KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
QUYỂN 3
PHẨM 32: ÁI DỤC (PHẦN 1)
Thuở xưa Đức Phật chuyển đại Pháp luân cho hàng trời người, rồng và quỷ thần ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá.
Bấy giờ có một người lìa bỏ vợ con đi đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật và xin làm Đạo Nhân. Đức Phật liền thu nhận để trở thành Đạo Nhân. Sau đó Thế Tôn bảo ông ấy đến ngồi ở dưới gốc cây để tư duy về Đạo. Bhikṣu vâng lời Phật dạy, liền vào núi sâu, cách tinh xá hơn 100 dặm, và một mình ngồi ở dưới gốc cây. Suốt ba năm tư duy về Đạo mà tâm ngài chẳng thể kiên cố và ý muốn thoái lùi.
Một hôm ngài nghĩ thầm:
“Mình đã lìa bỏ gia đình để cầu Đạo và phải chịu bao gian khổ, chi bằng hãy sớm trở về nhà để gặp lại vợ con.”
Khi đã khởi niệm này rồi, ngài liền hạ sơn. Với trí tuệ của Ba Minh, Đức Phật thấy vị Bhikṣu này đáng được hóa độ và sắp đắc Đạo, chỉ vì ngu muội nhất thời nên mới muốn trở về nhà. Đức Phật dùng thần túc biến hóa làm một vị Đạo Nhân và đi ngược hướng.
Ở giữa đường gặp nhau, hóa nhân liền nói rằng:
“Tôi từ đằng kia đến. Chỗ đất này bằng phẳng, chúng ta có thể ngồi xuống và hãy cùng nhau chuyện trò!”
Và thế là hai người họ liền ngồi xuống nghỉ ngơi và trò chuyện.
Bhikṣu tâm sự với hóa nhân rằng:
“Xưa tôi lìa bỏ vợ con để trở thành Đạo Nhân, và tu hành trong núi sâu đã lâu mà chẳng thể đắc Đạo. Tôi biệt ly vợ con và chịu biết bao gian khổ, chỉ uổng công phí sức mà bổn nguyện không thành. Nay tôi muốn hoàn tục để trở về gặp vợ con và sum họp quây quần, rồi sau này tính tiếp.”
Trong chốc lát thì có một con khỉ già xuất hiện. Từ lâu nó rời xa khu rừng và đến sinh sống ở nơi không một bóng cây.
Hóa Đạo Nhân hỏi Bhikṣu rằng:
“Vì sao con khỉ đó ở một mình nơi đất trống? Nó thích thú điều gì ở nơi chẳng có cây cối như thế?”
Bhikṣu trả lời hóa Đạo Nhân rằng:
“Từ lâu tôi đã thấy con khỉ này rồi. Có hai nguyên nhân mà nó đến sống ở đây. Những gì là hai?
1. Vợ con quyến thuộc của đàn khỉ quá nhiều nên không được ăn uống cho thỏa thích.
2. Suốt ngày lẫn đêm phải leo lên và tuột xuống cây nên gót chân bị tổn thương, và không lúc nào được thảnh thơi.
Bởi hai nguyên nhân này mà nó từ bỏ rừng cây và đến sống ở đây.”
Hóa Đạo Nhân và Bhikṣu đang trò chuyện một lát thì lại thấy con khỉ chạy trở về và leo trên cây.
Hóa Đạo Nhân nói với Bhikṣu rằng:
“Thầy có thấy con khỉ quay trở về với rừng cây chăng?”
Đáp rằng:
“Thấy chứ! Con khỉ này thật ngu si! Nó đã rời bỏ chỗ ồn ào của đàn khỉ trong rừng cây, nhưng giờ nó lại chẳng nhàm chán phiền não mà còn quay trở về.”
Hóa nhân lại nói rằng:
“Thầy cũng vậy thôi! Tình huống giữa thầy và con khỉ có khác gì đâu. Xưa thầy cũng vì hai việc nên mới vào sống trong núi này. Những gì là hai?
1. Thầy xem vợ con nhà cửa tựa như lao ngục.
2. Thầy xem con cái quyến thuộc giống như gông cùm.
Sở dĩ thầy xuất gia tu Đạo là hy vọng có thể đoạn trừ nỗi khổ của sanh tử. Nhưng bây giờ thầy muốn về nhà, quay lại chỗ xiềng xích và vào trong lao ngục. Thầy quyến luyến ái ân và đang lao vào địa ngục đó.”
Hóa Đạo Nhân liền hiện thân tướng sắc vàng cao một trượng sáu và quang minh chiếu khắp núi rừng. Khi ấy các loài chim thú đều theo ánh sáng mà đến. Bấy giờ chúng đều tự biết những việc của đời trước và trong lòng sám hối lỗi lầm.
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Như rễ cây sâu chắc
Dù chặt vẫn mọc lên
Tâm ái không trừ sạch
Liền sẽ lại thọ khổ
Như khỉ rời khỏi cây
Rồi lại đến cây khác
Phàm phu cũng như thế
Thoát ngục lại vào ngục
Ý tham luôn chảy mãi
Ác tập với kiêu mạn
Tư tưởng bám tham dục
Tự che chẳng thể thấy
Tất cả dòng ý chảy
Ái siết như dây sắn
Duy tuệ phân biệt thấy
Khéo đoạn gốc của ý
Người bị ái thấm ướt
Tư tưởng càng lan xa
Ái dục sâu không đáy
Già chết chỉ tăng thêm”
Khi thấy quang minh tướng hảo rực rỡ của Phật và lại nghe được kệ, vị Bhikṣu run rẩy sợ hãi, rồi cúi đầu đảnh lễ sát đất, cầu xin sám hối, trong lòng tự trách và sửa đổi. Lúc đó vọng niệm của ngài dừng nghỉ, rồi tu trì Chỉ Quán và liền đắc Đạo Ứng Chân ở trước Phật. Bấy giờ chư thiên đến nghe Pháp thảy đều hoan hỷ. Họ rải hoa cúng dường và ngợi khen vô lượng.
Thuở xưa có một quốc gia cách thành Vương Xá khoảng 4.000 dặm về hướng nam. Vị vua của nước này luôn phụng sự khoảng vài ngàn Phạm Chí. Bấy giờ trong nước có trận hạn hán khắc nghiệt kéo dài đến ba năm mà không một giọt mưa. Nhà vua đến khắp miếu đền để cầu cúng các vị thần linh nhưng đều chẳng linh nghiệm. Khi ấy nhà vua hỏi các Phạm Chí về nguyên nhân của việc đó.
Các Phạm Chí tâu rằng:
“Tâu đại vương! Sau khi chúng tôi trì trai giới xong, cũng sẽ sai người đến hỏi Phạm Thiên về sự thiên tai khác thường này.”
Nhà vua nói rằng:
“Rất tốt! Khi các vị cử hành thọ trì trai giới, nếu có cần gì xin hãy nói cho trẫm biết.”
Các Phạm Chí tâu rằng:
“Tâu đại vương! Chúng tôi cần 20 xe củi, mật ong dầu bơ, hương hoa phan lọng, và những đồ vật cúng tế bằng vàng bạc; tất cả đều chẳng thể thiếu.”
Nhà vua liền cung cấp đầy đủ vật dụng và đưa chúng ra ngoài thành ở một chỗ đất bằng phẳng, cách thành khoảng bảy dặm, rồi chất những đống củi cao như núi. Sau đó các Phạm Chí cùng nhau cổ vũ, rằng nếu ai chẳng tiếc thân mạng thì sẽ vĩnh viễn sanh lên cõi Phạm Thiên. Kết quả họ tuyển được bảy người tự nguyện hỏa thiêu để sai đi gặp Phạm Thiên. Sau khi bảy người ấy đã được chú nguyện, họ được đặt ở trên giàn củi, rồi các Phạm Chí sai người đốt lửa ở dưới để thiêu sống cúng tế. Khi khói lửa bốc cháy và hơi nóng áp thẳng vào mặt, bảy người họ kinh hoàng và xin tha mạng nhưng chẳng một ai giúp cả.
Họ đồng thanh cầu cứu rằng:
“Trong ba cõi, ai có lòng đại từ mà thương xót cứu tôi ra khỏi ách nạn này thì tôi sẽ xin quy y.”
Đức Phật từ xa nghe tiếng cầu cứu của họ nên liền đến. Ngài đứng giữa hư không và hiện ra tướng hảo uy nghiêm.
Khi thấy Phật, bảy người họ mừng rỡ khôn xiết và van xin rằng:
“Con xin nguyện quy y! Cầu mong Ngài hãy cứu con thoát khỏi bị lửa thiêu đốt!”
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Nhiều người đi nương tựa
Thần cây thần sông núi
Xây miếu vẽ hình tượng
Cúng tế cầu xin phước
Nương tựa nơi như thế
Chẳng an chẳng tối thượng
Bởi thần không thể đến
Diệt trừ khổ của ta
Nếu ai Quy Y Phật
Quy Y Pháp cùng Tăng
Tu tập Bốn Thánh Đế
Tất thấy chân trí tuệ
Sanh tử chốn nhọc nhằn
Độ thoát nhờ Bốn Đế
Độ đời Tám Chánh Đạo
Diệt trừ mọi khổ đau
Quy y nơi Tam Bảo
Tối thượng cát tường nhất
Duy chỉ Phật Pháp Tăng
Mới trừ mọi khổ đau”
Sau khi Phật nói bài kệ thanh lương, lửa dần dần tắt. Bảy người họ được an ổn và lòng hoan hỷ vô lượng. Phạm Chí và dân chúng trong nước, không ai là chẳng kinh sợ, và ai nấy đều chiêm ngưỡng quang minh tướng hảo hiển hách của Thế Tôn. Lúc ấy Đức Phật từ một thân phân ra thành nhiều thân. Ngài ẩn mất ở phương đông rồi hiện ra ở phương tây, đi đứng nằm ngồi tự tại. Phần trên của thân vọt ra nước, còn phần dưới của thân phun ra lửa, hoặc ngược lại. Ngài lại phóng ra ánh sáng rực rỡ năm màu. Khi mọi người nhìn thấy, họ cúi đầu đảnh lễ sát đất và xin quy y.
Bấy giờ bảy người kia từ giàn củi bước xuống, họ vừa mừng vừa sợ, rồi liền nói kệ rằng:
“Vui thay thấy thánh nhân
Vui thay được nương tựa
Lìa xa kẻ ngu mê
Tu thiện tự an vui
Vui thay trì Chánh Đạo
Vui thay thuyết giảng Pháp
Với đời không đua tranh
Giữ giới luôn an vui
Sống cùng với thánh hiền
Vui như gặp người thân
Gần gũi bậc trí tuệ
Đa văn đức cao thâm”
Lúc bảy người kia nói những bài kệ này xong, họ cùng với các Phạm Chí xin làm đệ tử. Đức Phật liền thu nhận để trở thành Đạo Nhân, rồi họ đều đắc Đạo Ứng Chân. Khi ấy quốc vương, quần thần, và dân chúng thảy đều kính tin tu Đạo. Bấy giờ trời đổ trận mưa lớn, quốc thái dân an, Đạo Pháp hưng thịnh và không ai là chẳng thích nghe.
KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
QUYỂN 4
PHẨM 32: ÁI DỤC (PHẦN 2)
Vào thời Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời người ở thành Phong Đức, bấy giờ trong thành có một Phạm Chí trưởng giả giàu sang vô cùng. Tuy nhiên ông rất keo kiệt, chẳng ưa bố thí, lúc ăn luôn đóng cổng nhà và không vui thích gặp người qua lại. Nếu khi đến giờ ăn, ông liền sai cho kẻ giữ cửa đóng chặt cổng để khỏi có ai vào trong. Đạo Nhân, Phạm Chí, hay những kẻ ăn xin đều chẳng thể nào gặp được ông ta.
Một hôm ông trưởng giả bỗng nhiên thèm ăn ngon. Ông sai vợ đi giết một con gà béo mập để làm bữa cơm thịnh soạn. Vợ ông lấy gừng và tiêu để ướp thịt gà, rồi mang đi nướng chín. Khi thức ăn nước uống được dọn lên tươm tất, ông sai người đóng cổng ngoài. Hai vợ chồng ngồi xuống và đặt đứa con nhỏ ở giữa, rồi cùng nhau ăn uống. Hai vợ chồng cứ thay phiên liên tục lấy thịt gà bỏ vào miệng của đứa bé.
Đức Phật biết phước đức của trưởng giả ở đời trước và đáng được hóa độ, nên Ngài hóa làm một vị Đạo Nhân, rồi xuất hiện ở trước chỗ ngồi của trưởng giả và chú nguyện rằng:
“Xin hãy bố thí một chút thức ăn thì có thể sẽ được đại phú.”
Ông trưởng giả ngẩng đầu lên thì trông thấy hóa Đạo Nhân nên liền mắng chửi rằng:
“Ông là người tu hành mà chẳng biết liêm sỉ. Gia đình người ta đang ngồi ăn cơm mà sao ngang nhiên xông vào như thế?”
Đạo Nhân đáp rằng:
“Chính ông mới ngu si và không biết xấu hổ. Tôi là một khất sĩ, có gì mà xấu hổ?”
Trưởng giả hỏi rằng:
“Tôi và gia đình đang vui vẻ với nhau, có gì mà xấu hổ?”
Đạo Nhân đáp rằng:
“Ông giết cha, lấy mẹ làm vợ, và nuôi dưỡng oan gia mà chẳng biết xấu hổ. Còn tôi là một khất sĩ, có gì mà xấu hổ chứ?”
Lúc bấy giờ hóa Đạo Nhân liền nói kệ rằng:
“Ái dục sanh bất tận
Chỉ dùng tham dục ăn
Nuôi oán, lợi gò mả
Kẻ ngu luôn miệt mài
Tuy ngục có móc xích
Người trí chẳng bảo chắc
Kẻ ngu thấy vợ con
Nhiễm ái hơn lao ngục
Phật nói ái là ngục
Kiên cố khó ra khỏi
Cho nên hãy đoạn trừ
An lạc không tham dục”
Trưởng giả nghe kệ và kinh ngạc hỏi rằng:
“Vì sao Đạo Nhân lại nói những lời này?”
Đạo Nhân đáp rằng:
“Con gà bị giết ở trên bàn là cha của ông ở đời trước. Do lòng keo kiệt nên luôn sanh vào loài gà và bị ông ăn thịt.
Thuở xưa đứa bé này từng làm quỷ bạo ác. Bấy giờ ông là một thương chủ dẫn các thương nhân ra biển, rồi bị lạc ở nước quỷ bạo ác và bị nó bắt ăn thịt. Sau khi đã thọ hết 500 đời như thế, nó sanh làm con trai của ông. Bởi tội của ông chưa hết nên nó mới đến gây hại.
Còn người vợ hiện tại chính là mẹ của ông ở đời trước. Do ân ái sâu đậm nên nay mới sanh trở lại làm vợ của ông.
Ông nay thật ngu si và chẳng biết việc đời trước, giết cha để nuôi kẻ thù và lấy mẹ làm vợ. Chúng sanh thường luân chuyển trong sanh tử không cùng tận ở trong năm đường. Tuần hoàn trong năm đường như thế, ai có thể thấu rõ? Duy chỉ có những bậc tu Đạo mới thấy họ từ nơi này đến nơi kia. Kẻ ngu chẳng biết mà sao còn không xấu hổ?”
Lúc ấy ông trưởng giả hối hận, lông trên thân dựng đứng, và kinh hãi vạn phần. Bấy giờ Đức Phật hiện sức uy thần và khiến ông biết được những việc ở đời trước. Khi trông thấy Phật, trưởng giả liền biết chuyện đời trước, rồi sám hối tạ ơn Phật và xin thọ Năm Giới. Sau khi nghe Phật thuyết Pháp, ông liền đắc Quả Nhập Lưu.
Vào thời Đức Phật thuyết Pháp ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức, bấy giờ có một Bhikṣu trẻ tuổi vào thành khất thực. Trong thành ngài thấy một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần và cõi lòng chỉ nhớ nhung đến nàng. Do sự mê muội chẳng được giải tỏa nên liền thành bệnh. Ngài không ăn uống gì hết, thân thể tiều tụy, và nằm mãi chẳng ngồi dậy.
Khi ấy các vị đồng tu đến thăm và hỏi rằng:
“Sao thầy chịu khổ não như thế?”
Lúc đó vị Bhikṣu trẻ tuổi mới kể hết sự tình. Kể từ khi nảy sanh ái dục kia nên lòng ngài chẳng còn muốn tu Đạo nữa, ước nguyện lại chẳng như ý nên ưu sầu thành bệnh. Các bạn đồng học khuyên ngăn nhưng lời của họ chẳng lọt vào tai. Thế nên họ đành phải dìu vị ấy đến chỗ của Phật và kể rõ sự việc với Thế Tôn.
Phật bảo vị Bhikṣu trẻ tuổi rằng:
“Ước nguyện của ông cũng dễ được thôi, đâu cần phải sầu khổ như thế. Ta sẽ lập phương tiện giúp ông. Ông hãy ngồi dậy và ăn uống trở lại.”
Khi Bhikṣu nghe lời Phật nói, cõi lòng rất vui mừng và khí huyết lưu thông.
Lúc bấy giờ Thế Tôn dẫn vị Bhikṣu này và đại chúng vào thành Phong Đức, rồi đến nhà của cô gái xinh đẹp kia. Tuy nhiên cô gái đó đã chết ba ngày rồi. Thân tộc kêu gào thương xót và chẳng nỡ vội mai táng, nên thân xác trương phình, bốc mùi hôi thối và những thứ bất tịnh chảy ra ngoài.
Phật bảo Bhikṣu:
“Những thứ ông tham luyến về cô gái này, nay đã trở thành như vậy đó. Vạn vật vô thường và thay đổi trong từng hơi thở. Kẻ ngu chỉ nhìn xem vẻ ngoài mà chẳng thấy thứ xấu ác của nó. Họ triền miên trong lưới nghiệp tội mà cho là vui sướng.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Thấy sắc tâm mê muội
Vô thường không tư duy
Kẻ ngu cho tốt đẹp
Nào biết đó chẳng thật
Cuộn mình trong ái dục
Ví như tằm nhả tơ
Bậc trí khéo đoạn trừ
Chẳng tiếc, trừ khổ ách
Tâm ai mãi buông lung
Thấy dâm bảo là tịnh
Ân ái ý gia tăng
Từ đó vào ngục lao
Ý ai diệt trừ dâm
Thường niệm dục bất tịnh
Từ đó thoát ngục tà
Khéo đoạn già chết khổ”
Khi nhìn thấy cô gái kia đã chết ba ngày với khuôn mặt trương phình rữa nát, hôi thối không ai dám đến gần, và lại nghe được bài kệ thanh tịnh khai thị của Thế Tôn, vị Bhikṣu trẻ tuổi hoát nhiên tỏ ngộ và biết sự mê muội của mình. Ngài cúi đầu đảnh lễ Đức Phật và sám hối lỗi lầm. Đức Phật truyền thọ Ba Quy Y cho gia quyến của cô gái, rồi trở về Tinh xá Kỳ Viên. Sau đó vị Bhikṣu trẻ tuổi nỗ lực tinh tấn và cuối cùng đắc Đạo Ứng Chân. Bấy giờ đại chúng đi theo và vô số người ở đó đều thấy sự ô uế của sắc dục, tin hiểu lẽ vô thường, khát vọng tham ái đình chỉ, và cũng thấy dấu Đạo.
Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng người, trời rồng, và quỷ thần ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.
Bấy giờ có một đại trưởng giả giàu sang vô cùng. Ông chỉ có một đứa con trai duy nhất, khoảng 12, 13 tuổi. Nào ngờ ít lâu sau cả hai vợ chồng đều lần lượt qua đời. Do cậu bé trẻ tuổi chưa biết làm ăn sinh sống và quản lý gia nghiệp, nên tài sản tiêu tán và chỉ trong vài năm thì gia tài hết sạch. Thời gian sau đó, chàng không thể tự lo bản thân được nữa nên phải đi xin ăn.
Trước đây thân phụ của chàng thanh niên này có một người bạn thân, cũng là một trưởng giả tài phú phi thường. Một hôm ông tình cờ thấy chàng thanh niên này nên mới hỏi sự tình. Khi biết được cảnh ngộ, trưởng giả rất thương xót. Ông dẫn anh ta về nhà, rồi còn gả đứa con gái của mình, cấp cho nô tỳ ngựa xe, và vô số tài vật. Ông lại xây cho một căn nhà để hai vợ chồng trẻ có cuộc sống mới. Tuy nhiên, anh ta là một kẻ lười biếng, chẳng biết lo nghĩ tương lai và không thể làm ăn sinh sống. Do đó tài sản tiêu hao và đời sống của hai vợ chồng ngày càng khốn đốn. Vì thương con gái của mình, ông trưởng giả lại cho thêm tài vật, nhưng cuộc sống của họ dần dần túng thiếu cũng y như trước. Ông trưởng giả hết lần này đến lượt khác lại tiếp tục cho nữa nhưng cũng chẳng được gì. Ông suy nghĩ tiền đồ của chàng rể không thể thành tựu nên muốn đoạt lại con gái và gả cho người khác.
Giữa lúc gia tộc đang cùng nhau bàn luận về việc này thì con gái của trưởng giả tình cờ nghe được, nên trở về kể cho chồng nàng hay và nói rằng:
“Thế lực của gia tộc em hùng mạnh và có thể đoạt lại em từ anh, bởi vì anh không thể làm ăn sinh sống. Ý anh nghĩ sao? Anh định tính sao đây?”
Khi nghe vợ mình nói thế, anh chồng xấu hổ và tự nghĩ:
“Đây đều là do mình bạc phước. Từ thuở nhỏ đã mất đi sự che chở và chưa từng học qua phương pháp làm ăn. Nay mình sẽ mất vợ và phải đi xin ăn như trước. Tình nghĩa vợ chồng thắm thiết bao năm qua, nay sẽ phải biệt ly. Làm sao mình có thể chịu nổi?”
Sau khi suy tính nhiều lần, anh ta khởi ác niệm, rồi dẫn vợ vào phòng và nói rằng:
“Nay hai vợ chồng của chúng ta sẽ cùng chết ở đây.”
Và thế là anh ta liền lấy dao đâm vợ, rồi tự tử. Khi phát hiện vợ chồng cậu chủ đều chết, các nô tỳ hoảng sợ chạy đến báo cho ông trưởng giả. Toàn thể gia quyến lớn nhỏ của trưởng giả kinh hoàng chạy đến xem. Khi thấy chuyện đã rồi, họ liệm xác hai vợ chồng, rồi đưa đi mai táng theo tục lệ trong nước. Lúc ấy kẻ lớn người nhỏ trong gia đình của trưởng giả đều buồn bã và thương nhớ đứa con gái khôn nguôi.
Trước đó không lâu, ông trưởng giả nghe rằng Đức Phật đã xuất hiện ở thế gian, giáo hóa thuyết Pháp, ai thấy đều hoan hỷ và có thể tiêu trừ mọi ưu sầu hoạn nạn. Vì vậy ông trưởng giả liền dẫn cả gia đình đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật và ngồi qua một bên.
Phật hỏi trưởng giả:
“Ông từ đâu đến mà sao nét mặt ưu sầu chẳng vui?”
Trưởng giả thưa rằng:
“Thưa Thế Tôn! Gia môn của con bất hạnh. Trước đây con đã gả nhầm ái nữ cho một kẻ ngu si không biết làm ăn sinh sống. Sau đó con muốn đoạt lại con gái. Biết được nên hắn đã giết vợ rồi tự sát. Cả hai vợ chồng đã chết như thế. Sau khi đưa chúng đi mai táng, trên đường về con ghé qua chỗ của Thế Tôn để thân cận.”
Phật bảo trưởng giả:
“Tham dục và sân hận là căn bệnh thường tình của thế gian. Sự ngu si vô trí là tai họa của gia môn. Chúng sanh triển chuyển sanh tử nguy hiểm vô số kiếp để chịu muôn vàn khổ đau ở trong năm đường, đều là do nó. Thế mà họ còn chẳng biết hối cải. Hà huống là kẻ ngu si thì làm sao có thể nhận biết được sự ác độc của tham dục. Họ hủy diệt thân tộc, hại mình và chúng sanh. Huống nữa là vợ chồng.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Kẻ ngu trói bởi tham
Chẳng mong qua bờ kia
Do tham tài với ái
Hại người cũng hại mình
Tâm ái dục là ruộng
Tham sân si là hạt
Ai bố thí độ đời
Phước báo vô cùng tận
Ít người mà nhiều hàng
Thương nhân sanh kinh sợ
Tham dục giặc hại mạng
Bậc trí chẳng tham dục”
Khi nghe kệ của Phật nói, ông trưởng giả vui mừng và nỗi sầu muộn cũng vơi đi. Toàn thể gia quyến lớn nhỏ của trưởng giả và những người đến nghe Pháp liền ở tại chỗ ngồi, phá trừ 20 ức kiếp nghiệp tội sanh tử và đắc Quả Nhập Lưu.
Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời rồng, quỷ thần, quốc vương, quần thần, và dân chúng ở tại Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.
Bấy giờ có hai người lãng du kết bạn với nhau. Họ luôn theo sát cận kề như cùng một thân thể không khác. Một hôm hai người bàn luận với nhau và muốn làm Đạo Nhân.
Và thế là họ cùng đi đến chỗ của Phật, đảnh lễ Đức Phật, hai gối quỳ, chắp tay và thưa với Phật rằng:
“Thưa Thế Tôn! Chúng con muốn xuất gia làm Đạo Nhân. Kính mong Như Lai cho phép.”
Đức Phật liền thu nhận để trở thành Đạo Nhân, và bảo cùng trú trong một căn phòng. Thế nhưng hai người họ chỉ ở trong phòng nghĩ ngợi về những vinh hoa vui sướng của thế gian. Họ lại cùng nhau ca ngợi về thú vui của thể xác và miêu tả về dáng dấp thùy mị của nữ nhân. Lòng họ bám chặt chẳng buông xả và ý niệm không hề dừng nghỉ. Họ chẳng biết vô thường và sự bất tịnh ô trược của thân thể. Lâu dần tâm họ mắc bệnh do bởi sự khao khát bộc phát. Với tuệ nhãn, Đức Phật biết loạn tưởng của họ đang chạy theo sắc dục và buông thả tâm ý nên chẳng thể giải thoát. Lúc ấy Đức Phật bảo một người trong số họ đi đến nơi khác.
Sau đó Ngài hóa thành người kia, rồi vào phòng và tâm sự với người bạn đồng tu rằng:
“Lòng của chúng ta luôn nghĩ ngợi về sắc dục mà chẳng hề lìa xa. Hay là chúng ta hãy cùng đi xem thân thể của người nữ để biết như thế nào? Còn như ở đây mơ mộng suy tư thì chỉ nhọc nhằn vô ích.”
Và thế là hai người cùng đi đến trong thôn của một dâm nữ nọ. Bấy giờ Đức Phật ở trong thôn ấy hóa làm một dâm nữ.
Khi đã bước vào nhà của dâm nữ, hai người họ nói rằng:
“Chúng tôi là Đạo Nhân, thọ giới cấm của Phật, và không dám vi phạm thân nghiệp. Tuy nhiên ý niệm thì muốn quán sát thân thể của người nữ. Chúng tôi tuyệt đối sẽ giữ đúng lễ nghi.”
Hóa dâm nữ liền cởi xâu chuỗi anh lạc và y phục ngát hương, rồi đứng lõa hình. Bấy giờ mùi hôi từ nơi ô uế của dâm nữ bốc ra, thật khó mà có thể đứng gần.
Sau khi hai người họ đã nhìn rõ những chỗ hôi dơ, hóa Đạo Nhân liền bảo người kia rằng:
“Người nữ xinh đẹp là nhờ có son phấn, cài lên hoa thơm, tắm gội nước hương, và mặc quần áo lộng lẫy để che chỗ hôi dơ. Họ thoa dầu thơm và mong muốn người khác nhìn thấy. Thật sự thì cái thân thể tanh hôi đó ví như một cái túi đựng phân vậy. Có gì mà đáng tham luyến?”
Lúc bấy giờ hóa Bhikṣu liền nói kệ rằng:
“Nguồn gốc của tham dục
Là do vọng tưởng sanh
Nếu tâm chẳng nghĩ tưởng
Ái dục sẽ không sanh
Ái dục tâm ham muốn
Đâu chỉ năm dục thôi?
Mau lìa tuyệt năm dục
Mới là bậc dũng mãnh
Vô dục sẽ không sợ
Đơn sơ chẳng ưu sầu
Dục trừ kết sử giải
Đó là thoát vực sâu”
Lúc nói kệ xong, Đức Phật liền hiện trở lại quang minh tướng hảo. Khi thấy vậy, vị Bhikṣu sanh lòng hổ thẹn, sám hối lỗi lầm, và cúi đầu đảnh lễ sát đất. Sau khi nghe Phật thuyết Pháp thêm một lần nữa, ngài vui mừng khai ngộ và trở thành bậc Ứng Chân.
Khoảng một lúc sau thì vị Bhikṣu được bảo đến nơi khác trở về.
Khi trông thấy nét mặt của bạn mình vui tươi hơn bình thường nên liền hỏi rằng:
“Tại sao nét mặt của thầy tươi sáng như thế?”
Vị Bhikṣu này kể lại rằng:
“Hôm nay Đức Phật từ bi thương xót đã hóa độ cho mình nên mới được như thế. Nhờ hồng ân của Thế Tôn mà mình được thoát miễn khổ ách.”
Lúc ấy vị Bhikṣu này lại nói kệ rằng:
“Ngày đêm nhớ sắc dục
Rong ruổi ý chẳng dừng
Thấy uế của nữ nhân
Tưởng diệt hết ưu sầu”
Khi nghe bài kệ này xong, vị Bhikṣu đồng tu liền tự tư duy, đoạn diệt dục tưởng, và được Pháp nhãn thanh tịnh.