KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
QUYỂN 2
PHẨM 15: ỨNG CHÂN
Thuở xưa có một quốc gia gần ở bờ biển phía nam, tên là Thiên Khắc. Trong nước đó, nhân dân chủ yếu đi nhặt trân châu chiên đàn để sinh sống. Trong nước ấy có một gia đình với hai anh em. Khi cha mẹ đều đã qua đời, họ muốn phân chia tài sản. Trong nhà có một nô bộc tên là Mãn Túc, tuổi trẻ thông minh, việc làm ăn buôn bán hay việc vào biển để mưu sinh—không việc gì là chẳng biết. Toàn bộ gia tài được chia làm một phần và Nô bộc Mãn Túc chia làm một phần. Hai anh em bóc tăm và người em được phần của Nô bộc Mãn Túc. Thế nên người em chỉ dẫn theo vợ con và tay không ra khỏi nhà.
Do gặp thời đói kém mà chỉ có được Nô bộc Mãn Túc nên người em buồn bã ưu sầu và sợ sẽ không sống nổi.
Khi ấy Nô bộc Mãn Túc thưa với chủ nhân rằng:
“Xin ngài chớ buồn lo! Trong vòng một tháng, con sẽ gắng sức tìm cách để ngài được giàu hơn anh mình.”
Chủ nhân nói rằng:
“Nếu có thể làm được như thế, ta sẽ phóng thích con để trở thành dân thường.”
Lúc ấy vợ của chủ nhân có một vật riêng bằng ngọc châu và đã đưa nó cho Nô bộc Mãn Túc để làm vốn.
Bấy giờ hải triều dâng lên, dân chúng trong thành đến bờ biển để nhặt củi. Đúng lúc Nô bộc Mãn Túc cầm ngọc châu ra ngoài thành thì thấy có một đứa trẻ xin ăn đang vác một bó củi. Ở trong bó củi có một cây hương chiên đàn ở Đỉnh núi Ngưu Đầu. Loại cây hương này có thể chữa trị trọng bệnh và một đoạn của nó đáng giá đến 2.000 lượng vàng.
Vào thời ấy, một đoạn của nó cũng rất hiếm có được. Nô bộc Mãn Túc biết vậy nên dùng hai đồng tiền vàng để mua, rồi mang về nhà và chặt ra thành vài chục đoạn.
Bấy giờ có một trưởng giả đang lâm trọng bệnh. Ông cần hai lạng hương chiên đàn ở Đỉnh núi Ngưu Đầu này để pha thuốc nhưng tìm mãi cũng không ra. Biết thế nên Nô bộc Mãn Túc liền mang đến và bán được 2.000 lượng vàng. Sau đó chàng mang chúng ra bán hết và tổng số tiền thu về còn giàu gấp mười lần hơn người anh của chủ nhân.
Khi ấy chủ nhân cảm niệm ân tình và không quên lời hứa xưa kia, ông đã thả Nô bộc Mãn Túc để trở thành dân thường và được tự do tùy ý.
Và thế là Mãn Túc từ biệt để đi học Đạo.
Chàng đến thành Phong Đức, đảnh lễ Đức Phật, hai gối quỳ và thưa với Phật rằng:
“Con xuất thân bần tiện, nhưng lòng rất ưa thích Phật Pháp. Ngưỡng mong Thế Tôn rủ lòng từ bi mà cứu độ con.”
Đức Phật bảo:
“Thiện lai, Bhikṣu!”
Lúc đó, tóc trên đầu của ngài tự rụng, Pháp y khoác lên thân, và liền trở thành Đạo Nhân. Rồi Đức Phật thuyết Pháp và Bhikṣu Mãn Túc liền đắc Đạo Ứng Chân.
Một thời gian sau, Bhikṣu Mãn Túc tĩnh tọa một mình và tư duy:
“Nay mình đã đắc Sáu Thông, sanh tử tự tại. Đây đều là nhờ ân huệ của chủ nhân xưa kia. Bây giờ mình nên trở về để hóa độ chủ nhân xưa kia và dân chúng trong nước ấy.”
Lúc bấy giờ Bhikṣu Mãn Túc trở về cố hương, rồi đi đến nhà của chủ nhân xưa kia. Gia chủ rất vui mừng, cung thỉnh mời ngồi, và dọn thức ăn để cúng dường. Khi ăn xong và đã rửa tay, Bhikṣu Mãn Túc bay lên hư không. Từ một thân ngài phân ra làm nhiều thân, rồi phần trên của thân vọt ra nước, phần dưới của thân phun ra lửa, và phóng quang minh chói lòa.
Sau đó ngài từ trên cao hạ xuống và nói với người chủ xưa của mình rằng:
“Uy đức thần thông này đều là do ân huệ của chủ nhân xưa kia đã phóng thích, và sau đó tìm đến chỗ của Phật để học Đạo nên mới được như thế.”
Người chủ xưa kia thưa rằng:
“Thần thông biến hóa của Phật vi diệu đến thế! Con mong muốn gặp Thế Tôn để được Ngài giáo huấn.”
Bhikṣu Mãn Túc trả lời:
“Gia chủ chỉ cần chí tâm và chuẩn bị thức ăn thịnh soạn để cúng dường, Đức Phật với diệu trí của Ba Minh sẽ tự nhiên đến đây.”
Và thế là tối hôm đó, gia chủ chuẩn bị trai soạn để cúng dường, rồi quỳ hai gối, cúi đầu và thắp hương thỉnh Phật:
“Kính mong Thế Tôn hãy giáng lâm đến nhà con vào ngày mai để thọ cúng dường và rộng độ tất cả chúng sanh.”
Phật biết được tâm ý của gia chủ nên sáng hôm sau liền dẫn theo 500 vị Ứng Chân. Mỗi vị tự dùng thần túc của mình mà đến nhà của gia chủ. Bấy giờ quốc vương và nhân dân trong nước ấy, không ai là chẳng cung kính tôn trọng. Họ đồng đến chỗ của Phật, rồi cúi đầu đảnh lễ sát đất và ngồi qua một bên.
Sau khi thọ trai và rửa tay xong, Đức Phật rộng thuyết diệu Pháp cho gia chủ, quốc vương, quần thần và quyến thuộc. Tất cả họ đều thọ Năm Giới và xin làm đệ tử của Phật.
Sau đó, họ đồng đứng dậy và ở trước Phật mà tán dương Bhikṣu Mãn Túc rằng:
“Tại gia tinh cần, xuất gia đắc Đạo. Thần đức của ngài cao viễn và khắp cả nước đều nhờ ơn hóa độ. Chúng con phải làm gì để báo đáp ân đức của ngài đây?”
Lúc bấy giờ Thế Tôn lại ngợi khen Bhikṣu Mãn Túc mà nói kệ rằng:
“Vọng niệm đã dừng nghỉ
Chánh ngữ lại chánh hạnh
Chánh Đạo khiến giải thoát
An nhiên vào tịch diệt
Lìa dục không chấp trước
Chặt đứt chướng ba cõi
Vọng niệm đã đoạn tuyệt
Đó là bậc thượng nhân
Hoang dã hoặc xóm làng
Đất bằng hay đồi cao
Chỗ qua của Ứng Chân
Chẳng ai không nhờ ơn
Thánh nhân thích vắng vẻ
Phàm phu chẳng thể ở
Lành thay không dục vọng
Không chỗ để cầu mong”
Khi Phật nói kệ xong, gia chủ, quốc vương, cùng hàng quyến thuộc thảy đều vui mừng và được thêm nhiều lợi ích. Sau khi đã cúng dường bảy ngày, họ đều đắc Quả Nhập Lưu.