, dù thoát khổ nhưng chưa gọi là lạc. Nếu như thân ngũ trần còn trong địa ngục, tai mắt tuy vui nhưng không gọi là thoát khổ. Đây là dựa vào nghĩa riêng biệt mà thuyết bên [từ và bên bi] khác nhau vì là nói riêng biệt từng bên.
Hỏi: “Tại sao ở đây không luận về hỉ xả”.
Đáp: “Tứ vô lượng tâm tuy nói là bốn nhưng thực ra chỉ có ba nghĩa mà thôi. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “ưu tất xoa(…)”, tất xoa nghĩa là xã. Xả có hai loại, tức phi từ phi bi không phải là hai ý. Tuy không là hai mà là hai, đó là từ bi. Hỉ là theo lạc mà sinh ra, lúc đầu thì chỉ muốn tìm lạc mà thôi nhưng cái khổ của chúng sinh nặng nề thì khó thể tìm được lạc nói chi đến có được hỉ. Nếu cứu ra khỏi cảnh khổ thì có được lạc, toại được lòng mong cầu lạc tức có được hỉ. Sau cái khổ thì chưa có liền cái hỉ. Như A Du Già Vương(…) biết sẽ chết trong bảy ngày tuy có đủ khoái lạc của ngũ dục nhưng lòng đầy lo âu khổ sở. Lại như thân người dù chỉ có một ít thống khổ [ở một phần của cơ thể] cũng đã [làm cho toàn thân thể] mất vui. Vì vậy biết rằng cái khổ nặng nề khó có được lạc”.
Hỏi: “Thiền tông cho rằng hỷ có trước lạc có sau. Như thế là sao?”. Đáp: “Thiền từ thô mà vào tế, vì vậy trong đây có lạc, rồi lòng hỉ theo sau”.
Lại xem ngoại đạo tu tứ vô lượng tâm chứng được thiền định, nhưng vẫn còn trong hư vọng, chẳng ích lợi chi, chưa có khả năng thoát khổ đắc lạc. Tuy rằng đã tự được định nhưng chỉ là cái định hư vọng của pháp thế gian mà thôi. Khi quả báo hết rồi lại rơi vào cái khổ khó tránh, đối với chính mình và với người đều chẳng được lợi ích gì.
Nhị thừa tu tứ vô lượng tâm chỉ tự cứu khổ nhưng đối với người khác thì không mang lại lợi ích gì, tự mình thoát được phần đoạn [sinh tử](…) nhưng chưa tránh được biến dịch [sinh tử](…), hủy thân diệt trí chưa phải là cứu cánh an vui. Bồ tát thì khác hẳn, không phải hạnh phàm phu mà cũng không phải hạnh thánh hiền. Không phải hạnh phàm phu vì không thọ nhận thiền lạc cho riêng mình. Không phải hạnh thánh hiền vì không giống như việc cứu khổ cho riêng mình, cũng không giống việc tự thọ lạc, mà lại muốn người được lạc. Không giống tự cứu khổ tức cứu khổ cho người. Cũng vậy cứu khổ tức ban vui, ban vui tức cứu khổ. Nói như vậy vì thệ nguyện đối đãi nhau nên nói rõ trước cứu khổ, sau ban vui mà thôi.
c) LIỆU GIẢN VỀ PHÚC TUỆ
Nay giải thích về phước tuệ.
Hỏi: “Quan Âm là trí nên khi xứng danh ngài thì được cứu khổ. Phổ môn là phúc nên khi thấy Phổ Môn thì được lac. Vì sao vậy?
Đáp: “Trí là ánh quang minh để phá tan mê hoặc. Mê hoặc chính là sinh tử khổ não. Nếu dùng tuệ để phá tan cái khổ của mê hoặc thì trí là ánh sáng giải thoát cho nên gọi kẻ có trí tuệ là người cứu khổ. Pháp là pháp môn. Môn là cửa thông đi nơi khác, thông đến Niết Bàn an lạc. Người mới tu tập pháp này được cái nhân an lạc, sau đó chứng được pháp này gọi là quả an lạc. Cho nên phải hiểu Phổ môn này mang đến an lạc”.
Hỏi: “Trên căn bản, cái tướng phước tuệ tương trợ cho nhau, vốn không phân ly. Nếu có định mà không có tuệ thì là si định ví như người mù cưỡi con ngựa mù thì chắc chắn sẽ rơi xuống hang sâu. Nếu người có tuệ nhưng không có định thì tuệ đó gọi là cuồng tuệ, ví như đốt ngọn đèn trong gió, ánh sáng sẽ lập lòe, khi đã lập lòe thì làm sao chiếu rõ ràng muôn vật cho nên phước và tuệ phải hỗ tương nhau, như hai bánh xe đồng đều mới có thể chuyên chở đuợc. Như ý trên trí tuệ là cứu khổ, thì phước đức có phải là ban vui không?
Đáp: Từ đó phước đức là trí tuệ, trí tuệ là phước đức. Nhưng cũng có thể nói phước đức không phải là trí tuệ, trí tuệ không phải là phước đức. Đại thừa và Tiểu thừa đều có tứ cú như vậy. Như Bồ tát lục độ (—) tu tập bát nhã chia Diêm phù đề(…) ra làm bảy phần. Cái thế trí này chưa có thể đoạn hoặc, nó chỉ là phước đức, mà gọi cái phước đức này là trí mà thôi. Vì vậy trí này là phước chưa đoạn được mê hoặc.
Nếu trí tuệ của Thanh văn có khả năng đoạn được [mê hoặc] thì đó là trí tuệ phi phước đức như một vị La Hán đói.
Nếu phước đức không phải là thế trí nhưng cũng không phát xuất từ thế trí, thì như con voi trắng, giống như tứ cú trong Đại thừa. Trong Biệt giáo trước các quả vị của các địa, 30 tâm hạnh, hạnh gọi là phước đức, tuệ hạnh gọi là trí tuệ. Tuệ này chưa phá được vô minh. Tuệ này vẫn còn trong chỗ nhiếp lấy phước đức nên chưa phá được vô minh. Phước này là phương tiện của trí tuệ nên có tướng này. Vì vậy trước quả vị của các địa đều gọi là phước đức, từ quả vị của các địa trở đi đều gọi là trí tuệ. Vì vậy trí tuệ này không phải là phước đức, phước đức này không phải là trí tuệ. Phương Đẳng Bát Nhã dùng tiểu [thừa] để hiểu Đại [thừa]. Nếu lấy cái tiểu [thừa] phước tuệ mà nói thì nó như ý của bốn câu trên, nếu hiểu theo cái Đại [thừa] phước tuệ mà nói thì nó như y hướng của bốn câu sau đây: Phước chính là tuệ, tuệ chính là phước. Phước tuệ không phải là hai. Vì vậy Đại Trí Độ Luận nói: “Những bậc tôn diệu mới có thể thấy được bát nhã”. Tuệ này không thể nào có được nếu không có định vì vậy khi đắc Thủ Lăng Nghiêm định thì làm sao mà không có tuệ? Đại Trí Độ Luận nói cái tướng dũng mãnh của tam muội này có thể phá được cường địch [ở đay là vô minh]. Kinh Vô Lượng Thọ nói: Phật tánh có năm tên gọi là Bát nhã, Sư tử hống, Thủ lăng nghiêm, Kim cương, và Phật tánh…; tức có đầy đủ định tuệ. Nếu không định thì tuệ không sinh, không tuệ nào mà không phải từ định sinh nên định tuệ không hai. Tuy không hai nhưng là hai. Chia từng môn mà nói thì đinh và tuệ là hai giải thích [khác nhau], Vì vậy Đại Trí Độ Luận giải thích bát nhã bằng 18 cái không(43), giải thích thiền định bằng 108 tam muội (…). Đây nói là hai, tuy hai nhưng không hai.
d) LIỆU GIẢN VỀ CHÂN ỨNG
Lại giải thích về chân ứng cũng có tứ cú khác nhau: không phải là chân cũng không là ứng, ứng nhưng không phải là chân, chân nhưng không phải là ứng, cũng là chân cũng là ứng.
Không phải là chân không phải là ứng thì theo lý có thể giải thích [như sau]: Vì phàm phu không thấy cái lý nên không thấy cái chân, không thấy cái dụng nên chẳng thấy cái ứng, theo cách hiểu này thì cũng giải thích được ứng mà không phải là chân, như ngoại đạo dù có ngũ thần thông(…) và có thể biến hóa như người khác, nói chung thì họ có ứng nhưng vẫn không được gọi là chân.
Chân mà không có ứng là hàng nhị thừa vào chân đoạn diệt kiết sử(..), hủy thân diệt trí nhưng vẫn không phát khởi được ứng, nói tổng quát thì đó chỉ là chân [của nhị thừa] mà thôi.
Cũng là chân cũng là ứng là cái chân đặc biệt hiển lộ của Trung Đạo(…) Lấy cái chân này mà luận về cái dụng thì chân dùng như ứng, nên chân ứng không hai. Không hai nhưng là hai nên gọi là chân ứng.
Nay đã gom lại các bài pháp trước đây nói về chân ứng. Những bài trước đã lần lượt nói rõ cái lợi lâu dài của chân thân. Phần sau đây thì nói về cái lợi ích ngắn hạn của ứng thân. Lợi ích lâu dài và ngắn hạn không phân ly, như hai con chim cùng bay. Trở lại hai điều trên mà nói chân thân là vĩnh cửu mà cũng không vĩnh cửu. Ứng thân là gián đoạn mà cũng là không gián đoạn. Theo lối hiểu của Tiểu thừa như ngài Tu Bồ Đề trong hang đá Thiện Cát(…) nhân quán Không mà thấy được pháp thân Phật trong khi ni cô Liên Hoa(…) thì không thấy. Đây không phải là trong pháp Tiểu thừa chân thân có cái nghĩa ích lợi vĩnh cửu hoặc không có cái nghĩa ích lợi vĩnh cửu. Cái ứng thân một trượng sáu này cũng có người thấy được nhưng cũng có người không thấy được. Đây không phải là nghĩa ứng thân có khi gián đoạn, có khi không gián đoạn. Cái hiểu về pháp thân trong Đại thừa cũng như vậy. Về lý thì có ích lợi lâu dài, về tình thì không có ích lợi lâu dài. Ứng thân cũng như vậy. Duyên này diệt duyên kia không dừng sinh, nghĩa là không gián đoạn. Cùng tánh chất như thế nhưng cách nhìn khác thì có nghĩa là gián đoạn. Nay nếu phân biệt thì phần trước [của đoạn văn này] là nói về ích lợi lâu dài, phần sau [của đoạn văn này] là nói về ích lợi không lâu dài.
e) LIỆU GIẢN VỀ DƯỢC CHÂU NHỊ THÂN
Lại giải thích về hai thân của dược châu. Dược có thể trị bệnh cứu khổ, cũng là báu vật giúp tăng trưởng thọ mệnh. Nên kinh Vô Lượng Thọ nói Nếu bảo toàn được thân mệnh thì nó là một phương tiện khiến con người đầy an vui. Như Ý châu vương(…) không những chỉ tuôn báu vật xuống mà còn có thể trừ được bệnh tật. Về câu chuyện Đại Thí thái tử (….) vào biển tìm bảo châu để trị bệnh mắt cho cha mẹ. Đại phẩm nói rằng nếu người có bệnh đau mắt lấy bảo châu để trên người thì sẽ khỏi bệnh, vì vậy mà biết rằng có đủ cả hai nghĩa [dược và châu]. Nếu chỉ nói một nghĩa thì có thể trừ hoạn nạn nên coi như là thuốc đưa đến lạc, . Còn về châu thì cũng như vậy.
f) LIỆU GIẢN VỀ MINH HIỂN
Nói về hai cái ích lợi hiển lộ và ẩn tàng thì gom trong 36 câu (…).
g) LIỆU GIẢN VỀ QUYỀN THỰC
Liêu giản về quyền trí (…) và thực trí (..). Phần vấn đáp trước đã nói thực trí chiếu sang Chân đế giúp giải thoát chúng sinh. Quyền trí chiếu sang Giả đế cứu độ chúng sinh.
Cái độ này là quyền độ(…) mà cũng là thật độ(…) hoát là thoát thật mà cũng là thoát giả. Để trả lời vấn đề này cũng có tứ cú hoặc vì có chân trí mà giải thoát tại quyền, bảy nạn(…) tiêu trừ, hai cầu nguyện (…) được mãn. Hoặc vì có chân trí nên giải thoát tại thật, thoát khỏi ba độc(…). Hoặc vì quyền trí mà được độ tại thật, ba mươi ba thân(…) đều được độ. Hoặc vì quyền trí mà được độ tại quyền, ở nơi sợ hãi, hoạn nạn được ban vô úy khiến không còn sợ hãi. Hay cả hai đều độ thoát, hay cả hai đều không độ, không thoát. Nay theo kinh văn mà nói riêng một bên. Phần trước nói về thoát quyền, phần sau nói về độ thật.
h) LIỆU GIẢN VỀ BẢN TÍCH
Nay giải thích về Bản và Tích. Nói chung thì bản tích cứu khổ ban vui, nên kinh Vô Lượng Thọ nói nghe kinh Vô Lượng Thọ được quả báo vô lượng và vô lậu thanh tịnh. Đó là từ Bản mà được lạc. Kinh Thỉnh Quán Âm nói hoặc chu du địa ngục, vì lòng đại từ bi mà chịu thế đại khổ. Đây là theo tích mà cứu khổ. Chúng sinh không đến được bản nguyên nên lưu chuyển trong khổ não. Nếu biết được lý của Bản thì tuy trong khổ mà cũng được giải thoát. Nếu chúng sinh chưa thấy sự ban bố và biến hóa trong Tích thì không thể gieo phước trong ba nghiệp của mình thì đâu tạo nhân công đức, làm sao đến được quả lạc.
Không có Bản thì làm làm sao lưu lại Tích, không có tích thì làm sao hiển lộ được Bản.
Những vấn đáp trên cho thấy rõ về Tích và Bản. Những vấn đáp sau cho thấy rõ Bản và Tích.
Hỏi: “Bản Tích và chân ứng khác nhau như thế nào?”
Đáp: “Chân ứng là nói theo chiều ngang trong một đời như các kinh đã nói rõ. Bản tích là nói theo chiều dọc của ba đời, như kinh Vô Lượng Thọ đã nói.
i)LIỆU GIẢN VỀ DUYÊN LIỄU
Giải thích về duyên liễu.
Hỏi: “Duyên liễu(…) phải chăng có tánh đức (…) thiện và cũng có tánh đức ác? Đáp: “Đúng vậy”.
Hỏi: “Kẻ xiển đề (…) và Phật đã đoạn những thiện ác gì?
Đáp: “Xiển đề(…) không tu tận thiện nhưng vẫn có tánh thiện. Phật không tu các ác nhưng vẫn có tánh ác” (…).
Hỏi: “Tánh đức thiện ác tại sao không thể đoạn?”
Đáp: “Tánh thiện ác chỉ về pháp thiện ác”. Tánh thì không thể sửa đổi dù trải qua ba kiếp cũng không ai hủy diệt được, cũng không thể làm hư hoại được. Ví dụ như yêu ma tuy có thể đốt hết kinh sách nhưng không thể diệt tận pháp thiện. Dù cho chư Phật đốt hết sách vỡ về ác cũng không thể tận diệt các pháp môn ác. Như vua Tần đốt sách và chôn sống nho sĩ thì cũng đâu có thể tận diệt thiện ác đâu”.
Hỏi: “Xiển đề không đoạn tánh thiện nên có thể trở lại phát khởi việc tu thiện không? Phật không đoạn tánh ác thì có khi nào tánh ác trở lại chăng?”. Đáp: “Xiển đề dù chưa đạt tánh thiện nhưng vẫn có phần tiêm nhiễm tánh thiện, khi tu thiện thì có thể phát khởi [thiện] và diệt trừ cái ác một cách sâu rộng. Phật không đoạn tánh ác nên có thể đi đến cái ác, nhưng vì tự tại nên không bị ác làm nhiễm ô, vì vậy tánh ác không thể phát khởi. Vì vậy mà chư Phật không hề trở lại với cái ác, lại có thể tự tại dùng pháp ác để hóa độ chúng sinh. Dù cả ngày dùng ác pháp nhưng không hề bị ô nhiễm. Vì không ô nhiễm nên không khởi tánh ác, thì sao có thể đem so sánh với kẻ Xiển đề?. Nếu xiển đề có thể đến chỗ nhìn thấy thiện ác như trên thì không còn gọi là Xiển Đề nữa.
Hỏi: “Nếu theo người hiểu Xiển đề đoạn tất cả tánh thiện huân tập trong thức A lại da thì có thể phát khởi tánh thiện được nữa không?.
Đáp: “A lại da thức (…) thì vô minh, vô ký. Thiện ác là tất cả chúng tử có trong đó. Xiển đề chưa đoạn vô minh vô ký nên tánh thiện có thể phát sinh. Phật đã đoạn hết vô minh vô ký, không còn huân tập ô nhiễm nên tánh ác không thể phát sinh. Nếu muốn dùng phương pháp ác để giáo hóa vạn vật thì chỉ là dùng thần thông biến hiện để cứu độ chúng sinh mà thôi”.
Hỏi: “Nếu ở Phật địa đã đoạn diệt hết tánh ác nhưng lại dùng phương pháp thần thông ác để giáo hóa vạn vật thì cái tác ý này có thể khởi ra tánh ác không, như người vẽ hình sắc nhưng không dùng đến, như tấm gương bất động mà hình sắc tự hiện hình ra. Theo lý thì đúng như vậy không chối cãi được là có thể hưởng ứng với ác. Nếu theo cái tác y như vậy thị tác ý này có khác gì là cách cuả các ngoại đạo?
Đáp: Nay vì Xiển đề không đoạn tánh đức thiện, khi gặp duyên thiện liền phát khởi thiện. Chư Phật không đoạn tánh ác khi găp duyên thì kích động, vì lực từ huân tập nên vào địa ngục A Tỳ cùng với tất cả sự ác mà giáo hóa chúng sinh. Do có tánh ác nên gọi là chẳng đoạn [ác]. Lại không tu ác nên gọi là bất thường. Nếu tu tánh đã hoàn toàn viên mãn, đó là đoạn bất(..), chứng được bất đoạn bất thường(…). Xiển đề cũng làm được như vậy. Tánh thiện bất đoạn nên thiện căn phát sinh. Như Lai tánh ác bất đoạn nên có thể khởi sinh ác. Tuy có thể khởi ác nhưng vì tâm vô nhiễm đi đến chỗ ác đó là cảnh thực tế, có thể dùng tướng ngũ nghịch nhưng vẫn giải thoát, cũng là không bị trói buộc, không giải thoát, đi ngoài đạo lý mà thông đạt Phật đạo. Xiển đề vì ô nhiễm nên không đạt được. Đó là chỗ khác với chư Phật.”
j)LIỆU GIẢN VỀ TRÍ ĐOẠN
Giải thích về trí đoạn. Trí và đoạn là một pháp môn không thể tách rời nhau ra, như người có một thân thể, làm sao dùng trí để diệt khổ, dùng đoạn để ban vui. nhưng tâm hiểu tuệ là trí, thân không bị trói buộc là đoạn. Ví như một người bị trói.Khi ho dùng sức mạnh của trí [để mưu tính] thoát thân thì thuộc trí. Nhưng tỏ ra ở bên ngoài [như trói buộc được tháo bỏ] thì thuộc đoạn. Vì vậy phần dùng trí gọi là trí tuệ trang nghiêm(…). Phần thân thóat ra thuộc về sắc thân nên gọi là phước đức trang nghiêm(…). Nay kinh văn không đưa ra cùng lúc nên tôi đưa ra cả hai trí và đoạn ở đây để giúp hiểu được ý [của trí đoạn].
Nếu hiểu được y thâm sâu của mười nghĩa này thì hiểu một điều mà ngàn điều sẽ hiểu theo thì có thể giải thích rộng rãi y nghĩa về Quán Thế Âm Phổ Môn một cách vô tận.
B) BIỆT THÍCH DANH [1B) Biệt thích danh về Quán Thế Âm, 2B) Biệt thích danh về Phổ môn]
Thứ hai Biệt thích danh. Biệt thích danh lại chia làm hai: Trước tiên là nói về Quán Thế Âm, sau đó là nói về phổ môn.
1B) BIỆT THÍCH DANH VỀ QUÁN THẾ ÂM [ Gồm 2 điểm: a)CẢNH TRÍ, b ) NHÂN DUYÊN]
Vì nhân duyên gì mà gọi là Quán Thế Âm. Phần Tổng quát thì đã nói ở trên đây rồi.
Biệt [thích danh] là dựa vào cảnh trí và nhân duyên mà gọi là Quán Thế Âm. Cảnh trí là gì? Cảnh trí có hai loại
a)CẢNH TRÍ [Lại chia làm hai phần: a/1) Tư nghị cảnh trí, a/2) Bất tư nghị cảnh trí]
Cảnh trí có hai lọai. Thứ nhất tư nghị cảnh trí (54). Thứ hai là bất tư nghị cảnh trí.
a/1) TƯ NGHỊ CẢNH TRÍ [lại chia làm hai: a/1/1) lý ngoại Tư nghị cảnh trí, a/1/2) lý nội Tư nghị cảnh trí]
Tư nghị cảnh trí lại được chia làm hai.Thứ nhất dựa vào lý bên ngoài. Thứ hai dựa vào lý bên trong.
a/1/1) LÝ NGOẠI TƯ NGHỊ CẢNH TRÍ [lý ngoại Tư cảnh trí lại chia làm bốn loại: a/1/1/1) Thiên nhiên cảnh trí, a/1/1/2) Tương đãi cảnh trí, a/1/1/3) Nhân duyên cảnh trí, a/1/1/4) Tuyệt đãi cảnh trí ]
Lý ngoài [tư nghị cảnh trí] lại chia làm bốn. Thứ nhất gọi là cảnh trí thiên nhiên.
a/1/1/1) THIÊN NHIÊN CẢNH TRÍ
Tự hỏi cảnh này có phải do cảnh mà có cảnh [cảnh tự sinh cảnh] hay do trí mà có cảnh? Trí này do trí mà có trí [trí tự sinh trí], hay do cảnh mà có trí? Nếu do cảnh mà có cảnh thì cảnh đó chính là cảnh [của] Cảnh tự sanh cảnh. Nếu trí từ trí [mà có] thì trí tự sinh trí.
Cái tính tự sinh đó gọi là tự tánh. Không phải do Phật, Trời hoặc người tạo ra nên chiếu và không chiếu, luôn là cảnh trí, nên gọi là thiên nhiên cảnh trí.
a/1/1/2) TƯƠNG ĐÃI CẢNH TRÍ
Thứ hai, nói rõ về tương đãi [cảnh trí](..). Nếu cảnh không tự sinh nhưng do trí mà có cảnh. Trí không tự sinh nhưng nhân cảnh mà có trí, đó là nghĩa từ chỗ khác sinh ra. Vì sao vậy? Cảnh tự sinh cảnh nên gọi là tự [sinh], lấy cảnh để nhìn trí, trí từ chỗ khác đến. Nay cảnh theo trí mà sinh thì phải đâu là một cảnh khác? Trí cũng như thế nên gọi là hỗ tương [tương đãi]..
a/1/1/3) NHÂN DUYÊN CẢNH TRÍ
Lại nói rõ về nhân duyên cảnh trí, nếu cảnh không do trí mà có cảnh, cũng không do cảnh mà có cảnh, mà do trí canh nhân duyên nên có cảnh. Trí cũng như thế. Đây là do cảnh trí nhân duyên cộng sinh ra. Cộng sinh có hai cách rơi vào tự tánh [cộng sinh] hay tha tánh [cộng sinh].
a/1/1/4) TUYỆT ĐÃI CẢNH TRÍ
Lại nói đến tuyệt đãi(…)cảnh trí, không phải cảnh cũng không phải trí mà nói về cảnh trí, đây là ly khai cảnh, ly khai trí, không dựa vào nhân duyên để biện biệt cảnh trí. Đó là vô nhân duyên tuyệt đãi(…). Theo nhân duyên mà còn bất khả đắc huống chi là không nhân duyên. Đã nói là tuyệt, nếu còn lấy lý để [biện biệt được] thì đâu phải là tuyệt đãi nữa. vì vậy đó chỉ là từ vọng tâm bên ngoài lý mà suy đoán, nên Trung Luận (…) nói rằng: “ Các pháp không tự sinh, cũng không từ chỗ khác sinh ra”, không cộng không vô nhân nên nói là vô sinh, nên nó không giống như bốn loại trước đây. Nếu chấp nó là thật thì đó là vọng ngữ. Cái chấp là thật đó do vì ái kiến trói buộc bởi 98 kiểt sử(…). Khổ tập lưu chuyển mênh mông không bao giờ chấm dứt.
Tại sao vì chấp cái [cảnh trí] này mà sinh ra khổ tập? Tùy cái mình chấp mà cảnh trí trở nên thật [với chính mình]. Theo lòng mến mộ mà bị cái ái ràng buộc nên sinh yêu thích, đó là tham sử. Nếu có người nhìn [cảnh đó] mà đả phá, chỉ trích thì mình sẽ sinh lòng phẫn nộ, đó là sân khuê. Tâm tham sân phát khởi thì chẳng phải là si thì là gì nữa? Tôi giải thích cảnh trí này, người khác không hiểu được, do lòng chấp trước, tôi sinh lòng ngạo mạn với ngưới ta, đó không là mạn thì là gì? Luôn chấp chặt, cho như vậy mới là phải. Nay tuy không nghi, sau lại nghi, thì đó không là nghi [sử] thì là gì? Nay tôi giảng pháp này. Trong pháp đó có ý của riêng ta thì đó chính là thân kiến. 62 kiến (…) rơi vào một bên gọi là biên kiến(…). Những vọng chấp này không từ đạo lý sinh thì là tà kiến. Chấp những điều này là thật, cho nó là Niết Bàn thì đó là kiến thủ (,,,) của quả đạo [tặc]. Lại cho đây là [chánh] đạo và cứ theo đó mà đi, sinh ra giới thủ (…) đó là nhân đạo [tặc](…). Rõ ràng mười phiền não [thập sử] đều do từ chấp cảnh trí mà sinh ra.
Nếu đem vào tứ đế tam giới thì có 88 kiết sử(…). Nay tư duy về tám giới thì có 98 kiết sử(…). Đây chính là tập đế kết nghiệp, điên đảo rộng lớn, vì vậy đã đem đến quả khổ của sinh tử không bao giờ chấm dứt. Trong cảnh trí đó không biết khổ và tập thì làm sao biết đâu là đạo và diệt. Không biết Tứ Đế thì làm sao phá nhân quả trong thế gian và ngoài thế gian. Không biết pháp vô thế [anadhvan] và pháp xuất thế nên không có pháp bảo. Không biết quả xuất thế nên không có Phật bảo. Không biết nhân của xuất thế thì không có tăng bảo. Tất cả các nghĩa của thánh hiền đều mất hết, nếu cứ chấp chặt cái tự sinh cảnh trí này thì chỉ tạo nên sinh tử, tăng trưởng kết nghiệp, làm nhiều thêm hoạn nạn. Nếu mà nói không phải là cảnh trí ở bên ngoài lý, thì cái gì gọi là ngoài lý? Vì vậy Đại Trí Độ Luận nói: “Phàm phu có ba loại [ngã]: [ngã] kiến, [ngã] mạn và danh tự(…). Thánh nhân thì chỉ có một loại [ngã], đó là danh tự mà thôi. ” Nay phàm phu vì kiến mạn chấp trước và dùng cái hiểu sai lầm về lời Phật, cứ chấp chặt như vậy rồi đem cái lý lẽ sai lạc của mình ra mà tranh cãi. Tuy có dựa vào kinh luận và dẫn chứng văn tự nhưng chỉ như con mối đục vào gỗ ngẫu nhiên mà thành ra chữ; nhưng tìm sâu trong lòng của họ thật sự không hiểu được đó là chữ hay không phải chữ. Miệng nói cảnh trí nhưng nào hiểu cảnh trí là gì. Vì không hiểu được nên tưởng như uống cam lồ, từ cảnh trí sai lầm khởi sinh kiến hoặc làm tổn thương tính mạng mà chết yểu, nên bị Long Thụ Bồ Tát phá tan. Nay không lấy những điểu trên làm cảnh trí để giải thích về Quán Thế Âm. Tự sinh cảnh trí là như vậy, ba câu còn lại cũng có ý như trên.
a/1/2) LÝ NỘI TƯ NGHỊ CẢNH TRÍ
Thứ hai, nói rõ về lý nội tư nghị cảnh trí. Cũng theo bốn loại [cảnh trí] như trên. Tên gọi giống nhau, trí quán ở đây đã thuần thục không còn sinh kiến chấp nữa. Sau cùng đạt đến phá hoặc và không tạo ra những chấp trứơc mới, nên thành phương tiện đạo, chứng được noãn vị, đĩnh vị cho đến hiểu và giác ngộ 16 tâm (…), nhãn trí hốt nhiên đạt đến chỗ giác ngộ, phá được tất cả kiến hoặc, cùng lý tương ưng. Ví như một người mù, lấy kim quyết mạc trị bệnh(…) nên thấy rõ ràng không sai lâm nữa, đó là chân quán, gọi là trí. [Trí này] soi sáng được lý, [lý này] thì gọi là cảnh, [Cảnh trí này] vì phát sinh từ vô lậu (…) nên gọi là lý nội cảnh trí. Cái lý thấy được là nhờ vào ý, [do sự suy tư] mà đạt đến được cái chân nên gọi là tư nghì cảnh trí.
Nay hiểu rõ Quán Thế Âm cũng không phải từ nhân duyên của cảnh trí này mà gọi tên.
a/2) BẤT TƯ NGHỊ CẢNH TRÍ
Sau đây hãy tìm hiểu về bất tư nghì cảnh trí.
Hỏi: “Như vậy tự, tha, cộng, vô nhân, cả bốn điều này đều là phi cảnh trí. Nay các kinh nói [cảnh trí là do] tự sinh, tha sinh, cộng sinh hay vô nhân. Nếu không như vậy thì lấy gì để phân biệt cảnh trí”.
Đáp: “Kinh nói như vậy là vì dựa theo cơ duyên với tứ Tất Đàn mà giả danh nói như vậy mà thôi. Không có cái chấp bốn tánh”.
Nếu có người cho rằng cảnh trí tự sanh, thì hãy giảng rằng cảnh tự sinh cảnh, trí tự sinh trí, như thế làm tâm người đó vui vẻ, nghe được rằng tự cảnh tự trí bèn sinh ra thiện. Hay là dùng đối trị mà nói cảnh trí tự sinh, nói như vậy thì phá được mê hoặc. Khi nói như vậy [làm người nghe] ngộ đạo. Nếu không dựa vào lợi ích của Tứ Tất Đàn chư Phật Như Lai thuyết cái pháp bất-không. Tuy rằng nói bốn thuyết mà không chấp vào bốn loại [chấp nay]. Vì không chấp nên không có ái kiến, chúng sinh nghe thì như nhìn con ngựa chạy nhanh mà chỉ thấy hình ảnh của cái roi mà thôi, tức thì phá mê hoặc vào được đạo nên gọi là trí. Cái được trí này soi sáng thì gọi là cảnh. Từ đó thông đạt tức biết được khổ tập đạo diệt. Tam bảo tứ đế rõ ràng đầy đủ.
Nếu lấy trí soi sáng cảnh để chứng cái không, thành tựu Chân đế của cái lý nội tư nghì cảnh trí như trên đây đã nói. Nếu không lấy quả để chứng minh thì cái biết về cảnh trí này chỉ có tên mà thôi. Tên này không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa. Tên này không trụ, nhưng cũng không phải là bất trụ. Vì tên này vô sở hữu nên gọi như vậy.
Tuy nói tứ cú để hiểu cảnh trí nhưng thật ra không phân biệt cảnh trí trong tứ cú. Tuy đã làm theo những điều được biết về cảnh trí của tứ cú nhưng thật sự chưa đạt được những gì về cảnh trí của tứ cú. Tuy đã thể đạt, thông hiểu được cảnh trí của tứ cú nhưng thật ra chưa đi đến được chỗ suy lường về cảnh trí của tứ cú. Đường ngôn ngữ đoạn, tâm hành xứ đã diệt (58). Không thể lấy tư duy để mong đo lường được tứ cú nên gọi là bất tư nghì cảnh trí. Kinh Kim Quang Minh nói: “Cái trí bất tư nghì chiếu sáng cái cảnh trí bất tư nghì”, điều này giống như huyền nghĩa trong kinh Vô Lượng Thọ thuyết rộng về diệu cảnh trí. Long Thụ bồ tát trước hết là phá cái [quan niệm] nhất di thì phương (..), sau đó mới giải thích nghĩa của [cụm từ] : Như thị ngã văn.
Nay cũng vậy, trước hết phải phá cảnh trí của lý ngoại, sau đó mới hiểu bất tư nghì tứ tất đàn. Cái nghĩa của tứ tất đàn như huyền nghĩa trong kinh Vô Lượng Thọ, chẳng qua dùng tên làm phương tiện. Trước hết phải hiểu rõ quán trí, sau đó mới biện biệt được tiếng nói của cảnh thế gian. Nếu lấy phương tiện là nghĩa thì trước hết phải hiểu cảnh thế gian, sau đó phải biện biệt cái quán trí. Phải có cảnh trước thì mới có thể luận về quán. Nếu không có cảnh thì làm sao mà quán? Ví như phải có cái gương, cái trống trước, thì sau đó mới nghĩ đế việc đánh trống, soi gương. Đây là để tiện về vấn đề giảng nghĩa. Trước hết phải hiểu âm thanh của thế gian, sau đó mới luận về quán trí.
b)NHÂN DUYÊN [b/1) Nói về THẾ GIAN, b/2) Nói về ÂM THANH, b/3) Nối về QUÁN]
b/1) NÓI VỀ THẾ GIAN
Thế gian có ba loại. Thứ nhất ngũ ấm thế gian(—). Thứ hai chúng sinh thế gian(—). Thứ ba, quốc độ thế gian (—).
Vì có pháp thật, có người giả. Có giả và có thật nên có y-báo(—) vì vậy mà nói có ba loại thế gian. Những thế gian này cách biệt nhau nên có mười pháp giới, cũng có mười loại ngũ ấm khác nhau, từ đó có mười loại giả danh, mười loại y báo, cách biệt nhau bất đồng này nên gọi là thế.
Gian là những nơi hoàn toàn khác biệt nhau. Nên có ba mươi loại thế gian hoàn toàn khác biệt nhau, không thể lẫn lộn, nên gọi là gian.Mỗi một gian đều có nhân, có quả nên gọi là pháp. Mỗi một gian có ranh giới rõ ràng nên gọi là giới.
Nay trong một pháp giới lại có mười pháp (—). Sở dĩ như thế là vì những cứu cánh của tướng tánh. Mười giới có một trăm pháp. Mười giới hỗ tương nên có một ngàn pháp, tất cả những pháp này đều từ nhân duyên sinh ra. Trong Lục đạo là nơi nhân duyên pháp cho những mê hoặc, Tứ thánh [đế] là pháp giải nhân duyên nay. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “ Vô lậu cũng có nhân duyên. Nhân là diệt vô minh tức là đuốc thắp sáng tam bồ đề , là tất cả pháp nhân duyên tức là tam đế. Các pháp do nhân duyên sinh, ta nói là không, cũng gọi là giả danh, cũng gọi là nghĩa trung đạo”. Cho nên mười loại pháp giới(—), ba mươi loại thế gian là cảnh chúng ta quán. Cảnh này lại được chia làm hai tự sinh và tha sinh.
Tha là chúng sinh Phật, tự là tâm đầy đủ, như kinh Hoa Nghiêm nói: Tâm như một họa sĩ vẽ ra các ngũ ấm khác nhau. Tất cả chuyện trong thế gian không có gì không do tâm tạo.
Hỏi: “Tự [sinh] và tha [sinh] làm sao có đủ trong mười pháp giới?”
Đáp: “Quán thật tướng của thân, quán Phật cũng như vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm như thế thì Phật cũng như thế”. Tâm, Phật và chúng sinh là ba pháp không sai biệt, thì sao lại không đầy đủ các cảnh giới của tam đế(—).
b/2) NÓI VỀ ÂM THANH
Lời nói [âm thanh] là then chốt tạo nên khẩu nghiệp của mười pháp giới. Vì pháp giới không giống nhau nên âm thanh cũng khác.
Hỏi: “Chúng sinh có ba nghiệp tại sao chỉ nói đến quán âm thanh mà thôi?”
Đáp: “Nếu nhìn thông suốt thì thấy rõ. Thường niệm cung kính thì lìa tam độc, đó là quán ý [của âm thanh] thế gian (…). Lễ bái cúng dường, được như ý nguyện, thì đó là quán thân thế gian. Nay chỉ nói đến việc quán âm thanh thế gian. Người xưa đưa ra sáu nghĩa:
b/2/1)THỨ NHẤT LÀ LẬP CÕI.
Các tên [của các cõi rất nhiều] không thể nói hết được, nay chỉ chọn một cõi làm tiêu biểu. Nếu gọi là Quán Thế Thân thì [có mgười] lại hỏi tên này là ý nghĩa gì? Sao không gọi là Quán Thế Âm thì đâu cần phải hỏi nữa.
b/2/2) THỨ HAI LÀ THEO THẾ TỤC.
Đức Thích Ca nói rằng nếu lấy âm thanh để làm Phật sự thì gọi là quán thế âm (quán âm thanh thế gian) để đi khắp các cõi các nước, tùy theo sở cầu của chúng sinh.
b/2/3) SỰ HỖ TƯƠNG GIỮA NĂNG QUÁN VÀ SỞ QUÁN.
Thứ ba, đưa ra sự hỗ tương giữa năng quán và sở quán. Sở quán tức sắc tâm của chúng sinh. Nay từ năng quán nên gọi là quán. Có thể nghe cái nghe. Có thể nghe là nhĩ thức của thánh nhân. Cái được nghe là âm thanh của chúng sinh. Nay dựa vào âm thanh nghe được, đưa cái nghe được ra thì đắc khả năng nghe. Từ năng quán đắc sở quán, theo đó mà gọi tên là Quán Thế Âm. Xưa có người hỏi: “Năng [quán] và sở [quán] là như vậy, tại sao không lấy cái sở quán của sắc tâm, năng văn [khả năng nghe] của nhĩ thức để gọi tên là Văn [nghe] sắc tâm Bồ tát ? Người xưa đáp rằng: “ Bồ tát khi quán được sắc tâm thì có thể đáp ứng rộng lớn. Một lời nói của chúng sinh thì rất hạn hẹp. Nếu theo cái khó thì cơ có hai chữ, mà ứng chỉ có một chữ. Như thế ứng thì hẹp, cơ thì rộng nên không có gì là khó mà nay làm thành khó”. Lời đáp này phải theo nghĩa lý thay vì theo mặt chữ [để giải thích].
Bồ tát có thể quán sắc tâm thì tại sao lại không thể quán âm thanh?. Chúng sinh thì chỉ cảm về âm thanh, sắc tâm [của chúng sinh] thì không cảm được sao? Nếu hoàn toàn cảm được và hoàn toàn ứng được thì chỉ là theo mặt chữ mà nói là quán mà thôi. Vậy cảm và ứng(65) phải đồng đều. Con nói là là rộng hay là hẹp, thì nay không nói đến, hiểu rằng phàm và thánh, cảm và ứng đều liên quan đến tam nghiệp. Vì thánh nhân thì dựa vào ý, phàm phu thì dựa vào âm thanh nên gọi là quán thế âm là như vậy.
b/2/4) NGHĨA CỦA NHIẾP
Như trước khi phát âm thanh thì có ý và hơi [thở], làm chuyển động miệng và môi thì mới phát ra được âm thanh. Khẩu nghiệp tạo thành tức do thân và ý. Nếu quán khẩu nghiệp thì cũng quá được cả thân và ý. Quán như vậy thì gọi là nhiếp.
b/2/5) ẨN VÀ HIỆN
Thứ năm, ẩn và hiện. Thân tuy lễ bái, ý tuy suy nghĩ nhưng chưa biết là phải theo hướng nào nên gọi là ẩn. Nếu miệng nói ra, ý nghĩa của chuyện được tỏ bầy, nên gọi là hiển. Đưa ra cái hiển và giấu đi cái ẩn, nên gọi là Quán Thế Âm.
b/2/6) KHÓ VÀ DỄ
Thứ sáu là khó và dễ. Khi Lâm nguy bị tai ách. Y muốn thập niệm kêu cầu cũng không được, thân muốn quỳ bái cũng chậm trễ khó khăn, miệng xướng [danh] gấp, nên thành cơ duyên, đó là cách dễ thọ danh. Cung trong điều số 6 này, là có duyên
Quán-Âm vốn xưa kia là một phàm phu ở trong cõi ta bà, thấy cái khổ mà phát thệ nguyện. Nay Ngài trú tại Tây phương nhưng vẫn trở lại đất này, vì Ngài có lời nguyện nên [chúng sinh] có điều cần gấp đến ngài chỉ cần niệm danh Ngài.
Nay hiểu sáu nghĩa đã bàn luận ở trên. Cứ theo “Đại TRí Độ Luân” thì thấy ý nghĩa trọn vẹn. Vì sao? Thở ra vào, nghỉ ngơi là thân hành, giác quán là khẩu hành, thọ là tâm hành. Tâm giác quán đều có đủ tam nghiệp . huống chi nói thành tiếng mà không có ba nghiệp sao? Chỉ đưa ra nhất quán thì đã có đủ tam ứng. Chỉ cần nói ra một tiếng thì đã có đủ tam cơ, Nhưng kẻ phàm tình dùng tiếng lớn và trí khôn để theo đuổi vật chất và danh vong nếu dùng viên nghĩa mà xét đoán thì có đầy đủ cả [tam nghiệp trong đó].
(Hết Quán-Âm Huyền Nghĩa Quyển Thượng)
Quán-Âm Huyền Nghĩa
Quyển Hạ
Thiên Thai Trí Giả đời Tùy thuyết giảng, môn đồ là Quán Đảnh ghi chép
b/3) NÓI VỀ QUÁN [Lại chia làm 2 phần b/3/1) Kết thúc cảnh giới thế âm, b/3/2) Nói rò về cái trí năng quán]
Thứ hai, phải hiểu về quán. Cái quán này lại được chia làm hai. Thứ nhất kết thúc cảnh giới thế âm. Thứ hai nói rõ về cái trí năng quán.
b/3/1) KẾT THÚC CẢNH GIỚI THẾ ÂM
Kết thúc [cảnh giới thế âm] lại có 6 loại cảnh :
1)Thứ nhất là cảnh nhân duyên trong mười pháp giới. 2) Thứ hai cảnh tứ đế(—). 3) Thứ ba cảnh tam đế(—). 4) Thứ tư, cảnh nhị đế(—). 5) Thứ năm, cảnh nhất thật đế(—). 6) Thứ sáu, cảnh vô đế (—). Tất cả cảnh giới này đều xuất phát từ huyền nghĩa của kinh Vô Lượng Thọ.
b/3/2)NÓI RÕ VỀ CÁI TRÍ NĂNG QUÁN [chia làm 2 loại b/3/2/1) Thứ đệ tam quán, b/3/2/2) Nhất tâm tam quán]
Thứ hai, dựa vào cảnh để hiểu trí là năm lần quán trí. Dựa vào nhân duyên [để hiểu về trí] thì có bốn lần nhân duyên luận quán [trí]. [Dựa vào] tứ đế [để hiểu về trí thì] thì có bốn lần luận quán [trí]. [Dựa vào] Tam đế [để hiểu về trí thì] có hai lần luận quán [trí]. [Dựa vào] Nhị đế [hiểu về trí thì] có bảy lần luận quán[trí]. [Dựa vào] Nhất thực đế [để hiểu về trí thì] có một lần luận[quán trí]. [Dựa vào] Vô đế [để hiểu về trí thì] không có luận quán[trí]. Tất cả những ý nghĩa này đều có đầy đủ trong kinh Vô Lượng Thọ.
Nay dựa vào tam đế hiểu về cái quán. Nói chung trong mười pháp giới thì pháp là do nhân duyên sinh. Nhân duyên này tức Không tức Giả tức Trung. Tức Không là chân đế, tức Giả là tục đế, tức Trung là trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Nếu luận riêng trong lục đạo thì pháp là do nhân duyên sinh. Nhị thừa giới là Không. Bồ tát giới là Giả. Phật giới là Trung.
Luận về cảnh thì có hai ý.
Nay dưa vào cảnh để hiểu về quán cũng có hai ý: Thứ nhất là thứ đệ tam quán(—). Thứ hai nhất tâm tam quán(—).
b/3/2/1) THỨ ĐỆ TAM QUÁN [gồm 3 điểm: b/3/2/1/1) Nghĩa của Quán Thế Âm trong Tam Tạng giáo, b/3/2/1/2) Nghĩa của Quán Thế Âm trong Thông giáo, b/3/2/1/3) Nghĩa của Quán Thế Âm trong Biệt giáo]
Về thứ đệ tam quán như kinh Anh Lạc nói: Từ Giả vào Không gọi là nhị đế quán(—). Từ không vào giả là bình đẳng quán(—).
Nhị quán này chỉ là phương tiện để vào đệ nhất nghĩa đế quán của trung đạo.
Ba cái quán này đúng là tam trí (—) của kinh Đại Bát Nhã.
1) Thứ nhất là nhất thiết trí (—). Biết tất cả những gì có thể biết, có thể giải trong nhất thiết nội pháp thì gọi là nội. Biết tất cả có thể biết, có thể giải của nhất thiết ngoại pháp thì gọi là ngoại nhưng không thể dùng để khởi nên tất cả các đạo, tất cả chủng tử, đó là nhất thiết trí.
2) Thứ hai, đạo chủng trí có thể biết tất cả khác biệt giữa đạo chủng tức phân biệt được giả danh không sai lầm thì gọi là đạo chủng trí.
3) Thứ ba, nhất thiết chủng trí, có thể dựa vào nhất chủng trí, mà biết tất cả các đạo, biết tất cả các chủng, [Có thể dựa vào một tướng] biết tịch diệt tướng, biết tất cả loại hạnh, năng tri năng giải, thì gọi là nhất thiết chủng trí. Nói chung dưới một tên khác là quán trí. Nói riêng dựa vào mục đích, khi nói về nhân thì gọi là quán, khi nói về quả thì gọi là trí.
Cái quán của ba cái trí này kinh Vô Lượng Thọ nói trong cái quán về tứ chủng thập nhị nhân duyên (—), đó là hạ, trung, thượng, và thượng thượng. Kinh Niết Bàn dùng cách tích pháp (…) để hiểu bốn loại quán này.
Kinh Đại Bát Nhã và kinh Anh Lạc dùng Đại thừa để hiểu tam quán và tam trí. Nay hợp lại hai kinh này và kinh Niết Bàn mở ra pháp tùng giả nhập không (—) mà quán tất cả trí sinh diệt. Nếu hợp lại hai kinh này với kinh Niết Bàn, đưa vào hai quán hạ và trung thì đó cũng là nhất thiết trí.
Nếu lấy [ý của] cả ba kinh một cách riêng biệt hay họp chung lai để đối chiếu với ngũ nhãn(…) thì thiên nhãn và nhục nhãn chiếu soi những chuyện thô và tế, đó đều là thế trí. Nó cũng là cái căn bản của quán cảnh. Thuận theo tam quán và tam trí từ đó vào thể pháp của nhất thiết trí.
Như vậy nhục nhãn và thiên nhãn là căn bản để dùng tứ quán và tứ trí để đi vào Tích Pháp(—) nhất thiết trí. Nay lấy nhất thiết trí đối tuệ nhãn, lấy đạo chủng trí đối pháp nhãn, lấy nhất thiết chủng trí đối Phật nhãn. Trung luận nói [bốn câu] kệ (—) rằng các pháp do nhân duyên sinh, câu này lấy quán trí làm căn bản. Ba câu sau đối tam trí.
Nếu lấy tam quán trí để đối chiếu với tứ giáo thì cũng phải khai triển cuộc bàn luận như trên. Nếu lấy Niết Bàn tứ quán đối Tứ giáo thì hạ trí là sinh diệt nhất thiết trí, là [trí của] Tạng giáo. Trung trí là thể pháp nhất thiết trí, [là trí của] Thông giáo. Thượng trí là đạo chủng trí, [là trí của] Biệt giáo. Thượng thượng trí là nhất thiết chủng trí, [là trí của] của Viên giáo. Vì vậy phải hiểu tam quán để có thể đối chiếu với tứ giáo. Nếu không có giáo thì không có quán. Dựa vào giáo để tu quán và thành tựu trí. Vì vậy phải hiểu giáo. Giáo thì có giáo chủ, chủ đây tức là Phật. Có thể một Phật nói cả tứ giáo. Có thể dùng bốn tướng khác nhau để thị hiện thành bốn Phật(—). Tứ giáo có bốn giáo chủ tức có bốn bổ xứ, như vậy có bốn loại Bồ tát để phụ giúp Phật hoằng dương tứ giáo.
Hỏi: Như nói tất cả các pháp là tịch diệt không thể diễn tả bằng ngôn từ.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Sinh sinh (—) không thể nói được cho đến bất, sinh bất sinh(—) cũng không thể nói được. Một giáo đã không thể nói được thì nói chi đến bốn giáo?”
Đáp: “Lý luận là như thế, đều không thể nói được nhưng khi dùng duyên làm lợi cho người và vật, vì có nhân duyên nên có thể nói được. Sanh sanh không những nói được mà cho đến bất sanh, bất sanh cũng nói được”.
b/3/2/1/1) NGHĨA CỦA QUÁN THẾ ÂM TRONG TAM TẠNG GIÁO
Phật giáo là pháp môn thoát khổ sinh tử. Với Tam tạng giáo như Đại Trí Độ Luận dẫn chứng, Ca Chiên Diên(—) hiểu nghĩa của Bồ tát. Lúc đầu Đức Thích Ca là người thợ gốm vì trước đây Phật Thích Ca có phát nguyện, cứ như thế mà phát tâm Bồ tát. Đó là pháp của những người tu hành cầu Bồ đề, rất chán ghét khổ và tập, cầu mong diệt và đạo nên khởi tâm từ bi nguyện độ tất cả chúng sinh, tu hành lục độ(—). Hạnh và nguyện tương trợ cứu khổ ban vui. Như thế là sao? Tham danh là tập (—), vào đạo quỷ đói là khổ. Tu hành bố thí gọi là đạo, dừng lòng tham gọi là diệt. Bồ tát là người có thể hàng phục được lòng tham muốn, có tâm bi ban cho muôn vật. Chúng sinh xưng danh thì được cứu khổ. Tự tu hành bố thí, lấy từ tâm ban cho muôn vật. Muôn vật [được lòng từ tâm đó đáp ứng nên ] được cứu độ, [bô tát] liền thị hiện và ban an lạc. Vì vậy nên biết rằng Bồ tát làm trọn lời nguyện để tu bố thí, cho đến ngu si gọi là tập, sanh vào cõi trời gọi là khổ. Tu tuệ gọi là đạo, điều phục sự ngu si gọi là diệt. Tu tuệ đến lúc có thể tự phá khổ và tập, thành tâm bi đối với chúng sinh. Chúng sinh xưng danh tức được giải thoát.Tự chứng đạo và diệt thành tâm từ làm lợi cho chúng sinh. Chúng sinh có cảm thì có ứng để được cứu độ. Nên biết rằng việc làm đầy đủ như thề nguyện.
Khi hành lục độ còn tùy hoàn cảnh như chuyện Thi Tì Ni Vương(…) bố thí thịt mình cho bồ câu, đó là bố thí viên mãn. Cũng như Tu Ma Đề Vương(…)vì giữ giới không vọng ngữ nên gọi là trì giới viên mãn. Dù bị Ca Lợi Vương(…)cắt thân nhưng vẫn bất động, đó là nhẩn nhục viên mãn. Câu chuyện Đại Thí thái tử(—) vào biển [tìm châu] gọi là tinh tấn viên mãn. Xà lê(…) tọa thiền định viên mãn. Cù Tấn (…)đại thần chia đất được bát nhã viên mãn. [Đức Phật] Tu hành như vậy cho đến sơ a tăng kỳ kiếp cũng không biết thành Phật hay không thành Phật. Đến a tăng kỳ kiếp thứ hai trong tâm đã biết sẽ thành Phật nhưng miệng không nói ra. Đến a tăng kỳ kiếp thứ ba, tâm biết, miệng nói sẽ thành Phật. Qua ba a tăng kỳ kiếp và trải qua hàng trăm kiếp, tu một trăm phúc mới thành một tướng, phải tu thành ba ngàn hai trăm phước, mới thành 32 tướng đại nhân, gọi là Bồ tát ma ha tát nhưng chỉ điều phục được mê hoặc mà chưa đoạn được mê hoặc như con dê chưa hẳn là mập. Lấy thể trí làm bát nhã là như vậy. Dùng quả vị Bồ tát hạnh để so sánh với quả vị Thanh văn thì sơ tăng kỳ có thể đối với tổng biệt niệm xứ (…). A tăng kỳ thứ hai đối với noãn pháp(—). A tăng kỳ thứ ba đối với đỉnh pháp(…)Trăm kiếp các tướng đối với nhẫn pháp. Khi ngồi đạo tràng đắc đạo thì tương đương với thế đệ nhất vị. Đoạn kiết sử ba mươi bốn tâm (90) thành Phật, tức sánh với 16 chân phát tâm cho đến chín giải thoát quả vị và dạt đến vô học quả vị. Lúc ngồi đạo tràng cho đến đoạn hoặc 34 tâm, chánh [sử và kiến tư] tập [khí] đã diệt tận thì gọi là Tam tạng Phật.
Các môn đồ thuần thục theo sự tinh tiến của Đức Thích Ca, vì Ngài tinh tiến nên qua chín kiếp, vượt tám tướng thành Phật. Đây chính là giáo thuyết của tam tạng giáo đưa ra. Trong quả vị bổ xứ, trải qua bao nhiêu các tướng ở hàng trăm kiếp, đã điều phục được hoặc ở thân sau cùng, hạnh lục độ hoàn thành, thệ nguyện viên mãn, từ bi cứu khổ ban vui cho chúng sinh. Dựa vào đây mà nói thì pháp do nhân duyên sinh vẫn rõ ràng là trí thế gian, đó là nghĩa Quán Thế Âm của Tam Tạng giáo.
Hỏi: “Theo Tam Tạng giáo thì Đức Thích Ca và Bồ tát Di Lặc phát tâm cùng một lúc, trải qua chín kiếp, tại sao hai vị không đều thành Phật trong hiền kiếp?”
Đáp: “Đức Phật Thích Ca đã cung dưỡng đầy đủ Đức Phật Phất Sa (…) một trăm kiếp. Vì Đức Di Lạc cung dường chư Phật chưa đủ chỉ có chin mươi mốt kiếp thôi?
Hỏi: Nếu như vậy thì chưa có đúng cái nghĩa trăm kiếp?
Xin trả lời: Dựa vào pháp môn này là có đủ trăm kiếp vì có sức tinh tiến siêu việt.
b/3/2/1/2) NGHĨA CỦA QUÁN THẾ ÂM TRONG THÔNG GIÁO
Thông giáo là, như kinh Đại Bát Nha nói: Người trong tam thừa cùng lấy đệ nhất nghĩa đế thuyết đạo vô ngôn, đoạn phiền não nhập Niết bàn, cũng là dùng một lý mà quán đoạn hoặc, thông (với Tạng giáo) cũng gọi là giáo lý bát nhã nhưng thật ra khác với Tam Tạng giáo. Đại Trí Độ Luận nói: Lấy tâm bất tịnh tu hạnh bồ tát thì cũng như lấy cái bát có chất độc để đựng thức ăn, ăn vào thì chết. Bố thí thì có thượng trung hạ [đẳng cấp]. như xả bỏ tiền tài thân mạng. Dũng sĩ và liệt nữ cũng có thể xả thân được. Đã được gọi là bố thí cấp trung chưa? Đó là viên mãn bố thí cấp trung nhưng không phải là bố thí ba la mật., Không thấy năng sở [kẻ cho, người nhận], tài vật, cả ba thứ đều không, không tham, không thí. Đây thật là bố thí ba la mật. Cho đến không ngu không trí, không vướng mắc, không trí tuệ gọi là bát nhã chân thật không có cái trí thế gian. Đại Trí Độ Luận nói: Nếu không tin vào Không, tất cả đều hỏng hết. Vì tất cả những điều tu hành đều không đúng với lý. Nếu tin tất cả pháp là Không, thì tất cả điều tạo tác đều dựa vào [pháp] không nên có thể thành tựu tất cả các pháp. Nên biết là khi đã hiểu được cái tuệ của Không thì sẽ được tất cả các pháp. Hơn nữa chư bồ tát phải qua vô lượng kiếp tu hành đâu phải chỉ ba a tăng kỳ, như vậy là đã phá bao nhiêu thứ mà tam tạng giáo thiếu sót, làm hiển dương Thông giáo của Đại thừa. Kinh Đại Bát Nhã nói: Bồ tát phát tâm nếu tương ứng với nhất thiết chủng trí thì đây là quán chân đoạn kiết sử tương ưng với lý. Từ khi phát tâm liền quán tâm đoạn kiết sử nên gọi là bồ tát, đó chỉ là giả nhân. Cái gọi là quán chân tức là pháp, thường cùng từ bi phát khởi, tự đoạn khổ tập và tu đạo diệt, cũng là lấy lòng từ bi nguyện đưa chúng sinh ra khỏi khổ tập mà đến đạo diệt. Biết được chư pháp như huyễn như hóa, bất sanh bất diệt thì tam sự(…) đều tiêu tán trong hạnh bố thí, cho đến không chấp trước tất cả các pháp, nên gọi là bát nhã. Lấy những hạnh để làm đầy đủ thệ nguyện tức có thể phá tứ trụ hoặc(91) thấy được đệ nhất nghĩa, tức tam thừa gồm có thập địa, đó cũng là kiền tuệ địa(…)cho đến Phật địa. Nếu đem thập địa so sánh với Thanh văn thừa, thì kiền tuệ địa tương ứng với tổng biệt niệm xứ(…). Tánh địa tương ứng với tứ thiện căn vị (92), bát nhân địa(—) tương ứng với bát nhẫn vị (…), kiến địa (94) tương ứng với sơ quả, bạc địa(95) tương ứng với nhị quả, ly dục địa(—) tương ứng với tam quả, dĩ biện địa(—) tương ứng với tứ quả, Bích chi Phật địa tương ứng với Bích chi Phật vị. Bồ tát địa ra ngoài giả phương tiện quán và đạo đi song song để đoạn trừ chánh sử và hơi hám tập khí đến Phật địa thì dứt hẳn [tập khí]. Vì vậy Đại Trí Độ Luận nói: Người dù đã tận phiền não nhưng tập khí chưa tận. Vì vậy các bồ tát nguyện giữ tập khí để trở lại tam giới làm lợi ích chúng sinh, thanh tịnh Phật độ, không như Bồ tát của tam tạng giáo chỉ điều phục được mê hoặc và tu hành lục độ hạnh mà thôi. Các bồ tát này tu hành đoạn mê hoặc nhưng các dư tàn chưa tận như một làn khói nhỏ, lại lấy từ bi ngũ đạo(—) thị hiện độ muôn vật. Nếu chúng sinh xưng danh thì thấy cảm ứng, tức có thể cứu khổ ban vui, và được cứu độ. Đó là Thông giáo tùng giả nhập không (..), cũng gọi là nhất thiết trí. Đó cũng là nghĩa của Quán Thế Âm Thông giáo.
b/3/2/1/3) NGHĨA CỦA QUÁN THẾ ÂM TRONG BIỆT GIÁO.
Biệt giáo thì khác với Thông giáo. Biệt giáo hiểu bát nhã không giống như Thông giáo nên gọi là Biệt. Biệt giáo này tuy hiểu về Trung đạo nhưng là cái hiểu do cách giảng phương tiện dành cho những người độn căn, hiểu lý theo thứ lớp qua nhiều kiếp tu hành. Nên kinh Đại Bát Nhã nói: “Có Bồ tát từ sơ phát tâm, thần thông chu du thanh tịnh Phật độ, tuần tự tu tập hằng hà sa số pháp môn giúp cho việc hiểu được lý Trung đạo. Trước hết phá tứ trụ, sau phá trần sa hoặc, sau cùng là phá vô minh.” Thập tín vị (—) nói chung có thể điều phục các hoặc, nhưng việc chính là điều phục được tứ trụ. Thập trụ vị (—) nói chung điều phục được các hoặc nhưng việc chính cũng là đoạn trừ tứ trụ thành tựu nhất thiết trí. Thập hạnh vị (—) ra khỏi Giả, đoạn được vô tri (—) thành tựu đạo chủng trí và điều phục được giới ngoại trần sa hoặc (—). Thập hồi hướng (…) vị đoạn giới ngoại trần sa hoặc, thành đạo chủng trí chánh tu trung đạo, điều phục vô minh. Thập Địa(…)vị đoạn vô minh, thấy Phật tánh, Thành tựu nhất thiết chủng trí. Thí dụ như nấu vàng thì trước tiên lọc cặn bã sau đó mới chảy ra vàng. Đoạn kiết sử lần lượt cũng như vậy. Bồ tát phát tâm, trì pháp, từ bi tu hành, tự đoạn vô minh, thành tựu chân ứng, phát đại thề nguyện, lấy từ bi xông ướp pháp giới.
Chúng sinh cơ cảm tức thì được cứu khổ ban vui. Đây là từ Không quán ra Giả quán, thuộc đạo chủng trí, đó là nghĩa Quán Thế Âm của Biệt giáo.
b/3/2/2) Nhất tâm tam quán [ chia làm hai điểm: b/3/2/2/1) Nghĩa của Quán Thế Âm trong Viên giáo, b/3/2/2/2) Quán tâm]
b/3/2/2/1) NGHĨA CỦA QUÁN THẾ ÂM TRONG VIÊN GIÁO
Viên giáo hiểu rõ trung đạo không vướng vào hai bên, phi không, phi giả, phi nội, phi ngoại, mà quán chúng sinh khắp mười pháp giới như hình trong gương, trăng trong nước, không ở trong, không ở ngoài, không thể nói là có, không thể nói là không có, rốt ráo phi thực nhưng lý tam đế thì có đầy đủ, không trước không sau mà trong một tâm, là một mà nói thành ba, lấy ba để nói một. Cái quán trí là như vậy, lý của các đế cũng như vậy. Một đế là ba đế ba đế là một đế (…). Kinh Đại Bát Nhã nói: Có Bồ tát từ sơ phát tâm tọa đạo tràng, chuyển pháp luân, độ chúng sinh, tức là lúc sơ phát tâm đã quán đầy đủ tam đế và tất cả Phật pháp,
tâm đầy đủ vô duyên từ bi, tu vạn hạnh ba la mật, vào quả vị thập tín thiết luân mà có thể vĩnh viễn ra khỏi biển khổ luân hồi. Các hoặc của tứ trụ tận diệt, sáu căn được thanh tịnh (104), gọi là tự giải(…), vào thập trụ đồng luân (..), sơ tâm tức phá được vô minh, khai phát thực tướng, tam trí xuất hiện, một thân biến hóa vô lượng thân Như Lai cảm ứng được tất cả tức là khai, thị, ngộ, nhập tất cả tri kiến Phật. Kinh văn nói: “Bỏ hẳn pháp phương tiện chỉ thuyết vô thượng đạo”. Kinh lại nói rằng: “Nay vì ngươi mà nói việc chân thật nhất, tức là Viên giáo, đó là chân lý đúng nhất, tam quán tại nhất tâm”. Kinh Đại Bát Nhã nói: “Nếu nghe môn quán chữ A (…) tức hiểu tất cả nghĩa”. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Cả hai sơ phát tâm và phát tâm sau cuối không khác nhau”. Như vậy với hai tâm này thì cái phát tâm trước là khó nên phải kính lễ việc sơ phát tâm, nghĩa là như vậy. Tri kiến này gọi là Phật tri và Phật kiến, tức là biết nhất thiết chủng trí, là cái biết của Phật nhãn. Cái thấy của Phật nhãn và cái trí của Phật trí, chiếu sáng tất cả các pháp, từ nghĩa thù thắng mà gọi tên. Thí dụ như tất cả nước các sông ngòi chảy vào biển cả thì mất tên cũ. Đại Trí Độ Luận nói rằng: “Mười trí vào trí như thật, không còn giữ tên cũ mà chỉ gọi là trí như thật”. Nhãn cũng như vậy, ngũ nhãn đầy đủ tức khi thành Bồ đề, nên chỉ gọi là Phật nhãn mà thôi. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Người học Đại thừa tuy có nhục nhãn nhưng đó là Phật nhãn. Nhưng nếu nói về Tiểu thừa thì tuy rằng có tuệ nhãn nhưng chỉ là mắt trần mà thôi. Nếu có thể hiểu như vậy, cái gọi là nhân pháp của Viên giáo. theo vô tác tứ đế mà sinh khởi vô duyên từ bi, tu định tuệ không hai (bất nhị) thành chân ứng hai thân. Chân thân đi cùng khắp pháp giới, như dược châu cung ứng cho tất cả. Ngang dọc ứng phó với các cơ duyên, mang lại ẩn hiện cả hai lợi ích, lấy cái bảo tạng kim cương bát nhã không khiếm khuyết, nhổ tận gốc [vô minh để] đưa đến giải thoát, lấy tướng uy nghiêm của pháp giới Thủ Lăng Nghiêm(…),đưa đến cái an lạc tự tại ba điểm của Niết Bàn(105) gọi là quán nhất thiết chủng trí Trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Đó là ý nghĩa của Quán Thế Âm của Viên giáo.
Hỏi: “Cái quán chúng sinh phi không, phi hữu này đâu là hạnh từ bi?”.
Đáp: “Như kinh Duy Ma Cật nói” (,,,).
Lại hỏi: “Nếu quán mười pháp giới phi không, phi giả thì có phải rằng đã phá tất cả [luật] nhân quả?”
Đáp: “Nếu không hiểu Trung Đạo tức không biết cái phi quyền và phi thực, cũng không biết vô quyền và vô thực tức, không biết bốn loại nhân quả(…).”
Nếu hiểu Trung đạo thì hiểu rằng quyền thật soi sáng lẫn nhau, đạt được ba loại khổ tập nhân quả và ba loại đạo diệt nhân quả của quyền tứ đế cho đến nhất thật vô tác tứ đế, thế và xuất thế nhân quả, hiển nhiên đầy đủ trong một niệm tâm. Vì sao vậy? Vì lấy thực tướng của tuệ giác để hiểu rằng tất cả pháp đều phi không, phi hữu nên gọi là Phật bảo, cho nên hiểu được cái lý của pháp tánh là đầy đủ tam đế, đó là Pháp bảo. Lấy cái giác tuệ và lý sự(106), hợp lại thì có tên là Tăng bảo. Sự hòa tức là sự hòa hợp của tất cả thánh hiền tăng trong tam giáo. Lý hòa tức có thánh tăng(—) của 42 quả vị thuộc Viên giáo.Nên kinh Vô Lượng Thọ nói về ánh trăng lúc sáng lúc mờ mà đưa ra hai thí dụ: Trước ngày rằm ánh trăng lớn dần và sáng hơn. Sau ngày rằm ánh trăng lu mờ và nhỏ đi, nhưng tánh thật của trăng không méo không tròn nhưng khi nhìn ngắm thì trước sau quả là có tròn có khuyết. Tánh của trăng tròn tỉ dụ như thật tướng. Ánh sáng [của trăng] khi tăng khi giảm tỉ dụ như trí đoạn. Ánh sáng trí quang tăng gia thì các pháp không sinh, đó là lúc bát nhã sinh. Khi đoạn quang giảm chư pháp không diệt nhưng phiền não diệt. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói: “Vô minh là minh”, nên biết rằng đó là dùng thí dụ để nói lên cái tà quang đang bị diệt trừ. Cái sáng tối này là việc xảy ra hằng ngày. Vì vậy [42 địa] địa nào cũng có trí đoạn đầy đủ. Như trăng tròn sáng trong ngày rằm tức cái tròn và cái sáng của trăng đã đầy đủ. Nghĩa là mặt trăng không thể tròn và sáng hơn nữa. Chỗ này thí dụ cho lý Trung đạo viên mãn, trí Bồ đề đã đến cực độ nên nói là bất sinh, bất sinh chính là đại Niết Bàn. Đến ngày thứ 30 hình dáng trăng và ánh sáng thu nhỏ đến tận cùng không còn thu nhỏ được hơn nữa, đây thí dụ cho vô minh đã được trừ khử đến chỗ tận cùng, không còn cái mê hoặc nào có thể đoạn được nữa nên nói là bất diệt, bất diệt đó chính là đại Niết Bàn. Ngày mùng ba của tháng thí dụ cho ba mươi tâm trí đoạn, ngày thứ 10 thí dụ cho Thập Địa trí đoạn, ngày thứ 14 thí dụ cho Đẳng giác trí đoạn, ngày 15 thí dụ cho Diệu giác trí đoạn. Kinh Nhân Vương, kinh Thiên Vương và các kinh Bát Nhã thì lây ngày thứ 14 thí dụ là bát nhã, cũng trong ý này. Nếu hiểu rằng tất cả trí đoạn của tăng bảo đều dựa vào pháp nhất thực tướng của Trung đạo thì tất cả nhân quả không thể bị phá mất. Nếu không hiểu rõ Trung đạo là phi không phi giả mà chỉ dựa vào cái kiến đoạn thường(…) thì tức là phá sinh diệt tứ đế, phá cái nhân quả tại thế và xuất thế, phá tam tạng tam bảo. Nếu chỉ thuyết về vô thường sinh diệt thì tức là phá vô sinh tứ đế, đó là Thông giáo tam bảo. Nếu chỉ thuyết thể pháp [nhập không], [tức phá] bất sinh bất diệt chân đế, tức phá vô lượng tứ đế của tam bảo thuộc Biệt giáo. Nếu chỉ thuyết cái thứ đệ để hiển rõ cái phi không, phi giả. Đây là phá vô tác tứ đế nhất thể tam bảo thuộc Viên giáo.
Nếu lần lượt xem xét những cái phá [từ Tạng giáo đến Viên giáo] thì những cái phá ở phần đầu vẫn còn thiếu sót rất nhiều, những cái phá về sau thì ít khiếm khuyết và có thể vừa ý hơn.
Hỏi: “Nếu Viên giáo tu thật tướng, nhất pháp tam đế(..), nhất tâm tam quán(—) đầy đủ tất cả các pháp thích ứng với việc bốn giáo lý vào một giáo lý, thì nên nói Viên giáo là đã đủ. Đâu cần chia ra tứ giáo như trên làm chi?”
Đáp: “Chương mở đầu nói: “Thứ đệ tam quán(—), nhất tâm tam quán hiểu rõ giáo pháp cũng có hai cách hiểu. Nếu một giáo có đủ tất cả các pháp thì giúp cho người lợi căn. Nếu chia làm tứ giáo khác biệt nhau thì có lợi cho kẻ độn căn. Nếu chúng ta không mượn cách phân biệt tiệm thứ và viên đốn thì làm sao mà giải thích được. Dùng Biệt giáo để làm sáng tỏ Viên giáo thì trước hết phải nói rõ tứ giáo. Tuy rằng thuyết đạo này đạo kia nhưng thật ra chỉ có một thừa mà thôi. Những pháp thâm sâu khác của Như Lai là những pháp mang lại lợi ích và làm chúng sinh hoan hỷ. Những pháp đó là ba phương tiện pháp để dẫn đường và mở đường vào đạo viên không. Nếu nhập Phật tuệ thì phương tiện đều trở nên vô dụng, nên nói rằng chỉ một sự thật(…), nếu nói hai thì là dư thừa, không phải thật.
Nên biết chỉ có một giáo pháp viên đốn, nhất thiết chủng trí, trung đạo chánh quán mà thôi. Đây mới thật là Quán Thế Âm, còn tất cả những cái còn lại chỉ là pháp phương tiện.
Hơn nữa, nếu nói quyền nói thực cũng là dùng phương tiện mà nói. Phi quyền, phi thực, ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, không thể thuyết giảng. [Quyền] Bất sanh và [thực cũng] bất sanh, diệu ngộ khế hợp với lý, nên gọi là chân. Đây cũng là vô thật mà cũng là thật.
b/3/2/2/2) QUÁN TÂM
Sau đây thì nói rõ về quán tâm. Nguồn tâm vốn thanh tịnh, vô vi và vô số, không một không hai, không sắc không tướng, không méo không tròn. Tuy giác tri mà cũng là vô giác tri, Khi khởi niệm, khi chưa khởi niệm, bốn lần kiểm tâm (…), sau cùng không thể được thì làm sao có thể theo thứ đệ hay là không theo thứ đệ, tròn đầy hay là không tròn đầy để mà quán tâm đâu? Vì chẳng khác gì như hư không, cái tâm tánh này sau cùng là vô tâm. Nếu có nhân duyên thì tất nhiên minh tâm, cái luận bàn về tâm này chẳng qua chỉ là phương tiện quán xét mà thôi. Thí dụ như hư không có hai thời âm dương, tâm cũng như vậy. Tuy không tròn không méo nhưng khi luận về nó thì cũng có tiệm, có đốn. Nếu muốn quán tâm theo thứ đệ thì đó là phương tiện tiệm thứ (…) để hiểu [về tâm]. Nếu quán tâm, đầy đủ tam đế tánh đức và tam quán tánh đức và tất cả pháp, không có trước, không có sau, không có thứ đệ, tất cả đầy đủ trong một niệm. Trong thập pháp giới, có ngàn loại tánh tướng và có nhân duyên sinh ra pháp. Tức Không, tức Giả tức Trung. Ngàn loại tam đế, vô lượng vô biên pháp đầy đủ trong một tâm. Đây là lối quán không theo thứ đệ. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Trong tất cả thế gian không có gì mà không từ tâm tạo ra”. Tâm như một người thợ vẽ tạo ra nhiều loại ngũ ấm.. Nếu quán tâm-không(110) thì tất cả những gì do tâm tạo đều là không. Nếu quán tâm-hữu(…)thì tất cả những gì do tâm tạo đều là có. Nếu tâm nhất định là có thì không thể nói là không. Nếu tâm nhất định là không thì không thể nói là có. Với cái bất định không (…) này thì không tức phi không. Với bất định hữu(…) này thì hữu tức phi hữu. Phi không, phi hữu mà không rơi vào hai bên thì gọi là trung đạo. Nếu quán tâm phi không, phi hữu tức tất cả pháp đều từ tâm sinh ra thì pháp cũng là phi không, phi hữu. Như vậy tất cả pháp đều tại tâm. Nếu có thể quán tâm như vậy thì gọi là thượng thượng quán, đắc được Bồ đề của chư Phật. Kinh Tịnh Danh nói: “Quán thật tướng của thân, quán Phật cũng như vậy”. Nếu quán thân tướng như là quán Phật. Quán tâm tướng cũng như là quán Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Tâm, Phật, và chúng sinh cả ba không sai khác”. Nên phải biết rằng quán nguồn tâm này tương đương với Như Lai. Nếu quán tâm cách khác thì tất cả cách quán đó cũng chỉ là phương tiện, gọi là tà quán. Nếu quán một cách viên mãn như trên thì mới là chân thật chánh quán tức khai Phật tri kiến, ngồi tòa Như Lai. Từ Bi như vậy tức vào được nhà Như Lai. An tâm học theo pháp này thì tức là mặc áo Như Lai. Tu cách tuệ quán này thì đó là trang nghiêm Như Lai. Người này khi đi đứng ngồi nằm đều xứng đáng xây tháp mà thờ. Sống như Như Lai, cách quán tâm này gọi là quán Phật tâm.
2B) BIỆT THÍCH DANH VỀ PHỔ MÔN: [chia làm 2 phần a) NÓI VỀ ĐƯỜNG LỐI VÀ GIÁO MÔN, b) BIỆT THÍCH DANH VỀ PHỔ MÔN ĐỐI CHIẾU VỚI THẬP NGHĨA] :
a)Nói rõ về những đường lối và giáo môn. b) Nói về những đường lối và môn phái qua thập nghĩa.
a)NÓI RÕ VỀ ĐƯỜNG LỐI CỦA CÁC MÔN PHÁI [lại chia là 6 điểm: a/1)Liệt tên giáo môn, a/2) Nói về giáo tướng, a/3), nói rõ quyền và thực. a/4) nói rõ phổ quát hay không phổ quát. a/5) Hiểu rõ tứ tùy. a/6) hiểu rõ quán tâm.]
Lại được chia làm 6 điểm: a/1)Liệt tên giáo môn, a/2) Nói về giáo tướng, a/3) Nói về quyền thật, a/4)Nói về phổ và bất phổ, a/5) Nói về tứ tùy a/6)Nói về quán tâm.
Đường lối và môn phái lại có 6 điểm 1) Liệt kê tên của các môn phái, 2) Nói về tướng của các môn phái. 3) nói rõ quyền và thực. 4) nói rõ phổ quát hay không phổ quát. 5) hiểu rõ tứ tùy. 6) hiểu rõ quán tâm.
a/1) LIỆT TÊN CÁC GIÁO MÔN
Liệt kê tên môn phái. Theo nghĩa của thế gian thì thông có nghĩa như một cửa ngõ đưa đến nơi cư ngụ của người quý phái hay đê tiện. Người phàm lấy thập ác ngũ nghịch làm cửa ngỏ đưa đường về tam đồ. Người thánh thiện thì lấy ngũ giới, thập thiện, tứ thiền, tứ định làm cửa ngõ đưa đường vào cõi nhân thiên. Ngoại đạo lấy đoạn thường làm cửa ngõ đưa đến mê hoặc và đau khổ. Tham ái thì lấy bốn loại điên đảo làm cửa ngõ. Kiến [hoặc] lấy tứ cú làm cửa ngỏ. Thiện ác tuy dựa vào ngôn ngữ khác nhau nhưng cũng đều là pháp môn hữu lậu, thuộc thế gian, đưa đến sinh tử.
Nói về pháp môn trong Phật pháp thì cũng có rất nhiều. Tam Tạng tứ môn(…) đưa đến hữu dư, vô dư Niết Bàn. Thông giáo tứ môn(…) gần thì đến hóa thành, xa thì đến thường trụ. Biệt giáo tứ môn(…) tiệm thì đến thường trụ. Viên giáo tứ môn(…) đốn thì đến thường trụ. Như vậy bốn loại 46 giáo môn (…)này cũng có 16 quán môn(…), hợp lại là 32 môn(…). Có thể thông qua nghĩa [của các giáo môn] để phân biệt tướng môn.
a/2) NÓI VỀ TƯỚNG MÔN
Nói về tướng môn.
Tam Tang giáo lây A tỳ đàm làm hữu môn (..), lây Thành Thật Luận làm không môn (..), lây Côn lặc làm diệc hưu diẹc không môn. Lấy Xa nặc (..) làm phi không phi hữu môn (..). Nó rõ từng điểm một về hành pháp, phan định rõ các quả vị: hiền vị, thánh vị.
Do pháp môn đưa đến ly [của giáo môn đó]. Thông giáo tứ môn nói đến huyển hữu, huyển không, cũng không, cũng hữu, phi không, phi hữu. Nói rõ từng điểm một về hành tướng, phân định các hiền vị, thánh vị.
Do pháp môn mà thông lý. Biệt giáo tứ môn quán Phật tánh như bình chậu (…) trong phòng tối tức hữu môn. Quán Phật tánh như thành Ca-tỳ-la trống (…) không tức vô môn. Nếu quán Phật tánh như vàng trong đá thì người có phúc như được báu vật, nhưng với người có tội thì chỉ xem như cục đá. Đó là diệc hữu diệc vô môn. Nếu quán Phật tánh lìa hai bên thì đó là Trung đạo, tức phi hữu, phi vô môn.. Từng điều một từ hành tướng phân định quả vị.
Do pháp môn mà thông lý. Viên giáo tứ môn không phân biệt tên. Một môn là ba. Ba môn là một. Không một, không bốn, không có gì khác biệt nhau, viên dung tuy không phải bốn nhưng là bốn. Phán xét từng cái một tướng hành vị bất tư nghi này, từ môn mà thông đạt lý, nghĩa này cũng có nơi kinh Vô Lượng Thọ.
a/3) NÓI VỀ QUYỀN VÀ THỰC
Sau đây luận về quyền và thực của các môn. Giáo quán của Tam tạng và Thông giáo có 16 môn năng thông và sở thông đều là quyền. Giáo quán Biệt giáo năng thông là quyền, sở thông là thật. Tám môn quán giáo của Viên giáo năng thông và sở thông đều là thật. Tất cả đều dựa vào huyền nghĩa.
a/4) NÓI VỀ PHỔ QUÁT VÀ BẤT PHỔ QUÁT.
Sau đó nói rõ về phổ qrát và không phổ quát.
Nếu phàm phu ngọai đạo theo tất cả các lối nhìn về kiến hoặc và ái thủ thì tam giới còn chưa ra khỏi được, làm sao mà nói là phổ quát.
Tam tạng giáo và Thông giáo tuy có thể đến được hóa thành nhưng cũng chưa có thể đúng nghĩa là phổ cập. Biệt giáo tiệm thông cũng chưa phải là phổ.
Chỉ có giáo quán của Viên giáo về pháp môn thật tướng có thể khắp mười pháp giới, hàng ngàn tánh tướng, tam đế nhất thời viên thông, Trung đạo viên thông, song chiếu nhị đế, thì được gọi là phổ môn.
Hơn nữa như kinh Tịnh Danh nói: “Nhập bất nhị môn, tuy sinh tử và Niết Bàn là hai mà không dựa vào sinh tử và Niết bàn, thì gọi là bất nhị nhưng cũng không phải là một (bất nhất).
Hỏi: “Tại sao vậy?”
Đáp: “Đã ra khỏi cái hai thì là ở trong cái một. Khi không phải một thì là hai. Như thế không phải là bất nhị sao? Nay không ở tại hai nên gọi là không một cũng không hai, cũng gọi là bất hữu bất vô. Bất hữu phá cái Giả. Bất vô phá cái Không. Bất hữu là phá cái hai, bất vô phá cái một. Nếu như vậy, ứng hợp với trung đạo, trung đạo cũng là Không. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Minh và vô minh tánh của nó không hai”. Cái tánh bất nhị chính là Trung đạo. Trung đạo là Không, ở hai bên thì cái không này cũng là không. Nên gọi là không không không, nên gọi là bất khả đắc không, đó là nhập bất nhị pháp môn, đó chính là Viên giáo dựa vào không môn chỉ rõ ý nghĩa của Phổ môn.
Những Bồ tát ở địa thứ 31 thuyết bất nhị môn. Ngài Văn Thù thuyết cái không thuyết (..) là bất nhị môn. Kinh Tịnh Danh: Im lặng đó là bất nhị môn. Nếu xem kỹ những đoạn kinh văn đó đều có nghĩa tứ môn. [Tăng] Triệu(—) pháp sư nói rằng: “Các Bồ tát từng nói pháp tướng đó tức là hữu môn. Ngài Văn Thù nói trong cái không nói, đó tức là không môn.” Kinh Tư Ích Phạm Thiên(—) nói rằng: “Tất cả pháp đều là chánh, tất cả các pháp đều là tà”, đó cũng là ý nghĩa Phổ môn. Đi khắp pháp giới như vào cõi hư không, đó cũng là không môn và hữu môn. Kinh Tịnh Danh nói cái không nói tức pháp môn phi không, phi hữu môn.
Phẩm Tứ Thập Nhị Tự trong kinh Đại Bát Nhã từ chữ A đứng đầu, chữ Trà đứng cuối, ở giữa có 40 chữ, chữ nào cũng đều đầy đủ công đức của chữ ấy. Đây cũng là bất nhị Phổ môn.
Phẩm Phương Tiện nói: “Môn trí tuệ khó hiểu và khó vào”. Phẩm Thí Dụ nói: “Chỉ có một môn hẹp và nhỏ”. Nhiều kinh nói rõ pháp môn thật lý chính là ý nghĩa Phổ môn.
a/5) NÓI VỀ TỨ TÙY và a/6) NÓI VỀ QUÁN TÂM.
Tứ Tùy và Quán tâm đều có nói trong kinh Vô Lượng Thọ [Nên không tường thuật ở đây].
b) BIỆT THÍCH DANH VỀ PHỔ MÔN ĐỐI CHIẾU VỚI THẬP NGHĨA [b/1) Thập nghĩa đối chiếu với tự hành và hóa tha, b/2) Thập nghĩa đối chiếu với phổ môn]
b/1)THẬP NGHĨA ĐỐI CHIẾU VỚI TỰ HÀNH VÀ HÓA THA [b/1/1) Tự hành, b/1/2) Hóa tha, b/1/3) Có cả hai nghĩa tự hành và hóa tha]
Thứ hai, giải thích riêng biệt về Phổ môn.
Cái lý rốt ráo không phải là số lượng mà là theo duyên để làm lợi ích cho muôn vật, có khi gọi là số một, số hai hoặc đến vô lượng số. Nhiều hay ít vẫn thích nghi trong mười nghĩa, đó là :
b/1)Thứ nhất là từ bi phổ, b/2) Thứ hai, hoằng thệ phổ. b/3) Thứ ba, tu hành phổ, b/4) Thứ tư, đoạn hoặc phổ, 5) Thứ năm, nhập pháp môn phổ, 6) Thứ sáu, thần thông phổ, 7) Thứ bảy, phương tiện phổ, 8) Thứ tám, thuyết pháp phổ, 9) Thứ chín, cúng dường chư Phật phổ, 10) Thứ mười, thành tựu chúng sinh phổ.
Đi qua các phổ môn này tức là hoàn tất các pháp. Mười phổ môn này đều là pháp tu hành phước đức trang nghiêm. Năm chương đầu nói về tự hành. Ba chương kế tiếp nói về hóa tha. Hai chương sau cùng đúc kết hai ý kể trên. Trong tự hành, bốn điều đầu là tu nhân, một điều sau là hiểu rõ về quả. Tu nhân lại chia làm hai phần: Hai điều đầu là nguyện. Hai điều sau là hành. Nói chung nó làm khởi sinh:
b/1/1) TỰ HÀNH [1) Từ bi phổ, 2) Hoằng thệ phổ. 3) Tu hành phổ, 4) Đoạn hoặc phổ, 5) Nhập pháp môn phổ,]
b/1/1/1) TỪ BI PHỔ:
Bồ tát thấy tất cả chúng sinh khổ não nên khởi sinh đại từ bi. Tâm này tuy chưa phải là tâm Bồ đề nhưng có thể làm cho Bồ đề tâm phát sinh.
Thí dụ như đất và nước tuy không phải là hạt giống nhưng có thể làm hạt giống nẩy mầm. Nay vì đại bi mà tâm Bồ đề phát khởi thì cũng như vậy.
b/1/1/2) HOẰNG THỀ PHỔ
Sau nói đến thệ nguyện. Nếu chỉ vui với từ bi thì nhiều người sẽ thoái chuyển. Bồ tát lúc sơ phát tâm có ba điều như cá con, như hoa cây xoài, qua thời gian thì thành tựu rất ít vì lòng bất định. Vì vậy nên khởi thề nguyện để hy vọng cầm giữ tấm lòng đó chính là làm kiên cố bồ đề tâm.
b/1/1/3) TU HÀNH PHỔ
Nói về Tu Hành. Sau đây nói về tu hành. Nếu chỉ phát nguyện suông thì chẳng ích lợi gì như kẻ không tiền tài, không thế lực, không mưu cơ thì làm sao giúp người thoát khổ.
Bồ tát cũng như vậy phải có phúc đức, tiền tài, thần thông, trí tuệ, mưu cơ thì mới có thể hóa đạo. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trước nhất là phải an định, sau đó mới hành động, sau là dùng trí tuệ để cứu vớt người”. Tu hành làm trọn thệ nguyện, ý là như vậy.
b/1/1/4) ĐOẠN HOẶC PHỔ
Sau nói đến sự đoạn hoặc. Thành [Thật] luận nói rằng người phục đạo là vô ngại, đoạn đạo là giải thoát. Nói như trên thì tu hành chính là lấy sự vâng phục đạo làm nhân. Lấy sự đoạn mê hoặc làm quả của giải thoát đạo, như Tỳ Đàm nói rõ về vô ngại đạo trong một niệm tức đoạn. Làm thế nào dung hòa với thất giác (—) mà nói nghĩa điều phục được [mê] hoặc?. Lấy đường lối phương tiện điều phục vô ngại, đạo đoạn, chứng đạo giải thoát, dẫn chứng và giải thích theo Đại Trí Độ Luận: “Trong cái đang thực hành vô ngại đạo đó gọi là Bồ tát. Người đang thực hành đạo giải thoát đạo thì gọi là Phật”. Đây là dựa vào cứu cánh mà nói. Phật chứng tam-Bồ-đề, thì gọi là đạo giải thoát. Nếu như vậy tu hành là đường lối phương tiện, đoạn hoặc là đạo vô ngại, nhập pháp môn là đạo giải thoát. Theo đó mà lần lượt đi.
b/1/2) HÓA THA [ 6) Thần thông phổ, 7) Phương tiện phổ, 8) Thuyết pháp phổ ]
b/1/2/5) THẦN THÔNG PHỔ.
Tiếp theo, nói về thần thông. Nếu muốn hóa tha thì phải cần đến tam mật thần thông (…) để hiển thị sắc thân. Phương tiện là để hiển thị cái ý. Đồng tình thuyết pháp là để hiển thị miệng, tùy theo loại mà dùng âm thanh của loại đó. Đó là những thứ tự của sự hóa tha.
b/1/3) CÓ CẢ HAI NGHĨA TỰ HÀNH VÀ HÓA THA [9) Cúng dường chư Phật phổ, 10) Thành tựu chúng sinh phổ]
b/1/3/6) CÚNG DƯỜNG PHỔ
Cung dường Phật để đến kết quả tự hành. Cúng dường không phải chỉ là cúng dường hoa hương tứ sự, mà tùy thuận sự tu hành mới là pháp cúng dường tối thượng. Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu theo lời Ta tức là đã cúng dường Phật. Y theo giáo mà làm là đưa đến kết quả tự tu hành. “
b/1/3/7) THÀNH TỰU CHÚNG SINH PHỔ
Thành tựu chúng sinh thì đưa đến kết quả hóa tha. Trong tứ oai nghi của Bồ tát không quên chúng sinh hà huống vào các pháp môn thanh tịnh Phật độ thì tất cả đều vì làm lợi ích cho chúng sinh, nói tóm lại là hóa tha.
[nhập pháp môn phổ, phương tiện phổ, thuyết pháp phổ, ba điểm này không thấy nói trong đoạn nay ]
b/2) THẬP NGHĨA ĐỐI CHIẾU VỚI PHỔ MÔN [b/2/1) TỪ BI PHỔ, b/2/2) HOÀNG THỀ PHỔ , b/2/3) TU HÀNH PHỔ, b/2/4) ĐOẠN HOẶC PHỔ, b/2/5) NHẬP PHÁP MÔN PHỔ, b/2/6) THẦN THÔNG PHỔ, b/2/7) PHƯƠNG TIỆN PHỔ, b/2/8) THUYẾT PHÁP PHỔ, b/2/9) CÚNG DƯỜNG CHU PHẬT PHỔ, b/2/10) THÀNH TỰU CHÚNG SINH PHỔ]
b/2/1) TỪ BI [b/2/1/1)CHÚNG SANH TỪ PHỔ, b/2/1/2) PHÁP DUYÊN TƯ PHỔ, b/2/1/3) VÔ DUYÊN TƯ BI]
Giải thích tiếp theo trước hết từ nhân thiên cho đến quả vị thượng địa đều có từ bi. Lời này không ra khỏi chuyện có pháp duyên hoặc vô pháp duyên với chúng sinh. Nếu theo cái duyên với chúng sinh thì chúng sanh khác nhau và mang nhiều giả danh khác nhau. Nhân quả khổ lạc cũng khác nhau, chưa có thể vào được pháp duyên của từ thì làm sao gọi là phổ. Nếu pháp duyên không có người, không có ta, không có chúng sinh. Theo Giả vào Không thì cũng chưa đến được chỗ Giả danh huống chi là phổ. Nếu dùng lòng từ vô duyên, không dựa vào giả danh của 25 cõi, không dựa vào pháp của Niết Bàn nhị thừa, không dựa vào nhị biên. Tuy không nương vào gì cả nhưng có thể soi sáng cả hai Không và Giả. Nếu từ đó khởi tâm từ, đó là vô duyên từ. Tâm thông với tam đế mới gọi là phổ.
b/2/1/1)CHÚNG SANH TỪ PHỔ
Giải thích riêng biệt thì nếu tu theo chúng sanh duyên từ, quán pháp giới thấy chúng sinh chỉ là giả danh thì đó không gọi là phổ sao? Nay quán chúng sinh giả danh trong mười pháp giới, mỗi pháp giới đều có mười chủng tánh, tướng, và những bản mạt cứu cánh.
Mười pháp giới giao thoa với nhau thì có 100 pháp giới, 1000 loại tánh tướng ẩn trong tâm tuy không hiện tiền nhưng rõ ràng đầy đủ ở đó. Thí dụ như trên mặt một người có nét bình thản hay là lo âu, kẻ ngu không biết nhưng người thầy tướng nhìn thì biết ngay. Nay tánh tướng chúng sinh trong một tâm có đủ thì cũng như vậy.
Người phàm phần đông là điên đảo. Rất ít người không điên đảo, tuy có đầy đủ lý nhưng tình lại u mê. Thánh nhân có tri giác như cái biết của ông thầy tướng, biết ngàn loại tánh tướng này tất cả đều là pháp do nhân duyên sinh ra. Nếu là pháp do nhân duyên ác sinh ra thì là tánh tướng khổ cho đến khổ từ đầu đến cuối vì chưa giải thoát, nay quán cái khổ này mà khởi đại bi. Nếu quán pháp do nhân duyên thiện sinh ra, đó là tánh tướng lạc, cái lạc từ đầu đến cuối. Quán như vậy mà khởi đại từ. Như trong kinh Vô Lượng Thọ giảng vậy.
Nay dựa vào hai cảnh giới đầu và cuối [địa ngục và Niết Bàn] để hiẻu về tánh tướng. Tánh trong cảnh giới địa ngục cũng như thế, tánh đó không thay đổi, như tánh của cây tre có thể sanh ra lửa. Nếu nó không có tánh này, thì không thể tìm lửa trong tre, tìm nước trong đất, tìm gió trong quạt. Tâm có tánh của cảnh giới địa ngục thì cũng như vậy. Đó là tướng địa ngục.
Thấy thì biết được sự khác biệt thì đó gọi là tướng. Người biết quán tâm thì biết ngay tướng địa ngục, như ông thầy tướng giỏi biết tướng không hề sai nên gọi là tướng.
Thể là lấy tâm làm thể. Tâm hiểu rõ khổ lạc vì ngay trong thể. Ví như chiếc thoa, bông tai hay vòng xuyến có khác nhau, nhưng thể chất đều là bạc. Sắc của lục đạo do tâm mà khác nhau nên tâm chính là thể. Tất cả việc di động vận chuyển đều do sức lực, cho đến [trong địa nguc] đi núi dao vào hỏa ngục cũng đều do lực. Tất cả những hành động đều gọi là tác. Vì có lực nên có [hành động và] tạo tác, hoặc làm thiện hoặc làm ác.
Nhân là nhân của các nghiệp. Duyên là cái nương vào tạm thời, như từ nhân duyên hợp lại nên cái ái và nghiệp thành hình. Quả đó là tập quả(…) như người sống trong địa ngục vì kiếp trước là kẻ đa dâm, nên vẫn còn nhớ đến cái đa dâm khi thấy cảnh liền sinh tâm ái, đưa thân vào đó thì gọi là tập quả. Báo là quả báo như trước đây có tội dâm nay đọa địa ngục thọ cái khổ thiêu đốt, đó là quả báo.
Bản là đức tánh của pháp. Mạt là tu nên đắc pháp. Các cứu cánh là do tu hành được tất cả đức tánh.
Khi có đức tánh đầy đủ và chứng đắc từ sự tu hành. Tướng có trước có sau nên gọi là nhiều tướng. Cảnh giới địa ngục có mười tướng tánh như vậy, còn lại chín cái kia cũng như vậy.
Hỏi:“Trong thế giới này cũng có mười tánh tướng phải không? Giao nhau như thế nào mà có, các cảnh giới khác cũng nói là giao nhau thì khó tin. Vì sao nói địa ngục có tánh tướng bản mạt của Phật tánh?”.
Đáp: “Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Có tâm thì tất nhiên có tam bồ đề, như vua Tiên Dự (114) giết [500] Bà-la-môn nhưng những người này vẫn còn có tam niệm. Lại như Bà Tẩu(115) đọa địa ngục đều có các nghĩa cao thấp nặng nhẹ khác nhau. Tuy tại địa ngục nhưng lý cứu cánh của Phật tánh không mất. Nên biết rằng cảnh giới địa ngục cũng có Phật tánh. Phật tướng chính là tướng của tánh đức. Kinh Tịnh Danh nói: “Tất cả chúng sinh là tướng Bồ đề”. Thánh nhân nhìn như vậy mà có thể phân biệt.
Thể là cái tâm của địa ngục giới, cái lý của thực tướng. Lực là thập lực của pháp tánh, có thể biến hóa đại dụng. Tác là theo bản tánh vô trụ mà lập ra tất cả pháp. ví như gân và sửa của sư tử.
Nhân là chánh nhân. Duyên là đức tánh duyên liễu. Quả là quả lớn của Bồ đề bát nhã. Báo là quả của quả Đại Níết Bàn. Bổn là đức tánh. Mạt là cái tu chứng. Đẳng là tướng mạo của [người] tu đạt được trong đức tính. Trong đức tính chính nó cũng có đầy đủ cái tướng mạo của [người] tu khi đạt được. Cho nên nói là cứu cánh đẳng. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trên đỉnh núi tuyết có cây diệu dược vương mà cũng có các loại cỏ độc”. Trong cảnh giới địa ngục có đầy đủ Phật quả, tánh tướng của mười pháp huống chi là các cảnh giới khác. Địa ngục có chín cảnh giới hỗ tương. Các cảnh giới khác cũng có sự hỗ tương như thế. Bồ tát quán sát thâm sâu chúng sinh trong mười pháp giới, ngàn loại tánh tướng đầy đủ trong nhất tâm. Tìm sâu căn nguyên chiếu soi đức tánh ác hoặc thiện còn phải mặc nhiên công nhận, huống chi không chiếu theo mà tu được thiện ác chăng. Như thấy [thí dụ] cây dược vương và cỏ độc trong núi tuyết. Vì quán đức tánh ác độc mà khởi lòng thương xót, khởi tâm đại bi muốn cứu khổ. Vì quán đức tánh thiện mà vui mừng hoan hỷ, khởi tâm đại từ muốn ban vui. Trong mười pháp giới này gom tất cả chúng sinh không sót một ai. Dựa vào cái giả danh của chúng sinh [mà tu] Từ, há chẳng phải là cái Từ phổ cập cho tất cả chúng sinh khắp nơi sao.
Hỏi: “Trong cảnh giới địa ngục có cái khổ trầm trọng chưa được thoát ra thì cớ sao nói đến việc ban vui?”.
Đáp: “Chúng sinh lúc vào địa ngục khởi ba niệm. Bồ tát thừa cơ hội này liền đưa nhân an lạc cho, chính vì vậy mà gọi là ban vui.”
Lại có Bồ tát có thể lấy tâm đại bi thế vào sự thọ khổ để chúng sinh được nghỉ ngơi. Trong các cảnh giới khác thì cái khổ nhẹ hơn nên việc ban vui dễ giải thích hơn.
b/2/1/2) PHÁP DUYÊN TƯ PHỔ
Thứ hai, pháp duyên từ là quán tánh tướng trong mười pháp giới tất cả thiện ác đều như hư không, mười pháp giới cũng chỉ là giả danh, giả danh đó cũng là không. Cái hành thức trong sắc thọ tưởng hành thức của mười pháp giới cũng là không. Cái xứ sở trong mười pháp giới, xứ sở đó cũng là không. Vô ngã và vô ngã sở đều bất khả đắc, như huyễn như hóa, không có thật. Tướng thường tịch diệt chung quy là không. Vì sao chúng sinh cứ cho là thật? Cũng vì chúng sinh bất giác bất tri nên bị khổ não, nên không được cái vui của tịch diệt vô vi. Vì cứu khổ mà khởi đại bi muốn ban vui nên khởi đại từ. Kinh Tịnh Danh nói: “Nếu có thể vì chúng sinh mà thuyết pháp này đó chính là từ tâm chân thật”. Nếu theo duyên của pháp trong một pháp giới mà khởi từ tâm thì đó không phải là phổ. Nay dựa vào pháp của mười pháp giới [để khởi từ tâm] thì còn không phải là phổ sao? Vì vậy nên gọi là pháp duyên từ Phổ..
b/2/1/3) VÔ DUYÊN TƯ
Thứ ba, vô duyên từ. Nếu dựa vào cái giả danh khác biệt của tánh tương của thập pháp giới thì cái giả này tức phi giả. Mười pháp giới như huyễn như hóa, không tức phi không. Phi giả nên không duyên cái tánh tướng của mười pháp giới. Phi không nên không duyên cái chân của mười pháp giới. Vì vậy nên không vướng vào hai bên, không trụ, không trước gọi là Trung đạo. Cũng không thể duyên vào Trung nên cứu cánh là thanh tịnh. Quán sát như vậy tuy không duyên vào Không hay vào Giả, tự tại chiếu soi cả hai bên, phát khởi vô duyên từ bi, cứu người thoát khổ từ hai cái khổ [của sinh tử] (—), ban cái lạc của trung đạo như nam châm hút sắt, dù là người không thọ giáo cũng tự nhiên tương ưng. Vô duyên từ bi hấp thụ căn cơ từ tam đế không sai lạc, Không cần khởi niệm nên gọi là vô duyên từ bi. Hành giả hãy tu từ bi này ngay ở những quả vị phàm (…), thì sẽ được nhập vào ngũ phẩm đệ tử vị(—). Quán hạnh vô duyên từ bi tiến vào vị thập tín vị (…), tương tự vô duyên từ bi vào thập trụ vị(…), lúc đó mới gọi là phần chứng (…)vô duyên từ bi, cho đến đẳng giác(118) gần đến từ bi cùng tột, hun đúc chúng sinh, bất động như gương sáng, vô niệm như nam châm tự nhiên hút được sắt nên gọi là vô duyên từ bi.
1)PHỔ MÔN
Đầy đủ tam đế nên gọi là phổ, thông suốt trung đạo nên gọi là môn.
b/2/2) HOÀNG THỀ PHỔ
Thứ hai hoằng thề phổ là gì?. Hoằng có nghĩa là quảng đại. Thệ nghĩa là [khống] chế. Nguyện có nghĩa là cầu.
Có nghĩa là chế ngự tâm để cầu pháp thù thắng nên gọi là hoằng thệ. Căn bổn của hoằng thệ là từ bi mà từ bi dính liền với khổ lạc. Hoằng thệ đi đôi với tứ đế.
Nếu thấy khổ đế bức bách khổ sở nên theo duyên phát khởi lời thệ ai chưa được độ thì sẽ được độ hết.
Nếu thấy cái điên đảo của tập đế khiến luân chuyển trong mê hoặc trói buộc sinh tử mênh mông không bờ bến thật là đáng thương nên khởi lời thề ai chưa được giải thoát sẽ được giải thoát.
Đạo thanh tịnh mà chúng sinh không biết. Người đi trên đường này có thể ra khỏi sinh tử đến nơi an lạc. Vì muốn chỉ cho chúng sinh đi vào con đường này nên nguyện rằng ai chưa được an thì sẽ được an, nơi diệt phiền não chính là Niết bàn. Những quả báo do các chủng tử sinh ra đã được đoạn trừ nên được hại loại Niết Bàn (…). Dựa vào điều này mà khởi lời thề rằng ai chưa được Niết Bàn thì sẽ được Niết Bàn.
Cái nhân của sinh tử thì khó biết, cái quả khổ thì đễ biết nên nói quả trước, nói nhân sau. Cái diệu lý của Niết bàn là thiện phương tiện nên nói nhân trước quả sau.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Không hiểu cách biến chế sữa thì khó có nước hồ, nói chi đến sinh tô và đề hồ”. Bốn ý nầy cũng một đường mà thôi. Chỉ vì tâm mê mà khởi nghiệp, nghiệp liền đưa đến quả. Nếu muốn biết nguồn gốc quả thì phải biết nhân tập của quả.
Chế ngự tâm dừng nghiệp tức vòng luân hồi của sinh tử sẽ bị hoại, điều phục được phiền não thì đó là đạo. Tu hành không giải đãi, chịu khổ và nhẫn nại thì cái sáng sẽ phát ra. Quả đều đoạn tận, chứng được vô sinh đó gọi là diệt. Tuy có bốn cái khác nhau nhưng thực ra chỉ là một niệm, nào phải pháp gì khác đâu. Tứ đế là vậy thì hoằng nguyện cũng như vậy.
Tiếp theo nói về phổ và bất phổ. Nếu phàm phu không thích những điều thấp, chỉ thích với những điều cao, nếu theo như vậy để lập thề nguyện thì không thể gọi là phổ. Nhị thừa thấy tam giới như nhà lửa nên sợ mà tu đạo, lối nhìn này là phần đoạn tứ đế thì cũng không phải là phổ. Trong Biệt giáo trước là phần đọan, sau là biến dịch thì cũng không phải là phổ. Trong Viên giáo, Bồ tát có thể chiếu tất cả khổ tập diệt đạo trong một tâm, biết tất cả kiến ái của phàm phu tức là cái tập đế của hữu tác [tứ đế] (…). Nhị thừa chấp không tức là cái tập đế của vô tác [tứ đế] (…). Vì vậy nên kinh Tịnh Danh nói: “Pháp gọi là vô nhiễm, nếu pháp nhiễm thì gọi là nhiễm pháp thì đó không phải là cầu pháp”. Kinh lại nói rằng: “Vì kết tập chưa hết nên hoa còn vướng vào thân”, tức là cái mê hoặc biến dịch(…) chưa được tẩy trừ. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Các tỳ khiêu tại Đại thừa chưa vì chánh pháp mà trừ phiền não, đó là tập của vô tác [tứ đế]”. Cho đến cái ái thuận theo đạo pháp mà sinh ra thì cũng còn là cái tập của vô tác [tứ đế], cái tập này gọi là tập biến tri(…).
Cái khổ biến tri là gì? (…). Vì có tập nên kéo theo khổ báo. Cái tập hữu tác [tứ đế] thì kéo theo phần đoạn khổ.
Cái tập vô tác [tứ đế] kéo theo biến dịch khổ tức cái biết về khổ đế. Biến tri là đạo diệt dùng để đối trị khổ tập. Theo ngũ giới thập thiện không động không xuất. Tứ đế thập nhị nhân duyên trong nhị thừa thông đến hữu dư và vô dư Niết bàn.
Thông giáo cũng như vậy. Biệt giáo trải quả từng bước một thì mới đến chỗ thường trụ, không thể tại một đạo mà có được vô lượng đạo nên không gọi là phổ đạo.
Viên giáo trung đạo tức là thật tướng. Kinh Quán Phổ Hiền nói: “Cái nhân của Đại thừa là thực tướng của chư pháp”. Nếu tu như vậy tức là tu theo viên nhân nên gọi là phổ đạo, đắc được Niết bàn, đó mới là cứu cánh thường trụ. Tất cả phiền não vĩnh viễn không còn, ví như một tai kiếp về hỏa hoạn thiêu không còn di tích gì cả nên gọi là phổ diệt. Quán tứ đế như vậy thì chu toàn. Vì vậy dựa vào cái tứ đế mà phát thệ nguyện thì sao lại không đi khắp nơi nơi, vì vậy nên gọi là hoằng thệ phổ. Nếu dùng cách quán đức tánh của mười pháp giới để tu thiện ác thì lời nguyện đó có thể nói là phổ hoặc bất phổ, từ đó trở thành một bàn luận rất rộng. Nói về tứ đế thì có khác, nhưng nếu dùng ở đây thì cũng đúng thôi.
b/2/3) TU HÀNH PHỔ
Thứ ba, nói rõ về tu hành phổ. Trước hết nói rõ tu hành theo thứ đệ, sau nói rõ về tu hành không theo thứ đệ. Tất cả đều giảng đầy đủ trong kinh Vô Lượng Thọ.
b/2/4) ĐOẠN HOẶC PHỔ
Thứ tư, đoạn hoặc phổ là gì?.
Nếu tùng Giả nhập Không thì dừng lại ở chỗ tứ trụ đoạn hoặc, vì vậy nên hoa vẫn vướng trên thân, chánh pháp nay chưa trừ các phiền não, chỉ lìa hư vọng chưa được hoàn toàn giải thoát.
Nếu tùng Không nhập Giả dừng lại ở chỗ trừ trần sa hoặc, không nương căn bản mà đoạn thì cũng không phải là phổ.
Nếu thấy Không và Giả bất nhị chánh quán trung đạo, khi đã bứng gốc thì cành tự úa tàn như lật ngược đại địa thì cây cỏ phải chết hểt nên gọi là đoạn hoặc phổ.
b/2/5) NHẬP PHÁP MÔN PHỔ
Thứ năm, nhập pháp môn phổ. Nhị thừa chỉ vào được một pháp môn, không thể vào hai pháp môn, huống chi là vào được nhiều pháp môn.
Nếu tu từng bước một từ dễ vào khó thì ta chỉ biết một pháp môn này, không thể biết các pháp khác còn lại thì không phải là phổ cập.
Nếu vào được vương tam muội (…) thì tất cả đều có ở trong đó. Thí dụ như khi vua đến thì các tùy tùng theo cùng. Những tùy tùng này lại mang theo tùy tùng của riêng họ. Vương tam muội cũng như vậy. Vào tam muội này, thì tất cả các tam muội khác đều ở trong đó. Đó là tam đế tam muội. Tam đế tam muội lại có rất nhiều pháp môn như là quyến thuộc cũng đều nhập vào trong vương tam muội nên gọi là vào pháp môn phổ cập.
b/2/6)Thần thông phổ
Lục thần thông phổ là gì?. Nếu đại la hán có thiên nhãn thấy được đại thiên [thế giới], Bích Chi Phật thấy trăm Phật độ, Bồ tát thấy hằng sa Phật độ, cái thấy này vẫn là cái thấy có hạn lượng, thần thông này chưa gọi là phổ. Tại sao vậy?
Vì duyên theo cảnh thì hẹp hòi nên phát ra thần thông cũng nhỏ. Nay Viên giáo Bồ Tát duyên theo cảnh trong mười pháp giới, phát thần thông có thể thấy được mười pháp giới vô hạn. [Người học theo] Tam thừa chưa biết được hết tên của các pháp giới này nói chi thấy được cảnh giới của nó. Tầm mắt thấy thì đã như vậy, có thể hiểu rằng các việc khác cũng sẽ như vậy. Diệu thần thông(—) phải được thuyết rộng.
b/2/7)PHƯƠNG TIỆN PHỔ
Thứ bảy, phương tiện phổ là gì?. Tiến hành phương tiện gọi là đạo tiền phương tiện. Khởi dụng phương tiện là đạo hậu phương tiện.
Nay nói về đạo hậu phương tiện. Nếu nhị thừa và các tiểu Bồ tát làm các phương tiện, chỉ vào một pháp môn. Nếu muốn hóa tha để [tha nhân cũng] được như mình, mà khởi được cái dụng hóa vật, đạo tiền đạo hậu cũng đều không phải là phổ.
Bồ Tát Viên giáo lấy nhị đế làm phương tiện, bao gồm tất cả phương tiện, nhập trung đạo song chiếu nhị đế. Nhị đế thần biến khắp mười pháp giới mà pháp thân không tổn giảm đạo tiền đạo hậu đều gọi là phổ.
b/2/8)THUYẾT PHÁP PHỔ
Thứ tám, thuyết pháp phổ là gì?. Khi Nhị thừa tiểu Bồ Tát thuyết pháp thì không thể cùng một lúc đối ứng với tất cả âm thanh, lại còn thêm nhiều phong tục khác nhau thì không thể khiến mọi người đều hiểu. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Câu-hi-la tại pháp Thanh Văn có bốn biện tài vô ngại tối cao nhưng chưa phải là Bồ Tát”. Nay người tu theo Viên giáo dùng nhất âm(—) diễn pháp, tùy theo loại mà được giải và được hiểu. Một diệu âm thông khắp mười pháp giới, như cây đàn của A tu la(—) tùy ý người mà phát ra âm thanh nên gọi là thuyết pháp. Diệu thuyết pháp(—) là [đề mục] nói rộng.
b/2/9)CÚNG DƯỜNG CHU PHẬT PHỔ [lại chia làm hai: b/2/9/1) Sự giải, b/2/9/2)Lý giải]
Thứ chín, cúng dường chư Phật phổ thì chia làm hai phần. Một là sự, hai là lý.
b/2/9/1) SỰ GIẢI
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Không chỉ cúng dường một Phật, một Phật độ mà là cúng dường chư Phật nhiều như vi trần, cho đến cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật.” Không thể khởi diệt định (…) mà hiện các uy nghi. Tọa thiền, chắp tay tán thán các pháp vương, lấy thân mạng và tài vật để cúng dường khắp cả mười phương ví như mây mưa cúng dường chư Phật.
b/2/9/2) LÝ GIẢI
Lý giải là: Cái tâm của chánh quán trong trí Viên giáo gọi là giác. Giác tức là Phật. Công đức từ vạn hạnh huân tập vào trí này gọi là nhất thiết trí. Tu công đức để nuôi dưỡng trí này tức là nuôi dưỡng nhất thiết trí. Kinh Tịnh Danh nói: “Lấy một miếng ăn bố thí cho tất cả nên nói là cúng dường tất cả chư Phật”.
b/2/10) THÀNH TỰU CHÚNG SINH PHỔ
Thứ mười, phổ thành tựu chúng sinh là gì? Thí dụ như ánh sáng con đom đóm, anh sáng đèn, ánh sáng trăng sao không soi sáng được bao nhiêu. Khi ánh mặt trời chiếu thế gian thì tất cả cây cỏ rừng núi sinh trưởng đơm hoa kết trái. Ngoại đạo ví như ánh sáng loài đom đóm, nhị thừa như ánh sáng ngọn đèn, Thông giáo như sao, Biệt giáo như trăng, sự thành tựu cũng như thế.
Nay thánh nhân của Viên giáo với trí tuệ từ bi có thể thấm nhuần lợi ích vô hạn lượng cả hai mặt ẩn và hiện. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ tát không chỉ vì một chúng sinh, vì một quốc độ hoặc vì một nhóm chúng sinh mà phát bồ đề tâm mà vì bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, và chúng sinh ở các quốc độ nhiều như vi trần mà phát bồ đề tâm”, cùng lúc đưa đến lợi ích bình đẳng khắp nơi ví như một cơn mưa lớn cùng lúc tưới tẩm bốn phương nên gọi là thành tựu chúng sinh phổ. Nghĩa Phổ Môn thì vô lượng, vô biên, không cùng tận sánh như những điều nói trong kinh Tịnh Danh không thể thọ trì tận cùng hết được. Nay đối với ba hiệu của Quán Thế Âm phổ môn, quán là giác, giác là Phật, thế là cảnh. Cảnh tức như thị. Phổ môn tức chánh biến tri. Ba nghĩa này không thể cùng tận. Nếu thấy được ý này thì đó là thuyết tự tại.
Nay dựa vào phẩm Phổ Môn này tìm đủ mười nghĩa của chữ Phổ, chứng được ở nơi đây.
Như Đức Quán Âm từ mẫn tứ chúng và ban cho chuỗi anh lạc, tất cả không cùng một tên gọi. Lòng mẫn có nghĩa xót thương, đây là từ bi phổ. Có từ bi mà vận dụng một cách rộng rãi thì có nghĩa hoằng thề khắp nơi. với nhiều hình tướng khác nhau, đi đến các cõi nước khác nhau để cứu độ chúng sinh, gọi là thanh tịnh Phật độ. Những việc trên nếu không là tu hành phổ thì là gì?. Tự mình không bị trói buộc nên có thể cởi bỏ trói buộc cho người. Tự mình không bị độc nên có thể giải độc cho người, chỉ cần xưng danh tức được giải thoát, đều là những lời đưa đến khắp nơi phải chăng là đoạn hoặc phổ. Phổ môn thị hiện tức là vào pháp môn phổ. Lực phương tiện là phương tiện phổ. Lực thần thông là thần thông phổ. Nếu thuyết pháp cho người thì gọi là thuyết pháp phổ. Giúp ích rất nhiều cho người tức thành tựu chúng sinh phổ. Chia làm hai phần(…) cúng dường hai Như Lai(…) tức cúng dường chư Phật phổ. Tất cả những ý nghĩa này đều có trong kinh văn nên tôi đưa ra dẫn chứng.
II) XUẤT THỂ
Thứ hai, giảng về thể. Lấy trí tuệ hợp với pháp thân thì là thể. Nhưng những kinh nói về ba thân thì chỉ lấy pháp thân là thể. Ở phẩm này thì lây hai thân, vì vậy dùng lý trí hợp với [pháp thân] để làm thể. Trí này là lý thật tướng. Tại sao vậy? Nếu trí này không có trí tuệ thật tướng thì nó ở [trong trạng thái] ẩn, gọi là Như Lai tạng. Nay biết quyền và thực, thật tướng và lý không phải là hai, chẳng qua chỉ như bên trái bên phải mà thôi. Cái nghĩa về thể của thực tướng nói rất nhiều về huyền nghĩa trong kinh Vô Lượng Thọ.
III) MINH TÔNG
Thứ ba, nói về minh tông, lấy cảm ứng làm tông. Cơ duyên trong mười pháp giới liên kết với nhau, đó là cái trí tịch chiếu cho nên có ích lợi cảm ứng trước sau. Nói về ích lợi thì rất rộng, nay chỉ nói thẳng về sự thu hoạch của cảm ứng như khi động đến các cương lĩnh thì làm di chuyển các đề mục của nó. Vì vậy dùng cảm ứng làm tông [yếu] nhưng phân này không làm như vậy.
Nhân quả là nói một cách chung, từ phàm phu ho đên [các thánh nhân] của thượng địa, tất cả đều có nhân quả, năng cảm và sở cảm đều do nhân quả mà ra. Lời kinh [của phẩm này] thì không nói rõ như thế. Trong cơ tuy có nhân quả nhưng gọi tên là cảm. Bậc thánh không lấy nhân quả chỉ lấy ứng mà gọi tên, tức dựa vào văn nghĩa như phương tiện mà thôi.
Cảm ứng có sáu nghĩa. A) Thứ nhất thích tên, B) Thứ hai giải thích về tướng, C) Thứ ba giải thích về sự dị đồng, D) Thứ tư, giảng về tương đối (…). E) Thứ năm, giảng về phổ hay không phổ. F) Thứ sáu, phân biện về quán tâm. Tất cả đều có trong kinh Vô Lượng Thọ.
Hỏi: “Nếu nói về cơ thì cơ do cái thiện vi tế sắp sinh. Cái ác vi tế sắp sinh thì có phải cũng là cơ không?”
Đáp: “Đương nhiên”.
Hỏi: “Cơ có thể là thiện mà cũng có thể là bất thiện. Nếu là thiện thì đâu cần cái cảm của thánh. Nếu chưa là thiện thì làm sao lại nói là cái thiện sắp sinh?”.
Đáp: “Tánh thiện ẩn kín như hoa sen trong bùn. Cái ứng của thánh nhân ví như mặt trời chiếu, [hoa sen] sẽ lộ diện.”
Lại hỏi: “Cơ là quán thì cái quán đó là thiện hay bất thiện?. Nếu là thiện thì đâu cần đến thánh nhân quán chiếu để thành thiện. Nếu không phải là thiện thì cớ sao cần thánh nhân quán chiếu để thành bất thiện. Phàm thánh rõ ràng có đâu liên hệ gì nhau?.”
Đáp: “Quán thiện là tại chỗ đại từ, quán ác thì tại chỗ đại bi nên gọi là tương quán”.
Hỏi: “Nếu nói một cách thích nghi thì cơ là người ứng quán cái dụng của cơ mà nói. Đó là giải thích cái nghĩa của cảm”.
Đáp: “Cái nắp tròn và cái đáy tròn phải hỗ tương một cách thích nghi”.
Hỏi: “Cái dụng của pháp thân phải ứng với cái dụng của ứng thân. Ứng thân thì vô thường tức là vô ứng. Pháp thân nếu có ứng thì tức là không phải là pháp thân?.
Đáp: “Pháp mà nói là thân thì tại sao không nói là ứng. Ứng thân mà đã gọi là ứng thì sao bảo là không ứng. Nên đều có đầy đủ ứng cả”.
Lại hỏi: “Cảm ứng là một hay là khác nhau? Nếu là một lần cảm thì một lần ứng, như thế tức phàm thuận thánh. Nếu khác thì không tương quan với nhau”.
Đáp: “Luận về cảm ứng thì không một cũng không khác”.
Hỏi: “Cảm ứng là hư hay thật?. Nếu là thật thì phàm phu là thật. Nếu là thật thì làm sao có thể biến hóa được. Nếu là hư, thì cái hư hóa ra cái gì”?.
Đáp: “Cứ như vậy mà hóa”.
Hỏi: “Thánh nhân là người được cảm, phàm phu là người có thể cảm. Thánh nhân là người có thể ứng. Phàm phu là người được ứng. Sở cảm không phải là cảm, sở ứng không phải là ứng. Làm sao lại nói là cảm ứng đạo giao?”.
Đáp: “Sở cảm thật sự là vô cảm, chỉ theo cái cảm mà gọi là sở cảm. Nói thánh nhân là sở cảm, cái sở ứng thật sự là vô ứng, chỉ theo cái ứng đó mà gọi tên là sở ứng nên nói phàm phu là sở ứng, còn sở cảm là ứng năng, ứng năng là sở cảm.
Cũng như vậy ứng sở là cảm năng, cảm năng là ứng sở vì không có cảm ứng nào là thật, cũng không có cảm ứng nào khác nhau, tuy không khác mà khác. Thánh không có sở cảm nhưng mắt nhìn thấy thì có thể ứng. Phàm nhân thì không ứng nhưng mắt nhìn thì có cảm cho nên nói là cảm ứng đạo giao. Lời này nói riêng thì thật khó. Thật ra cảm ứng không có gì khác biệt. Nếu thánh mhân không có năng cảm, kẻ phàm không có năng ứng. Vì sao không nói là thánh nhân không có năng ứng và kẻ phàm không có năng cảm. Nếu như vậy thì phàm thánh không có gì khác nhau. Nếu không như vậy thì cảm ứng là khác nhau, cớ sao lại nói là không khác?
Lại cảm năng là cái thật của vô cảm năng, gọi tên là cảm năng, tại sao không gọi nó là ứng năng? Nếu ứng sở không thật thì tại sao không gọi là cảm sở? Nếu như trên thì không có cảm ứng giữa phàm và thánh. Nếu không phải như trên tức là có sự khác biệt thì tại sao lại nói là không có khác biệt. Lại khó hơn, nếu lấy cảm năng làm ứng sở, và lấy cảm sở làm ứng năng, thì tự nó sinh ra nghĩa rồi.
Nếu năng ứng chỉ là sở ứng, năng cảm chỉ là sở cảm, như thế còn là tự sinh nghĩa? Nếu ứng năng sinh ra ứng sở, cảm năng sinh ra cảm sở, năng cảm sinh ra sở cảm, sở cảm sinh ra năng cảm. Năng ứng sinh ra sở ứng, sở ứng sinh ra năng ứng, tất cả đều là từ chỗ khác mà sinh ra thì đâu phải là nghĩa của tha tánh. Nếu là cộng sinh tức là rơi vào hai cái sai lầm(..). Nếu rời hai cái sai lầm trên thì rơi vào cái vô nhân sai lầm(..)
Hỏi: “Nếu như thế thì không có cảm ứng ?”.
Đáp: “Thánh nhân lấy bình đẳng vô trụ pháp nên không trụ ở cảm, lấy tứ tất đàn tùy cơ mà ứng”.
Hỏi: “Cái thiện của vọng chấp có thể cảm được không?”.
Đáp: “Vọng chấp là ác cũng còn được cảm”.
Hỏi: “Vọng chấp không phải là một, ứng cũng là hai?”
Đáp: “Ứng vốn không hai vì duyên mà có tác dụng.
Hỏi: Phàm thì gọi là phàm phu. Thiện tức là đưa đến vui, ác tức là cảm nổi khổ. Thánh gọi là chánh.
Chánh tức là phi thiện, phi ác, phi khổ phi lạc. Thiện ác là như vậy, tại sao lại có thể cảm cái ở giữa phi thiện, phi ác?”.
Đáp: “Cái từ bi của bậc thánh chính là vượt ra ngoài thiện ác, và để đưa vào cái chánh của phi thiện phi ác, nên có cảm ứng.
IV) BIỆN DỤNG
Thứ tư, lấy từ bi lợi vật làm chỗ dụng công.
Hỏi: “Hai trí không đủ để dùng sao?”.
Đáp: “Hai trí được nói tổng quát ở đây, còn nói riêng thì ở phần phụ lục.
Để hiểu rõ sự ích lợi ẩn và hiện nên nói về cái dùng ở đây. Ổ chỗ khác có thể giải thích rằng cái ích lợi của pháp thân ẩn tàng là thường. Ứng thân tạm thời xuất hiện sau lại biến đi thì là vô thường. Nay giảng rõ Pháp Thân là thường tịch nhưng hằng chiếu, lý này là như thế.
Ứng thân lợi ích khắp nơi mà không bao giờ nhưng chỉ, cũng có nghĩa là thường. Nếu nói rằng có ứng hay không có ứng thì cũng là vô thường.
Pháp thân cũng là có ích cũng là vô ích nên phải biết cũng có thường và vô thường, có ẩn có hiển
như nhật nguyệt khi tròn khi khuyết. Như Lai luôn lấy thường, vô thường, cả hai pháp để hun đúc cho chúng sinh nên nói là hai con chim bay chung với nhau(…). Nên gọi là Thường và Vô thường là như vậy.
Ví như trồng trọt phải nhờ gió mưa, mặt trời bên ngoài, cần hơi đất sưỡi ấm bên trong nhờ vậy vạn vật tăng trưởng. Hai ích lợi cả ẩn lẫn hiện thì cũng như vậy. Trong đó ứng dụng vương tam muội mười lần phá bỏ 25 cõi.
Để biện biệt cái dụng của từ bi làm lợi vật có giảng đầy đủ trong huyền nghĩa kinh Vô Lượng Thọ.
Hỏi: “Đức Quán Âm lợi vật rộng lớn như vậy thì đã đủ để thành Phật. Tại sao cứ là Bồ Tát?”.
Đáp: “Ở đây thì khó hiểu nhưng trong kinh có hai thuyết. Kinh Quán Âm Thọ Ký nói rõ Đức Quán-Âm và Đức Thế Chí đắc như huyễn tam muội chu du mười phương để hóa độ vạn vật. Như Sư Tử Kim Quang xưa kia du hí tại cõi nước Như Lai Quốc Vương (…) tên Uy Đức, biến hóa và sinh ra hai người con.
Người bên trái tên là Bảo Ý, tức Đức Quán Âm. Người bên phải tên là Bảo Thượng tức Đức Đại Thế Chí. Chư vị đến hỏi Phật làm sao cúng dường thù thắng. Phật đáp rằng phải phát Bồ đề tâm. Chư vị liền theo Như Lai sơ phát bồ đề tâm. Sau khi Đức Phật A Di Đà thành Phật thì hai vị này cũng thành chánh giác. Ngài Quán Âm có danh hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương. Ngài Thế Chí có hiệu là Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương.
Lại trong kinh Như Lai Tạng có nói rằng chư vị Quán Âm, Văn Thù đều chưa thành Phật, nếu như kinh Quán Âm Tam Muội nói trước đã thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai.
Đức Thích Ca là đệ tử khổ hạnh của Phật ấy. Hai đoạn văn này nghịch nghĩa nhau thì phải giảng như thế nào? Phải biết đó chỉ là dùng Tứ Tất Đàn để hóa vật, đừng cho là thật mà tìm cầu.
V) GIÁO TƯỚNG
Thứ năm, nói rõ về giáo tướng.
Các bộ kinh thuyết về Đức Quán Âm thì rất nhiều như Thỉnh Quán Thế Âm, Quán-Âm Thọ Ký, Quán-Âm Tam Muội, Quán-Âm Sám Hối, hoặc là Đại Bi Hùng Mãnh Quán Thế Âm v.v.. các kinh không giống nhau. Nay bản lưu truyền đây là 1530 lời từ một phẩm của kinh Pháp Hoa tách riêng để lưu truyền do chính pháp sư Đàm Ma La Sấm (…) cũng có hiệu là Y Ba Lặc Bồ Tát du hóa ở Thông Lĩnh (…) rồi đến Hà Tây(…). Vua đất Hà Tây là Tự Cừ Mông Tốn quy mạng chánh pháp và có bệnh nên nhờ pháp sư cứu giúp. Sư nói: “Đức Quán Thế Âm có duyên với đất này. Hãy tụng niệm ngài thì khổ hoạn tiêu trừ”. Nhân đó phẩm này lấy riêng ra và lưu truyền bên ngoài. Phẩm này là phẩm trong phần lưu thông của kinh Pháp Hoa. Vì lưu truyền nên là giáo pháp khai quyền hiển thực, khiến hai sự ích lợi ẩn và hiện này làm lợi cho tương lai, lấy cái thân viên dung để ứng với tất cả mười pháp giới khiến được giải thoát.
Người tu theo Viên giáo nắm pháp viên toàn nên có thể lưu thông giáo pháp Viên giáo, tức là tướng lưu thông của Viên giáo. Nói về ngũ vị thì đây là lưu thông vị đề hồ (…).
Hỏi: “Kinh văn nói rằng cái lực của phương tiện mỗi mỗi khác nhau, nếu có nói thì cái ứng cũng khác nhau, làm sao được tướng của Viên giáo?”.
Đáp: “Người có thể tùy cơ của các pháp giới để diễn giảng một cach viên dung, rộng rãi đó là viên giáo. Cơ tuy khác nhau nhưng không thể ngăn cản người mang pháp tùy cơ ứng biến như Phật tuy tại nhất thừa lại phân biệt thuyết thành tam thừa. Đâu có thể nói là Phật chỉ là Thanh văn hay Duyên giác? Lại nói thêm rằng nếu có người tin sâu hiểu rộng mà vì thuyết kinh này.
Nếu người không tin vào pháp thâm sâu này, không tin vào cái lợi cái hỷ của pháp này hiển thị nhưng phụng trì yếu chỉ của Phật để viên dung ứng phó với vạn cơ duyên, tất cả các sự khác biệt này chỉ là [một hình thức của] viên giáo lưu thông”.
Lại hỏi: “Người có thể thuyết viên mãn thì giáo của họ cũng viên mãn. Căn cơ người tu hành có khác nhau như vậy họ thuộc giáo nào?”.
Đáp: “Nếu vốn là biên giáo [khác với viên] thì tức là giống như giáo pháp của Lộc Uyển. Nếu vốn là căn cơ viên giáo thì ứng cũng viên mãn. Thứ nhất, trong thời Lộc Uyển, Phật chưa lộ cái Bản ra để hiển cái Tích, không đưa ba thừa vào một thừa nên người và pháp chưa viên mãn. Phương tiện đó không thể nói là viên mãn. Nay kinh khai quyền hiển thực tuy có nhiều loại thân, bản tích không thể nói là không phải một. Tuy thuyết nhiều pháp để khai viên đạo, ý nghĩa không phạm lỗi.”
Hỏi: “Đoạn văn trên nói chánh trực xả bỏ phương tiện. Theo lời này đâu có nói đến phương tiện?”
Xin trả lời: Vì [đoạn văn trên đang nói về] hiển thực nên nói là xả bỏ [quyền]. Ở đây là vì dựa vào [thuyết của] “ Trung Luận” để thị hiện, thể và dụng bất tư nghị là một mà thôi
(Hết Quán-Âm Huyền Nghĩa, Quyển Hạ)
20/12/2015