KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận

 

 QUYỂN 2

PHẨM 18: DAO GẬY

Thuở xưa có một quốc gia tên là Hiền Đề. Bấy giờ có một vị Bhikṣu già bị bệnh khốn khổ lâu ngày, gầy gò dơ bẩn, và nằm liệt ở trong một tinh xá của nước Hiền Đề mà chẳng ai săn sóc.

Biết vậy nên Đức Phật dẫn theo 500 vị Bhikṣu đến chỗ của ông ta, rồi sai các vị Bhikṣu cùng trông nom và nấu cháo. Tuy nhiên các vị Bhikṣu thảy đều gớm ghiếc khi nghe ông ấy rất hôi dơ. Đức Phật sai Năng Thiên Đế lấy nước nóng đến, rồi Phật dùng bàn tay kim cang mà tẩy rửa thân thể của vị Bhikṣu mắc bệnh.

Bấy giờ đại địa chấn động, bỗng nhiên có ánh sáng lớn phóng ra, khiến không ai là chẳng kinh sợ và cung kính.

Khi ấy quốc vương, quần thần, dân chúng, trời rồng quỷ thần, và vô số người đi đến chỗ của Phật, rồi cúi đầu đảnh lễ và bạch Phật rằng:

“Đức Phật là bậc tôn quý nhất của thế gian, Đạo lực viên mãn, và không một ai trong ba cõi có thể sánh bằng. Vì sao Ngài hạ mình tẩy rửa thân thể cấu uế của vị Bhikṣu gầy ốm này?”

Phật bảo quốc vương và toàn thể chúng hội:

“Như Lai sở dĩ xuất hiện ở thế gian chính là vì những kẻ chịu ách khổ tột cùng mà chẳng ai giúp đỡ. Phàm ai trông nom Đạo Nhân và Phạm Chí đang mắc bệnh, hoặc những kẻ bần cùng và người già côi cút, thì sẽ được phước vô lượng và sở nguyện như ý. Đây ví như nước của năm con sông lớn chảy vào biển; phước đến thì cũng như vậy. Khi công đức dần dần viên mãn thì họ sẽ đắc Đạo.”

Nhà vua bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Đời trước vị Bhikṣu này đã tạo tội gì mà nay phải chịu bệnh hoạn khốn khổ đến nhiều năm mà chữa trị chẳng lành?”

Phật bảo nhà vua rằng:

“Thuở xưa có một ông vua chuyên chế bạo ngược, tên là Ác Hành. Trước đây nhà vua sai một võ sĩ tên là Ngũ Bách giữ nhiệm vụ dùng roi quất tội nhân. Ngũ Bách cậy quyền thế của vua mà giả vờ hỷ nộ bất thường. Giả như khi có người sắp bị roi quất, hắn yêu cầu tội nhân dâng quà. Nếu người tội dâng quà thì chỉ bị quất nhẹ, còn không thì sẽ bị roi quất rất nặng. Thế nên mọi người trong nước đều sợ ông ta.

Bấy giờ có một người hiền lương bị kẻ khác vu oan.

Khi sắp sửa bị roi quất, ngài nói với Ngũ Bách rằng:

‘Tôi là đệ tử của Phật. Tôi không có phạm tội và bị kẻ khác vu oan. Xin hãy rủ lòng tha thứ!’

Khi nghe là đệ tử của Phật, Ngũ Bách chỉ dùng roi đánh qua một bên mà chẳng chạm vào thân. Sau khi mạng chung, Ngũ Bách đọa trong địa ngục và bị đánh rất tàn khốc. Khi tội ở địa ngục đã hết, Ngũ Bách được ra khỏi, rồi đọa trong loài bàng sanh và luôn bị gậy đánh đập. Trải qua hơn 500 đời như thế thì tội mới hết và được sanh làm người. Dù được thân người nhưng từ nhỏ đã mắc trọng bệnh và sự đau đớn luôn mãi chẳng lìa thân.

Quốc vương thuở đó, nay chính là Bhikṣu Thiên Nhiệt. Ngũ Bách thuở đó, nay chính là vị Bhikṣu đang mắc bệnh đây vậy. Còn người hiền lương chính là tiền thân của Ta.

Ta ở đời trước được ông ấy khoan hồng nên không bị roi quất vào thân. Bởi vậy mà hôm nay Thế Tôn mới hạ mình tẩy rửa cho ông ấy. Người làm thiện được phước đức, làm ác gặp tai ương, và chúng sẽ luôn tùy thân. Dù họ đã trải qua sanh tử nhưng nghiệp đó cũng không thể nào được thoát miễn.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Đánh đập bậc hiền lương
Gièm pha người vô tội
Ương họa tăng gấp mười
Tai vạ chóng không tha

Sanh thời chịu đau đớn
Thân thể gãy tổn thương
Tự nhiên gặp não bệnh
Hoảng hốt tâm điên cuồng

Bị người vu khống oan
Quan liêu làm khốn khổ
Tài sản hao hụt hết
Thân quyến biệt ly tan

Nhà cửa vật sở hữu
Hỏa hoạn thiêu cháy rụi
Khi chết đọa địa ngục
Đó là mười tai ương”

Khi nghe những bài kệ này của Phật, vị Bhikṣu mắc bệnh nhớ lại chuyện đời trước và tự biết việc làm thuở xưa của mình nên trong lòng tự trách khôn nguôi. Bấy giờ bệnh của ngài được tiêu trừ, thân tâm an định và liền đắc Đạo Ứng Chân ở trước Phật. Lúc đó quốc vương của nước Hiền Đề hoan hỷ tín giải. Ngài xin làm Thanh Tín Nam, suốt đời phụng hành Năm Giới và cũng đắc Quả Nhập Lưu.


Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời người, rồng và quỷ thần ở tại vườn Cấp Cô Độc, trong Rừng cây Chiến Thắng gần thành Phong Đức.

Về hướng đông của xứ này có một quốc gia tên là Thắng Cước. Bấy giờ có 500 Phạm Chí cùng nhau muốn đến bờ sông Hằng. Ở bờ sông có ba ngôi đền thờ có ao tắm. Nước trong ao có thể dùng để tắm gội cấu uế. Như pháp của ngoại đạo lõa hình, họ lõa hình để cầu tiên đạo. Trên đường họ gặp một cái đầm lớn nhưng không thể qua và do đó mà bị lạc. Vì thế giữa đường họ bị thiếu lương thực. Từ xa xa họ thấy có một cội cây to với thần khí ở xung quanh và nghĩ rằng có người ở đó. Họ vội chạy đến gốc cây nhưng chẳng thấy một ai. Khi ấy các Phạm chí kêu gào khóc lóc và nghĩ sẽ bị chết bởi đói khát ở tại cái đầm này.

Bấy giờ thần cây hiện ra hình người và hỏi các Phạm Chí rằng:

“Các người từ nơi nào đến và nay muốn đi đâu?”

Các Phạm Chí đồng thanh đáp rằng:

“Chúng tôi muốn đến ao thần để tắm gội và hy vọng sẽ đắc tiên đạo, nhưng bây giờ rất đói và khát. Xin hãy xót thương cứu giúp!”

Khi ấy thần cây nhấc tay lên thì ẩm thực trăm vị liền từ trong tay tuôn ra để cung cấp thức ăn cho mọi người và ai nấy đều được no đủ. Về phần ẩm thực còn dư thì đủ để mang theo làm tư lương trên đường.

Lúc sắp từ biệt ra đi, họ đến thần cây và hỏi rằng:

“Xưa ngài tu hành công đức gì mà được uy thần như thế?”

Thần cây trả lời các Phạm Chí rằng:

“Xưa kia tôi vốn là người ở thành Phong Đức. Bấy giờ trong nước có vị đại thần tên là Thiện Thí chuẩn bị dọn thức ăn cho Phật và chư Tăng. Khi ấy ngài đến chợ mua sữa đặc nhưng thiếu người mang về. Thế là ngài nhìn xung quanh và thấy tôi, rồi nhờ mang phụ chúng đến tinh xá, và bảo tôi rót sữa. Khi đã thọ trai và rửa tay xong, mọi người chú tâm nghe Pháp. Tất cả đều hoan hỷ và ngợi khen công đức vô lượng.

Lúc đó tôi xin thọ Tám Giới Quan Trai và không ăn buổi tối.

Khi ấy vợ tôi kinh ngạc và hỏi rằng:

‘Anh giận gì mà không ăn?’

Tôi trả lời:

‘Không có giận gì hết! Hôm nay anh đến chợ và thấy Trưởng giả Thiện Thí mua thức ăn để cúng dường Phật ở tinh xá. Anh đã phụ giúp mang ẩm thực đến tinh xá và nhân đó đã thọ Tám Giới Quan Trai.’

Vợ tôi nổi sân và thốt ra lời giận dữ rằng:

‘Đạo nhân Gautama làm rối loạn phong tục và phá hủy quy tắc xưa nay của quốc gia. Tai họa chắc chắn sẽ từ đây mà khởi sanh.’

Do vợ tôi cứ thúc giục mãi nên cuối cùng tôi cũng ăn cơm.

Vào nửa đêm hôm ấy, thọ mạng của tôi đã hết và thần hồn sanh đến chốn này. Do bị con vợ ngu si phá hoại Tám Giới Quan Trai nên nghiệp lành của tôi chẳng được viên mãn, phải sanh đến cái đầm này để làm thần cây. Với phước của mang hộ sữa đặc và tự tay dọn ẩm thực cúng dường, nếu tôi gìn giữ đầy đủ Pháp của Tám Giới Quan Trai thì tất sẽ sanh lên trời và có phước báo tự nhiên.”

Lúc ấy thần cây liền nói kệ cho các Phạm Chí rằng:

“Cúng tế gieo tai vạ
Ngày đêm càng sanh trưởng
Khổ nhọc hoại thiện căn
Trai Pháp vượt thế gian”

Khi nghe kệ xong, các Phạm Chí tín thọ và sự mê muội được giải trừ. Sau đó trên đường trở về thành Phong Đức, họ đi ngang qua một quốc gia tên là Bất Tĩnh. Trong nước này có một trưởng giả tên là Mỹ Âm. Ông là một người nhân từ tốt bụng và được mọi người cung kính ngưỡng mộ. Do đó các Phạm Chí đã nghỉ nhờ qua đêm ở chỗ của ngài.

Ông trưởng giả hỏi rằng:

“Các người từ nơi nào đến và nay muốn đi đâu?”

Khi ấy họ trần thuật tường tận về việc lạc đường của họ ở trong cái đầm kia và công đức của thần cây.

[Họ lại nói rằng:]

“Chúng tôi nay muốn đến nhà của Trưởng giả Thiện Thí ở thành Phong Đức và theo ngài đến chỗ của Phật để tu Tám Giới Quan Trai, hầu mong sẽ được phước.”

Nghe vậy, Trưởng giả Mỹ Âm rất vui mừng và cao hứng. Đó là bởi căn lành ở đời trước của ngài nên khi nghe liền hoan hỷ.

Ông thông cáo với mọi người trong dòng tộc rằng:

“Ai có thể cùng đi với tôi để thọ trì Pháp của Tám Giới Quan Trai?”

Bấy giờ có 500 người đồng thanh hưởng ứng. Đây đều là nhân duyên bổn nguyện của họ thuở xưa vậy. Tất cả đều nghiêm chỉnh ra khỏi nhà và cùng đến thành Phong Đức. Trên đường đến Tinh xá Kỳ Viên, giữa đường họ gặp Trưởng giả Thiện Thí. Tuy đã gặp nhưng vẫn không biết là ai.

Thế nên họ hỏi những kẻ tùy tùng rằng:

“Ông ta là ai?”

Đáp rằng:

“Ông ta là Trưởng giả Thiện Thí.”

Khi ấy các Phạm Chí và tất cả mọi người đều vui mừng, rồi cùng đuổi theo và nói rằng:

“Ước nguyện cầu gặp được người mong muốn của chúng ta sắp thành hiện thực!”

Và thế là họ cùng chạy tới để mong được thăm hỏi.

Họ đồng thanh ngợi khen rằng:

“Thần cây hết mực tán dương công đức của ngài!”

Lại với lòng thành kính, họ kể rõ sự tình và nguyên nhân đến đây là hy vọng được trưởng giả chỉ dẫn làm sao thọ trì Pháp của Tám Giới Quan Trai.

Trưởng giả Thiện Thí dừng xe và đáp rằng:

“Điều ước mong của các người thật chí thiện. Tôn sư của tôi hiệu là Phật Thế Tôn và Ngài luôn hóa độ chúng sanh. Hiện giờ Đức Phật đang ở Tinh xá Kỳ Viên, chúng ta hãy cùng đến đó để thân cận.”

Họ đều cung kính vâng lời và uy nghiêm tiến về phía trước. Từ xa trông thấy Như Lai, lòng họ vui mừng khôn xiết. Tiếp đến họ cúi đầu đảnh lễ sát đất và lui xuống ngồi qua một bên.

Sau đó tất cả họ quỳ hai gối và thưa với Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn! Chúng con vốn từ nhà ra đi, muốn đến ba ao thần để tắm gội và cầu tiên đạo. Trong lúc bị lạc đường, may nhờ có thần cây giúp đỡ và ngài cũng trần thuật lại việc đời trước của mình. Cho nên hôm nay chúng con muốn đến đây là mong được Phật giáo hóa.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn nhân bởi sự tu hành của họ mà nói kệ rằng:

“Lõa hình cắt râu tóc
Thân luôn mặc áo cỏ
Tắm gội ngồi trên đá
Si mê có ích gì?

Không phạt, phóng hỏa, giết
Cũng không cầu chiến thắng
Nhân ái khắp thiên hạ
Nơi đến chẳng hận thù”

Khi nghe kệ xong, 500 Phạm Chí rất vui mừng. Sau đó họ xin làm Đạo Nhân và đều đắc Đạo Ứng Chân. Còn Trưởng giả Mỹ Âm và hàng quyến thuộc cũng được Pháp nhãn thanh tịnh.

Bấy giờ các vị Bhikṣu bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Thuở xưa 500 Phạm Chí, Trưởng giả Mỹ Âm và hàng quyến thuộc đã tu công đức gì mà mau đắc Đạo như thế?”

Thế Tôn bảo rằng:

“Vào thuở quá khứ lâu xa về trước, bấy giờ ở thế gian có Đức Phật hiệu là Ẩm Quang. Khi ấy Ngài thuyết Pháp cho các đệ tử về đời ác năm trược ở vị lai.

Khi ấy có các Phạm Chí, ông trưởng giả và hàng quyến thuộc, cả thảy là 1.000 người. Họ đồng phát nguyện rằng:

‘Chúng con nguyện sẽ thấy Đức Phật Śākyamuni.’

Các Phạm Chí thuở đó, nay chính là các Phạm Chí đây vậy. Ông trưởng giả và hàng quyến thuộc thuở đó, nay chính là Trưởng giả Mỹ Âm và hàng quyến thuộc. Do bởi nhân duyên đó mà khi họ thấy Ta thì liền được khai ngộ.”

Lúc ấy các vị Bhikṣu hoan hỷ, đảnh lễ và phụng hành.

Kinh Pháp Cú Thí Dụ – Hết quyển 2


KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ