Tổ Đình Minh Đăng Quang
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN – BUDDHIST DICTIONARY
Thiện Phúc

PHỤ LỤC (APPENDICES)

 PHỤ LỤC K – Appendix K

Kinh Duy Ma Cật
The Vimalakirti Sutra

CHƯƠNG MƯỜI BA—CHAPTER THIRTEEN

—PHẨM PHÁP CÚNG DƯỜNG—THE OFFERING OF DHARMA

Bấy giờ Thích Ðề Hoàn Nhơn ở trong chúng bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con dù theo Phật và Ngài Văn Thù Sư Lợi nghe nói trăm ngàn thứ kinh mà chưa từng nghe kinh điển bất khả tư nghì tự tại thần thông quyết định thực tướng. Như con hiểu nghĩa lý của Phật nói, nếu chúng sanh nào nghe kinh pháp nầy mà tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thì quyết được pháp nầy không nghi, huống chi đúng như lời nói mà tu hành, thời người đó ngăn hết các nẻo ác, mở cửa lành, thường được chư Phật hộ niệm, hàng phục ngoại đạo, dẹp trừ ma oán, tu đạo Bồ Ðề, an ở nơi đạo tràng, noi theo dấu vết thực hành của Như Lai.”—Thereupon, Sakra who was in the assembly, said to the Buddha: “World Honoured One, although I have listened to hundreds and thousands of sutras expounded by you and Manjusri, I did not hear of this inconceivable sutra of supramundane sovereign power and absolute reality. As I understand from your present preaching, if living beings listening to the Dharma of this sutra, believe, understand, receive, uphold, read and recite it, they will surely realize this Dharma. How much more so if someone practices it as expounded; he will shut all doors to evil destinies and will open up all doors to blessing; will win the Buddha’s perfection; will overcome heresy; destroy the demons; cultivate bodhi; set up a place of enlightenment (bodhimandala) and follow in the Tathagata’s footsteps.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người thọ trì đọc tụng, đúng như lời nói tu hành, con sẽ cùng quyến thuộc cúng dường hầu hạ. Ở nơi tụ lạc, thành ấp, núi rừng, đồng nội, chỗ nào có kinh nầy, con sẽ cùng quyến thuộc đồng đến chỗ đó nghe thọ kinh pháp. Những người chưa tin, sẽ làm cho họ sanh lòng tin, người đã tin rồi chúng con sẽ ủng hộ—World Honoured One, if there are people who receive, uphold, read, recite and practice this sutra, I and my followers will provide them with all the necessaries of life. If this sutra is kept in a town or a hamlet, in a grove or a desert, I and my followers will come to the place of the preacher to listen to its Dharma. I shall cause the unbelievers to develop faith in this sutra. As to the believers of it I shall protect them.”

Phật nói: “Hay thay! Hay thay! Thiên Ðế! Như ông nói, ta sẽ giúp cho ông được vui thêm. Kinh nầy rộng rãi nói đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác bất khả tư nghì của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì thế Thiên Ðế! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào thọ trì, đọc tụng, cúng dường kinh pháp nầy, thời chính là cúng dường chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai vậy. Thiên Ðế! Giả sử có các Như Lai đầy khắp cõi tam thiên đại thiên như mía, tre, lau, lúa, mè, rừng bụi, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào hoặc một kiếp hoặc không đầy một kiếp cung kính tôn trọng, ngợi khen cúng dường, dâng các món cần dùng cho đến sau khi các Ðức Phật diệt độ, đem xá lợi toàn thân của mỗi vị Phật dựng tháp bảy báu, ngang rộng bằng cõi tứ thiên hạ, cao đến trời Phạm Thiên, bảo tháp trang nghiêm rực rỡ, dùng tất cả hoa, hương, anh lạc, tràng phan, kỹ nhạc tốt đẹp bậc nhứt, hoặc một kiếp, hoặc ít hơn một kiếp, mà cúng dường. Thiên Ðế! Ý ông nghĩ sao, người đó làm việc phước có nhiều chăng?”—The Buddha said: “Excellent, Sakra, excellent; it is gratifying to hear what you have just said. This sutra gives a detailed exposition of the inconceivable supreme enlightenment realized by past, future and present Buddhas.

“Therefore, Sakra, if a virtuous man or woman receives, keeps, reads, recites and reveres this sutra, such an attitude is equal to making offering to past, future and present Buddhas. Sakra, if the great chiliocosm were full of countless Tathagatas as many as the sugar canes, bamboos, reeds, recites grains and hemp seeds in its fields; and if a virtuous man or woman who has passed either a whole aeon or decreasing kalpa to revere, honour, praise, serve and make offerings to these Buddhas, and then after their nirvana (death) should build with relics from their bodies a seven-gemmed stupa as large as the four deva-heavens (put together) and of a height reaching the Brahma heaven with a majestic spire, to which he or she will make offerings of flowers, incense, strings of precious stones, banners and melodious music, during either a whole kalpa or in a decreasing one, Sakra, what do you think of his or her merits? Are they many?”

Ðế Thích thưa: “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều, phước đức của người đó dẫu cho trăm ngàn ức kiếp nói mãi cũng không hết được.”—Sakra replied: “Very many, World Honoured One, and it is impossible to count his or her merits for hundreds and thousands of aeons.”

Phật bảo: “Thiên Ðế! Phải biết người thiện nam tử thiện nữ nhân đó nghe kinh điển “Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát” nầy tin hiểu thọ trì tụng đọc tu hành thì phước đức hơn người làm việc cúng dường kia. Vì sao? Quả Bồ Ðề của chư Phật đều từ kinh nầy sanh ra, tướng Bồ Ðề không có hạn lượng, do nhân duyên đó nên phước đức cũng không có hạn lượng.”—The Buddha said: “Sakra, you should know that if another virtuous man or woman, after hearing this sutra of inconceivable liberation, believes, understands, receives, keeps, reads, recites and practices this sutra, his or her merits will surpass those of the former man or woman. Why? Because the bodhi (enlightenment) of all Buddhas originates from this Dharma, and since enlightenment is beyond all measuring, the merits of this sutra cannot be estimated.”

Phật bảo tiếp: “Thiên Ðế! Về quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, lúc ấy ở đời có Phật hiệu là Dược Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước đại trang nghiêm, kiếp tên là Trang Nghiêm Phật sống lâu 20 tiểu kiếp, chúng Thanh Văn Tăng có 36 ức na do tha, chúng Bồ Tát Tăng có 12 ức. Thiên Ðế! Lúc đó, có vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là Bảo Cái, đầy đủ bảy báu, cai trị bốn thiên hạ. Vua có một ngàn người con tốt đẹp mạnh mẽ, hay dẹp trừ các kẻ oán địch.”—The Buddha continued: “Long before an uncountable number of aeons in the past there was a Buddha called Bhaisajya-raja (whose titles are:) Tathagata, Arhat, Samyaksambuddha, Vidya-Carana-Sampanna, Sugata, Lokavid, Anuttara, Purusa-Damya-Sarathi, Sasta Devamanusyanam, and Buddha-lokanatha or Bhagavan. His world was called Mahavyuha and the then aeon Alamkarakakalpa. The Buddha Bhaisajya-raja lived for twenty small kalpas. The number of sravakas reached thirty-six nayutas and that of Bodhisattvas twelve lacs. There, Sakra, was a heavenly ruler (cakravarti) called Precious Canopy who possessed all the seven treasures and was the guardian of four heavens. He had a thousand sons who were respectable and brave and had overcome all opposition.

Lúc đó, vua Bảo Cái cùng quyến thuộc cúng dường Dược Vương Như Lai, dâng cúng các đồ cần dùng đến năm kiếp. Qua năm kiếp rồi, vua bảo ngàn người con rằng: “Các ngươi cũng phải đem thân tâm cúng dường Phật như ta vậy.”—“At the time Precious Canopy and his retinue had worshipped and made offerings to the Tathagata Bhaisajya-raja for five aeons after which he said to his thousand sons: ‘You should respectfully make offerings to the Buddha as I have done.’

Khi đó ngàn người con đều vâng lệnh của vua cha cúng dường Dược Vương Như Lai, dâng cúng tất cả đồ cần dùng cũng mãn năm kiếp. Có một người con của vua tên là Nguyệt Cái, ngồi một mình suy nghĩ rằng: ‘Có việc cúng dường nào thù thắng hơn việc cúng dường nầy chăng?’—Obeying their father’s order they made offerings to the Tathagata Bhaisajya for five-aeons after which one of the sons called Lunar Canopy, while alone, thought: ‘Is there some other form of offering surpassing what we have made up to now?

Do sức oai thần của Phật, ở giữa hư không có vị Trời nói rằng: “Thiện nam tử! Pháp cúng dường là hơn hết các việc cúng dường.”—Under the influence of the Buddha’s transcendental power a deva in the sky said: “Virtuous man, the offering of Dharma surpasses all other forms of offering.”

Nguyệt Cái liền hỏi: “Sao gọi là Pháp cúng dường?”—Lunar Canopy asked: ‘What is this offering of Dharma?’

Vị trời đáp: “Ông đến hỏi Ðức Dược Vương Như Lai, Ngài sẽ nói rõ thế nào là Pháp cúng dường.”—The deva replied: ‘Go to the Tathagata Bhaisajya who will explain it fully.’

Tức thì Nguyệt Cái vương tử đến chỗ Dược Vương Như Lai cúi đầu lễ dưới chân Phật, rồi đứng qua một bên bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Trong việc cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Thế nào gọi là Pháp cúng dường?”—Thereupon, Lunar Canopy came to the Tathagata Bhaisajya, bowed his head at his feet and stood at his side, asking: ‘World Honoured One, (I have heard that) the offering of Dharma surpasses all other forms of offering; what is the offering of Dharma?’

Phật dạy rằng: “Thiện nam tử! Pháp cúng dường là kinh thâm diệu của chư Phật nói ra, tất cả trong đời khó tin khó nhận, nhiệm mầu khó thấy, thanh tịnh không nhiễm, không phải lấy suy nghĩ phân biệt mà biết được. Kinh nầy nhiếp về pháp tạng của Bồ Tát, ấn đà la ni, ấn đó cho đến bất thối chuyển, thành tựu lục độ, khéo phân biệt các nghĩa, thuận pháp Bồ Ðề, trên hết các kinh, vào các đại từ bi, lìa các việc ma và các tà kiến, thuận pháp nhân duyên, không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ mạng, không vô tướng, vô tác, vô khởi, làm cho chúng sanh ngồi nơi đạo tràng mà chuyển pháp luân, chư Thiên, Long thần, Càn thát bà thảy đều ngợi khen, đưa chúng sanh vào pháp tạng của Phật, nhiếp tất cả trí tuệ của Hiền Thánh, diễn nói cách tu hành của Bồ Tát, nương theo nghĩa thực tướng của các pháp, tuyên bày các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt, cứu độ chúng sanh hủy phá giới cấm, làm cho tà ma ngoại đạo và người tham lam chấp trước đều sợ sệt, chư Phật, Hiền, Thánh đều ngợi khen, xóa trắng cái khổ sanh tử và chỉ ra cái vui Niết Bàn mà chư Phật ba đời ở trong mười phương đều nói ra, nếu người nghe những kinh như thế mà tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, dùng sức phương tiện phân biệt giải nói, chỉ bày rành rẽ cho chúng sanh, giữ gìn chánh pháp, đó gọi là Pháp cúng dường.”—“The Tathagata repolied: ‘Virtuous one, the offering of Dharma is preached by all Buddhas in profound sutras but it is hard for worldly men to believe and accept it as its meaning is subtle and not easily detected, for it is impeacable in its purity and cleanness. It is beyond the reach of thinking and discriminating; it contains the treasure of the Bodhi-sattva’s Dharma store and is sealed by the Dharani-symbol; it never backslides for it achieves the six perfections (paramitas); discerns the difference between various meanings; is in line with the bodhi Dharma; is at the top of all sutras; helps people to enter upon great kindness and great compassion; to keep from demons and perverse views, and to conform with the law of causality and the teaching on the unreality of an ego; a man, a living being and life and on voidness, formlessness, non-creating and non-uprising. It enables living beings to sit in a bodhimandala to turn the wheel of the law. It is praised and honoured by heavenly dragons, gandharvas, etc. It can help living beings to reach the Buddha’s Dharma store and gather all knowledge (sarvajna realized by) saints and sages, preach the path followed by all Bodhisattvas; rely on the reality underlying all things; proclaim the (doctrine of) impermanence, suffering; voidness and absence of ego and nirvana. It can save all living beings who have broken the precepts and keep in awe all demons, heretics and greedy people. It is praised by the Buddhas, saints and sages for it wipes out suffering from birth and death; proclaims the joy in nirvana as preached by past; future and present Buddhas in the ten directions.

“If a listener after hearing about this sutra, believes, understands, receives, upholds, reads and recites it and uses appropriate methods (upaya) to preach it clearly to others, this upholding of the Dharma is called the offering of Dharma.

Lại theo các pháp đúng như lời nói tu hành, tùy thuận 12 nhơn duyên, lìa tà kiến, được vô sanh nhẫn, quyết định không có ngã, không có chúng sanh, mà đối với quả báo nhơn duyên không trái không cãi, lìa các ngã sở, y theo nghĩa không y theo lời, y theo trí không y theo thức, y theo kinh liễu nghĩa không y theo kinh không liễu nghĩa, y theo pháp không y theo người, thuận theo pháp tướng, không chỗ vào, không chỗ về, vô minh diệt hết thời hành cũng diệt hết, cho đến sanh diệt hết thời lão tử cũng diệt hết, quán như thế thì 12 nhơn duyên không có tướng diệt, không có tướng khởi, đó gọi là Pháp cúng dường hơn hết.”—“Further, the practice of all Dharmas as preached; to keep in line with the doctrine of the twelve links in the chain of existence; to wipe out all heterodox views; to achieve the patient endurance of the uncreate (anutpatti-dharma-ksanti) (as beyond creation); to settle once for all the unreality of the ego and the non-existence of living beings; and to forsake all dualities of ego and its objects without deviation from and contradiction to the law of causality and retribution for good and evil; by trusting to the meaning rather than the letter; to wisdom rather than consciousness; to sutras revealing the whole truth rather than those of partial revelation; and to the Dharma instead of the man (i.e. the preacher); to conform with the twelve links in the chain of existence (nidanas) that have neither whence to come nor wither to go; beginning from ignorance (avidya) which is fundamentally non-existent, and conception (samskara) which is also basically unreal, down to birth (jati) which is fundamentally non-existent; and old age and death (jaramarana) which are equally unreal. Thus, contemplated, the twelve links in the chain of existence are inexhaustible, thereby putting an end to the (wrong) view of annihilation. This is the unsurpassed offering of Dharma.”

Phật bảo: “Thiên Ðế! Vương tử Nguyệt Cái theo Phật Dược Vương nghe pháp như thế rồi được pháp ‘nhu thuận nhẫn,’ liền cởi y báu và đồ trang sức nơi thân cúng dường Phật và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ con sẽ thực hành Pháp cúng dường để giữ gìn Chánh pháp, nguyện nhờ oai thần của Như Lai thương xót gia hộ cho con được hàng phục ma oán tu hạnh Bồ Tát.”—The Buddha then said to Sakra: “Lunar Canopy, after hearing the Dharma from the Buddha Bhaisajya (the Buddha of Medicine), realized (only) the patience of Meekness and took off his precious robe to offer it to that Buddha, saying: “World Honoured One, after your nirvana, I shall make offerings of Dharma to uphold the right doctrine; will your awe-inspiring majestic help me to overcome the demons and to practise the Bodhisattva line of conduct?’”

Phật biết tâm niệm của ông nên thọ ký rằng: “Về đời sau nầy ông giữ gìn thành trì Chánh Pháp.”—The Buddha Bhaisajya knew of his deep thought and prophesied: “Until the last moment you will guard the Dharma protecting citadel.”

Nầy Thiên Ðế! Vương tử Nguyệt Cái lúc đó thấy được pháp thanh tịnh, nghe Phật thọ ký đem lòng chánh tín xuất gia tu tập các pháp lành, tinh tấn không bao lâu chứng ngũ thông, đủ đạo hạnh Bồ Tát, được môn đà la ni, biện tài vô ngại. Sau khi Phật diệt độ, ông dùng sức thần thông, tổng trì biện tài đã chứng được, y theo pháp của Dược Vương Như Lai đã nói mà ban bố ra mãn mười tiểu kiếp—Sakra, at that time Lunar Canopy perceived the pure and clean Dharma, and after receiving the Buddha’s prophecy, believed it and left his home to join the order. He practiced the Dharma so diligently that he soon realized the five transcendental powers. In his Bodhisattvas development, he won the endless power of speech through his perfect control (dharani- of all external influences). After the nirvana of the Buddha Bhaisajya, he used this power of speech to turn the wheel of the law, spreading the Dharma widely for ten small aeons.

Tỳ Kheo Nguyệt Cái giữ gìn Phật pháp, siêng tu tinh tấn ngay đời đó hóa độ được trăm muôn ức người ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không còn thối lui, 14 na do tha người phát hẳn tâm Thanh Văn, Duyên Giác, và vô lượng chúng sanh được sanh về cõi Trời—Lunar Canopy was indefatigable (untiring) in his preaching of the Dharma and converted a million lacs of people who stood firm in their quest of supreme enlightenment, fourteen nayutas of people who set their minds on achieving the sravaka and pratyeka-buddha stages, and countless living beings who were reborn in the heavens.

Thiên Ðế! Vua Bảo Cái lúc ấy đâu phải người nào khác, hiện nay thành Phật hiệu là Bảo Diệm Như Lai, còn một ngàn người con của vua chính là một ngàn vị Phật trong đời Hiền Kiếp, mà đức Ca La Cưu Tôn Ðà thành Phật trước hết, đến vị Phật thành sau rốt sau hiệu là Lầu Chi, còn Nguyệt Cái Tỳ Kheo chính là thân ta đây (tức Phật Thích Ca, vị Phật thứ tư trong đời Hiền Kiếp). Như thế, Thiên Ðế phải biết cái yếu điểm Pháp cúng dường là hơn hết trong việc cúng dường, bực nhất không chi sánh kịp. Này Thiên Ðế! Phải lấy Pháp cúng dường mà cúng dường các đức Phật—Sakra, who was that Royal Precious Canopy? He is now a Buddha called the Tathagata Precious Flame and his one thousand sons are the thousand Buddhas of the (present) Bhadrakalpa (the virtuous aeon) whose first Buddha was Krakucchanda and last Buddha was Rucika. Bhiksu Lunar Canopy was myself. Sakra, you should know that the offering of Dharma is the highest form of offering. Therefore, Sakra, you should make the offering of Dharma as an offering to all Buddhas.”

 

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14