KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
QUYỂN 2
PHẨM 17: TỘI CHƯỚNG
Vào thời Đức Phật giáo hóa chúng sanh ở thành Vương Xá, một ngày nọ, Thế Tôn sai một vị Ứng Chân tên là Hảo Ý, cầm tóc và móng của Phật đến trong một ngọn núi về hướng nam của nước A Thùy Nhân để xây tháp Phật. Nơi đây có 500 vị Ứng Chân thường trú trong ấy. Họ sớm tối thắp hương, nhiễu quanh tháp và lễ bái.
Lúc ấy ở trong núi kia có 500 con khỉ đang sinh sống. Khi thấy các Đạo Nhân cúng dường tháp tự, chúng liền cùng nhau đến bờ suối sâu mà vác đá và bùn để bắt chước làm tháp Phật. Chúng lại dựng lên một trụ cây và dùng lụa buộc ở trên chóp đỉnh làm cờ. Chúng sớm tối cũng lễ bái như các Đạo Nhân.
Bấy giờ thác nước ở trong núi bỗng nhiên dâng cao. 500 con khỉ đồng thời bị nước cuốn trôi. Thần hồn của chúng liền sanh lên cung điện bảy báu của tầng trời thứ hai là trời Tam Thập Tam. Họ có y phục và thức ăn tự nhiên hiện ra như ý.
Khi ấy mỗi thiên nhân đều tự nghĩ:
“Mình từ nơi nào đến mà được sanh lên trời?”
Thế là họ liền dùng thiên nhãn và tự thấy mình vốn từ thân khỉ, và bắt chước các Đạo Nhân mà vui đùa xây tháp tự. Dù thân xưa bị nước cuốn trôi nhưng thần hồn được sanh lên trời.
[Họ nghĩ:]
“Ta nay phải xuống nhân gian để báo ơn cái thây chết xưa kia.”
Và thế là mỗi vị dẫn theo tùy tùng, mang hương hoa và âm nhạc, rồi đến cái thây chết xưa kia để thắp hương, rải hoa lên đó, và nhiễu quanh bảy vòng.
Cũng vào thời điểm ấy ở trong núi có 500 Phạm Chí với ngoại học tà kiến và không tin tội phước.
Khi thấy các thiên nhân rải hoa khảy nhạc và nhiễu quanh tử thi của các con khỉ, họ quái lạ và hỏi rằng:
“Thân của chư thiên có ánh sáng chói lòa như thế. Vì sao lại hạ mình cúng dường mấy cái xác chết ấy?”
Các vị trời bảo rằng:
“Những tử thi này là thân xưa kia của chúng tôi. Thuở xưa ở tại nơi đây, chúng tôi đã bắt chước các Đạo Nhân mà vui đùa xây tháp tự.
Một ngày nọ, thác nước ở trong núi bỗng nhiên dâng cao và dìm chết chúng tôi. Do nhờ chút ít phước kia nên được sanh lên trời. Nay chúng tôi rải hoa cúng dường là để báo ơn thân xác xưa kia, do đã vui đùa xây tháp tự mà được phước báo như thế.
Nếu ai chí tâm phụng sự Đức Phật Thế Tôn thì phước đức ấy chẳng thể nào ví dụ cho xuể. Các người tà kiến, không tin Chánh Pháp, dù có khổ nhọc trải qua trăm kiếp thì cũng chẳng được gì. Đâu bằng hãy cùng đến núi Thứu Phong để kính lễ và cúng dường Thế Tôn thì sẽ được phước vô tận.”
Khi ấy các Phạm Chí liền đều vui mừng. Họ cùng chư thiên đồng đến chỗ của Phật, đầu đảnh lễ sát đất, rồi rải hoa cúng dường.
Các vị trời thưa với Phật rằng:
“Thưa Thế Tôn! Chúng con vốn từ thân khỉ và mới lìa đời cách đây không lâu. Nhờ ân đức của Thế Tôn nên chúng con được sanh lên trời. Xưa chúng con ân hận đã không gặp Phật. Bởi vậy hôm nay chúng con đến quy y.”
Lại bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Đời trước chúng con đã tạo tội gì mà phải thọ thân khỉ, dù đã xây tháp tự nhưng vẫn bị nước cuốn chết?”
Phật bảo các vị trời rằng:
“Đây đều có nhân duyên chứ chẳng phải từ không mà sanh ra. Ta sẽ nói nguyên nhân của việc ấy cho các ông.
Vào thuở xưa có 500 Phạm Chí trẻ tuổi đều cùng lên núi để cầu tiên đạo. Bấy giờ ở trên núi có một vị Đạo Nhân muốn dùng bùn để xây tinh xá. Thế là ngài xuống thung lũng lấy nước và thân của ngài di chuyển như bay.
Khi ấy 500 Phạm chí khởi lòng đố kỵ mà cùng nhau cười chế giễu rằng:
“Cái ông Đạo Nhân đó thay phiên lên xuống mau lẹ cũng như con khỉ vậy. Sao mà kỳ lạ thế? Nếu cứ lấy nước mãi như vậy, sớm muộn gì cũng bị nước dìm chết.”
Phật bảo các vị trời rằng:
“Vị Đạo Nhân thuở xưa, nay chính là thân Ta vậy. Còn 500 Phạm Chí trẻ tuổi, nay chính là thân của 500 con khỉ. Do nghiệp tội của cười nhạo mà thân phải thọ báo ứng đó.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Vui cười làm việc ác
Đã tạo thân chịu lấy
Gào khóc thọ tội báo
Tùy nghiệp tội đến vây”
Phật bảo các vị trời rằng:
“Tuy ở đời gần đây các ông làm thân thú, nhưng đã vui đùa xây tháp tự, nên nay được sanh lên trời và tội diệt phước sanh. Hôm nay các ông lại cung kính phụng trì chánh giáo, nên sẽ do từ nhân duyên ấy mà vĩnh viễn lìa xa khổ ách.”
Khi Phật nói lời ấy xong, 500 vị thiên nhân liền thấy dấu Đạo.
Còn 500 Phạm Chí khi nghe quả báo của tội và phước, họ tự than thở rằng:
“Chúng ta học tiên đạo bao nhiêu năm qua để cầu mong phước báo, mà chẳng bằng như các con khỉ đã vui đùa làm phước và được sanh lên trời. Thần đức của Phật thật là kỳ diệu.”
Và thế là họ đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật và xin làm đệ tử.
Đức Phật bảo:
“Thiện lai, Bhikṣu!”
Lập tức họ trở thành Đạo Nhân. Sau đó họ ngày ngày tinh tấn và đều đắc Đạo Ứng Chân.
Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời người ở tại vườn Cấp Cô Độc, trong Rừng cây Chiến Thắng gần thành Phong Đức.
Bấy giờ vương tử thứ nhì của vua Thắng Quân, tên là Lưu Ly, khoảng 20 tuổi, đã dẫn theo quan thuộc chiếm đoạt ngôi vua của phụ vương. Lại còn giết anh mình là Thái tử Chiến Thắng và tự lên làm vua.
Khi ấy có một ác thần, tên là Hữu Nạp, tâu với vua Lưu Ly rằng:
“Lúc ngài còn làm vương tử, bấy giờ đại vương đã về thăm gia tộc phía ngoại ở nước Hoàng Sắc. Khi đi vào trong tinh xá của Phật để xem, ngài bị người của dòng họ Thích mắng chửi thậm tệ.
Bấy giờ ngài đã ra lệnh cho thần rằng:
‘Nếu sau này ta làm vua, khanh hãy thưa lại việc này.’
Hiện giờ binh mã hùng mạnh, nên đến lúc phải báo thù.”
Vua Lưu Ly liền ra lệnh chuẩn bị binh mã và dẫn quân tấn công nước Hoàng Sắc.
Đức Phật có vị đệ tử tên là Đại Thải Thúc Thị, khi thấy vua Lưu Ly dẫn quân tấn công nước Hoàng Sắc để báo thù xưa, bốn chúng đệ tử tất sẽ bị giết chết.
Bởi lòng thương xót cho họ nên ngài đến chỗ của Phật và thưa với Phật rằng:
“Nay vua Lưu Ly tấn công nước Hoàng Sắc. Con xót thương dân chúng sẽ gặp ách khổ. Con muốn dùng bốn phương tiện để cứu dân chúng của nước Hoàng Sắc.
1. đưa dân chúng của nước Hoàng Sắc đặt trong hư không
2. đưa dân chúng của nước Hoàng Sắc đặt trong biển cả
3. đưa dân chúng của nước Hoàng Sắc đặt giữa ở hai núi Thiết Vi
4. đưa dân chúng của nước Hoàng Sắc đặt ở trung tâm của một nước lớn khác
Như thế sẽ khiến cho vua Lưu Ly chẳng biết nơi họ ở.”
Phật bảo Tôn giả Đại Thải Thúc Thị:
“Dù biết ông có thần lực này, có thể dời dân chúng của nước Hoàng Sắc, nhưng vạn vật chúng sanh có bảy điều chẳng thể chạy trốn. Những gì là bảy?
1. sanh
2. già
3. bệnh
4. chết
5. tội
6. phước
7. nhân duyên
Bảy điều này, dù ý muốn chạy trốn nhưng cũng chẳng thể được tự tại. Tuy thần thông của ông có thể làm được việc ấy, nhưng nghiệp tội đời trước thì không thể nào lìa xa.”
Bấy giờ Tôn giả Đại Thải Thúc Thị đảnh lễ Đức Phật và cáo lui. Rồi ngài tự mình bốc lấy khoảng 4.000 đến 5.000 thí chủ quen biết của nước Hoàng Sắc và bỏ vào trong bát, rồi đặt ở ranh giới của tinh tú giữa hư không.
Lúc đó vua Lưu Ly tấn công nước Hoàng Sắc và giết chết ba ức người, rồi dẫn quân trở về nước.
Bấy giờ Tôn giả Đại Thải Thúc Thị đi đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật và mừng thầm mà thưa rằng:
“Vua Lưu Ly tấn công nước Hoàng Sắc, đệ tử nương uy thần của Phật đi cứu nhân dân của nước Hoàng Sắc. Có khoảng 4.000 đến 5.000 người hiện đang ở giữa hư không và thảy đều thoát miễn.”
Phật bảo Tôn giả Đại Thải Thúc Thị:
“Ông có đi xem những người ở trong bát chưa?”
Thưa rằng:
“Dạ, con chưa có đi xem họ!”
Đức Phật bảo:
“Ông hãy đi xem những người ở trong bát đi.”
Tôn giả Đại Thải Thúc Thị dùng Đạo lực hạ bát xuống và thấy những người ở trong đó đều chết sạch. Khi ấy Tôn giả Đại Thải Thúc Thị buồn bã than khóc và xót thương cho họ đã gặp ách khổ này.
Sau đó ngài lại thưa với Phật rằng:
“Nay những người ở trong bát đều đã chết sạch. Dù con dùng thần lực của Đạo mà vẫn không thể giúp họ thoát miễn nghiệp tội đời trước.”
Phật bảo Tôn giả Đại Thải Thúc Thị:
“Đây là bảy điều mà Phật cùng chư thánh, thần tiên Đạo sĩ có khả năng ẩn hình hoặc phân thân, cũng đều chẳng thể miễn trừ.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Trên trời dưới biển sâu
Ẩn náu núi đá cao
Chẳng có một nơi nào
Thoát khỏi nghiệp ác xưa
Chúng sanh chịu khổ não
Già chết không thoát miễn
Chỉ có bậc thượng trí
Vô niệm đoạn ác tà”
Lúc Phật nói lời ấy xong, có vô số người đang hiện diện, khi nghe Phật thuyết giảng về pháp vô thường, họ thảy đều bi ai và nghĩ tưởng nghiệp báo thật khó trốn thoát, rồi lòng họ vui mừng và chứng Quả Nhập Lưu.