Tổ Đình Minh Đăng Quang
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN – BUDDHIST DICTIONARY
Thiện Phúc
PHỤ LỤC (APPENDICES)
PHỤ LỤC L – Appendix L
Kinh Ðịa Tạng
The Earth-Store Bodhisattva Sutra
CHƯƠNG THỨ TƯ—CHAPTER FOUR
NGHIỆP CẢM CỦA CHÚNG SANH NƠI CÕI DIÊM PHÙ ÐỀ—KARMIC RETRIBUTIONS OF LIVING BEINGS OF JAMBUDVIPA
Lúc đó Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nương sức oai thần của Ðức Như Lai, nên chia thân hình nầây ở khắp trăm ngàn muôn ức thế giới, để cứu vớt tất cả chúng sanh bị nghiệp báo. Nếu không nhờ sức đại từ của Ðức Như Lai, thời chẳng có thể biến hóa ra được như thế. Nay con lại được Như Lai phó chúc ‘từ nay đến khi ngài A Dật Ða thành Phật, làm cho chúng sanh trong sáu đường đều được giải thoát.’ Xin vâng! Bạch Ðức Thế Tôn! Xin Ðức Thế Tôn chớ lo!”—At that time Earth Store Bodhisattva said to the Buddha: “World Honored One! Because I have received the awesome spiritual power of the Buddha, the ‘Thus Come One,’ I divide my body and rescue living beings who are undergoing karmic retributions everywhere throughout hundreds of thousands of ten thousands of millions of worlds. If it were not for the great compassionate strength of the ‘Thus Come One,’ I would be unable to perform such changes and transformations. Now, I further receive the World Honored One’s entrustment: Until Ajita has become a Buddha, I will cause all living beings in the six paths to attain liberation. Yes, it shall be so, World Honored One; do not be concerned.”
Bấy giờ Ðức Phật bảo ngài Ðịa Tạng Bồ Tát rằng: “Những chúng sanh mà chưa được giải thoát, tánh thức của họ không định; hễ quen làm dữ thì kết thành nghiệp báo dữ, còn quen làm lành thời kết thành quả báo lành. Làm lành cùng làm dữ tùy theo cảnh duyên mà sanh ra, lăn mãi trong năm đường không lúc nào tạm ngừng ngớt, mê lầm chướng nạn trải đến kiếp số nhiều như vi trần. Ví như loài cá bơi lội trong lưới theo dòng nước chảy, thoạt hoặc tạm được ra, rồi lại mắc vào lưới. Vì thế nên ta phải lo nghĩ đến những chúng sanh đó. Ðời trước ông trót đã lập nguyện trải qua nhiều kiếp phát thệ rộng lớn, độ hết cả hàng chúng sanh bị tội khổ, thời Ta còn lo gì!”—At that time the Buddha told Earth Store Bodhisattva: “Living beings who have not yet obtained liberation have unfixed natures and consciousnesses. Their evil habits will reap karma, while their good habits will reap a corresponding fruit. Their good or evil acts arise in accordance with states, and they turn in the five paths without a moment’s rest. They pass through kalpas as numerous as motes of dust, confused, deluded, obstructed, and afflicted by difficulties, like fish swimming through nets that have been put in a stream. They may slip free of them and so temporarily escape, but then, they again are caught in the nets. It is for beings such as these that I would be concerned; but since you are completing the vows you have made in the past, and for many kalpas have renewed these mighty oaths to take across vast numbers of such offenders, I have no further cause for worry.”
Khi Ðức Phật dạy lời như thế xong, trong pháp hội có một vị đại Bồ Tát hiệu là Ðịnh Tự Tại Vương ra bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát thệ nguyện gì, mà nay được đức Thế Tôn ân cần khen ngợi như thế? Cúi mong đức Thế Tôn lược nói cho.”—When this was said, there was in the assembly, a Bodhisattva Mahasattva named Samadhi Self-Mastery King, who said to the Buddha: “World Honored One! What vows has Earth Store Bodhisattva made during each of these many kalpas that he now receives the World Honored One’s special praise? Please, World Honored One, briefly speak about this.”
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ngài Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát: Lắng nghe! Lắng nghe! Phải khéo suy xét đó, Ta sẽ vì ông mà giải bày rõ ràng—At that time the World Honored One said to Samadhi Self-Mastery King: “Listen attentively! Listen attentively and consider this well. I shall now explain the details for you.”
Vô lượng vô số na do tha bất khả thuyết kiếp về thuở trước, lúc đó, có đức Phật ra đời hiệu là Nhứt Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ðức Phật đó thọ sáu muôn kiếp. Khi ngài chưa xuất gia, thời ngài làm vua một nước nhỏ kia, kết bạn cùng với vua nước lân cận; hai vua đồng thực hành mười hạnh lành làm lợi ích cho nhân dân. Nhân dân trong nước lân cận đó phần nhiều tạo những việc ác. Hai vua cùng nhau bàn tính tìm những phương chước để dắt dìu dân chúng—Once, limitless asamkhyeyas of nayutas of ineffably many kalpas ago, there was a Buddha named All-Knowledge-Accomplished Thus Come One, One Worthy of Offerings, One of Proper and Pervasive Knowledge, One Perfect in Clarity and Conduct, Well-Gone One, Unsurpassed Knight Who Understands the World, Regulating and Subduing Hero, Teacher of Gods and Humans, a Buddha, World Honored One. That Buddha’s lifespan was sixty thousand kalpas. Before leaving home, he had been the king of a small country and had been friendly with the king of a neighboring country with whom he practiced the ten wholesome acts and benefitted living beings. Because the citizens of these two neighboring countries did many evil acts, the two kings agreed to devise large-scale expedient devices for them.
Một ông phát nguyện: ‘Tôi nguyện sớm thành Phật sẽ độ dân chúng ấy làm cho đều được giải thoát không còn thừa.’—One of the kings vow: ‘I shall accomplish the Buddha Way quickly and then without exception, take these people across.’
Một ông phát nguyện: ‘Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều được an vui chứng quả Bồ Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật’—The other king vowed: ‘If I do not first take across all those who suffer for their offenses cause them to be peaceful and happy and to attain Bodhi, I shall not accomplish Buddhahood.”
Ðức Phật bảo ngài Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát rằng: “Ông vua phát nguyện sớm thành Phật đó chính là đức Nhứt Thiết Trí Thành Tựu Như Lai. Còn ông vua phát nguyện độ chưa hết những chúng sanh tội khổ thời chưa nguyện thành Phật đó, chính là ngài Ðịa Tạng Bồ Tát đây vậy.”—The Buddha told the Bodhisattva Samadhi Self-Mastery King: “The king who vowed to become a Buddha quickly is All-Knowledge-Accomplished Thus Come One. The king who vowed not to become a Buddha until he had taken across all beings who suffer for offenses, is named Earth Store Bodhisattva.”
Lại vô số kiếp về thuở trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Liên Hoa Mục Như Lai. Ðức Phật đó thọ bốn mươi kiếp. Trong thời mạt pháp, có một vị La Hán phước đức cứu độ chúng sanh. Nhơn vì đi tuần giáo hóa mọi người, La Hán gặp một người nữ tên là Quang Mục, nàng nầy sắm sửa đồ ăn cúng dường La Hán. La Hán thọ cúng rồi hỏi: “Nàng muốn những gì?”—Moreover, limitless asamkhyeyas kalpas ago a Buddha named Pure-Lotus-Eyes Thus Come One appeared in the world. His lifespan was forty kalpas. During his Dharma-Ending Age, an Arhat who planted blessings for and took across living beings. Because he taught them and transformed in succession, he met a woman named Bright Eyes who made a meal-offering to him. The Arhat asked: “What is your wish?”
Quang Mục thưa rằng: Ngày thân mẫu tôi khuất, tôi làm việc phước thiện để nhờ đó mà cứu vớt thân mẫu tôi, chẳng rõ thân mẫu sanh vào đường nào?”—Bright Eyes replied: “On the day of my mother’s death, I performed meritorious deeds for her rescue, but I do not yet know in what path she has been born.”
La Hán nghe nói cảm thương bèn nhập định quan sát, thời thấy bà mẹ của Quang Mục đọa vào chốn địa ngục rất là khổ sở. La Hán hỏi Quang Mục rằng: “Thân mẫu ngươi lúc sanh tiền đã làm hạnh nghiệp gì, mà nay phải đọa vào chốn địa ngục rất khổ sở như thế?”—Out of pity for her, the Arhat entered into samadhi to contemplate, and saw that Bright Eyes’ mother had fallen into an evil path where she was undergoing extreme suffering. The Arhat asked: “Bright Eyes, when your mother was alive, what deeds did she do that she should now be undergoing such extremely great suffering in an evil path?”
Quang Mục thưa rằng: “Ngày còn sống, thân mẫu tôi chỉ ưa ăn thịt loài cá trạnh, phần nhiều là hay ăn cá con và trạnh con, hoặc chiên, hoặc nấu, tha hồ mà ăn cho thỏa mãn. Nếu tính đếm số cá trạnh của người đã ăn thời đến hơn ngàn muôn. Xin tôn giả thương xót chỉ dạy phải làm cách nào để cứu thân mẫu tôi?”—Bright Eyes replied: “As to my mother’s habits, she enjoyed nothing better than eating fish, turtles and the like. She particularly relished their fried or boiled-roe, and because she was fond of eating, she took many thousands of ten thousands of lives. Oh! Venerable One! Be compassionate and take pity. How can she be saved?”
La Hán xót thương bèn dạy phương chước, ngài khuyên Quang Mục rằng: “Ngươi phải đem lòng chí thành mà niệm đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, và vẽ đắp hình tượng đức Phật, thời kẻ còn cùng người mất đều được phước lợi!”—The Arhat pitied Bright Eyes and so, establishing an expedient device , he exhorted her, saying: “With sincere resolve, be mindful of Pure-Lotus-Eyes Thus Come One, and also make carved and painted images of him. Both those living and those who have perished will be rewarded.”
Quang Mục nghe xong, liền xuất tiền của, họa tượng Phật mà thờ cúng. Nàng đem lòng cung kính, khóc than chiêm ngưỡng đảnh lễ tượng Phật. Một đêm vào lúc nửa về sáng, nàng chiêm bao thấy thân của đức Phật sắc vàng chói như núi Tu Di, đức Phật phóng ánh sáng mà bảo Quang Mục rằng: “Chẳng bao lâu đây thân mẫu ngươi sẽ thác sanh vào trong nhà của ngươi, khi vừa biết đói lạnh thời liền biết nói.”—On hearing this, Bright Eyes renounced everything she loved; afterwards she drew an image of that Buddha, and made offerings before it. Moreover, she wept sorrowfully as she respectfully gazed at and bowed to the Buddha. During the second half of the night, suddenly, as if in a dream, she saw that Buddha’s body, dazling gold in color and as large as Mount Sumeru, emitting great light. He said to Bright Eyes: “Before long your mother will be born in your household, and as she can feel hunger and cold she wil speak.”
Sau đó, đứa tớ gái trong nhà sanh một đứa con trai, chưa đầy ba ngày biết nói. Trẻ đó buồn khóc mà nói với Quang Mục rằng: “Nghiệp duyên trong vòng sanh tử phải tự lãnh lấy quả báo. Tôi là mẹ của người, lâu nay ở chốn tối tăm. Từ khi vĩnh biệt người, tôi phải đọa vào đại địa ngục. Nhờ phước lực của người, nên nay được thọ sanh làm kẻ hạ tiện, lại thêm số mạng ngắn ngủi, năm mười ba tuổi đây sẽ bị đọa vào địa ngục nữa. Người có phương thế gì làm cho tôi được thoát khỏi nổi khổ sở?”—Shortly thereafter, a maidservant in the house bore a son. Before three days had passed, he spoke. Lowering his head and weeping mournfully, he said to Bright Eyes: “The karmic situation of death is such that one must undergo retributions for one’s own deeds. I am your mother and have been in darkness for a long time. Since leaving you, I have repeatedly fallen into the great hells. As a result of receiving the power of your blessings, I have been able to be reborn but only as a person of low class. My lifespan, moreover, will be short, and at the age of thirteen, I will fall into an evil path again. Do you not have some plan to effect my liberation?”
Nghe đứa trẻ nói, Quang Mục biết chắc là mẹ mình. Nàng nghẹn ngào khóc lóc mà nói với đứa trẻ rằng: “Ðã là mẹ của tôi, thời phải tự biết tội của mình, đã gây tạo hạnh nghiệp chi mà bị đọa vào địa ngục như thế?”—When Bright Eyes heard those words, she knew without a doubt that they were her mother’s words and chocked with sobs, she said to the servant’s child: “Since you are my mother, you should know your own past offenses. What deeds did you do that caused you to fall into the evil paths?”
Ðứa trẻ đáp: “Do hai nghiệp, một là giết hại sanh vật và hai là chê bai mắng nhiếc, mà thọ báo khổ. Nếu không nhờ phước đức của người cứu nạn cho tôi, thời cứ theo tội nghiệp đó vẫn còn chưa được thoát khổ.”—The maidservant’s child answered: “I have undergone this retribution as a result of killing and slandering. If I had not received the blessings which you earned to rescue me from difficulty, my karma would be such that I would not yet have been released.”
Quang Mục hỏi rằng: “Những việc tội báo trong địa ngục ra sao?”—Bright Eyes asked: “What happens during retribution in the hells?”
Ðứa trẻ đáp rằng: “Những việc tội khổ nói ra càng bất nhẫn, dầu đến trăm ngàn năm cũng không thuật hết được.”—The maidservant’s son answered: “Merely to speak of the sufferings for offenses is unbearable, and even a hundred thousand years would not suffice to describe them all.”
Quang Mục nghe xong, than khóc rơi lệ mà bạch cùng giữa hư không rằng: “Nguyện cho thân mẫu tôi khỏi hẳn địa ngục khi mãn mười ba tuổi không còn có trọng tội cùng không còn đọa vào ác đạo nữa. Xin chư Phật trong mười phương thương xót chứng minh cho tôi, vì mẹ mà tôi phát nguyện rộng lớn như vầy như thân mẫu tôi khỏi hẳn chốn tam đồ và hạng hạ tiện cùng thân gái, cùng kiếp không còn thọ những quả báo xấu đó nữa, tôi đối trước tượng của đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai mà phát lời nguyện rằng: ‘từ ngày nay nhẫn đến về sau trăm ngàn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng tam ác đạo, tôi nguyện cứu vớt họ, làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo địa ngục, súc sanh, và ngạ quỷ, vân vân. Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác.”—When Bright Eyes had heard that, she wept bitterly and spoke into empty space: may my mother be eternally released from the hells, and after these thirteen years may she have no more heavy offenses, but pass out of the evil paths. Oh Buddha of the ten directions, have compassion and pity me. Hear the vast, great vow which I am making for the sake of my mother. If my mother can leave the Three Paths forever, leave being of low classes, up to and including leaving the body of a woman, and never again have to endure them, then, before the image of the Thus Come OnePure-Lotus-Eyes, I vow that from this day forth, throughout hundreds of thousands of ten thousands of millions of kalpas, wherever there are worlds, I shall respond to all living beings who are suffering in the hells and the Three Evil Paths for their offenses. I vow to rescue them and take them out the realms of the hells, hungry ghosts, animals and the like. Only after such beings who are undergoing retribution for their offenses have, without exception, become Buddhas, will I myself accomplish Right Enlightenment.”
Quang Mục phát nguyện xong, liền nghe tiếng của đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai dạy rằng: “Nầy Quang Mục! Nhà ngươi rất có lòng từ mẫn, vì mẹ mà phát ra lời thệ nguyện rộng lớn như thế, thật là hay lắm! Ta quan sát thấy mẹ ngươi lúc mãn mười ba tuổi, khi bỏ báo thân nầy sẽ thác sanh làm người Phạm chí sống lâu đến trăm tuổi. Sau đó vãng sanh về cõi nước Vô Ưu sống lâu đến số không tính kể. Sau rốt thành Phật độ nhiều hạng người, trời, số đông như cát sông Hằng.”—After making this vow, she heard very clearly the Thus Come One Pure-Lotus-Eyes say to her, “Bright Eyes, it is your great kindness and pity that so well enable you to make such great vows for your mother’s sake. I see that your mother will cast off this retribution after thirteen years, and will be reborn as a Brahman with a lifespan of one hundred years. After that retribution, she will be born with a lifespan of incalculable numbers of kalpas in the land of No Concern, after which she will accomplish Buddhahood and cross over vast numbers of humans and gods, as many as there are sand grains in the Ganges.”
Ðức Phật bảo ngài Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát rằng: “Vị La Hán phước lành độ Quang Mục thuở đó, chính là Vô Tận Ý Bồ Tát. Thân mẫu Quang Mục là ngài Giải Thoát Bồ Tát. Còn Quang Mục là ngài Ðịa Tạng Bồ Tát đây vậy. Trong nhiều kiếp lâu xa về trước ngài có lòng từ mẫn, phát ra hằng hà sa số lời thệ nguyện độ khắp chúng sanh như thế.”—Sakyamuni Buddha told Samadhi Self-Mastery King, “At that time, the Arhat who planted blessings for and took across Bright Eyes, is now Inexhaustible Intention Bodhisattva. The mother of Bright Eyes is now Liberation Bodhisattva, and Bright Eyes herself is now Earth Store Bodhisattva. Throughout many long aeons, because of his kindness and pity, he has made as many vows as there are sand grains in the Ganges to rescue vast numbers of living beings.”
Trong đời sau như có chúng sanh không làm lành, mà làm ác, nhẫn đến kẻ chẳng tin luật nhơn quả, kẻ tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, kẻ hủy báng Ðại Thừa. Những chúng sanh có tội nghiệp như thế chắc phải bị đọa vào ác đạo. Nếu gặp được hàng thiện tri thức khuyên bảo quy-y với ngài Ðịa Tạng Bồ tát, chừng trong khoảng khảy móng tay, những chúng sanh đó liền được giải thoát khỏi báo khổ nơi ba ác đạo. Nếu người nào có thể quy-kính và chiêm ngưỡng đảnh lễ ngợi khen, cùng dâng cúng những y phục, đồ vật, ăn uống, các thứ trân bảo, vân vân. Thời người đó, trong trăm ngàn muôn ức kiếp sau, thường ở cõi trời hưởng thọ sự vui thắng diệu. Hoặc lúc phước trời hết, sanh xuống chốn nhơn gian, vẫn còn thường làm vị Ðế Vương trong trăm ngàn kiếp, lại nhớ cội nguồn nhơn quả trong các đời trước của mình—If there are men and women in the future who do not practice what is good but do what is evil, who do not believe in cause and effect, but who indulge in sexual misconduct and false speech, who practice double-tongued and harsh speech, and who slander the Great Vehicle, all living beings with karma like that will certainly fall into the evil paths. But if they encounter a good knowing advisor who, in the flick of a finger, leads them to take refuge with Earth Store Bodhisattva, all those living beings will obtain release from the retribution of the Three Evil Paths. If there are those whose acts show deference to him; who are respectful with determined minds; who gaze in worship, praise, and make offerings of flowers, incense, clothing, various gems, or food and drink to him, they will continually be born in the heavens. There they will enjoy supremely wonderful bliss for hundreds of thousands of ten thousands of millions of kalpas. If their heavenly merit is ended and they re born below in the world of human, they will still, throughout hundreds of thousands of kalpas, constantly be emperors and will be capable of remembering the causes and effects of their former lives from beginning to end.
Nầy Ðịnh Tự Tại Vương! Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát có sức oai thần rất lớn không thể nghĩ bàn, nhiều sự lợi ích cho chúng sanh như thế. Các ông, những bậc Bồ Tát, phải ghi nhớ kinh nầy hầu tuyên lưu rộng ra—O, Samadhi Self-Mastery King, so it is that Earth Store Bodhisattva has such inconceivably great and awesome spiritual power to benefit vast numbers of living beings. All you Bodhisattvas should remember this Sutra and proclaim and widely spread it.”
Ngài Ðịnh Tự Tại Vương bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Xin Phật chớ lo! Ngàn muôn ức đại Bồ Tát chúng con đều có thể nương oai thần của Phật mà tuyên lưu rộng kinh nầy nơi cõi Diêm Phù Ðề để cho lợi ích chúng sanh—Samadhi Self-Mastery King said to the Buddha: “World Honored One, please do not be concerned. We thousands of ten thousands of millions of Bodhisattvas Mahasattvas, receiving the Buddha’s awesome spirit, will certainly proclaim this Sutra widely throughout Jambudvipa for the benefit of living beings.”
Ngài Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát bạch với đức Phật xong, bèn cung kính chắp tay lễ Phật mà lui ra—Having spoken thus to the Buddha, the Bodhisattva Samadhi Self-Mastery King put his palms together respectfully, bowed, and withdrew.
Bấy giờ, Tứ Thiên Vương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chấp tay mà bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát từ kiếp lâu xa nhẫn lại đã phát nguyện rộng lớn như thế, tại sao ngày nay mà vẫn chưa độ hết, ngài lại còn phải phát lời nguyện rộng lớn nữa? Cúi mong Ðức Thế Tôn dạy cho chúng con rõ.”—At that time the Four Heavenly Kings arose from their seats, put their palms together respectfully, and said to the Buddha: “World Honored One! Since Earth Store Bodhisattva has made great vows for so many kalpas, why then has he now yet completed his taking across of beings? Why does he continue to make such far-reaching vast vows? Please, World Honored One, explain this for us.”
Phật bảo bố vị Thiên Vương rằng: “Hay thay! Hay thay! Nay vì muốn được sự lợi ích cho chúng sanh, Ta vì các ông cùng Thiên Nhơn ở hiện tại và vị lai, mà nói những sự phương tiện của ngài Ðịa Tạng Bồ Tát ở trong đường sanh tử nơi Diêm Phù Ðề ở Ta Bà thế giới nầy, vì lòng từ mẫn xót thương mà cứu vớt, độ thoát tất cả chúng sanh mắc phải tội khổ.”—The Buddha told the Four Heavenly Kings: “Excellent! Excellent! Now to bring vast benefit to you, as well as to the humans and gods of the present and future, I shall speak of earth Store Bodhisattva’s works in the paths of birth and death in Jambudvipa in the Saha World. I shall speak of his expedient devices and of his kindness and pity in rescuing, saving, taking across, and liberating all beings who are suffering for their offenses.”
Bốn vị Thiên Vương bạch Phật: “Vâng! Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng con xin muốn được nghe.”—The Four Heavenly Kings replied: “Indeed! World Honored One! We would like to hear about his work.”
Ðức Phật bảo bốn vị Thiên Vương: “Từ kiếp lâu xa nhẫn đến ngày nay, Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát độ thoát chúng sanh vẫn còn chưa mãn nguyện, ngài thương xót chúng sanh mắc tội khổ đời nầy, lại quan sát vô lượng kiếp về sau, tội khổ cứ dây dưa mãi không dứt. Vì lẽ đó nên ngài lại phát ra lời trọng nguyện. Ðịa Tạng Bồ Tát ở trong cõi Diêm Phù Ðề nơi thế giới Ta Bà, dùng trăm ngàn muôn ức phương tiện để giáo hóa chúng sanh.”—The Buddha told the Four Heavenly Kings: “From kalpas long ago until the present, Earth Store Bodhisattva has taken across and liberated living beings; yet out of kindness and pity for those beings still suffering for their offenses in this world, he has not yet completed his vows. Moreover, he sees that their causes for limitless kalpas in the future are like uncut vines, and because of this he renews his mighty vows. Thus, in the continent of Jambuvipa, in the Saha World, this Bodhisattva teaches and transforms beings by means of hundreds of thousands of ten thousands of millions of expedient devices.”
Nầy bốn vị Thiên Vương!—Four Heavenly Kings!
· Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát nếu gặp kẻ sát hại loài sinh vật, thời dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải bị chết yểu—If Earth Store Bodhisattva meets those who take life, he speaks of a retribution of a short lifespan.
· Nếu gặp kẻ trộm cắp, thời ngài dạy rõ quả báo nghèo khốn khổ sở—If he meets robbers and petty thieves, he speaks of a retribution of poverty and acute suffering.
· Nếu gặp kẻ tà dâm thời ngài dạy rõ quả báo làm chim se sẽ, bồ câu, uyên ương—If he meets those who commit sexual misconduct, he speaks of the retribution of being born as pigeons and as mandrin ducks and drakes.
· Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thời ngài dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau—If he meets those of harsh speech, he speaks of the retribution of a quarreling family.
· Nếu gặp kẻ hay khinh chê, thời ngài dạy rõ quả báo không lưỡi và miệng lở—If he meets slanderers, he speaks of the retribution of a tongueless and cankerous mouth.
· Nếu gặp kẻ quá nóng giận, thời ngài dạy rõ quả báo thân hình xấu xí tàn tật—If he meets those with anger and hatred, he speaks of being ugly and crippled.
· Nếu gặp kẻ bỏn xẻn thời ngài dạy rõ quả báo cầu muốn không được toại nguyện—If he meets those who are stingy, he speaks of frustrated desires.
· Nếu gặp kẻ ham ăn, thời ngài dạy rõ quả báo đói, khát và đau cổ họng—If he meets gluttons, he speaks of the retribution of hunger, thirst and sicknesses (illnesses) of the throat.
· Nếu gặp kẻ buông lung săn bắn, thời ngài dạy rõ quả báo kinh hãi điên cuồng mất mạng—If he meets those who enjoy hunting, he speaks of a frightening insanity and disastrous fate.
· Nếu gặp kẻ trái nghịch cha mẹ, thời ngài dạy rõ quả báo trời đất tru lục—If he meets those who rebel against their parens, he speaks of the retribution of being killed in natural disasters.
· Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cỏ, thời ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết—If he meets those who set fire to mountains or forests, he speaks of the retribution of seeking to commit suicide in the confusion of insanity.
· Nếu gặp cha mẹ ghẻ ăn ở độc ác, thời ngài dạy rõ quả báo thác sanh trở lại hiện đời bị roi vọt—If he meets malicious parents or step-parents, he speaks of the retribution of being flogged in future lives.
· Nếu gặp kẻ dùng lưới bắt chim non, thời ngài dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa—If he meets those who net and trap young animals, he speaks of the retribution of being separated from their own children.
· Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, thời ngài dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng—If he meets those who slander the Triple Jewel, he speaks of the retribution of being blind, deaf or mute.
· Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp, thời ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo—If he meets those who slight the Dharma and regard the teachings with arrogance, he speaks of the retribution of dwelling in the evil paths forever.
· Nếu gặp kẻ lạm phá của thường trụ, thời ngài dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục—If he meets those who destroy or misuse possessions of the permanently dwelling, he speaks of the retribution of revolving in the hells for millions of kalpas.
· Nếu gặp kẻ làm ô nhục người tịnh hạnh và vu báng Tăng già, thời ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh—If he meets those wo defile the pure conduct of others and falsely accuse the Sangha, he speaks of the retribution of an eternity in the animal realm.
· Nếu gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa, chém chặt, giết hại sanh vật, thời ngài dạy rõ quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau—If he meets those who scald, burn, behead, chop up or othewise harm living beings, he speaks of the retribution of repayment in kind.
· Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thời ngài dạy rõ quả báo cầm thú đói khát—If he meets those who violate precepts and the regulations of pure eating, he speaks of the retribution of being born as birds and beasts suffering from hunger and thirst.
· Nếu gặp kẻ ngã mạn cống cao, thời ngài dạy rõ quả báo hèn hạ bị người sai khiến—If he meets those who are arrogant and haughty, he speaks of the retribution of being servile and of low classes.
· Nếu gặp kẻ đâm thọc gây gổ, thời ngài dạy rõ quả báo không lưỡi hay trăm lưỡi—If he meets those whose double-tongued behavior causes dissension and discord, he speaks of retribution of tonguelessness (being mute) and speech impediments.
· Nếu gặp kẻ tà kiến mê tín, thời ngài dạy rõ quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh—If he meets those of deviant view, he speaks of the retribution of rebirth in the frontier regions.
Những chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề, từ nơi thân khẩu ý tạo tác, kết quả trăm ngàn muôn sự báo ứng như thế, nay chỉ nói sơ lược đó thôi. Những nghiệp cảm sai khác của chúng sanh trong chốn Diêm Phù Ðề như thế, Ðịa Tạng Bồ Tát dùng trăm ngàn phương tiện để giáo hóa. Những chúng sanh ấy trước phải chịu lấy các quả báo như thế, sau lại đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp không lúc nào thoát khỏi. Vì thế nên các ông là bậc bảo vệ người cùng bảo trợ cõi nước, chớ để những nghiệp chướng đó làm mê hoặc chúng sanh—That is a general description of the hundreds of thousands of differing retributions resulting from the habitual evil deeds of body, mouth and mind committed by the living beings of Jambudvipa. Since the living beings of Jambudvipa have such differing karmic responses, Earth Store Bodhisattva uses hundreds of thousands of expedient means to teach and transform them. The living beings who commit offenses must first undergo retributions such as these and, then, fall into the hells, where they pass through kalpas with no moment of escape. You should therefore protect people and protect their countries. Do not allow living beings to be confused by these manifold deeds.
Bốn vị Thiên Vương nghe xong, rơi lệ than thở chắp tay lễ Phật mà lui ra—On hearing this, the Four Heavenly Kings wept sorrowfully, placed their palms together, and withdrew.