KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận

 

 QUYỂN 3

PHẨM 20: ÁI THÂN

Thuở xưa có một quốc gia tên là Hoắc Hương. Cách kinh đô khoảng bảy dặm, nơi đây có một tinh xá và hiện có 500 Đạo Nhân thường cư trú nơi ấy để giảng Kinh tu Đạo.

Đương thời ở trong tinh xá ấy có một Bhikṣu lớn tuổi với tâm tánh ám độn, tên là Tiểu Lộ. Tuy 500 vị Đạo Nhân đã thay phiên dạy bảo ròng rã suốt vài năm mà ông ta vẫn không học thuộc một bài kệ. Ông bị mọi người khinh chê và xa lánh, phải luôn ở lại tinh xá để canh giữ và sai quét dọn tự viện. Về sau có một ngày, vị vua của nước này thỉnh chư Tăng vào cung để cúng dường.

Bấy giờ Bhikṣu Tiểu Lộ tự nghĩ rằng:

“Ta sanh ra trên đời mà sao lại ngu dốt như thế! Ngay cả một bài kệ cũng không biết, luôn bị mọi người chê bai. Vậy ta sống để làm gì?”

Bhikṣu Tiểu Lộ liền cầm sợi dây, rồi đi đến dưới gốc cây to lớn ở hậu viên và định muốn treo cổ tự tử. Với Đạo nhãn, Đức Phật thấy mọi việc từ xa. Ngài liền hóa làm một vị thần cây và chỉ hiện ra nửa thân người.

Hóa thần quở trách rằng:

“Ôi trời, Bhikṣu! Tại sao phải làm vậy?”

Bhikṣu Tiểu Lộ liền kể rõ những việc cay đắng trong lòng.

Hóa thần quở trách rằng:

“Chớ làm như thế! Hãy nghe ta nói. Vào thời giáo hóa của Đức Phật Ẩm Quang thuở xưa, thầy làm một vị Đạo Nhân, tinh thông ba tạng Kinh điển và có 500 đệ tử. Do tự cho mình tài giỏi nên thầy khinh thường mọi người, keo tiếc Kinh nghĩa và không hề giảng dạy. Bởi vậy mà đời đời ở mọi nơi sanh ra, các căn luôn ám độn. Thầy chớ có tự trách và đừng nghĩ đến việc tự sát nữa!”

Bấy giờ Thế Tôn hiện tướng uy thần sáng chói và liền nói kệ rằng:

“Nếu ai quý thân mình
Thận trọng mà bảo hộ
Như muốn trừ ái dục
Học Pháp chớ ngủ say

Thân là trân quý nhất
Tự mình luôn gắng học
Thông đạt rồi dạy người
Kiên định trí tuệ sanh

Trước hãy tự chân chánh
Rồi sau dạy người khác
Nếu ai tự chân chánh
Mới gọi là thượng nhân

Nếu mình chưa an vui
Làm sao lợi kẻ khác?
Thân tâm đã điều phục
Nguyện gì mà chẳng thành?

Việc này xưa ta tạo
Về sau ta tự thọ
Làm ác tự chuốc lấy
Như kim cang xuyên báu”

Khi thấy uy thần sáng chói của Phật, Bhikṣu Tiểu Lộ vừa mừng vừa run sợ, rồi cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật. Sau đó ngài tư duy nghĩa lý của bài kệ, tâm liền nhập định, và đắc Đạo Ứng Chân ngay ở trước Phật. Ngài tự biết vô số việc ở đời trước, và tâm liền thông suốt ba tạng Kinh điển.

Phật bảo Bhikṣu Tiểu Lộ:

“Ông hãy đắp y và cầm bát vào cung vua thọ thực. Sau đó trên Pháp tòa ở nơi của 500 vị Bhikṣu mà thuyết Pháp để khiến họ thấy dấu Đạo. Các vị Bhikṣu đó vốn là 500 đệ tử của ông ở đời trước. Nhân đó cũng làm cho quốc vương tin hiểu tội phước.”

Bhikṣu Tiểu Lộ liền vâng lời Phật dạy, thẳng bước vào cung vua, và ngồi trên Pháp tòa. Bấy giờ đại chúng nổi sân và hết sức kinh ngạc. Vì giữ thể diện cho vua nên họ không dám trách mắng, trong lòng buồn bã, và cũng niệm tình ông ta là kẻ ngu muội vô tri, không hiểu Kinh Pháp.

Bấy giờ nhà vua tự tay lấy thức ăn cho chư Tăng. Sau đó Bhikṣu Tiểu Lộ liền thuyết Pháp, âm thanh như sấm rền, lời nói thanh nhã như mưa rơi xuống. Các vị Bhikṣu kinh hãi, tự cảm thấy hối hận, và đều đắc Đạo Ứng Chân. Lời thuyết Pháp của Bhikṣu Tiểu Lộ khiến cho nhà vua thâm nhập nghĩa lý. Các quần thần và bá quan đều đắc Quả Nhập Lưu.


Vào thời Đức Phật giáo hóa chúng sanh ở thành Phong Đức, bấy giờ có 500 Phạm Chí luôn tìm cơ hội để phỉ báng Phật. Với trí tuệ của Ba Minh, Đức Phật thấy biết khắp tâm tưởng của chúng sanh, và luôn thương xót muốn độ họ. Nhưng do quả chưa chín mùi và nhân duyên chưa đến, nên Phật vẫn chưa có thể hóa độ. Tất cả tội phước một khi đến thời điểm, hễ ai tạo nhân duyên gì thì sẽ thọ tội hoặc hưởng phước từ quả báo đó. Bởi ở đời trước các Phạm Chí này đã gieo một chút duyên lành nên họ sẽ được hóa độ. Do năng lực của phước đức dẫn dắt nên tự nhiên sẽ có sự an bài.

Có một hôm, 500 Phạm chí mưu tính với nhau rằng:

“Chúng ta hãy bảo một kẻ làm nghề mổ giết đến thỉnh Phật cùng chư Tăng để cúng dường. Phật tất sẽ nhận lời và ngợi khen công đức của kẻ kia. Thừa cơ hội ấy, chúng ta sẽ cùng nhau phỉ báng ở trước mặt Phật.”

Sau đó có một người làm nghề mổ giết thỉnh Phật đến nhà để cúng dường.

Phật liền nhận lời và bảo rằng:

“Khi trái chín thì sẽ tự rụng. Khi phước báo thành thục thì sẽ tự độ.”

Kẻ làm nghề mổ giết trở về nhà và chuẩn bị thức ăn chay để cúng dường. Bấy giờ Phật dẫn các đệ tử đến trong thôn của kẻ làm nghề mổ giết.

Khi Phật đến nhà của gia chủ, các Phạm Chí lớn nhỏ thảy đều mừng rỡ và nói với nhau rằng:

“Mãi đến hôm nay chúng ta mới có cơ hội để hủy báng Phật! Nếu Phật ngợi khen phước đức của gia chủ, chúng ta sẽ nói nghiệp tội trước và sau của kẻ làm nghề mổ giết để hủy báng Phật. Nếu Phật nói nghiệp tội của kẻ làm nghề mổ giết, chúng ta sẽ nói hôm nay hắn sẽ có phước hay họa. Với hai cách này mà tùy cơ ứng biến. Mãi đến hôm nay chúng ta mới có cơ hội để hủy báng Phật!”

Bấy giờ Đức Phật đến nhà của gia chủ, rồi ngồi xuống, lấy nước rửa tay và thọ trai. Tiếp đến Thế Tôn quán sát trong lòng của đại chúng và biết có người đáng được hóa độ. Khi ấy Đức Phật liền hiện ra tướng lưỡi, phủ cả mặt và tai, rồi phóng đại quang minh chiếu sáng khắp toàn thành.

Đức Phật liền dùng tiếng Phạm âm và nói bài kệ chú nguyện rằng:

“Theo lời dạy thánh nhân
Dùng Đạo làm lẽ sống
Kẻ ngu sanh ganh ghét
Khi thấy sanh lòng ác
Gây ác chịu ác báo
Ví như gieo nhân khổ

Làm ác tự thọ tội
Làm lành tự thọ phước
Khi nghiệp đã chín mùi
Nó sẽ chẳng đổi thay
Tu thiện sẽ được thiện
Cũng như trồng trái ngọt”

Khi Phật nói kệ xong, tâm ý của 500 Phạm Chí tự nhiên mở thông.

Họ liền đảnh lễ sát đất ở trước Phật, rồi chắp tay và thưa với Phật rằng:

“Chúng con quả thật ngu si ngoan cố, bấy lâu nay không hiểu rõ lời dạy của Phật. Xin Thế Tôn thương xót và cho phép chúng con làm Đạo Nhân.”

Phật liền thu nhận và họ đều trở thành Đạo Nhân. Khi thấy sự biến hóa của Phật, tất cả kẻ lớn người nhỏ ở trong thôn, không ai là chẳng hoan hỷ và họ đều thấy dấu Đạo. Từ đó về sau, họ vâng lời dạy của thánh hiền và không ai còn sát sanh nữa. Khi thọ trai xong, Phật liền trở về tinh xá.



KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ