KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN

Tỳ-kheo Thích Giác Quả lược giải

 

LỜI NÓI ĐẦU

Từ lâu, ở các nước thuộc hệ phái Bắc tông nói chung, Việt Nam nói riêng, kinh Pháp Hoa đã được phổ cập rộng sâu trong hàng ngũ Phật tử xuất gia cũng như tại gia. Đặc biệt, phẩm Phổ Môn, phẩm thứ 25 trong 28 phẩm của kinh Pháp Hoa, lại càng ảnh hưởng sâu rộng hơn trong đời sống tu tập của mọi người con Phật.

Được duyên lành, bút giả đảm nhận giảng dạy phẩm Phổ Môn này cho lớp Tu học Phật pháp dành cho quý vị Phật tử tại gia đang học tại Học Viện Huế. Để giúp người học nắm bắt được yếu nghĩa của Phổ Môn, bút giả cố gắng dịch và giải từ bản Hán văn do ngài Cưu-ma-la- thập dịch, qua Việt văn với nội dung gồm các chương:

CHƯƠNG I: NHẬN THỨC KHÁI QUÁT.

CHƯƠNG II: Ý NGHĨA TÊN KINH.

CHƯƠNG III: DỊCH – GIẢI PHẦN CHÁNH VĂN. Gồm có:

III-1. Bạch hỏi Nhân duyên. (Phần Tựa)

III-2. Giải trừ bảy nạn. (Phần Chánh tông)

III-3. Giải trừ ba độc.

III-4. Đáp ứng hai nhu cầu.

III-5. Công đức trì niệm, lễ bái, cúng dường.

III-6. Ứng hóa 32 thân, thuyết pháp 19 cách.

III-7. Cúng dường.

III-8. Lập lại câu hỏi và đáp (bằng kệ).

III-9. Công đức nghe phẩm Phổ Môn của hội chúng hiện tại và tương lai (Phần Lưu thông).

CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN

– Hy vọng với phần dịch-giải giới hạn và khiêm tốn này sẽ giúp quý vị Phật tử nắm được điểm căn bản về cả hai mặt sự và lý của phẩm Kinh.

Hồng Đức, ngày 19 tháng 2 năm 2003
TK. Thích Giác Quả
Kính đề

 

Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Lược Giải

 

CHƯƠNG I: NHẬN THỨC KHÁI QUÁT

Phổ Môn là phẩm thứ 25 trong 28 phẩm của kinh Pháp Hoa. Theo tông Thiên Thai, nội dung của Pháp Hoa gồm có 2 phần:

1. Phần Tích môn: Gồm 14 phẩm đầu. Là phần trình bày sự hóa độ của đức Phật Thích-ca biểu hiện qua lịch sử, như tu tập, thành đạo và giáo hóa (Khai- Thị Tri kiến Phật).

2. Phần Bản môn: Gồm 14 phẩm sau. Là phần trình bày về tánh Phật – tánh Phật vốn thường hằng không sinh, không diệt; Và giới thiệu con đường đi vào tánh Phật ấy (Ngộ-Nhập Tri kiến Phật) qua hạnh nguyện Bồ-tát.

Nội dung phẩm Phổ Môn xác minh: Tất cả chúng sinh đều có tánh Phật và giới thiệu con đường ngộ nhập tánh Phật ấy. Con đường đó được biểu thị bởi hạnh nguyện Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí của Bồ-tát Quán Thế Âm qua ba mươi hai hóa thân, mười chín cách thuyết pháp, cứu khổ bảy nạn, giải trừ ba độc, đáp ứng hai mong cầu v.v… cho chúng sinh. Đây chính là con đường của Lục độ Ba-la-mật (Giới-Định-Tuệ), con đường để phát triển, phát huy và thành tựu Đại Từ bi và Đại Trí tuệ của Bồ-tát đạo vậy.

CHƯƠNG II: Ý NGHĨA TÊN KINH

– Âm:

Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn phẩm.

– Nghĩa: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ Môn trình bày về Bồ-tát Quán Thế Âm.

– Giải:

Kinh (Sutra): Dịch âm là Tu-đa-la. Kinh có nghĩa là quán xuyến các pháp, trải suốt cổ kim mãi mãi không mất. Nghĩa rộng của kinh là gồm tất cả giáo pháp được Thế Tôn dạy. Nghĩa hẹp là tạng kinh trong Tam tạng Kinh-Luật-Luận.

Diệu Pháp (Saddharma): Pháp thù thắng đệ nhất không thể nghĩ bàn thì gọi là Diệu Pháp.

Liên Hoa (Padma): Hoa sen. Hoa sen biểu tượng tánh vô nhiễm, đó là Tánh Phật.

Phẩm (varga): Phẩm loại. Tức tập hợp các loại giống nhau thành một tập, gọi là phẩm.

Phổ Môn (Samanta-mukuha): Một môn thống nhiếp tất cả các pháp gọi là Phổ Môn, cũng gọi là Phổ Pháp. Phổ Môn còn chỉ ý nghĩa uy lực của Bồ-tát Quán Thế Âm mở toang cửa vô lượng, thị hiện vô số thân, viên thông hết thảy chúng sinh.

Bồ-tát (Bodhisattva): Nói đủ là Bồ-đề-tát-đỏa. Bồ-đề (Bodhi): Giác ngộ. Tát đỏa (Sattva): Hữu tình. Bồ-tát nghĩa là Giác hữu tình – vị đem sự giác ngộ của mình để giác ngộ cho tất cả chúng sinh.

Quán Thế Âm (Avalokitesvara): Tên của một vị Đại Bồ-tát. Còn có tên Quán Tự Tại, Quán Thế Tự Tại, gọi tắt là Quán Âm.

Quán Thế Âm: Quán sát hết thảy âm thanh trong pháp giới mà tùy duyên hóa độ.

Quán Thế Tự Tại: Quán sát thế giới mà tự tại ban vui, cứu khổ.

Tóm lại, tên Kinh (Diệu Pháp Liên Hoa) đã gói trọn nội dung của Kinh, là chỉ bày (Khai-Thị) thật tướng của thế giới là thường trụ, vô nhiễm (Hoa sen-tánh Phật), nằm ngoài mọi tham ái, chấp thủ. Và, chúng sinh có thể Ngộ-Nhập thật tướng ấy, giải thoát khỏi dòng đời ngũ trược ác thế này qua hạnh nguyện mà Bồ-tát Quán Thế Âm đã biểu hiện.

CHƯƠNG III: DỊCH GIẢI PHẦN CHÁNH VĂN

– Âm:

Nhĩ thời, Vô Tận Ý Bồ-tát tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi tác thị ngôn: Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ-tát, dĩ hà Nhân duyên, danh Quán Thế Âm?

– Nghĩa: Bạch hỏi Nhân duyên1

Vào thời điểm bấy giờ,
Bồ-tát Vô Tận Ý,
Từ chỗ ngồi đứng dậy,
Kéo y bày vai phải,
Hướng về đức Thế Tôn,
Chấp tay cung kính thưa:
Kính bạch đức Thế Tôn,
Do bởi Nhân duyên gì,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Tên là Quán Thế Âm?

– Giải:

Đoạn trên là Nhân duyên trực tiếp để Thế Tôn thuyết giảng phẩm Phổ Môn.

Đại ý: Trong thời Pháp Hoa, Thế Tôn đã giảng từ phẩm Tựa thứ nhất đến phẩm Bồ-tát Diệu Âm thứ 24; bấy giờ Bồ-tát Vô Tận Ý đại diện thính chúng, trình lên Thế Tôn sự thắc mắc, xin Ngài chỉ dạy. Thính chúng thắc mắc rằng, do Nhân duyên gì mà Bồ-tát ấy có tên là Quán Thế Âm.

– Bồ-tát Vô Tận Ý vừa là một vị Bồ-tát đích thực, vừa là ngôn ngữ biểu tượng.

Vô tận: Vô lượng, vô biên, không có giới hạn.

Vô Tận Ý: Ý niệm không bị đóng khung trong bất cứ phạm vi nào. Do vậy, Vô Tận Ý tại đây mang ý nghĩa giác tỉnh thính chúng rằng, muốn hiểu đúng ý nghĩa và hạnh nguyện (sự tu chứng và giáo hóa) của Bồ-tát Quán Thế Âm, thì hành giả phải có cái nhìn vô niệm, vô chấp. Ngược lại, với cái nhìn tham ái, chấp thủ thì không bao giờ hiểu đúng Quán Thế Âm.

Qua ý nghĩa của Vô Tận Ý, Phật tử chúng ta muốn hiểu phẩm Phổ Môn nói riêng, kinh Pháp Hoa nói chung, thì cần phải vận dụng tâm niệm thật thành khẩn, thật trong sáng không chấp trước bất cứ điều gì để đón nhận, mới có lợi ích thiết thực trong sự học và tu.

– Âm:

Phật cáo Vô Tận Ý Bồ-tát: Thiện nam tử! Nhược hữu vô lượng bá thiên vạn ức chúng sinh thọ chư khổ não, văn thị Quán Thế Âm Bồ-tát, nhất tâm xưng danh, Quán Thế Âm Bồ-tát tức thời quán kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát.

Nhược hữu trì thị Quán Thế Âm Bồ-tát danh giả, thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu. Do thị Bồ-tát uy thần lực cố.

Nhược vị đại thủy sở phiêu, xưng kỳ danh hiệu, tức đắc thiển xứ.

Nhược hữu bá thiên vạn ức chúng sinh, vị cầu kim ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu đẳng bảo… nhập ư đại hải. Giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng, phiêu đọa La-sát quỷ quốc, kỳ trung nhược hữu nãi chí nhất nhân xưng Quán Thế Âm Bồ-tát danh giả, thị chư nhân đẳng giai đắc giải thoát La-sát chi nạn. Dĩ thị Nhân duyên, danh Quán Thế Âm.

Nhược phục hữu nhân lâm đương bị hại, xưng Quán Thế Âm Bồ-tát danh giả, bỉ sở chấp đao trượng tầm đoạn đoạn hoại, nhi đắc giải thoát.

Nhược tam thiên đại thiên quốc độ mãn trung Dạ-xoa, La-sát, dục lai não nhân, văn kỳ xưng Quán Thế Âm Bồ-tát danh giả, thị chư ác quỷ, thượng bất năng dĩ ác nhãn thị chi, huống phục gia hại?

Thiết phục hữu nhân, nhược hữu tội, nhược vô tội, nữu giới già tỏa, kiểm hệ kỳ thân, xưng Quán

Thế Âm Bồ-tát danh giả, giai tất đoạn hoại, tức đắc giải thoát.

Nhược tam thiên đại thiên quốc độ, mãn trung oán tặc, hữu nhất thương chủ, tương chư thương nhân, tê trì trọng bảo, kinh quá hiểm lộ, kỳ trung nhất nhân tác thị xướng ngôn: Chư thiện nam tử, vật đắc khủng bố! Nhữ đẳng ưng đương nhất tâm xưng Quán Thế Âm Bồ-tát danh hiệu. Thị Bồ-tát năng dĩ vô uý thí ư chúng sinh. Nhữ đẳng nhược xưng danh giả, ư thử oán tặc, đương đắc giải thoát.

Chúng thương nhân văn, câu phát thanh ngôn: Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát. Xưng kỳ danh cố, tức đắc giải thoát.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát Ma-ha-tát uy thần chi lực, nguy nguy như thị.

– Nghĩa: Giải trừ bảy nạn1.

Đức Thế Tôn đáp lời,
Bồ-tát Vô Tận Ý:
Thiện nam tử lắng nghe!
Giả như có chúng sinh,
Nhiều vô lượng, vô số,
Đang bị các khổ não,
Mà được nghe danh hiệu,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Rồi nhất tâm xưng niệm,
Danh hiệu của Bồ-tát,
Tức thời Quán Thế Âm,
Nghe rõ tiếng niệm ấy,
Đến cứu hết thảy họ,
Giải thoát mọi tai nạn.

Nếu người nào trì niệm2
Danh hiệu Quán Thế Âm,
Dù vào trong lửa lớn,
Lửa không thể đốt cháy,
Đó là nhờ uy lực,
Bồ-tát Quán Thế Âm.
Hoặc bị nước cuốn trôi,
Niệm danh hiệu Bồ-tát,
Liền trôi vào chỗ cạn.

Hoặc có vô số người,
Đi khắp các đại dương,
Để tìm kiếm vật báu,
Như vàng, bạc, lưu ly,
Xa cừ hay mã não,
San hô hoặc hổ phách,
Chân châu và báu khác…
Giả sử ghe thuyền họ,
Bị gió dữ thổi trôi,
Đến nước quỷ La-sát,
Dù một người trong họ,
Niệm hiệu Quán Thế Âm,
Thì tất cả mọi người,
Được thoát nạn La-sát,
Do những Nhân duyên này,
Gọi là Quán Thế Âm.

Hoặc lại có những người,
Sắp bị hại đến thân,
Mà xưng niệm danh hiệu,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Thì dao gậy đối phương,
Gãy lìa thành từng đoạn,
Nhờ vậy mà thoát nạn.

Hoặc Dạ-xa, La-sát,
Đầy thế giới tam thiên3
Muốn tìm người làm hại,
Nghe người ấy niệm hiệu,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Thì những ác quỷ đó,
Không còn nhìn người ấy,
Bằng đôi mắt ác dữ,
Huống gì là làm hại.

Hoặc như có những người,
Phạm tội hay vô tội,
Thân thể bị trói buộc,
Bởi xiềng xích, gông cùm,
Mà xưng niệm danh hiệu,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Thì gông, xiềng tự mở,
Liền được thoát tai nạn.

Hoặc những kẻ trộm cướp,
Đầy thế giới tam thiên,
Có một đại thương gia,
Dẫn đoàn buôn của mình,
Mang theo nhiều báu vật,
Đi qua đường hiểm nguy,
Trong đoàn có một người,
Cất tiếng nói lớn rằng:
Hỡi tất cả các bạn,
Chớ nên quá lo sợ!
Chúng ta hãy nhất tâm,
Cùng xưng niệm danh hiệu,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Bởi vị Bồ-tát này,
Thường ban cho chúng sinh,
Pháp không còn sợ hãi,
Nếu chúng ta xưng niệm,
Sẽ thoát khỏi nạn này.
Đoàn buôn tin tưởng nghe,
Đồng thanh cất tiếng niệm:
Nam mô Quán Thế Âm,
Nhờ niệm danh hiệu ấy,
Tất cả đều thoát nạn.

Này ông Vô Tận Ý, Đại Bồ-tát Quán Âm, Với năng lực uy thần, Cao diệu như thế ấy!

– Giải:

Đoạn này là lời giải thích đầu tiên của đức Thế Tôn cho câu hỏi của Ngài Vô Tận Ý về ý nghĩa của danh xưng Quán Thế Âm. Gồm có hai ý chính:

1. Ý tổng quát (đoạn thứ nhất): Bất cứ chúng sinh nào đang bị khổ nạn gì, được nghe danh hiệu Bồ- tát Quán Thế Âm mà nhất tâm xưng niệm thì đều được Ngài cứu thoát.

2. Ý chi tiết (bảy đoạn còn lại): Trình bày Bồ-tát cứu bảy tai nạn cụ thể cho chúng sinh. Đó là các nạn: Lửa đốt; Nước trôi; Quỷ La-sát; Đánh đập; Chém giết (dao gậy); Quỷ Dạ-xoa và La-sát; Xiềng xích, tù tội và giặc cướp. Đây chỉ là một số tiêu biểu trong những năng lực cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm. Chính do những năng lực cứu độ như vậy mà Ngài có danh hiệu Quán Thế Âm.

Qua nội dung cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm ở đoạn này nói riêng và cả phẩm nói chung, chúng ta cần phải hiểu cả mặt Sự lẫn mặt mới gọi là hiểu ý Kinh.

– Mặt Sự (Hiểu theo nghĩa hẹp):

Bồ-tát Quán Thế Âm cứu bảy tai nạn nói ở trên là có thật. Tuy vậy, kết quả để được Bồ-tát cứu độ là do người bị nạn nhất tâm thành ý khi niệm danh hiệu Ngài. Chính sự nhất tâm-ý ấy, tạo một năng lực bắt gặp (cảm) năng lực Đại từ bi của Bồ-tát (ứng). Nếu không như vậy thì không có hiệu quả.

Mặt khác, để khi hoạn nạn được nhất tâm thành ý niệm danh hiệu Ngài, thì trong cuộc sống đời thường người Phật tử phải có tâm cung kính và có thời khóa trì niệm danh hiệu Ngài hằng ngày liên tục (Nhược hữu trì thị Quán Thế Âm Bồ-tát danh giả…). Trường hợp, một người không có sự trì niệm liên tục hay chưa bao giờ niệm, chỉ niệm khi hoạn nạn mà được Bồ-tát cứu độ là do công đức đã trì niệm danh hiệu Ngài ở các đời trước cảm ứng. Đây chính là dòng vận hành Nhân quả nhiều đời, có Nhân hẳn nhiên có Quả và ngược lại.

– Mặt Lý (hiểu theo nghĩa rốt ráo):

Ngôn ngữ của kinh điển Phật giáo, nhất là kinh điển Bắc tông là những ngôn ngữ biểu tượng. Chính thế, những ngôn ngữ diễn tả bảy tai nạn trên là biểu tượng cho các tâm lý ô nhiễm, bất thiện của con người (chúng sinh): Lửa biểu tượng cho tâm sân; Nước biểu tượng cho tâm tham; Dao-gậy, gông-xiềng, các quỷ dữ và giặc cướp biểu tượng cho tâm hại. Còn Bồ-tát Quán Thế Âm là biểu tượng cho Thật tại Vô ngã (Theo Bát-nhã tâm kinh). Do vậy, niệm danh hiệu Quán Thế Âm chính là quán niệm Thật tại Vô ngã ấy.

Khi một người quán niệm thấy rõ tự thân (năm uẩn-chủ) là Vô ngã, thấy rõ tất cả đối tượng (sáu trần- khách) là Vô ngã, thì tất cả tâm bất thiện Tham-Sân- Hại-Si sẽ rơi rụng. Thời điểm Tam độc rơi rụng hay được đoạn tận, chính là lúc hành giả giải thoát tất cả mọi ách nạn.

Mục đích chư Phật, chư Bồ-tát ra đời là trợ duyên cho chúng sinh để tự họ tu tập nhằm an trú Thật tại Vô ngã này đây (tức chứng đạt Niết-bàn, Niết-bàn là Vô ngã).

– Qua ý nghĩa về Sự và Lý trong sự cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm vừa nói trên, chúng ta có thể rút ra hai nhận xét:

+ Theo Sự, để được Bồ-tát Quán Thế Âm cứu độ khi gặp hoạn nạn, thì trong cuộc sống hằng ngày, người Phật tử cần có tâm tin tưởng và cung kính Ngài; đồng thời, phải có thời khóa trì niệm danh hiệu của Ngài.

+ Theo , tất cả mọi khổ nạn đều phát xuất từ tâm niệm Tham-Sân-Si (hữu ngã) của chúng ta. Vì vậy, để giảm thiểu và đoạn tận khổ nạn, không gì thiết thực hơn là chúng ta phải hành trì Giới Định Tuệ hằng ngày, để chế ngự và đoạn dần Tam độc4. Tu tập Tam học5 nghiêm túc bao nhiêu thì Tam độc giảm thiểu bấy nhiêu (cũng có nghĩa khổ nạn được giảm thiểu bấy nhiêu). Đến thời điểm Tam độc được đoạn tận, chính là thời điểm chúng ta chứng đạt Niết-bàn, đây là mục đích cao nhất của mọi người Phật tử chúng ta.

Thế nên, trách nhiệm cấp thiết và chủ yếu của người Phật tử là đoạn tận hết thảy khổ đau (Tam độc) để đạt cứu cánh Niết-bàn.

– Âm:

Nhược hữu chúng sinh đa ư dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ-tát, tiện đắc ly dục.

Nhược đa sân nhuế, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ-tát, tiện đắc ly sân.

Nhược đa ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ-tát, tiện đắc ly si.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát hữu như thị đẳng đại uy thần lực, đa sở nhiêu ích. Thị cố chúng sinh thường ưng tâm niệm.

– Nghĩa: Giải trừ ba độc1.

Hoặc như chúng sinh nào,
Tâm ý đầy dâm dục6,
Thường cung kính trì niệm,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Dâm dục được đoạn trừ.

Hoặc người đầy sân hận,
Thường cung kính trì niệm,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Sân hận được đoạn trừ.

Hoặc người đầy ngu si,
Thường cung kính trì niệm,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Ngu si được đoạn trừ.

Này ông Vô Tận Ý,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Có năng lực uy thần,
Vĩ đại và lợi ích,
Vô biên như thế đấy!
Do vậy, mọi chúng sinh,
Hãy nhất tâm chuyên niệm.

– Giải:

Đoạn này là đoạn thứ hai, Thế Tôn tiếp tục nói về hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm, hạnh nguyện ấy là một trong những hạnh nguyện biểu tượng ý nghĩa Quán Thế Âm.

– Ý chính của đoạn này là nói về năng lực giải trừ ba độc Tham-Sân-Si cho chúng sinh của Bồ-tát.

Sự cứu độ chúng sinh thoát khỏi Tham-Sân-Si cũng phải hiểu theo hai mặt sự, tương tự như đã trình bày ở đoạn trước.

Tham-Sân-Si chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra hết thảy khổ nạn cho chúng sinh, mà cái khổ sâu nhất là bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi. Chính thế, cứu độ chúng sinh thoát khỏi Tam độc là trọng tâm trong sự cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm và hết thảy chư Bồ-tát, chư Phật.

Trong Tam độc, Si là nguyên nhân cốt lõi, do Si nên Tham dục, Sân hận có mặt. Si đồng nghĩa với Vô minh. Vô minh hay Si chính là sự thấy biết các pháp không đúng sự thật, tức thấy biết rằng con người (năm uẩn) có một tự ngã độc lập và những đối tượng của con người (các pháp) cũng đều có một tự ngã riêng biệt. Trong khi, trên sự thật tất cả các pháp là Duyên sinh Vô ngã.

Thấy biết các pháp là Duyên sinh Vô ngã, đó là Minh, là Vô si; khi ấy Tham-Sân hay tất cả khổ đau đều rơi rụng, đoạn diệt, và đạt giải thoát hoàn toàn. Điểm này Thế Tôn đã nhiều lần tuyên bố: “Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp. Ai thấy Pháp là thấy Ta.”7 Thấy Phật ở đây tức có Trí tuệ như Phật hay thành tựu quả vị Phật.

– Âm:

Nhược hữu nữ nhân thiết dục cầu nam, lễ bái cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát, tiện sinh Phước đức Trí tuệ chi nam.

Thiết dục cầu nữ, tiện sinh đoan chánh hữu tướng chi nữ, túc thực đức bổn, chúng nhân ái kính.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát hữu như thị lực.

– Nghĩa: Đáp ứng hai nhu cầu 1.

Hoặc như phụ nữ nào,
Ước vọng sinh con trai,
Thường lễ bái8, cúng dường9,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Thì sinh được con trai,
Đủ Phước đức, Trí tuệ.

Hoặc ước vọng con gái,
Thì được sinh con gái,
Tướng xinh đẹp, đoan trang.
Dù trai hay là gái,
Được mọi người thương kính,
Vì đã trồng gốc lành,
Trong các đời quá khứ.
Này ông Vô Tận Ý,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Năng lực như thế đấy!

– Giải:

Ý đoạn này giới thiệu năng lực của Bồ-tát Quán Thế Âm đáp ứng hai nhu cầu muốn sinh con trai hay con gái của các phụ nữ.

Vấn đề đáp ứng trên cũng có hai mặt. Mặt Sự như nghĩa cụ thể đã nói ở Kinh. Còn mặt thì sao? Thế Tôn dạy, hết thảy các pháp là Duyên sinh Vô ngã; nên con trai hay con gái cũng là các pháp Duyên sinh Vô ngã. Mặt khác, như trước đã nói, lễ lạy, trì niệm Quán Thế Âm là lễ lạy, trì niệm Thật tại Vô ngã. Khi an trú Thật tại Vô ngã thì tự tại tùy duyên hóa hiện bất cứ hình tướng nào, chủng loại nào. Bồ-tát Quán Thế Âm hóa hiện ba mươi hai thân tướng để hóa độ trong phẩm Phổ Môn này là một bảo chứng cho sự thật này.

– Âm:

Nhược hữu chúng sinh cung kính lễ bái Quán Thế Âm Bồ-tát, Phước bất đường quyên. Thị cố chúng sinh giai ưng thọ trì Quán Thế Âm Bồ-tát danh hiệu.

Vô Tận Ý, nhược hữu nhân thọ trì lục thập nhị ức Hằng hà sa Bồ-tát danh tự, phục tận hình cúng dường ẩm thực, y phục, ngọa cụ, y dược. Ư nhữ ý vân hà? Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân công đức đa phủ? Vô Tận Ý ngôn: Thậm đa, Thế Tôn.

Phật ngôn: Nhược phục hữu nhân thọ trì Quán Thế Âm Bồ-tát danh hiệu, nãi chí nhất thời lễ bái cúng dường, thị nhị nhân Phước, chánh đẳng vô dị, ư bá thiên vạn ức kiếp, bất khả cùng tận.

Vô Tận Ý, thọ trì Quán Thế Âm Bồ-tát danh hiệu, đắc như thị vô lượng vô biên Phước đức chi lợi.

Nghĩa: Công đức trì niệm, lễ bái, cúng dường1.

Hoặc như chúng sinh nào,
Thường cung kính lễ bái,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Phước đức không thể mất.
Vì vậy mọi chúng sinh,
Hãy phát tâm thọ trì10,
Danh hiệu Quán Thế Âm.

Này ông Vô Tận Ý,
Giả như có người nào,
Thường thọ trì danh hiệu,
Của vô số Bồ-tát,
Nhiều như cát sông Hằng11,
Lại suốt đời cúng dường,
Thực phẩm và y phục,
Ngọa cụ cùng thuốc thang12.
Vậy ông nghĩ thế nào,
Thiện nam, thiện nữ ấy,
Được công đức nhiều không?
Vô Tận Ý thưa rằng:
Bạch Thế Tôn, rất nhiều.

Dù thế, nhưng có người,
Chỉ thọ trì danh hiệu,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Cho đến chỉ một lần,
Lễ bái hay cúng dường,
Phước đức hai người này,
Hệt như nhau không khác,
Và trong vô lượng kiếp,
Thọ hưởng mãi bất tận.

Này ông Vô Tận Ý!
Sự thọ trì danh hiệu,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Được vô lượng, vô biên,
Lợi ích về Phước đức,
Không thể nghĩ như vậy.

– Giải:

Ý chính đoạn này xác minh rằng, Phước đức của sự trì niệm, lễ bái, cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm không thể nghĩ bàn và không bao giờ mất.

– Một người suốt đời cúng dường vật dụng và thọ trì danh hiệu của Bồ-tát là có ý nghĩa Tu tập hạnh Bồ-tát trải qua vô số đời kiếp, chứ không phải trì niệm, cúng dường… theo mặt sự tướng, tín ngưỡng. Chính nhờ tu hạnh Bồ-tát liên tục nhiều kiếp như thế, mới chứng đạt Niết-bàn, an trú Thật tại Vô ngã. Do sự thật này, nên Kinh dạy: “Phước đức của người này giống hệt Phước đức của người trì niệm Quán Thế Âm.”

Vì sao Phước đức thọ trì Quán Thế Âm là vô lượng, vô biên và không mất, không hết? –Phước đức thọ trì Quán Thế Âm chính là Phước đức chứng đạt Thật tại Vô ngã (Niết-bàn). Vô ngã thì không có hạn lượng, siêu việt hạn lượng; chỉ có Hữu ngã mới có hạn lượng mà thôi. Mặt khác, Thật tại Vô ngã là pháp Vô lậu, Vô vi; là Thật tướng thường tại của thế gian, nằm ngoài vòng đối đãi của sinh-diệt, đoạn-thường… Đây là ý nghĩa Không mất, Không hết vậy.

– Âm:

Vô Tận Ý Bồ-tát bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ-tát vân hà du thử Ta-bà thế giới? Vân hà nhi vị chúng sinh thuyết pháp? Phương tiện chi lực, kỳ sự vân hà?

Phật cáo Vô Tận Ý Bồ-tát:

Thiện nam tử! Nhược hữu quốc độ chúng sinh, ưng dĩ Phật thân đắc độ giả, Quán Thế Âm Bồ-tát tức hiện Phật thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Bích-chi Phật thân đắc độ giả, tức hiện Bích-chi Phật thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Thanh Văn thân đắc độ giả, tức hiện Thanh Văn thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Phạm vương thân đắc độ giả, tức hiện Phạm vương thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Đế Thích thân đắc độ giả, tức hiện Đế Thích thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Tự Tại thiên thân đắc độ giả, tức hiện Tự Tại thiên thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Đại Tự Tại thiên thân đắc độ giả, tức hiện Đại Tự Tại thiên thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Thiên Đại tướng quân thân đắc độ giả, tức hiện Thiên Đại tướng quân thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Tỳ-sa-môn thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-sa-môn thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Tiểu vương thân đắc độ giả, tức hiện Tiểu vương thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Trưởng giả thân đắc độ giả, tức hiện Trưởng giả thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Cư sĩ thân đắc độ giả, tức hiện Cư sĩ thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Tể quan thân đắc độ giả, tức hiện Tể quan thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Bà-la-môn thân đắc độ giả, tức hiện Bà-la-môn thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu- bà-di thân đắc độ giả, tức hiện Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn Phụ nữ thân đắc độ giả, tức hiện Phụ nữ thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Đồng nam, Đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện Đồng nam, Đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, phi Nhân đẳng thân đắc độ giả, tức giai hiện chi nhi vị thuyết pháp.

Ưng dĩ Chấp Kim Cang thần đắc độ giả, tức hiện Chấp Kim Cang thần nhi vị thuyết pháp.

Vô Tận Ý! Thị Quán Thế Âm Bồ-tát thành tựu như thị công đức, dĩ chủng chủng hình du chư quốc độ, độ thoát chúng sinh. Thị cố nhữ đẳng ưng đương nhất tâm cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát.

Thị Quán Thế Âm Bồ-tát Ma-ha-tát, ư bố úy cấp nạn chi trung, năng thí vô úy. Thị cố thử Ta-bà thế giới giai hiệu chi vi Thí Vô Úy giả.

– Nghĩa: Ứng hóa 32 thân, thuyết pháp 19 cách1.

Bồ-tát Vô Tận Ý,
Thưa hỏi Thế Tôn rằng:

Kính bạch đức Thế Tôn,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Đi lại như thế nào,
Trong cõi Ta-bà này?
Thuyết pháp như thế,
Cho mọi loại chúng sinh?
Tức dùng phương tiện gì
Thực hiện các việc trên?
Đức Thế Tôn đáp lời,
Bồ-tát Vô Tận Ý:

Thiện nam tử lắng nghe!
Giả như những chúng sinh,
Ở trong thế giới nào,
Phải dùng thân tướng Phật,
Mới hóa độ được họ,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Liền hiện thân tướng Phật,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc phải dùng thân tướng,
Của bậc Bích-chi Phật,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Thân tướng Bích-chi Phật,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc dùng thân Thanh Văn,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Thân tướng bậc Thanh Văn,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc dùng thân Phạm vương,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Thân tướng vị Phạm vương,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc dùng thân Đế Thích,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Thân tướng vị Đế Thích,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc phải dùng thân tướng,
Vua Tha Hóa Tự Tại,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Vua Tha Hóa Tự Tại,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc phải dùng thân tướng,
Vua trời Đại Tự Tại,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Vua trời Đại Tự Tại,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc phải dùng thân tướng,
Các Đại tướng cõi trời,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện
Các Đại tướng cõi trời,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc phải dùng thân tướng,
Vua trời Tỳ-sa-môn,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Vua trời Tỳ-sa-môn,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc dùng thân Tiểu vương,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Thân tướng vị Tiểu vương,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc dùng thân Trưởng giả,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Thân tướng vị Trưởng giả,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc dùng thân Cư sĩ,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Thân tướng vị Cư sĩ,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc dùng thân Tể quan,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Thân tướng vị Tể quan,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc phải dùng thân tướng,
Các vị Bà-la-môn,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Thân tướng Bà-la-môn,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc phải dùng thân tướng,
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni,
Hay là Ưu-bà-tắc,
Hoặc là Ưu-bà-di,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni,
Hay là Ưu-bà-tắc,
Hoặc là Ưu-bà-di,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc dùng thân tướng nữ,
Thuộc dòng dõi Trưởng giả,
Hay Cư sĩ, Tể quan,
Hoặc là Bà-la-môn,
Mới hóa độ được họ,

Quán Âm liền hóa hiện,
Thân nữ dòng Trưởng giả,
Cư sĩ hay Tể quan,
Hoặc là Bà-la-môn,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc phải dùng thân tướng,
Trời, Rồng hay Dạ-xoa,
Càn-thát-bà, Tu-la,
Ca-lầu, Khẩn-na-la,
Hay Ma-hầu-la-già,
Người hoặc chẳng phải người,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Các thân tướng như vậy,
Vì họ mà thuyết pháp.

Hoặc phải dùng thân tướng,
Thần Hộ pháp Kim Cang,
Mới hóa độ được họ,
Quán Âm liền hóa hiện,
Thần Hộ pháp Kim Cang,
Vì họ mà thuyết pháp.

Này ông Vô Tận Ý,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Thành tựu mọi công đức,
Hóa hiện vô số thân,
Đi khắp các thế giới,
Cứu độ cho chúng sinh,
Viên mãn như thế đấy!

Do vậy, này các ông,
Hãy nhất tâm cúng dường,
Bồ-tát Quán Thế Âm!
Vị Đại Bồ-tát này,
Bất cứ ở chỗ nào,
Có hiểm nạn sợ hãi,
Thường ban sự không sợ,
Nên cõi Ta-bà này,
Còn gọi Quán Âm là:
Bồ-tát Thí Vô Úy.13

– Giải:

Nội dung đoạn này là lời giải thích của Thế Tôn cho hai câu hỏi mà Bồ-tát Vô Tận Ý đã thưa thỉnh; đó là:

– Bồ-tát Quán Thế Âm dùng phương tiện gì để đi khắp cõi Ta-bà hóa độ chúng sinh?

– Cách thức thuyết pháp của Bồ-tát Quán Thế Âm như thế nào?

Đáp án cho câu hỏi thứ nhất, Thế Tôn dạy rằng, Bồ-tát Quán Thế Âm đã hóa hiện 32 loại thân tướng để hóa độ các loài chúng sinh khắp cõi Ta-bà này.

Đáp án cho câu hỏi thứ hai, Thế Tôn dạy rằng, Bồ-tát Quán Thế Âm xếp chúng sinh trong thế giới thành 19 loại căn cơ để thuyết pháp; thích ứng với trình độ, Nghiệp lực của họ.

– Ba mươi hai ứng hóa thân là:

1. Thân Phật.

2. Thân Bích-chi Phật: Bích-chi Phật còn gọi là Duyên Giác hay Độc Giác Phật.

3. Thân Thanh Văn: Thanh Văn gồm có bốn quả vị, đó là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.

4. Thân Phạm vương: Phạm vương nói đủ là Phạm Thiên vương hay Đại Phạm Thiên vương. Vị vua cõi trời Sơ thiền thuộc trời Sắc giới, cũng là vị thường đến hầu đức Phật khi Ngài còn tại thế, và là vị ủng hộ Phật pháp rất tích cực.

5. Thân Đế Thích: Đế Thích còn gọi là Thích-đề- hoàn-nhơn – vua cõi trời Đao Lợi, cõi thứ hai trong sáu cõi trời Dục giới.

6. Thân Tự Tại thiên: Tự Tại thiên nói đủ là Tha Hóa Tự Tại thiên. Vị vua cõi Tha Hóa Tự Tại, cõi thứ sáu, cõi cao nhất trong sáu cõi trời Dục giới.

7. Thân Đại Tự Tại thiên: Đại Tự Tại thiên còn gọi là Ma-hê-thủ-la thiên. Vị vua cõi Đại Tự Tại, cõi cao nhất của trời Sắc giới. Đây chính là vị Thiên ma làm chủ cả Tam thiên thế giới, cùng cộng tác với Thiên ma Tha Hóa Tự Tại.

8. Thân Thiên Đại tướng quân: Có hai cách giải thích: thứ nhất, chỉ các Nguyên soái ở cõi trời; thứ hai, chỉ các vị Thần trời.

9. Thân Tỳ-sa-môn: Tỳ-sa-môn nói đủ là Tỳ-sa- môn Thiên vương – vị vua châu Bắc-câu-lô, một trong bốn châu; bốn châu này là cõi trời thấp nhất trong sáu cõi trời Dục giới. Tỳ-sa-môn là một trong những vị được gọi là Thiện thần hộ trì Phật pháp.

10. Thân Tiểu vương: Tiểu vương là các vị Vua- Chúa cai trị một lãnh thổ, một quốc gia.

11. Thân Trưởng giả: Trưởng giả là những vị có Trí-Đức hoàn thiện, được mọi người kính ngưỡng.

12. Thân Cư sĩ: Cư sĩ là những vị tại gia tin Phật, thọ trì năm giới, thực hành mười điều thiện và hộ trì Tam bảo, ủng hộ Phật pháp.

13. Thân Tể quan: Tể quan là chỉ chung các người có địa vị cao trong guồng máy nhà nước, như Tể tướng, Thái sư… Thủ tướng, Bộ trưởng.v.v…

14. Thân Bà-la-môn: Bà-la-môn là chỉ chung các Tu sĩ ngoại đạo.

15. Thân Tỷ-kheo: Những người nam xuất gia đã thọ giới cụ túc.

16. Thân Tỷ-kheo-ni: Những người nữ xuất gia đã thọ giới cụ túc.

17. Thân Ưu-bà-tắc: Ưu-bà-tắc còn gọi là Cận sự nam hay Thiện nam. Đây là những người nam đã thọ Tam quy, Ngũ giới.

18. Thân Ưu-bà-di: Ưu-bà-di còn gọi là Cận sự nữ hay Thiện nữ. Đây là những người nữ đã thọ Tam quy, Ngũ giới.

19. Thân nữ dòng Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan hay Bà-la-môn: Vừa có nghĩa là người nữ thuộc quyến thuộc của bốn thành phần trên, vừa có nghĩa nữ Trưởng giả… nữ Bà-la-môn.

20. Thân Đồng nam: Đồng nam còn gọi là Đồng tử, là những bé trai thân thể còn trong trắng.

21. Thân Đồng nữ: Nghĩa tương tự như Đồng nam.

22. Thân Trời (Thiên thân): Trời đây là Thiên chúng, tức những con dân cõi trời.

23. Thân Rồng (Long thân): Rồng có ba loại, đó là rồng trời, rồng biển, rồng đất. Nơi đây chỉ chung cho cả ba loại.

24. Thân Dạ-xoa: Dạ-xoa còn gọi là Dược-xoa, Duyệt-xoa. Một loài quỷ có hình tướng xấu xí, đi lại rất nhanh.

25. Thân Càn-thát-bà: Càn-thát-bà dịch nghĩa là Thần hương. Đó là các thần nhạc cõi trời, thường hầu hạ trời Đế Thích; chỉ hưởng mùi hương để sống.

26. Thân A-tu-la: A-tu-la là một loại thần có hình tướng rất xấu xí, nhưng chỉ có nam giới, còn nữ giới thì rất đẹp. Loại thần này có uy lực và cung điện gần giống trời Dục giới, nhưng kém xa và thường đánh nhau với trời Đế Thích.

27. Thân Ca-lầu-la: Ca-lầu-la dịch nghĩa là Kim- xí-điểu (chim cánh vàng). Một loại chim thần, thường ăn thịt rồng. Còn gọi là thần Đại bàng.

28. Thân Khẩn-na-la: Khẩn-na-la là một loại thần nhạc khác của cõi trời, cũng thường hầu hạ trời Đế Thích. Nam thì thân người đầu ngựa, giọng hát rất hay; nữ thì rất xinh đẹp, giỏi múa.

29. Thân Ma-hầu-la-già: Ma-hầu-la-già dịch nghĩa là Đại mãng thần hay Đại xà vương, tức các thần rắn, vua rắn.

– Từ số 22 đến số 29 (Thiên, Long… Ma-hầu-la- già) thường gọi là Tám Bộ chúng (Bát Bộ chúng), là những vị có uy lực và có tâm thiện, thường ủng hộ Phật pháp. Trong các kinh thường gọi là Thiên Long Bát bộ.

30. Thân Người (Nhân): Chỉ cho mọi người, trừ những hạng người đã nói ở trên.

31. Thân phi Nhân (chẳng phải người): Có hai cách giải thích: thứ nhất , chỉ các loài mà mắt con người không thấy được; thứ hai, chỉ các loài có những điểm giống người mà không phải người, như súc sinh.v.v…

32. Thân Thần Chấp Kim Cang: Thần Chấp Kim Cang là chỉ chung các vị thần thiện thường mang vũ khí để bảo vệ Phật pháp.

Ba mươi hai ứng hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm vừa nói trên là phương tiện để Ngài có mặt khắp cõi Ta-bà (du ư Ta-bà thế giới), hóa độ cho tất cả các loài chúng sinh.

– Về cách thức thuyết giáo, Bồ-tát Quán Thế Âm đã hóa hiện mười chín mẫu người thích ứng với kiến thức, tâm lý, ý chí… của từng loại chúng sinh, để dẫn dắt họ đi vào Phật pháp.

> Mười chín mẫu người để thuyết pháp:

  1. Phật.
  2. Bích-chi Phật.
  3. Thanh Văn.
  4. Vua Phạm Thiên.
  5. Đế Thích.
  6. Vua Tha Hóa Tự Tại.
  7. Vua Đại Tự Tại.
  8. Đại tướng cõi trời.
  9. Vua Tỳ-sa-môn.
  10. Vua, Chúa (cõi người).
  11. Tứ chúng đệ tử Phật (Tỷ-kheo,… Ưu-bà-di).
  12. Người có Phước đức (Trưởng giả).
  13. Phật tử thuần thành.
  14. Thần Hộ pháp.
  15. Quan chức.
  16. Tiểu Đồng nam, Đồng nữ.
  17. Tám Bộ chúng, người và chẳng phải người.
  18. Tu sĩ ngoại đạo.
  19. Người nữ thuộc dòng Trưởng giả, Cư sĩ, Quan chức, Tu sĩ ngoại đạo.

Như vậy, những ai thích ứng với thân tướng, uy đức, ngôn ngữ… của Phật, thì Bồ-tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật để hóa độ. Đây là những người có phước báo sâu dày và căn cơ lớn lao. Mười tám cách thuyết pháp còn lại, Bồ-tát Quán Thế Âm cũng hóa hiện tương tự như thế, nhưng phước báo và căn cơ của mười tám đối tượng này thì yếu dần (theo vị trí đã sắp xếp).

– Hiểu Bồ-tát Quán Thế Âm qua 32 ứng hóa thân và 19 cách thuyết pháp như Kinh dạy là hiểu theo mặt sự tướngdiệu dụng. Còn mặt lý tánh thì như thế nào?

– Thứ nhất, như đã nói ở phần giới thiệu, hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm chính là gợi mở thực hiện con đường Bồ-tát, để hướng dẫn Phật tử chúng ta tu tập cụ thể nhằm Ngộ-Nhập Tri kiến Phật, nội dung con đường ấy là hành Lục độ để phát triển và thành tựu Đại bi và Đại trí. Bi-Trí viên mãn đồng nghĩa Ngộ- Nhập viên mãn hay an trú Thật tại Vô ngã.

Mặt khác, 32 loại chúng sinh ở đây (đối tượng của 32 ứng hóa thân của Bồ-tát) là biểu tượng những tâm niệm chúng sinh (tâm ô nhiễm) đang tồn tại trong tâm thức của chúng ta. Muốn Ngộ-Nhập Tri kiến Phật, hẳn nhiên phải loại trừ và đoạn tận tất cả tâm niệm chúng sinh ấy, phương tiện đoạn trừ chính là hành Lục độ với tâm tỉnh giác để viễn ly chấp thủ ngã-pháp – không thấy có người độ, pháp dùng để độ và đối tượng được độ (Tam luân không tịch).

– Thứ hai, thật thân của Bồ-tát Quán Thế Âm là Pháp thân (Vô tướng, Vô tánh). Vì đã thành tựu Pháp thân (Thể đại) nên tùy hạnh nguyện (Tùy duyên) tự tại hóa hiện vô lượng thân hình (Tướng đại), để thuyết pháp hóa độ cho chúng sinh theo căn cơ của họ (Dụng đại). Như thế, sự biểu hiện 32 hình tướng để thuyết pháp bằng 19 cách của Bồ-tát Quán Thế Âm là biểu tượng cho Thật tại Pháp thân (hay Thật tại Vô ngã, Thật tại Chân như).

Nội dung Pháp thân gồm Thể đại, Tướng đại và Dụng đại. Do vậy, bất cứ ai chứng Pháp thân cũng có khả năng thể hiện hạnh nguyện cứu độ vĩ đại như Bồ- tát Quán Thế Âm.

Mặt khác, Bồ-tát Quán Thế Âm hóa hiện 32 thân là biểu tượng Quán Thế Âm là Vô ngã. Mười chín cách thuyết pháp là biểu tượng Pháp được thuyết là Vô ngã (Phật pháp). Nhiều loại chúng sinh nghe pháp là biểu tượng Chúng sinh là Vô ngã.

Tiêu chí của người Phật tử khi tụng Phổ Môn hay Pháp Hoa là nhằm nắm bắt được tôn chỉ của Kinh để tu tập, hầu đạt Thật tại Vô ngã tối hậu này đây.

– Kết thúc đoạn Kinh trên, Thế Tôn dạy thêm hai điểm:

1. Thế Tôn khích lệ Bồ-tát Vô Tận Ý và thính chúng hãy thành tâm cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm.

Nơi đây, Thế Tôn khích lệ hàng đệ tử cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm là khích lệ hàng đệ tử hãy tinh tấn tu tập Trí tuệ Bát-nhã để Ngộ-Nhập Tri kiến Phật.

2. Thế Tôn giới thiệu với thính chúng rằng, Bồ- tát Quán Thế Âm còn có một tên khác, đó là Thí Vô Úy.

– Thí Vô Úy (Ban bố sự không sợ hãi) có ý nghĩa rằng, sự giáo hóa của Bồ-tát Quán Thế Âm là giúp cho chúng sinh nỗ lực tu tập để thành tựu Trí tuệ Bát-nhã, an trú Thật tại Vô ngã. Chứng đạt Vô ngã thì đoạn tận hết thảy sự sợ hãi. Vì rằng sợ hãi chỉ có mặt khi có mặt của Tham-Sân-Si hay có mặt cái nhìn tham ái, chấp thủ (Hữu ngã).

– Âm:

Vô Tận Ý Bồ-tát bạch Phật ngôn: Thế Tôn, Ngã kim đương cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát. Tức giải cảnh chúng bảo châu Anh lạc, giá trị bá thiên lượng kim, nhi dĩ dữ chi, tác thị ngôn: Nhân giả! Thọ thử pháp thí trân bảo Anh lạc. Thời Quán Thế Âm Bồ-tát bất khẳng thọ chi. Vô Tận Ý phục bạch Quán Thế Âm Bồ-tát ngôn: Nhân giả! Mẫn ngã đẳng cố thọ thử Anh lạc.

Nhĩ thời, Phật cáo Quán Thế Âm Bồ-tát: Đương mẫn thử Vô Tận Ý Bồ-tát cập Tứ chúng, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-

la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, phi Nhân đẳng cố, thọ thị Anh lạc. Tức thời, Quán Thế Âm Bồ-tát mẫn chư Tứ chúng, cập ư Thiên, Long, Nhân, phi Nhân đẳng, thọ kỳ Anh lạc, phân tác nhị phần: Nhất phần phụng Thích-ca Mâu-ni Phật, nhất phần phụng Đa Bảo Phật tháp.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát hữu như thị tự tại thần lực, du ư Ta-bà thế giới.

– Nghĩa: Cúng dường1.

Bồ-tát Vô Tận Ý,
Trình thưa Thế Tôn rằng:
Kính bạch đức Thế Tôn,
Nay con nguyện cúng dường,
Bồ-tát Quán Thế Âm.
Bạch xong Vô Tận Ý,
Cởi chuỗi ngọc Anh lạc,
Giá trăm ngàn lượng vàng14,
Từ cổ mình dâng cúng,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Và lên tiếng thưa rằng:
Xin Nhân giả15 thọ nhận,
Chuỗi ngọc quý Anh lạc,
Của sự Pháp thí này.
Bấy giờ Quán Thế Âm,
Chẳng chịu nhận chuỗi ngọc.
Bồ-tát Vô Tận Ý,
Lại thưa Quán Âm rằng:
Xin Nhân giả lân mẫn,
Vì chúng tôi nhận chuỗi.
Khi ấy đức Thế Tôn,
Khuyên Bồ-tát Quán Âm:
Hãy thương Vô Tận Ý,
Và thương hàng Tứ chúng,
Cùng Thiên, Long, Bát bộ,
Người và chẳng phải người,
Mà nhận chuỗi Anh lạc.
Được nghe Thế Tôn dạy,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Lân mẫn hàng Tứ chúng,
Cùng Thiên, Long, Bát bộ,
Người và chẳng phải người,
Thọ nhận chuỗi Anh lạc,
Rồi chia thành hai phần:
Một phần dâng cúng dường,
Đức Thích-ca Mâu-ni;
Phần còn lại dâng cúng,
Tháp đức Phật Đa Bảo16.
Này ông Vô Tận Ý,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Có năng lực uy thần,
Đi khắp cõi Ta-bà,
Tự tại như thế đấy!

– Giải:

– Ý chính của đoạn này nói về Bồ-tát Vô Tận Ý cúng dường chuỗi ngọc Anh lạc cho Bồ-tát Quán Thế Âm.

– Hiểu theo mặt Sự tướng thì như nghĩa đã được dịch. Tuy vậy, với nghĩa của Sự tướng này đã giới thiệu cho chúng ta một nguyên tắc sống có Trí tuệ và Đạo đức cả mặt Đời lẫn mặt Đạo. Nguyên tắc ấy là bất cứ làm việc gì, chúng ta cũng phải y chỉ vào những vị lớn hơn ta (Bồ-tát Vô Tận Ý vâng lời Thế Tôn để cúng dường). Khi thực hiện cần nghiêm túc, rõ ràng (Bồ-tát Vô Tận Ý cởi chuỗi ngọc đem đến thưa trình với Bồ- tát Quán Thế Âm); bên cạnh, khi chúng ta tiếp nhận một sự kiện gì của ai, cũng phải có ý kiến của người lớn (Bồ-tát Quán Thế Âm vâng lời Thế Tôn mà nhận chuỗi). Tóm lại, theo mặt Đời, chúng ta cần nương tựa vào ông bà, cha mẹ… để xuất xử; Về mặt Đạo, chúng ta phải nương tựa vào Tam bảo để tu tập vậy.

– Theo mặt Lý tánh, sự cúng dường (Bố thí) này là biểu thị tâm tỉnh giác hành Lục độ để Ngộ-Nhập Tri kiến Phật (Thật tại Vô ngã):

– Bồ-tát Vô Tận Ý vâng lời Thế Tôn để cúng dường là ý nghĩa hành Bố thí (Lục độ – hạnh Bồ- tát) với tâm tỉnh giác Vô ngã, tức không thấy có người Bố thí.

– Bồ-tát Quán Âm vâng lời Thế Tôn mà nhận chuỗi ngọc là ý nghĩa không thấy có người nhận thí.

– Bồ-tát Quán Âm cúng dường chuỗi ngọc lên đức Phật Thích-ca (Hiện tại) và tháp đức Phật Đa Bảo (Quá khứ) là ý nghĩa không thấy có vật để thí.

Tóm lại, nội dung tu tập của hàng Bồ-tát là thực hành Lục độ để đạt mục đích cuối cùng, đó là hoàn thành quả vị Phật. Tức chuyển Lục độ thành Lục độ Ba-la-mật, cũng đồng nghĩa thành tựu mục đích tối hậu là Ngộ-Nhập Tri kiến Phật hay an trú Thật tại Vô ngã (Niết-bàn).

– Năm câu cuối của đoạn này (phần dịch nghĩa) là lời kết luận thứ hai của Thế Tôn cho hai câu hỏi của Bồ-tát Vô Tận Ý; đồng thời, cũng là phần kết luận của văn trường hàng (văn xuôi).

– Âm:

Nhĩ thời, Vô Tận Ý
Bồ-tát dĩ kệ vấn viết:
Thế Tôn Diệu tướng cụ,
Ngã kim trùng vấn bỉ,
Phật tử hà Nhân duyên,
Danh vi Quán Thế Âm?

Cụ túc Diệu tướng Tôn,
Kệ đáp Vô Tận Ý:

Nhữ thính Quán Âm hạnh,
Thiện ứng chư phương sở,
Hoằng thệ thâm như hải,
Lịch kiếp bất tư nghị,
Thị đa thiên ức Phật,
Phát đại thanh tịnh nguyện.

Ngã vị nhữ lược thuyết:
Văn danh cập kiến thân,
Tâm niệm bất không quá,
Năng diệt chư hữu khổ.

Giả sử hưng hại ý,
Thôi lạc đại hỏa khanh,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Hỏa khanh biến thành trì.

Hoặc phiêu lưu cự hải,
Long, ngư, chư quỷ nạn,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Ba lãng bất năng một.

Hoặc tại Tu-di phong,
Vi nhân sở thôi đọa,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Như nhật hư không trụ.

Hoặc bị ác nhân trục,
Đọa lạc Kim Cang sơn,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Bất năng tổn nhất mao.

Hoặc trị oán tặc nhiễu,
Các chấp đao gia hại,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Hàm tức khởi từ tâm.

Hoặc tao vương nạn khổ,
Lâm hình dục thọ chung,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Đao tầm đoạn đoạn hoại.

Hoặc tù cấm già tỏa,
Thủ túc bị nữu giới,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Thích nhiên đắc giải thoát.

Chú, trớ, chư độc dược,
Sở dục hại thân giả,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Hoàn trước ư bổn nhân.

Hoặc ngộ ác La-sát,
Độc long chư quỷ đẳng.
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Thời tất bất cảm hại.

Nhược ác thú vi nhiễu,
Lợi nha, trảo khả bố,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Tật tẩu vô biên phương.

Ngoan, xà cập phúc yết,
Khí độc yên hỏa nhiên,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Tầm thanh tự hồi khứ.

Vân, lôi, cổ, xiết điện,
Giáng bạc chú đại vũ,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Ứng thời đắc tiêu tán.

Chúng sinh bị khổn ách,
Vô lượng khổ bức thân.
Quán Âm diệu trí lực,
Năng cứu thế gian khổ.

Cụ túc thần thông lực,
Quảng tu trí phương tiện,
Thập phương chư quốc độ,
Vô sát bất hiện thân.

Chủng chủng chư ác thú,
Địa ngục, quỷ, súc sinh,
Sinh, lão, bệnh, tử khổ,
Dĩ tiệm tất linh diệt.

Chơn quán, Thanh tịnh quán,
Quảng đại Trí tuệ quán,
Bi quán cập Từ quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng,
Vô cấu thanh tịnh quang,
Tuệ nhật phá chư ám,
Năng phục tai phong hỏa,
Phổ minh chiếu thế gian.

Bi thể giới lôi chấn,
Từ ý diệu đại vân,
Chú cam lộ pháp vũ,
Diệt trừ phiền não diệm.

Tránh tụng kinh quan xứ,
Bố úy quân trận trung,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Chúng oán tất thối tán.

Diệu âm, quán thế âm,
Phạm âm, hải triều âm,
Thắng bỉ thế gian âm,
Thị cố tu thường niệm.

Niệm niệm vật sinh nghi,
Quán Thế Âm tịnh Thánh,
Ư khổ não, tử ách,
Năng vị tác y hỗ.

Cụ nhất thiết công đức,
Từ nhãn thị chúng sinh;
Phước tụ hải vô lượng,
Thị cố ưng đảnh lễ.

– Nghĩa: Lập lại câu hỏi và đáp (bằng kệ)1.

Vào thời điểm bấy giờ,
Bồ-tát Vô Tận Ý,
Dùng kệ thưa Thế Tôn:

Kính bạch đức Thế Tôn,
Đấng Phước tướng hoàn hảo17!
Cho con được hỏi lại:
Do bởi Nhân duyên gì,
Vị đệ tử Phật ấy,
Tên là Quán Thế Âm?

Đấng Phước tướng hoàn hảo,
Cũng dùng kệ đáp lời,
Ngài Vô Tận Ý rằng:
Ông hãy chú tâm nghe,
Hạnh nguyện Quán Thế Âm,
Khéo thích ứng mọi người,
Khắp mọi chốn, mọi nơi,
Với thệ nguyện vĩ đại,
Rộng-sâu như biển cả;

Một thệ nguyện cực kỳ,
Cao thâm và trong sáng,
Được Quán Âm phát ra,
Trải qua vô số kiếp,
Không thể nghĩ bàn được,
Phụng sự vô số Phật.
Dù vậy, nhưng hôm nay,
Như Lai chỉ nói gọn:
Ai nghe được danh hiệu,
Hay thấy được hình tướng,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Rồi nhất tâm trì niệm,
Không giải đãi bỏ qua,
Thì hết mọi đau khổ.

Giả sử bị kẻ ác,
Xô vào hầm lửa lớn,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm cho lửa hầm ấy,
Tự tắt được mát mẻ.

Hoặc đang trôi biển cả,
Gặp nạn rồng, cá, quỷ,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm cho sức sóng, gió,
Không thể nhận chìm được.

Hoặc trên đỉnh Tu-di,18
Bị người ác xô xuống,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm đứng giữa hư không,
Tương tự như mặt trời.

Hoặc bị kẻ ác rượt,
Rơi xuống núi Kim Cang,19
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm cho không thương tổn,
Dù nhỏ như mảy lông.

Hoặc bị kẻ thù vây,
Cầm dao muốn làm hại,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm cho kẻ thù ấy,
Trở thành người hiền lành.

Hoặc bị họa vua, chúa,
Sắp sửa bị hành hình,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm vũ khí đao phủ,
Gãy lìa thành từng đoạn.

Hoặc tù tội, gông xiềng,
Tay chân bị trói buộc,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm gông xiềng tự mở,
Liền thoát khỏi tai nạn.

Hoặc có người muốn hại,
Bằng trù, yếm, thuốc độc,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm cho các thứ ấy,
Trở về với chủ nhân.

Hoặc gặp La-sát dữ,
Rồng dữ hay quỷ dữ,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm cho các loài dữ,
Tức thời không dám hại.

Hoặc bị thú dữ vây,
Trương nanh, vuốt ghê sợ,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm chúng vội trốn chạy,
Tứ tán không tông tích.

Hoặc rắn, rết, bò cạp,
Phun hơi độc mù mịt,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm chúng tự bỏ đi,
Liền theo tiếng trì niệm.

Hoặc giông tố, sấm sét,
Mưa lớn hay mưa đá,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm cho tiêu tan cả,
Liền theo tiếng trì niệm.

Chúng sinh bị khốn đốn,
Vì vô lượng khổ đau,
Với năng lực Tuệ giác,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Thường cứu khổ cho đời.

Bồ-tát Quán Thế Âm,
Đầy năng lực Thần thông,
Đầy năng lực Tuệ giác,
Đầy năng lực Phương tiện,
Cho nên mọi thế giới,
Hết thảy trong mười phương,
Không chỗ nào không hiện.

Các con đường ác dữ,
Địa ngục, quỷ, súc sinh,
Cho đến các khổ lớn,
Sinh, già, bệnh và chết,
Quán Âm thường làm cho,
Dần dần tận diệt sạch.

Quán sát đúng như thật,
Quán sát thật trong sáng,
Quán sát bằng Trí tuệ,
Cực kỳ sâu, rộng, lớn,
Quán sát bằng Đại bi,
Và bằng với Đại từ,
Nên hãy thường nguyện cầu,
Và hãy thường chiêm ngưỡng.

Là bản thể trong suốt,
Sáng soi không tỳ vết,
Là năng lượng mặt trời,
Xóa tan mọi hắc ám,
Là ngọn lửa sáng rực,
Xua tan mọi tai họa,
Quán Âm tỏa hào quang,
Chiếu khắp cả thế gian.

Bản thể của Đại bi,
Như sấm sét thức tỉnh;
Ý niệm của Đại từ,
Như vầng mây lành lớn,
Quán Âm mưa nước pháp,
Vị cam lồ diệt trừ,
Lửa dữ mọi phiền não.

Kiện cáo nơi cửa quan,
Kinh hoàng nơi chiến trận,
Lực trì niệm Quán Âm,
Làm cho kẻ đối địch,
Hết thảy tự rút lui.

Âm thanh cực vi diệu,
Âm thanh nhìn vào đời,
Âm thanh như Phạm Thiên,
Âm thanh như hải triều,
Là âm thanh siêu việt,
Mọi âm thanh thế gian,
Vì vậy hãy thường xuyên,
Nhất tâm chuyên trì niệm.

Hãy chuyên niệm liên tục,
Chớ khởi tâm nghi nan,
Trong những cơn khổ não,
Chết chóc hay nguy khốn,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Vị Thánh nhân thanh tịnh,
Là chỗ dựa an ổn,
Cho tất cả chúng sinh.

Là bậc đã trọn vẹn,
Hết thảy mọi công đức,
Là đôi mắt Từ bi,
Nhìn xuống mọi chúng sinh,
Là biển cả dồn chứa,
Vô lượng mọi Phước đức,
Cho nên Bồ-tát ấy,
Thật đáng kính, đáng lạy.

– Giải:

– Đoạn kệ này vừa tóm lược, vừa lập lại một lần nữa ý nghĩa được trình bày từ đầu Kinh cho đến hết phần văn xuôi (văn trường hàng). Nội dung gồm ba ý chính sau:

1. Ý thứ nhất: Bồ-tát Vô Tận Ý thưa hỏi Thế Tôn một lần nữa: Vì sao Bồ-tát Quán Thế Âm có tên gọi như thế? – Trước hết, Thế Tôn trả lời tổng quát rằng, thệ nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm cực kỳ cao thâm, không thể nghĩ bàn, khéo thích ứng hết thảy chúng sinh khắp mọi nơi chốn, và với lời thệ nguyện ấy, Bồ-tát Quán Thế Âm đã phụng sự vô số chư Phật.

– Qua nghĩa đoạn trên, có hai điểm cần ghi nhận (hiểu theo mặt lý tánh, còn mặt sự tướng thì như Kinh đã dạy):

Thứ nhất, thệ nguyện hóa độ chủ yếu của Bồ-tát Quán Thế Âm là hướng dẫn chúng sinh tự nỗ lực để thành tựu Đại bi, Đại trí, chứng đạt Niết-bàn.

Thứ hai, Bồ-tát Quán Thế Âm đã phụng sự vô số chư Phật, có nghĩa Bồ-tát đã ứng hóa vô lượng thân hình để cứu độ mọi chúng sinh đang gặp khổ nạn (Phụng sự chúng sinh tức phụng sự Phật). Đấy là thể hiện tinh thần Đại từ, Đại bi của một vị đã thành Phật trong quá khứ lâu xa (Danh hiệu Ngài là Như Lai Chánh Pháp Minh).

Do thế, trì niệm hay cúng dường Bồ-tát, chính là ý nghĩa nuôi dưỡng tỉnh giác trong tu tập để Ngộ-Nhập Thật tại Vô ngã hay thành tựu quả vị Phật-đà vậy.

2. Ý thứ hai: Đức Thế Tôn dạy rằng, hạnh nguyện hóa độ của Bồ-tát Quán Thế Âm thì vô lượng, vô số; bây giờ, Ngài chỉ nói gọn một số điểm tiêu biểu mà thôi.

– Trong phần này, đức Thế Tôn giới thiệu mười hai sự cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm, trong mười hai nạn này, chỉ có một số ít là mới, như bị rơi từ núi Tu-di, bị rơi xuống núi Kim Cang, bị nạn phù chú.v.v…; còn đa số đã nói ở trước.

Nơi đây, nên nhận thức sự cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm theo hai mặt Sự-tướngLý-tánh, tương tự như đã trình bày ở đoạn cứu khổ bảy nạn.

3. Ý thứ ba: Gồm mười bài kệ (một bài bốn câu) cuối cùng của đoạn này. Ý khái quát, Thế Tôn xác minh và tán thán năng lực Đại bi, Đại trí không thể nghĩ bàn của Bồ-tát Quán Thế Âm; đồng thời, Ngài khích lệ hàng đệ tử hãy thành tâm lễ bái, cúng dường và trì niệm Bồ-tát Quán Thế Âm.

4. Với phần này, chúng ta hãy tìm hiểu từng bài kệ để hiểu sâu sát hơn (hiểu theo mặt lý tánh):

“Chúng sinh bị khổ ách,
Vô lượng khổ bức thân,
Quán Âm Diệu trí lực,
Năng cứu thế gian khổ.”

Năng lực Trí tuệ Quán Thế Âm chính là Thật tại Vô ngã, Vô ngã chính là chân lý của các pháp (pháp giới); cho nên, chúng sinh trì niệm và thành tựu Thật tại Vô ngã này là giải thoát hết thảy mọi khốn khổ. Nói khác đi, chính Thật tại Vô ngã cứu chúng sinh ra khỏi mọi khổ đau.

“Cụ túc Thần thông lực,
Quảng tu Trí Phương tiện,
Thập phương chư quốc độ,
Vô sát bất hiện thân.”

Khi đã thể nhập Thật tại Vô ngã là thành tựu hết thảy mọi công đức, uy lực, chẳng hạn như Lục thông, Đại bi, Đại trí, Đại phương tiện.v.v… Chính thế, thứ nhất, không chỗ nào mà Bồ-tát Quán Thế Âm không tùy duyên ứng hiện hóa độ; thứ hai Thật tại Vô ngã thì thường tại khắp nơi.

“Chủng chủng chư ác thú,
Địa ngục, quỷ , súc sinh,
Sinh, lão, bệnh, tử, khổ,
Dĩ tiệm tất linh diệt”.

Năng lực Quán Thế Âm hay nói cách khác, chính năng lực Vô ngã, không những cứu chúng sinh thoát khỏi ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, mà còn giúp chúng sinh đoạn tận sinh tử, chứng đạt Niết-bàn.

“Chơn quán, thanh tịnh quán,
Quảng đại Trí tuệ quán,
Bi quán cập Từ quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng”.

Cái nhìn của Bồ-tát Quán Thế Âm (cái nhìn của Vô ngã) là cái nhìn như thật, trong suốt của năng lực Đại từ, Đại bi, Đại trí vĩ đại. Do vậy, Thế Tôn khích lệ hàng đệ tử cần phải thường xuyên tu quán về Thật tại Vô ngã này.

“Vô cấu thanh tịnh quang,
Tuệ nhật phá chư ám,
Năng phục tai phong hỏa,
Phổ minh chiếu thế gian”.

Quán Thế Âm là bản thể trong suốt, là ánh sáng phá tan mọi hắc ám, tối tăm (Đại Trí tuệ). Chính thế, trì niệm Quán Thế Âm là trì niệm bản thể Đại Trí tuệ; khi thành tựu Trí tuệ thì mọi hắc ám, vô minh được đoạn tận.

“Bi thể giới lôi chấn,
Từ ý diệu đại vân,
Chú cam lồ pháp vũ,
Diệt trừ phiền não diệm”.

Quán Thế Âm là bản thể Đại bi, như sấm sét thức tỉnh chúng sinh. Thế nên, trì niệm Quán Thế Âm chính là trì niệm bản thể Đại Từ bi; khi thành tựu tâm Đại Từ bi, đồng nghĩa với phiền não được đoạn tận.

“Tránh tụng kinh quan xứ,
Bố úy quân trận trung,
Niệm bỉ Quán Âm lực,
Chúng oán tất thối tán”.

Theo người soạn, bài kệ này nằm ở đây xem ra không được nhất quán trong ý nghĩa, mà phải nằm trong phần nói về mười hai tai nạn ở trên. Điều này có thể do sơ suất trong các lần kết tập.

“Diệu âm, quán thế âm,
Phạm âm, hải triều âm,
Thắng bỉ thế gian âm,
Thị cố tu thường niệm”.

Âm thanh trì niệm Quán Thế Âm (Thật tại Vô ngã) là âm thanh tinh hoa, là âm thanh nhìn vào cuộc đời đúng sự thật cuộc đời (các pháp Vô ngã), là âm thanh của sự thấy biết trong Thiền định (Phạm âm), là âm thanh khế lý, khế cơ, lan tỏa mười phương không hạn lượng (Hải triều âm), là âm thanh siêu việt các âm thanh của thế gian. Vì thế, hàng Phật tử hãy thường xuyên nhất tâm trì niệm.

“Niệm niệm vật sinh nghi,
Quán Thế Âm tịnh Thánh,
Ư khổ, não, tử ách,
Năng vị tác y hỗ”.

Thế Tôn khích lệ đại chúng hãy tin tưởng tuyệt đối vào bậc Thánh thanh tịnh Quán Thế Âm (Thật tại Vô ngã hay năng lực của Đại Trí tuệ, Đại Từ bi) mà chuyên tâm trì niệm, vì Ngài là chỗ nương tựa an ổn cho tất cả chúng sinh khi đang còn trong thế giới sinh tử khổ đau.

“Cụ nhất thiết công đức,
Từ nhãn thị chúng sinh,
Phước tụ hải vô lượng,
Thị cố ưng đảnh lễ”.

Đây là bài kệ kết thúc. Có hai ý:

Thứ nhất, Thế Tôn tán thán Bồ-tát Quán Thế Âm (Thật tại Vô ngã) là vị hoàn hảo mọi phẩm chất, là ánh mắt Từ bi (ban vui, cứu khổ) nhìn vào đời, là đại dương tích chứa vô lượng Phước đức.v.v…

Thứ hai, một lần nữa Thế Tôn khích lệ hàng đệ tử hãy tin tưởng, thành kính đảnh lễ, trì niệm Bồ-tát Quán Thế Âm để đạt cứu cánh giải thoát.

Tóm lại, đoạn này là phần kết thúc của phẩm Phổ Môn. Qua đây, một lần nữa, Thế Tôn giới thiệu con đường để hàng đệ tử tu tập, hầu Ngộ-Nhập Tri kiến Phật. Con đường tu tập ấy được biểu thị qua hạnh nguyện cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm bằng Tài thí Ba-la-mật, Pháp thí Ba-la-mật và Vô úy thí Ba-la-mật. Do vậy, trong Kinh dạy, cần chuyên tâm lễ bái, cúng dường, trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, là ý nghĩa cần chuyên tâm thực hành Lục độ, để thành tựu Lục độ Ba-la-mật. Thời điểm viên mãn Lục độ Ba-la-mật chính là thời điểm Ngộ-Nhập Tri kiến Phật hay an trú Thật tại Vô ngã. Như vậy, công phu trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm hay tu tập theo giáo nghĩa kinh Pháp Hoa đã đạt cứu cánh tối hậu vậy.

– Âm:

Nhĩ thời, Trì Địa Bồ-tát tức tùng tòa khởi, tiền bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Nhược hữu chúng sinh văn thị Quán Thế Âm Bồ-tát phẩm, tự tại chi nghiệp, Phổ Môn thị hiện, thần thông lực giả, đương tri thị nhân, công đức bất thiểu.

Phật thuyết thị Phổ Môn phẩm thời, chúng trung bát vạn tứ thiên chúng sinh, giai phát Vô đẳng đẳng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề tâm.

– Nghĩa: Công đức được nghe phẩm Phổ Môn của hội chúng hiện tại và tương lai.1.

Đến thời điểm bấy giờ,
Vị Bồ-tát Trì Địa,
Từ chỗ ngồi đứng dậy,
Đến trước Thế Tôn thưa:
Kính bạch đức Thế Tôn,
Chúng sinh nào có duyên,
Được nghe phẩm nói về,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Với diệu dụng tự tại,
Với năng lực biến hiện,
Khắp mọi chốn, mọi nơi,
Thì nên biết người ấy,
Được công đức không nhỏ.

Khi Thế Tôn tuyên thuyết,
Về phẩm Phổ Môn này,
Trong hội chúng có đến,
Tám vạn bốn ngàn người,
Phát tâm Vô thượng Giác.20

– Giải:

Đoạn cuối này là phần kết luận của phẩm Phổ Môn. Có 2 ý:

1. Bồ-tát Trì Địa khẳng định dưới sự chứng minh của Thế Tôn rằng, bất cứ người nào được nghe phẩm nói về hạnh nguyện vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, chính người ấy có công đức không phải là nhỏ.

2. Nghe xong phẩm Phổ Môn, trong hội chúng này có đến tám vạn bốn ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

– Bồ-tát Trì Địa được nói ở đây, vừa là một vị Bồ-tát đích thực, vừa là ngôn ngữ biểu tượng. Địa là đất, là môi sinh dinh dưỡng và dung chứa mọi loài, mọi vật hoàn toàn Bình đẳng, Vô phân biệt. Cho nên, Trì-Địa có ý nghĩa là nắm giữ Tâm Bình đẳng, nắm giữ Tâm Vô phân biệt, tức biểu tượng cho Thật tại Vô ngã. Như thế, đoạn văn kết luận phẩm Phổ Môn qua hình ảnh Bồ-tát Trì Địa, Thế Tôn và Bồ-tát Quán Thế Âm là biểu tượng sự Ngộ-Nhập tánh Phật hay Thật tại Vô ngã qua quá trình tu tập Lục độ (tu tập hạnh nguyện Quán Thế Âm). Chính vì phẩm Phổ Môn nói riêng và kinh Pháp Hoa nói chung, chuyên chở giáo nghĩa rốt ráo như thế (Đệ nhất nghĩa đế-Liễu nghĩa) nên Kinh dạy, ai có duyên nghe được phẩm Phổ Môn này, thì công đức của họ không nhỏ, là vậy.

– Tám vạn bốn ngàn (Bát vạn tứ thiên) người phát tâm Vô thượng Bồ-đề ở đây, cũng mang nghĩa biểu tượng. Trước hết, theo nghĩa phổ thông, các kinh thường dạy chúng sinh có tám vạn bốn ngàn căn bệnh (bát vạn tứ thiên bệnh) thì giáo pháp của Thế Tôn cũng có tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị các căn bệnh đó. Tuy vậy, ý nghĩa của Tám vạn bốn ngàn là tương tự như Hằng hà sa số, tức có nghĩa vô lượng, vô số. Cho nên, nghĩa biểu tượng ở đây là có vô lượng, vô số người phát tâm. Nói cách khác, sự phát tâm ở đây là phát khởi, phát triển, phát huy, phát hiện Tâm Vô ngã. Đây chính là ý nghĩa được nghe phẩm Phổ Môn, được trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm để Phát tâm Vô thượng Bồ-đề nhằm Ngộ-Nhập Tri kiến Phật, chứng Vô dư Niết-bàn.

Tóm lại, ngôn ngữ diễn tả ở đoạn kết luận của phẩm Phổ Môn này khẳng định rằng, bản thể của các pháp là Vô ngã, Quán Thế Âm cũng là Thật tại Vô ngã; Vì vậy, hành giả tu tập Pháp Hoa muốn Ngộ-Nhập Tri kiến Phật (thấy biết và thể chứng Thật tại Vô ngã) thì cần phải tỉnh giác để phát khởi cái nhìn hết thảy các pháp là Vô ngã, trong khi hành Lục độ. Cho đến khi nào thành tựu Lục độ Ba-la-mật, thì chính khi ấy hành giả đã Ngộ-Nhập Tri kiến Phật hay hành giả chính là Bồ-tát Quán Thế Âm vậy.

CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN

Chủ điểm của kinh Pháp Hoa là xác minh: “Tất cả chúng sinh đều có tánh Phật” (Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh). Nội dung của Pháp HoaKhai-Thị tánh Phật cho chúng sinh và hướng dẫn họ Ngộ-Nhập Thật tại tánh Phật ấy (Khai-Thị-Ngộ-Nhập Phật Tri-Kiến).

Phổ Môn là một trong các phẩm giới thiệu con đường Ngộ-Nhập ấy. Con đường này được biểu tượng qua hạnh nguyện hóa độ bằng Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí (Lục độ Ba-la-mật) của Bồ-tát Quán Thế Âm. Hạnh nguyện này, chính là diệu dụng của Đại Trí tuệ, Đại từ bi, là phẩm chất của tánh Phật.

Tụng Phổ Môn hay xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm chính là để củng cố niềm tin đối với Pháp Hoa và phát triển Chánh kiến đối với Bồ-tát Quán Thế Âm, để rồi tinh tấn thực hiện Lục độ trong cuộc sống đời thường.

Với niềm tin vững mạnh, với Chánh kiến kiên cố biểu hiện qua sự tinh tấn tu tập như thế, khi gặp hoạn nạn, chắc chắn Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ cứu độ chúng ta. Hơn nữa, mục đích tu tập của chúng ta là nhằm đạt được cứu cánh, đó là viên mãn quả vị Phật đà; thì hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm chính là một trong những mô thức thiết thực để chúng ta tu tập hầu phát triển và thành tựu cứu cánh tối hậu ấy.