KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận

 

 QUYỂN 1

PHẨM 9: SONG YẾU

Thuở xưa, vị vua của nước Phong Đức tên là Thắng Quân. Một ngày nọ, ngài đi đến chỗ của Phật. Trước tiên nhà vua xuống xe, bảo kẻ hầu cầm lọng lui ra, rồi bỏ kiếm xuống và cởi giày. Sau đó ngài chắp tay và đi thẳng về phía trước.

Khi đến nơi, nhà vua cúi đầu đảnh lễ sát đất với trán chạm sát chân của Phật, hai gối quỳ và thưa với Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn! Vào ngày mai, con muốn thiết lễ cúng dường Phật ở ngã tư đường trong thành. Con muốn làm cho dân chúng trong nước biết đến Thế Tôn. Hầu khiến chúng sanh lìa xa ác quỷ, yêu tinh, và ngải độc, rồi họ sẽ phụng trì Năm Giới và những tai ách trong nước cũng sẽ tiêu tan.”

Đức Phật bảo:

“Lành thay! Ngài là chủ của muôn dân. Ngài nên có một đường lối sáng suốt để thống lãnh nhân dân vào chánh Đạo và cầu phước điền cho đời sau.”

Nhà vua thưa rằng:

“Thưa Thế Tôn! Con xin trở về để chuẩn bị.”

Lúc ấy nhà vua tự tay chuẩn bị thức ăn cho Phật, rồi đích thân đến tinh xá để nghênh tiếp. Bấy giờ Đức Phật và chư Tăng đều đến ở ngã tư đường. Khi đến chỗ ngồi, Đức Phật liền rửa tay, rồi thọ trai. Khi đã dùng cơm xong, Đức Phật thuyết Pháp cho nhà vua ở ngã tư đường. Bấy giờ có vô số người đến xem, và trong số ấy có hai thương nhân.

Một người thì nghĩ rằng:

“Phật ví như đế vương. Đệ tử ví như trung thần. Phật thuyết giảng Chánh Pháp. Đệ tử đọc tụng và tuyên giảng lời Phật dạy. Ông vua này là một bậc minh quân, bởi ngài biết Đức Phật là bậc tôn quý nên hết lòng phụng sự.”

Một kẻ khác lại nghĩ rằng:

“Ông vua này quá ngu dốt. Đã làm vua rồi mà sao còn hầu hạ ai chứ? Phật ví như trâu. Đệ tử ví như xe. Con trâu kia kéo xe đi khắp đông tây nam bắc. Phật cũng lại như vậy. Ông ta có Đạo hạnh gì mà nhà vua phải hạ mình vâng lời như thế?”

Khi đã tham quan xong, hai người họ đều rời khỏi. Sau khi đi được khoảng 30 dặm đường, họ nghỉ đêm ở một cái đình, rồi cùng mua rượu để uống và bình luận về việc đã thấy hôm nay. Bấy giờ người khởi niệm thiện thì được Bốn Vị Thiên Vương hộ vệ. Còn kẻ khởi niệm ác thì bị thái sơn quỷ thần theo rượu vào trong bụng và khiến thân thể như lửa đốt. Do say rượu nên gã đi ra đường cái mà nằm, và kết quả hắn bị 500 cỗ xe của đoàn thương gia cán chết khi họ khởi hành vào lúc sáng sớm tinh mơ. Ngày hôm sau, khi người bạn đi kiếm thì mới phát hiện sự việc.

Anh ta thầm nghĩ:

“Nếu mình trở về nước thì sẽ bị nghi ngờ là kẻ giết người cướp của, và gán cho mình cái tội bất nghĩa tham tài.”

Do đó, anh ta mang tài vật bỏ trốn đến nước khác. Đương thời ông vua của nước đó băng hà và không có con nối ngôi.

Vào thời ấy ở nước đó có sấm thư truyền rằng:

“Ở miền trung Thiên Trúc sẽ có một người xuất thân thấp hèn và sẽ làm vua nước này.”

Ông vua trước có một con ngựa thần. Nếu đúng là quốc vương thì nó mới quỳ gối xuống. Cho nên các quần thần liền trang hoàng xe ngựa. Họ mang theo ngựa thần, ngọc ấn, và đi tìm quốc chủ. Khi đến một nơi kia, có vài ngàn người đến xem và người thương nhân kia cũng ở đó.

Bấy giờ vị quan thái sử nói rằng:

“Người kia có một cái lọng mây vàng che trên đỉnh đầu. Đó là tướng trạng biểu thị cho quốc vương.”

Và thế là, họ dắt ngựa thần đến chỗ của vị thương nhân kia. Ngựa thần liền quỳ gối xuống và liếm chân của người ấy. Bấy giờ các quần thần đều vui mừng. Họ dùng nước hương tắm gội người ấy và bái làm vua.

Sau khi đã lên ngôi và cai quản việc nước, có một hôm, ngài tự suy nghĩ rằng:

“Ta không làm một chút việc lành nào. Tại sao lại được làm vua? Đây chắc chắn là nhờ hồng ân của Phật nên mới khiến ta được như thế.”

Sau đó, ngài cùng với quần thần hướng về thành Phong Đức, rồi cúi đầu từ xa và thưa rằng:

“Con là người ty tiện vô đức. Xin Thế Tôn từ bi hãy rủ lòng thương xót mà cùng với các vị Ứng Chân đến đất nước của con vào ngày mai để con thiết lễ cúng dường.”

Bấy giờ là tháng Ba âm lịch, Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

“Ông bảo các Bhikṣu hãy chuẩn bị. Có một vị vua của một nước nọ đã cung thỉnh đến vương cung để cúng dường vào ngày mai. Tất cả đều sẽ hiện thần thông biến hóa để khiến nhà vua và dân chúng của ngài hoan hỷ.”

Và thế là, các vị đại Bhikṣu dùng Thần Túc Thông đi đến nước kia và theo thứ tự vào chỗ ngồi. Tất cả đều như Pháp trang nghiêm. Sau khi đã thọ trai và rửa tay xong, Đức Phật thuyết Pháp cho nhà vua.

Nhà vua thưa rằng:

“Thưa Thế Tôn! Con vốn là một kẻ thấp hèn và không có công đức gì, song do nhân duyên gì mà khiến con được làm vua?”

Phật bảo nhà vua rằng:

“Lúc trước có một vị quốc vương cúng dường thức ăn cho Phật ở ngã tư đường.

Khi ấy trong lòng của đại vương đã nghĩ rằng:

‘Phật ví như đế vương. Đệ tử ví như trung thần.’

Do trồng thiện căn ấy mà nay ngài được quả lành.

Sau đó cũng có một kẻ khởi niệm rằng:

‘Phật ví như trâu. Đệ tử ví như xe.’

Do kẻ kia tự mình gieo nhân của xe cán, nên hiện đang đọa Địa ngục Thái Sơn và bị những cỗ xe bằng lửa cán nát. Kẻ kia tự mình gieo nhân nên gặp quả báo như thế. Còn về ngôi vua thì chẳng phải là người có sức mạnh mà có thể đoạt được. Những ai làm lành, phước sẽ tùy thân. Những ai làm ác, họa sẽ truy đuổi. Đây đều do mình làm, chứ không phải có thiên long quỷ thần nào mà có thể ban cho.

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Tâm là gốc các pháp
Tâm chỉ đạo làm chủ
Nếu trong tâm nghĩ ác
Thì liền nói liền làm
Tội khổ tự truy đuổi
Như bánh xe theo vết

Tâm là gốc các pháp
Tâm chỉ đạo làm chủ
Nếu trong tâm nghĩ thiện
Thì liền nói liền làm
Phước lạc tự truy đuổi
Như bóng hiện theo hình”

Khi Phật nói kệ xong, nhà vua cùng quần thần, dân chúng với vô số người đến nghe thảy đều vui mừng khôn xiết, và họ đều đắc Pháp nhãn.

Thuở xưa Trưởng giả Cấp Cô Độc mua khu vườn của Thái tử Chiến Thắng để cùng xây tinh xá và dâng lên Thế Tôn. Mỗi vị đều thỉnh Phật cùng chư Tăng suốt một tháng để cúng dường. Phật cũng rộng giảng rõ Chánh Pháp cho hai vị ấy và khiến họ đều thấy dấu Đạo. Bấy giờ Thái tử Chiến Thắng rất vui mừng, tán thán công đức của Phật, rồi trở về đông cung và khảy nhạc tiêu khiển. Còn Vương tử Lưu Ly, em của Thái tử Chiến Thắng, thì thường bên cạnh phụ vương.

Bấy giờ vua Thắng Quân thay đổi y phục, rồi cùng với những vị cận thần và các phu nhân ở hậu cung đi đến chỗ của Phật. Khi đã cúi đầu đảnh lễ xong, ngài nhất tâm nghe Pháp. Khi ấy chỉ có Vương tử Lưu Ly ở lại để canh giữ vương cung.

Đương thời có nịnh thần tên là Bất Tín và những kẻ khác đến trước Vương tử Lưu Ly và bày mưu tâu rằng:

“Nếu vương tử nhân cơ hội này mà mặc y bào của phụ vương ngài, rồi ngồi lên ngai vàng thì có khác gì như quốc vương đâu?”

Vương tử Lưu Ly liền nghe theo lời của những kẻ gian thần, khoác lên y bào, rồi ngồi lên ngai vàng.

Khi ấy bọn nịnh thần đều cùng đến bái lạy như là quốc vương vậy.

[Họ tâu rằng:]

“Đây là cơ hội ngàn năm mới gặp. Ngài thuận theo dân tình mà đăng cơ, há có lý nào phải nhường cho đông cung thái tử? Ngai vàng này ngài đã có thể ngồi lên, chẳng lẽ phải leo xuống hay sao?”

Thế là Vương tử Lưu Ly liền mặc áo giáp, cầm kiếm, rồi tự dẫn binh đến Tinh xá Kỳ Viên, la hét xua đuổi vua Thắng Quân và không cho trở về cung. Bấy giờ thị vệ của nhà vua chiến đấu với binh lính của Vương tử Lưu Ly ở gần Tinh xá Kỳ Viên. Kết quả là hơn 500 cận thần của nhà vua bị giết. Nhà vua cùng với phu nhân phi ngựa suốt đêm để chạy trốn và đến sáng thì mới tới nước Hoàng Sắc. Ở giữa đường vì quá đói khát, vua Thắng Quân đã ăn rau cải, khiến bụng trương phình nên liền băng hà.

Vương tử Lưu Ly liền nắm quyền thống trị, rồi cầm kiếm vào đông cung để giết chết anh mình. Thái tử Chiến Thắng biết là vô thường nên lòng chẳng kinh sợ, sắc mặt không thay đổi, vui cười rạng rỡ và cam tâm thọ nhận. Khi sắp mạng chung, ngài nghe giữa không trung có tiếng nhạc tự nhiên trỗi lên để nghênh tiếp thần thức của mình.

Bấy giờ Phật ở Tinh xá Kỳ Viên và liền nói kệ rằng:

“Tạo vui đời sau vui
Làm thiện với hoan hỷ
Hân hoan thường vui vẻ
Thấy phước tâm an nhiên

Nay vui đời sau vui
Làm thiện với hoan hỷ
Tự mình gặp duyên lành
Phước báo thọ an vui

Sau khi soán ngôi đoạt vị, vua Lưu Ly khởi binh đánh phá nước Hoàng Sắc và giết hại rất nhiều vị đã thấy dấu Đạo của dòng họ Thích. Vua Lưu Ly tàn bạo vô đạo và đã tạo năm tội ngỗ nghịch. Do đó Phật nói rằng, vua Lưu Ly do bất hiếu bất trung và tạo những tội tày trời, nên bảy ngày sau, sẽ bị lửa của địa ngục thiêu chết. Đương thời có một vị quan thái sử tuyên đoán về số mạng của vua Lưu Ly và cũng nói giống như Đức Phật. Bởi vậy vua Lưu Ly sợ hãi kinh hoàng và lập tức ngồi thuyền ra giữa sông lớn.

[Hắn ta nói rằng:]

“Ta bây giờ ở giữa dòng nước mênh mông. Xem lửa làm sao đến?”

Đúng ngày thứ bảy, tự nhiên có lửa từ trong nước vọt ra, thiêu hủy và nhấn chìm thuyền. Vua Lưu Ly cũng bị thiêu đốt bởi nhiệt não hãi hùng, và thoáng chốc bị nước dìm chết.

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Gây ưu đời sau ưu
Tạo ác với sầu muộn
Sợ hãi luôn ưu phiền
Thấy tội lòng ngậm ngùi

Nay khổ đời sau khổ
Làm ác với khổ đau
Tự mình gặp tai ương
Thọ tội phiền não nhiệt”

Khi nói lời ấy xong, Phật bảo các Bhikṣu:

“Thái tử Chiến Thắng do chẳng tham vương vị vinh hoa và luôn giữ chí phụng Đạo, nên khi chết được sanh lên trời để thọ hưởng an vui. Còn vua Lưu Ly, do cuồng loạn ngu dốt và phóng túng đắc ý, nên khi chết đọa địa ngục để chịu muôn vàn thống khổ.

Chẳng kể là người giàu sang hay kẻ nghèo hèn trên thế gian, tất cả đều bị vô thường chi phối và không ai là sẽ sống mãi. Vì lẽ đó nên những bậc hiền minh, dù có mất cả tánh mạng, thì họ vẫn luôn bảo hộ căn lành như báu.”

Khi Phật nói lời ấy xong, không ai là chẳng tín thọ.

Thuở xưa ở phía sau của núi Thứu Phong, có trên 70 gia đình thuộc dòng dõi Phạm Chí đang sinh sống. Do biết phước đức của họ ở đời trước và đáng được hóa độ, nên Đức Phật đi đến thôn đó và hiện sức thần thông biến hóa. Khi mọi người thấy quang minh và tướng hảo uy nghiêm của Phật, không ai là chẳng kính phục.

Tiếp đến Đức Phật ngồi ở dưới một gốc cây và hỏi các Phạm Chí rằng:

“Tổ tiên các người cư trú trong núi này đã trải qua bao nhiêu thế hệ, và các người làm những việc gì để sinh sống?”

Đáp rằng:

“Dạ thưa, tổ tiên chúng con cư trú nơi đây đã trải qua hơn 30 thế hệ. Chúng con trồng ruộng và nuôi súc vật để sinh sống.”

Đức Phật lại hỏi rằng:

“Các người phụng sự và tu hành như thế nào để mong lìa khỏi sanh tử?”

Đáp rằng:

“Dạ thưa, chúng con thờ bái mặt trời, mặt trăng, thần nước, và thần lửa; chúng con tùy thời mà cúng tế. Giả sử khi có ai chết, tất cả lớn nhỏ ở trong thôn đều nhóm họp, rồi xướng tụng để mong họ lìa sanh tử và sanh lên cõi Phạm Thiên.”

Phật bảo các Phạm Chí:

“Các người trồng ruộng, nuôi súc vật để sinh sống, và thờ bái mặt trời, mặt trăng, thần nước, thần lửa. Rồi khi có ai chết thì xướng tụng để cầu cho họ sanh lên cõi Phạm Thiên. Đây không phải là Pháp chân thật cứu cánh để rời xa sanh tử. Dù có phước đức vô song như 28 vị trời đi nữa, nhưng do họ chẳng có con mắt trí tuệ của Đạo nên rồi cũng sa đọa và sanh trở lại trong ba đường ác. Duy chỉ có xuất gia để sống thanh tịnh và tu hành chân lý của tịch diệt, thì mới có thể được diệt độ.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Lấy thật cho là giả
Lấy giả cho là thật
Đó là tâm tà kiến
Không được lợi ích lành

Chân thật biết là thật
Hư ngụy biết là giả
Đó là tâm chánh kiến
Tất được lợi ích lành

Thế gian đều phải chết
Khắp ba cõi không an
Chư thiên tuy vui sướng
Phước hết cũng tiêu tan

Hãy quán sát thế gian
Có sanh ắt phải chết
Muốn lìa sanh già chết
Chánh Đạo nên tu hành”

Sau khi nghe Phật dạy, 70 Phạm Chí vui mừng, cõi lòng mở thông, và xin làm Đạo Nhân.

Đức Phật bảo:

“Thiện lai, Bhikṣu!”

Khi ấy râu tóc của các Phạm Chí tự rụng và họ đều trở thành Đạo Nhân. Bấy giờ Đức Phật cùng với các Bhikṣu trở về tinh xá. Tuy nhiên ở giữa đường, họ quyến luyến và nhớ vợ con nên ai nấy đều thoái tâm.

Đương lúc đó trời lại đổ mưa, khiến họ càng buồn bã não nề. Đức Phật biết ý niệm của họ nên liền hóa làm vài chục ngôi nhà ở ven đường. Khi ấy họ đều vào trong trú mưa. Tuy nhiên các mái nhà đều bị dột.

Nhân do các mái nhà đều bị dột, Phật liền nói kệ rằng:

“Mái nhà nếu chẳng kín
Trời mưa sẽ luôn rỉ
Ý ai không tư duy
Mãi có tham sân si

Mái nhà nếu lợp kín
Trời mưa sẽ chẳng rỉ
Ý ai tự tư duy
Vĩnh không tham sân si”

Mặc dù đã nghe kệ của Phật và cố gắng chấn chỉnh tinh thần, nhưng trong lòng của 70 vị Đạo Nhân vẫn ôm giữ nỗi phiền muộn.

Khi mưa tạnh, họ tiếp tục lên đường. Lúc ấy ở trên đất có một bao giấy cũ rách. Phật bảo một vị Bhikṣu hãy nhặt lấy. Bhikṣu vâng lời và liền nhặt lấy.

Phật hỏi các Bhikṣu:

“Đây là bao giấy gì?”

Các Bhikṣu thưa với Phật rằng:

“Dạ thưa, đó là bao giấy gói hương. Tuy giờ nó đã bị vứt bỏ, nhưng mùi thơm vẫn như xưa.”

Đức Phật tiếp tục đi về phía trước. Lúc ấy ở trên đất có một đoạn dây. Phật bảo một vị Bhikṣu hãy nhặt lấy. Bhikṣuvâng lời và liền nhặt lấy.

Phật lại hỏi các Bhikṣu:

“Đây là đoạn dây gì?”

Các Bhikṣu thưa với Phật rằng:

“Dạ thưa, đó là một đoạn dây tanh hôi và dùng để xâu những con cá.”

Phật bảo các Bhikṣu:

“Bản tánh con người vốn thanh tịnh. Tất cả đều do nhân duyên mà khởi sanh nghiệp tội và phước báo. Nếu họ thân cận bậc hiền minh thì sẽ hiểu Đạo lý và có phước. Còn như họ kết giao với kẻ ngu si ám độn thì sẽ gặp tai ương. Đây cũng như bao giấy và đoạn dây kia: gần hương thì được mùi thơm, lấy xâu cá thì có mùi tanh. Phàm phu bị tập khí lâu dần nhiễm ô mà chính họ cũng chẳng tự biết.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Kẻ xấu ảnh hưởng người
Như gần vật hôi thối
Mê dần làm việc xấu
Bất giác trở thành ác

Bậc hiền ảnh hưởng người
Như gần làn khói hương
Trí tăng làm việc lành
Hạnh nghiệp tỏa ngát thơm”

Khi 70 vị Đạo Nhân lại một lần nữa nghe được các bài kệ này, họ biết rằng dục lạc của gia đình là nơi dơ bẩn, vợ con là gông cùm. Thế nên họ giữ tín tâm kiên định và đi đến tinh xá. Sau đó, họ nhiếp ý tư duy và đều đắc Đạo Ứng Chân.



KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ