KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
QUYỂN 4
PHẨM 38: ĐẠO LỢI
Thuở xưa có một vị quốc vương dùng Chánh Pháp trị nước và được nhân dân kính ngưỡng. Tuy nhiên ngài không có con nối ngôi nên rất buồn bã.
Bấy giờ Đức Phật đến nước đó giáo hóa. Nhà vua liền xuất cung để thân cận Thế Tôn. Sau khi nghe Pháp, nhà vua rất vui mừng, liền xin thọ Năm Giới, nhất tâm phụng kính Phật và chỉ hy vọng sanh một thái tử. Ngày đêm ba thời, nhà vua tinh tấn hành Đạo không biếng lười.
Khi ấy nhà vua có một tiểu đồng luôn theo hầu hạ, khoảng 11 tuổi. Cậu bé tận trung vua, biết phép tắc lễ nghi, khiêm tốn nhẫn nhục, và tín tâm phụng trì Phật Pháp. Mỗi buổi sáng thức dậy, cậu bé thắp hương và nhất tâm tinh tấn học tụng Kinh kệ. Trải qua nhiều năm tinh tấn như thế mà chẳng hề than khổ nhọc.
Một hôm cậu bé bỗng hốt nhiên lâm trọng bệnh và liền mạng chung. Sau đó thần thức của cậu ta trở lại sanh làm con của nhà vua. Tiểu vương tử được chăm lo cho bú và dần dần khôn lớn. Đến năm 15 tuổi thì được vua cha lập làm thái tử. Sau khi phụ vương băng hà, thái tử được tôn lên làm vua. Thế nhưng bản tánh của tân vương kiêu ngạo tự đại, hoang dâm vô đạo, ngày đêm chỉ thích vui chơi, chẳng màng quốc sự, và bỏ bê triều chính nên khiến dân chúng lầm than.
Đức Phật biết rõ sự tu hành của vị vua trẻ tuổi này, nhưng còn ngài thì chẳng biết chuyện đời trước của mình. Do đó Thế Tôn dẫn theo các đệ tử đi đến nước kia. Khi hay tin Phật đang đến, nhà vua cũng y như thông lệ của tiên vương và cùng đoàn tùy tùng xuất cung nghênh tiếp. Nhà vua cúi đầu đảnh lễ sát đất và ngồi qua một bên.
Bấy giờ Phật hỏi nhà vua rằng:
“Vương quốc, nhân dân, và quần thần bá quan đều bình an chứ?”
Nhà vua thưa rằng:
“Thưa Thế Tôn! Con là một vị vua trẻ tuổi nên chưa có thể cai quản triều chính. May nhờ hồng ân của Phật nên đất nước vẫn ổn.”
Phật hỏi nhà vua rằng:
“Nay đại vương có biết mình từ đâu đến và đã làm phước đức gì mà được ngôi vua chăng?”
Nhà vua thưa rằng:
“Dạ không, thưa Thế Tôn! Con ngu muội vô tri và không biết đời trước từ đâu đến?”
Phật bảo đại vương:
“Đại vương vốn đã làm năm việc nên mới được làm vua. Những gì là năm?
1. Do bố thí nên mới được làm vua, được vạn dân phụng hiến cung điện lầu các và có tài bảo vô số.
2. Do xây dựng tự viện, cúng dường giường nệm với tràng phan cho Tam Bảo, nên mới được làm vua và ngồi ở chánh điện để xử lý quốc sự.
3. Do tôn kính Tam Bảo cùng thân cận các bậc trưởng lão đức hạnh, nên mới được làm vua và được tất cả vạn dân, không ai là chẳng lễ kính.
4. Do gìn giữ ba nghiệp của thân, bốn nghiệp của lời nói và trong lòng không khởi điều ác, nên mới được làm vua––khi mọi người nhìn thấy, không ai là chẳng hân hoan.
5. Do siêng học vấn để tăng trưởng trí tuệ nên mới được làm vua, có thể xử lý quốc sự một cách chính xác và không ai là chẳng khâm phục.
Phàm ai tu hành năm việc này thì đời đời sẽ được làm vua.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:
“Ai biết phụng bậc trên
Đạo Nhân, vua, cha, thầy
Tín, giới, thí, văn, tuệ
Trọn đời mãi bình an
Đời trước tu phước đức
Khi sanh đã tôn quý
Lấy Đạo an thiên hạ
Trì Pháp người kính theo
Vua là chủ muôn dân
Luôn ban lòng từ ái
Đích thân trì Kinh giới
Dạy bảo điều đúng sai
Khi an chẳng quên nguy
Lo xa phước chuyển tăng
Báo ứng của phước đức
Chẳng kể sang với hèn”
Phật bảo nhà vua:
“Ở đời trước, đại vương là một tiểu đồng theo hầu hạ cho tiên vương. Cậu bé rất tín tâm phụng Phật, thanh tịnh phụng Pháp, thành kính phụng Tăng, hiếu thuận song thân, và tận trung với vua. Cậu bé luôn tu hành tinh tấn, siêng làm bố thí, và dù thân tâm chịu khổ nhọc cũng chẳng lười biếng. Do phước báo ứng hiện nên được làm vương tử và nối ngôi vua tôn quý.
Thế nhưng nay đại vương đã có được phú quý vinh hoa thì lại lười biếng. Phàm là chủ của một nước thì hãy thực hành năm việc. Những gì là năm?
1. Thống lãnh muôn dân và không lạm dụng hình phạt.
2. Nuôi dưỡng tướng sĩ và tùy thời ban thưởng.
3. Nhớ tu việc lành thì phước đức sẽ không dứt mất.
4. Tín nhiệm trung thần, tiếp nhận lời khuyên can chánh trực và không nghe lời sàm tấu.
5. Tiết chế dục lạc và tâm chẳng buông lung.
Nếu quốc vương nào thực hành năm việc này thì tiếng thơm vang khắp bốn biển và phước lộc tự nhiên đến. Còn như lìa bỏ năm việc này, kinh tế sẽ chẳng phát triển, nhân dân khốn khổ sẽ sanh bạo loạn, sĩ phu lao nhọc sẽ làm quốc gia suy yếu, và do chẳng có phước đức nên quỷ thần không trợ giúp. Họ tự đánh mất điều lợi ích to lớn, trung thần chẳng dám khuyên can, tâm buông lung phế bỏ việc nước và khiến nhân dân than oán. Nếu ai như thế thì hiện đời mang tiếng xấu và sau khi chết sẽ không có phước báo.
Lúc bấy giờ Thế lại nói kệ rằng:
“Chúa lãnh của thế gian
Tu thiện chẳng xảo ngụy
Điều tâm thắng tà ác
Như thế là minh quân
Chánh kiến khéo thí huệ
Nhân ái khéo lợi người
Lợi ích chia đồng đều
Như thế người cậy trông”
Khi Phật nói kệ xong, nhà vua vô cùng hoan hỷ, rồi đứng dậy đi đến trước Phật, cúi đầu đảnh lễ sát đất, sám hối tạ ơn Phật, và xin thọ Năm Giới. Bấy giờ Đức Phật thuyết Pháp thêm một lần nữa và nhà vua đắc Quả Nhập Lưu.
Đương thời có một con voi thần được sanh ra từ loài rồng. Thân voi trắng như tuyết, đuôi có màu đỏ, và hai ngà màu vàng.
Khi những thợ săn thấy nó, họ biết là một con voi đặc biệt phi thường nên trở về bẩm cáo quốc vương:
“Tâu đại vương! Có một con voi với hình dáng như thế, thật xứng đáng để cho đại vương cưỡi.”
Nhà vua lập tức chiêu mộ hơn 30 tượng sư và sai đi bắt con voi này. Và thế là đoàn người bắt voi đi đến chỗ của con này ở, rồi giăng lưới muốn bắt nó. Tuy nhiên nó là một con voi thần nên đã sớm biết ý định của họ. Nó liền tự động đến trước và cố ý sa lưới. Lúc ấy mọi người đều hăm hở đến bắt nó. Voi liền phẫn nộ và nhảy lên giẫm đạp họ. Kẻ nào ở gần thì bị nó đạp chết. Còn những kẻ ở xa thì bỏ chạy và bị voi truy đuổi chẳng tha.
Bấy giờ ở cạnh sườn núi có những vị Đạo Nhân trẻ tuổi, thân thể cường tráng và lực lưỡng. Họ vào rừng học Đạo đã lâu mà ý vẫn chưa định. Từ xa trông thấy con voi này đang truy giết người, các Đạo Nhân thương xót và cũng ỷ rằng mình mạnh khỏe nên muốn đến cứu họ.
Đức Phật đã từ xa trông thấy và sợ các vị Bhikṣu này sẽ bị voi thần giết chết, nên Ngài liền đến nơi đó và phóng đại quang minh. Khi thấy hào quang của Phật, voi thần nguôi đi cơn giận và không còn truy sát người nữa. Khi thấy Phật, các vị Bhikṣu nghênh tiếp và đảnh lễ.
Phật liền nói kệ cho các vị Bhikṣu rằng:
“Chớ quấy nhiễu voi thần
Mà chuốc phải khổ đau
Ác ý sẽ giết mình
Chết không đến nơi lành”
Khi nghe kệ xong, các vị Bhikṣu liền cúi đầu, cầu xin sám hối, và trong lòng tự trách. Họ tư duy sâu xa về việc làm chẳng đúng của mình, và liền đắc Đạo Ứng Chân ở trước Phật. Còn những kẻ bắt voi bỏ chạy và may mắn sống sót, họ quay trở lại nghe Pháp và đều thấy dấu Đạo.
Bấy giờ ở đó có ba vị bô lão lớn tuổi cùng bàn luận rằng:
“Đất nước không vua sẽ như cái xác không đầu.”
Và thế là họ cùng nhau đến chỗ của đại thần và tôn ông ta làm vua.
Đại thần nói với các bô lão:
“Nếu tôn tôi lên làm vua thì phải đúng như phép tắc của các nước khác, phải có đại thần tả hữu và văn võ tướng sĩ, trên dưới hầu triều chỉnh tề, tuyển đồng nữ làm cung phi, và ban hành luật thu thuế cho mọi ngành nghề.”
Các bô lão nói rằng:
“Xin phụng mệnh, tất cả sẽ như vương pháp.”
Họ liền lập ông ta lên làm vua, tuyển cử quần thần và văn võ bá quan, rồi điều động nhân dân để xây cung điện lầu các. Do đó nhân dân bị khốn khổ. Họ không thể chịu đựng nổi nữa và đều nghĩ muốn lật đổ nhà vua. Trong một dịp nọ, các gian thần dẫn nhà vua đến một cái đầm hoang dã, cách thành khoảng 30 đến 40 dặm để săn bắn, rồi bắt trói nhà vua và định giết.
Nhà vua hỏi các quần thần tả hữu rằng:
“Sao lại muốn giết trẫm?”
Đáp rằng:
“Nhân dân cơm no áo ấm thì mới phụng kính quốc vương. Nhưng nay dân chúng lầm than, lòng dân nổi loạn và đều muốn tạo phản.”
Nhà vua nói rằng:
“Đây vốn là lỗi của các người chứ đâu phải lỗi của ta. Nếu giết oan cho ta thì thần linh sẽ hay biết. Xin hãy đợi cho ta phát một lời nguyện, dù có chết cũng không ân hận.”
Liền nguyện rằng:
“Xưa ta vốn đến đây để khai hoang, trồng ngũ cốc và nuôi dưỡng những kẻ bần khổ. Mọi người đến đây đều được ấm no và giàu sang thịnh vượng. Họ tự nguyện đồng tôn ta làm vua, rồi chiếu theo phép tắc của các nước khác mà cũng làm y như thế. Nay họ làm phản và muốn giết ta. Ta thật chẳng làm điều gì tàn ác đối với nhân dân. Nếu ta chết đi, ta nguyện sẽ làm quỷ bạo ác và nhập trở lại trong thân cũ để báo oán thù này!”
Sau đó nhà vua bị chúng gian thần siết cổ chết. Chúng bỏ tử thi ở đó rồi đi. Ba ngày sau, thần hồn của nhà vua nhập trở lại trong thân xác cũ và biến thành quỷ bạo ác, tự gọi là Khoáng Dã. Nó liền vào cung xiết chết tân vương và hậu cung thể nữ; chúng gian thần tả hữu đều bị giết sạch. Giữa cơn phẫn nộ, quỷ bạo ác còn muốn xuất cung và định giết hết dân chúng.
Bấy giờ ba vị quốc lão ở trong nước tự trói mình bằng dây cỏ, rồi tiến về hướng của quỷ bạo ác và tự thỉnh tội rằng:
“Đây đều do bọn gian thần làm ra. Lê dân bá tánh hoàn toàn chẳng biết. Cúi mong ngài tha thứ và xin hãy trở về để xử lý quốc sự!”
Đáp rằng:
“Ta là quỷ bạo ác. Sao có thể sinh hoạt chung với loài người chứ? Ta chỉ ăn thịt uống máu người. Hơn nữa bản tánh của quỷ bạo ác nóng nảy và phẫn nộ khó lường.”
Ba vị quốc lão thưa rằng:
“Đất nước này vốn thuộc của ngài, xin hãy trở về làm vua như trước. Còn về việc ăn uống thì cứ để chúng thần lo liệu.”
Sau đó ba vị quốc lão cùng lui ra, rồi tuyên lệnh tất cả nhân dân đều phải bóc tăm và lần lượt mỗi nhà sẽ đưa ra một đứa bé để dâng lên cho vua quỷ bạo ác ăn. Trong khoảng 3.000 đến 4.000 gia đình, có một gia đình là đệ tử của Phật. Cả nhà tinh tấn hướng Đạo và nghiêm trì Năm Giới. Họ cũng theo mọi người bóc tăm và kết quả được thẻ đầu tiên. Bởi chỉ có một đứa con nhỏ mà nay sắp phải dâng lên cho vua quỷ ăn trước, nên tất cả kẻ lớn người nhỏ trong nhà đều buồn bã khóc lóc. Họ hướng trông về núi Thứu Phong, rồi từ xa đảnh lễ Phật, sám hối nghiệp chướng và tự trách bạt phước.
Với Đạo nhãn, Đức Phật thấy sự đau thương của họ và liền tự nói rằng:
“Do nhờ nhân duyên của đứa bé này mà vô số người sẽ được hóa độ.”
Đức Phật liền một mình bay đến trước cửa của quỷ bạo ác, biến hiện quang minh tướng hảo và chiếu ánh sáng vào nội cung. Khi thấy ánh sáng, quỷ bạo ác nghi đó là một người khác thường. Nó lập tức đi ra, và khi trông thấy Phật thì liền khởi lòng độc ác và muốn nuốt chửng Phật. Lúc ấy ánh sáng của Phật bắn vào mắt của vua quỷ, nên khiến cho hòn núi của nó vác đến và tài nghệ phun lửa đều hóa thành tro bụi. Chiến đấu đến một hồi lâu quỷ bạo ác kiệt quệ và sau đó mới chịu hàng phục. Vua quỷ thỉnh Phật vào trong ngồi, rồi cúi đầu đảnh lễ. Bấy giờ Đức Phật giảng Kinh. Vua quỷ nhất tâm nghe Pháp, rồi xin thọ Năm Giới và làm Thanh Tín Nam.
Giữa lúc ấy, kẻ quan lại đến nhà của đệ tử của Phật, rồi cưỡng đoạt đứa bé mang đi. Cả nhà gào khóc và chạy theo sau. Khi thấy tình cảnh này, vô số người đến xem đều xót thương. Sau đó kẻ quan lại bế đứa bé đặt ở trước quỷ bạo ác.
Quỷ bạo ác liền bế đứa bé đến trước Phật, rồi đưa cao lên, hai gối quỳ và thưa với Phật rằng:
“Thưa Thế Tôn! Nhân dân trong nước luân phiên mỗi ngày dâng lên một đứa bé để con ăn thịt. Nay con đã thọ Năm Giới của Phật và không thể ăn thịt đứa bé này được nữa. Con xin trao đứa bé này cho Phật để làm thị giả của Ngài.”
Đức Phật nhận lấy và liền chú nguyện. Lúc đó quỷ bạo ác hoan hỷ và đắc Quả Nhập Lưu.
Sau đó Đức Phật bỏ đứa bé vào trong bát, đi ra khỏi nội cung, rồi trao lại cho cha mẹ của nó và bảo rằng:
“Hãy nuôi dưỡng đứa bé thật tốt và chớ đau buồn nữa.”
Khi mọi người thấy Phật, không ai là chẳng kinh ngạc. Họ kinh ngạc không biết là vị thần nào? Họ thắc mắc đứa bé này có phước đức gì mà khiến Đức Phật đích thân đến cứu khỏi từ miệng của quỷ bạo ác, rồi trao lại cho cha mẹ của nó?
Bấy giờ Thế Tôn ở giữa đại chúng mà nói kệ rằng:
“Giới đức khéo bảo hộ
Phước báo luôn tùy thân
Thấy Pháp làm nhân sư
Vĩnh xa ba đường ác
Giữ giới trừ hãi sợ
Phước đức ba cõi kính
Quỷ rồng tà độc hại
Không phạm ai trì giới”
Khi nghe được kệ của Phật và lại thấy quang minh tướng hảo của Thế Tôn nên biết là bậc chí tôn, không một ai trong ba cõi có thể sánh bằng, vô số người liền đều quy y và xin làm đệ tử của Phật. Lòng họ hân hoan khi nghe kệ của Phật và đều thấy dấu Đạo.
Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời người, rồng, quỷ thần, quốc vương, quần thần, nhân dân, và vô số đại chúng ở vườn Nai gần thành Lộc Dã.
Bấy giờ có một thái tử của một nước lớn nọ, dẫn theo 500 vương tử của các nước nhỏ đi đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật, và ngồi qua một bên để nghe Pháp.
Sau đó các vương tử bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Phật Đạo vi diệu thanh tịnh, cao viễn huyền thâm, và không gì sánh bằng. Từ xưa đến nay, có quốc vương, thái tử, đại thần, hoặc con của trưởng giả nào mà lìa bỏ địa vị quyền quý và ân ái vinh hoa để trở thành Đạo Nhân chăng?”
Phật bảo các vương tử:
“Địa vị quyền quý và ân ái vinh hoa của thế gian thì như huyễn như hóa, như mộng như âm vang. Chợt đến chợt đi và chẳng thể bảo hộ lâu dài. Lại có quốc vương hoặc thái tử do vướng ba việc ác này mà chẳng thể đắc Đạo. Những gì là ba?
1. Kiêu mạn buông lung và chẳng nhớ học tập diệu nghĩa của Kinh Phật để trí tuệ tăng trưởng.
2. Tham lam keo kiệt và không chịu bố thí kẻ nghèo cùng khốn khổ, tài bảo của quần thần và tướng sĩ chẳng phân hưởng với nhân dân.
3. Chẳng thể rời xa sắc dục và những việc yêu thích, chẳng thể xả bỏ lao ngục của phiền não để trở thành Đạo Nhân và diệt trừ khổ ách.
Sở dĩ Bồ–tát nguyện chuyển sanh làm vua là để tu hành, diệt trừ ba việc này, và tự chứng thành Phật. Lại có ba việc lành. Những gì là ba?
1. Thiếu niên học tập, thống lãnh đất nước, và giáo hóa nhân dân tu hành Mười Nghiệp Lành.
2. Luôn dùng tài vật bố thí kẻ bần cùng đơn côi, quần thần tướng sĩ và nhân dân cùng chung hưởng an vui.
3. Luôn nghĩ vô thường, tánh mạng khó bảo hộ lâu dài, và muốn xuất gia trở thành Đạo Nhân để đoạn trừ nhân duyên của khổ và không còn thọ sanh tử.
Nếu chẳng thực hành ba việc này thì họ sẽ không được như sở nguyện.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn tự thuật rằng:
“Vào thuở xưa ở đời trước, ta từng làm Chuyển Luân Thánh Vương, tên là Nam Vương Hoàng Đế, có bảy báu luôn uy trấn bên mình. Có cung điện ao tắm, viên lâm du hí, quần thần, quan ngự trù, phu nhân thể nữ, và voi ngựa, mỗi thứ có đến 84.000. Ngài lại có 1.000 con trai dũng mãnh tinh duệ. Sức mạnh của mỗi vương tử có thể địch cả 1.000 người, phi hành hư không, việc làm như ý và không ai dám đối nghịch. Họ sống đến 84.000 tuổi, đều dùng chánh Pháp trị nước và không làm nhân dân oán trách.
Một hôm vua Chuyển Luân bỗng nhiên tự nghĩ thầm:
“Đời người ngắn ngủi, vô thường và khó bảo hộ. Thế nên ta nhất định phải tu tập phước đức và cầu Đạo chân thật. Ta sẽ luôn bố thí đến hết thảy nhân dân trong thế gian. Tất cả tài vật sẽ cùng dân phân hưởng. Sau khi đã trồng phước đức này, ta sẽ xuất gia để trở thành Đạo Nhân. Một khi đã đoạn tuyệt tham dục thì mới có thể diệt trừ khổ não.”
Nhà vua liền ra lệnh cho người thợ hớt tóc rằng:
‘Nếu thấy có tóc bạc trên đầu thì phải liền báo cho trẫm biết.’
Đến một thời gian dài khoảng vài chục ngàn năm sau, người thợ hớt tóc tâu rằng:
‘Muôn tâu thánh vương! Trên đầu ngài đã mọc tóc bạc.’
Nhà vua ra lệnh nhổ chúng và đặt ở trên bàn.
Khi thấy những sợi tóc bạc, nhà vui rơi lệ và nói rằng:
“Sứ giả thứ nhất hốt nhiên đã đến. Nay đầu đã bạc, ta phải nên xuất gia làm Đạo Nhân và cầu Đạo tự nhiên.”
Sau đó nhà vua đặt những sợi tóc bạc vào lòng bàn tay, rồi tự nói kệ rằng:
“Đầu ta nay đã bạc
Dấu hiệu thời trẻ qua
Thiên sứ đến báo tin
Đến lúc phải xuất gia”
Nhà vua lập tức triệu tập quần thần và lập thái tử lên ngôi, rồi trở thành Đạo Nhân và vào núi tu Đạo. Khi thọ mạng ở nhân gian chấm dứt, ngài liền sanh làm thái tử của Năng Thiên Đế ở tầng trời thứ hai.
Vị vua kế nhiệm cũng thống lãnh thiên hạ như tiên vương thuở trước và cũng bảo người thợ hớt tóc rằng:
‘Nếu thấy có tóc bạc trên đầu thì phải liền báo cho trẫm biết.’
Đến một thời gian dài về sau, người thợ hớt tóc tâu rằng:
‘Muôn tâu thánh vương! Trên đầu ngài đã mọc tóc bạc.’
Nhà vua ra lệnh nhổ những sợi tóc bạc, rồi đặt chúng vào lòng bàn tay và nói kệ rằng:
“Đầu ta nay đã bạc
Dấu hiệu thời trẻ qua
Thiên sứ đến báo tin
Đến lúc phải xuất gia”
Nhà vua cũng lập tức triệu tập quần thần và lập thái tử lên ngôi, rồi trở thành Đạo Nhân và vào núi tu Đạo. Khi thọ mạng ở nhân gian chấm dứt, ngài liền sanh lên trời làm Năng Thiên Đế. Còn vị thiên đế trước đây, khi thọ mạng ở thiên thượng chấm dứt, ngài sanh làm thái tử của vua Chuyển Luân. Ba vị ấy luân phiên làm cha con với nhau, hoặc sanh lên trời làm thiên đế, hoặc sanh xuống nhân gian làm vua Chuyển Luân, hoặc sanh làm thái tử của thiên đế hay thái tử của vua Chuyển Luân. Mỗi vị trải qua 36 lần như thế và thời gian dài đến khoảng vài ngàn vạn năm. Khi vừa kết thúc rồi lại bắt đầu nối tiếp thực hành ba việc lành ở trên và tự chứng thành Phật.
Vua cha thuở đó nay chính là thân Ta. Thái tử chính là Bhikṣu Thu Lộ Tử. Vương tôn chính là Bhikṣu Khánh Hỷ. Trải qua nhiều đời thọ sanh và triển chuyển làm vua Chuyển Luân, rồi dùng Chánh Pháp giáo hóa nhân dân trong thiên hạ. Việc này rất đặc biệt và tôn quý, khắp ba cõi không một ai có thể sánh bằng”
Khi Phật nói lời ấy xong, tất cả vương tử của các nước đều sanh tâm đại hoan hỷ. Họ thọ trì Năm Giới của Phật, xin làm Thanh Tín Sĩ, và đều đắc Quả Nhập Lưu.