KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 6: QUÁN THIÊN

DẠ-MA THIÊN

(Từ quyển 35 – quyển 63 )

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, siêng năng tu tập không ngừng, quan sát trên cõi trời Tam thập tam còn có cõi trời nào thù thắng tự tại hơn cõi trời ấy không? Dùng văn tuệ biết trên cõi trời Tam thập tam còn có nơi chốn tất cả đều thù thắng, quả báo, ánh sáng đều thù thắng, đó là cõi trời Dạ-ma. Nhờ ba loại giới được sinh lên cõi Dạ-ma. Đó là ba giới không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm. Tu tập ba giới này không thiếu, không thiếu sót, rơi rớt, không hủy phạm. Đó là giới mà chư Thánh khen ngợi, luôn được mát mẻ, dần dần đạt được Niết-bàn, giống như bạn lành. Giới như cầu vượt qua biển sinh tử. Ai có cầu giới này sẽ qua khỏi biển sinh tử đến bờ giải thoát. Người tu hành lại suy xét kỹ, thấy vị Tỳkheo quan sát bảy chi giới, quan sát quả báo của nghiệp có thượng, trung, hạ như đã nói ở trước. Sau đó quan sát cõi Dạ-ma trên núi Tudi, có những nơi nào? Cao bao nhiêu, có ánh sáng gì? Quan sát như vậy, với tri kiến mình biết được chúng sinh không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, tự giữ giới, dạy người giữ giới, tạo lợi ích cho cả mình và người thì được sinh lên cõi trời kia. Với tri kiến biết được cõi Dạ-ma cao sáu vạn do-tuần, cao gấp hai lần tầng trên cùng của núi Tu-di. Cõi Dạ-ma có bao nhiêu trực xứ, cao bao nhiêu, mặt đất bằng gì? Với tri kiến biết được cõi Dạ-ma có ba mươi hai trụ xứ, cao năm ngàn do-tuần. Cõi Dạ-ma ở giữa hư không như đám mây, nhờ gió nâng đỡ, bên dưới nhờ nước nâng đỡ. Nước nhờ gió nâng đỡ, đó là gió Diễm-ba, nâng đỡ cõi Dạ-ma như nâng đỡ đám mây. Ba mươi hai trụ xứ đó là:

  1. Thế lực.
  2. Thừa xứ du hành.
  3. Vân xứ du hành.
  4. Tích phụ.
  5. Tâm tướng.
  6. Sơn thọ cụ túc.
  7. Quảng bác hành.
  8. Thành tựu.
  9. Thắng quang minh.
  10. Chánh hạnh.
  11. Thường lạc.
  12. Tăng trưởng pháp.
  13. Nhất hướng lạc.
  14. Lạc hành.
  15. Chủng chủng tạp.
  16. Tâm trang nghiêm.
  17. Phong xuy.
  18. Sùng cao.
  19. Mạt tuyền hành.
  20. Bách quang minh ngạn.
  21. Sơn tụ hành.
  22. Nguyệt kính.
  23. Ức niệm lượng.
  24. Già-thi-ca.
  25. Giải thoát thiền.
  26. Mạn thượng mạn.
  27. Hạ nhập.
  28. Giai hành.
  29. Tự thân kính.
  30. Mạn thân quang minh.
  31. Thượng hành.
  32. Lâm quang minh.

Đó là các trụ xứ của cõi trời Dạ-ma. Vị vua cõi Dạ-ma tên là Mâu-tu-lâu-đà, như Thiên vương Đế Thích chủ cõi trời Tam thập tam tên là Kiều-thi-ca. Thiên vương cõi Dạ-ma thuận hành chánh pháp, thần thông, diệu lạc của Thiên vương ấy gấp ngàn lần Đế Thích. Thân của Mâu-tu-lâu-đà cao năm do-tuần, sáng rực thù thắng, còn thân của Đế Thích chỉ cao một cư-xa. Oai lực phần thân của Mâu-tulâu-đà gấp trăm ngàn lần Đế Thích. Quả báo của Thiên vương cũng vậy. Quan sát xong, Tỳ-kheo nói kệ:

Như người mang vật nhẹ
Qua biển không bị chìm
Người ít tạo việc ác
Lên trên không xuống nước.
Như cánh chim vững chắc
Bay lượn trong hư không
Người giữ giới kiên cố
Sẽ được sinh lên trời.

Tỳ-kheo đã quan sát nhân quả của cõi trời Dạ-ma. Cõi này có bốn núi lớn cao một vạn do-tuần, đó là: Thanh tịnh, Vô cấu, Đại thanh tịnh, Nội tượng. Còn có những ngọn núi khác đủ các chủng loại, màu sắc, hình tướng, công đức. Như vậy có hơn ngàn ngọn núi khác trang sức các thứ hoa trời. Cõi Dạ-ma được trang trí như vậy. Trong ba mươi hai trụ xứ của cõi này có các ngọn núi, dòng sông, ao sen, vườn rừng vây quanh, được trang trí đủ hình tướng, hương sắc, mùi vị. Cây hoa có đủ các vị như sông núi, cây cối, ao vườn của cõi trời Tam thập tam. Cây cối, ao vườn, cảnh vật ở đó đẹp hơn cả cảnh vật xinh đẹp nhất của cõi người. Những sự thù thắng của cõi trời Tam thập tam không sao sánh kịp cõi Dạ-ma. Vì sao? Vì nhân quả nhiều, cõi ấy có vô lượng phước đức của nghiệp thiện, có trăm thứ nhân quả công đức do nghiệp thiện hóa sinh thật không sao nói hết. Vì sao không thể nói hết? Vì oai lực của các nghiệp lưu chuyển nhiều. Nghiệp quả ấy nơi tất cả chúng sinh cũng không thể nói hết. Nhờ nghiệp thiện nên được sinh lên trời. Cõi Dạ-ma có đủ những thứ mà không thể nói hết. Trong ngàn phần quả báo của cõi trời ấy ta chỉ có thể nói được một phần. Vì sao? Vì người giữ giới sẽ được quả báo. Giờ đây xin nói rõ. Người giữ giới nghe được thì siêng năng, người tu trí tuệ thì càng siêng năng gấp mười lần. Vì sao biết người giữ giới có sự sai khác như thế? Vì người giữ giới được sinh lên trời kia, người tu trí thì đạt Niết-bàn. Như vậy ta đã nói về công đức của giới và trí. Những ai đã biết quả báo của giới và trí thì nên nghĩ: Giữ giới còn như vậy huống gì là tu trí. Ta đã nghe thế nên siêng năng tu tập. Nếu ai nói như vậy sẽ được quả báo bậc trung. Lại do nhân duyên mà nói pháp khác. Vị trời ấy thọ hưởng hoan lạc lâu không gì ngăn ngại nhưng vẫn vị thoái đọa, không còn quyền lực, huống gì dục vọng cõi người có nhiều tội lỗi, chút ít vị vui, lưu chuyển không ngừng, không được an ổn, thường phá hoại, đủ sự khổ đau, lo sợ giặc cướp. Ta sẽ nói những nhân duyên khác nữa. Ngoại đạo cho rằng tất cả đều do Ma-hê-thủ-la tạo ra, không phải do nghiệp. Con người thì không biết được. Vì muốn ngăn chận ngoại đạo nên nói nhân quả. Thấy có nhân quả, thật có duyên sinh, không phải do ai tạo ra, không phải không nhân, tất cả nghiệp nhân phải có quả tương xứng, không phải do nhân này mà chịu quả khác, không có nghiệp thiện mà sinh vào địa ngục, không có nghiệp ác sinh lên trời. Người do tu nghiệp thí, giới, trí nên được sinh lên trời. Hai sự khổ vui đó không sao nói hết. Diệu lạc cõi trời không thể ví dụ được một phần nghiệp của người ấy. Giờ đây chỉ nói một ít.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Dạ-ma. Dùng văn tuệ biết cõi ấy có trụ xứ tên là Thế lực. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người giữ giới, sợ từng việc ác nhỏ như vi trần, tâm ngay thật không dối gạt, không gây hại người khác, chánh kiến không tà vạy, không ngu si, quan sát thế gian là vô thường, khổ, vô ngã, niệm Phật, Pháp, Tăng, không sát sinh, không trộm cướp (như đã nói ở trước) không tà dâm, tâm thích xa rời, không gây tạo, ngay cả loài chim hành dục cũng không xem, trong giấc ngủ không nhớ đến dục, bản thân như vậy, còn dạy người khác, nói nghiệp quả cho người khác: Đừng làm như vậy, nếu làm sẽ đọa vào địa ngục. Người này hiểu đúng nghiệp quả, không xâm phạm vợ người, lo sợ nghiệp. Nhờ nghiệp thiện được sinh lên cõi này. Ở đây có trăm ngàn Thiên nữ vây quanh. Vừa thọ sinh, Thiên nữ liền trổi nhạc ca hát, người này chợt nghe như vừa tỉnh ngủ, thích nghe tiếng ấy. Người này sinh bằng sự biến hóa. Nghe tiếng nhạc, suy nghĩ: Tiếng ca ấy có đủ tám công đức:

  1. Ngôn ngữ.
  2. Khen ngợi.
  3. Ngọt ngào.
  4. Khéo hòa hợp.
  5. Tương ưng.
  6. Sâu xa.
  7. Ai cũng thích.
  8. Nghe xa trăm ngàn do-tuần không trở ngại.

Lời nói tương ứng với pháp, thanh tịnh không nhơ. Tiếng ca đủ tám phần công đức đó giác ngộ người thiện. Thân phóng ánh sáng chiếu năm do-tuần, xanh, vàng, đỏ, trắng như cầu vòng cõi trời. Lúc Thiên tử thọ sinh đã có vòng ánh sáng như vầng mặt trời, mặt trăng. Người ấy vừa đứng lên là có trăm ngàn Thiên nữ vây quanh nên rất vui mừng. Thiên tử, Thiên nữ cùng nhau vào rừng Quang minh. Cõi ấy có loài hoa không héo tên là hoa Nhãn cam lộ, hoa Hương bất hoại, hoa Thiện sắc hương, chỉ nghe tên hoa đã vui. Hoa ấy có năng lực như vậy, đâu đâu cũng khen về hoa ấy. Trong hư không có hoa tên Nguyệt thắng, hoa Thường chuyển hành. Khi chư Thiên nghĩ đến hoa liền phát ra tiếng, di chuyển theo chư Thiên. Thiên tử muốn đến đâu là cây hoa đưa đến đó, giống như đi trên cung điện thứ hai nơi cõi trời Tam thập tam. Thiên tử cõi Dạ-ma đi trong hoa sáng rực, Thiên tử thường nhìn xuống xem xét các nơi. Trong chốc lát đã thấy hết mọi nơi mà không mỏi mệt. Cõi ấy lại có cây tên Lạc ái. Trong cây ấy, chỗ nào cũng đáng yêu, vào đó sẽ được diệu lạc cõi trời. Trong ao sen có cây tên Tùy thuận nhất thiết niệm. Thiên tử cõi Dạma muốn gì là được mọi vật tốt đẹp. Đó là do oai lực của cây. Ở trong cây thọ hưởng hoan lạc, nghe được tám loại âm nhạc không sao khen ngợi hết. Cõi ấy có cây tên Hương phiêu, Thiên tử muốn ngửi hương là cây thoảng ra mùi hương. Lại có cây tên Hoa hương, ở trong cây ấy như ở trong hý trường, có vườn đẹp, ao sen. Thiên tử ở đó thọ hưởng diệu lạc. Cây đó có đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, tía sáng rực và có đủ hương thơm. Chư Thiên vừa vào là có đủ sắc đẹp, thân Thiên tử cũng có đủ màu sắc ấy. Màu sắc trên y phục của Thiên tử biến mất chỉ còn màu sắc của cây. Lại có cây tên Hư không hành. Chỉ trong chốc lát đã đi được trăm ngàn do-tuần, tùy ý đi lại.

Ánh sáng của cây giống như mặt trời. Thiên tử ngồi trên cây ấy đi lại trong hư không, trăm ngàn Thiên nữ vây quanh, xoa thân bằng hương thơm, thân Thiên tử sáng rực. Trước mặt Thiên tử lại có các Thiên nữ trang sức xinh đẹp, ca múa vui chơi, tiếng ca vang khắp vô số do-tuần. Thiên tử tuấn tú song hành Thiên nữ. Giờ chỉ nói một phần nhỏ. Do nghiệp thiện thân Thiên tử giống như mặt trăng giữa các ngôi sao. Song Thiên tử lại có trăm ngàn công đức thù thắng. Họ trổi nhạc ca múa vui chơi cùng đi vào rừng thơm. Trong rừng có đủ các loại chim, dòng sông, ao sen xinh đẹp đáng yêu. Tất cả sáng rực hơn ánh sáng của ngàn mặt trời, đó là chỉ nói một phần nhỏ thôi. Còn như sông suối, ao sen, vườn cảnh xinh đẹp của cõi người không bằng một phần mười sáu cõi trời Tứ đại thiên vương. Vườn rừng cõi Tứ đại thiên vương không bằng một phần mười sáu cõi trời Tam thập tam. Cũng vậy, vườn rừng cõi trời Tam thập tam không bằng một phần mười sáu cõi Dạ-ma. Nhờ nghiệp thiện thù thắng mà có như vậy. Dù là người có trí tuệ biện tài khéo léo trong tất cả chúng sinh, chuyên tâm chú ý cũng không sao nói được một phần vườn rừng đáng yêu của cõi ấy. Vì sao? Vì không phải là cảnh giới của con người, không phải là cảnh giới mà tâm con người suy nghĩ được. Dù cho cả cõi trời Tam thập tam thứ hai cùng Đế Thích trải qua trăm ngàn năm cũng không thể nói được sự thọ hưởng diệu lạc trong một trụ xứ của cõi Dạ-ma. Vì sao? Vì không phải là cảnh giới của họ, họ chưa từng thấy nghe nên không thể nói được. Chỉ cần một phần nghiệp thiện của cõi kia cũng không thể nói được, không thể suy nghĩ được nghiệp thiện thọ lạc của cõi kia, chỉ có thể nói được một phần diệu lạc mà cõi kia thọ hưởng. Ví như tất cả họa sư và đồ đệ của họ vẽ mặt trời, mặt trăng trên vách tường, nhưng họ không tạo ra ánh sáng và oai lực của chúng được, không thể làm chúng luân chuyển hay chiếu soi, không làm cho nóng mát được, họ chỉ có thể vẽ được vòng tròn thôi. Cũng vậy, không thể biết được thế lực ánh sáng, vườn cảnh, oai đức, ca nhạc, thân hình xinh đẹp, cảnh giới hoan lạc, vòng ánh sáng, sự gần gũi Thiên nữ, tất cả mọi thứ chỉ có thể nói được một phần nhỏ. Thiên tử ấy ở nơi vui chơi thọ hưởng mọi dục lạc, vui chơi ở vườn cảnh xinh đẹp. Quan sát xong, cảnh giới năm dục lôi kéo tâm làm cho tâm không đứng yên, lưu chuyển phân biệt theo nhiễm ô, trôi nổi trên sông ái. Mọi thứ thấy được đều đáng yêu. Xem xong, Thiên tử lại đến rừng Vô lượng dục cụ túc. Trong ao sen có nhiều hoa đẹp, nghe được vô lượng tiếng chim. Đến đó Thiên tử thấy hết mọi thứ mà mình chưa từng thấy, Thiên tử cùng Thiên nữ đến nơi vui chơi. Trong ao sen có cát bằng chân châu, chim bằng vàng bạc, cánh bằng ngọc xanh, trên bờ ao có nhiều cây đẹp. Thiên tử vui chơi thọ lạc ở đó. Sau đó Thiên tử lại đến rừng Bảo ngạn, các Thiên nữ cùng Thiên chúng vây quanh. Rừng ấy có đủ bảy báu sáng rực, khắp nơi đều có núi sông, ao suối, hoa sen đẹp, có trăm ngàn vạn ngọn núi, có nhiều vật báu. Do sức nơi nghiệp thiện, Thiên tử cùng Thiên nữ vui chơi hưởng lạc. Do nghiệp thiện được quả tương xứng. Họ thọ hưởng mọi thứ dục lạc nhưng Thiên tử thọ nhận dục lạc thù thắng hơn. Sau đó họ lại đến nơi tên là Thích-ca thuyết giảng để thọ hưởng dục lạc, bị tâm tham ái nơi cảnh giới lôi kéo, do sức phân biệt mê hoặc tâm, họ thấy cảnh giới không ngừng nên tâm họ như con vượn, ăn trái vui cõi trời bị say mèm. Thấy Thiên nữ sinh tâm tham ái, tâm biến đổi không ngừng. Do gió gì thổi tâm họ luôn thay đổi? Ở cõi Dạ-ma luôn tham hoan lạc nơi cảnh giới. Cõi ấy có vô số vật đáng yêu không ai xâm phạm được, người khác không có được, không ai hủy phá được. Do nghiệp thiện có đủ hoa sen báu, mọi trò chơi, các thứ mong muốn. Nếu Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà muốn ngồi trong hoa sen cùng Thiên chúng bay lên hư không thì lập tức họ sẽ cùng bay lên, họ đi mà thân không lay động. Tất cả Thiên chúng ngồi trong hoa sen thọ hưởng năm dục lạc cõi trời. Thiên tử ngồi trong hoa sen thọ hưởng diệu lạc. Như lúc mặt trời sắp mọc và sắp lặn thì khắp hư không đỏ rực, ánh sáng của hoa sen cõi trời ấy cũng vậy. Thọ lạc xong, chư Thiên đến rừng Câu-bi-la chúng, lên núi Hoạt cao, lên đó thọ nhận hoan lạc. Trên đó có vô số bảy báu xinh đẹp, có sông suối sáng rực gấp trăm ngàn mặt trời, có nhiều Thiên tử, Thiên nữ xinh đẹp và có nhiều cây quý. Ở đó họ cùng nhau vui chơi thọ lạc, bước xuống khỏi hoa sen, họ lại lên núi Bạch phong vui chơi. Sau đó cùng Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà đến chỗ Thiên chúng, các Thiên nữ vây quanh. Thấy vậy Thiên chúng cùng ra nghênh đón, vui mừng ca múa, đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Do nghiệp thiện có thượng, trung, hạ nên diệu lạc cõi trời cũng có thượng, trung, hạ; hình sắc, hoan lạc, thức ăn cũng có thượng, trung, hạ. Cứ vậy ngay cả hoan lạc bậc hạ của cõi Dạ-ma cũng đã gấp mười sáu lần hoan lạc của Đế Thích. Hoan lạc của Đế Thích đã không thể nói hết huống gì người tạo nghiệp có công đức gấp ba lần. Diệu lạc của những nghiệp khác còn có thể nói được, còn ở cõi trời này chỉ có thể nói là nhiều nghiệp thiện. Những nghiệp thiện ấy người giữ giới luôn vui vẻ và có đủ mọi thứ. Đó là nói về diệu lạc mà cõi Dạ-ma thọ hưởng. Lại nữa công đức hoan lạc mà Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cõi Dạ-ma có được thì không thể nào ví dụ hết. Trên núi Hoạt cao có hoa sen bảy báu. Họ thọ nhận diệu lạc xong, nhìn thấy hoa sen họ lại nghĩ ta sẽ vào hoa sen. Vào đó chư Thiên thọ hưởng hoan lạc. Ngay lúc đó, đài sen nở to. Nhờ nghiệp thiện nên có đài hoa sen lớn như vậy. Trong hoa sen có nhiều chỗ trống, từ đó phóng ra ánh sáng. Trong hoa sen lại có chư Thiên khác mà họ chưa từng thấy. Ánh sáng phóng ra trăm do-tuần và có đủ màu sắc. Thấy vậy, Thiên vương cùng chư Thiên đều ngạc nhiên nghĩ: “Đó là ánh sáng gì mà từ hoa sen phóng ra?” Khi ấy Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà bảo chư Thiên: Các ông có thấy ánh sáng phóng ra không? Chư Thiên đáp: Đã thấy, ánh sáng này thật là hy hữu. Thiên vương lại bảo: Tất cả Thiên chúng và ta vào đài sen để xem xét. Thiên chúng đồng tâm thưa: Chúng tôi đều có ý như thế, chúng tôi cũng muốn cùng Thiên nữ vào hoa sen.

Bấy giờ Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà cùng Thiên chúng, Thiên nữ vào hoa sen, ai nấy đều muốn thấy được việc hy hữu kia nên họ lại vào hang trống. Lại có ánh sáng như mặt trời, như màu dung kim, lại có ánh sáng chiếu trên thân chư Thiên sáng khắp hư không. Ánh sáng hoa sen chiếu soi chói lọi làm cho ai nấy đều nhắm mắt. Ở đó họ lại vui mừng ngạc nhiên: Cớ sao có ánh sáng này? Thật không sao nói được, từ xưa chúng ta chưa từng thấy. Lúc ấy Thiên chủ đi trước, chư Thiên theo sau. Thiên vương vui mừng, thấy trăm ngàn châu báu phóng ánh sáng rực rỡ, lại thấy có nhiều nơi vui chơi, vườn rừng xinh đẹp, cung điện nguy nga, cây cối sum suê. Lại có vô lượng vườn rừng bằng bảy báu đủ màu sắc hình dáng và các loài chim. Có nhiều núi đẹp để vui chơi, nhiều ao sen, sông suối hang khe và cung điện đẹp. Tất cả đều trang trí bằng bảy báu đủ màu sắc hình dáng khác nhau. Ngay cả Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà còn không thấy hết huống gì chư Thiên khác. Trong hoa sen lại có nhiều sông suối. Hai bên bờ sông đều bằng pha lê, có bờ bằng vàng, có bờ bằng bạc, bằng ngọc, bằng báu xanh, bằng báu xích liên hoa và bằng đủ loại châu báu. Lại có ao sen đẹp đủ màu sắc, hoặc có ao sen một màu, lá sen xinh đẹp nhiều màu, hoặc có hoa đủ màu xanh, vàng, đỏ, trắng đẹp. Lá xanh là bảo diệp, lá vàng là hoàng kim, lá trắng là bạch ngân, lá đỏ là xích bảo. Trong ao sen có đủ loại hoa như thế. Thấy vậy chư Thiên đều vui vẻ. Trong hoa sen có nhiều ong đẹp. Xem xong, chư Thiên lại đến nơi vui chơi khác. Nơi đó có đủ loại âm nhạc, nghe tiếng nhạc ai nấy đều vui mừng. Thiên tử, Thiên nữ cùng vào vườn cây. Rừng ấy có nhiều chim bằng bảy báu, mặt đất mềm mịn lên xuống theo từng bước chân. Mọi người vui mừng nhìn ngắm khắp nơi. Chư Thiên yêu mến nhau, cùng nhau vui chơi thọ lạc. Sau đó lại đến nơi tên Hành chủng chủng bảo địa vui chơi thọ lạc, tâm ý tham đắm cảnh giới sáu dục, hưởng dục lạc nhiều nên sống buông lung. Ở đó họ thấy đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, đủ các công đức đáng yêu. Chư Thiên lại đến núi Hy hý thọ lạc không biết chán. Núi này có đủ bảy báu, các loài chim màu sắc hình dáng khác nhau, cây cối sum suê, sông suối ao sen xinh đẹp, vườn cây hang núi và có nhiều nai đẹp. Thiên chúng ở đó thọ hưởng hoan lạc, yêu mến nhau, thân chư Thiên phóng ra nhiều ánh sáng. Họ cùng các Thiên nữ xinh đẹp vui chơi tâm không biết chán. thọ lạc một thời gian lâu, họ lại đến lầu Tác hành trọng, rồi đến cung điện khác để vui chơi thọ hưởng dục lạc vẫn không thỏa ý. Dục lạc tham ái càng tăng trưởng, càng tham hưởng đủ mọi hoan lạc. Thiên tử, Thiên nữ cùng Thiên vương vui chơi thọ lạc. Trong hoa sen phóng ra ánh sáng hơn trăm ngàn ánh sáng mặt trời nhưng không nóng. Họ yêu mến nhau, năm căn hưởng thọ hoan lạc, ai thấy cũng vui. Do giới mà chư thánh yêu thích nên được quả báo thù thắng. Có vô số chủng loại, sự phân biệt, cảnh giới và dục vọng hoan lạc. Họ đồng tâm, kính trọng nhau, không hại nhau, cùng làm thanh tịnh tâm ý. Họ ở trong hoa sen thọ hưởng diệu lạc một thời gian lâu vẫn không biết chán. Sau đó, họ ra khỏi hoa sen, ra rồi lại vào, vào rồi lại ra. Lúc họ sắp ra khỏi, trên núi Hoạt cao có loài chim tên Đế kiến, thấy vậy chim liền hót kệ:

Sắc thân chư Thiên rỗng
Tuổi tác cũng như vậy
Hoan lạc ngày càng hết
Vì ngu nên không biết.
Như tất cả tướng đẹp
Của những Thiên chúng này
Theo thời gian hư hoại
Thân thể cũng tiêu tan.
Thân mạng của Thiên tử
Có đủ các hình tướng
Vì nghiệp thiện đã hết
Bị thần chết giết hại.
Chư Thiên mãi thọ lạc
Tâm ý luôn phóng dật
Bị lưới ái trói buộc
Sắp mắt hết diệu lạc.
Hoan lạc và thân mạng
Đều phải chịu chia lìa
Sức thần chết rất mạnh
Hiện đến ngay lúc chết.
Những ai sống phóng dật
Lưới trời trùm khi chết,
Cướp đoạt mất mạng sống
Bỗng chốc tiêu tan hết.
Nó đã từng phá hoại
Những Thiên tử phóng dật
Mãi tham đắm dục lạc
Bị dục lạc lừa gạt.
Thiên tử mất ánh sáng
Nên thân tâm suy giảm
Đọa vào cõi Diêm-la
Lúc ấy mới biết quả.
Thân này luôn biến đổi
Hoan lạc cũng vô thường
Chư Thiên tâm ô nhiễm
Không mắt nên chẳng thấy.
Tham ái càng tăng trưởng
Luôn thọ hưởng dục lạc
Khi thần chết gõ cửa
Không thể đến chốn vui.
Chẳng biết sinh, già, chết
Đã thấy vẫn không sợ
Cho đến lúc lâm chung
Mới sinh tâm hối hận.
Cảnh giới không thỏa mãn
Các căn cũng như vậy
Nếu đèn trí chiếu soi
Sẽ trừ tối tham ái.
Luôn thích gần cảnh giới
Suy nghĩ đủ mọi thứ
Như lửa bị gió thổi
Càng bốc cháy hừng hực.
Sức dục lạc rất mạnh
Lửa dục càng tăng trưởng
Người trí suy xét kỹ
Điều phục được cảnh giới.
Những ai tâm mê loạn
Luôn ham thích cảnh giới
Đều là do sức si
Hưởng lạc thú như vậy.
Vì si nên thích gần
Lửa cảnh giới thêm hừng
Như thêm củi vào lửa
Được ngọn gió thổi vào.
Tham dục không biết chán
Bị dục lạc sai khiến
Chư Thiên bị thoái đọa
Do hoan lạc lừa dối.
Lúc trước hưởng diệu lạc
Là do có công đức
Thân mạng luôn biến đổi
Thân hoại đi về đâu.
Như thân người hư hoại
Thân trời cũng như vậy
Dù lâu cũng phải chết
Thân trời chắc chắn hoại.
Hoan lạc cảnh giới trời
Tâm tham đắm không rời
Nhất định bị thoái đọa
Mà không hề biết khổ.
Năm dục lạc công đức
Thiên tử ấy thọ hưởng
Trong mười sáu phần khổ
Không bằng được một phần.
Như cá ở trong nước
Chưa từng chịu khổ khát
Người biết đủ ân ái
Sẽ không có dục vọng.
Kẻ nào không xét tâm
Luôn tham ái dục lạc
Mê ngủ suốt đêm dài
Khổ não không diệt được.
Vì si nên thích lạc
Chẳng hề biết khổ đau
Sau đến lúc khổ não
Mới biết được quả báo.
Dục trước như bạn giỏi
Nhưng thật là kẻ ác
Bị địa ngục sai khiến
Làm việc không lợi ích.
Kẻ mù tin dục này
Trí có mắt lánh xa
Giống như trên bờ biển
Sẽ rơi vào địa ngục.
Cẩn thận là bạn tốt
Luôn làm việc lợi ích
Phóng dật là kẻ thù
Hãy gần gũi bạn tốt.
Dục hại cả thân mình
Như loại thuốc rất độc
Dẫn dắt vào đường ác
Chính là sự phóng dật.
Những ai sống phóng dật
Tham đắm các cảnh giới
Là vì tâm ngu si
Luôn chịu nhiều khổ não.
Nếu không biết khổ này
Lại cũng chẳng quán xét
Người ấy giống như dê
Tham lạc trời cũng thế.
Ham ăn uống dục lạc
Loài dê cũng thích vậy
Chư Thiên nếu như thế
Chẳng khác gì loại dê.
Nhờ tâm lực thù thắng
Nghiệp quả cũng thù thắng
Bỏ công đức của nghiệp
Thì không được thù thắng.
Trời vì vui chẳng sợ
Nên sống trong sự chết
Khi thần chết gõ cửa
Mới biết là quả xấu.
Tâm ý suốt một đời
Không hề bị tán loạn
Sáng suốt thích chánh pháp
Và tùy thuận pháp hành.
Mọi thân mạng đều mất
Những hoan lạc cũng hết
Ân ái có chia ly
Thần chết sắp đến nơi.
Chết là kẻ ác nhất
Đường đưa đến đồng trống
Tất cả không như pháp
Hãy tùy thuận pháp hành.
Có pháp khác làm chết
Chính là tâm phóng dật
Phóng dật trước phá hoại
Sau mới phải chịu chết.
Nhờ chánh pháp được vui
Nên nói: Pháp hay nhất
Chánh pháp không phóng dật
Là Đạo Sư cõi trời.
Xem lợi hại chẳng khác
Trói mở cũng như vậy
Phóng dật, không phóng dật
Phước tội đều như nhau.
Vì tâm ngu si ấy
Nên chư Thiên không biết
Cùng kẻ thù vui chơi
Người trí đã xa lánh.

Chim Đế kiên đã quan sát, chê trách tội lỗi của Thiên tử nhưng Thiên tử chẳng hay biết, vì bị tâm phóng dật che lấp, tham đắm cảnh giới, thọ hưởng công đức nơi năm dục, không biết chân đế nên không biết đang thoái đọa. Như vậy cõi trời cũng vô thường, tất cả thế gian đều vô thường, nhưng họ không hay biết. Lại nữa, Thiên tử ấy ngồi trên hoa sen ở trên núi Hoạt cao, rời khỏi tòa sen mà thân không lay động, đi đến ao rộng. Ở đó có năm trăm cung điện được trang trí bằng bảy báu xen lẫn, lan can vây quanh. Lại có các chư Thiên khác đang hưởng lạc ở đó nên không cho vào. Lại ở trên lầu cao nữa cũng có rất nhiều chư Thiên vui chơi. Trong cung điện có đầy thức ăn uống, y phục, giường nệm. Họ yêu mến nhau, không ganh ghét tổn hại nhau, luôn dạo chơi ăn uống, lúc nào cũng có năm âm nhạc. Thiên tử, Thiên nữ thọ diệu lạc như vậy. Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà ngồi trên đài sen, Thiên chúng đi theo đến ao rộng đó. Thấy Thiên vương đến đây, có người xuống lầu, có người ra khỏi hoa sen, có người ra khỏi cung điện, lan can, tất cả đều vui mừng cung kính ra đón Thiên vương. Thấy Thiên vương ở trên hư không, chư Thiên chắp tay kính lễ. Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà đứng trước, chư Thiên theo sau ca múa đến gần ao đó. Ở đấy có đủ mọi công đức, cung điện xinh đẹp, chim chóc rộn ràng, cây cối rực rỡ sáng hơn ánh sáng của trăm ngàn mặt trời, vô lượng Thiên chúng thường ở đây thọ hưởng hoan lạc. Thiên vương cõi Dạ-ma vừa vào, Thiên chúng đều vui vẻ ca ngợi. Thiên vương dùng lời hay đẹp an ủi họ rồi vào cung điện Kiến tâm lạc thắng của ao này. Cung điện này toàn bằng châu báu sáng rực, có vô lượng công đức thù thắng, tất cả Thiên chúng vây quanh. Vào đến nơi, Thiên vương lên tòa Sư tử bằng bảy báu sáng rực. Thiên vương ngồi trên tòa này rất thích ý. Các Thiên tử trú ở chốn cũ vây quanh, vô số Thiên nữ ca múa. Sau đó Thiên tử trú ở chốn cũ tuần tu hỏi Thiên vương: Ngài cỡi hoa sen từ đâu đến đây? Chúng tôi từ lâu chưa từng gặp Thiên chủ. Nói xong Thiên tử trú ở chốn cũ hết lòng kính trọng Thiên vương. Thiên vương đáp: Ta thấy trong đài sen có việc lạ, nên vào đó, chư Thiên cùng Thiên nữ đều vào, mọi người đều thấy việc lạ. Thiên chủ liền nói hết mọi việc mình đã thấy cho Thiên tử trú ở chốn cũ nghe nhưng Thiên tử trú ở chốn cũ đã từng thấy nghe việc ấy nên không ngạc nhiên. Thiên tử trú ở chốn cũ liền nói pháp xưa cho Thiên vương nghe: Xin Thiên vương hãy lắng nghe, tôi đã từng nghe oai lực lớn của hoa sen. Trong hoa sen này có oai lực mà ta muốn gì được nấy. Khắp cõi Dạ-ma này ngoài nó ra không còn nơi nào hơn. Trước kia, tôi nghe rằng: Có vị Thế Tôn tên Ca-na-ca Mâu-ni là bậc Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư xuất hiện ở đời. Giáo pháp Ngài giảng trước, giữa, sau đều thiện, lời lẽ, ý nghĩa đều thiện, là pháp thanh tịnh tối thượng đầy đủ. Ngài giảng pháp: Đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt, đây là đường đến sắc diệt. Nghe pháp xong có trăm ngàn người đạt kiến đế, có người đắc quả Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, có người đạt Tứ thiền, Tam thiền, Nhị thiền, Thiền thứ nhất. Đức Phật ấy đã an trụ những người như vậy, lại làm cho những người khác trụ trong pháp mười thiện, tùy thuận pháp hành, khiến cho trăm ngàn người tạo nghiệp lành. Sau đó Đức

Phật quan sát: Ta nên điều phục những người nào nữa? Rồi Đức Phật dùng Thiên nhãn thanh tịnh thấy cõi Dạ-ma là nơi sẽ điều phục. Thiên chủ cõi Dạ-ma lúc đó tên là Nhạo Kiến. Ông ta có chủng tử lành nhưng thân sống phóng dật. Xung quanh Thiên chủ có vô số Thiên chúng thiện căn thuần thục nhưng ham phóng dật, sống phóng dật. Vì thương xót họ nên Đức Ca-na-ca đã đến cõi Dạ-ma tạo lợi ích cho chư Thiên, đoạn trừ khổ não, trừ sự phóng dật. Lúc ấy có năm ngàn Tỳ-kheo lậu tận cùng theo đến cõi Dạ-ma. Ánh sáng chiếu khắp nơi. Lúc bấy giờ các Thiên chúng, có người đã thấy Phật, có người chưa thấy Phật nên nói Phật là Thiên tử thù thắng cõi trời. Họ ngạc nhiên, không biết là Đức Phật. Song, sắc thân của Phật thù thắng nhất trong chư Thiên, đầy đủ công đức không gì sánh bằng, ánh sáng chiếu khắp cõi trời. Thấy các Thanh văn đi cùng Phật, chư Thiên ấy cũng ngạc nhiên, tự nghĩ: Đây là những người gì, có thân hình đẹp đẽ như vậy, lại đi theo và vây quanh vị trời này? Khi ấy, chư Thiên cầm hoa sen đẹp đến chỗ Thế Tôn Ca-na-ca. Thấy họ đến, Đức Phật bay lên hư không, hiện vô lượng thần thông, vô số công đức, trên thân nước vọt ra đầy đủ sắc hương vị xúc mà nước cõi trời này không bằng một phần mười sáu. Trên đầu phóng ra lửa đủ các ánh sáng sắc xanh, vàng, đỏ, tía lan khắp hư không. Lại hiện những thần thông biến hóa khác, một thân thành nhiều thân, hoặc biến thành hàng ngàn thân, trăm ngàn thân, ức thân, ánh sáng chiếu khắp cõi trời, rồi biến nhiều thân thành một thân. Đức Thế Tôn lại hiện thần thông, mỗi tay nắm hết vườn rừng, ao, núi, sông suối cõi Dạ-ma ném vào hư không, vượt xa tầm mắt nhìn. Sau đó lại đưa về chỗ cũ. Đức Phật lại ném núi, sông, ao, hồ cùng Thiên nữ vào hư không mà chẳng biết đến đâu. Sau đó lại trả về chỗ cũ, chư Thiên lại không biết mình bị di chuyển. Thế Tôn lại hiện ra vô số màu sắc, chủng loại, hình tướng, công đức, thế lực làm cho chư Thiên đều thấy khác nhau. Có người thấy Phật ở trên núi, có người thấy Phật đi trong cung điện, ở dưới gốc cây, trong ao, vui chơi trong vườn, ở trên các cõi thiền, ở trong hư không tọa thiền, ngồi trên tọa cụ trong hư không, hoặc ngồi thiền, đi kinh hành, đi kinh hành lại ngồi thiền. Đức Thế Tôn lại hiện thần thông nói pháp hay hơn năm âm nhạc cõi Dạ-ma. Âm thanh của cõi Dạ-ma so với âm thanh đó giống như tiếng chim quạ cõi người, tất cả cõi trời đều không bằng. Nghe tiếng ấy chư Thiên đều bỏ tâm cao ngạo về tiếng ca của mình. Thế Tôn lại biến ra các Thiên chúng, Thiên nữ ở trong hư không xinh đẹp hơn cõi Dạ-ma. Các Thiên nữ cõi Dạ-ma so với các Thiên nữ đó giống như ánh lửa đom đóm. Hình sắc, phục sức, vườn cảnh mà Phật biến ra đều đẹp hơn. Thấy hóa thiên, chư Thiên ấy đều hổ thẹn, thấy sắc thân dục lạc của mình chẳng khác gì cỏ cây. Biết được căn tánh thuần thục, tin sâu nhân quả, không còn chướng ngại nên Đức Thế Tôn dùng tâm đại Bi tạo lợi ích cho thế gian. Đức Thế Tôn liền đến chỗ Thiên vương cõi Dạ-ma hiện thần thông gấp trăm ngàn lần trước. Lúc ấy Thiên vương cõi Dạ-ma bỏ tâm kiêu mạn. Thiên vương Nhạo Kiến hồi đó cũng ngồi trong hoa sen vui chơi thọ lạc như Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Thị hiện thần thông xong, Đức Thế Tôn nói với chư Thiên cõi Dạ-ma: Những gì các vị thấy hôm nay đều do cảm ứng của Thiên vương Nhạo Kiến mà có, Thế Tôn hiện hóa để các vị bỏ tâm kiêu mạn khiến các vị thấy được sông núi ao hồ, cung điện cảnh giới vui chơi và các điều khác. Thiên vương Nhạo Kiến bỏ tâm kiêu mạn, Đức Thế Tôn liền vào hoa sen hóa hiện tất cả. Lúc ấy, trước mặt Thiên vương Nhạo Kiến lại có hoa sen trăm ngàn cánh, Đức Như Lai ngồi trên đài sen, các Thanh văn ngồi trên cánh hoa biến hiện đủ mọi thần thông. Có người bay lên hư không rồi trở về hoa sen lại biến hiện những loại thần thông khác. Lúc này, Thiên vương Nhạo Kiến cõi Dạ-ma tự nghĩ: Đây là người nào, tạo nghiệp lành gì, do thần lực gì mà biến hóa những việc lạ như vậy? Ánh sáng hình sắc của ta ít nhiều đều thua xa họ.

Biết rõ tâm ý của chư Thiên đã được điều phục thuần thục, Đức Thế Tôn bảo các Thanh văn dùng sức Thiên nhãn điều phục họ. Các Thanh văn nói với Nhạo Kiến:

–Thiên vương nên biết! Đức Phật Thế Tôn là Thầy của hàng Trời, Người, Ma, Sa-môn, Bà-la-môn, A-tu-la. Đức Thế Tôn thấy biết tất cả, thường nói pháp cho mọi loài. Pháp ấy trước, giữa, sau đều thiện, tối thượng, viên mãn, thanh tịnh, ý nghĩa lời lẽ đều thiện, là pháp xuất thế tịch tĩnh, đạt được Niết-bàn. Đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt, đây là đạo sắc diệt. Hôm nay, vì Đức Thế Tôn muốn thuyết pháp cho chư Thiên cõi Dạ-ma nên đến đây, vì muốn đem lại an lạc, lợi ích nên đến đây.

Nghe vậy, Thiên vương Nhạo Kiến kêu lên:

–Đại tiên! Hôm nay tôi đến chỗ Phật Thế Tôn nhưng không biết cúng dường như thế nào?

Các Thanh văn đáp:

–Thiên vương Nhạo Kiến nghe đây. Khi đến chỗ Phật Thế Tôn, nên bỏ mũ xuống, điều phục tâm lành thanh tịnh các căn, nhất tâm chánh niệm, trạch áo vai trái, gối phải chạm đất, cúi đầu đảnh lễ, chắp tay hướng về Đức Phật.

Nghe vậy, chư Thiên đều làm theo. Đức Thế Tôn ngồi trên hoa sen, các Thanh văn vây quanh, giống như các ngôi sao vây quanh mặt trăng, lại như các ngọn núi bao quanh núi chúa Tu-di, lại như các sông đều chảy về biển. Như tám vạn tiểu vương vây quanh Chuyển luân vương, như ánh sáng bao quanh mặt trời. Đức Thế Tôn ngồi trên tòa sen oai đức rực rỡ, thần sắc thù diệu không sao nói hết.

Bấy giờ, Thiên vương Nhạo Kiến, chủ cõi Dạ-ma mặc pháp y, trịch một vai chắp tay hướng về Đức Phật, đứng qua một bên. Đức Thế Tôn bảo: Ông hãy trừ bỏ phóng dật. Khi Nhạo Kiến ngồi vào chỗ, Đức Thế Tôn Ca-na-ca cất tiếng dũng mãnh, vô úy, vang khắp cõi Dạ-ma, bảo chư Thiên:

–Này Nhạo Kiến! Hôm nay, Như Lai thuyết pháp trước, giữa, sau đều thiện, ý nghĩa lời lẽ đều thiện, là pháp thanh tịnh tối thượng, viên mãn các ông hãy lắng nghe, suy xét kỹ. Ta nay khéo vì các ông mà nói.

Nhạo Kiến thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con rất muốn nghe.

Đức Thế Tôn giảng:

–Có chín nguyên nhân gây ra phóng dật, phóng dật phá hoại kẻ phàm phu ngu si ở đời, sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do nhân duyên đọa này chịu nhiều khổ não, trói buộc trong vòng sinh tử, không được diệu lạc Niết-bàn an ổn, không được lợi ích. Chín nhân duyên đó là:

Nguyên nhân thứ nhất là: Thích phóng dật, sống phóng dật, luôn luôn sống phóng dật, không gần gũi bậc Thánh, không điều phục được nghiệp thân, khẩu, ý; thân, khẩu, ý không chân chánh, lại chạy theo cảnh giới bất thiện, thích nghe pháp bất thiện, không thích chánh pháp của Phật. Đó là nguyên nhân tạo ra phóng dật. Chúng sinh vì ngu si, sống phóng dật, thân, khẩu, ý tạo nghiệp ác. Vì thân, khẩu, ý tạo nghiệp ác nên huân tập nghiệp ác. Kẻ ngu bị phóng dật dối gạt, sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu bỏ phóng dật là trượng phu tài trí. Ai muốn việc lành nên bỏ phóng dật. Đó là nguyên nhân tạo ra phóng dật.

Lại nữa, này Nhạo Kiến! Nguyên nhân thứ hai tạo ra phóng dật hủy hoại căn lành: Tâm loạn động, không xét kỹ, mắt thấy sắc thì phân biệt, luôn nghĩ nhớ suy xét, ham thích sắc đẹp, không duyên cái khác, luôn làm ác, không nghĩ thiện, tâm ý tán loạn. Kẻ ấy vì phóng dật nên sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục.

Nguyên nhân thứ ba tạo ra phóng dật: Thấy biết không đúng hay chưa hề thấy, chỉ suy tưởng tâm sinh phân biệt, sống bằng dục vọng ngu si, suy nghĩ thế này thế nọ tâm luôn duyên dựa, không suy nghĩ kỹ về chánh pháp, tự làm loạn tâm ý. Đó là nguyên nhân thứ ba tạo ra phóng dật trói buộc, dối gạt chúng sinh làm cho thân, khẩu, ý tạo nghiệp ác, sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục.

Nguyên nhân thứ tư tạo ra phóng dật làm cho chúng sinh phóng dật, sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục. Này Nhạo Kiến! Nguyên nhân ấy là thích ngắm nhìn người nữ, thích nhìn sắc đẹp trang sức giả dối, thấy người nữ ca múa sinh tâm phân biệt ca ngợi. Do phân biệt như vậy nên thân, khẩu, ý tạo nghiệp ác. Kẻ phóng dật ấy sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục. Lại nữa những kẻ thích vườn rừng, ao sen, cây hoa, thích vui chơi ở những nơi ấy, không nghĩ việc lành, tâm ý không chân chánh. Do sống phóng dật, bị phóng dật dối gạt nên sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục.

Nguyên nhân thứ năm tạo ra phóng dật: Thích gần bạn ác, phá tịnh giới, làm ác, không suy xét đúng, vì gần bạn ác, sống phóng dật nên sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục. Lại nữa chúng sinh có vô lượng hành động, vô số ý nghĩ, không có tâm quyết định, dù tạo nghiệp lành nhưng không có nghiệp nhất định, chỉ tạo nghiệp bất định nên đều bị tản thất, không làm rốt ráo nghiệp thế gian hay xuất thế gian, không bố thí, không tu phước, không suy nghĩ đúng. Vì phóng dật nên phạm giới, sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục.

Nguyên nhân thứ sáu tạo ra phóng dật: Những chúng sinh không hành chánh pháp, xa lánh Thánh đế, không hành theo tám Thánh đạo, không quan sát kỹ những việc mình làm. Kẻ ấy vì phóng dật loạn tâm nên sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục.

Nguyên nhân thứ bảy tạo ra phóng dật: Tham vị ngon, bất cứ ở đâu cũng luôn nhớ nghĩ vị ngon, làm theo sở thích, không suy nghĩ việc khác, không làm việc lành, không giữ chánh giới, luôn thích được mời ăn. Vì tham vị ngon nên bị lừa dối, không tạo nghiệp lành, không nghĩ đến vô thường, khổ, không, vô ngã, chỉ nhớ pháp điên đảo bất thiện, không làm việc lợi ích. Kẻ này sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục.

Nguyên nhân thứ tám tạo ra phóng dật: Chúng sinh được dục lạc lại tham đắm dục lạc ấy cho rằng dục lạc thường còn không thay đổi, luôn an ổn, không hư hoại. Luôn nghĩ đến dục lạc ấy, thân, khẩu, ý luôn tạo ác, không biết việc nào nên làm không nên làm, không biết pháp nào đúng sai, không biết diệt trừ khổ não, không nghĩ đến vô lượng khổ não sai khác của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, những gì không đáng nhớ lại nhớ, không nghĩ đến con đường chết, tất cả thế gian đều nằm trong sự sống chết, thần chết gây hại mà không biết. Chúng sinh ấy tham đắm hoan lạc bị chúng lừa dối. Đến lúc chết mới hối hận, bị lửa đốt thân đọa vào đường ác địa ngục.

Nguyên nhân thứ chín tạo ra phóng dật: Tất cả trời, người luôn bị tâm tham ái dục lạc lừa dối, không biết quy Phật, Pháp, Tăng, không giữ giới, không nghe pháp Phật, không sống theo giới luật của Phật. Những việc cần làm lại không làm, thích nghe những việc phi pháp, không thâm nhập vào chánh pháp, không sợ tội đời sau, không thấy khổ sau khi chết, mất lợi ích, bị tâm oán thù dối gạt, sau khi chết đọa vào đường ác địa ngục.

Nhạo Kiến nên biết! Dục lạc ấy không thường còn, bị phá hoại. Này Nhạo Kiến! Những Thiên vương cõi Dạ-ma xưa kia bị thoái đọa đến đâu. Đó đều do nghiệp quả của họ thành tựu, họ bị lưới nghiệp thiện, bất thiện trói buộc luân chuyển trong sinh tử. Nhờ nghiệp thiện sinh trong cõi người, cõi trời. Do nghiệp ác đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Này Nhạo Kiến! Những ai muốn được thân người thì đừng sống phóng dật. Vì sao? Vì thân mạng và dục lạc đều vô thường, hãy suy nghĩ như vậy đừng sống phóng dật. Vì sao? Vì có nhiều chư Thiên do phóng dật mà bị thoái đọa. Như vậy kẻ ngu si đi trên đường phóng dật, không phải là người trí. Tất cả chúng sinh đều phải chết, thần chết luôn xuất hiện. Sự già nua, bệnh hoạn, ân ái cũng thế, dục lạc và nghiệp thiện ác cũng vậy. Như vậy tất cả tội lỗi luôn có trong chúng sinh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Cây độc phóng dật ấy
Chỉ gồm có ba cành
Già nua, bệnh và chết
Luôn ở trên cành ấy.
Già, chết… không não hại
Trượng phu tạo nghiệp lành
Người nào không phóng dật
Đi trên đường Niết-bàn.
Búa lớn không phóng dật
Chặt phá các tội lỗi
Nhờ thoát khỏi tội ác
Nên được lạc vô thượng.
Thọ lạc bằng phóng dật
Lạc ấy luôn gây sợ
Ai xa lìa phóng dật
Sẽ được lạc bất thoái.
Trăm ngàn sự đảo điên
Do phóng dật lừa dối
Chính vì không hiểu biết
Nên không chịu lánh xa.
Bốn loại kiến điên đảo
Đều từ sự phóng dật
Trừ bỏ sự phóng dật
Là bỏ thù thế gian.
Vô lượng sự phân biệt
Là vô lượng khổ đau
Khổ sống chết lưu chuyển
Đều là do phóng dật.
Xả bỏ sự phóng dật
Sẽ được lạc bất thoái
Vì phóng dật làm mất
Tất cả pháp vô lậu.
Chư Thiên không phóng dật
Luân chuyển lên cõi trên
Chư Thiên vì phóng dật
Không đạt được giải thoát.
Hãy suy nghĩ so sánh
Phân biệt hết mọi thứ
Theo lợi ích mà làm
Sau sẽ không hối hận.
Dục lạc chư Thiên thọ
Và những pháp nhỏ khác
Đó là pháp hữu vi
Nên biết chúng vô thường.
Pháp nào thuộc hữu vi
Cuối cùng đều tiêu diệt
Về sau bị hủy hoại
Luôn chịu những khổ đau.
Những ai tham dục lạc
Bị phóng dật gây hại
Đến lúc thân tan rã
Sẽ chịu nhiều đau khổ.

Đức Thế Tôn đã phân biệt rõ ràng, Thiên vương Nhạo Kiến hiểu thấu đạo pháp, còn điều phục tất cả chư Thiên làm cho họ từ bỏ phóng dật, có những Thiên chúng bị phóng dật trói buộc không được tự tại cho đến lúc chết. Nghe được pháp Phật hai vạn Thiên chúng cõi Dạ-ma đều đạt quả Tu-đà-hoàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn tự nghĩ: “Những gì nên làm ta đã làm, ta còn làm gì nữa để tạo lợi ích cho họ?”. Thế Tôn lại suy xét đến những việc làm đời sau để tạo lợi ích an lạc cho chúng sinh khổ não. Đức Thế Tôn lại ngồi trong hoa sen hóa hiện thần thông giống như chư Thiên không mất, biến ra loài chim nói kệ cho họ nghe, dùng thần thông như thế để điều phục chư Thiên, nói: “Vào đời sau, Thiên vương Nhạo Kiến sẽ bị thoái đọa”. Lại có Thiên vương tên Mâu-tulâu-đà làm chủ cõi Dạ-ma sống phóng dật. Lúc ấy sẽ có những chúng sinh tạo nghiệp thiện lên núi Hoạt cao vui chơi, rồi dần dần lên hoa sen cũng ngồi trên đài sen như vầy. Hoa sen đó do ta hóa hiện. Thiên tử ấy thấy vậy ngạc nhiên, đi vào hoa sen có đủ mọi thứ thích thú. Ra khỏi hoa sen lại nói cho chư Thiên khác nghe. Lúc ấy chư Thiên trú ở chốn cũ đã từng nghe việc đó cũng đến nói với Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Nghe xong Mâu-tu-lâu-đà tin kính Phật, Pháp, trồng căn lành cho đến khi đạt Niết-bàn. Khi tín tâm đã có, Mâu-tu-lâu-đà sẽ được nghe Đức Thích-ca Mâu-ni xuất thế, rồi đến chỗ Phật, nghe chánh pháp. Cứ thế Mâu-tu-lâu-đà nghe hết mọi việc từ Thiên tử trú ở chốn cũ. Như những gì hôm nay ông thấy, tôi đã nói hết. Hiện nay Đức Thích-ca Mâu-ni xuất hiện ở Diêm-phù-đề thuyết pháp cho chúng sinh, ông nên đến đó nghe pháp. Như những gì mà Đức Phật quá khứ Ca-na-ca Mâu-ni đã nói ông sẽ được như vậy, chắc chắn không nghi ngờ, ông sẽ được giải thoát. Nghe Thiên tử trú ở chốn cũ nói như vậy, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà vui mừng kính trọng, tự nói: Những gì mà Đức Phật quá khứ Ca-na-ca thuyết giảng giờ đây ta đã được nghe, vì vậy ta vui mừng, tâm ta thanh tịnh. Chỉ nghe Thiên tử trú ở chốn cũ nói lại mà đã vui mừng như thế huống gì được gặp Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni, được nghe chánh pháp. Nghĩ vậy, Thiên vương cùng tám vạn Thiên tử đi đến nước Ba-la-nại. Thấy sắc thân Phật thù diệu, trang sức bằng ba mươi bảy phẩm Bồđề, oai đức rực rỡ như núi vàng tất cả chúng sinh đều được lợi ích. Chư Thiên đều thấy Đức Phật thuyết pháp bốn đế cho vô lượng trăm ngàn quyến thuộc xung quanh. Đến nơi, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cùng tám vạn Thiên chúng cúi đầu lạy sát chân Phật. Đức Phật bảo:

–Lành thay, hãy đến đây Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà! Ông đã từng nghe kinh pháp của Đức Phật Ca-na-ca, nhờ nghe thế mà ông đến đây.

Lúc ấy, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà tự nghĩ: “Đức Phật là Bậc Nhất Thiết Trí, cực vi tế trí, vô chướng ngại trí, Đức Phật biết hết mọi việc của ta ở cõi trời trong đời quá khứ. Nghĩ vậy Thiên vương vui mừng cùng tám vạn Thiên tử đảnh lễ Thế Tôn, ngồi qua một bên.

Đức Thế Tôn lại bảo:

–Này Mâu-tu-lâu-đà! Hôm nay ta sẽ nói pháp cho ông. Pháp ấy trước giữa sau đều thiện, lời lẽ ý nghĩa đều thiện, là pháp thanh tịnh tối thượng viên mãn. Pháp môn này gọi là Thiên thừa lạc. Ông hãy lắng nghe suy nghĩ kỹ ta sẽ nói.

Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà thưa:

–Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Con rất thích nghe.

Đức Thế Tôn lại hỏi:

–Những gì là pháp lạc của Thiên thừa? Pháp đó có mười hai chi. Này Mâu-tu-lâu-đà! Mười hai chi đó là gì? Nếu người đời đi theo đường chính thì vào cung thành, không lo sợ, không nghi ngờ, không hủy hoại thân, khẩu, ý, thực hành mười hai pháp đó sẽ được sinh lên trời. Những gì là mười hai chi? Mười hai thật đạo này ai đi sẽ được sinh lên trời. Này Mâu-tu-lâu-đà, thật đạo đó có năm công đức:

  1. Thật ngữ: Được mọi người tin lời nói.
  2. Bất hoại: Không ai hại được.
  3. Thanh tịnh: Danh sắc luôn thanh tịnh.
  4. Khả trọng: Luôn được quý trọng.
  5. Thượng sinh: Sau khi chết, sinh lên cõi trời.

Kệ rằng:

Thật ngữ luôn điều phục
Được chư Thiên cúng dường
Mọi người đều yêu mến
Sau được sinh lên trời.
Này Mâu-tu-lâu-đà!
Đó là đạo sinh Thiên thứ nhất.

Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ hai là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên trời? Đó là bố thí thanh tịnh, không nhơ, không hủy hoại, không sợ quả báo, cứ suy nghĩ như vậy. Người tạo nghiệp thiện được sinh lên trời. Đạo thứ hai này có ba công đức: Được mọi người yêu mến, luôn suy xét, vui vẻ, sau khi chết được sinh lên trời. Kệ rằng:

Bố thí được người mến
Lại suy xét kỹ lưỡng
Sau được sinh lên trời
Quả bố thí như vậy.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ ba là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên cõi trời? Đó là nhẫn nhục. Người nhẫn nhục có năm công đức:

  1. Không tranh, không giận.
  2. Không ai được tài vật.
  3. Được mọi người yêu mến.
  4. Có nhiều tâm bi.
  5. Sau khi chết được sinh lên cõi trời.

Kệ rằng:

Sống hợp với nhẫn nhục
Thương yêu, không lo sợ
Được mọi người quý mến
Chết được sinh lên trời.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ tư là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên cõi trời? Đó là mỹ ngữ (lời nói tốt đẹp). Này Mâu-tu-lâu-đà! Mỹ ngữ có sáu công đức:

  1. Được mọi người yêu mến.
  2. Sống nơi không lo sợ.
  3. Nét mặt luôn thanh tịnh
  4. Được tiếng khen.
  5. Làm việc không cần suy xét.
  6. Sau khi chết được sinh lên cõi trời.

Kệ rằng:

Được mọi người yêu mến
Lại càng thêm tiếng khen
Nét mặt luôn xinh đẹp
Chết được sinh lên trời.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ năm là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên cõi trời? Đó là thương yêu tất cả chúng sinh. Người này cuối cùng đạt được Niết-bàn, có công đức không gì sánh bằng. Kệ rằng:

Thương yêu các chúng sinh
Như cha mẹ thương con
Ngọc quý thương yêu người
Luôn ở trong tâm mình.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ sáu là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên cõi trời? Đó là chánh tâm. Người chánh tâm luôn làm việc lành, suy xét kỹ, lời nói tốt đẹp. Bài kệ nói chung về công đức của chánh tâm:

Người nào khéo chánh tâm
Luôn quan sát đúng pháp
Không bị tội sai khiến
Như mặt trời trừ tối.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Nguồn gốc của tất cả pháp chính là chánh tâm.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ bảy là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên cõi trời? Đó là chánh kiến. Người có chánh kiến đạt được Niết-bàn huống gì là sinh lên cõi trời. Người có ít nghiệp thân, khẩu, ý tạo lợi ích chúng sinh được sinh lên cõi trời, cho đến đạt được Niết-bàn. Kệ rằng:

Chỉ chánh kiến là hơn
Với bất cứ người nào
Nếu đạt được như vậy
Thoát khỏi vây sinh tử.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ tám là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên cõi trời? Đó là xa lánh tri thức ác không có ba lỗi, người lành không lánh xa vì cùng giới, tất cả nhân ác không sinh, không có lỗi lớn. Kệ rằng:

Người gần gũi bạc ác
Sẽ không được an lạc
Vì gần gũi bạn ác
Làm những việc chẳng lợi.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ chín là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên cõi trời? Đó là nghe chánh pháp. Nghe chánh pháp được bảy công đức:

  1. Nghe được những pháp chưa nghe.
  2. Nghe rồi nhớ mãi.
  3. Bỏ tất cả nghiệp ác.
  4. Được chư Thánh thích gặp.
  5. Chánh tín Như Lai với tâm sâu sắc.
  6. Được sống lâu.
  7. Sau khi chết được sinh lên cõi trời. Kệ rằng:

Nghe những gì chưa nghe

Nghe rồi luôn nhớ kỹ Trừ bỏ mọi nghiệp ác Chết được sinh lên trời.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ mười là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên cõi trời? Đó là tâm nhu hòa. Này Mâu-tulâu-đà! Tâm nhu hòa có bốn công đức:

  1. Không oán giận người khác.
  2. Làm nhưng không chấp.
  3. Không bị sân giận tổn não.
  4. Sau khi chết được sinh lên cõi trời.

Kệ nêu:

Tâm thiện, tịnh, không nhơ
Tâm không có tội lỗi
Sân hận không cấu nhiễm
Chết được sinh lên trời.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ mười một là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên cõi trời? Đó là tin nghiệp quả. Người tin nghiệp quả trừ bỏ mọi nghiệp ác, không hề có một niệm ác, sợ mọi nghiệp ác, biết rõ mọi nghiệp thiện, bất thiện. Vì biết rõ nên tạo nghiệp lành, bỏ việc ác, luôn huân tập việc lành, sau khi chết được sinh lên trời. Kệ rằng:

Nếu người biết nghiệp quả
Luôn hiểu nghĩa sâu xa
Không tập nhiễm nghiệp ác
Như hư không chẳng nhơ.

Này Mâu-tu-lâu-đà! Đạo sinh Thiên thứ mười hai là gì mà nếu sống theo sẽ được sinh lên cõi trời? Đó là tin kính sâu xa Tam bảo, không tà tín, vì thế được vô lượng công đức. Những công đức ấy hơn những công đức khác. Người ấy trước hưởng mọi an lạc cõi người, sau đạt được Niết-bàn. Thiên tử, Thiên nữ không sống phóng dật, nếu sống phóng dật thì không được diệu lạc thế gian hay xuất thế gian. Đức Thế Tôn đã nói pháp như Thế Tôn Ca-na-ca. Này Mâu-tulâu-đà như giáo pháp mà Thế Tôn Ca-na-ca nói, giáo pháp của tất cả Như Lai đều như vậy, không có pháp khác. Kệ rằng:

Tin Tam bảo sâu xa
Siêng năng tu tập pháp
Trước được sinh lên trời
Sau đạt quả Niết-bàn.

Người nào luôn tu tập mười hai đạo này nhất định sẽ được quả báo. Nghe Thế Tôn dạy vậy, Mâu-tu-lâu-đà và tám vạn Thiên chúng đều được quả Tu-đà-hoàn. Mâu-tu-lâu-đà đảnh lễ Thế Tôn, nói kệ:

Con thoát khỏi đường ác
Quy y Phật Thế Tôn
Chư Thiên bị cô độc
Nhờ pháp Như Lai cứu.
Con hôm nay được quả
Sống trong giáo pháp Phật
Chư Thiên đều như vậy
Qua khỏi nơi sinh tử.

Nói xong, Mâu-tu-lâu-đà bay lên hư không, cùng chư Thiên trở về cõi Dạ-ma. Đến nơi, họ đi chơi hưởng lạc, nghiệp hết sẽ thoái đọa, đóng cửa đường ác sinh trong cõi người, giàu có xinh đẹp, tâm rộng lớn tối thượng trong các nước. Nếu chưa được quả Tu-đà-hoàn thì sau khi thoái đọa, theo nghiệp đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác sẽ sinh trong cõi người, cũng được giàu có xinh đẹp là nhờ dư báo.

Lại nữa, Tỳ-kheo đã biết quả báo của nghiệp, hãy quán xét các trụ xứ cõi Dạ-ma. Dùng văn tuệ biết cõi ấy có trụ xứ tên Thừa xứ du hành. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người có tâm thiện, tâm ngay thẳng, không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm. Nhờ nghiệp thiện đó sau khi chết được sinh lên cõi này. Vừa thọ sinh, vị ấy đã thấy được những vườn rừng, sông suối xinh đẹp đáng yêu, nghe được tiếng chim hót, ngửi hương thơm, nếm đủ mùi vị, xúc chạm tất cả đều đáng yêu. Thấy sắc đẹp, nghe tiếng hay, vị ấy tự nói: Hôm nay ta thấy được những vườn cây, sông suối, ao sen xinh đẹp đáng yêu và nghe được mọi tiếng hay mà trước kia chưa từng nghe thấy, các thứ khác không thể sánh bằng, tâm không biết chán, hương vị xúc cũng thế. Vị này luôn nghĩ đến cảnh giới của năm dục và luôn có được cảnh giới của năm dục, vui chơi thọ lạc tâm không biết chán, nghe được tiếng ca của Thiên nữ. Ở cõi trời mọi pháp đều như vậy. Cảnh giới cũng thế, chỗ nào cũng vui, lúc nào cũng vui, mọi nơi đều có năm dục với công năng thù thắng, muốn gì được nấy, thọ hưởng hoan lạc không ai sánh bằng. Chỉ nhìn thấy khu rừng mà vị ấy đã thán phục huống gì vào đó. Cõi của Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà còn hơn thế nữa. Ở đó có chín ức na-do-tha các thứ trang sức, Thiên nữ xinh đẹp ca múa rất hay, sắc mặt, tâm ý đều tươi vui, cung phụng đầy đủ công đức của năm dục. Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà thọ nhận diệu lạc như vậy và Thiên tử kia cũng đã thấy hết mọi thứ. Vì sao? Vì cõi này do Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà làm chủ, tất cả Thiên chúng đều thuộc sở hữu của Thiên vương, chúng ta nương nơi Thiên vương, xem như cha mẹ.

Vị trời này vừa thọ sinh đã nghe biết hết mọi trụ xứ của cõi Dạ-ma. Các Thiên nữ vây quanh đi vào khu rừng. Ở đó, Thiên tử này thấy mọi màu sắc hình tướng bậc trung, bậc hạ, tất cả Thiên chúng đều thọ hưởng công đức nơi năm dục, đi đứng ăn uống đều vui vẻ, mọi người đều có thức ăn là công đức của năm dục, cùng các Thiên nữ vui chơi, trò chuyện, có vô số công đức trang nghiêm, vườn cây bằng bảy báu xinh đẹp thẳng hàng. Thiên tử ấy vừa sinh đã có được vô số công đức cảnh giới năm dục xinh đẹp nên vị ấy tham đắm dục lạc, nhìn ngắm khắp nơi, cùng Thiên nữ vào rừng lớn. Ở đó, các dòng sông ăn uống, các thứ xinh đẹp, chim chóc đủ màu bay nhảy vui nhộn, tiếng ca Thiên nữ hợp với tiếng hót của chim làm vui tai. Vị ấy lại thấy ở nơi khác có ao sen đẹp dài ba do-tuần, rộng hai do-tuần. Rừng ấy có những hoa sen bằng vàng đủ màu sắc hình tướng khác nhau, giống như vào mùa thu bầu trời có đủ màu sắc. Các Thiên nữ vây quanh ca múa vui chơi, trổi năm âm nhạc, thọ hưởng diệu lạc, yêu mến nhau, gần gũi nhau không hề rời xa. Trong rừng lại có nhiều chư Thiên vui đùa, các bầy chim cùng nô đùa, yêu thương nhau, gần gũi không hề rời xa. Chư Thiên vui chơi hưởng lạc, chim chóc cũng vậy. Những bầy thiên nga, vịt trời, uyên ương bay nhảy vui chơi trong hoa sen, ao nước sạch, bên bờ sông, lấy lá vàng để uống rượu, cùng Thiên nữ ca múa vui chơi hưởng lạc, lấy lá bạc uống rượu đỏ, sắc rượu như màu hoa sen báu, đầy đủ hương vị thơm mát. Do nghiệp lực cảm ứng nên cùng Thiên nữ ca múa vui chơi hưởng lạc. Lại có chư Thiên khác ở trong hoa sen thọ hưởng công đức của năm dục, hái lá sen báu xanh cùng Thiên nữ uống rượu. Lại có chư Thiên khác ở dưới gốc cây, hoa trời che rợp. Uống rượu xong, họ vui mừng cùng Thiên nữ buông lung vui thú trong vườn, uống nước trái cây thơm ngon của cõi trời, vui đùa với nhau. Có chư Thiên dùng cành cây bằng vàng, bạc, pha lê, báu xanh che rợp làm nhà, cùng Thiên nữ ca múa vui chơi hưởng lạc. Có chư Thiên ở trên bờ sông nơi có nhiều chim chóc hoa trái, mặt đất mềm mịn. Hoa ấy có năm sắc, có hoa đủ năm sắc hòa hợp, có hoa chỉ có một sắc riêng biệt, Thiên tử cùng Thiên nữ hái hoa ngửi, Thiên nữ và Thiên tử ca múa vui chơi. Lại có chư Thiên vui chơi thọ lạc ở trên nền đá quý bằng báu xanh, vàng, bạc, pha lê. Đến khi nghiệp thiện hết, họ bị thoái đọa, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác, được sinh trong cõi người, luôn ở nơi vui vẻ, thân xinh đẹp, tâm rộng lớn, giàu có, được làm vua là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Dạ-ma. Dùng văn tuệ biết cõi ấy có trụ xứ tên là Vân xứ du hành. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người có tâm ngay thật, tin Tam bảo, không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm. Dù thấy người nữ vẫn không sinh tâm dục, không nghĩ đến dục, bỏ tâm dục, chẳng phân biệt như bỏ chất độc. Sau khi chết vị ấy sinh lên cõi này. Ở đây, thân thể sáng rực như mặt trời, thọ hưởng diệu lạc cảnh giới không gì sánh bằng. Vừa sinh ra, vị ấy đã vui mừng tự nghĩ: Vì sao có một mình ta ở đây? Nghĩ vậy, Thiên tử liền thấy Thiên nữ ở dưới gốc cây. Trên cành cây có nhiều linh báu phát tiếng rất hay. Mặt đất sáng rực như màu lửa, vàng, pha lê. Có vô số hoa sen đẹp, khắp nơi cây cối mềm mại, chim hót rất hay, Thiên nữ vui chơi thọ lạc trong rừng. Thiên tử vừa nghĩ, trong rừng biến ra đủ thứ trang sức, trang sức vòng hoa trên đầu, thân mặc áo đẹp đủ màu, đến chỗ Thiên tử bao quanh ca hát rất hay, yêu thương Thiên tử, cùng Thiên tử vui đùa, tấu âm nhạc. Thiên nữ ấy bày đủ các trò chơi cùng vui đùa với Thiên tử. Thiên tử ấy chưa từng thấy những Thiên nữ này, nên khi thấy được, tự nghĩ: Đây là người gì? Ở đâu đến? Thuộc sở hữu của ai? Vì ai mà đến? Những Thiên nữ này trang sức xinh đẹp, tay cầm các nhạc cụ… xin nói một ví dụ nhỏ, dù là tiếng ca của các Thiên nữ cõi trời Tam thập tam cũng không sánh kịp, huống gì cõi có đủ ba thứ công đức, được quả của vô lượng nghiệp thiện. Tiếng ca Thiên nữ cõi Dạ-ma hay hơn Thiên nữ cõi trời Tam thập tam. Mọi sắc đẹp, thế lực, hình tướng tiếng ca, hoan lạc, vườn rừng, ao hồ, thức ăn, nhà cửa, nơi vui chơi đều hơn. Cứ thế, mọi thứ ở đây hơn cả cõi trời Tha hóa tự tại. Vì sao? Vì nghiệp quả nặng, giới tâm thanh tịnh không nhơ. Các Thiên nữ cõi Dạ-ma có đủ mọi thứ không ai sánh bằng. Cõi này có hai lỗi: Dục lạc, vô thường. Chỉ nói được một phần nhỏ về diệu lạc thôi. Nếu những kẻ ngu si thọ trì giới cấm hy vọng cảnh giới nên nghĩ: Con xin giữ giới mong được sinh lên trời. Để chuyển tâm họ, ta nói về vô thường, bị thoái đọa và ân ái chia lìa. Vì sao có những lỗi ấy? Vì nếu có một chút tâm mong cầu cảnh giới thì mất hết pháp lành. Trong các hữu không chỗ gì là thường, chúng nương dựa nhau không gì là thường còn, không biến đổi, không bị hư hoại. Tất cả đều do sự phân biệt vì thế nên nói quả báo cõi trời không phải chỗ đáng yêu.

Lúc ấy, các Thiên nữ vây quanh Thiên tử mới sinh ca múa vui chơi hưởng lạc. Vì chưa được thấy họ nên Thiên tử suy nghĩ: Những người này thuộc sở hữu của ai mà đến gần ta? Nhờ nghiệp thiện Thiên nữ biết được tâm niệm của Thiên tử, liền trả lời: Thiên tử là chủ của chúng tôi, vì sao Thiên tử không trò chuyện với chúng tôi? Thiên tử là chồng của chúng tôi, chúng tôi sẽ cung phụng mọi thứ cần thiết để Thiên tử thọ hưởng dục lạc.

Nghe vậy, Thiên tử nói: Nếu các ngươi thuộc sở hữu của ta thì hãy đến đây. Vì sao? Vì cõi trời này là nơi thọ lạc. Người sinh lên cõi này thì thọ lạc ở đây. Thiên nữ liền cùng Thiên nữ thọ hưởng dục lạc. Thiên nữ lại nói: Chúng tôi cùng Thiên tử sẽ dạo chơi khắp khu vườn này. Ở đây có nhiều Thiên chúng, tha hồ nhìn ngắm mọi thứ đáng yêu, nghe tiếng chim hót, sông suối ao sen, trăm ngàn ngọn núi cao bằng bảy báu sáng rực. Trên núi có nhiều chim, dưới có nhiều ao. Đầy đủ những công đức như vậy, chúng tôi cùng Thiên tử đi chơi thọ lạc.

Nghe vậy, Thiên tử mới sinh nói với Thiên nữ: Ta sẽ chìu ý các ngươi. Nói xong Thiên tử đứng lên cùng Thiên nữ vào rừng. Các Thiên nữ cầm nhạc cụ cùng dạo chơi với Thiên tử. Họ đang vui chơi thì gặp Thiên tử, Thiên nữ khác cũng dạo chơi. Hai Thiên tử gặp nhau, yêu thương nhau, cùng nhau trò chuyện. Các Thiên nữ cũng thế. Sau đó, họ lại đến rừng Hý lạc, rừng này rộng ba ngàn do-tuần, có vô số trăm ngàn na-do-tha Thiên chúng chẳng khác gì rừng Hoan hỷ. Rừng này có đầy đủ mọi công đức, đủ các chỗ để chư Thiên vui chơi nên gọi là rừng Hý lạc. Hai Thiên tử lần đầu tiên thấy nghe những cảnh giới đó nên rất vui mừng biểu lộ ra ánh mắt, sắc mặt. Thiên tử mới sinh cùng các Thiên nữ nói với Thiên tử kia: Chúng tôi chưa từng thấy như vậy. Sau đó từng cặp Thiên tử, Thiên nữ đội vòng hoa trời, xoa thân bằng hương chiên-đàn, ngồi trong cung điện trời bay lên hư không cùng ca múa vui chơi, cùng nhau đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Lúc ấy, cũng có Thiên tử và Thiên nữ khác cầm hoa sen, ngồi trên điện bay lên hư không ca múa vui chơi đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Có những Thiên tử làm được những việc rất vi tế, tay cầm đàn không hầu, xuyên qua trăm ngàn ngọn núi, không hề bị chướng ngại, cùng Thiên nữ ca múa vui chơi đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Lại có chư Thiên ở trong hư không rải hoa trời cùng Thiên nữ ca múa vui chơi đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Thiên tử mới sinh thấy hết mọi sự khác biệt, cũng cùng nhau đi đến đó. Vô số chư Thiên đều dùng lời hay thăm hỏi Thiên tử ấy.

Lúc đó, Thiên tử mới sinh thấy ở xa có ánh sáng rực rỡ hơn cả trăm ngàn mặt trời mà những hàng phàm phu không sao thấy được. Lại nghe âm thanh có đủ bốn tính cách. Hợp nhau, rõ ràng, hòa hợp, như nhau. Nghe vậy, Thiên tử mới sinh vui mừng hỏi các Thiên nữ: Hôm nay ta thấy được nơi thù thắng có ánh sáng lớn, tiếng hay bình đẳng, hòa hợp, vui nhận. Vì sao? Thiên nữ đáp: Đó là nơi Thiên vương Dạ-ma đang thọ lạc. Ở đó có vô số trăm ngàn Thiên chúng, Thiên nữ cùng ca ngợi giống như cõi Đâu-suất – nơi Thiên vương Tịch Tĩnh hưởng lạc. Nghe vậy, Thiên tử mới sinh ngạc nhiên tự nghĩ: “Trừ cõi mà Thiên vương Tịch Tĩnh thọ lạc ra, còn nơi nào như vậy nữa không?” Sau đó Thiên tử hỏi Thiên nữ: Tịch Tĩnh là ai? Ở đâu? Ta sẽ đến đó gặp vị ấy. Nghe vậy Thiên nữ suy nghĩ: Vị này mới thọ sinh, không biết thế lực lớn nên nói như vậy. Thiên nữ nói: Tôi đã thấy Tịch Tĩnh. Cõi Đâu-suất-đà ở trên cõi ta. Cõi ấy hơn gấp trăm ngàn lần cõi chúng ta. Tất cả diệu lạc, nghiệp quả cõi ấy đều hơn, oai đức, thế lực cõi ấy cũng hơn cõi Dạ-ma, chư Thiên phàm tục không thể đến đó được vì không phải cảnh giới của họ. Tất cả những thứ ở cõi ấy đều hơn cõi ta. Nếu Thiên tử có đủ phước đức, thần thông lớn thì có thể đến đó, chư Thiên khác không thể đến được.

Bấy giờ, Thiên tử mới sinh tự nghĩ: Diệu lạc của cõi trời ấy hơn diệu lạc của cõi Dạ-ma. Bất chợt, tâm tán loạn, vị ấy tham ái dục lạc của cảnh giới, quan sát thấy hết những diệu lạc mà Thiên chúng các cõi thọ hưởng. Thiên tử tuần tự đi khắp mọi nơi, dần dần đến cõi Dạma của Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà. Ở đó, trăm ngàn Thiên chúng vây quanh Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà, trăm ngàn Thiên nữ tay cầm hoa sen, cung phụng mọi vật. Sắc thân Thiên vương không ai sánh bằng, oai đức rực rỡ, đầy đủ công đức. Ánh sáng của Thiên vương vượt hơn ánh sáng nơi tất cả Thiên chúng, ví như mặt trăng sáng hơn tất cả các ngôi sao xung quanh. Thiên vương Dạ-ma cũng thế, oai đức thù thắng, ngồi trên tòa Sư tử mềm mịn không dệt bằng tơ, toàn bằng ngọc báu xinh đẹp. Hình dáng, y phục, oai đức rực rỡ, tha hồ thọ hưởng hoan lạc dục vọng, trò chơi, tiếng hát không có cõi nào hơn. Công đức cõi Dạ-ma vượt hơn Thiên vương Đế Thích. Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cõi Dạ-ma có năm mươi vòng ánh sáng từ thân phóng ra rực rỡ. Ánh sáng từ hai vai Đế Thích phóng ra không bằng ánh sáng này. Nhờ nghiệp thiện sáu căn của Thiên vương cõi Dạ-ma đều hòa hợp vượt trăm ngàn lần công đức của Đế Thích. Sự thù thắng về sắc thân, cảnh giới diệu lạc của Thiên vương cõi Dạ-ma không ai sánh bằng, không thể ví dụ được. Các Thiên chúng quyến thuộc của Thiên vương có công đức kém cỏi cũng đã hơn Đế Thích huống gì là Thiên vương oai đức thù thắng, trong ngoài thanh tịnh như vậy, làm sao ví dụ được. Thấy oai đức diệu lạc của mình thua xa trăm ngàn lần Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà, Thiên tử mới sinh tự quán thân mình, biết nhờ thực hành nghiệp thiện thù thắng nên được thân Mâutu-lâu-đà tối thượng như vậy. Thiên vương này oai đức đã tối thượng như vậy huống gì là Thiên vương Tịch Tĩnh mà ta đã nghe, oai đức lại hơn cả Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Nhờ nghiệp thiện bậc thượng mà dần dần thù diệu như thế. Suy nghĩ một lát, Thiên tử mới sinh lại nghe được tiếng ca, tiếp tục hướng về phía trước đến chỗ Mâu-tulâu-đà. Xung quanh Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà có bảy ngàn Thiên nữ xinh đẹp dịu dàng đủ oai đức, tiếng nói êm dịu đang gần gủi ca múa vui chơi, còn những Thiên nữ ở xa xa thì không sao đến được. Họ cùng nhau vui chơi, uống rượu trời, cùng yêu mến nhau. Thấy Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cùng thọ lạc với mình, các Thiên nữ đều nghĩ: Thiên vương chỉ yêu mình ta, không yêu ai cả, gần ta thì vui, không gần người nữ khác, dục lạc của ta nhiều hơn, những người nữ khác không như vậy. Dục vọng cõi Dạ-ma chỉ cần nói mà không cần giao hợp. Các Thiên nữ đều nghĩ như vậy, đều cho rằng Mâu-tu-lâuđà chỉ yêu riêng mình. Đến gần Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà, Thiên tử mới sinh lại thấy vô số trăm ngàn Thiên chúng vây quanh, Thiên vương dùng lời hay điều phục Thiên chúng. Thiên vương biết tất cả Thiên chúng dù là người cũ hay người mới sinh. Thấy Thiên tử mới sinh, Thiên vương chăm chú nhìn, chư Thiên trú ở chốn cũ nói với Thiên tử mới sinh: Đại vương đang nhìn ngươi, sao ngươi không quỳ lạy? Nghe vậy Thiên tử mới sinh liền quỳ xuống. Thấy Thiên tử mới sinh quỳ lạy, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà nói: Đại tiên! Ông mới sinh lên cõi Dạ-ma, ông có thể ở đây thọ hưởng diệu lạc tối thượng. Ông nhờ tu hành ba nghiệp thiện mà được sinh lên đây. Từ đây về sau, ông ở đây thọ hưởng dục lạc theo nghiệp của mình, đừng sống phóng dật. Thiên vương liền nói kệ:

Này Thiên tử mới sinh
Nếu tham đắm dục lạc
So với khổ thoái đọa
Chẳng bằng phần mười sáu.
Vui ít lo sợ nhiều
Luôn mê hoặc trượng phu
Như thành Càn-thát-bà
Dục lạc cũng như vậy.
Dục lạc độc ác nhất
Hãm hại các chúng sinh
Vì vậy người có trí Không tin nơi dục.

Nghe Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà dạy như vậy, Thiên tử mới sinh thưa:

–Thật đúng như vậy, thưa Thiên vương! Lúc đầu tôi không biết tội lỗi của cõi trời, không biết cõi trời thực hành pháp nào. Như những gì chư Thiên khác làm tôi cũng làm vậy mà không hay biết.

Lúc ấy, Thiên vương lại nói kệ:

Cho đến lúc lâm chung
Không có được bạn bè
Chết rồi qua cõi khác
Cũng chẳng người đi theo.
Chúng sinh tâm khác nhau
Biết bao là tâm dục
Do những nghiệp khác nhau
Trói buộc trong sinh tử.
Ngay cả lúc vừa sinh
Đã lệ thuộc thần chết
Vì ngu si lấp tâm
Nên không biết lo sợ.
Đến khi bị thoái đọa
Cảnh giới cũng không còn
Vì ngu si chẳng biết
Khổ chết thật đáng sợ.
Vui thích lại buông lung
Luôn chịu sự sinh tử
Kẻ ngu không hiểu biết
Cảnh giới gạt chư Thiên.
Rắn cảnh giới hay cắn
Tham cảnh giới nên si
Chư Thiên luôn mê muội
Thoái đọa mới lo sợ.
Khổ sinh là lớn nhất
Khổ thoái đọa chẳng bằng
Như vậy chỉ chư Thiên
Mới chịu khổ sinh ấy.
Bị gió nghiệp thổi tạt
Luân hồi chịu khổ đau
Trượng phu lúc sắp chết
Tâm cuồng không tự chủ.
Không thể nhờ cha mẹ
Thân thuộc hay bạn bè
Nếu thần chết gõ cửa
Không một người đồng hành.
Bản tánh họ mê mờ
Nên không có bạn bè
Chỉ có tâm ý ác
Luôn luôn dối gạt nhau.
Không bạn bè thân thuộc
Có thể cứu được mình
Lúc thần chết gõ cửa
Thân thuộc như người dưng.
Ai thấy chỉ một mình
Vẫn thọ hưởng dục lạc
Thần chết có sức mạnh
Cướp đoạt hết an lạc.
Cảnh giới mê hoặc tâm
Luôn bị dục sai khiến
Tuy chưa biết khổ đau
Nhưng nhất định phải khổ.

Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà dạy pháp chân thật cho Thiên tử mới sinh. Nghe vậy Thiên tử mới sinh chán ngán nhưng chỉ trong chốc lát lại tham đắm dục lạc ca múa vui chơi. Tất cả kẻ phàm phu ngu si vì tâm vô thường, không kiên định, vì sức mạnh dục lạc che lấp tâm, bị tham ái sai khiến nên tâm càng tán loạn. Vì vậy chư Thiên phóng dật không nhớ được một pháp lành nhỏ.

Lúc ấy, Thiên tử mới sinh ở chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cùng quyến thuộc vui chơi ca múa, thọ hưởng công đức của năm dục và cảnh giới dục lạc, rồi theo đường cũ trở về bản xứ. Về đến nơi họ lại vui chơi hưởng lạc, đi đến Quảng điện. Cung điện ấy rất đáng yêu, nay xin nói rõ. Bên trong có hai mươi na-do-tha phòng đủ các màu sắc hình dạng khác nhau, ánh sáng vật báu rực rỡ. Ở đó có nhiều Thiên chúng, Thiên nữ, họ muốn gì cũng được, Thiên tử muốn gì được nấy. Có đủ màu sắc hình tướng, ao hoa, vườn rừng, chim chóc xinh đẹp, núi bảy báu. Nhờ nghiệp thiện, khi chư Thiên muốn dạo chơi thì cung điện, vườn rừng, ao hoa, cây cối đều bay lên hư không như chim. Nếu Thiên tử nghĩ: Cung điện này bay đi thì vui lắm. Ngay lúc đó cung điện bay lên hư không, nếu Thiên tử muốn ăn uống thì có dòng sông ăn uống đủ mọi thứ thơm ngon đẹp. Đó là do nghiệp thiện của Thiên tử, nếu không có nghiệp thiện thì không có việc này. Nếu Thiên tử muốn điện này rộng ra một trăm do-tuần thì ngay lúc đó có đủ vô số dòng sông, ao sen, hang núi, phòng ốc, vườn cảnh rộng ra. Thấy vậy Thiên tử vui mừng ở đây vui chơi, cùng chư Thiên thọ hưởng dục lạc. Lại muốn chư Thiên và Thiên vương cõi Dạ-ma cùng đến đây vui chơi hưởng lạc. Chư Thiên ấy, có vị cỡi thiên nga, có vị cỡi chim khổng tước, có vị cỡi những chim khác mà họ nuôi, có vị ngồi trên hoa, trên vịt trời, trên lưng chim uyên ương, chim mạng mạng, có vị ngồi trên cây, họ cùng các Thiên nữ xinh đẹp trang sức vòng hoa vui vẻ nô đùa hưởng lạc. Các Thiên nữ khen ngợi bay lên hư không đi đến cõi này. Đến nơi họ cùng vui chơi thọ lạc, sống buông lung tâm không kiên định. Thấy chư Thiên phóng dật, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà quan sát sự phóng dật, tự nghĩ: Ta phải dùng phương cách nào để tạo lợi ích, an lạc cho chư Thiên phóng dật? Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà lại suy xét kỹ: Ta nên cùng những người chứng quả Tu-đà-hoàn đến đó, cùng bàn luận, có pháp lành nào để điều phục những Thiên chúng cõi Vân du hành tham dục phóng dật để cả hai đều được lợi ích, để ta và họ đều trừ bỏ tội lỗi. Ta là bạn lành thuyết pháp lợi ích cho họ, là Thiện tri thức. Nếu dạy họ làm ác thì là kẻ thù, là huân tập nghiệp ác địa ngục. Bàn luận xong, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cùng những vị chứng Tu-đà-hoàn dùng sức thần thông hóa ra cung điện đẹp rồi cùng lên đó đi đến chỗ chư Thiên. Điện ấy có đủ sông suối, ao hồ, cây cối xinh đẹp mà cõi Vân du hành không bằng một phần trăm, một phần ngàn. Vì sao? Vì sức nghiệp thiện. Trong cõi Dạ-ma nghiệp thiện của Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà là hơn hết. Nghiệp thiện thù thắng nên thần thông cũng thù thắng. Vì vậy điện này sáng rực hơn điện của chư Thiên cõi Dạ-ma. Ví như mặt trời mọi thứ không sao sánh được. Điện đó xinh đẹp nhất không có điện nào sánh kịp. Điện đó có đủ công đức, Thiên vương bay lên hư không hướng đến cõi Vân du hành – hoan lạc đầy đủ – những Thiên tử chứng Tu-đà-hoàn cũng đến đó. Vì chư Thiên chứng Tu-đà-hoàn là những người ít phóng dật nên đến đó được. Thấy Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà, Thiên tử phóng dật sinh tâm kính trọng cùng trăm ngàn Thiên chúng ra nghênh đón. Đến nơi, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà dùng thần lực biến hóa làm cho chư Thiên đến đón đều ở trong điện của mình nhưng họ không nhìn thấy nhau chỉ thấy riêng mình gần gũi Thiên vương. Họ không còn nghe tiếng nhạc, không thấy sắc đẹp. Nhờ sức thần thông nên chư Thiên đều nghĩ: Chỉ có ta ở đây, chư Thiên khác luôn cùng ta vui chơi giờ ở đâu? Họ không thấy ai cả, do vậy mỗi Thiên tử đều đi đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Họ chỉ thấy Thiên vương và những vị chứng quả Tu-đà-hoàn mà không thấy chư Thiên khác. Các Thiên tử đều ngạc nhiên lo sợ thưa với Thiên vương: Sao chỉ mình tôi ở đây, những Thiên tử khác ở đâu? Thiên vương nói: Những Thiên tử đó vì sống phóng dật nên khi nghiệp hết họ bị thoái đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hoặc sinh làm người. Chư Thiên vì phóng dật nên bị phóng dật phá hoại, bị tham ái nơi cảnh giới hủy hoại, vì tham theo công đức của năm dục, tâm bị lửa cảnh giới phân biệt thiêu đốt. Từ lửa tâm sinh ra lửa này, bị gió nghiệp thổi vì không biết chán dục lạc của Quảng điện nên bị năm ngọn lửa thiêu đốt, còn bị lửa địa ngục thiêu đốt chịu các khổ não. Vì bị tâm dối gạt nên sau khi chết sinh vào địa ngục. Trong các tội lỗi, tội phóng dật là hơn hết. Vì sao? Vì tội phóng dật làm mất các pháp lành. Chư Thiên ngu si ấy bị tâm dối gạt sau phải hối hận. Nghe Thiên vương dạy thế, các Thiên tử ấy đều chán ngán lo sợ thưa: Thưa Thiên vương! Vì sao chỉ trong chốc lát mà các Thiên tử bị thoái đọa? Việc này chưa bao giờ có làm cho cõi Vân du hành đều trống rỗng, hoặc là đau khổ, có cách nào để chúng tôi không bị thoái đọa, không khổ não và đau khổ vì ân ái xa lìa, không đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh?

Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà nói kệ:

Kẻ sống trong phóng dật
Không thấy bậc hiền thiện
Như dùi băng lấy lửa
Chắc chắn không có được.
Không nhân thì không quả
Không nhân sao có quả
Phóng dật mong được phước
Chẳng bao giờ có được.
Do phóng dật phá hoại
Tất cả các Thiên tử
Ngu si mất nghiệp lành
Đọa vào các cõi ác.
Cũng chính vì ngu si
Nên tham ái dục lạc
Sau chịu mọi khổ não
Lại sinh tâm hối hận.
Bị cảnh giới lường gạt
Và lửa dục thiêu đốt
Không được đạo tịch tĩnh
Nơi an lạc thượng diệu.
Dục lạc ở thế gian
Do tham ái sinh khởi
Không bằng được một phần
Trong mười sáu lạc này.
Đạo tịch tĩnh sinh khởi
Bạch pháp thoát sinh tử
Ái hết là vui nhất
Được diệu lạc bất thoái.
Không lo sợ, biết đủ
Hành giả chẳng mong cầu
Diệu lạc thiền định này
Không lạc nào sánh kịp.
Ai không bị ái buộc
Không bị si phá hoại
Người này qua biển hữu
Luôn hưởng được diệu lạc.
Tâm tham đắm dục vọng
Thì không được diệu lạc
Đó là nỗi khổ đau
Đi vào chốn địa ngục.
Luôn bị lưới nghiệp nhốt
Dắt dẫn đến cõi ác
Không có ai cứu được
Để thoát khỏi khổ này.
Xem các pháp xưa nay
Do nghiệp có sinh tử
Xưa nay đều như vậy
Do nghiệp nhân có quả.
Vì si nên tham dục
Cho đến lúc thoái đọa
Chịu khổ lớn sinh tử
Mà không hề hay biết.
Vì ngu si che lấp
Thọ lạc không biết đủ
Chính vì không biết đủ
Nên luôn bị hủy hoại.
Chẳng phải trước giữa sau
Không đời này đời khác
Luôn huân tập dục vọng
Vô minh nên trôi nổi.
Khi nghiệp thiện đã hết
Phải rời khỏi chốn này
Nuốt nhằm độc phóng dật
Ngu si không biết gì.
Thân này luôn thay đổi
Vì ngu nên không biết
Sau đến lúc thoái đọa
Mới biết được khổ đau.
Những ai lo sợ khổ
Và lo sợ thần chết
Hãy nghĩ nhớ chánh pháp

Như thế sẽ được vui.Nghe vậy các Thiên tử tạm thời bỏ phóng dật lại thưa: Tất cả chư Thiên chỉ trong chốc lát lại bị phá hoại tổn thất hết sao? Xin ngài hãy nói sự thật. Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà nói: Như nghiệp mà đến thì khi nghiệp thiện hết phải ra đi. Tất cả nghiệp đều chắc chắn như vậy. Tất cả chúng sinh khi xa lìa nhau đều phải khổ, ba thứ già bệnh chết luôn tương đối nhau, thân mạng thường bệnh hoạn. Dù là cõi trời, cõi người nhưng nếu tâm không phóng dật, không sống phóng dật thì biết rõ ba thứ đáng sợ ấy. Với ba thứ này, vì phóng dật nên làm cho chư Thiên bị thoái đọa. Nếu lúc chưa chết siêng năng tìm mọi cách tu tập ba thứ thí, giới, trí thì trừ diệt được ba thứ đáng sợ kia. Mọi sự phân biệt luôn luôn bám theo nếu không lo sợ thì lúc sắp chết sắc mặt, miệng… các căn dần dần hư hoại, khô cằn, bỏ lại bạn bè, anh em, vợ con. Lúc ấy, bị lửa ái biệt ly thiêu đốt, chịu khổ chết. Tất cả chư Thiên luôn tham đắm dục lạc trước mắt, ca múa vui chơi thọ lạc trong vườn cảnh, chạy theo cảnh giới như gặp bạn thân, thầy tốt, không hiểu hậu quả. Về sau lửa hối hận thiêu đốt mới nghĩ: Vì sao ta không tạo nghiệp lành, không bố thí, trì giới, không tu tập trí tuệ. Vì phóng dật nên giờ đây ta cô độc, bị thần chết bắt đi, xa lánh bà con anh em, xa nơi đáng yêu thương có đủ an lạc. Về sau phải hối hận, phóng dật phá hoại chư Thiên vì vậy lúc thần chết chưa đến các ông hãy từ bỏ phóng dật, đừng sống phóng dật sẽ được an ổn. Đến lúc chết không bị lửa hối hận thiêu đốt. Đó là đạo an ổn nhất. Tất cả nhờ tu tập thí, giới, trí mà thoát được suy não. Đó là người bạn dũng mãnh cứu thoát. Khi thần chết đến không ai tránh khỏi không ai ngăn cản được sự hủy hoại của thần chết, thần chết tước đoạt mạng sống của chúng sinh. Cớ sao không chịu tìm phương cách siêng năng tu tập làm cho thần chết không đến? Khi phóng dật ác chưa đến thì rất tốt đẹp, nhưng phóng dật giống như lửa dữ, tất cả chư Thiên bị phóng dật sai khiến, lệ thuộc vào phóng dật, kẻ thù phóng dật đó theo đuổi không rời, vui chơi mãi trong vườn cảnh, trên núi, làm những việc vô thường lại cho là thường, tự nghĩ ta thường cùng các Thiên nữ vui chơi thọ lạc, các Thiên nữ này trẻ mãi không già, ta luôn gần gũi họ không rời xa, luôn bị cảnh giới dục lạc mê hoặc. Nó có sức mạnh phá hoại, thần chết đến các Thiên nữ ấy không ngăn cản được, không ai cứu được, tâm suy nghĩ đó không cứu được, tâm không rời xa đó cũng không cứu được. Mọi sự suy xét đều trống rỗng, tất cả đều vô thường, không bền chắc, bị phóng dật phá hoại nên sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, bị ngu si gây hại đi đến nơi khổ lớn. Chư Thiên ấy từ vô thỉ đến nay luân chuyển trong sinh tử, luôn khổ đau nhưng vì mê hoặc nên chẳng biết.

Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà đã nói đúng pháp, đúng nghĩa những Thiên tử có trí tuệ nghe lời ấy như nước cam lồ trong sạch không nhơ, nhớ pháp ấy, trừ bỏ phóng dật, chán ngán dục vọng. Sau đó được chánh niệm, Thiên tử nói kệ với Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà:

Lợi ích và chân thật
Tương ưng không sai khác
Ngài nói những lời ấy
Chính là nhân lợi ích.
Tâm điều phục, tịch tĩnh
Sẽ được sự an lạc
Từ vui đến chốn vui
Chắc chắn được diệu lạc.
Những Thiên tử điên đảo
Bị phóng dật hủy hoại
Những kẻ ngu si này
Nhất định đọa địa ngục.

Các Thiên tử nghe xong sinh tâm chán lìa. Các Thiên tử lại hỏi Thiên vương: Tôi còn nghi ngờ, những Thiên tử trong điện này đã đi đâu? Biết tâm Thiên tử đã điều phục, chán bỏ phóng dật, Thiên vương thâu giữ thần thông, các Thiên tử đều nhìn thấy nhau, cùng vui vẻ. Thấy họ vui mừng, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà bảo: Khi các ông không nhìn thấy nhau là do sức thần thông của ta làm chướng ngại. Bấy giờ, các ông đã thấy nhau thì chướng ngại không còn nhưng khi thần chết dũng mãnh đến thì các ông nơi trăm ngàn ức kiếp nữa vĩnh viễn xa nhau. Các ông bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, không còn thấy nhau nữa. Vì vậy các ông phải nhớ kỹ, đừng sống phóng dật, đừng sinh tâm tham đắm cảnh giới, hãy phòng hộ tâm ý.

Nghe vậy nhiều Thiên tử sinh tâm nhàm chán, đắc quả Tu-đàhoàn. Thấy vậy Thiên vương vui mừng khôn xiết, nghĩ rằng: Giờ đây những việc cần làm ta đã làm xong. Tự thấy thỏa mãn rồi Thiên vương rời cõi ấy trở về cõi Hy hý. Những Thiên tử cõi Vân du hành, người nào chứng được quả Tu-đà-hoàn thì không sống phóng dật nữa, những người chưa được thì tâm khinh suất vẫn sống phóng dật, thích phóng dật, ham dục lạc phóng dật, cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc trong sông suối, ao hồ, núi non, không sợ chết. Vui chơi đến khi nghiệp thiện hết, những việc nên làm lại không làm, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác được sinh trong cõi người, luôn an lạc, xinh đẹp, giàu có, được mọi người yêu mến, bản tánh vui vẻ, thuận hành chánh pháp, thích ca múa thọ lạc, thích đến chùa hoặc đến ao sen, sông suối, được vua, quan và những người giàu có kết bạn, được bà con anh em yêu mến, tâm ngay thật không nói dối, những người tốt thích kết giao, không mất oai nghi, đủ mọi công đức, thân đủ các căn. Người này được như vậy là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Dạ-ma. Dùng văn tuệ biết cõi ấy có trụ xứ tên là Tích phụ. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người tốt luôn sợ nghiệp quả, tâm ngay thật, chánh kiến không tà vạy, thực hành chánh nghiệp, xa lánh bạn ác, luôn niệm Phật, Pháp, Tăng, sợ từng nghiệp nhỏ, không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm. Khi đi đường gặp người nữ ca múa, không tham đắm, không nghĩ nhớ, suy xét kỹ, không có tâm ác, không tham lạc, thấy người có tội tâm không phân biệt, không tà dâm. Sau khi chết được sinh lên trụ xứ Tích phụ của cõi trời Dạ-ma thuộc đường lành. Ở đây vị ấy luôn thọ hưởng diệu lạc, thân thể sáng rực, hưởng cảnh giới năm dục. Cõi đó có núi tên Tụ tích, cây bằng bảy báu, chim chóc vui nhộn đủ loại xinh đẹp, ca hót rất hay ai thấy cũng thích. Cõi ấy có đủ mọi màu sắc, hình dáng đẹp, có ao sen sông suối, có nhiều loại cây ức niệm, cành cây che rợp thành nhà, đủ loại hoa trái. Núi ấy rộng ba trăm do-tuần, các Thiên nữ Thiên chúng vây quanh. Khắp nơi cõi ấy đều xinh đẹp. Trong núi ấy phân thành những nơi khác nhau cho Thiên chúng ở. Giữa bảy góc có bảy gian nhà cây cối xen tạp. Nơi nào cũng có bảy báu. Bảy báu làm thành một gian. Ngọc báu xanh ở mỗi gian sáng rực cả sáu vạn dotuần, làm cho cả hư không đều có màu xanh. Khi Thiên tử muốn lên núi thì lấy ngọc báu trang sức thân, đi trên gian nhà ngọc báu xanh của núi ấy rồi bay lên hư không. Lúc ấy ngọc báu trang sức trên thân mất ánh sáng, nó cùng một màu xanh với ngọn núi. Màu xanh, ánh sáng xanh rất đẹp. Gian thứ nhất của núi Tụ Tích bằng báu xanh như vậy. Gian thứ hai lại bằng pha lê, nếu Thiên chúng đi trên gian này thì ánh sáng ngọc báu trên thân biến mất, chỉ có màu pha lê như núi, ánh sáng cũng vậy, giống như đi vào ao nước. Gian thứ ba của núi này toàn bằng bạc, ánh sáng màu sắc soi đến năm trăm do-tuần, ai thấy cũng thích. Chư Thiên đi trên đây thì toàn thân sắc trắng, đó là do sức mạnh ánh sáng của gian này. Gian thứ tư của núi này toàn bằng vàng Diêm-phù-na-đề, ánh sáng màu sắc như mặt trời, ánh sáng phóng ra ấy tròn khắp cả ngàn do-tuần. Chư Thiên đi trên đây thì toàn thân sắc đỏ. Gian thứ năm của núi này toàn bằng báu Bátđầu-ma, khắp nơi đều nhuộm màu đỏ, ánh sáng chiếu đến ngàn dotuần, chư Thiên do trên đây thì toàn thân sắc đỏ. Nếu trang sức báu đỏ thì màu đỏ đó biến mất, toàn thần đỏ rực, đó là do sức mạnh ánh sáng của gian này. Gian thứ sáu toàn bằng kim cương, ánh sáng chiếu khắp năm ngàn do-tuần. Từ góc gian nhà ấy phóng ra sắc như cầu vồng, chư Thiên đi trên đây thì toàn thân đều có màu sắc như gian nhà này, đó là do sức mạnh của ánh sáng. Gian thứ bảy toàn bằng bảy báu, ánh sáng chiếu đến trăm ngàn do-tuần, chư Thiên đi trên đây thì màu sắc của y phục, đồ trang sức đều rực lên.

Núi Tụ tích này có mọi công đức thù thắng như vậy. Ánh sáng ngọc báu của núi chúa Tu-di không bằng được một phần trong trăm ngàn phần nơi ánh sáng ngọc báu của núi này. Vì sao núi ấy có công đức thù thắng như vậy? Vì nghiệp thiện. Ánh sáng núi ấy cũng thù thắng như vậy. Cõi Dạ-ma do nhân là tịnh giới của nghiệp thiện tối thượng nên núi đẹp. Núi này có lưới báu giăng khắp bên trên, trong suốt, ai thấy cũng được lợi ích. Núi này có thành lớn tên Như ý niệm được trang trí bằng chân châu anh lạc, ánh sáng chiếu khắp mọi nơi, có nhiều loại chim tên Tạp anh lạc đậu trên lưới. Khi chư Thiên sống phóng dật, chim ấy hót kệ để khuyên họ:

Do các nghiệp làm nhân
Được thọ thân cõi trời
Lại không biết chánh pháp
Sau sinh tâm hối hận.
Vườn rừng này đáng yêu
Lan can lại xinh đẹp
Thân sống ở nơi này
Là quả báo nghiệp lành.
Người nào, tạo nghiệp gì
Nghiệp ác hay nghiệp thiện
Khi nghiệp nhân đã thành
Quả báo cũng như vậy.
Chư Thiên đã thấy được
Hoan lạc thượng, trung, hạ
Người nào tạo nghiệp gì
Sẽ được quả như vậy.
Người sống bằng ngu si
Chạy đuổi theo si dại
Bị ngu si mê hoặc
Không thấy nổi sợ lớn.
Kẻ ngu si phóng dật
Không làm lợi cho mình
Tham đắm mọi dục lạc
Mong cầu được quả vui.
Chư Thiên bị si che
Không tạo các nghiệp thiện
Thiên tham nhiều quả ái
Không chịu giữ giới cấm.
Ví như bỏ ngọn đèn
Lại muốn giữ ánh sáng
Thiên tử ấy cũng vậy
Bỏ nhân lại cầu quả.
Nếu tạo nhân cầu quả
Sẽ được hưởng diệu lạc
Không nhân sao có quả
Không đèn đâu ánh sáng.
Bỏ giới không sinh Thiên
Lìa trí không giải thoát
Người đã được giải thoát
Thì không mong cầu gì.
Người trừ bỏ ái dục
Bằng tuệ, biết vô ngã
Những nghiệp được dục lạc
Tất cả đều nhơ, trược.
Hoan lạc của diệt tận
Không có một bợn cấu
Không được lạc diệt tận
Nhất định là nhơ uế.
Trải qua trăm ngàn kiếp
Không biết chán cảnh giới
Vì tham lạc cảnh giới
Không bao giờ biết đủ.
Luôn gần gũi dục vọng
Càng lúc càng tăng trưởng
Dục vọng như chất độc
Sau chịu nhiều đau khổ.
Dục phá hoại tất cả
Luôn làm nhân thoái đọa
Ai không bỏ được dục
Thật là kẻ biếng nhác.
Ai biết được phước tội
Là người có trí tuệ
Người không biết phước tội
Chính là kẻ ngu si.
Ai biết tướng công đức
Thì biết rõ về tội
Biết rõ tội và phước
Luôn luôn hưởng hoan lạc.
Cảnh giới tội và phước
Người lành biết dục này
Chư Thiên sao bỏ trí
Thọ hưởng cảnh giới lạc.

Ở trong lưới chân châu chim ấy hót kệ tạo lợi ích cho chư Thiên. Quanh núi ấy lại có vòng ánh sáng các vật xoay tròn giống như cầu vồng ở cõi Diêm-phù-đề. Thấy tướng này nếu Thiên tử nào vui mừng thì trên thân cũng có vòng sáng ấy. Thấy những gian nhà như vậy chư Thiên vui mừng trang sức vật báu vui chơi thọ lạc ở đó. Nhờ tu tập nghiệp thiện thù thắng nên thọ lạc như vậy. Trong cung điện của núi ấy có bốn khu rừng như lầu của núi Tu-di. Đó là bốn khu rừng: Đoan chánh, Trang nghiêm, Phong lâm, Cam lồ đoan nghiêm, Chủng tạp. Lại có sông suối, ao sen, khe núi, chim chóc vui nhộn, hoa cây nở rộ, lầu gác, cung điện thẳng hàng. Lại có núi tên Nhất thiết bố thí rất đẹp. Đến núi này rồi mới đến khu rừng kia giống như cõi Vân du hành. Thiên tử, Thiên nữ hưởng diệu lạc nơi công đức của năm dục. Khu rừng ấy xinh đẹp nhất, toàn bằng báu Diêm-phù-đề, lá cây bằng lưu ly, hoa bằng xa cừ, xích liên hoa. Khu rừng thứ hai toàn bằng bạc, lá màu vàng ròng, hương hoa thơm dịu xông cả trăm do-tuần. Chư Thiên ngửi được càng vui vẻ hơn. Khu rừng thứ ba toàn bằng lưu ly, lá bằng bạc, hoa đủ màu và mùi thơm. Khu rừng thứ tư toàn bằng tạp bảo đủ màu sắc. Trong rừng có sông suối, ao sen, chim chóc nhộn nhịp, đủ trăm ngàn công đức như cõi trời Tam thập tam thứ hai của Đế Thích. Cõi này có đủ ánh sáng oai lực công đức. Trong núi có vô số người nhiều nghiệp thiện được trăm ngàn Thiên chúng vây quanh, thọ hưởng diệu lạc cảnh giới đầy đủ công đức. Thiên tử cõi này có thần thông, ánh sáng, thế lực thù diệu là do nghiệp thiện hóa sinh đủ cảnh giới nơi công đức của năm dục, sáu căn luôn thọ nhận lạc. Trong cõi Dạ-ma vị này hơn hết, đó là do nghiệp thiện. Trong núi có chim tên Nhất thiết thời thường hoan hỷ.

Nhờ khẩu nghiệp hợp với ý muốn, chim ấy hót kệ:
Không tâm niệm trí tuệ
Cũng chẳng có mong cầu
Chỉ nghiệp mới được lạc
Lạc do nghiệp có được.
Thù thắng trong thù thắng
Đáng yêu giữa đáng yêu
Quả báo lành giữ giới
Do con người làm ra.
Cửa cảnh giới lay động
Như thác giữa dòng sông
Ai điều phục được tâm
Vị ấy sống an lạc.
Tự tạo nghiệp phước đức
Chính mình gắng tu tập
Hưởng vui hay chịu khổ
Đều tự mình lãnh lấy.
Những kẻ tạo nghiệp ấy
Thân mình như kẻ thù
Thân lành như bạn tốt
Tự mình làm như vậy.
Như dòng nước chảy xiết
Thân thay đổi cũng thế
Vì vậy phải tạo phước
Giữ giới không nhơ uế.
Tâm thích việc bất thiện
Luôn tham cảnh giới lạc
Như làm việc vô ích
Trong những chỗ tối tăm.
Cảnh giới lạc thay đổi
Luôn chạy theo dục vọng
Ai có tâm phi pháp
Chịu đủ các khổ não.
Khổ chính là nghiệp ma
Pháp lạc cũng có khắp
Những tướng khổ lạc này
Người trí đều biết rõ.
Những ai mong được lạc
Hãy tùy thuận pháp hành
Kẻ nào muốn chuốc khổ
Tâm làm việc phi pháp.
Không nhân không được lạc
Các khổ não cũng thế
Nhân khổ vui sai khác
Hãy biết tự lợi mình.
Do phân biệt sai khác
Nên có vô số loại
Do tất cả nghiệp quả
Mà có sự sinh tử.
Nếu không tham pháp lạc
Bỏ phí cả một đời
Pháp đưa đến cõi trời
Thực hành pháp được vui.
Chánh pháp cứu giúp được
Chính là khéo biết đủ
Không chánh pháp, không thiện
Chắc chắn đọa địa ngục.
Người trí thà bỏ thân
Chứ không sống phi pháp
Ai trừ bỏ chánh pháp
Lưu chuyển trong sinh tử.
Bỏ đôi mắt chánh pháp
Là do si che tâm
Thích giả dối vô ích
Như mắt bệnh thấy vui.
Mầm pháp với ruộng tâm
Không tâm pháp chẳng sinh
Giữ giới bằng ngu độn
Luôn làm việc phi pháp.
Nương theo đạo phi pháp
Làm những việc chẳng lành
Trôi mãi trong sinh tử
Bị tâm làm mỏi mệt.
Tâm này trong từng niệm
Thay đổi mãi không ngừng
Thể của tâm nhạy bén
Như thành Càn-thát-bà.
Ai kềm chế tâm ý
Giữ giới bằng trí tuệ
Sức mạnh không buộc được
Lưu chuyển vô số kể.
Cảnh giới dục lạc nhiều
Đều do ái sai khiến
Nên mê hoặc chư Thiên
Luôn sống trong phóng dật.
Không biết bị thoái đọa
Chết sẽ không còn gì
Tất cả đều vô thường
Cuối cùng nào có vui.
Diệu lạc của cõi trời
Chư Thiên ngu không biết
Ngu si sống phóng dật
Tham dục lạc như thế.
Chư Thiên vì ngu si
Trôi lăn trong sinh tử
Trước không sau lại có
Đã có rồi lại không.
Chư Thiên phải thoái đọa
Pháp thế gian là vậy
Chỉ có người trí tuệ
Không tham lạc thế gian.

Chim ấy đi trong núi hót kệ hợp với chánh pháp, chư Thiên nào đã từng tạo nghiệp lành khi nghe lời này thì thâu giữ tâm ý, còn chư Thiên chỉ tạo nghiệp lành trong một hai đời thì dù nghe lời này vẫn không biết được một câu. Vì vậy hãy siêng năng làm lợi ích, tu tập trí sáng, ngoài pháp này không ai cứu được, không có thuốc nào bằng trí này ngăn chận hết mọi đường ác, chính là nhân của diệu lạc. Người trí thích chánh pháp, suy xét thật đúng rồi tu tập tâm ý. Người tu trí sẽ có đủ công đức hòa hợp tương ưng, cứ như vậy dần đạt Niếtbàn. Nghe tiếng chim chư Thiên tạm rời phóng dật trong thời gian ngắn, Thiên tử lại vui chơi thọ lạc theo công đức của năm dục trong núi rừng báu sáng này. Đến khi nghiệp thiện hết, vị ấy bị thoái đọa, theo nghiệp lưu chuyển, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu được sinh trong cõi người thì suốt đời luôn hưởng an lạc, có quyền lực, không lệ thuộc người khác, giàu có, luôn thích trí tuệ, xinh đẹp, mọi người thích nhìn và kính trọng, sinh trong nước giàu có, đông đúc. Dù ở kinh thành hay ở chỗ dân giã vẫn luôn được bà con anh em cung cấp nuôi dưỡng, hoặc được làm vua, quan, tâm ngay thật, thực hành chánh pháp, không tà kiến là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các trụ xứ cõi Dạ-ma. Dùng văn tuệ biết cõi này có trụ xứ tên Tích phụ. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người tạo nghiệp lành, siêng năng giữ giới, không não hại người khác, giữ mọi giới không thiếu, không thiếu sót, bền chắc không hư hoại, đóng cửa đường ác, dập tắt sự nóng bức cõi ác, làm chỗ dựa cho mọi người như cha mẹ, đời sau tùy thuận thực hành ba loại công đức: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm. Không sát sinh, không trộm cướp đã nói ở trước. Không tà dâm: Khi đi đường, ở ngã tư hoặc trong hẻm, đi khất thực hoặc đi công chuyện khác, thấy phụ nữ xinh đẹp, ca hát rất hay nhưng không sinh tâm tham ái. Không ham thích, không vui với người khác làm việc ấy, mừng khi thấy họ làm việc lành, khuyên họ sám hối, nói lỗi phụ nữ: Phụ nữ là nhân ác số một, do tà hạnh chúng sinh bị đọa vào địa ngục. Người này giữ giới thanh tịnh, phạm hạnh, sau khi chết sinh lên trụ xứ Tích phụ. Nhờ nghiệp thiện, vị ấy ở đây thọ hưởng diệu lạc. Núi Tích phụ rộng năm trăm do-tuần, tiếng chim hót rất hay, âm thanh đáng yêu vang vọng khắp nơi. Thiên tử sinh dưới gốc cây bảy báu. Ví như người ngủ say nghe tiếng vỗ tay thức giấc. Thiên tử ấy nghe tiếng chim hót chợt tỉnh. Thân Thiên tử này phóng ánh sáng hơn cả mặt trời mùa thu mọc trên đỉnh núi, ánh sáng mặt trời không bằng một phần. Thiên tử thức giấc, nhờ nghiệp thiện, chim hót kệ tương ưng với nghiệp lành:

Thoát khỏi lưới thân thể
Nơi phân, tiểu, nhơ uế
Thân người nữ như vậy
Nên sinh đến cõi này.
Người nữ không ngay thật
Thấy người nam vui mừng
Tâm mê mờ không định
Vì không biết nên gần.
Dối gạt cả mọi người
Trang sức làm người mê
Người phụ nữ khéo léo
Dối gạt cả người nam.
Phụ nữ giống như ong
Ham thích các loại hoa
Luôn sinh tâm yêu thích
Tất cả những người nam.
Như ong hút mật hoa
Sau lại đi nơi khác
Người nữ cũng như vậy
Thương yêu rồi bỏ đi.
Được vật như bạn tốt
Sân hận không điều phục
Dối gạt những người nam
Rồi bỏ đi nơi khác.
Với phương tiện dối gạt
Chẳng khác gì chất độc
Người nữ giết người nam
Thường làm việc bất lợi.
Như lửa đóm hư không
Chẳng thể nắm bắt được
Dù tìm đủ mọi cách
Không ngăn được người nữ.
Làm những việc bất thiện
Không lợi ích, bệnh, chết
Người nữ là nhân duyên
Hủy hoại đạo Niết-bàn.
Ở tất cả mọi nơi
Nguy hiểm và lo sợ
Người nam chịu đau khổ
Đều là do người nữ.
Già, trung niên, thiếu niên
Đều không được tịch tĩnh
Tâm người nữ luôn động
Như ánh sáng mặt trời.
Người nữ thường đổi bạn
Như ánh đèn chao động
Luôn luôn là kẻ thù
Giống như khắc trên đá.
Chỉ gần kẻ giàu sang
Nghèo hèn là xa lánh
Của nhiều thì gần gũi
Không của lại lánh xa.
Cung cấp mọi vật dụng
Và phục vụ đủ cách
Tâm giống như ngọn lửa
Không thể nào nắm bắt.
Người nam tùy thuận theo
Mọi dục vọng người nữ
Những người nữ như vậy
Luôn dối gạt người nam.
Như hoa che rắn độc
Lại như tro lấp lửa
Sắc đẹp che lấp tâm
Người nữ cũng như vậy.
Ví như thấy cây độc
Đẹp mắt nhưng rất hại
Người nữ như hoa độc
Người trí hãy xa lánh.
Mong cầu gặp người nữ
Lại tham đắm cảnh giới
Kẻ ấy không được vui
Không đời này đời sau.
Ham thích sống phóng dật
Biếng nhác lại dối gạt
Gần bạn ác tham ăn
Chẳng thích gần hiền thiện.
Siêng năng sức dũng mãnh
Phước đức bỏ người nữ
Cung kính tin nhân quả
Người này được thiện lợi.
Người phụ nữ trói buộc
Sống ở thế gian này
Xa lánh được người nữ
Sinh lên cõi Dạ-ma.

Nghe tiếng chim hót như trong giấc mộng với những thứ xinh đẹp, lời kệ này lợi ích cả hai, Thiên tử mới sinh phát trí tuệ. Nhờ trí tuệ Thiên tử nhớ được mình từ đâu đến đây, nhờ giữ ba giới lành.

Sau đó, Thiên tử nói kệ:
Nhờ trì giới sinh Thiên
Không bỏ được người nữ
Người dũng xa người nữ
Đến được thành Niết-bàn.
Không thể dùng lửa dao
Cưa để đốt, chặt, xẻ
Cắt được dây người nữ
Không phương cách nào khác.
Xưa ta từng xa lánh
Siêng tu nên đến đây
Vì xa lánh được lạc
Cõi Dạ-ma thù thắng.
Ngoài những dục lạc ấy
Còn có lạc lớn hơn
Phải đạt nơi bất thoái
Nhất định được Niết-bàn.

Nghe tiếng chim, thấy hình chim, Thiên tử mới sinh vui mừng quan sát cõi trời, thấy núi Tích phụ có vô số trăm ngàn cây cối ánh sáng bao quanh, sông suối xinh đẹp, nghe tiếng chim hót, thấy chim báu, ao sen xinh đẹp, từng bầy ong rộn rã bay ra. Những thứ đó trước kia vị ấy chưa từng thấy, không gì sánh bằng. Quan sát là biết được, Thiên tử vui mừng rời khỏi gốc cây. Lại quan sát thân mình, ánh sáng oai đức thù thắng mà sinh tâm kiêu ngạo, lại sinh tâm kiêu ngạo thứ hai, nghĩ rằng: Không ai bằng ta, ta muốn gì đều được. Từ tâm kiêu mạn thứ hai lại sinh năm tâm kiêu mạn khác, năm căn tham đắm năm cảnh giới. Do sinh bảy tâm kiêu mạn mà phá hết những việc từ trước, không còn hiện nữa, không nhớ gì cả. Vì tâm động, vì phóng dật nên bị lưới cảnh giới trói buộc, lập tức leo lên núi Tích phụ thọ lạc. Núi ấy có ba cõi thượng, trung, hạ. Trong cõi hạ có năm khu rừng:

  1. Hương phiêu.
  2. Diệm thắng.
  3. Quang minh.
  4. Thường lạc.
  5. Cao tụ.

Mọi vật trong rừng Hương phiêu đều thơm phức, hương ấy xông khắp năm ngàn do-tuần. Mọi màu sắc trong rừng Diệm thắng đều sáng rực hơn cả trăm ngàn mặt trời. Chư Thiên xinh đẹp đi trong rừng Quang minh đầy đủ về công đức của năm dục. Rừng Thường lạc có nhiều sông suối đủ trăm ngàn hương vị sắc. Rừng Cao tụ có một núi cao bằng bảy báu sáng rực. Đã nói xong vườn rừng ở cõi hạ. Cõi trung có trăm ngàn đồng trống, vô số bảy báu, ao sen, chim đẹp, âm thanh, xúc vị sắc hương thanh tịnh không nhơ. Cõi thượng có đỉnh núi, có thành rộng trăm do-tuần, chư Thiên ở trong đó. Thành ấy tên là Bảo lâm, có những dòng sông sinh ra thức ăn uống, cây cối sum suê, hoa trái, ao sen xinh đẹp. Có vô số trăm ngàn Thiên nữ xinh đẹp vui chơi. Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà đến thành này thọ hưởng diệu lạc theo công đức của năm dục, đầy đủ sắc thanh hương vị, lửa ái hừng hực. Thiên tử ấy vui chơi thọ lạc trên núi Tích phụ, thọ hưởng dục lạc theo cảnh giới khác nhau. Vì tâm tham cầu cảnh giới dục lạc nên Thiên tử mới sinh một mình đến núi ấy. Có một Thiên tử trú ở chốn cũ thấy vậy, vui mừng đến trước Thiên tử mới sinh, giới thiệu với chư Thiên trú ở chốn cũ khác: Đây là Thiên tử mới sinh.

Chư Thiên trú ở chốn cũ hỏi: Vì sao ông biết mới thọ sinh? Vị ấy đáp: Thiên tử mới thọ sinh này có năm tướng:

  1. Ánh sáng che thân, thân không có y phục, tâm nghĩ: đừng để chư Thiên khác thấy ta lõa thể. Ngay lúc đó chư Thiên thấy vị ấy có y phục, nhưng kỳ thật là không có y phục.
  2. Nhìn thấy vườn rừng vị ấy ngạc nhiên vì chưa từng được thấy, bây giờ thấy nên nhìn ngắm khắp nơi.
  3. Thấy Thiên nữ xấu nên nghi ngờ chưa dám nhìn chính diện.
  4. Thấy Thiên tử khác tuy gần gũi, tâm vẫn sinh nghi ngờ, ý chí không định.
  5. Muốn bay lên hư không nhưng lo sợ, bay không cao không mau, đi không xa chỉ đi gần như vào thành ấp và những nơi phụ cận.

Chúng ta hãy đến chỗ Thiên tử mới sinh. Bấy giờ, các Thiên tử đến chỗ Thiên tử mới sinh nói: Đại tiên ông nên biết! Chúng tôi thấy ông mới thọ sinh nên đến đây. Nhờ nghiệp thiện, tu học các giới không hủy phạm, không thiếu sót, không rơi rớt, lìa cấu, thanh tịnh nên được sinh ở đây. Dù chư Thiên nói vậy nhưng vì phóng dật họ lại leo lên núi, bay lên hư không, vui mừng thọ lạc. Thấy việc ấy, Thiên tử mới sinh tự nghĩ: Ta hãy một mình lên núi. Lập tức vị ấy lên núi. Thấy Thiên chúng, Thiên nữ trang sức xinh đẹp, trổi nhạc ca múa. Thiên nữ thấy Thiên tử mới sinh thì vui mừng đến trước Thiên tử, họ ngạc nhiên quan sát kỹ, lại nghĩ: Chúng ta nên cung phụng hầu hạ, nên làm vợ Thiên tử này. Họ lại đến bên Thiên tử, vì chưa từng thấy nên họ thán phục thưa: Chúng tôi rất thích nhìn, chúng tôi đến với Thiên tử. Hôm nay nhờ nghiệp thiện của mình nên cùng chúng tôi thọ lạc. Có các vườn rừng, núi non, khe suối, lại có những chỗ khác bằng bảy báu sáng rực, cây cối sum suê, mọi nơi đều có phòng ốc. Trong những phòng ốc vang ra tiếng nhạc. Mặt đất có màu dung kim, chúng ta ở đó hưởng lạc. Lại có sông suối ao sen xinh đẹp, trong hư không có trăm ngàn phòng ốc đáng yêu, chúng tôi cùng Thiên tử ở đó thọ lạc. Nhờ nghiệp thiện Thiên tử mới sinh nói: Ta sẽ cùng các ngươi thọ lạc. Cõi này có tất cả dục lạc để thọ hưởng không chán. Khi ấy các Thiên nữ lại đến rừng Tạp điện. Ở đó có những âm nhạc nghe rất vui tai. Nhờ thành tựu nghiệp thiện nên hưởng quả báo của nghiệp. Rừng này có những nơi thắng cảnh đủ sắc hương vị xúc. Mặt đất mềm mịn, y phục trơn nhẵn không dệt bằng sợi tơ. Có các loài chim hót rất hay. Thiên tử cùng Thiên nữ xinh đẹp thọ hưởng diệu lạc theo cảnh giới của năm dục. Rừng ấy có vô số công đức, thấy vậy Thiên tử, Thiên nữ ngạc nhiên đi khắp mọi nơi. Rừng ấy toàn bằng các vật báu xa cừ, ngọc xanh… Lại thấy có nơi toàn màu xanh, chim chóc từng đôi trống mái sắc thân bằng bảy báu bay nhảy hưởng lạc ở đó, hót tiếng rất hay. Lại thấy trong ao nước có nhiều chim uyên ương, thiên nga, vịt trời đủ màu sắc hót hay. Lại thấy Thiên tử và Thiên nữ vui chơi trong rừng ấy, sáu thời luôn có hoa nở, cây cối đua nhau nở hoa một lúc, có lúc phóng ánh sáng, có lúc không phóng ánh sáng ví như nhắm mở mắt. Thấy vậy Thiên tử, Thiên nữ đều vui vẻ. Lại thấy có nơi khác đủ màu sắc nên tâm động. Vì tâm động nên tham dục. Nhìn lên hư không thấy trăm ngàn Thiên nữ trang sức xinh đẹp ở khắp nơi, ví như màu sắc vẽ trên vách, tơ, lụa, họ vui chơi ca múa ở khắp nơi. Thấy vậy Thiên tử động tâm, phân biệt mọi thứ. Sau đó lại thấy ao sen đủ các loại hoa hình dáng, màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng khác nhau, có nhiều chim. Quan sát xong, Thiên tử vui mừng, thấy mọi nơi dù trong nước hay trên hư không đều có chim và Thiên chúng dẫy đầy như bụi trần, chẳng có nơi nào trống. Nhờ sức của nghiệp thiện, Thiên tử nói kệ:

Dù thấy cả biển lớn
Vẫn không thể thỏa mãn
Lưỡi tham vị cũng thế
Không bao giờ biết đủ.
Mũi tham ngửi hương thơm
Cũng chẳng biết nhàm chán
Thân xúc chạm đủ thứ lớp
Nào biết đủ bao giờ.
Tai thích nghe tiếng hay
Vẫn không hề biết đủ
Ý nghĩ nhớ các pháp
Chẳng biết đủ bao giờ.
Chuyển động trong sáu cảnh
Xa ánh sáng tri túc
Khát ái nên đi mãi
Cảnh dục rộng mênh mông.
Chư Thiên không biết đủ
Như thêm củi vào lửa
Nếu không biết nhàm chán
Bản thân không dừng yên.
Sáu ngọn lửa độc ác
Bị gió niệm thổi động
Luôn thiêu đốt thế gian
Kẻ si không hề biết.
Chư Thiên có phóng dật
Không tu tập chánh pháp
Vì phóng dật, phá giới
Vào cảnh giới thọ lạc.

Nhớ được nghiệp mình, nói kệ xong nhưng Thiên tử lại tham đắm cảnh giới, ham thích xúc hương vị sắc đầy đủ công đức, luôn tăng trưởng vì vậy cùng các Thiên nữ vui chơi khắp nơi hưởng diệu lạc theo công đức của năm dục rồi cùng Thiên nữ vui chơi ở vườn khác. Trong núi có vô số trăm ngàn chim bảy báu hót tiếng rất hay. Ở đó, Thiên tử lại cùng Thiên chúng, Thiên nữ thọ hưởng dục lạc, cùng thăm hỏi nhau, đồng lòng vui chơi thọ lạc. Những Thiên tử yếu kém thì có vạn Thiên nữ vây quanh luôn hưởng lạc không biết chán. Thiên nữ vui chơi hưởng lạc cung phụng các Thiên tử bằng dục vọng và luôn tham ái dục lạc. Vì sao cõi ấy có nhiều người nữ ít người nam? Vì cõi này dục nhiễm quá nhiều, ngu si đầy dẫy. Người sinh lên cõi này chỉ trong chốc lát đã thấy vô số Thiên nữ. Do thấy vậy, tâm dục tăng trưởng, tham đắm Thiên nữ rồi ôm lấy. Vì tham lạc, vì tâm nắm bắt nên thọ thân người nữ. Vì vật cõi ấy có nhiều người nữ ít người nam. Có Thiên tử thì được một vạn Thiên nữ, có Thiên tử được hai vạn Thiên nữ, ba, bốn, năm, sáu vạn Thiên nữ. Cứ vậy, có Thiên tử được trăm ngàn vạn Thiên nữ hoặc có vị được nhiều hơn nữa. Các Thiên nữ nhiều ít sai khác như vậy, họ hành dục, theo pháp của địa thiên như cõi người chẳng khác. Dục vọng ở cõi Tứ Thiên vương cũng như cõi người, nam nữ phải giao hợp nhau, tiếp xúc nhau nhưng không bất tịnh. Chư Thiên cõi trời Tam thập tam khi hành dục thì ôm nhau, nhưng hai căn không tiếp xúc nhau. Chư Thiên cõi Dạ-ma chỉ cần cười nói nhau là thành dục. Chư Thiên cõi Đâu-suất thì nhìn nhau là thành dục. Chư Thiên cõi Hóa lạc thì nghe tiếng nói, ngửi hương thơm là thành dục, dù cách xa nhưng chỉ nghe tiếng, ngửi hương là đủ dục vọng. Chư Thiên cõi Tha hóa cũng giống cõi Hóa lạc. Thiên tử nào được các Thiên nữ yêu thương kính trọng là vì tâm không mỏi mệt, không bệnh hoạn, thân thể không có vi trùng nhơ uế, hòa hợp tương ưng với chư Thiên bằng sức tăng thượng, luôn khỏe mạnh, ánh sáng rực rỡ. Vì vậy mỗi Thiên tử được vô số trăm ngàn Thiên nữ thương yêu luôn hành dục. Thiên tử thì không thương yêu riêng một Thiên nữ nào mà thương yêu hết các Thiên nữ, tha hồ đi lại, vì dục vọng nên cùng nhau hưởng lạc, không gây hại nhau, một lòng yêu mến nhau. Lại có Thiên tử khác cùng Thiên nữ tùy ý hành dục, phân biệt đủ loại như chư Thiên khác. Ở cõi Tích phụ vui chơi thọ lạc theo công đức của năm dục một thời gian lâu, lại cùng Thiên chúng, Thiên nữ đến rừng Nghiêm phong để vui chơi thọ lạc. Thấy Thiên tử khác hết nghiệp lành ở trong Thiên chúng sắp bị thoái đọa. Lúc ấy có những tướng hiện ra như bệnh, nếu vị ấy ở trước hoa sen thì hoa không nở, đó là tướng thứ nhất. Nếu vị ấy đến ao sen, rừng cây thì loài ong bỏ đi, đó là tướng thứ hai. Khi Thiên tử vui chơi cùng Thiên nữ nghe tiếng hò ca thì chán ghét, đó là tướng thứ ba. Khi Thiên tử đến rừng cây thì hoa bị héo, đó là tướng thứ tư. Thiên tử chỉ vui chơi trên cung điện mà không thể bay lên hư không, đó là tướng thứ năm. Chư Thiên cõi Dạ-ma sắp bị thoái đọa thì có những tướng ấy. Chư Thiên cõi trời Tam thập tam thứ hai khi bị thoái đọa thì có những tướng trạng như ruồi nhặng bám vào thân, thân xuất mồ hôi. Chư Thiên cõi Dạ-ma khi nghiệp thiện hết, có những tướng này hiện ra thì biết sắp thoái đọa. Có mười hai tướng chết hiện ra:

  1. Thiên tử ấy muốn phóng ánh sáng thì ánh sáng không hiện ra, mà lại đi vào thân như mặt trời lặn.
  2. Thiên tử thấy hoa trái mà không tham.
  3. Hoa trên đầu Thiên tử bị rơi.
  4. Thiên tử soi vào nước thấy mình chẳng giống chư Thiên, lại thấy cõi mà mình sắp thọ sinh: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và cõi người. Thấy mình ở đây bị thoái đọa sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
  5. Nhìn thấy vậy Thiên tử lo sợ dựng cả lông tóc.
  6. Thiên tử thấy cõi mình ở rất xấu.
  7. Thiên tử ngồi ở trong những cõi bằng lưu ly, vàng, bạc, pha lê, báu xanh lại bị lay động không yên.
  8. Thiên tử bị gió thổi càng lúc càng mạnh như bị roi đánh.
  9. Thiên tử mặc y phục như kim cang… Thấy vậy Thiên tử buồn bã không còn ham thích sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng yêu nữa. Đến lúc này, Thiên tử đã gần lửa vô thường.
  10. Thiên tử soi trên vách lưu ly, vách đá hay trong gương thấy mình không có đầu.
  11. Thiên tử thấy đầu mình ở trên đất. Thấy như vậy là sắp chết. Các Thiên nữ thấy thế chán ghét lánh xa, Thiên tử sầu khổ vì chia ly, khổ thọ sinh không bằng một phần mười sáu khổ này.
  12. Tâm ý tán loạn bất định như vòng lửa, không chú ý đến một cõi nào, tâm luôn dao động, sầu khổ vì phải thoái đọa. Mạng căn sắp mất, như đèn hết dầu ánh sáng yếu ớt. Đến lúc này, Thiên tử ấy biết mình sắp thoái đọa. Các Thiên nữ thường theo hầu hạ thấy vậy cũng lánh xa, như cây bị cháy chim chóc bỏ đi không thèm nhìn quan sát những công đức trước kia, các Thiên nữ thấy Thiên tử sắp thoái đọa cũng thế, họ tránh xa, theo hầu Thiên tử khác. Thấy Thiên nữ bỏ đi, Thiên tử ấy an lòng nhẫn nại, nói kệ:

Tất cả đều do nghiệp
Hưởng quả báo tương xứng
Thiên nữ biết sắp chết
Tránh xa không gần gũi.
Vì nghiệp thiện đã hết
Bỏ sau mọi hoan lạc
Thiên nữ thấy thiên đọa
Sẽ đi đến vị khác.
Dục lạc ấy vô thường
Tâm tánh cũng như vậy
Người nữ, tham dục: ác
Không tin nhau, cũng ác.
Bốn loạn khổ lớn này
Luôn luôn dằn vặt ta
Vì vậy hãy tránh xa
Như bỏ độc, tránh lửa.
Do nghiệp được diệu lạc
Do nghiệp nên chịu khổ
Chính vì nghiệp hủy hoại
Vì nghiệp nên xuất hiện.
Chư Thiên hưởng diệu lạc
Và công đức năm dục
Sau nghiệp thiện chấm dứt
Thoái đọa mất uy lực.
Tất cả sự sinh tử
Đều là do nghiệp huyễn
Đạo giải thoát Phật dạy
Chính là bốn chân đế.
Chính vì tâm nhiễu động
Nên không thấy lỗi lầm
Bị ngu si thu phục
Nên gần gũi người nữ.
Mặt trời không làm tối
Lửa cũng không làm lạnh
Người nữ chẳng yêu thương
Thương ít luôn thay đổi.
Việc này vững như đất
Như gió động, không ngừng
Người nữ không biết ân
Nên có lỗi như vậy.
Người nam dù nhiều năm
Cung phụng cho người nữ
Suy yếu sẽ bị bỏ
Như chim bỏ ao khô.
Bay lên không rơi xuống
Đá nặng chẳng bay được
Núi cũng không đi được
Nữ là bạn không tốt.
Luôn luôn là chướng ngại
Phá bỏ những chánh pháp
Bên trong không lợi ích
Tạo ra tất cả lỗi.
Kim cang có thể mềm
Mặt trời có thể lạnh
Người nữ luôn dối gạt
Bản tánh là như vậy.
Không lời yêu thương nào
Hay tài vật cung phụng
Mà thâu phục người nữ
Tâm như gần lửa dữ.
Được vui thì đi theo
Gặp khổ sẽ xa lánh
Không nghĩ đến ơn huệ
Tâm luôn tạo tội lỗi.
Hưởng vô lượng dục lạc
Ở trong các vườn rừng
Đến khi bị suy khổ
Người nữ chê, lánh xa.

Thấy Thiên nữ xa lánh mình, Thiên tử suy nghĩ tất cả pháp thế gian đều như vậy nên nói kệ trên. Người nữ tánh cứng cỏi, thấy Thiên tử sắp thoái đọa liền lánh xa gần gũi Thiên tử khác. Ví như mùa đông hoa sen héo, loài ong thấy vậy bay đến nơi khác. Bỏ Thiên tử ấy, Thiên nữ đến chỗ Thiên tử khác trổi năm âm nhạc vui chơi ca múa hưởng lạc trong vườn rừng ao suối, nghe tiếng chim hót dưới rừng cây xinh đẹp quên Thiên tử trước kia cùng thọ lạc với Thiên tử khác giống như cách trăm ngàn đời. Thấy Thiên tử trước thoái đọa, trong nháy mắt đã quên công đức của Thiên tử ấy. Người nữ là vậy, quên hết ân huệ. Tánh của người nữ không luyến ái, chỉ tham tài vật nên gần gũi, hoặc chỉ thỏa mãn sự cần thiết của mình mà gần gũi người nam, bản tánh không dừng yên một nơi nào. Từ quá khứ, vị lai, hiện tại không ai hiểu được tánh của người nữ, vì tâm luôn thay đổi như vòng lửa, như thành Càn-thát-bà, như sóng nắng, không thể nào nắm bắt. Tánh của người nữ là vậy, bỏ Thiên tử thoái đọa để đi đến Thiên tử khác. Nhờ bản nghiệp huân tập, Thiên tử sắp thoái đọa ấy nói kệ:

Chư Thiên tâm dao động
Phóng dật ham dục lạc
Không lo sợ thoái đọa
Nhất định bỏ cõi trời.
Chư Thiên ở cõi nào
Đều phải bị thoái đọa
Như ban ngày đã hết
Thì ban đêm xuất hiện.
Ban ngày như mạng sống
Đêm như sự thoái đọa
Đã biết hai thứ ấy
Hãy nghĩ sự vô sinh.

Thiên tử ấy nghĩ đến đời trước của mình là ví dụ theo thời gian cõi người, không lấy thời gian cõi trời để ví dụ. Vì sao? Vì cõi trời không có ngày đêm, do ánh sáng của chư Thiên nên luôn luôn là ngày. Quan sát như vậy một thời gian, Thiên tử ấy trở lại tướng chư Thiên không còn thoái đọa, hưởng được quả báo của nghiệp thiện. Thiên tử lại vui chơi thọ lạc, nghe năm âm nhạc trong vườn rừng khe suối, ao sen, núi non, cùng các Thiên chúng, Thiên nữ thọ nhận hoan lạc, hưởng quả báo vui theo nghiệp của mình, đến khi nghiệp thiện hết, bị thoái đọa đến đi theo con đường trước, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hoặc được sinh vào cõi người, ở nơi an ổn, tùy thuận chánh pháp, thông minh tài trí, được mọi người yêu mến, hoặc được làm vua, quan. Nếu làm vua thì không sợ nước khác gây chiến, luôn an lạc là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Dạ-ma. Dùng văn tuệ biết cõi ấy có trụ xứ tên là Tâm tướng. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người làm lành, tâm ý chánh trực, chánh kiến không tà vạy, biết rõ nhân quả thiện ác, không sát sinh, không trộm cướp (như đã nói ở trước), không tà dâm: Tâm không nghĩ nhớ, cũng chẳng vui theo, ngay cả tranh vẽ người nữ cũng không nghĩ nhớ, không quan sát, luôn nghĩ điều lành, không thích nhìn, không tham đắm vị, không dùng tâm ái dục quan sát, dạy người đừng làm, mình không làm, không dạy người làm, tự lợi, lợi tha. Người này thoát khỏi phiền não, luôn làm lành, nghĩ đến thân mình, thấy thân nhơ uế, luôn nhớ rõ thân mình, không tham đắm người nữ, thoát khỏi lưới trói buộc của người nữ, xa lánh dục vọng của người nữ, được mọi người tin cậy. Giữ giới, hòa hợp với mọi người thì ngay hiện tại được lạc, lìa dục, không thích, không làm cũng chẳng nghĩ nhớ. Người này dập tắt lửa dục, là người dụng tâm bậc nhất, an vui nhất. Sau khi chết vị ấy sinh lên trụ xứ Tâm Tướng của cõi Dạ-ma thuộc đường lành. Ở đó, tha hồ thọ hưởng diệu lạc, thân sáng, không xương thịt, luôn thọ hưởng diệu lạc theo công đức của năm dục, thành tựu mọi dục lạc, có trăm ngàn Thiên nữ vây quanh như các ngôi sao bao quanh núi Tu-di, thân thể xinh đẹp rực rỡ. Nhờ nghiệp thiện hóa sinh, thân có vầng ánh sáng bao quanh, vô số ánh sáng từ thân hóa ra. Các Thiên nữ vui chơi hưởng lạc, trổi năm âm nhạc, hưởng diệu lạc nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc. Người ấy tự nghĩ: Ta nên đến những chỗ đẹp khác. Nhờ oai lực của nghiệp thiện, ngay lập tức Thiên nữ quan sát tâm người ấy, nói với Thiên tử: Vì sao chúng ta chỉ ở đây? Còn có những nơi vui chơi khác, chúng ta hãy đến núi Thiên điện, trên núi có vô số vật báu, còn có vô số trăm ngàn cõi trời khác, chúng ta hãy đến đó. Như vậy, Thiên tử vui mừng nói: Tùy ý các ngươi, chúng ta sẽ đến đó. Nói xong, Thiên tử bay lên hư không, đến núi Thiên điện. Núi ấy có vô số vật báu, vô số Thiên tử, Thiên nữ, tiếng ca vang khắp năm trăm do-tuần. Trên hư không đầy dẫy Thiên chúng, Thiên nữ ca hát bên đường làm cho Thiên tử này vui vẻ. Đến đó, họ vội vàng leo lên núi. Từ xa, nghe tiếng ca Thiên nữ vọng lại, Thiên tử ngạc nhiên vội đến trước họ. Đến nơi, Thiên tử nhìn thấy vô số cảnh đẹp, ao sen, vườn rừng bảy báu, Thiên tử vui mừng nhìn ngắm hưởng lạc, nghe tiếng suối reo, thấy chim chóc bay lượn lên xuống, xen lẫn trong đó là những dãy dinh thự ngang dọc được trang trí bằng bảy báu rất đẹp, cây cối sum suê, trong hang có nhiều thiên nga, vịt trời, uyên ương kêu rất hay, vô số phướn lọng phất phơ trong gió ai thấy cũng thích. Trong hư không có cung điện di động qua lại, tụ tán, có ánh sáng báu rực rỡ. Họ lại nghe tiếng ca hát của những người khác, nghe những tiếng vui đùa, thấy những khối bảy báu cao thấp xinh đẹp, núi, hoa xinh đẹp đủ hình sắc. Họ chạy nhảy vui chơi, ôm nhau, Thiên tử, Thiên nữ vây quanh trên núi Thiên điện. Họ ở trong hư không, quan sát điện này, vui vẻ bảo các Thiên nữ: Các ngươi có thấy núi Thiên điện này đáng yêu mà mọi thứ đẹp không? Nghe xong, các Thiên nữ thưa: Thiên tử xin hãy biết, tôi đã thấy và đã từng thấy trăm ngàn lần. Thiên tử! Nếu chưa thấy, hãy nhìn kỹ nơi này. Nói xong, Thiên tử cùng Thiên nữ từ hư không bay xuống, gần đến nơi, các Thiên tử đang hưởng lạc ở đây thấy vậy đều vui mừng ra đón, nhìn ngắm Thiên tử mới sinh, vui vẻ nắm tay nhau nói: Thiên tử là bạn của chúng tôi, như vậy Thiên chúng càng nhiều, sức mạnh càng lớn. Ngài hãy cùng các Thiên tử thọ lạc. Ở đây có nhiều Thiên tử, ánh sáng rực rỡ. Chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cũng có nhiều Thiên tử, Thiên nữ vui chơi hưởng lạc. Lại có Thiên tử khác, thấy Thiên tử mới sinh thì chắp tay cung phụng, lại nói: Hôm nay ông đã đến núi này, ở đây có vô số Thiên chúng, Thiên nữ vây quanh hưởng lạc. Lại có Thiên tử khác, nhờ nghiệp thiện được vui chơi trong hoa sen. Đây là nơi đẹp nhất, hôm nay ông đã đến đây. Nghe vậy, Thiên tử mới sinh hỏi Thiên nữ của mình: Thiên vương cõi Dạ-ma đang thọ hưởng hoan lạc theo công đức của năm dục ở đâu? Nghe thế, Thiên nữ đáp: Chúng ta hãy cùng đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà thọ lạc. Thiên tử mới sinh liền cùng Thiên nữ đến chỗ Thiên vương thọ lạc, vừa đi vừa ca múa, trông thấy Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà ngồi trong rừng hoa Ưu-bát-la đỏ. Hoa Ưu-bát-la đỏ có trăm ngàn cánh. Trong mỗi cánh hoa có nhà như cái động. Bên trong có Thiên nữ, hương thơm, chim chóc vui chơi. Những con chim ấy là giống chim ở nước, tiếng hót rất hay. Cõi ấy có nhiều hoa Ưu-bát-la đẹp như thế. Thiên nữ của Thiên vương trang sức các loại y phục, vật báu sáng rực, do màu sáng của ngọc báu Ưu-bát-la đỏ nên thân họ cũng có màu đỏ. Do màu đỏ của ngọc báu Ưu-bát-la nên làm cho ánh sáng ngọc báu khác cũng đỏ. Màu sắc ngọc báu xích liên hoa thì rực rỡ hơn ánh mặt trời mùa thu. Họ ở trong cùng các loài ong thọ hưởng hoan lạc theo công đức của năm dục. Thiên tử, Thiên nữ ở trong hoa Ưu-bát-la suy nghĩ: Chúng ta muốn uống rượu. Ngay lập tức trong cánh hoa có nhiều loại rượu thơm, ngon, mát chảy ra. Họ cùng Thiên vương uống rượu thọ lạc. Họ lại muốn trong hoa phát ra âm thanh, thì lập tức gió thổi động cánh hoa va chạm nhau, phát ra âm thanh mà năm loại âm nhạc không bằng một phần mười sáu, nghe tiếng ấy họ vui mừng càng hưởng dục lạc nhiều. Họ ở đây cùng Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà cùng thọ hưởng hoan lạc. Họ lại muốn vui chơi thọ lạc nên tự nghĩ: Ta đang vui chơi trong cánh hoa Ưu-bát-la, làm sao hoa này bay lên hư không? Lập tức hoa Ưu-bátla như con thiên nga bay lên hư không. Ở đó Thiên tử quan sát các khu rừng phía dưới, có các Thiên tử nhờ nghiệp thiện nên được vui chơi hưởng lạc. Thiên tử cùng Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà ở trong cánh hoa Ưu-bát-la vui chơi thọ lạc, đi khắp mọi nơi, thọ hưởng đủ mọi dục lạc. Nhờ khéo giữ giới nên được quả báo tương xứng, thọ hưởng diệu lạc. Vì sự giữ giới có thượng, trung, hạ nên diệu lạc thọ hưởng cũng có thượng, trung, hạ. Ở đây nhìn ngắm mọi thứ, hưởng các hoan lạc rồi họ ra đi đến núi Thiên điện của cõi Tâm tướng. Nhìn thấy mọi thứ, Thiên tử mới sinh rất vui mừng, cùng các Thiên nữ đến chỗ hoa Ưu-bát-la của Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà. Các Thiên nữ ca múa vui chơi ở cõi Dạ-ma thọ nhận diệu lạc theo cảnh giới của công đức nơi năm dục. Do ánh sáng đỏ của hoa Ưu-bát-la nên thân của Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cũng có màu đỏ giống như màu đỏ A-thư-già mà sắc đỏ vốn có của Thiên vương không bằng một phần mười sáu. Thọ nhận hoan lạc như vậy, Thiên tử mới sinh lại tiến đến gần Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà, chắp tay đảnh lễ, đang cúi đầu, thì Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà nói kệ:

Những nghiệp thiện đã tạo
Giữ gìn ba loại giới
Nghiệp có được quả này
Giờ thọ hưởng diệu lạc.
Đừng nên sống phóng dật
Hưởng hết nghiệp vô ích
Hãy tu thêm nghiệp thiện
Đừng sống trong phóng dật.
Siêng năng làm việc lành
Trừ bỏ việc bất thiện
Làm lành được an vui
Làm ác chịu khổ não.
Ai siêng năng không ngừng
Tu tập các nghiệp thiện
Sẽ luôn hưởng an lạc
Sau đạt được Niết-bàn.
Ai sống trong phóng dật
Lưu chuyển theo việc ác
Khi nghiệp thiện đã hết
Sẽ đi vào địa ngục.
Nếu tạo nghiệp thanh tịnh
Luôn luôn siêng năng làm
Đạt được nơi bất thoái
Không có chút khổ đau.
Ai bị căn sai khiến
Lại đuổi theo cảnh giới
Bị ràng buộc mọi thứ
Luôn đi trong sinh tử.
Ai không nhiễm pháp ác
Như vàng đã tôi luyện
Thoát khỏi đồng trống hữu
Luôn được nơi an ổn.
Ai sống trong phóng dật
Phóng dật gốc bất lợi
Trừ bỏ là điềm lành
An ổn không suy não.
Ngươi vừa mới thọ sinh
Hưởng diệu lạc tương xứng
Hãy phát tâm cẩn thận
Đừng đắm trong nhiễm ô.
Phóng dật sai chư Thiên
Người nữ cũng như vậy
Lửa người nữ thiêu đốt
Luôn luôn chịu đau khổ.
Vì thế các Thiên tử
Hãy xả bỏ người nữ
Kẻ tham dục ngu si
Bị tâm ý ràng buộc.
Không biết pháp, phi pháp
Đáng làm, chẳng đáng làm
Những người phước đức ít
Cách Niết-bàn quá xa.
Biết đúng pháp khinh, trọng
Thực hành không sai sót
Cầu pháp, quả báo pháp
Sẽ có được an lạc.
Người bị tâm lôi kéo
Không điều phục ngựa căn
Dùng tri túc dắt tâm
Mạnh mẽ đến chốn vui.
Dây tri túc buộc tâm
Cảnh giới tâm cũng vậy
Người dũng an trụ được
Là bậc Trí trong đời.
Được cõi trời xinh đẹp
Và vô số an lạc
Ai không tham dục lạc
Đến được nơi an lành.
Người đã tạo nghiệp lành
Được cảnh giới đáng yêu
Nay ở cõi Dạ-ma
Đừng nên sống phóng dật.
Thiên tử mới sinh này
Ở trong hoa Bát-la
Cùng Thiên chúng, Thiên nữ
Hưởng quả báo của nghiệp.
Dây nghiệp quả khó gỡ
Từ tâm biến hóa ra
Chúng sinh bị si gạt
Lưu chuyển theo ngu si.
Kẻ thù mười hai nhập
Khéo léo dối gạt tâm
Ở trong vòng sinh tử
Lưu chuyển trong thế gian.
Quá, hiện tại, vị lai
Chư Thiên đều thoái đọa
Ở cõi trời như vậy
Chúng sinh mãi trôi lăn.
Trong núi Tỳ-lưu-ly
Vườn rừng thật xinh đẹp
Núi rừng không chuyển động
Chư Thiên mãi lưu chuyển.
Vườn rừng thật đáng yêu
Các cõi đều như vậy
Thường còn không hư hoại
Chư Thiên mãi lưu chuyển.
Cọng hoa bằng lưu ly
Vàng ròng rất xinh đẹp
Hoa sen luôn là vậy
Chư Thiên mãi lưu chuyển.
Ao hồ rất đáng mến
Có chim chóc trang nghiêm
Còn vậy mãi không thiếu
Chư Thiên mãi lưu chuyển.
Phòng nhà không thay đổi
Hành lan cũng như vậy
Tồn tại chẳng hư hoại
Chư Thiên mãi lưu chuyển.
Bị cảnh giới dối gạt
Lưu chuyển trong thế gian
Cớ sao ở cõi trời
Tâm không chịu lìa bỏ.
Tâm chạy theo sinh tử
Vì huân tập bền chắc
Chịu những khổ não lớn
Vẫn không hề hay biết.
Như đồ tể dắt dê
Bỏ hết vào trong chuồng
Rồi đem giết từng con
Con sống chẳng lo sợ.

Quở trách như trên xong, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cùng vô số trăm ngàn Thiên chúng ra khỏi hoa Ưu-bát-la, đi đến ngọn núi khác tên Nhất thiết quan sát. Núi này lớn năm trăm do-tuần, có đủ bảy báu, ao hồ, vườn hoa, chim chóc, đủ vô lượng công đức. Vì thích vui chơi thọ lạc, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà lên núi này. Núi này rất đẹp, dưới chân núi có suối tên Ái kiến bao quanh ngọn núi. Trong ao có ngọn Giác phong, từng tầng núi bằng bảy báu, tầng núi như vòng xuyến. Tầng núi bảy báu phóng ánh sáng rực rỡ, hình dáng như cánh tay dựng đứng, lớn năm trăm do-tuần. Trên đỉnh có bảy tầng lan can bao quanh:

  1. Lan can vàng.
  2. Lan can bạc.
  3. Lan can lưu ly.
  4. Lan can báu xanh.
  5. Lan can xa cừ.
  6. Lan can báu xích liên hoa.
  7. Lan can kim cương.

Các Thiên chúng, Thiên nữ xinh đẹp hát hay, trang sức lộng lẫy. Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cùng vô số Thiên chúng, Thiên nữ đến núi Nhất thiết quan sát, thấy Thiên chúng ở đây, Thiên vương nói kệ:

Khắp cả cõi Dạ-ma
Núi này cao hơn hết
Lúc nào cũng có nhiều
Các Thiên chúng ở đó.
Núi đẹp lại sáng rực
Trang trí bằng bảy báu
Có sông nước trong sạch
Ao hoa sen bao quanh.
Vườn rừng rất khả ái
Có nhiều nai, nhiều chim
Trong ao có ngọn núi
Cao thấu đến hư không.
Chư Thiên này luôn vui
Trang sức vòng hoa trời
Ca múa tâm hoan hỷ
Có rất nhiều Thiên nữ.
Năm âm nhạc vui tai
Ai thấy cũng thích nhìn
Núi này luôn vui nhộn
Ánh sáng bao xung quanh.
Nhờ nhân thiện đã làm
Giữ gìn ba luật giới
Thiên chúng ở núi này
Vui chơi hưởng dục lạc.
Ta đã từng ở đây
Vui chơi thọ hưởng lạc
Đây là cõi dục lạc
Do nghiệp thiện hóa sinh.
Cõi này đã từng có
Chư Thiên si thoái đọa
Chúng sinh sống phóng dật
Như trâu bị người giết.
Chết mà vẫn không hay
Như trâu chẳng lo sợ
Chư Thiên biết sự chết
Không nên sống phóng dật.

Thấy tất cả trăm ngàn na-do-tha Thiên chúng, Thiên nữ cảnh sắc hoan lạc của núi Nhất thiết quan sát, quan sát nghiệp quả của chư Thiên cõi này xong, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà lại quan sát chư Thiên ngu si sống phóng dật, trôi trong dòng sông ái, không biết chán, bị lửa dục thiêu đốt, vì thương xót nên đã nói kệ cho họ. Thiên vương lại vào núi ấy thọ hưởng theo nghiệp, bị nghiệp dẫn dắt, tâm loạn động, cùng trăm ngàn Thiên nữ vào nơi vui chơi. Thấy Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà, chư Thiên trú ở chốn cũ liền ra nghênh đón, có người ở trong hư không, có người dùng hương thơm xoa thân, có người ngồi trên lưng chim, người ở trong nhà, có người cùng Thiên tử bay lên hư không trổi năm âm nhạc ra đón Thiên vương Dạ-ma. Tất cả đều trang sức khác nhau để đón Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Chư Thiên ở trong hư không rải hoa thơm cúng dường rồi đến chỗ Mâutu-lâu-đà, có Thiên tử lại lấy nhạc cụ bằng vàng tấu lên và ca ngợi rồi đến chỗ Thiên vương, có người cầm vòng hoa, hương của hoa này ai ngửi được sẽ sinh dục vọng, ở trong hư không gió thổi y phục dao động, đến chỗ Thiên vương, có người ở trong hư không ca ngợi rồi đến chỗ Thiên vương, có ngần ấy Thiên tử trang sức khác nhau, vì lúc tạo nghiệp có thượng, trung, hạ nên phục sức cũng có thượng, trung, hạ. Mọi người đều ca ngợi rồi ra đón Thiên vương Mâu-tu-lâuđà đến núi Nhất thiết quan sát. Nhờ oai lực của Thiên vương và nhờ nghiệp thiện nên có vô số cảnh giới dục lạc nơi công đức của năm dục thù diệu. Thiên chủ cùng Thiên chúng ở trong ao sen, vườn hoa thọ hưởng mọi dục lạc, tuần tự lên đỉnh núi này. Đến nơi nhờ oai lực nghiệp thiện họ thấy cửa đường ác mở. Khi có Thiên nữ sắp thoái đọa thì chín tướng hiện ra:

  1. Da mềm nhão vì nhăn nheo.
  2. Thân lay động vì thân lay động nên vòng hoa trên đầu bị rơi.
  3. Hoa đỏ trên đầu biến thành màu vàng.
  4. Gió thổi vào y phục trơn mịn trở thành y phục thô như y phục cõi người.
  5. Bay trong hư không thì mỏi mệt, đi trên mặt đất cũng vậy.
  6. Thân xuất mồ hôi, trước sạch sẽ bây giờ dơ dáy.
  7. Khi đến cây hái hoa trái thì cành cây nâng cao không thể hái được.
  8. Khi Thiên tử đến hành dục thì thấy Thiên nữ xấu.
  9. Gió thổi vào tóc làm tóc cứng rối.

Chín tướng này hiện ra trong vòng mười ngày nơi cõi trời bằng hai ngàn năm cõi người, nhưng vẫn chưa thoái đọa. Thiên nữ còn có hai tướng thoái đọa nữa hiện ra:

  1. Tâm dục nhiều không dừng yên.
  2. Mặt đất họ đi không mềm, đặt chân không được, cất chân không được, không đứng được.

Nói với các Thiên nữ khác: “Tôi buồn khổ, hãy đến đây với tôi”. Thiên nữ lại có tướng khác hiện ra: Môi luôn dao động dù không nói, quên hết những bài ca điệu múa ngày trước. Lúc mới thọ sinh, nhờ nghiệp thiện nên tự nhiên biết được bài ca điệu múa, nhưng nghiệp thiện hết, sắp thoái đọa thì quên hết. Thiên nữ đến trước ao sen, dòng sông soi thấy nơi mình sắp thọ sinh, thấy hình tướng thọ sinh. Những vật trang sức trên thân như anh lạc, vòng xuyến đều trở nên nặng. Thiên nữ ngồi đâu thì chỗ ngồi đều biến đổi. Những tòa báu bằng vàng, lưu ly, Nhân-đà-la-ni đều biến thành tòa gỗ. Những nơi mình đã từng thấy bây giờ đều đổi khác. Toàn thân mồ hôi xuất ra như con người. Thấy các Thiên chúng quay tròn như vòng quay, không thấy được thân họ, các căn không ham cảnh giới, tự nghĩ: Ta không còn cứu được, mạng sống sắp hết nên thấy nơi sắp thọ sinh, thấy thân sắp thọ sinh như đã nói ở trước. Khi thấy mạng sống sắp hết Thiên nữ sinh tâm trung hữu. Thiên vương Mâutu-lâu-đà thấy Thiên nữ sắp thoái đọa buồn chán, nên nói kệ:

Người nữ trói thế gian
Dối gạt thêm tranh chấp
Phi pháp phá chánh pháp
Là nơi nhiều tội lỗi.
Bị dục nữ sai khiến
Thiên tử bị trói buộc
Khi thần chết đến nơi
Hủy hoại cùng dẫn dắt.
Người nữ dùng trò chơi
Dối gạt các nam tử
Sau đến lúc thoái đọa
Theo nghiệp mình ra đi.
Vui chơi và thọ lạc
Trong vườn rừng ao hoa
Sông suối hay hang núi
Sau Thiên nữ thoái đọa.
Thiên nữ phải đọa lạc
Sẽ xa lìa ân ái
Trượng phu thấy như vậy
Vẫn hành dục không thôi.
Xả bỏ cõi đời này
Tăng trưởng thêm tham ái
Bị người nữ trói buộc
Không thể nào thoát khỏi.
Dây dục nhiễm lớn nhất
Trói buộc thế gian này
Hãy nghĩ cách khác đi
Thoát khỏi sự trói buộc.
Vô số mũi tên dục
Hại chư Thiên đến đâu
Dục nữ sai khiến ngươi
Phá trừ sẽ thắng được.

Quan sát Thiên nữ sắp thoái đọa không thể cứu được, dù cách nào cũng bị thoái đọa, Thiên vương lại quan sát chư Thiên thọ hưởng hoan lạc theo công đức của năm dục không sợ thoái đọa giống như súc sinh. Vì sao họ sắp chết mà không lo sợ? Thấy vậy Thiên vương lo sợ không nói cho người khác biết. Vì sao? Vì không đúng thời nói pháp. Nói sẽ bị người ta xem thường. Còn chư Thiên khác thọ hưởng cảnh giới dục lạc. Tuy Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà nghĩ đến nỗi lo sợ của thần chết nhưng vẫn cùng các Thiên tử vui chơi thọ lạc trong vườn rừng, ao sen trên núi Nhất thiết quan sát. Sáu căn tham ái, thích cảnh giới vườn rừng, ao sen, cùng nhau ca múa, ăn uống, thọ hưởng xúc hương vị nghe tiếng ca hay. Sau đó họ đến lan can bằng lưu ly của núi để đi chơi. Vào đó, ánh sáng trên thân chư Thiên biến mất là do ánh sáng của lưu ly nên thân họ cùng màu xanh. Thấy vậy, chư Thiên ngạc nhiên, nói với nhau: “Chúng ta đã từng nhìn thấy trăm ngàn cung điện nhưng chưa từng thấy núi báu xanh sáng rực như vậy!”. Nói xong, trong đó có một Thiên tử trú ở chốn cũ nói với tất cả chư Thiên mới thọ sinh: Như những gì trước kia ta đã nghe, hôm nay ta sẽ nói cho các ông nghe vì sao có ánh sáng ấy. Vào thời quá khứ xa xưa, Thiên vương cõi Đâu-suất xuống cõi Diêm-phù-đề thành tâm cúng dường đấng Chánh Biến Tri. Cúng xong, vị ấy đến núi Nhất thiết quan sát này, vì thương xót chư Thiên cõi Dạ-ma nên để lại một hạt châu. Thấy ánh sáng hạt châu chư Thiên cõi Dạ-ma biết được nghiệp quả có nhẹ có nặng nên bỏ tâm kiêu mạn. Chư Thiên cõi Dạ-ma sống phi pháp, sau khi thấy hạt châu này biết được sự hơn kém của chư Thiên cõi Dạ-ma và cõi Đâu-suất, tự biết dục lạc của mình, ánh sáng, màu sắc, hình tướng kém hơn cõi Đâu-suất, mạng sống, chỗ ở, nghiệp quả cũng kém. Thấy ánh sáng hạt châu, họ vui mừng khôn xiết, người nào sống phóng dật thì bỏ tâm kiêu mạn, người nào sống theo chánh pháp thì càng tăng trưởng. Vì vậy Thiên vương cõi Đâu-suất để hạt châu ở đây. Nghe vậy, chư Thiên vui mừng thán phục, thích nhìn. Chư Thiên cùng nhau tìm kiếm hạt châu này. Họ tìm thấy một nơi có ánh sáng rực rỡ gấp trăm lần phóng ra lấn hết ánh sáng của những hạt châu khác. Hạt châu ấy bị che lấp mà còn như vậy huống gì là không bị che. Tức là hạt châu cõi Dạ-ma che lấp hạt châu sáng lớn này. Loại bỏ những hạt châu khác, chư Thiên cõi Dạ-ma lấy ra được hạt châu này. Thấy ánh sáng hạt châu, chư Thiên cõi Dạ-ma bỏ tâm kiêu mạn, ánh sáng trên thân họ biến mất. Họ quan sát kỹ bên trong hạt châu có viết kệ bằng vàng:

Trong sạch không nhơ uế
Luôn tùy thuận pháp hành
Nhờ không sống phóng dật
Luôn được hưởng an lạc.
Dù vui hay khổ não
Trẻ khỏe hoặc già suy
Dòng họ sang hay hèn
Thần chết đều giết hết.
Xinh đẹp hay thô xấu
Mạnh mẽ hoặc yếu kém
Cô độc và có chủ
Thần chết đều giết hết.
Vua quan hay tôi tớ
Kẻ tại gia xuất gia
Cứng chắc hoặc mềm yếu
Thần chết đều giết hết.
Giàu sang hay nghèo thiếu
Có công đức hay không
Bất luận là trai gái
\Thần chết đều giết hết.
Đi đường hoặc ở nhà
Trong nước hay trên đất
Sống ở trong rừng núi
Thần chết đều giết hết.
Dù ngủ hay thức giấc
Đang ăn uống hoặc không
Kẻ não loạn thế gian
Thần chết đều giết hết.
Dù ở trên ở dưới
Hay ở bên thùng xe
Trong lúc xe đang chạy
Thần chết đều giết hết.
Tốt lành hay xấu ác
Sống đúng pháp phi pháp
Bệnh hoạn hay khỏe mạnh
Thần chết đều giết hết.
Kẻ ác hoặc người thiện
Keo kiệt hay rộng rãi
Phóng dật không phóng dật
Thần chết đều giết hết.
Dù địa ngục, ngạ quỷ
Súc sinh hay loài người
Sức mạnh không dừng nghỉ
Thần chết đều giết hết.
Chư Thiên ở cõi Dục
Hay ở trong cõi Sắc
Dù có sức mạnh lớn
Thần chết đều giết hết.
Chư Thiên cõi Vô sắc
Sống cõi Tam-bạt-đề
Dù có sức mạnh lớn
Thần chết đều giết hết.
Có sinh đều vô thường
Tất cả bị hủy hoại
Hết thảy pháp hữu vi
Nhất định phải hư hoại.
Thấy sức thần chết vậy
Nếu thấy lỗi dục lạc
Biết lời nói ân ái
Thoát khỏi biển sinh tử.
Trước vì tham dục vị
Hoan lạc của cảnh giới
Do đó đọa địa ngục
Ví như rắn nuốt lưỡi.
Thấy sự thoái đọa này
Biết sức mạnh thần chết
Khéo điều phục tâm ý
Biết tội lỗi của tâm.
Vườn rừng, ở trong núi
Hay ở trong nhà cửa
Chư Thiên đều thoái đọa
Bị lửa thời gian đốt.
Bị cảnh giới che lấp
Ngu si sống phóng dật
Lưới ái trói chư Thiên
Đưa vào chốn đường ác.

Thấy bài kệ trong hạt châu, chư Thiên đọc xong, người nào có hạt giống lành thì nghe kệ sinh tâm nhàm chán dục, còn chư Thiên ngu si mê đắm cảnh giới thì tuy nghe vẫn tham đắm vui chơi hưởng năm dục lạc, không biết chán. Thấy rõ bài kệ nói về tội lỗi của thế gian trong hạt châu ấy chư Thiên lấy làm lạ. Ánh sáng của hạt châu này rất hiếm có mà chư Thiên theo bản tánh phóng dật nên vẫn vui chơi hưởng mọi dục lạc nơi cảnh giới, không sao ví dụ được. Chư Thiên ấy tiếp tục phóng dật, cầm các nhạc cụ đi đến dòng sông Tất lưu, tham đắm cảnh giới, bị lưới ái trói buộc từ xưa đến nay dắt đến dòng sông đó, tiếng nhạc lôi cuốn tâm cùng nhau đùa vui thích thọ lạc. Trong sông có nhiều rừng cây, hoa sen che kín, chim chóc hót rất hay, hương sen ngấm vào nước sông. Hai bên bờ sông, chư Thiên vui chơi, ca múa thọ lạc, trổi năm âm nhạc tiếng trầm bỗng, hưởng thọ nhận công đức của năm dục. Trong rừng cây hai bên bờ sông có nhiều loài chim tên Thọ kỳ gian trụ. Nhờ nghiệp thiện chúng vui mừng hót kệ lợi ích cho chư Thiên:

Sông núi thay đổi mau
Chư Thiên mất diệu lạc
Ngu si không hay biết
Cứ thế sống phóng dật.
Tất cả các chúng sinh
Thọ mạng dục lạc đổi
Ngu si không hay biết
Như kẻ mù trên đường.
Thà chịu mù không mắt
Không ngu si, tham dục
Vì tham đắm dục lạc
Nên đi vào địa ngục.
Mù không đọa địa ngục
Chỉ vì không biết pháp
Cho nên thà chịu mù
Không bị dục sai khiến.
Dục làm việc vô ích
Dối gạt kẻ ngu si
Chính vì tâm ngu si
Không trừ bỏ dục vọng.
Kẻ sống theo dục vọng
Không trí, chẳng biết gì
Không biết khổ từ dục
Lại luôn tham dục lạc.
Xem dục oán như bạn
Như quả độc Ba-ca
Hay đưa đến cõi chết
Luôn đi trong đường ác.
Như tất cả dòng sông
Nước chảy mãi không dừng
Diệu lạc trời cũng vậy
Đã mất không trở lại.

Chim ấy hót kệ về sự thật của nghiệp, Thiên tử kia nhờ tu tập nghiệp lành nên sau khi nghe lời kệ sinh tâm chán ghét, tự xét mình đang ở chỗ súc sinh mà nghe pháp này, biết được do sống phóng dật mà đọa vào đường ác. Nghĩ xong, trong Thiên chúng có một Thiên tử rời bờ sông, nói kệ:

Mạng sống của chúng sinh
Như bọt nước chẳng khác
Như nước chảy sóng dồi
Trẻ khỏe đều như vậy.
Tất cả các chúng sinh
Đều lệ thuộc thần chết
Các ngươi không tâm ý
Không nghĩ nhớ xét suy.
Những người chưa suy yếu
Người trong sạch ở đời
Nếu tu tập chánh pháp
Sẽ không vào đường ác.

Tùy thuận chánh pháp nói kệ xong, nghĩ nhớ pháp chẳng bao lâu, căn suy mất lực, Thiên tử không còn suy xét nữa. Thấy vô số cảnh giới năm dục đáng yêu nên tham đắm hưởng lạc, đi đến chỗ các Thiên tử khác say mê cảnh giới. Năm cảnh giới là nhân tăng trưởng thiên dục. Thọ hưởng dục lạc nơi năm cảnh giới đến khi nghiệp thiện hết bị nghiệp sai khiến, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc thoái đọa sinh vào cõi người sống nơi an ổn, không suy não, giàu có, thuộc dòng quý tộc, được mọi người kính trọng cung phụng, không lo sợ, không bệnh hoạn, thông minh tài trí, được mọi người yêu mến, dù là nô tỳ hay người làm công luôn hết lòng cung phụng, sống ở thành thị của nước lành, không ở nơi biên địa, sống ở nơi biết pháp phi pháp, năm căn đầy đủ, trí tuệ quyền lực. Nhờ nghiệp thiện đã huân tập nên được thánh nhân yêu mến, đủ ba công đức, nhất định sinh lên cõi trời là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Dạ-ma. Dùng văn tuệ biết cõi ấy có trụ xứ tên là Sơn thọ cụ túc. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người tu tập nghiệp thiện, tâm ngay thật, tùy thuận pháp hành, không mất oai nghi, giữ vững oai nghi, xa lánh bạn ác, luôn sinh tâm lành, sợ từng tội ác dù nhỏ như vi trần, chánh kiến không tà vạy, sống bằng chánh kiến, luôn tin nghiệp quả, tâm ý chánh trực, thân, khẩu, ý làm lành, giữ ba chi giới không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm. Không sát sinh, không trộm cướp đã nói ở trước. Không tà dâm là dù ban ngày thấy tượng của người nữ, tâm không nghĩ nhớ, ban đêm cũng thế, tâm biết đủ, luôn thâu giữ tâm, dùng dây tri túc buộc các căn, luôn niệm thân hộ tâm, luôn quan sát ấm, giới, nhập, không thích nói nhiều, không vào nhà người phi thời, không đi vào chỗ xấu ác, không đi phi thời, không gần chó dữ, không thường vào thôn xóm, thành phố, ngõ hẻm, không thường thăm viếng bạn cũ, không nhớ họ, luôn tu trí tuệ quan sát đúng chánh niệm, kính trọng gần gũi hầu hạ bậc tôn trưởng. Người này giữ giới như vậy, sau khi chết sinh lên trụ xứ Sơn thọ cụ túc của cõi Dạ-ma thuộc đường lành. Ở đây thọ hưởng mọi diệu lạc tương xứng, có đủ mọi dục lạc. Cõi này có hai ngọn núi bao quanh, trong núi có bốn khu rừng:

  1. Nhị thanh ảnh.
  2. Vô lượng phụ.
  3. Nhất thiết thượng.
  4. Thanh tịnh phụ.

Rừng Nhị thanh ảnh có ngọc xanh, cây xanh, lá bằng vàng bạc tươi đẹp không sao ví dụ được. Cung điện nhà cửa trong rừng phóng ánh sáng xanh soi đến năm trăm do-tuần, màu như mây xanh. Ba rừng sau: Vô lượng phụ, Nhất thiết thượng, Thanh tịnh phụ đều có cây cối đủ hình sắc hình tướng, đủ loại lá, chim chóc ở trong rừng. Lại có những cây vàng, lá bạc, lưu ly, cây san hô lá bạch ngân, cây tam bảo lá tạp bảo. Vì cây bằng tạp bảo nên bóng cây cũng có nhiều màu. Cành cây che rợp, khắp nơi đều có sông, nơi nào cũng đẹp, ong, chim rộn rã nhộn nhịp. Rừng thứ hai xinh đẹp như vậy. Rừng thứ ba có nhiều sông hồ, trong sông có nhiều chim khổng tước, câusí-la, tiếng hót rất hay, ở nơi xinh đẹp. Rừng thứ tư có vô số cây bằng tạp bảo, vườn rừng, sông hồ, ao sen. Bóng cây phản chiếu ánh sáng, cây cối đều như lưu ly, như chất vân mẫu. Chư Thiên vào đây thì thấy thân mình như lưu ly, vân mẫu. Núi này còn có uy lực khác: Chư Thiên nào sắp thoái đọa, thần chết sắp chết thì thấy được nơi mình phải đi. Do thấy được nên chán pháp hữu vi, không sống phóng dật. Thấy được nơi mình thọ sinh là nhờ Thiên tử ấy đủ công đức và nhờ oai lực của nghiệp lành. Thiên tử ấy lại sinh trong núi Già-na. Thiên tử mới sinh sống phóng dật nhưng thấy sự thoái đọa sinh nơi ác nên không phóng dật nữa, thâu phục tâm ý. Nhưng chẳng bao lâu, lại tham đắm cảnh giới, năm dục, thọ hưởng công đức của năm dục ở trong vườn rừng, ao sen, trổi năm âm nhạc, vô số Thiên nữ vây quanh, đủ chủng loại, phân biệt nghĩ nhớ khác nhau như đã nói ở trước. Nhờ nghiệp thiện đời trước, Thiên tử thọ hưởng năm dục lạc, sau đó lại thấy năm sắc tướng lạ. Thấy mình từ đâu đến đây, do nhân gì mà đến, thấy nghiệp nhân, biết thời gian thoái đọa, thấy nơi thọ sinh sau khi thoái đọa. Ở đó chịu đủ khổ vui, thấy người khác cũng có khổ vui như vậy. Vị ấy thấy thân mình trong trăm đời, ức kiếp đã từng sinh ở cõi này. Tuy biết số lần thọ sinh nhưng không biết thời gian thọ sinh. Vì sao? Vì trí kém không thể suy lường được. Người ấy thấy được uy lực của ngọn núi và nghiệp thiện như vậy. Thấy những việc Thiên tử sợ tội sinh tử chán ghét nghiệp thiện huống gì là phi phước nghiệp, bỏ hết tạp nghiệp, nhận thấy mọi thứ đều có lỗi đưa đến khổ não, vì trong đó xen tạp nhiều tội ác. Thấy như vậy rồi luôn lo sợ tránh xa tội ác sinh tử, càng nhiều suy não. Thấy sự ràng buộc nên không tham lạc, xem những dục lạc cõi trời là xúc vị sắc hương như chất độc, không thấy vui. Người ấy đã chán ghét những diệu lạc cõi trời sau đó nói với chư Thiên khác để họ làm lợi ích an lạc. Thiên tử ấy khéo tu tập thân, khẩu, ý lành, làm Pháp sư giảng thuyết chánh pháp cho người khác, nói pháp Phật cho những chúng sinh phóng dật, sợ phóng dật. Chúng sinh phóng dật sẽ sinh vào đường ác, liền nói năm sự lo sợ cho chúng sinh: sinh, già, bệnh, chết, nghiệp. Chúng sinh tạo nghiệp nên được nơi vui đẹp, lo sợ mất mát, chỉ cho họ biết, không vì tham vật, không có tâm dua nịnh, cũng chẳng mong cầu được cúng dường, cứ thuyết giảng chánh pháp cho người. Đem những gì mình nghe ra thuyết giảng ví dụ, sợ ít được nghe học lời Phật, đem những ví dụ về đời sau mà mình được nghe để suy lường giảng thuyết. Chính vì tâm tham lam, nói năng xuyên tạc làm nhân cho việc sinh tử lo sợ. Người này, thấy mọi nghiệp như vậy ở trong núi. Lại có sự thù thắng khác, giảng thuyết chánh pháp cho cha mẹ, người tôn kính, người bệnh, người tà kiến để họ sinh chánh kiến; thuyết pháp cho người sắp chết, nếu họ cho rằng sự sinh tử là ngẫu nhiên không có nhân duyên thì giảng pháp nhân duyên cho họ; thuyết pháp cho những người chưa được nghe pháp bao giờ; thuyết pháp cho những người đi trong đồng vắng, trên biển, kẻ phóng dật, vua, quan, những người trẻ tuổi buông lung, ngã mạn để họ xả bỏ, nói rõ tội ác cho người dũng mãnh, kẻ sát sinh, kẻ phóng dật, ngăn chận sự giết hại; thuyết pháp cho những người thích tranh chấp mong sinh lên trời, kẻ điên đảo tranh đấu giết hại để họ không làm nữa; thuyết pháp cho những người săn bắn để họ trừ bỏ; thuyết pháp cho những người phụ nữ ganh ghét để họ không ganh ghét. Người này đã thuyết pháp chân thật cho mười hai hạng người, sau khi chết sinh lên cõi Sơn thọ cụ túc của cõi trời Dạ-ma. Ở đó, nhìn vào vách núi thấy rõ nghiệp sinh tử, chán ghét sự sinh tử. Còn những người không thuyết pháp cho người khác mà được sinh ở đây thì không thấy những nghiệp đó. Sau đó thọ hưởng dục lạc, vui chơi, thọ nhận công đức của năm dục, nghe tiếng nhạc, tiếng chim, thấy sắc đẹp, ngửi hương thơm. Trong ao sen có vô số loài ong rộn rã. Thọ lạc xong, họ lại đến chỗ bằng phẳng của ngọn núi để hưởng lạc, đủ công đức xinh đẹp. Các Thiên nữ ca ngâm thật hay, đủ sắc hương vị, vui mừng uống rượu. Uống rượu xong càng thêm phóng dật. Buông lung hưởng lạc một thời gian lâu, họ đến rừng Du hý. Nhà cửa ở đây toàn bằng lưu ly sáng như màu dung kim, có đủ bảy báu trang trí, có nhiều loài chim. Ở đây vui chơi, thọ lạc theo công đức của năm dục không biết chán, tâm luôn tìm cầu như lửa thêm củi được gió thổi vào. Phàm phu ái nhiễm chẳng biết chán đủ cũng thế. Vì sao? Phàm phu ngu si bị lưu chuyển từ vô thỉ, bị ái dối gạt, các căn không thỏa mãn với cảnh giới, từ xưa đến nay chưa từng biết đủ. Nhà cửa ấy rất đẹp, đủ các công đức. Họ ở đây thọ hưởng năm dục, muốn bao nhiêu đều được. Thiên tử ấy không phóng dật, sống cẩn trọng, thấy những người sống phóng dật thì thương xót nói kệ:

Tâm mong muốn điều gì
Đều được thỏa ý nguyện
Niệm lành đoạn ái dục
Nghiệp ái khiến ái tăng.
Những người sống thanh tịnh
Xem dục như dao, độc
Kẻ ngu không tịnh tâm
Thấy dục lại tham đắm.
Chính căn và căn trần
Là nhân duyên của tâm
Phiền não huân tập tâm
Cho nên lưu chuyển mãi.
Người dũng không nhiễm đắm
Pháp thanh tịnh, nhiễm ô
Tất cả sắc thường thấy
Có gì sai biệt đâu.
Hết thảy đều chỉ là
Cảnh giới duyên với tâm
Tốt nhất hãy điều tâm
Kẻ lỗi lầm thô bỉ.
Ví như một giống lúa
Mà có nhiều màu sắc
Nhiều nhân hòa hợp sinh
Tâm lưu chuyển cũng vậy.
Như bánh xe nhờ nước
Xoay tròn nên máy chạy
Do tâm nên nói năng
Lưu chuyển trong thế gian.
Phóng dật hoại chúng sinh
Tâm tham đắm vị dục
Lại luôn thăm sắc đẹp
Không biết tướng tương tục.
Soi vào sắc của rừng
Thấy thân do các nghiệp
Chư Thiên đã thấy rồi
Cớ sao vẫn tham dục.
Luôn tham đắm dục vị
Sau phải chịu xa lìa
Những ái dục như thế
Người trí không tham đắm.
Huống gì thân thể này
Là vô thường, trống rỗng
Cớ sao trong khổ báo
Kẻ ngu lại ham thích.
Chư Thiên đã thoái đọa
Bị nghiệp ác dắt dẫn
Cảnh giới luôn dối gạt
Không đạt được tịch tĩnh.

Thiên tử không sống phóng dật đã giảng thuyết cho chư Thiên phóng dật, nhờ tự nghiệp nên khi thấy được thật sắc chư Thiên lo sợ nghiệp. Vì lòng Từ bi Thiên tử lại thuyết giảng. Chư Thiên ở đó thọ hưởng vô số dục. Họ ở cõi bằng lưu ly nên soi thấy được sắc thân. Cõi đó lại có những khu rừng bằng lưu ly, bằng bạc, là Thường ảnh, Vô ảnh. Rừng lưu ly Thường ảnh này có mặt đất mềm mịn, chim hót rất hay, hàng trăm ao sen, sông suối đẹp. Chư Thiên ở đây vui chơi thọ lạc. Rừng Thường ảnh có năm ao sen lớn, những con thiên nga, vịt trời, uyên ương cùng nhau kêu tiếng rất hay, hưởng diệu lạc. Có gió thổi đến làm nước sông nổi sóng làm cho những con chim ấy lúc gần lúc xa, nước sông trong sạch không nhơ. Những con chim ấy cùng nhau bay nhảy trên lá sen, hưởng diệu lạc. Năm ao lớn là:

  1. Nhạo kiến.
  2. Thủy túc.
  3. Điểu lạc.
  4. Thường hỷ.
  5. Thiên lạc.

Trong ao lại có nhiều loại ong màu sắc hình dáng khác nhau. Chúng hút mật hoa và các rượu ngon khác. Hút mật hoa xong chúng kêu tiếng rất hay. Nghe được tiếng ấy chư Thiên cõi Sơn thọ cụ túc đi đến chỗ loài ong trong ao hoa. Nước ao trong sạch đủ sắc hương. Thấy nước ao, chư Thiên cùng Thiên nữ liền vào ao vui chơi thọ lạc đủ công đức của năm dục, lại còn hành dục. Ở đó có những sự hoan lạc như vậy, lại có những tiếng hay khác như tiếng ca tiếng nhạc, tiếng nước chảy, tiếng chim hót. Những tiếng này hòa hợp thành một âm thanh rất hay. Chư Thiên cùng Thiên nữ ở đây vui chơi thọ lạc, nghe nhạc. Sự vui chơi thọ lạc ở núi khác không như vậy. Khi những loài chim, nai ở cõi khác muốn ăn uống mà nghe được tiếng này thì không ăn nữa. Tiếng ấy lọt vào tai thì không mất, không uống nữa. Thiên chúng ở cõi trời khác nghe được tiếng này còn rất ngạc nhiên, huống gì là súc sinh. Cứ thế, chư Thiên cõi Sơn thọ cụ túc hưởng dục lạc ở năm ao sen kia trong thời gian lâu, nhưng vì tham rượu, dục lạc họ lại đến rừng thức uống. Rừng này có nhiều rượu nên gọi là Ẩm lâm. Nhờ lực nơi nghiệp thiện, khi chư Thiên đến đây thì nước ao trong sạch biến mất, rượu trời thơm ngon sinh ra. Mùi thơm của rượu xông khắp năm do-tuần, chư Thiên đi lại tùy ý muốn rượu sinh ra. Đây là dục lạc hơn hết của cõi trời. Vì tùy ý thọ lạc nên là lạc tối thượng. Chỉ có nó là diệu lạc không còn diệu lạc nào khác. Rượu này chỉ tùy niệm của họ mà đã là hoan lạc nhất, huống gì là hoan lạc nơi công đức của năm dục, năm âm nhạc, dục lạc cùng Thiên nữ thọ hưởng. Lại có những hoan lạc tùy ý, sự vui chơi và sự thọ hưởng khác nữa. Loại rượu này không có lỗi vì uống vào thỏa thích vô cùng không sao nói được. Chư Thiên này cùng Thiên nữ uống rượu buông lung thọ lạc, luôn bị tham ái che lấp tâm, huân tập từ vô thỉ đến nay không sao bỏ được, bị tham ái dối gạt nên không biết chán, như thêm củi vào lửa. Chư Thiên cõi Sơn thọ cụ túc lại nghĩ: Hôm nay chúng ta lên đỉnh núi này. Họ yêu mến nhau, đồng một lòng vui vẻ, cùng thọ lạc, đến núi này. Nhờ nghiệp thiện thân họ sáng rực, họ dùng thần thông bay lên hư không để đến núi đó, nghe năm âm nhạc. Khắp núi ấy vang lên tiếng nhạc, hương thơm xông khắp núi, ánh sáng chiếu khắp hư không. Dùng thần thông lên đỉnh núi, họ thấy được vô số sông suối, ao sen, vườn rừng, nghe tiếng chim hót, nghe được hương thơm. Đỉnh núi bằng phẳng sáng rực. Họ cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc ở đây. Do nghiệp nên chư Thiên có được nhiều, ít, vừa các Thiên nữ khác nhau. Có người được một trăm, hai trăm, ba trăm, có người được một ngàn, hai ngàn, ba ngàn, hai vạn… họ ca hát vui chơi thọ lạc ở khắp các khu rừng. Trong ao sen có nhiều loài ong đẹp, vui chơi thọ lạc nghe năm âm nhạc. Núi này có nhiều vật báu trang sức. Họ dạo đi khắp ngọn núi này thọ hưởng hoan lạc. Đá ở núi này toàn bằng đá quý sáng hơn mặt trời. Mặt đất mềm mịn như tơ lụa đẹp nhất cõi Diêm-phù-đề, Cù-đà-ni, Đâusuất và tơ lụa ở những cõi khác. Khi đặt chân xuống thì mặt đất lún, cất chân lên thì bằng phẳng. Mọi thứ vật báu, mặt đất, cây cối, vườn rừng, núi non của núi này đều mềm mịn, tiếp xúc được thì rất thích ý, mọi vật nhìn ngắm đều rất đáng yêu. Thiên tử, Thiên nữ ở đây cùng nhau vui chơi thọ nhận lạc theo năm dục. Họ ở đây ca hát vui chơi thọ lạc một thời gian lâu, họ nhìn thấy trong hư không có vầng ánh sáng lớn như Thiên cẩu. Thấy ánh sáng này, ngay cả chư Thiên thù thắng cũng ngạc nhiên, còn chư Thiên bậc trung thì không sao nhìn được. Họ lấy tay che mắt, đi vào bóng cây, chư Thiên bậc hạ thì không chịu đựng nổi, họ rất lo sợ cùng Thiên nữ vào hang báu. Những Thiên tử có oai đức lớn thì nhìn thấy được, lại quan sát kỹ, ngạc nhiên, họ tự nghĩ: “Đây là ánh sáng gì? Ai có ánh sáng vi diệu này? Ánh sáng diệu bảo của núi này bị ánh sáng khác chiếu soi nên không hiện ra được, chỉ như đốm lửa giữa hư không. Từ xưa đến nay ta chưa từng thấy!”. Thiên tử ấy lại nhìn thật kỹ, thấy Thiên cẩu từ cõi trời hạ xuống có ánh sáng lớn chiếu khắp hư không như đuốc sáng rơi xuống. Nhìn lên, Thiên tử thấy Thiên cẩu như từ trên trời rơi xuống, biết được nó lớn nhỏ dài ngắn. Suy xét xong, Thiên tử ấy nói: Thiên cẩu này lớn bằng năm ngàn do-tuần, khắp hư không đều sáng rực không sao ví dụ được. Cứ thế ánh sáng dần dần xuống gần, Thiên tử dũng mãnh đó cũng không thể nhìn được nữa. Vì sao? Vì không phải cảnh giới của mắt Thiên tử ấy. Vì không nhìn được ánh sáng lớn đó, Thiên tử này cũng lấy tay che mắt lại. Một lát sau, Thiên tử lại ngạc nhiên, mở mắt ra nhìn nữa, thấy Thiên cẩu đã xuống gần, tất cả Thiên chúng đều nghi ngờ hỏi nhau: “Vật gì ở trong hư không rất là lạ, từ hư không rơi xuống?”. Họ không sao quyết đoán được, nói: “Đây là vật gì? Nhưng chỉ trong chốc lát Thiên cẩu trong hư không kia lại biến mất. Biết Thiên cẩu đi mất, những chư Thiên và Thiên nữ sợ hãi kia ra khỏi hang, không còn lo sợ, nói với nhau: “Đây là vật gì, cớ sao ta lại nghi ngờ, lo sợ, ngạc nhiên?”. Họ hỏi như vậy nên chẳng ai quyết định được. Họ cứ hỏi như vậy mãi, sau đó lại vui chơi thọ lạc. Vì tâm loạn động nên vẫn tham đắm nơi cảnh giới và dục lạc khác, nghe năm âm nhạc. Vô số Thiên chúng cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc trong ao sen.

 

Bấy giờ, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cùng vô số trăm ngàn Thiên chúng, Thiên nữ ngồi trên hoa sen, bay lên hư không đi đến núi Già-na của cõi Sơn thọ cụ túc. Thấy các Thiên tử đầy đủ y phục, trang sức, hình sắc, công đức thù diệu, được Thiên nữ hầu hạ, thọ hưởng diệu lạc nơi công đức của năm dục, Thiên vương Mâu-tu-lâuđà vui vẻ cùng Thiên chúng tức tốc đến cõi Sơn thọ cụ túc. Thấy Thiên vương, chư Thiên và Thiên nữ cõi này vội ra nghênh đón, trổi nhạc, ca hát, vui mừng, hòa hợp, khen ngợi Thiên vương Mâu-tu-lâuđà, cùng lên núi. Họ ở đây cùng trổi nhạc ca hát vui chơi thọ lạc một thời gian lâu, nhìn lên hư không thấy Thiên cẩu từ trên trời rơi xuống, có những việc như đã nói ở trước. Thấy việc lạ đó, họ nghi ngờ lo sợ cùng đến gần Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà, nhìn thẳng lên hư không rồi quan sát. Nếu Thiên tử nào đã từng nghe về Thiên cẩu này thì bỏ phóng dật, cùng Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà thành tâm lạy Phật. Còn những Thiên tử kinh sợ thì trốn trong núi vàng, trốn dưới gốc cây. Hai hạng chư Thiên này không có sức dũng mãnh. Có Thiên tử chạy đến cầu cứu với Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Nhìn thấy vậy ai cũng nghi ngờ, ngạc nhiên. Thấy thế, Thiên vương Mâutu-lâu-đà bảo họ: Này các Thiên tử! Dù biết hay không biết ánh sáng này từ trong hư không sắp rơi xuống đất, các ông đều đến đây. Trong chúng đó, những Thiên tử chưa từng biết việc này thì thưa với Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà: Chúng tôi thật chẳng biết gì về việc lạ ấy. Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà bảo các Thiên tử: Thiên chúng các ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói về đốm sáng từ hư không rơi xuống đất kia cho các ông những kẻ lo sợ ngạc nhiên. Các ông hãy nghe đây: Cách cõi ta rất xa về phía trên có những Thiên chúng hình sắc, mạng sống, nghiệp nhân hơn ta gấp trăm lần, đó là cõi thanh tịnh nhất của Bồ-tát. Lúc ở cõi người, họ giữ năm chi giới, không bị thất thoát, bền chắc không phạm. Nhờ tu tập các thắng hạnh nên sau khi chết sinh ở cõi trời lành Đâu-suất-đà. Diệu lạc, vườn cảnh, Thiên nữ, ánh sáng, sắc lực, trí tuệ lanh lợi, mạng sống lâu, thân, tâm, vật thọ dụng, nữ sắc… của cõi Đâu-suất gấp mười sáu lần ở cõi Dạ-ma. Công đức cõi trời ấy ta không thể nói được. Ánh sáng của cõi ta so với cõi ấy chẳng khác gì đom đóm giữa mặt trời, mọi thứ ánh sáng, vật dụng… đều không sánh bằng. Chư Thiên nơi ấy thọ hưởng diệu lạc rất lâu, diệu lạc đó tối thượng nhất. Diệu lạc nơi công đức của năm dục và cảnh giới mà họ thọ hưởng hơn cả diệu lạc của cõi Dạ-ma này. Thọ hưởng một thời gian, nghiệp thiện hết, họ bị kim cang vô thường phá hoại. Chúng sinh đều bị vô thường với chủng tử định, bất định, khi vô thường đến, thọ mạng của họ chấm dứt. Vì nghiệp thiện hết, nên họ bỏ cõi Đâu-suất đó. Tất cả pháp hữu vi đều dao động như ánh đèn, đều là sinh, trụ, diệt. Mọi vật trong ba cõi đều biến đổi. Như vậy pháp thường chính là sự biến đổi, sự hư hoại, không thường còn, không có gì là thường còn. Các pháp hữu vi đều bị biến đổi cho nên cõi Đâu-suất cũng biến đổi, như tim dầu của đèn hết thì ánh sáng mất. Ánh sáng mất thì bóng tối hiện, có ánh sáng thì bóng tối mất. mất ánh sáng thì bóng tối hiện. Như khi hạt giống biến mất thì có mầm mọc ra. Cứ thế khi nghiệp hết thì thân mạng mất, chư Thiên cõi Đâu-suất bị thoái đọa. Hiện nay, các ông thấy chư Thiên ấy bị thoái đọa, theo nghiệp mà có tướng như vậy, thân là vô ký. Tuy chết mà ánh sáng lại như vậy huống gì là ánh sáng do vô số nghiệp thiện hóa sinh thì thật thù thắng. Tất cả ánh sáng đều do nghiệp thiện hóa sinh. Từ nay các ông hãy biết tướng ấy là như vậy. Nếu chưa chết, chư Thiên ấy có ánh sáng oai đức, sự trang sức, nghiệp lực như thế nào? Việc ấy không sao nói hết, chẳng thể ví dụ được. Thiên tử ấy do bốn nghiệp thiện thù thắng hóa sinh mà còn chết, huống gì là chúng ta chỉ do ba chi giới và một ít nghiệp thiện hóa sinh. Các ông sinh ở cõi Dạ-ma đều bị vô thường hủy hoại đều là nhơ uế, cho nên chư Thiên ấy đặc biệt hơn mà còn bị hủy hoại huống gì là các ông lại không bị hư hoại sao? Bấy giờ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà nói kệ:

Sao vô thường Thiên cẩu
Sáng rực cõi Đâu-suất
Hết năng lực thì mất
Dầu tim hết, đèn tắt.
Bị nghiệp lực công phá
Gồm có mười hai căm
Bánh xe nghiệp lưu chuyển
Thượng, trung, hạ không ngừng.
Tham đắm các cảnh giới
Trang sức đủ các loại
Luôn luôn muốn đầy đủ
Thoái đọa mất quyền lực.
Do thời tiết thuận lợi
Cỏ cây phát sinh ra
Nhưng đến lúc nào đó
Chúng sẽ bị khô héo.
Đúng lúc thì chư Thiên
Hưởng hoan lạc cõi trời
Nhưng đến lúc nào đó
Thoái đọa mất quyền lực.
Khi nghiệp đã hợp thời
Lưu chuyển ở thế gian
Cũng theo thời gian đó
Hết vui lại chịu khổ.
Dù hưởng lạc chịu khổ
Đừng tin cảnh giới còn
Tất cả các nhân duyên
Khổ vui đều sai khác.
Mọi thứ đều chẳng vui
Nghiệp lực đủ sức mạnh
Tất cả khổ, vô thường
Chính là vì nghiệp nhân.
Nên có quả sai khác
Pháp hữu vi thay đổi
Muốn biết nhân duyên này
Hãy biết bốn Thánh đế.
Đã biết bốn Thánh đế
Nhất định được giải thoát
Kẻ si tham cảnh giới
Xoay chuyển ở thế gian.
Nếu người nào biết được
Thế gian là vô thường
Sẽ sinh tâm giải thoát
Ngăn những tâm độc ác.

Cõi Dạ-ma có những sự phân biệt đáng sợ như vậy. Thiên vương Dạ-ma đã nói đúng pháp cho chư Thiên nghe. Nghe xong, có Thiên tử nhàm chán dục lạc, có người chán ngán sự sinh tử, có người sợ sinh tử nhưng tâm lại loạn động ham thích cảnh giới.

Trong núi Già-na có các vườn cây, vui chơi, sông suối, ao sen xinh đẹp, cây cối sum suê, nhiều kho báu, chim chóc hót rất hay, có bảy thứ báu lớn trang trí núi, có các cảnh giới đẹp sắc thanh hương vị xúc. Họ cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc cảnh giới quên hết sự chán ngán trước, không còn nhớ gì cả. Các cảnh giới trước vui sau khổ. Thiên tử cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc ở trong núi, tâm như khỉ vượn buông lung thọ lạc, Thiên chúng lại cùng Thiên vương Mâu-tulâu-đà trở về, có người bay lên hư không, có người ngồi trên hoa sen, có người ngồi trên những thứ khác như chim khổng tước, voi trắng, thiên nga, vịt trời, uyên ương. Các Thiên nữ vây quanh ca múa trổi nhạc như Thiên chúng, đến trước Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà để vào rừng vui chơi. Họ biết rõ những cõi của Thiên vương nên có người chán ngán cảnh giới, có người lại phóng dật, thọ hưởng dục lạc nơi cảnh giới. Chư Thiên đó có những sự sai khác như vậy. Chư Thiên cõi Sơn thọ cụ túc vui chơi hưởng lạc trên núi Già-na. Trong đó có người chán ngán cảnh giới nhưng có người thì phân biệt cảnh giới, thọ hưởng dục lạc không biết chán. Đến khi nghiệp thiện hết, ở đó họ bị thoái đọa, bị dây nghiệp trói buộc đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu được sinh trong cõi người thì luôn an lạc đầy đủ các căn, tâm rộng lớn, giàu có, tài trí, luôn được mọi người cung phụng, xinh đẹp, hoặc được làm vua, quan là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Dạ-ma. Dùng văn tuệ biết cõi ấy có trụ xứ tên là Quảng bác hành. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người đàn ông gần bạn tốt, tin nghiệp quả, tâm ý ngay thật, tùy thuận pháp hành, thọ trì giới cấm, chánh kiến, không tà vạy, thường gần gũi các bậc kỳ túc, tịnh tín Phật, Pháp, Tăng, tin sự sinh tử, luôn thâu phục các căn, không tham cảnh giới, lo sợ sự sinh tử, biết ân ái xa lìa, sinh già bệnh chết, ân ái hợp tan, biết rõ lỗi của năm ấm, siêng năng tạo nghiệp lành, xa bạn xấu, luôn thích nghe chánh pháp, nghe rồi suy xét, biết rõ thật nghĩa, nhớ mãi trong lòng, biết vị ly dục, không sát sinh, không trộm cướp (như đã nói ở trước), không tà hạnh, không thích nhìn nữ sắc, không tham đắm tiếng ca hát của người nữ, không nghĩ đến những bức tranh của người nữ mà đã nghe thấy. Khi ngủ thấy người nữ nhưng khi thức giấc thì không thích, không tham ái, không hành dục nhiều, luôn quan sát đúng, trừ tà dâm, bỏ việc dục như bỏ chất độc. Người ấy tương ưng với công đức, luôn làm việc lành, nghĩa lành, bỏ tâm nhiễm ô, giữ giới thanh tịnh, khéo giữ giới. Sau khi chết người này sinh lên trụ xứ Quảng bác hành của cõi Dạ-ma thuộc đường lành. Nhờ thích tu tập ba công đức, thích giữ giới nên được quả báo ở cõi này. Vừa sinh ra, vị ấy nghe được các tiếng chim, tiếng đáng yêu, mũi ngửi hương thơm dịu cõi trời mà từ trước chưa từng ngửi được. Ngửi được hương này thì vui mừng, thân tiếp xúc mềm mại từ xưa chưa từng có, tâm ý thanh tịnh không nhơ loạn, tùy theo tâm chuyển động luôn được an vui, lưỡi nếm các vị ngon mà chưa từng nếm. Sáu thức này thọ hưởng diệu lạc, lại suy nghĩ: Đây là cõi nào? Ta đang sống ở đâu? Mọi thứ ở đây đều xinh đẹp đáng yêu khác với trước. Ở đây, vị ấy thấy được vô số sắc đẹp, thấy ánh sáng trên thân sáng hơn mặt trời, thân không có xương thịt nhơ uế, không có bóng, mắt không nháy, không có gân mạch, đốt lớn đốt nhỏ, toàn thân không thô cứng, không mỏi mệt, tùy ý đi lại không bị ngăn ngại, không mong cầu, thân không cong quẹo, không hại nhau, lông tóc đều xoay tròn từng sợi rõ ràng, mắt nhìn thấu suốt không bị ngăn ngại, cảnh giới đẹp, không chướng ngại. Thanh, xúc, hương, vị thân không hư hoại, không thay đổi, không già, luôn khỏe mạnh, không có những Thiên nữ ganh ghét, không lo sợ. Thân thể đầy đủ không mong cầu đồ trang sức, tài vật, không có lỗi giữ lấy Thiên nữ, vui chơi trong vườn mà không lo sợ, không sợ kẻ thù, không sợ nhơ uế, không biết đủ, tham ái thân càng lúc càng tăng trưởng, có được mọi thứ diệu lạc của cõi trời. Hưởng lạc xong nhưng vì thiếu trí nên phân vân: Ta từ đâu đến, thân ta là thân gì? Đây là cõi nào? Cõi này tên gì? Vì nghi ngờ vậy, người ấy tự suy nghĩ ví như người say rưọu, lại như người ngủ. Một đêm có bốn thời đã ngủ ba thời. Vì thời gian ngủ quá lâu nên khi thức giấc lại luôn phân vân: Ta là người gì? Ta sống ở đâu? Suy nghĩ một lát người ấy biết được như vầy, như vầy. Suy nghĩ mãi người ấy biết được mình bỏ thân người sinh lên cõi trời. Nếu khi ở cõi Diêm-phù-đề người ấy không thích cảnh giới thì khi sinh lên trời cũng không thích cảnh giới. Vì sao? Vì sự huân tập cũ. Suy nghĩ mãi Thiên tử biết được nhờ nghiệp thiện nên được sinh lên cõi này. Người chết ở cõi người được sinh lên trời là nhờ giữ giới không tham đắm cảnh giới. Về sau từ cõi trời bị thoái đọa, sinh xuống cõi người. Những gì huân tập ở cõi trời đều có tướng tương ưng. Những gì huân tập ở cõi người, sau khi chết được sinh lên trời thì không thích cảnh giới, không dâm dục. Nhờ giữ giới, Thiên tử mới sinh tuy sinh lên trời nhưng không thích cảnh giới. Nhờ dư báo nên tâm không thích cảnh giới. Những chúng sinh ra khỏi địa ngục được sinh lên trời là do nghiệp của chúng. Nhờ nghiệp thiện và nguyện lực khác nên ra khỏi địa ngục được sinh lên trời. Vì từ nơi khổ não sinh lên trời nên khi được lạc thì tham đắm, tâm vui mừng, sân hận nhiều, tâm tham lạc vườn rừng, sông suối, ao sen, thích dạo chơi, tham ăn uống, tâm ý huân tập liên tục.

Những chúng sinh nhờ dư báo ra khỏi cõi ngạ quỷ, sinh lên trời thì tâm luôn tham ăn uống, ở chỗ lạnh mát, thích người nữ là vì huân tập tâm ý.

Những chúng sinh nhờ dư báo ra khỏi cõi súc sinh, sinh lên trời thì được nhiều thức ăn như ở cõi súc sinh, tâm tham dục mạnh là vì tâm ý huân tập liên tục.

Những chúng sinh ở bốn trụ xứ của cõi vô sắc bị thoái đọa sinh vào cõi trời, vì trước kia tu đắc Tam-ma-bạt-đề nên được sinh lên bốn trụ xứ của cõi vô sắc nhưng nghiệp hết thì bị thoái đọa, sinh vào cõi trời. Đó là vì tâm ý huân tập liên tục, tham ái xúc, vị, sắc, hương. Tuy được nhưng không tham nữa là nhờ tâm tịch tĩnh không tán loạn nhiều. Do huân tập tâm nên những chúng sinh ở quả vị thiền thứ nhất của cõi sắc, cho đến ở quả vị thiền thứ tư khi hết nghiệp bị thoái đọa đọa vào cõi dục. Do huân tập tâm có thượng, trung, hạ, tâm thích ngồi thiền nên cảnh giới vui không nhiều. Chúng sinh ở cõi dục bị thoái đọa sinh trở lại cõi dục là nhờ sinh nghiệp. Chúng sinh ở hai cõi trời, người của Dục giới sắp bị thoái đọa lại sinh vào cõi dục là nhờ nghiệp thiện. Chư Thiên cõi dục có hai nghiệp thành thục, trừ cõi trời Tịnh cư. Vì cõi trời Tịnh cư không có sinh nghiệp và dư nghiệp thành thục. Như vậy, gió nghiệp luôn thổi vào chúng sinh làm cho lưu chuyển, bị lưới tâm, lưới nghiệp trói buộc, phân biệt, tin hiểu đủ thứ. Cứ thế lưu chuyển mãi trong năm đường.

Quán xét, suy nghĩ như vậy, Thiên tử mới sinh mới biết mình từ cõi nào sinh đến đây, từ cõi người sinh đến đây là nhờ sinh nghiệp. Thiên tử biết hết sinh nghiệp và dư nghiệp. Vì sao biết Thiên tử này không do dư nghiệp sinh? Vì chúng sinh do dư nghiệp sinh thì phải do nhân duyên từ nhiều đời, hoặc trăm đời mới có quả báo, hoặc cả ngàn đời, trăm ngàn đời. Người không có Thiên nhãn thì không tự thấy biết. Do nghiệp nhân từ quá khứ xa xưa sinh ra. Người do sinh nghiệp sinh thì biết được nơi thọ sinh. Quan sát nhân duyên sinh xong, Thiên tử kiêu mạn, nhờ nghiệp thiện huân tập nên chẳng bao lâu sinh tâm tham ái cảnh giới. Thiên tử nhớ biết hết vô số chủng loại. Lại nghĩ ta nay đã sinh lên trụ xứ Quảng bác hành của cõi Dạma. Vừa nghĩ như vậy, các Thiên nữ xuất hiện trước mắt, nhờ nghiệp thiện các Thiên nữ đó vội chạy đến vây quanh Thiên tử. Những Thiên nữ đã thọ sinh từ lâu thì không hổ thẹn, muốn chạy nhanh ôm lấy Thiên tử, cùng vào rừng thọ lạc. Nhờ nghiệp thiện được các Thiên nữ xinh đẹp đáng yêu cùng thọ lạc. Cõi ấy có núi rừng, ao sen, hang khe, sông suối, đất bằng đẹp. Có hang bằng vàng, nhà cửa bằng cành cây, chim chóc hót rất hay, vô số Thiên nữ cùng nhau bao quanh ca múa vui chơi hưởng lạc tại đó. Rừng đó có loài nai bằng bảy báu đi lại khắp nơi, họ nhìn ngắm mọi thứ đáng yêu. Cõi ấy có núi tên Quảng thiểu, đỉnh núi trang trí bằng bảy báu sáng rực, đá báu xen lẫn, ao sen bằng bảy báu. Trong rừng có nhiều ao hồ, nhờ nghiệp thiện nên mọi nơi đều đẹp. Họ ở đó ca múa vui chơi hưởng lạc. Chư Thiên cùng thọ lạc xong, lại vào nước vui chơi, cứ thế họ sắp rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nhờ nghiệp thiện nên vui chơi mãi. Chư Thiên ấy tự hiện nghiệp tướng, danh tự, trên thân. Từ nơi thân họ biết được tên tuổi hình tướng của mình vào đời trước tạo nghiệp lành gì, tu bằng tâm nào, làm vào lúc nào, do nhân gì, sinh ở cõi nào? Phước đức thượng, trung, hạ, đầy đủ tài vật, ví như người vẽ giỏi vẽ mọi ở khắp nơi đều rõ ràng, tên tuổi của vị trời ấy cũng vậy. Họa sư nghiệp thiện vẽ hết các nghiệp lành ở cõi lành, hình sắc, ánh sáng đều rất đáng yêu, vẽ vị trời ấy ai cũng thích nhìn. Như hình sắc đẹp của nghiệp thiện mà có ra thân vị trời ấy. Do vẽ như vậy nên hình tướng, danh tự hiện ra rất đẹp như luyện vàng ròng, các báu xích liên hoa, báu xanh xinh đẹp đáng yêu. Thân tướng của vị trời ấy xinh đẹp gấp trăm lần. Tướng vẽ đó họ không tự thấy được. Vì sao? Vì là tướng dưới cằm, trên yết hầu nên không thấy được. Thiên tử nào chưa phóng dật thì nhìn nhau thấy được. Lại nhờ nghiệp thiện khác họ nhìn nhau thấy được tướng này. Chư Thiên cõi Quảng bác hành có những việc hy hữu như vậy. Thiên tử ấy lại có tướng lạ khác, tướng trên trán cũng như tướng yết hầu nhờ nghiệp thiện nên có những sắc tướng do nghiệp tạo ra như vậy. Ngay giữa trán mình Thiên tử thấy hết sắc tướng của những việc vì sao bị thoái đọa, lúc nào thoái đọa, thoái đọa thì sinh vào đâu? Những tướng lạ này đều do nghiệp tạo ra. Mọi thứ trên thân Thiên tử ấy như vòng hoa… đồ xinh đẹp giống như vòng hoa trang sức trên đầu của chư Thiên cõi khác. Nhờ nghiệp thiện tự thân thành thục nên được quả báo cùng các Thiên nữ vẽ ra các thân đẹp vui chơi thọ lạc ở khắp các vườn rừng của cõi Quảng bác hành. Thọ lạc xong, họ đi đến sông Thiện tạp. Sông ấy bắt nguồn từ núi Tạp ái chảy xuống nên gọi là Thiện tạp. Sông ấy có nhiều vật báu, chim chóc hót rất hay, cây cối sum suê, bờ sông có đủ các loại hoa đẹp nhiều màu sắc khác nhau, vô số Thiên nữ vui chơi trên bờ sông. Lại có dòng sông đẹp khác tên Tạp hà. Sông này bắt nguồn từ núi Tạp sắc nham nên gọi là Tạp hà. Thiên tử nào đến sông này sẽ nhớ được nơi sinh của mình. Nếu Thiên tử ấy từ cõi địa ngục thọ sinh ở đây thì cũng biết rõ, biết rồi thì có đủ năm dục với các công đức đáng yêu. Các Thiên nữ vui mừng dạo chơi thọ lạc. Vì biết được khổ não mình từng chịu nên quên hết hoan lạc, chán dục, nói kệ:

Trong ngọn lửa địa ngục
Tất cả khổ vô cùng
Chúng ta hết nghiệp ác
Được sinh ở cõi này.
Nghiệp thiện quả cũng thiện
Trang sức các công đức
Nghiệp ác nên quả khổ
Chắc chắn chịu như vậy.
Ta ở trong khổ vui
Lưu chuyển trong sinh tử
Bị gió nghiệp thổi động
Như sóng trong biển lớn.
Những kẻ tâm tạo ác
Thích làm những việc ác
Vì không tạo nghiệp lành
Nên đọa vào địa ngục.
Ra khỏi địa ngục ấy
Sinh lên cõi trời này
Quên khổ não cõi ấy
Nên lại tham dục lạc.
Cảnh giới lưu chuyển này
Khổ vui cứ nối nhau
Nhưng tâm rất bền chắc
Chịu khổ không biết mệt.
Bờ khổ vui nối nhau
Dối gạt hết các căn
Và lưới ái trói buộc
Trôi trong vòng sinh tử.
Bỏ ngục, sinh cõi quỷ
Hết quỷ làm súc sinh
Dần dần thành loài rồng
Rồng chết sinh ba chỗ.
Nghiệp lưu chuyển trong đời
Cũng như bánh xe lăn
Vì tập khí từ lâu
Không sinh tâm mỏi mệt.
Tham cung điện cõi rồng
Không thích khổ địa ngục
Lưu chuyển trong ngục hữu
Có nơi vui nơi khổ.
Ngàn khổ Bát-đầu-ma (địa ngục)
Trăm ức Bát-đầu-ma
Chịu khổ như thế đó
Vì si không biết mệt.
Ba cõi đều không vui
Tất cả đều là khổ
Chúng sinh bị si gạt
Mà không biết mỏi mệt.
Đã chịu khổ như vậy
Vì si tạo nhân khổ
Do nhân nên có quả
Như trái từ hạt giống.
Cảnh giới mê hoặc tâm
Dũng mãnh có sức lớn
Chúng sinh đều phục tâm
Để luôn được tịch tĩnh.
Tâm đã điều phục rồi
Cảnh giới sẽ chuyển theo
Luân hồi trong ba cõi
Không thấy được chân đế.
Ví như do gió thổi
Làm sóng biển nổi lên
Chính vì tâm làm duyên
Luôn luân chuyển trong đời.
Chúng sinh ham người nữ
Lệ thuộc trong khổ vui
Không đến được cõi lành
Nơi chẳng còn khổ não.
Ai nghĩ đến khổ não
Sẽ sinh tâm nhàm chán
Vừa quên hết khổ não
Là tham lạc phóng dật.
Người nào nhớ biết được
Khổ não của địa ngục
Dục lạc trong cõi trời
Nhỏ như những hạt bụi.

Vị trời ấy nhớ hết nơi mình từng thọ sinh, ở bên sông Tạp hà của núi Tạp sắc nham, Thiên tử lại nhớ hết nơi mình từng thọ sinh, nếu bỏ đi thì quên hết nơi thọ sinh cũ, quên hết khổ. Vì quên hết nên tham đắm cảnh giới, thọ hưởng dục lạc nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc. Hưởng lạc xong họ lại đến núi Cửu dục đáng yêu. Núi ấy có dòng sông, ao sen đẹp, nước trong sạch chảy quanh núi. Trong ao có nhiều thiên nga, vịt trời, uyên ương đẹp, hai bên bờ sông bằng báu vàng, nước sông chảy tạo đủ âm thanh. Núi ấy có cả vạn dòng sông như vậy. Cây cối sum suê chim chóc vui nhộn. Trong các dòng sông ấy có bốn sông đẹp nhất:

  1. Tốc lưu.
  2. Kim man.
  3. Tỳ-lưu-ly thủy.
  4. Lạc phiêu.

Do nghiệp quả thành thục nên chư Thiên rất vui, trang sức đủ các y phục, vui chơi thọ lạc đến sông Tốc lưu. Gần bờ sông có hoa dài đẹp, có rừng lớn tên Vô lượng lạc, hoa nở rộ, cành cây che rợp, không có chỗ trống, có trăm ngàn hoa đẹp. Trong sông có nhiều loài chim, thân chim bằng tạp bảo, tiếng chim vang khắp nơi. Bờ thứ hai của sông Tốc lưu có ao tên Túy phong tuần hành như mặt trời mới mọc. Trong ao có hoa sen đỏ thơm xông khắp ao. Hai bờ ao, một bên có rừng, một bên có ao hoa. Sông ấy dài năm trăm do-tuần, rộng năm do-tuần. Nước sông trong trên mặt nước có hoa mọc kín, cánh hoa đủ màu có hương thơm dịu. Hương ấy xông khắp năm do-tuần. Chư Thiên cõi ấy, có người ở trong rừng, người ở trong ao sen tha hồ vui chơi thọ lạc cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc, thân phóng ánh sáng.

Nhờ sức nghiệp thiện chư Thiên cõi Quảng bác hành vui chơi thọ lạc trên bờ sông Tốc lưu. Sông Kim man thì bắt nguồn từ đỉnh núi Y. Sông này rất đẹp ở đỉnh núi Y giống như vòng hoa vàng nên gọi là sông Kim man. Sông này có công đức: Nước sông là rượu nhưng không có lỗi lầm say, đầy đủ sắc hương vị xúc vừa ý, tùy ý muốn không trở ngại, không tán loạn. Thiên tử cùng Thiên nữ uống rượu thọ hưởng hoan lạc. Mỗi Thiên tử có vô số Thiên nữ vây quanh, tâm ý tham đắm cảnh giới của năm dục, nghe năm âm nhạc hay cùng Thiên nữ tha hồ thọ hưởng hoan lạc bên bờ sông Kim man không biết chán cảnh giới. Họ lại vui chơi thọ lạc từ thung lũng này qua thung lũng khác, từ ao sen này đến ao sen khác, từ vườn cây này đến vườn cây khác, từ gốc cây này đến gốc cây khác. Cứ thế họ đi khắp nơi thọ nhận dục lạc. Sau đó họ lại đến sông Tỳ-Lưu-ly thứ ba. Nước sông trong sạch như lưu ly, cây cối bằng lưu ly, chim bằng lưu ly bay nhảy trên sóng nước. Nước sông sạch, sâu, chảy rất chậm tạo ra tiếng hay. Nhờ oai lực nơi nghiệp thiện nước sông lưu ly rất đẹp. Khi chư Thiên muốn thọ lạc thì đến sông này tùy theo ý niệm. Vì tham ái cảnh giới và hoan lạc nên họ không dừng một chỗ nào để thọ lạc. Có người ở trên bờ sông thọ lạc, có người vào trong nước hoặc cùng Thiên nữ đến nơi vui chơi, thọ lạc. Các Thiên chúng cỡi chim bay từ sông này đến sông khác, từ xoáy nước này đến xoáy nước khác, từ một đợt sóng này đến đợt sóng khác. Có người vào trong nước, vào rồi lại ra, đi vào nơi khác. Có Thiên tử từ hoa sen này đến hoa sen khác, từ rừng Ưu-bát-la này đến rừng Ưu-bát-la khác. Cứ thế họ đi khắp trăm ngàn nơi thọ hưởng dục lạc không sao ví dụ được. Lại nhờ nghiệp thiện ngay cảnh giới tịch tĩnh của sông Tỳ-lưu-ly, vị ấy thấy hết nghiệp quả. Thiên tử nào đã giữ giới thì ngay trên sông này thấy được nghiệp nhân đã làm sinh lên cõi thanh tịnh của nơi này. Cứ thế vị này nhớ hết việc xưa, vị này trước tin sâu ruộng phước, với tâm thanh tịnh, tất cả chư Thiên đều nghĩ như vầy: Oai lực nơi cảnh giới làm ta lưu chuyển như thế, ta bị trôi nổi trên sông ái trong nước năm dục mà ta không biết. Khi vô thường đến, ta phải thoái đọa. Như tướng nghiệp đã làm từ quá khứ mà có nhân này hiện ra trên yết hầu. Thấy tướng đó, Thiên tử biết được do nghiệp nhân đời quá khứ, sinh lên cõi này. Thọ lạc như vậy đến khi nghiệp thiện hết, ở cõi trời phải bị thoái đọa. Nghĩ xong, họ cùng bàn nhau. Họ lại thấy nơi sợ hãi trong năm đường nên tất cả đều nhàm chán. Ở trên bờ sông lưu ly, họ nói kệ:

Quá khứ tu nghiệp thiện
Được người thiện yêu mến
Sinh cõi này thọ lạc
Dần dần đến cõi chết.
Nghiệp hết phải thoái đọa
Quả báo lành cõi trời
Tất cả các dục lạc
Đều chấm dứt không còn.
Nằm trong tay vô thường
Tất cả đều hư hoại
Pháp nào là vô thường
Đều làm người tham đắm.
Như vậy pháp vô thường
Đưa đến chỗ tham đắm
Kẻ ngu si ít trí
Tham say trong dục vị.
Ngu không biết tội lỗi
Như quả độc ba ca
Bị sắc, thanh… trói buộc
Vì ái chịu khổ đau.
Nghiệp ác hại chúng sinh
Không có được tự chủ
Vì nghiệp ác mê hoặc
Nên chịu quả cũng ác.
Những kẻ tham dục vị
Bị hại như trái độc
Tham dục không biết đủ
Nên đọa vào địa ngục.
Ai thích hành thí, giới
Sẽ hưởng phước thí, giới
Cứ luôn làm như vậy
Sẽ được sinh lên trời.
Giữ giới luôn tu tập
Trừ bỏ mọi nghiệp ác
Cung kính giữ oai nghi
Sẽ được sinh lên trời.
An ủi thương chúng sinh
Tin sâu giáo pháp Phật
Thu phục tâm tịch tĩnh
Sẽ được sinh lên trời.
Từ bi, không sân hận
Với kẻ thù của mình
Người luôn tịch tĩnh tâm
Sẽ được sinh lên trời.
Người nào không sân hận
Làm lành, không não hại
Kẻ mạnh mẽ đều phục
Sẽ được sinh lên trời.
Giữ giới nói chân thật
Nhưng không cần nói nhiều
Biết chắc chắn mong manh
Sẽ được sinh lên trời.
Ai không thích thế gian
Xa lìa pháp già chết
Luôn ham thích Niết-bàn
Sẽ được sinh lên trời.
Dưới gốc cây, nghĩa địa
Trong hang núi khe suối
Luôn nhất tâm thiền định
Sẽ được sinh lên trời.
Đúng thời kính cha mẹ
Không gần những bạn ác
Luôn thực hành tâm từ
Sẽ được sinh lên trời.
Không thích những thành ấp
Nơi vui chơi thưởng ngoạn
Ở một chỗ biết đủ
Sẽ được sinh lên trời.
Ai khéo quán thân mình
Thấy rõ thân bất tịnh
Biết thân mình là thế
Sẽ được sinh lên trời.
Ai biết được lưới pháp
Biết các lưới pháp khác
Không chìm đắm sinh tử
Sẽ được sinh lên trời.
Ai biết rõ các pháp
Do các nhân duyên sinh
Dù thấy vẫn không thích
Sẽ được sinh lên trời.
Tâm thay đổi như huyễn
Như thành Càn-thát-bà
Ai điều phục tâm này
Sẽ được sinh lên trời.
Người biết rõ một tướng
Hay biết được hai tướng
Tâm nhàm chán dục vọng
Sẽ được sinh lên trời.
Xem vợ người như mẹ
Và tất cả như cha
Có tâm bình đẳng này
Sẽ được sinh lên trời.
Không nói lời hai lưỡi
Thích hòa hợp mọi người
Ngay thật không keo kiệt
Sẽ được sinh lên trời.
Xem vật chất của người
Đều như là đất đá
Vui trong sự biết đủ
Sẽ được sinh lên trời.
Suốt cả ngày lẫn đêm
Luôn trừ bỏ biếng nhác
Siêng năng trong mọi lúc
Sẽ được sinh lên trời.
Bỏ được mạn, tham, sân
Và trừ tâm biếng trễ
Người trừ bỏ như thế
Sẽ được sinh lên trời.
Không ham thích năm trần
Không phá hủy giới cấm
Người trí luôn hộ giới
Sẽ được sinh lên trời.
Ai biết được bốn thủ
Và biết rõ bốn đế
Người trí biết như vậy
Sẽ được sinh lên trời.
Ai biết nhân quả khổ
Và biết sự diệt khổ
Người biết chắc như vậy
Sẽ được sinh lên trời.
Thân tuy bị suy não
Vẫn không bỏ chánh pháp
Người giữ gìn chánh pháp
Sẽ được sinh lên trời.
Thân mặc áo hoại sắc
Và mặc áo phấn tảo
Tâm lành không tạo ác
Sẽ được sinh lên trời.
Lúc nào cũng thiền định
Luôn có tâm xuất thế
Thích ở chỗ vắng lặng
Sẽ được sinh lên trời.
Dù được người khác cho
Vật đẹp hay là xấu
Tâm không vui không buồn
Sẽ được sinh lên trời.
Thân mặc áo thô xấu
Loại áo người vứt bỏ
Biết đủ về y phục
Sẽ được sinh lên trời.
Dù ở nơi cao sang
Hay ở chỗ nghèo hèn
Không sinh tâm khổ vui
Sẽ được sinh lên trời.
Các sắc xanh vàng trắng
Mà chính mắt nhìn thấy
Luôn nhìn đúng như thật
Sẽ được sinh lên trời.
Nghe tiếng dù hay dở
Không sinh tâm yêu ghét
Chánh tâm không tán loạn
Sẽ được sinh lên trời.
Người điều phục sáu căn
Không ham thích cảnh giới
Thâu tâm không tán loạn
Sẽ được sinh lên trời.
Làm lợi ích lớn vậy
Sẽ luôn hưởng diệu lạc
Làm hết mọi việc đó
Được sinh lên cõi trời.
Trong tất cả hành nghiệp
Những việc này hơn hết
Người hành pháp vô cấu
Sẽ được sinh lên trời.
Ai biết rõ nghiệp báo
Và nhân tạo nghiệp báo
Luôn luôn sợ khổ não
Sẽ được sinh lên trời.

Nhìn dưới cằm, trong cổ họng, thấy những tướng ấy, người này rất lo sợ nên nói kệ trên. Vì bản tánh phóng dật, vì nghiệp quả mình nên khi họ ở bên bờ sông thì có tướng hiện ra trong yết hầu, nếu đến chỗ khác thì không thấy nữa, nếu có nhân duyên thì thấy được, nếu không nhân duyên thì dù có vẫn không thấy. Vì sao? Vì các pháp đều do duyên sinh. Lại vì bản tánh phóng dật, sống phóng dật nên chư Thiên ấy vừa rời khỏi núi Cửu dục là đến núi Bảo vi. Vì tâm vui mừng nên trang sức đủ thứ, tham dục hiện tại lôi kéo tâm, không nghĩ đến sự lo sợ của đời sau. Do tâm dao động không tịch tĩnh nên ca múa vui chơi thọ lạc trong cõi này. Bên bờ sông cây cối sum suê, đủ các loại hoa, chim chóc vui nhộn. Lại có ngọn núi đẹp hơn ngọn núi Bảo vi. Khắp các trụ xứ đều có các báu xen lẫn. Vì tham lạc chư Thiên muốn đến đó xem. Từ xa, bất chợt họ thấy ánh sáng vây quanh núi này như xuyên cả hư không mà họ chưa từng thấy bao giờ. Ánh sáng xanh, vàng, đỏ, tía của núi này chiếu đến vạn do-tuần. Ánh sáng của tạp bảo phóng ra hơn các ánh sáng khác. Ánh sáng của núi báu này giống như ánh sáng núi Tu-di có thể làm mất ánh sáng của các núi khác. Ai thấy ánh sáng núi này đều vui mắt. Núi Bảo vi lại có những thứ tiếng làm vui tai như tiếng suối, tiếng chim khổng tước cánh bằng bảy báu, tiếng lưới linh trên cây báu bị gió thổi phát ra. Núi Bảo vi lại có những thứ làm cho tỉ căn thích thú dù Thiên tử chưa đến núi này, đó là hương thơm của các loài hoa. Núi này lại có những thứ làm cho thiệt căn ưa thích là loại rượu thơm ngon đẹp và các trái ngon làm cho no đủ. Núi này lại có khả năng làm cho thân chư Thiên có được vô số y phục mềm mịn và có gió mát thổi vào làm thân vui thích. Núi này có khả năng đem lại mọi hoan lạc cho chư Thiên làm cho năm căn vui thích thọ lạc. Núi này lợi ích các Thiên chúng như vậy. Chư Thiên đã đến núi Bảo vi, trong núi phóng ra vô số ánh sáng vây quanh, có trăm ngàn sông suối, ao sen đẹp, trăm ngàn vật báu như vàng, lưu ly, báu xanh, bạc… bản tánh của chư Thiên đã vui nhưng khi thấy núi này họ càng vui hơn, cùng Thiên nữ vui mừng thọ lạc. Lại mong cầu thấy được những hang động, ao sen, rừng cây của núi Bảo vi. Họ đi từ núi này đến núi khác, từ sông nọ đến sông kia hưởng đủ vị ngon, từ rừng báu này đến rừng báu khác. Ở chỗ nào họ cũng đều thấy các loài chim, nghe tiếng hót, nghe năm âm nhạc, vui chơi hưởng lạc. Năm căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân tiếp xúc năm cảnh đáng yêu sắc, thanh, hương, vị, xúc. Các căn thọ hưởng dục lạc nơi cảnh giới. Vì phóng dật tham ái cảnh giới nên họ quên hết mọi khổ vui trong quá khứ, quên hết những tướng danh tự của nghiệp quả đã thấy trong yết hầu. Cứ vui chơi thọ lạc như vậy nên quên hết những nghiệp mình làm. Cõi ấy có một nơi hơn núi Bảo vi tên là Tịnh vô cấu, Ở đây họ nhìn thấy bụi báu, mọi nơi trên điện này đều có bụi báu. Cõi Thanh tịnh này mà còn có bụi báu huống gì là những nơi khác. Do nghiệp, họ có đủ các loại trang sức trên thân xinh đẹp. Khi nghiệp hết, chư Thiên thoái đọa. Do oai lực của nghiệp thiện mà họ đã tạo, từ trong yết hầu, họ thấy được những tướng danh tự. Lúc mới thấy họ không nhàm chán. Vì sao? Vì ngu si nên vừa được dục vị là tham đắm không chán. Thiên tử ngu độn này nếu được người chỉ dạy hoặc tự biết thì thấy biết được tội lỗi của dục, nhưng việc đã đến rồi mới sợ. Do tham đắm dục vị nên về sau khi thấy được tội lỗi của nó thì đã bị lửa hối hận thiêu đốt, tự trách: Cớ sao từ trước ta không bỏ dục. Dục này như dao, lửa, chất độc, dục này là nhân của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ta vì dục này nên bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, về sau bị lửa hối hận thiêu đốt. Người tu tâm thì không tham dục, thấy tội lỗi của dục thì không tham đắm nữa. Nhờ trí tuệ thấy tội lỗi của dục nên về sau không hối hận. Ai không tham lạc cảnh giới là được vui. Đó là do tu tâm từ trước.

Bấy giờ, Thiên tử tuần tự đi đến núi có mặt đất sáng như gương. Nhìn vào gương nghiệp đó chư Thiên tự thấy thân nghiệp của mình rất rõ ràng. Chư Thiên nào từng tu thân, khẩu, ý thì soi vào gương nghiệp tự thấy thân mình, ở giữa trán hiện ra những tướng nghiệp quả sinh tử như thời gian, xứ sở, nhân duyên và tướng thoái đọa, thấy được tướng sắp thoái đọa của chư Thiên khác. Soi vào gương nghiệp họ thấy được những tướng danh tự do sinh nghiệp hay dư nghiệp hiện ra. Chư Thiên ở cõi Dạ-ma thoái đọa là do dư nghiệp, sinh nghiệp hoặc do nhân ác của thân, khẩu, ý nghiệp. Họ sẽ sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Bỏ thân súc sinh, bị phóng dật hành dục dối gạt, gió nghiệp thổi tạt nên sinh vào nơi khác. Nhìn vào giữa trán họ thấy hết tướng danh tự do tội lỗi của dục đưa đến. Từ tội lỗi dục sinh ra dục khác. Người tu pháp quán vô dục bằng trí sáng thì đối trị được, không bị dối gạt. Lại có cách đối trị dục khác xem sắc đẹp là hư vọng, cứ thấy sắc dùng tâm quan sát đúng thì tâm dục không tăng trưởng. Cứ thế quan sát kỹ về tội lỗi của năm dục cảnh giới, Thiên tử ấy sẽ không tham ái, tâm tham ái không hại được, không chướng ngại được. Tham ái chính là nhân sinh tử. Như vậy nhìn vào trán Thiên tử thấy hết mọi tướng danh tự do dục sinh, nếu Thiên tử tu tập thân ý thù thắng thì trừ bỏ được dục, thấy được tội lỗi của dục nên biết cách ra khỏi dục. Vì biết thoát khỏi tội lỗi dục nên xem những cảnh giới tham lạc từ xưa như ăn phải trái độc, những ái dục hiện giờ cũng vậy. Vì sao? Do tham lạc cảnh giới nên đọa vào đường ác, người ấy tu tập như vậy trừ bỏ cảnh giới. Nhìn vào giữa trán thấy hết mọi tướng danh tự do tạo nghiệp ác đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Thấy được nghiệp ấy thì nghiệp ác sẽ mất, nghiệp lành sinh ra. Nhờ sức nghiệp thiện, các Thiên tử thấy được như vậy sinh tín tâm sâu xa, tạo nghiệp lành, cho đến tạo chủng tử nghiệp lành Niết-bàn. Những Thiên tử thiếu trí thì tham dục lạc, bị lưới nghiệp từ trước trói buộc nên thấy tướng danh tự này, tự nghĩ: Ở đây sau này ta bị thoái đọa thì được sinh vào cõi người hoặc cõi trời. Do thấy nơi thọ sinh nên họ không lo sợ, lại đi vào năm cảnh giới, trôi nổi trên sông ái, vì phóng dật nên sống phóng dật. Thiên tử này chưa từng học hỏi, nghe hiểu, thiếu trí nên không biết dục, không bỏ dục, mất pháp thiện, lại tiếp tục tạo nghiệp địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh khác. Vì sao? Vì nghiệp thiện đã hết, bị dục dối gạt, nên đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Bấy giờ có con chim tên Hiền ngữ thấy chư Thiên sống phóng dật nhờ vào nghiệp thiện, nên nó hót kệ:

Nếu nghiệp thiện dắt tâm
Thì sẽ được quả thiện
Kẻ làm việc bất thiện
Thì phải chịu quả ác.
Tất cả những dụng tâm
Như đất, nước, gió, lửa
Tùy theo duyên có được
Tâm lưu chuyển như vậy.
Tâm có thể đi lên
Cũng có thể đi xuống
Mau đến được cõi trời
Cũng mau vào đường ác.
Tâm làm lành rất nhanh
Ai khéo phòng hộ tâm
Tu tập tất cả pháp
Đoạn trừ các nghiệp ác.
Người chủ thực hành pháp
Chính là cái bản tâm này
Vì có năng lực đó
Nên được gọi là tâm.
Tâm luôn tìm lỗi người
Không tin tưởng người khác
Thể tánh rất loạn động
Sức mạnh không giữ được.
Bất chợt làm việc thiện
Bất chợt làm việc ác
Hoặc tạo nghiệp vô ký
Không thể nào lường được.
Tâm đến không thể biết
Ra đi cũng chẳng hay
Trước không sau lại có
Đã có lại thành không.
Tâm không có chỗ dừng
Tìm hết cũng chẳng được
Vì không có hình tướng
Nên không thể nắm bắt.
Do nhân duyên hòa hợp
Niệm niệm tâm sinh ra
Như ngọc chiếu phân trâu
Nhân duyên phát ra lửa.
Như vậy các căn, sắc
Tất cả đều do tâm
Chẳng phải do một thứ
Nhiều thứ hợp sinh tâm.
Đã biết tâm như thế
Và biết khó điều phục
Ý thuận hành chánh pháp
Cẩn thận chớ tham dục.

Nghe vậy, Thiên tử tu hai nghiệp thân ý, đã tu tâm nên không tham cảnh giới, tùy thuận pháp hành, bỏ thân cõi Dạ-ma lại sinh vào nơi cao hơn, sống ở cõi trời. Nếu sinh vào cõi người thì được làm vua, quan, có lúc gieo hạt giống giải thoát của ba quả Bồ-đề, hoặc đủ nghiệp thiện làm Chuyển luân vương. Những Thiên tử nào đã thấy nghiệp tướng trong gương mà không điều phục tâm thì sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Lại nữa, các Tỳ-kheo! Đã quan sát tướng nghiệp quả danh tự hy hữu, lại quan sát thấy người siêng năng, thành tín vẽ tượng Như Lai, hoặc với tín tâm tịch tĩnh viết lại kinh điển chánh pháp sẽ được sinh lên trời. Khi nhìn vào trong yết hầu, giữa trán thấy vậy thì tin tưởng. Còn những người không có tâm chánh tín hoặc bị vua sai, người khác sai, hoặc vì nuôi mạng sống mà viết kinh pháp vẽ tượng Như Lai cũng được sinh lên trời nhưng nhìn thấy thì không tin, luôn sống phóng dật. Người ấy cũng do làm lành mà được sinh lên trời, tuy thấy nhưng không tin là vì không có tín tâm và không suy xét tướng ác. Như vậy nếu không có nhân thì không có quả. Tất cả đều do nhân nghiệp tương tợ sinh ra. Thiên tử nào tánh thích phóng dật, sống phóng dật, hưởng hoan lạc nơi cảnh giới của năm dục không biết chán thì dục lạc càng tăng trưởng, lại ở mãi trên núi Bảo vi này thọ hưởng năm dục công đức, cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc. Sau đó, bỏ núi với công đức của năm dục này, đi đến núi Châu vi thứ ba, vui vẻ trổi năm âm nhạc, vui chơi trên đường, thọ hưởng mọi thứ tốt đẹp. Trong chốc lát đã có đủ dục lạc tha hồ thọ hưởng nơi cảnh giới dục lạc tùy ý muốn. Thọ lạc bên bờ sông trong núi kia xong, họ mới đến núi Châu vi thứ ba này. Cứ thế, thọ hưởng dục lạc nơi cảnh giới đáng yêu, tâm ái tăng trưởng. Vì không thoát khỏi tham ái ấy nên bị lửa dục thiêu đốt, không biết chán sắc, thanh, hương, vị, xúc và cảnh giới trong sông như cá di-na. Gian nhà thứ nhất của núi này là báu xanh, gian thứ hai là báu xích liên hoa, gian thứ ba là xa cừ, gian thứ tư là bạch ngân. Thấy vậy chư Thiên vui mừng nói với nhau: Chư Thiên hãy nhìn những thứ ánh sáng và những thứ xinh đẹp này. Ánh sáng vật báu này chiếu đến trăm vạn do-tuần. Vào trong ánh sáng đó thì không thể phân biệt được các màu xanh, vàng, đỏ, trắng của ánh sáng. Nói xong, chư Thiên lại đi đến rừng Thọ trù. Chư Thiên cùng Thiên nữ vui vẻ trổi nhạc, nhìn ngắm khắp nơi, tuần tự đến rừng đó. Do nghiệp thiện thuần thục nên có đủ thứ trang sức vui chơi hưởng lạc, mãi mê phóng dật, bị ái sai khiến. Rừng ấy có cây bằng bảy báu, có hai dòng sông đủ hương, vị, xúc, tùy tâm ý của chư Thiên nước sông luôn tràn đầy, luôn lưu chuyển. Trên bờ sông bạc có nhiều loại chim khác nhau. Sông thứ nhất tên là Tạp thủy, sông thứ hai tên là Như ý. Tánh của nước sông Tạp thủy luôn trong sạch, tràn đầy, uống không bị say. Do nghiệp thiện, nước sông đủ màu sắc nên gọi là sông Tạp thủy. Sông Như ý thứ hai thì có đủ mọi thứ tùy tâm của chư Thiên. Muốn thức ăn thì có thức ngon sạch thơm, muốn rượu thì có rượu thơm ngon, muốn hoa nơi sông, núi thì có đủ thứ đẹp, thơm đầy sông, trong hoa có nhiều ong. Tên của loài hoa ấy không thể nói hết được. Sông Như ý này có đủ mọi thứ như vậy. Trong rừng Thọ trù có những hoa xinh đẹp như thế. Chư Thiên ở trong sông vui chơi hưởng lạc đủ sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nhờ nghiệp thiện, họ cùng nhau uống rượu hưởng lạc, nghe nhạc vui tai, tha hồ thọ nhận hoan lạc. Không buồn khổ, đói khát, lo sợ, không biết chán cảnh giới ví như uống nước mặn thì càng bị khát, phân biệt mọi thứ, hưởng diệu lạc cõi trời. Lúc họ ở trong sông thọ lạc có loài chim tên là Hà hành, thấy chư Thiên phóng dật, chim hót kệ:

Ví như nước sông chảy
Dục lạc trời cũng thế
Mạng sống không dừng yên
Vì ngu nên không biết.
Chính vì già bệnh chết
Làm nghiệp hết, thoái đọa
Thiên không rời pháp này
Luôn chạy theo dục lạc.
Mạng sống không thường còn
Lạc ba cõi cũng vậy
Thiên ngu bị dục dối
Mà không hề hay biết.
Như giọt nước hư không
Nhất định bị rơi xuống
Các diệu lạc cũng thế
Chẳng khác gì giọt nước.
Như gió thổi cát bụi
Lăng xăng va chạm nhau
Di chuyển trong hư không
Thân luân hồi cũng thế.
Lạc này không thù thắng
Dối gạt chẳng định yên
Hòa hợp cùng độc ái
Như thức ăn lẫn độc.
An lạc thù thắng nhất
Chính là sự bất tử
Không có ái biệt ly
Nơi không có lạnh nóng.
Nơi đó luôn an ổn
Bậc trí dạy như vậy
Nơi nào không sống chết
Nơi ấy chẳng khổ đau.
Do yêu mến người nữ
Nên đưa đến khổ não
Tham ái là chủng tử
Sinh vào cõi địa ngục.
Lạc ái sinh ra khổ
Cớ sao nói là lạc
Nó là khổ trong khổ
Về sau như chất độc.
Do đó sinh ở đây
Đều là vì gió nghiệp
Lưới nghiệp si bao trùm
Tham ái nơi thọ sinh.
Những nghiệp thiện bất thiện
Luôn đi chung với họ
Theo đuổi khắp mọi nơi
Như hương không rời hoa.
Ngươi hưởng lạc như vậy
Sau sẽ mất tất cả
Như mặt trời đã lặn
Ánh sáng ngày không còn.

Nhờ nghiệp thiện cõi trời, loài chim ấy đã hót kệ cho chư Thiên phóng dật nghe. Thiên tử nào sống phóng dật thì khi nghe kệ này liền nói: Chim này nói lời lành đã giác ngộ ta. Như lời chim hót ta sẽ đạt được. Chim này hót lời thật nhưng vì chúng ta sống phóng dật nên không trừ bỏ được. Về sau nhất định chúng ta phải bị hủy hoại, lo sợ nhiều. Từ nay chúng ta hãy đối trị phóng dật, trừ bỏ phóng dật. Thiên tử này chuyên tâm thiện ý từ bỏ phóng dật rất lâu, biết lỗi của dục. Suy xét xong nhưng vì tâm động, sức tâm lớn mạnh hoặc vì dục vọng, huân tập từ lâu nên lại tham dục. Thiên tử lại phân biệt các cảnh giới càng thêm hưởng lạc, trong cảnh dục có tiếng chim, vườn rừng, ao hoa đẹp, núi bảy báu trang trí bằng ao sen, có trăm ngàn bầy ong vui nhộn trong ao, có dòng sông đầy thức ăn uống, trăm ngàn cây che rợp dòng sông. Dưới những cành cây có hoa, dùng hoa làm nhà. Thân chư Thiên có ánh sáng đẹp, không khổ não, nhờ nghiệp thiện nên được quả báo đó. Chư Thiên thượng, trung, hạ đều không ganh ghét nhau, luôn yêu mến nhau, cùng một lòng, cùng hưởng dục lạc, không hại nhau, cùng vui chơi thọ lạc. Thọ lạc xong, chư Thiên cùng bàn luận: Trước kia chúng ta nghe, vị chủ cõi Dạ-ma tên là Mâu-tu-lâu-đà đang vui chơi thọ lạc. Chúng ta hãy cùng đến đó. Cõi của chư Thiên này cách cõi Thiên vương Mâu-tulâu-đà năm trăm do-tuần. Từ xa họ nghe tiếng ca nhưng vì quá xa nên nghe không rõ. Tiếng ấy vang khắp các cõi trời nên nghe không rõ. Tiếng chim cũng có công đức như tiếng ca. Tuy nghe không rõ nhưng họ vẫn vui vẻ không biết chán. Do tâm loạn động nên các Thiên chúng quyết định đến chỗ Mâu-tu-lâu-đà thọ lạc. Rừng ấy có đủ các công đức, chư Thiên đó cùng các Thiên nữ trang sức xinh đẹp đầy đủ công đức, thân mặc vô số áo mịn, tay cầm nhạc cụ, yêu mến nhau, cùng vui vẻ. Có người bay lên hư không, có người cỡi hoa sen, cỡi hoa Ưu-bát-la thơm phức, loài ong vui nhộn, có người cỡi hoa hoa Câu-vật-đầu. Hình dáng, sắc tướng của hoa này đều như vầng trăng. Chư Thiên cùng Thiên nữ ca múa, vui chơi, thọ lạc theo cảnh giới năm dục không biết chán. Nhờ nghiệp thiện hóa ra những vật để cỡi như vậy. Do nghiệp hóa sinh có thượng, trung, hạ, nên sắc, lạc, trí tuệ, thọ mạng cũng có thượng, trung, hạ. Cứ thế chư Thiên ở khắp hư không đi đến rừng Hý lạc –nơi có đủ dục lạc, rồi đến chỗ của Mâutu-lâu-đà. Lúc chưa đến rừng Hý lạc, họ nhìn thấy rừng này như ánh lửa trong hư không, lại thấy nơi bằng báu màu xanh, nơi màu vàng trắng, nơi có màu như lửa. Từ hư không Thiên tử thấy vậy rất ngạc nhiên, cùng nói: Chư Thiên hãy nhìn những việc lạ trong hư không, ví như hư không đang khoác tấm vải đủ màu sắc mà ta chưa từng thấy. Nói xong họ ngạc nhiên, tạm dừng trong chốc lát. Chẳng bao lâu họ lại nghe tiếng ca rất hay, lại vui mừng, thán phục. Từ chư Thiên trên mặt đất đến chư Thiên trên hư không và Thiên nữ đều thích nhìn. Chư Thiên trong hư không thấy như vậy, chư Thiên trên mặt đất của cõi Sơn thọ cụ túc cũng thấy như vậy. Chư Thiên cõi Sơn thọ cụ túc cũng đi đến chỗ Thiên vương cõi Dạ-ma. Dạ-ma chư Thiên ngồi trên tòa bảy báu, trong động bảy báu, trang sức báu xanh, anh lạc và hoa sen báu khác. Lại có lọng báu sáng rực, ánh sáng chiếu soi cả ngàn do-tuần. Có ánh sáng trắng chiếu khắp hư không như hư không đang mặc y phục đẹp, cờ phướn cũng vậy.

Chư Thiên cõi Quảng bác hành thấy vậy thầm thán phục, dừng lại một lúc, họ lại biết chư Thiên cõi Sơn thọ cụ túc cũng đến chỗ vui chơi của Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Họ nghĩ: Họ cũng như ta, chư Thiên cõi Quảng bác hành lại cùng bàn luận: Chúng ta hãy cùng chư Thiên cõi Sơn thọ cụ túc đi đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Họ dừng lại một lát, chư Thiên cõi Sơn thọ cụ túc thấy chư Thiên cõi Quảng bác hành cũng thầm thán phục nói: Chúng ta hãy cùng chư Thiên cõi Quảng bác hành đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Khi ấy, chư Thiên cõi Sơn thọ cụ túc cùng chư Thiên cõi Quảng bác hành và chư Thiên trên đất hòa hợp nhau đồng đi. Trong hư không có nhiều cờ phướn. Họ ngồi trên điện báu hoặc ngồi trên lưng chim, trổi năm âm nhạc đủ năm dục công đức đi đến rừng Hý lạc – nơi Thiên vương Dạ-ma vui chơi. Nơi ấy có đủ các dục công đức của chúng, không sao ví dụ được. Họ đến đó thọ hưởng hoan lạc nơi cảnh giới của năm dục không biết chán, gần gũi nhau thọ lạc không biết chán. Thấy biết hết các nghiệp quả của chư Thiên, Tỳ-kheo nói kệ:

Ví như trời mưa xuống
Nên nước sông cùng đầy
Cũng thế vì mưa dục
Chư Thiên thêm khát dục.
Di-na sống trong nước
Nhưng thường sợ khô cạn
Khát ái lạc càng tăng
Chư Thiên không biết đủ.
Như hư không rộng lớn
Không cùng cũng chẳng tận
Dục lạc cũng như thế
Cõi dục không thể lường.
Sóng nước luôn cuồn cuộn
Nhưng biển không tràn đầy
Kẻ tham cầu dục vọng
Chẳng bao giờ biết đủ.
Thiên chưa đạt cảnh vui
Ngu si không biết đủ
Tâm luôn cầu dục lạc
Được rồi chẳng biết đủ.
Khi đã bị suy não
Tất cả đều mất hết
Do cảnh giới não hại
Vì thế hãy bỏ dục.
Đã bị tham dục dối
Phá hoại kẻ thích dục
Bị suy não thì mất
Mà chư Thiên không biết.
Cảnh giới không thể đủ
Chẳng biết đủ không vui
Người trí trừ bỏ được
Tâm không biết đủ này.
Tịch tĩnh gốc an lạc
Khổ sinh từ cảnh giới
Thế nên tu tịch tĩnh
Xa lánh các cảnh giới.
Luôn trừ bỏ phiền não
Tu hành trí vô thượng
Từ trí được giải thoát
Do phiền não buộc ràng.
Các thứ bệnh, chết… trói
Cảnh giới làm lo sợ
Lưu chuyển trong sinh tử
Đều là do cảnh giới.
Lúc hợp lúc xa lìa
Trải qua trăm ngàn kiếp
Đời đời luôn như vậy
Chỉ Đức Phật thật tri.
Vô số vui sinh tử
Và khổ não sống chết
Tất cả do cảnh giới
Đời đời luôn luôn có.
Các cảnh giới như thế
Hủy hoại kẻ ngu si
Ngu si không có mắt
Nên tham dục cảnh giới.
Tránh xa kẻ oán thù
Nghe tên cũng suy xét
Cảnh giới là kẻ thù
Vì si nên không tránh.
Ai bị cảnh giới đốt
Chính là kẻ ngu si
Bị tự nghiệp dối gạt
Vì si nên không tránh.
Như người lo sợ lửa
Nhưng vẫn gần kề lửa
Bị cảnh giới mê hoặc
Vẫn thích gần cảnh giới.
Ví như kẻ nuốt độc
Không thể được an vui
Gần si ái cũng thế
Vĩnh viễn không an ổn.
Người khát uống nước mặn
Không thể nào hết khát
Cảnh giới che lấp mắt
Không biết đủ về ái.
Bị tâm dục dối gạt
Không thỏa mãn cảnh giới
Bị các gió nghiệp thổi
Đến tận cõi xấu ác.

Quan sát biết rõ vô số nghiệp sinh tử của chúng sinh, Tỳ-kheo thương xót chư Thiên nên nói kệ trên. Chư Thiên ấy lại hòa hợp nhau cùng đi đến rừng Hý lạc – chỗ của Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Chư Thiên cứ thế mà đi, đầy đủ phục sức, hoan lạc, vườn rừng, ao hồ, trăm ngàn Thiên nữ bao quanh. Lại có Thiên tử khác ngồi trên trăm ngàn cung điện, đi trong hư không, ánh sáng chiếu khắp, ca múa vui chơi trổi năm âm nhạc, trang sức vòng hoa, xoa hương thơm, cổ đeo anh lạc, đầu đội thiên quan, gió thổi y phục tung bay tha thướt như mây, được Thiên nữ ôm lấy, vui vẻ. Lại có Thiên tử, Thiên nữ khác ca ngâm, thổi không hầu, nghe tiếng này tâm rất vui thích. Cứ thế các Thiên tử thọ hưởng dục lạc đi đến rừng Hý lạc, ở trong hư không mong cầu diệu lạc. Tất cả chư Thiên ở đây đều đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Các chư Thiên ấy theo nghiệp mình vui chơi, trang sức, đi dạo, ca hát đầy cả mười phương, họ cùng đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Trong tất cả chư Thiên cõi Dạ-ma, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà là người tối thượng. Thân Thiên vương nhờ nghiệp thù thắng nên được quả thù thắng. Như vậy, nhân quả đều giống nhau chẳng khác gì mầm hạt giống. Tất cả Thiên chúng ở điện Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà đều kém cỏi chỉ có Thiên vương là người hơn cả. Dục lạc nơi Thiên vương cũng hơn các Thiên chúng, không thể nào ví dụ được, chỉ nói được một phần nhỏ. Trên cây có chim bảy báu, miệng ngậm thân cây lo lửng trong hư không chẳng bám vào đâu. Ở chỗ khác có linh báu phát tiếng rất hay. Chư Thiên nghe được tiếng ấy đều đi đến, phân biệt thọ lạc đi trong rừng ấy. Bên ngoài rừng có nhiều chim cánh bằng bảy báu xen lẫn. Chúng ngậm vòng hoa bay quanh khu rừng. Lại có những con chim khổng tước xinh đẹp. Trên lưng chúng có ao sen. Trong ao có nhiều chim và trăm ngàn loài ong vui nhộn. Ao ấy tên là Thanh thủy. Cánh sen nhiều màu khác nhau, có cánh bằng lưu ly, bằng bảy báu, hương hoa xông khắp năm do-tuần. Trên lưng chim rất đẹp. Tiếng chim hợp với tiếng ca nhạc. Lại có chim khổng tước kỳ lạ, chúng ngậm vòng hoa. Trên lưng có hoa sen lớn. Thiên tử ngồi trên đài sen, trăm ngàn Thiên nữ vây quanh vui chơi ca múa, thọ lạc. Lại có chim khổng tước kỳ lạ, miệng ngậm vòng hoa thọ hưởng diệu lạc do nghiệp hóa ra. Trên đầu chim có cây vừa ý, nhiều hoa tươi, trên cây có nhiều chim cánh bằng bảy báu, các Thiên tử leo lên cây cùng Thiên nữ uống rượu ca hát hưởng lạc. Lại có chim khổng tước kỳ lạ, miệng ngậm vòng hoa, giữa lông chim có nhiều Thiên chúng, Thiên nữ hưởng lạc, yêu mến nhau, vui chơi ca múa. Thấy chim khổng tước ngậm vòng hoa, Thiên chúng ngạc nhiên.

Lại thấy việc lạ nữa, ao sen có những vòng hoa, có hai vạn ao sen như vậy. Không có bùn nhơ, cát bằng vàng bạc, nước có tám công đức luôn tràn đầy, có nhiều thiên nga, vịt trời, uyên ương, nhờ nghiệp thiện của chư Thiên, thiên nga hót kệ:

Hưởng dục lạc đã lâu
Lạc này không thường còn
Tất cả đều vô thường
Nhưng chư Thiên không biết.
Lạc này dù tương tục
Có lúc phải chấm dứt
Bị tâm dục dối gạt
Không hay biết thoái đọa.
Lạc này xen lẫn khổ
Che lấp nên chẳng hay
Như trong tua hoa sen
Không thấy được rắn độc.
Lại như cơm lẫn độc
Kẻ ăn bị giết hại
Diệu lạc trời cũng thế
Nhất định đọa địa ngục.
Như lưới dây rất đẹp
Ai thấy cũng thích thú
Lưới cảnh giới là thế
Thấy tốt nhưng thật xấu.
Như quả độc ba-ca
Mới nếm nhiều vị ngon
Nhưng sau lại giết người
Lạc thế gian là vậy.
Như phù du thấy đèn
Tâm ý rất thích thú
Vào đó sẽ bị đốt
Lạc này cũng như vậy.
Phàm phu không hay biết
Dục lạc giống như đèn
Tham lạc như chạm lửa
Cuối cùng chẳng được vui.
Như nai vì khát nước
Chạy theo ánh dương diệm
Cuối cùng chẳng hết khát
Lạc này cũng như vậy.
Quá khứ cùng hiện tại
Vị lai không biết đủ
Cảnh giới của cõi trời
Vì thế hãy trừ bỏ.
Tịch lạc là gốc vui
Bậc trí dạy như thế
Không suy xét gốc vui
Sẽ luôn chịu khổ não.
Nhẫn là pháp tốt nhất
Trong chánh pháp chân thật
Trí tuệ soi sáng đời
Lòng từ sinh an lạc.
Không hại, người tốt nhất
Chánh kiến, thiện tối thượng
Trực tâm an lạc nhất
Bỏ nghiệp ác cũng thế.
Ai gần bậc kỳ túc
Luôn kính trọng chánh pháp
Cúng dường các sư trưởng
Và tin nghiệp là thiện.
Luôn cúng dường Tam bảo
Chánh tâm, ý trong sạch
Và cung phụng cha mẹ
Chính là đạo Niết-bàn.
Phật dạy tất cả pháp
Pháp xuất gia hơn hết
Phạm hạnh là tối thắng
Đạt được mọi an lạc.
Phật dạy cách bố thí
Pháp thí là hơn hết
Trong thiền siêng hơn hết
Sẽ đạt được Niết-bàn.
Trong thí, giới và trí
Chỉ trí là hơn hết
Nhờ trí đến Niết-bàn
Thí, giới chỉ được vui.
Mắt thấy không chân thật
Chỉ trí thấy chân thật
Phật dạy tám Thánh đạo
Là đạo tịch tĩnh nhất.
Tứ đế là hơn hết
Như Lai dạy như vậy
Ở trong pháp ngũ lực
Sức trí tuệ hơn hết.
Thuyết giảng khắp mười phương
Không có ai hơn được
Chỉ Như Lai tối thượng
Dạy các pháp chân thật.
Trong tất cả các chúng
Thánh chúng là tịch tĩnh
Nương dựa nơi ruộng phước
Tam bảo sẽ được vui.
Phụng dưỡng cha và mẹ
Rồi cúng dường hòa thượng
Đem các pháp trong đời
Chỉ dạy cho người thấy.
Không thể thấy, nắm bắt
Như Lai dạy như vậy
Pháp là nơi an lạc
Cảnh giới chẳng phải vui.
Ai thực hành pháp này
Đi trên đường vô cấu
Đường này rất an ổn
Cõi Dạ-ma không vui.

Chim này hót như vậy là nhờ nghiệp thiện. Ngày xưa lúc ở cõi người, nuôi sống bằng chánh pháp, phải buôn bán bằng chánh pháp để bảo tồn mạng sống. Do nghiệp nhân đó nên nay làm thân chim. Nhưng nhờ nghiệp thiện xưa nên tuy làm thân chim vẫn không quên chánh pháp, đã hót kệ trên. Vì thế hãy siêng năng đọc tụng, luôn thọ trì giáo pháp. Do nghiệp thiện từ xưa, nên tuy làm súc sinh vẫn thuyết pháp được, đạt quả báo chẳng uổng.

Tất cả chư Thiên cõi Dạ-ma đi đến hai vạn ao sen đó, có đủ các sự trang sức khác nhau, các Thiên nữ xinh đẹp vây quanh. Trong ao đó có trăm ngàn na-do-tha Thiên chúng, Thiên nữ xinh đẹp thọ lạc, trổi năm âm nhạc. Có người vào hoa sen, có người ngồi trên đài sen, có người ngồi trên cánh sen, người ngồi trên tua sen, thân hình lớn nhỏ theo ý niệm. Chỉ trong nháy mắt họ đã đi được trăm ngàn do-tuần, như mắt thấy chẳng xa, chẳng gần, cùng một lúc chư Thiên đi đến cũng vậy. Như một ngón tay, mọi người đều nhìn thấy không ngăn ngại, cũng vậy có trăm ngàn chư Thiên cùng ngồi trên tua hoa mà không ngăn ngại nhau không rộng không chật. Đó là nhờ sức của nghiệp thiện của họ. Ao sen đó có thế lực công đức như vậy. Trăm ngàn Thiên tử ở trong hoa sen tha hồ vui chơi, uống rượu. Chư Thiên trú ở chốn cũ cùng chư Thiên mới thọ sinh ở trong hoa sen hòa hợp vui chơi thọ lạc, thân phóng ánh sáng hơn cả trăm ngàn mặt trời. Ở đó thọ hưởng một thời gian lâu, họ mới đến chỗ Thiên vương Mâutu-lâu-đà. Lúc họ sắp vào rừng ấy thì thấy trong rừng có nhiều màu sắc đáng yêu. Do ý nghĩ của Mâu-tu-lâu-đà mà có rừng này. Mọi thứ cây cối ở đây đều do tâm niệm mà có, từ xưa chưa từng có như vậy. Đó là do sức nơi nghiệp thiện của Thiên vương cõi Dạ-ma. Vì chưa từng thấy biết rừng này nên chư Thiên tuần tự đi vào. Chư Thiên trang sức xinh đẹp, xoa hương thơm chiên-đàn, mặc áo trời, đi ngang qua ao sen rồi đến rừng đó. Thấy vậy họ đều hổ thẹn. Do nghiệp lực nên có rừng xinh đẹp này. Nhìn những rừng khác rồi nhìn đến rừng này, chư Thiên ấy suy xét quan sát kỹ bèn nói với nhau, sau đó mới vào rừng. Vào đó họ thấy từng bầy chim anh vũ ngậm vòng hoa báu, mỗi con chim đều đeo ngọc báu ở cổ họng. Ngọc báu đó tạo thành vòng hoa, chúng bay quanh khu rừng hót kệ:

Chúng sinh này luân chuyển
Do nghiệp mình lôi kéo
Trong cầu dây già chết
Chúng sinh không nhàm chán.
Từ cõi này cõi khác
Trời, người, A-tu-la
Vì không biết chân đế
Nên bị tâm sai khiến.
Bánh xe của thế gian
Tay đẩy không chuyển nhanh
Tay nghiệp đẩy bánh xe
Chúng sinh chuyển nhanh lẹ.
Mười hai căm hòa hợp
Nằm trong trục ngu si
Do duyên xe xoay tròn
Thế gian không hay biết.

Nghe Anh vũ hót kệ xong, chư Thiên ấy nhất tâm nghĩ nhớ điều thiện, quan sát bản nghiệp, dùng tâm cẩn trọng nhớ đến nghiệp xưa, nói rằng: Chim anh vũ này hơn ta, suy xét nghiệp ta bị ái phá hoại nên vui chơi thọ lạc. Nói xong, Thiên tử muốn đến gặp Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Họ đi ngang qua chim anh vũ rồi đến rừng Hiểm ngạn man. Trong đó lại có rừng tên Mạn-đà-la được trang trí bằng trăm ngàn hoa đẹp. Có nhiều chim, ánh sáng hơn trăm ngàn mặt trời nhưng không nóng. Cây rừng có ánh sáng đẹp ai thấy cũng thích mắt, nghe tiếng chim thì vui tai, ngửi hương sen thì thích mũi, nếm vị ngon thì thích lưỡi, thân mặc áo mịn vui vẻ. Do các căn vui thích nên tâm ý cũng vui. Năm căn buộc tâm tùy thuận theo, nghĩ nhớ các pháp, dùng hai loại ý tùy thuận để biết. Họ thấy rừng Mạnđà-la như vậy. Mỗi cây trong rừng này đều có vô số Thiên nữ trang sức xinh đẹp, trò chuyện ca múa hưởng lạc mà các Thiên chúng ấy chưa từng thấy. Chư Thiên ở đây thấy các Thiên nữ trong rừng cây nhiều không sao ví dụ được. Trong rừng có vô số trăm ngàn Thiên chúng, Thiên nữ, ai nấy đều vui vẻ mong muốn được gặp Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Đó là nhờ phước lực của Thiên vương. Bấy giờ Thiên chúng ấy cùng hòa hợp đi đến rừng này. Trong rừng có nhiều sông suối, ao sen, mọi thứ trên mặt đất đều mềm mịn, có màu vàng, trang sức các báu xen lẫn. Thấy vậy, chư Thiên vui mừng thọ lạc, rồi tuần tự đến chỗ Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Ai nấy đều muốn được gặp Thiên vương và luôn yêu mến nhau như đã nói ở trước. Họ cỡi đủ mọi vật đi qua cõi này đến cõi khác. Trong đó có năm trăm ngọn núi đáng yêu, là nơi vui chơi. Các ngọn núi ấy đều bằng lưu ly, cây bằng xích liên hoa, lá bằng vàng, cây bay lá bạc, có nhiều chim bằng san hô. Lại có những thứ khác như chim, nai bằng tạp bảo, sông suối, ao hồ xinh đẹp. Họ kết cành cây thành nhà ở. Khắp nơi đều như vậy, trái cây màu hoàng kim, cành cây bằng vàng, trái bằng lưu ly, lá bằng vàng. Có trăm ngàn loài ong kêu rất vui tai. Trong sông có đủ các thức ăn uống, chim báu, tiếp xúc thì rất vui. Có chư Thiên lại thấy núi báu Du hý, đất bằng phẳng. Có người thấy đỉnh núi, cửa động, nhà bằng cành cây. Có người thấy ao sen. Thiên chúng, Thiên nữ đều vui vẻ. Có người cùng Thiên nữ ca múa, có người cùng Thiên nữ vào hoa sen vui chơi, có người vui vẻ uống rượu, có người hái hoa rải trên đất, có người kết vòng hoa trang sức trên thân, có người cùng Thiên nữ đội thiên quan báu phóng ánh sáng, thân không nhơ uế, có người cùng Thiên nữ đi trên hư không, có người cầm nhạc cụ ca hát ở trên mặt đất, cứ thế có cả trăm ngàn Thiên chúng. Thân họ trang sức đủ loại, phóng ánh sáng đủ màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Vui chơi thọ lạc trong núi xong, họ lại muốn gặp Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà nên đi vào chỗ ấy. Họ lại thấy chư Thiên cõi Tập-man. Chư Thiên ba cõi Tập man, Sơn thọ cụ túc, Quảng bác hành đều kính trọng Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Đó là do sức nghiệp thiện của Thiên vương đã tu tập từ quá khứ. Trong cõi Tập man có một vạn cung điện được trang trí bằng vô số trụ vàng… đủ màu sắc. Điện này rất đẹp, vách bằng vàng, trụ bằng lưu ly và báu xanh xen lẫn. Có điện, vách bằng lưu ly, lan can bằng vàng và báu xanh, cửa sổ bằng báu nhân-đà, có nhiều trụ bằng tạp bảo. Có điện, vách bằng lưu ly, cổng bằng vàng, cửa bằng lưu ly xen lẫn tạp bảo. Có điện đẹp, trụ bằng xích liên hoa, cổng bằng vàng, cửa sổ bằng san hô, đất bằng cát tạp bảo xen lẫn. Có nơi, vách bằng các tạp bảo, cổng bằng vàng ròng, trụ bằng bạch ngân. Bên trong điện ánh sáng rực rỡ. Điện của Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà là do các nghiệp hóa ra. Điện này bằng vàng ròng xen lẫn kim cương, trụ bằng xích liên hoa, cửa sổ bằng bảy báu, ánh sáng chiếu rọi rực rỡ. Các lầu gác cũng như vậy. Thấy thế, chư Thiên đưa mắt nhìn quanh, lại quan sát núi báu, trước là đến chỗ đại vương cõi Dạ-ma, sau mới đến điện của Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Vào đó, họ thấy mọi thứ xinh đẹp đáng yêu, đầy đủ công đức. Thấy cõi Tập man chư Thiên đều muốn gặp Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà. Họ lại vào chỗ của đại vương, thấy bảy ngàn Thiên tử vây quanh đại vương, trang sức xinh đẹp, thân phóng ánh sáng. Oai đức của các Thiên tử đều như núi báu, áo trời tha thướt, đầu đội thiên quan báu, cổ tay đeo nhiều vật báu, trên ngực trang sức vòng hoa đẹp. Bảy ngàn Thiên tử vây quanh Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà như các ngọn núi vây quanh núi Tu-di. Như các dòng sông đều chảy về biển, như các ngôi sao vây quanh mặt trăng. Thiên vương cõi Dạ-ma xinh đẹp hơn hết, ánh sáng oai đức vượt hơn các Thiên chúng. Điện của Thiên vương được trang trí trăm ngàn trụ bảy báu, tòa báu nhân-đà. Điện của Thiên vương có uy lực như vậy. Chư Thiên vào đó thì cung điện càng rộng ra. Điện ấy được trang trí bằng bảy báu. Trong cung điện có cây tên Điện nghiêm. Cây này trong sáu thời luôn nở hoa, kết trái. Có điện tên Nhạo kiến, vách điện bằng bảy báu xen tạp.

Bấy giờ, các vị Thiên ấy, dần dần đến gần Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà, hoặc ca hoặc múa, vui chơi đủ cách, cùng thọ quả báo thắng nghiệp đệ nhất.

Tất cả vị Thiên ấy cúng dường Thiên vương Dạ-ma Mâu-tulâu-đà đủ loại. Đã cúng dường rồi, các vị ngồi tại một chỗ. Sau khi an tọa, các vị ấy vui vẻ nói chuyện. Đã nói chuyện rồi, Thiên vương bảo: “Tất cả chư Thiên các ông thích sống phóng dật, theo nhau đến đây. Từ đây về sau, các ông phải hộ mạng, hộ pháp, siêng năng tinh tấn. Nhờ hộ pháp, các ông sẽ thường thọ hưởng diệu lạc cho đến khi nhập Niết-bàn. Sau khi bỏ thân, các ông sẽ vĩnh viễn không còn khổ não, thường thọ thú vui cõi trời”.

Bấy giờ, tất cả chư Thiên ở nơi ấy đều hòa hợp với nhau. Thiên vương Dạ-ma nói kệ cho họ nghe:

Các cảnh giới thế gian
Năng lực nghiệp khác nhau
Nhiều đường đến cõi trời
Nhưng đều bằng nghiệp thiện.
Trong đó đến như vậy
Trong đó đi như vậy
Như nghiệp đến thế nào
Thì đi cũng như thế.
Việc các hữu hòa hợp
Ý các hữu không loạn
Đều do làm việc lành
Tinh tấn không phóng dật.
Cứ mải miết thọ lạc
Sau nhất định thoái chuyển
Thoái chuyển là khổ nhất
Sẽ luân hồi không nghi.
Nghĩa của nó như vậy
Ta sẽ nói cho ông
Tất cả nên lắng nghe
Như lời Như Lai dạy.

Sau khi tạo lợi ích một cách rộng rãi cho tất cả chư Thiên hòa hợp như vậy rồi, Thiên vương Dạ-ma nói kệ này và bảo Thiên chúng: “Các ông bị cảnh giới làm mê hoặc mà không hay, không biết, như vậy Thiên chúng sẽ giảm đi không tăng trưởng. Tất cả thú vui của cảnh giới này đều vô thường, nên không tịch tĩnh, không được lợi ích. Vì sao? Tất cả hãy lắng nghe, như các ông đã thấy: Tháp miếu bằng bảy báu của sáu bậc chánh giác được trang nghiêm bằng bảy báu.

Sáu tháp đó là:

  1. Tháp của Thi-khí Chánh Giác Tri.
  2. Tháp của Tỳ-bà-thi Chánh Giác Tri.
  3. Tháp của Tỳ-xá-bà Chánh Giác Tri.
  4. Tháp của Như Lai Ca-na-ca Mâu-ni Chánh Giác Tri.
  5. Tháp của Phật Ca-la-ca Cư-thôn-đà Chánh Giác Tri.
  6. Tháp của Phật Ca-diếp Chánh Giác Tri.

Sáu tháp Phật này nơi cõi trời đã tạo từ lâu, chính ta lần lượt nghe như vậy nên nay ta cúng dường. Do nhân duyên gì tạo nên tất cả sự việc như vậy, ta chưa từng thấy vì tâm ý hạn hẹp của mình. Các Đức Thế Tôn ấy, tạo lợi ích an lạc các thế gian, xưa kia đã từng đến thế gian này. Do được nghe theo thứ lớp như vậy ta đạt được các pháp như vậy.

Phật Ca-la-ca Cư-thôn-đà ấy tạo lợi ích lớn cho trời Dạ-ma, đó là hóa ra một tháp Phật, là cảnh giới rất hiếm có của Như Lai khiến an trụ ở cảnh giới này.

Nếu thế giới này không cung kính Sa-môn, Bà-la-môn, thì bạn của chư Thiên bị suy giảm. Tướng suy giảm ấy, ngay trong ánh sáng của tháp Phật, ta đều thấy rõ ràng. Hoặc giảm bớt, hoặc thoái lui chỉ một mình ta biết. Các ông ham thích phóng dật nên không thấy. Đó là do các ông đắm mê cảnh giới và ham thọ hưởng dục lạc. Ta dùng tiếng ca triệu các ông đến để tạo lợi ích cho các ông. Các ông phóng dật, tạo hạnh phóng dật tức là thoái lui về chỗ chết. Ta sợ các ông dùng hết nghiệp thiện, bị đọa vào đường ác nên triệu các ông lại đây.

Những kinh mà sáu vị Phật – Thế Tôn đã nói, tạo lợi ích cho vô lượng các chúng sinh, các vị Như Lai ấy đều viết nó ở trong tháp miếu, ta đã đọc tụng được. Nay chư Thiên hãy nghe cho kỹ, ta sẽ nói cho các ông đừng để sau này bị thoái chuyển mà sinh tâm hối tiếc.

Bấy giờ, đám Thiên chúng ấy vô cùng kính trọng, chuyên tâm suy nghĩ. Tất cả yên lặng cung kính đối với hai thứ: Một là kính Thiên vương, hai là kính trọng Pháp. Các vị ấy hết sức chú ý, chánh niệm bất động. Thiên vương thấy Thiên chúng khéo điều phục như vậy mới bảo họ: “Các ông vừa mới vào tháp của Đức Như Lai thứ nhất”.

Kinh chép trên vách tháp của Như Lai Thi-khí tạo lợi ích, đem lại an lạc cho Thiên chúng.

Các vị Thiên tối thắng ấy cùng với Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà lần đầu vào tháp thấy tượng Phật Thi-khí sáng rực như lưu ly, đang ngồi kiết già trên tòa báu màu xanh. Ở trên vách ấy có chép kinh: “Các Tỳ-kheo, hoặc trời, hoặc người, có tám pháp làm chướng ngại pháp thiện”.

Những gì là tám? Này các Tỳ-kheo. Thứ nhất là hoặc trời, hoặc người bị phóng dật làm hư hoại không thể làm điều thiện, hoặc là điều thiện thế gian, hoặc là điều thiện xuất thế gian.

Pháp thế gian hoặc tâm biếng nhác, hoặc tâm phóng dật, thực hành phóng dật, tất cả pháp thế gian ấy đều hư hoại.

Nếu người phóng dật đối với bạn lành không có thể thấy, cho là người tầm thường. Nếu là oan gia thì oán hận sẽ tăng trưởng. Tìm cầu chỗ sơ hở, đó là phóng dật, làm chướng ngại pháp thế gian. Các hữu tình biếng nhác làm việc phóng dật, không thể thành tựu nghiệp thiện.

Nghiệp thiện nơi người ấy hết, bạn lành thì hết, oan gia thì thêm rất nhiều, bạo lực tăng trưởng, nhà cửa đều mất, nghèo nàn không còn gì, bị người khinh chê, coi rẻ. Việc hèn hạ nhất là nghèo nàn, các hữu tình nghèo nàn thì ít bạn lành, hiểu biết, cũng ít anh em, thân thuộc, chỉ có tham, sân, tà kiến tất cả đều tăng trưởng.

Người ngu si ấy là hèn hạ nhất. Vì sao? Đó là do không làm việc thiện, chư Thiên không hộ trì, bị tất cả mọi người bức bách, khiến hoặc có lúc đến chết, hoặc có lúc mua bán mất hết của cải do phóng dật. Nếu các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di phóng dật như vậy, dù có siêng năng tu hành nhưng không thể đắc thiền định, không diệt hết lậu hoặc, chỉ tham mùi vị nơi thức ăn, chỉ nghĩ đến lúc ăn làm rối loạn tâm.

Người sống phóng dật như vậy, trong mọi thời, tâm không thanh tịnh, tham đắm mùi vị nơi thức ăn, giống như súc sinh ăn thức ăn của người ta mửa ra. Tâm họ như chó, cũng như người giữ giới chó, quạ.

Hạng người như vậy thường sống phóng dật, không đọc tụng kinh điển. Ở trong quyến thuộc, ở giữa những người đa văn, họ là người ngu dốt, là người hèn hạ, bị các tín thí khinh chê, luôn sợ hãi. Sự không sợ hãi thứ nhất là đa văn, hay tư duy chánh pháp. Sự hèn hạ nhất là ngu si ít học. Người ngu si ít học ấy bị mọi người khinh khi, không biết lỗi mình mà còn tham, sân, si nhiều với người khác, đối với người đa văn, người hiểu biết chân thật, hoặc đối với bậc tôn trưởng, đối với thí chủ, người có căn lành, do ngu si và phóng dật, người ấy sinh tâm sân hận, làm tổn thương. Do nghiệp bất thiện, khi qua đời họ bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục. Người sống phóng dật như vậy, do làm việc phóng dật nên gây chướng ngại đối với ý nghĩa thế gian và ý nghĩa xuất thế gian.

Này các Tỳ-kheo! Vì sao chư Thiên phóng dật phá hoại cõi trời này? Do từ tính hành phóng dật, các vị Thiên sống buông lung, ham thích tiếp xúc với mùi vị, sắc đẹp, hương thơm mà không thấy già sắp đến, không thấy sự tan hoại, sự chìm đắm, tâm không nghĩ đến nghiệp lành bị diệt hết, không tu tập theo chánh pháp, không kính trọng Phật, Pháp, Tăng. Những người ấy xa lìa tâm lành, sống buông lung. Lúc Phật xuất thế họ không thấy, không biết, không sinh tâm tin tưởng, gần kề với sự sợ hãi, sự kém phước, sự khổ vì chết chóc, sự khổ vì ly biệt. Họ bị Thiên nữ lìa bỏ và bị sự sợ hãi đến gần. Họ giống như người ở nơi bờ cao nguy hiểm mà bị rơi xuống không còn gặp lại đầy đủ các việc vui đã thọ hưởng trong cảnh giới trước đây. Ở trong đời khác, họ không có hạnh tùy thuận. Lúc sắp chết, họ không vui vẻ cũng không yên ổn. Cảnh giới như vậy đều bị hủy hoại, không còn khí thế, khi đi đến các nơi khác nhau ở trong các hữu thì nó không thể đi theo.

Nếu làm việc phóng dật, do nghiệp phóng dật, họ phải đi theo các nghiệp cho đến tận cùng cảnh giới ấy, tâm họ chưa biết chán, phóng dật đến chết, bị tất cả chư Thiên bỏ rơi, tâm sinh kinh sợ, mê muội nơi cảnh giới như vậy đến chết. Lúc ấy, tùy theo tâm tương ứng, người đó sinh vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Cho nên tất cả hàng trời, người không nên hành động phóng dật.

Vào thời ấy, Như Lai Thi-khí nói kệ như vầy:

Chư Thiên trong mọi lúc
Thọ hưởng cảnh giới vui
Nếu thiên ấy phá hoại
Phải đi theo các nghiệp.
Niềm vui không thường còn
Nghiệp tụ tập không mất
Vui làm trời si mê
Do nghiệp không tự tại.
Vui trong cảnh hiện tại
Sau này phải chịu khổ
Đắm nhiễm cảnh giới thiên
Tâm thường loạn không định.
Không biết nghiệp phước thiện
Là thuốc trừ sinh tử
Cũng như thuốc đèn sáng
Cứu giúp cho trở về.
Nghiệp lành trong các cõi
Luôn theo các chúng sinh
Cho nên người trí sáng
Thường nên siêng, tinh tấn.
Tu phước đức là lành
Bỏ cảnh giới là thiện
Nếu người có mắt trí
Biết lo việc chưa tới.
Trí sáng ngăn sợ hãi
Kẻ ngu sẽ lo sợ
Người trí biết rõ rằng
Tâm suy nghĩ hủy hoại.
Ý thường bị ngu si
Nên ưa thích cảnh giới
Bị cảnh giới mê hoặc
Sau sinh tâm hối tiếc.
Các hữu tình hòa hợp
Trí thường không vẩn đục
Đều tạo nghiệp phước đức
Không phước đức liền khổ.

Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà nêu rõ cho tất cả chư Thiên bài kệ viết trên vách mà Đức Như Lai Thi-khí đã dạy. Nêu pháp đầu tiên rồi, vị ấy lại lần lượt nói về bảy pháp còn lại. Vị ấy nói: Ta sẽ giảng nói bảy pháp còn lại cho các ông nghe. Pháp kế tiếp là ngạo mạn không vui, không tỉnh ngộ. Người ngạo mạn không tỉnh ngộ thường làm chướng ngại đối với hàng trời, người, thường làm ngăn ngại tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian.

Vì sao nói là ngăn ngại ý nghĩa của thế gian và xuất thế gian? Người ngạo mạn thì tâm ý rối loạn. Ý dẫn đầu ý nghĩa của các pháp cho nên có các hành động theo đó. Do tâm ý rối loạn, họ làm việc chẳng lành, làm việc không nên làm, làm không đúng thời, làm việc nguy hiểm, gần gũi bạn ác, không tự xét mình và không biết người, không biết sức mình, không biết sức người. Do ngạo mạn họ không thể tạo nghiệp thiện, đối với việc nhà họ không biết tính toán không khác gì người điên. Họ không làm việc chân chánh, giữa mọi người họ là kẻ hèn hạ nhất. Họ còn là người thấp kém nhất trong số các anh em thân thích. Những điều không nên làm thì họ làm, còn những việc nên làm thì họ không chịu làm. Họ không biết tất cả việc gì nên làm, việc gì không nên làm. Lại cũng không biết làm với không làm, cũng không biết pháp và phi pháp, không biết điều nên nói hay không nên nói, nên làm hay không nên làm, cũng không biết chỗ phải chỗ trái, tất cả như vậy đều không biết.

Do ngạo mạn họ không thể biết pháp trì giới. Lại do ngạo mạn, họ không biết thời, không biết lúc, không biết phương, không biết nơi chốn, không biết trụ tâm và không trụ tâm. Do ngạo mạn họ không biết lúc vui, không biết nặng nhẹ, lại không biết chân thật, không biết không chân thật, trơ mặt mà đi, không biết e sợ.

Lại nữa, ngạo mạn này làm ngăn ngại đối với ý nghĩa của pháp xuất thế gian. Vì sao làm ngăn ngại ý nghĩa của pháp xuất thế gian lại là ngạo mạn này? Chỗ ngăn ngại rối loạn là: Không biết nghiệp nhân, không biết quả báo, không biết đường thiện và đường ác, không biết oai nghi, không biết phương, xứ, không biết thời tiết, không biết đo lường đủ với không đủ, không biết đại chúng. Tuy được nghe pháp, họ không thể tu hành, đối với pháp chưa nghe tâm không muốn nghe, không có tâm học hỏi, hung ác, ương ngạnh, không lo sợ, nói không theo chân lý, tâm ý loạn động, như gió thổi bụi phân tán khắp nơi. Tâm họ như vậy thường loạn, không định.

Người có tâm ý loạn động, ngạo mạn ấy không tu thiền định, không có thể thâu giữ tâm, thấy sắc liền vướng mắc, ưa thích cảnh giới, đắm nhiễm dục lạc, mắt thường láo liên. Do sự e sợ như vậy nên mắt không nhìn thẳng. Họ sống ngạo mạn hoặc nhân đấy mà tham đắm dục, hoặc là say sưa loạn động, hoặc có lúc tai họa tràn ngập, hoặc có lúc mắc bệnh cuồng dại. Tất cả lúc đều như thế không có gì khác.

Do họ như vậy nên bị các thế gian chỉ trích. Do bị chỉ trích nên bị tất cả mọi người khinh chê nhưng không biết lỗi của mình, họ không tạo lợi ích cho người khác, lại không được lợi ích, cũng không an lạc. Họ không thành tựu đối với lẽ phải.

Vì sao ngạo mạn làm trở ngại pháp luật xuất thế gian? Tại sao pháp ngạo mạn làm trở ngại cho chính người ngạo mạn? Đó là vì trong số người ấy có người xuất gia, sống ngạo mạn rất là hèn hạ. Pháp luật này hay lìa ngạo mạn, làm cho nghiêm trang tất cả. Nếu không lìa ngạo mạn thì không thể nghiêm trang. Người ngạo mạn ấy, không thể tu thiền, không biết an chỉ, thường đi vào thành ấp, xóm làng, không làm việc tốt, không có thể thuyết pháp giáo hóa các tín thí. Họ chỉ tham đồ ăn, thức uống, giường nằm, ngoạ cụ, chỉ xem xét những chuyện bất thiện.

Người như vậy khi chết sẽ bị đọa vào đường ác, sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Người như vậy sẽ không được sống yên ổn trong hai đường thế gian và xuất thế gian.

Ngạo mạn có bảy thứ:

  1. Ngạo mạn về sắc.
  2. Ngạo mạn về của cải.
  3. Ngạo mạn về cuộc sống.
  4. Ngạo mạn về trang sức, y phục đẹp đẽ.
  5. Ngạo mạn về sự cúng dường của vua.
  6. Ngạo mạn về sự thân cận của phụ nữ.
  7. Ngạo mạn do quyến rũ vợ người khác.

Tổng cộng những điều này là ngạo mạn, hoặc nói bớt đi, hoặc nói dư ra, hoặc nói đủ tất cả pháp ấy. Sự ngạo mạn đó làm chướng ngại như là sống trong loài người thì ít giàu có, mạng sống ngắn ngủi, hành động nhỏ nhen ngạo mạn, huống gì là sống trong loài trời, như vậy là ngạo mạn.

Các vị Thiên ấy ưa thích âm thanh, xúc chạm, vị ngon, hương thơm, sắc đẹp, tăng trưởng ngạo mạn trong từng niệm. Do hành động ngạo mạn, mạng sống sẽ giảm dần, họ không biết mạng sống biến đổi không ngừng, không hay sinh mạng chấm dứt, không biết nghiệp đã hết, không biết nghiệp lành hay nghiệp ác. Trong mọi lúc họ thường như vậy cho đến lúc chết vẫn chưa hết ngạo mạn. Lần lượt như thế cho đến khi nghiệp lành hết. Nghiệp dứt thì thoái đọa. Đến lúc bị thoái đọa, họ mới biết nghĩ như vầy: Cảnh giới đã lừa dối ta, khiến ta sinh nhiễm đắm ngạo mạn lừa dối như vậy, khi chết bị đọa vào đường ác, sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, ngạo mạn như vậy làm trở ngại đạo thế gian.

Lại nữa, Thiên chúng do ngạo mạn làm trở ngại đạo xuất thế gian. Tất cả chư Thiên ấy, do thích nghiệp lành, do thích chánh pháp, nên sinh vào cõi trời Dạ-ma này. Do sống ngạo mạn, họ không biết nghiệp mình, không gần gũi người khác. Người dù ít ngạo mạn cũng không gần gũi tất cả các vị trời không ngạo mạn, không ưa thấy Phật, Pháp, Tăng, không tin vào chánh pháp.

Do không thuận theo chánh pháp, đi theo đường ác, họ không thể quán xét mười hai nhân duyên, không kính tôn trưởng, cũng không gần gũi chư Thiên có trí tuệ, bị dục lừa dối, tham đắm cảnh giới. Ở cõi trời này, lúc sắp thoái đọa, họ mới sinh tâm hối tiếc. Cho nên hàng trời, người phải lìa bỏ phóng dật, phải lánh xa ngạo mạn, nếu không xả bỏ, nó sẽ như lửa dữ thiêu đốt hạt mè. Vào lúc ấy, Đức Như Lai Thi-khí nói kệ:

Phóng dật liền hủy hoại
Bị ngạo mạn mê hoặc
Hoặc là trời hay người
Không được vui tịch tĩnh.
Ai thích sống phóng dật
Gọi là kẻ chết rồi
Lỗi ưa thích phóng dật
Khiến đọa vào địa ngục.
Lỗi không theo đường chánh
Đó gọi là phóng dật
Phóng dật lừa dối trời
Tất bị đọa địa ngục.
Ý ưa điều dối trá
Và không thích sự thật
Do bụi mờ phóng dật
Trời bị dục lừa dối.
Dục làm trời ngu si
Phóng dật, mạn cũng vậy
Không thể thấy chân thật
Như người mù đi đường.

Đức Thế Tôn Thi-khí đã nói về tâm phóng dật và ngạo mạn làm trở ngại pháp thế gian và xuất thế gian rồi, lại dạy về lỗi thứ ba là phá giới.

Việc như vậy, vị Phật Thế Tôn ấy biết không thiếu sót, biết rõ như thật tai họa của phá giới. Trên vách phía trong tháp lần lượt chép điều đó. Bấy giờ, Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà chỉ rõ cho các vị Thiên bài pháp trên vách tháp nói về lỗi không trì giới. Việc không trì giới là tai họa thứ ba của hàng trời, người, chẳng phải là lợi ích, không phải là đạo của thế gian, không phải là đạo của xuất thế gian, tất cả đều chẳng phải.

Vì sao trong loài người không trì giới làm chướng ngại đạo thế gian? Đó gọi là người ngu si thọ giới. Đã thọ giới rồi, điều nên làm không làm, không biết gì cả, cũng không biết điều sai, điều đúng. Gây tội lỗi rồi che giấu trong tâm, anh em che đậy cho nhau. Người phá giới như vậy, thường dựa vào anh em thân thuộc, không nhớ nghĩ đến giới, hoặc không giữ giới, thọ rồi liền phạm, không có kiêng sợ. Do như vậy, họ bị tất cả anh em dòng họ khinh rẻ, nói: “Nó không trì giới, không siêng năng tinh tấn, giới nơi thân, khẩu, ý tất cả đều không giữ”. Như vậy, các người thân cho đến anh em, khinh chê coi thường. Do khinh rẻ, gặp điều lành dữ tốt xấu, họ không thăm viếng, chăm sóc, không qua lại với nhau, các cuộc gặp gỡ lành dữ họ không mời, không gọi, không tin, không kính trọng.

Hạng người như vậy, do không thọ giới, không giữ giới, không sống trong giới, nên những người bạn tốt trước đây liền thành người dưng, những người thù oán trước đây liền tìm lỗi của người ấy, những người không oán thân thì không nhận người ấy làm bạn. Người như vậy như cây bị đứt rễ, gió thổi liền ngã xuống đất. Sau khi ngã, tất cả vật đều bị mất, các người thân đều lìa bỏ. Tự thân người ấy vốn khinh suất, vọng động, bên trong thì ôm lòng ác, đối với mọi người nhiều tham, sân, tâm suy nghĩ ngu si, tà vạy phân biệt, mong mỏi, muốn làm não loạn. Tâm họ thường sân hận với tất cả chúng sinh, sắc mặt dữ, không có oai đức, tâm không định, thường bị bần cùng. Hạng người như vậy do không thọ giới, không giữ giới, khi lâm chung bị đọa vào đường ác, sinh vào địa ngục. Vì vậy phải nên thường niệm lợi ích của việc thọ giới, giữ giới, không làm ngăn ngại pháp thế gian.

Nếu là người giữ giới, nhờ giới che chở, tâm ý chắc chắn, thường nhớ nghĩ điều chân chánh, tin tưởng ở bạn lành.

Do tin người ấy, vua hoặc đại thần, đem vàng bạc rất quý giá, đủ loại vật báu, gửi cho người ấy hết. Nếu có điều bí mật, do tin tưởng họ cũng nói với người ấy. Người ấy không xâm phạm vào vật mà vua hoặc đại thần gởi và không làm lộ những lời bí mật. Do giữ giới, họ được mọi người tin tưởng, lại được các anh em quyến thuộc thân thích tin yêu cúng dường trong mọi thời. Họ được tất cả mọi người kính trọng hơn là tôn trưởng. Người giữ bảy chi giới, vua cũng cung kính, bạn bè thân thích đều cúng dường. Người như vậy mọi người đều tin, đều yêu mến, của cải đầy đủ, thường không bị nghèo thiếu. Họ không thể không làm lợi ích cho nhau, khiến trở nên rất giàu có. Do giàu có, họ có thể bố thí, có thể tạo phước đức, suy nghĩ chân chánh, khéo an trụ, không làm hại trí tuệ. Do nhân duyên ấy, khi chết họ sinh vào đường lành là cõi trời.

Người nào phá giới nhỏ như vậy còn bị khinh chê, huống gì tu hành đạo xuất thế gian. Hạng người như vậy ý lay động, không an trụ, mù mịt, không hiểu biết, đối với quả báo của nghiệp, hoặc không giữ giới, hoặc phá nhiều giới, chỉ còn lại một giới hoặc không còn giới nào.

Tuy được gọi là Tỳ-kheo nhưng người ấy chỉ có hình dáng, y phục của Tỳ-kheo, giống như tiếng ốc, tâm thường dối trá, lừa dối các Đàn-việt, nói rằng tôi giữ giới của Phật.

Hạng người như vậy, thật sự không giữ giới, thật sự không thành tựu giới mà Thánh hiền yêu quý. Họ là giặc lừa dối thế gian, chư Thiên và ma, lừa dối tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, hàng trời, người… Họ lừa dối tất cả mình lẫn người, hành động không như lời nói. Hạng người như vậy bên trong không có gì cả, không thật, không chắc chắn, như chùm bọt nước, lừa mọi người, dua nịnh tà vạy vào bậc nhất. Người ấy tìm cầu nhiều giường nằm, tọa cụ, thuốc trị bệnh và các thứ cần dùng, lấy nhiều ở khắp nơi. Người ấy thường chìm trong vũng bùn sinh tử, hoặc sinh trong đường ác như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Người phá giới ấy, chấp giữ những điều không nên giữ, vì phá giới nên thuộc vào hạng bất thiện. Những kẻ ấy không được đi một bước trong đất của chúng Tăng vì không thích hợp với việc ấy và làm việc trái nghịch.

Vì sao? Vì các tín thí sửa sang đất ấy là vì những Tỳ-kheo trì giới chứ không phải vì các Tỳ-kheo không giới, phá giới, không phải vì tất cả những người không có tâm thiện. Hạng người như vậy không nên bước trong đất Già-lam cho đến một bước, huống gì là sử dụng ngọa cụ, thuốc trị bệnh và tất cả các vật dụng khác.

Như Lai Thi-khí vào lúc ấy nói kệ:

Nếu Tỳ-kheo không giới
Là giặc ở trong giặc
Bên trong đầy mủ thối
Bên ngoài phủ ca-sa.
Hư dối không chắc thật
Giống như chùm bọt nước
Không có giới như vậy
Dối xưng là Tỳ-kheo.
Phá giới thuộc địa ngục
Đứng ngoài hàng tăng bảo
Do bị tâm lừa dối
Khi chết đọa địa ngục.
Xa lìa pháp Tỳ-ni
Do nghiệp mình bị đọa
Bị bụi mù che lấp
Thường chịu khổ não lớn.
Không đắp y pháp thiện
Trần truồng xa người thiện
Do xa lìa nghiệp lành
Ác dẫn đến địa ngục.
Nhóm họp nghiệp chẳng lành
Cửa khổ liền mở ra
Sinh tử trói buộc chắc
Như vậy do phá giới.
Bị lửa phá giới đốt
Người kia liền cháy sạch
Người khuyết giới như vậy
Nhất định vào đường ác.
Do ý thọ trì giới
Thầy liền trao giới cho
Dối không tâm thọ giới
Nhất định vào địa ngục.
Người ấy suốt ngày đêm
Thường tăng trưởng điều ác
Nếu hay giữ giới báu
Liền dẹp được phá giới.
Nếu người không có pháp
Chỉ tập hợp tối tăm
Người đó trong từng niệm
Đều thường xuyên hủy hoại.
Bị phá giới trói buộc
Người lành bỏ vì bẩn
Dây phá giới thường kéo
Bỏ giới là người ác.
Không giới hoặc phá giới
Gần gũi với bạn ác
Nếu quen gần tham dục
Đây là nhân địa ngục.
Người ngu si không gì
Hoặc làm kinh động người
Người tương ứng nghiệp ác
Cách địa ngục không xa.
Nghiệp có quả tương tợ
Vì sao lại không biết
Do ngu tự gây họa
Mà đắm trong vui đùa.
Ngày ngày thường tăng trưởng
Không thể qua sông ác
Sóng khổ dâng ào ạt
Làm trôi các chúng sinh.
Người ấy chẳng làm thiện
Người ấy không tâm lành
Nếu người lìa pháp thiện
Thì làm theo pháp ác.
Nếu thâu giữ pháp lành
Là đường lành bậc nhất
Người thực hành điều ấy
Liền đến chỗ bất thoái.
Người đọc kinh giữ giới
Ưa thích các pháp lành
Hạnh chánh thường điều phục
Liền xa lìa khổ não.
Bụi không giữ giới này
Hay khiến cho cấu uế
Họ không học việc ấy
Nên thuộc về địa ngục.
Biết hết thảy như vậy
Nên siêng năng giữ giới
Tất cả biển sinh tử
Không giới là nhân duyên.

Như đã nói, tất cả mọi người do không có giới nên làm chướng ngại đạo xuất thế gian. Vì sao trong chư Thiên không giữ giới là chướng ngại? Vì ở lãnh vực nghiệp quả trong thế gian này, trong ấy giữ bảy chi giới, giữ gìn gom góp, thọ vui trong cõi trời, nếu hành động phóng dật lâu dài, cho đến khi chấm dứt lạc thú, sau đó bị thoái đọa, như đèn hết dầu, do tim đèn hết, ánh sáng cũng tắt.

Cái gì làm trở ngại đạo xuất thế gian? Đó là không giữ giới. Người giữ giới ấy, sinh trong cõi trời. Sinh nơi ấy rồi, họ nghĩ như vầy: “Ta ở trong loài người, giữ bảy chi giới, nên được sinh vào đây, ngang hàng với chư Thiên”. Người ấy vừa sinh Thiên, do tham đắm cảnh giới, ưa thích dục lạc nên quên hết tất cả.

Những vị Thiên khác không quên giữ giới, liền chỉ cho vị Thiên này nghiệp quả giữ giới, nói với vị ấy: “Trước kia, ở trong loài người, ông giữ giới đầy đủ, nên được sinh ở đây. Ông vừa mới sinh Thiên, do tâm lay động, tham đắm cái vui của cảnh giới”.

Ông ta không chịu nghe lời nói này, không tiếp nhận, không giữ gìn, không tin giữ giới cho nên không thể nhận lấy quả báo của nghiệp thiện.

Do sức mạnh của cảnh giới làm lay động ý nên ông ấy không giữ giới, không thực hành theo pháp, vị Thiên ấy hủy hoại pháp lành nên bị thoái đọa.

Người trì giới như vậy, sinh ở trong chư Thiên, hoặc sinh ở thế gian, hoặc ra khỏi thế gian. Người sinh ở thế gian là nhờ giữ giới.

Người ra khỏi thế gian tức là Bồ-đề. Đây là pháp thứ ba là sự chướng ngại của việc không giữ giới.

Pháp chướng ngại nơi hàng trời, người thứ tư là gì? Đó là biếng nhác, người thích biếng nhác, hoặc người đắm nhiễm. Hạng người như vậy không thể thành tựu đối với hết thảy các pháp thông thường thuộc tất cả các loại ở khắp các thế gian. Người biếng nhác ấy có bảy pháp hèn kém. Những gì là bảy? Nếu người biếng nhác thì không có quả tăng thượng, nên là hai sự hèn kém. Do sự hèn kém này, việc cúng dường liền kém đi, của cải, sự giàu có cũng kém, cảnh giới trí cũng kém. Do sự hèn kém như vậy, những bậc chánh sĩ trong tất cả thế gian không thân cận. Người thế gian cũng ít hỏi thăm. Do tất cả các việc ở thế gian đều kém cỏi như vậy cho nên người ấy ngu tối, chậm chạp. Tất cả việc làm đều bị hư hoại. Như vậy, trong loài người, biếng nhác làm trở ngại pháp lành thế gian.

Vì sao trong loài người có thể làm trở ngại pháp xuất thế gian? Đó là do biếng nhác. Người biếng nhác này đối với tất cả việc nhà, việc làm đều tránh né. Cho nên xuất gia, người ấy nói: Ta xuất gia rồi, có nhiều vật dụng, thuốc chữa bệnh, ăn uống thỏa thích, suốt ngày đêm ta không phải làm gì.

Do xuất gia rồi với tâm biếng nhác như vậy, đã xuất gia rồi, người ấy không đọc tụng kinh điển, không thể dứt ác, không thực hành pháp lành, không tu thiền định, không giữ giới cấm, thường bị che đậy dưới sự biếng nhác. Người ấy được nhiều tài lợi, được nhiều của cúng dường, ăn dùng đầy đủ, không thích giữ giới, không ưa trí tuệ. Do thiếu trí tuệ, khi chết bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục.

Lúc ấy, Như Lai Thi-khí nói kệ:

Biếng trễ thiếu phước đức
Si hay phá hoại tâm
Mọi người thân coi khinh
Không thể được đường lành.
Biếng trễ và nghiệp ác
Hoặc bị si che lấp
Ngăn ngại đạo Niết-bàn
Nhân quả ác chẳng lành.
Không xấu hổ, hổ thẹn
Bị bạn ác tác động
Đều là nhân khổ não
Người trí thì lìa bỏ.
Tà và mạn đại mạn
Những ngã mạn như vậy
Thường bỏ những nhân duyên
Tạo ra khổ não này.
Ai bị biếng trễ che
Không ghi nhớ, lười biếng
Khi cái chết ập đến
Uổng đời không kết quả.
Người bị bệnh biếng trễ
Còn sống cũng như chết
Người biếng nhác như vậy
Thà rằng chết còn hơn.
Lún trong bùn biếng trễ
Chìm mãi trong biển khổ
Nếu siêng năng tinh tấn
Liền vượt biển sinh tử.
Người biếng trễ lười nhác
Thích ăn uống như dê
Tuy sống mà như chết
Nếu chết vào địa ngục.
Nghèo khổ, ngu như dê
Hoặc chìm trong khổ não
Thích ăn của người khác
Nguyên nhân do biếng trễ.
Nếu có người biếng trễ
Sống dựa vào người khác
Tham đắm nhiều vị ngon
Tâm mê thường ưa dục.
Người kia không biết đúng
Chỉ tham vị thức ăn
Khi giờ chết đã đến
Lửa hối hận đốt tâm.
Các loài chịu lạnh nóng
Cho đến bị đói khát
Phải chịu khổ như vậy
Sau mới được yên thân.
Chớ có ý biếng trễ
Biếng nhác thì khiếp nhược
Sinh tử chịu không nổi
Không thoát được khổ não.
Biếng nhác uổng một đời
Kẻ hèn trong người lành
Đời vị lai cũng vậy
Không đạt được tịch tĩnh.

Người biếng trễ ngoài cái lỗi này, lại có lỗi khác, đó là xa lìa đạo xuất thế gian. Người biếng nhác là người bất thiện, là người chìm đắm. Vì sao chư Thiên làm mất pháp luật Tỳ-ni thế gian và xuất thế gian? Vì sao chư Thiên làm trở ngại đạo thế gian? Đó là do biếng trễ. Lại có nghiệp khác, nếu nhờ nhân duyên được sinh trong chư Thiên, vị Thiên ấy lại bị biếng nhác làm hủy hoại, không còn ưa thích sắc, thanh, hương, vị, xúc, không còn ưa thích các khu vườn, không còn chạy nhảy ở các nơi chư Thiên ưa thích, không nghe tiếng ca, bản thân cũng không ca hát, không bay lên hư không, không từ ngọn núi này bay đến ngọn núi khác, không ở giữa sông, không vượt trên ngọn sóng hoặc cỡi chim đi chơi.

Thiên vương Dạ-ma có những việc vui như vậy, vị Thiên biếng trễ kia cũng không tìm đến. Tất cả những thú vui về cảnh giới mà Thiên vương Dạ-ma có được ông đều không thọ hưởng, xem tất cả những việc ấy như chất độc, như oán hận. Tất cả đều là cấu bẩn. Đó là biếng trễ làm chướng ngại thế gian.

Thế nào là biếng trễ ngăn ngại đạo xuất thế gian? Đó là nếu các vị Thiên khác thường nghe chánh pháp, vui thọ chánh pháp thì họ không gần gũi, họ xa lìa chánh pháp, không có tâm muốn nghe đối với pháp chưa nghe, nếu nghe rồi thì không thọ trì, cũng không tu tập, không gần gũi tôn trưởng, không học với bậc trí, lìa hết thảy pháp, bỏ tất cả việc lành, thường ưa sinh tử, luôn chịu khổ não.

Vì sao? Do vị ấy xa lìa chánh đạo, liền ở trong ba cõi không thể thoát được. Vị ấy bị biếng nhác hủy hoại, sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vị ấy thường bị sinh, lão, tử… giam giữ, lưu chuyển trong thế gian, chịu các khổ não. Người biếng trễ ấy, do biếng trễ như vậy, không làm lợi ích cho người, là gốc của tất cả đường ác, là hạt giống của sinh tử. Cho nên tất cả khổ não ở thế gian do đó mà phát sinh.

Thế nên người nào trong thế gian muốn thoát khỏi dây trói sinh tử phải nên siêng năng lìa bỏ biếng trễ. Tất cả các việc không được lợi ích của hữu tình đều lấy đây làm gốc. Tất cả những ai biếng trễ như vậy đều không thể vượt qua biển khổ. Người biếng trễ này có vô lượng lỗi.

Lại nữa, ngoài bốn lỗi này còn có lỗi thứ năm. Khiến các trời, người làm chướng ngại đạo thế gian và xuất thế gian. Đó là việc tham lam. Nó làm chướng ngại tất cả pháp thế gian và xuất thế gian.

Vì sao thiên, nhân bị tham lam làm chướng ngại đạo thế gian và đạo xuất thế gian? Đó là người phàm tục, do tâm tham làm điều phi pháp, thường ưa của cải vật chất. Tâm họ ưa thích vật chất như loài thủy tộc ưa sông, cũng như khỉ vượn. Do tâm ưa vật chất và muốn lấy vật, họ bày các phương tiện như vậy… như vậy… tham ác tăng trưởng.

Họ suy nghĩ như vầy: “Nay ta phải bày ra những phương pháp và những sự lừa dối gì để đánh lừa người khác? Tâm họ thường lừa đảo dối trá như vậy, lại dạy người khác dối trá, lừa đảo.

Người ấy làm việc phi pháp và dạy người khác làm việc phi pháp. Người như vậy tâm tham rất nặng, tư duy như vầy: Những đồ vật của người làm sao đều thuộc về ta? Người ấy suy nghĩ như vậy rồi lại dạy người khác. Dạy người rồi, họ liền cùng nhau lừa đảo, dối trá, bày các phương pháp lừa dối người khác để lấy tài sản của họ. Lừa dối như vậy rồi, với tâm hoan hỷ họ lại suy nghĩ: Ta làm thật khéo léo, có thể lừa dối người khác, lấy được của cải của họ, cho nên vui mừng vì được sự thú vị như thế.

Lần lượt như vậy, họ thích làm nhiều việc khiến người đau khổ, bị sự tham lam che đậy tâm ý, họ phá hoại thành quách, thôn ấp, xóm làng, nơi nhiều người ở. Họ bị tất cả mọi người lìa bỏ, bị tất cả những người lương thiện nghi ngờ, coi rẻ. Họ là gai góc của các nước, gai góc của thành quách, gai góc của xóm làng. Họ phá hoại các nước, phá hoại thành quách, phá hoại xóm làng, phá hoại nhà cửa, làm tan nát dòng họ của người khác, thường ưa thích việc ác như vậy trong tất cả các thời, khiến cho người khác đau khổ. Người ác như vậy lúc chết đọa vào đường ác, sinh vào địa ngục, là người tham lam xấu xa trong thế gian. Người tham lam này làm chướng ngại thế gian. Sự tham lam đã tích tụ, lại phát triển thêm như lửa được củi, như vậy như vậy sự tham lam tăng trưởng, như vậy như vậy sự tham lam làm phương tiện, như vậy như vậy thu được của cải người, như vậy như vậy dần dần tăng trưởng. Vì thế người tu hành phước đức phải siêng năng xả bỏ sự tham. Vì sao? Vì sự nhơ bẩn bậc nhất là tâm tham, lấy của cải của người. Người nhơ nhuốc bại hoại ấy phải bị đọa vào địa ngục.

Vào lúc ấy, Như Lai Thi-khí nói kệ:

Người hành động dối trá
Bày cách lấy vật người
Đó là tâm rất tham
Thường làm việc bất thiện.
Người ấy suốt ngày đêm
Tâm thường không thanh tịnh
Bị tham che lấp tâm
Thường mong vật của người.
Người ấy như lửa dữ
Tự thể bản tánh ác
Làm tất cả sợ hãi
Giống như là rắn độc.
Nếu người bị tham lam
Thường che lấp tâm mình
Đọa mãi trong địa ngục
Và trong loài ngạ quỷ.
Đã thoát khỏi chỗ nóng
Là lửa địa ngục rồi
Nếu sinh trong loài người
Năm trăm đời nghèo nàn.
Mặt hư và miệng méo
Thường bị các khổ não
Tham lam hủy hoại tâm
Đều chịu khổ như vậy.
Nếu người lìa bỏ tham
Thường mong cầu trí tuệ
Thường có sức thần thông
Đi trên con đường lành.
Trừ bỏ tham trong tâm
Giống như lấp hang rắn
Nếu bị rắn tham cắn
Nhất định chịu khổ não.
Nếu người ôm lòng tham
Tăng lên trong từng niệm
Như lửa gặp củi khô
Bùng cháy ngày càng mạnh.
Người ham thích của cải
Thường mong cầu vật chất
Lúc giờ chết đã đến
Tài sản đều bỏ hết.
Nghiệp ác đã làm rồi
Không sao lìa bỏ được
Người ấy bị tham trói
Bắt đem vào địa ngục.
Của cải thuộc về người
Bị nghiệp ác làm bẩn
Không của thấy là của
Chẳng vui cho là vui.
Tham ác ở trong tâm
Coi giặc như bạn lành
Lửa tham hay đốt người
Người trí không chứa tham.
Người bị tham thiêu đốt
Về sau đọa địa ngục
Tài sản chất như núi
Tất cả đều vô thường.
Tại sao vì của cải
Gây nghiệp ác như vậy
Chỉ có người ngu si
Hay làm ác như vậy.

Tham lam xấu xa như vậy đều không được tự làm, không khiến người làm. Sự tham lam như thế làm trở ngại thế gian. Người tích chứa tham lam ngày càng tăng trưởng như lửa được củi, như vậy như vậy cháy ngày càng mạnh. Tham ái như vậy do được của cải tăng lên như vậy cùng tham lam keo kiệt, ganh ghét tăng trưởng mạnh mẽ. Vì vậy, những người có phước đức phải nên lìa bỏ. Chư Thiên các ông nên biết, có người làm ăn sinh sống, mua rẻ đồ ăn uống, hoặc của cải còn thừa, hoặc lập trai đàn cúng dường Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, vì muốn cho người biết mình là người có phước, chân thật đáng tin. Biết người tin rồi, sau đó đem đồ vật của mình bán mắc cho người. Người này tuy bố thí, chẳng phải với tâm trong sạch mà là muốn người khác tin tưởng để làm ăn cầu lợi mua rẻ, bán mắc. Phương tiện như vậy, dùng vật ít ỏi bố thí, vật thu được lại nhiều hoặc được gấp mười, hoặc được gấp tám. Việc tham lam xấu xa như thế người lành liền xả bỏ.

Lại nữa, người nói về việc xả bỏ tham lam, xấu xa mà họ lại là tham ác, đó là pháp sư nói pháp để lấy vật. Lấy được vật rồi, họ không dùng cho Tam bảo. Tham ác ấy cần phải được xả bỏ. Lại nữa, người tham ác, nói về việc bỏ tham ác là người xuất gia, dùng ngà voi trắng làm tượng Phật, hoặc tượng thêu bằng chỉ năm sắc, tượng Phật vẽ trên tấm thảm, hoặc tượng khắc bằng gỗ, hoặc tượng đồng, người ấy bán tượng như vậy. Đó là tham ác. Khi đã được vật rồi, họ dùng trong phi pháp. Tham ác như vậy ở trong loài người làm trở ngại pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Đó là điều người trí quở trách, người trí lìa bỏ.

Những gì là tham ác trong hàng trời? Trong chư Thiên các ông, tuy có nhiều hoan lạc lớn nhưng vẫn còn tham ác như là hiện thấy núi kim ngân, núi Tỳ-lưu-ly, núi châu báu xanh, núi châu báu rất xanh, núi pha lê, các ông vui chơi thọ lạc trong những núi đó. Đã thọ vui trong một núi rồi, lại hướng đến núi khác thọ đủ thứ hoan lạc cùng với các Thiên nữ, Thiên chúng vây quanh. Tất cả như vậy đều do tham lam mà ra, không phải do thứ khác tạo nên.

Thiên chúng các ông bị tham ái trói buộc, đọa vào đường ác mà không hay biết, không sinh lo sợ, không sợ chết khổ, không sợ xa lìa quyến thuộc yêu dấu, không biết các loại khổ về suy tàn, lúc thoái đọa. Thiên chúng các ông do tâm tham mà không hay không biết, Thiên chúng các ông có vô lượng vô biên tâm tham như vậy. Nghiệp ma nơi tâm tham không biết chán, biết đủ, không sợ ly biệt, không sợ khổ nơi sinh tử. Tham lam xấu xa như vậy làm chướng ngại đạo thế gian.

Vì sao trong cõi trời, tâm tham làm chướng ngại đạo xuất thế gian?

Do sự ưa thích sắc, thanh, hương, vị, xúc, ưa thích thọ vui, các vị Thiên có tâm tham không thành tựu được việc gì khác. Hơn nữa, các vị Thiên tham lam này đối với việc nghe pháp, cầu pháp, học pháp, họ không muốn nghe pháp khiến tâm trong sạch. Tất cả pháp thiện, nguồn gốc của sự thù thắng được gọi là giác pháp. Tất cả pháp được giác ngộ, chủ yếu là do nghe pháp. Nếu không nghe pháp thì sẽ không giác ngộ pháp. Vì sao không giác ngộ, đó là do phóng dật. Lại nữa, pháp gì là căn bản của phóng dật? Đó là tâm tham. Nếu bỏ tâm tham liền đến Niết-bàn. Người bị tham che lấp sẽ lưu chuyển trong sinh tử, Thiên chúng nên biết ở trong hàng trời, người, đạo xuất thế gian bị sự tham lam, xấu xa làm trở ngại. Vì vậy người trí phải thường siêng năng xả bỏ tham ác mà bố thí.

Bố thí có ba loại: một là bố thí của cải, hai là bố thí vô úy, ba là bố thí pháp. Người bố thí của cải, được quả báo sinh Thiên, lại không thể bố thí. Điều này chứng tỏ con người hơn chư Thiên, chớ không phải chư Thiên hơn con người. Như vậy, thân người là khó được nhất. Nếu được thân người mà không thực hành bố thí thì thật uổng một đời. Cũng như người buôn bán gặp được đảo châu báu, không biết nhặt lấy vật báu mà trở về tay không. Nếu được thân người, không biết xả bỏ của cải đem bố thí cũng lại như vậy.

Thế nào là bố thí vô úy? Bố thí vô úy gồm có mấy loại? Bố thí vô úy gồm ba loại. Một là cứu mạng làm cho không sợ hãi. Hai là vợ con họ bị người bắt, ta tạo phương tiện cứu giúp khiến họ không còn lo sợ. Ba là bảo vệ cho người sợ bị mất đồ vật, khiến họ dứt hết lo sợ. Người cứu mạng sinh trong cõi trời người được quả báo thọ mạng lâu dài. Người bảo vệ của cải cho người sinh ra liền giàu có, của cải của họ không bị các thứ giặc, vua, nước, lửa cướp đoạt, hủy hoại. Nếu làm vua hoặc đại thần, do nghiệp ấy, có oai lực lớn, có tiếng tăm lớn. Người này thường sinh ở nơi giàu có. Người cứu vợ con của người, sinh trong loài người khéo được vợ con giúp đỡ, lúc ở trên cõi trời bị thoái đọa, Thiên nữ không lìa bỏ. Đó là ba loại bố thí vô úy.

Thế nào là pháp thí? Bố thí pháp có hai loại: Một là bố thí pháp thế gian, hai là bố thí pháp xuất thế gian. Bố thí pháp thế gian là đem kiến thức về bốn Thiền của thế gian để bố thí, ở trong cõi trời, người thọ dục lạc của thế gian. Người này sinh trong hàng trời, người liền sinh tà kiến.

Người bố thí pháp xuất thế gian, do không sân hận sinh trong hàng trời, người, sinh vào cõi dục, hoặc sinh nơi cõi sắc. Nếu sinh cõi dục, tùy theo nguyện sinh ở một trăm chín mươi tám cõi nước. Nếu sinh ở cõi sắc liền được giải thoát. Do quả báo thù thắng, do trí tuệ lớn, do chỗ nương tựa thù thắng, liền được giải thoát. sinh nơi cõi Tịnh Cư. Nếu nhờ nguyện lực, làm Chuyển luân vương, làm chủ bốn cõi, có kim luân làm bằng mười bốn loại châu báu là bảy báu và bảy báu tương tợ. Do nguyện lực lành, dứt sạch các lậu hoặc, đắc đạo Duyên giác. Do nguyện lực thù thắng ắt thành Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Do bố thí pháp, là nhân duyên thù thắng, nơi ba loại thí này, Thiên chúng các ông không có cái nào. Do ý nghĩa như vậy, con người là thù thắng. Cõi trời là cõi quả báo, cõi người là cõi của nghiệp. Nghiệp là nhân, duyên là quả. Như vậy, loài người là nhân duyên sinh trong chư Thiên, do nghiệp quả thù thắng. Người thù thắng như vậy, chư Thiên cũng không bằng.

Lại nữa, về phần nghiệp, nếu người sinh Thiên chưa từng bố thí, chỉ nhờ trì giới mà được sinh Thiên thì chỉ có đầy đủ một loại công đức. Công đức năm dục kém hơn các vị Thiên khác. Do nhân duyên của nghiệp chứng tỏ con người hơn chư Thiên.

Vào lúc ấy, Phật Tỳ-bà-thi nói kệ:

Con người bố thí rồi
Liền sinh vào đường lành
Thiên không thể bố thí
Vì đó là kết quả.
Con người là nghiệp nhân
Kết quả là sinh Thiên
Tất cả do nhân quả
Không nhân thì không quả.
Niệm niệm mãi không dừng
Chuyển rồi không trở lại
Khi nghiệp quả sắp hết
Phải nên làm phước đức.
Tất cả tâm lực ấy
Hay khiến mạng lưu chuyển
Cho nên người có trí
Không vì mình làm ác.
Nên không còn phải sợ
Các khổ trong vị lai
Người khổ não như vậy
Do dây si trói buộc.
Báu bố thí giữ giới
Ai có được trong tâm
Sinh vào trời, vào người
Hoặc đến con đường lành.
Hữu vi sinh trụ diệt
Đều là do vô thường
Những cái vui hữu vi
Cũng vô thường như vậy.
Tuy hoại mà sinh tham
Niệm niệm động không dừng
Thích sống cũng như thế
Vì vậy nên xả ly.

Pháp như vậy, tất cả pháp hữu vi đều vô thường, khổ, không, vô ngã. Tất cả thế gian có vô lượng khổ não, đầy khắp mọi nơi, có năm loại trói buộc, trói buộc hàng trời, người, khiến cho ngu si mù tối, ái dục hủy hoại, tâm chỉ ham ưa tham dục. Tất cả ngu si trói chặt phàm phu, luyến ái ràng buộc lẫn nhau như chim ở trong lồng. Tất cả hàng trời, người trôi lăn thường xuyên trong đường sinh tử.

Do nghĩa ấy, hoặc người hoặc trời, hoặc sống hoặc vui, đừng sinh trưởng thường còn, mà đối với tất cả các pháp ở thế gian không sinh tưởng thường còn, không làm vô lượng sự phân biệt, lại thực hành đầy đủ mười hai loại bố thí. Bố thí như vậy trong chư Thiên không có, chỉ loài người mới có. Chư Thiên chỉ hưởng quả. Nếu hưởng hết sẽ mục rã, hư hoại, thoái đọa không còn ở cõi trời. Thế nào là đầy đủ mười hai loại bố thí?

  1. Phương xứ đầy đủ.
  2. Thời tiết đầy đủ.
  3. Công đức đầy đủ.
  4. Đầy đủ sự đáng yêu. Đó là vật ưa thích.
  5. Ruộng phước đầy đủ.
  6. Việc bố thí cho người đói khát.
  7. Bố thí với lòng tin.
  8. Không cầu mà đầy đủ công đức bố thí.
  9. Có tâm hoan hỷ, bố thí vợ con.
  10. Tâm lựa chọn với sự kính trọng, đem cả thân mình ra mà bố thí.
  11. Bố thí mà không có tâm coi khinh đối với thế gian.
  12. Bố thí không cầu báo đáp.

Người có mười hai loại bố thí như vậy, lại có đầy đủ công đức trì giới được sinh lên trời, hết phước liền thoái đọa. Vì vậy Thiên chúng nên từ bỏ việc làm phóng dật. Người đủ mười hai loại bố thí trong ấy như vậy sẽ làm Chuyển luân vương, của cải dồi dào, hoặc sinh lên trời, hoặc nơi tương tợ cõi trời.

Lại có mười hai loại bố thí không thanh tịnh. Những gì là mười hai loại không thanh tịnh?

  1. Bố thí không bình đẳng đối với nhiều người, đối với chúng hòa hợp, đối với chúng Tăng đều có giới hạnh, trí tuệ và công đức đầy đủ như nhau. Sự bố thí không thanh tịnh này được quả báo nhỏ.
  2. Hoặc nam hoặc nữ, do sự tham dục mà nam bố thí cho nữ, hoặc nữ bố thí cho nam. Đó là sự bố thí không thanh tịnh thứ hai.

Sự bố thí không thanh tịnh thứ ba là do sợ hãi mà bỏ vật ra bố thí cho nhà vua, cho thầy dạy như Sa-môn, Bà-la-môn. Người đó nghĩ như vầy: Nếu ta dâng nạp cho nhà vua, khi ta bị khổ ách, nhà vua có thể cứu ta. Đây chẳng phải do nhân duyên tu, tư mà bố thí nên gọi là bố thí không thanh tịnh.

Sự bố thí không thanh tịnh thứ tư là bố thí với tâm si mê, như Bà-la-môn ngoại đạo kia lập trai hội bố thí. Đó là sự bố thí không thanh tịnh thứ tư.

Lại nữa, sự bố thí không thanh tịnh thứ năm là thấy người khác bố thí, không biết người kia có giữ giới hay không, không biết người kia có trí tuệ hay không, có yên tịnh hay không, có thiền định hay không, chỉ thấy người khác bố thí thì làm theo, chớ mình không tự suy nghĩ. Bố thí như vậy gọi là sự bố thí không thanh tịnh thứ năm.

Sự bố thí không thanh tịnh thứ sáu là: Người xin phải năn nỉ khổ nhọc mới cho. Đây là sự bố thí không thanh tịnh thứ sáu.

Sự bố thí không thanh tịnh thứ bảy là biết người có vật, vì muốn cho người tin, tạo phương tiện để chiếm đoạt nên đem vật cho người. Sau đó người này làm ác, gây đủ thứ thiệt hại. Người này vì muốn cầu lợi nên đem vật đi cho. Đây là sự bố thí không thanh tịnh thứ bảy.

Sự bố thí không thanh tịnh thứ tám là: Vì muốn phá hoại sự hòa hợp của người mới đem vật đi bố thí và kết bạn cùng với hai người đó, khiến họ lìa nhau để thu lợi, làm cho họ khổ đau. Đó là sự bố thí không thanh tịnh thứ tám.

Sự bố thí không thanh tịnh thứ chín là: Vì muốn kết thân nên đem vật cho người, hoặc nam bố thí cho nữ, hoặc nữ bố thí cho nam. Đây là sự bố thí không thanh tịnh thứ chín.

Sự bố thí không thanh tịnh thứ mười là: Vì việc làm ăn, người ấy mua nhiều thức ăn và các vật đủ loại như lúa, đậu, rau, quả, tất cả tạp vật đợi đến ngày trai hội đem bán mắc để thu lời, được vật dụng rồi mới đem bố thí chút ít. Đây gọi là sự bố thí không thanh tịnh thứ mười.

Sự bố thí không thanh tịnh thứ mười một là: Vì muốn nổi tiếng nên đem vật để bố thí. Đây là sự bố thí không thanh tịnh thứ mười một.

Sự bố thí không thanh tịnh thứ mười hai là thấy vợ con họ nghèo đói, người ấy đem đồ vật cho họ nhưng trong tâm không có ý nghĩ tốt đẹp. Đây là sự bố thí không thanh tịnh thứ mười hai.

Tất cả sự bố thí này đều không có suy nghĩ. Do không có suy nghĩ nên không có quả báo. Nếu suy nghĩ tăng trưởng thì có thể xa lìa sự cấu uế. Giống như áo dơ đem giặt với nước tro áo liền sạch, cũng vậy nếu thêm vào sự suy nghĩ thì việc bố thí đó sẽ thành tựu.

Vào lúc ấy, Phật Tỳ-bà-thi nói kệ:

Đủ mười hai công đức
Lìa mười hai cấu uế
Thành tựu thí trong sạch
Trái lại liền dơ bẩn.
Hoặc trời hoặc người nam
Bố thí được sức mạnh
Không thí đọa đường ác
Bố thí sinh đường lành.
Bụi tham lam ganh ghét
Chỉ biết thương vợ con
Người này đọa ngạ quỷ
Chỉ mong cầu ăn uống.
Ai mở dây tham lam
Đốn ngã cây ngạo mạn
Diệt trừ khối si ám
Người này nhờ bố thí.
Bố thí đi phía trước
Thí chủ bước theo sau
Bố thí hay chỉ đường
Đi thẳng sang đời khác.
Người tắm nước bố thí
Thao hương thơm giữ giới
Trí tuệ rộng không dơ
Vượt khổ đến bờ kia.
Trượng phu có ba đèn
Đốt lên vì lợi ích
Gọi là trí thí giới
Hay trừ được tội lỗi.
Tham ái rất sâu rộng
Sóng si rất cuồn cuộn
Do giữ giới tu trí
Vượt qua biển khổ này.
Tâm không điều rối ren
Nơi nào cũng vướng mắc
Pháp bố thí, trì giới
Có thể buộc tâm ấy.
Ba vị thầy thuốc này
Hay trừ bệnh phiền não
Trí bố thí, giữ giới
Thường xuyên khiến an lạc.
Tâm có lỗi phóng dật
Phân biệt và dối trá
Trí bố thí, trì giới
Ba thứ buộc tâm này.
Ba loại hơn lửa dữ
Đốt tất cả thế gian
Nước trí dập lửa xong
Được Niết-bàn vắng lặng.

Phật Tỳ-bà-thi chép kinh này ở trong tháp ấy. Việc bố thí này chỉ con người mới có thể thực hành, còn chư Thiên thì không thể. Do nhân duyên ấy, con người hơn chư Thiên. Chư vị đã biết bố thí như vậy, đối với những cảnh giới phải khéo giữ tâm, chớ có phóng dật. Khéo giữ tâm rồi nên khiến cho phiền não và tội lỗi lớn không thể phát sinh trong tâm. Nếu có sinh ra, có thể dùng lửa trí tuệ để thiêu đốt. Lửa trí đốt phiền não liền đến nơi bất thoái đệ nhất, không sinh, không già, không chết, không chấm dứt. Như vậy cần phải xả bỏ phóng dật đáng ghét.

Lại nữa, Thiên chúng còn có việc khác lưu chuyển ý bị khiếp nhược, nhục nhã, hổ thẹn. Đó là vào giờ ăn, quả báo thấp kém của mình hiện ra trước mặt nên hổ thẹn. Do oai lực của nghiệp có thượng, trung, hạ nên quả báo cũng có các bậc thượng, trung, hạ. Vị Thiên ấy không thể bố thí một vật nhỏ cho vị Thiên khác, không thể đem nghiệp của mình chuyển sang cho người khác là vì lúc làm người bố thí thức ăn vào giờ ăn hoặc là giữ giới nên được thức ăn như vậy. Vị Thiên ấy thấy thức ăn của người khác đầy đủ sắc hương vị tốt đẹp hơn mình, thấy như vậy rồi tâm sinh hổ thẹn. Nếu vui chơi trong vườn, ao sen thì tất cả các thú vui đều tương ứng với nghiệp. Vui chơi xong, thấy các vị Thiên khác thọ hoan lạc thì trong tâm hổ thẹn, cúi đầu, rụt cổ.

Trong chư Thiên có năm loại hổ thẹn. Những gì là năm?

Một là vào giờ ăn, thấy các vị Thiên khác có thức ăn màu cam lồ trắng, còn thức ăn của mình thì không thanh tịnh, hoặc là màu đỏ. Lúc ăn gần nhau thấy việc này thì rất hổ thẹn. Đây là sự hổ thẹn đầu tiên.

Sự hổ thẹn thứ hai là thấy vị Thiên khác có sắc tướng tươi đẹp, hình dáng, y phục trang nghiêm, có nhiều Thiên nữ dung mạo tuyệt đẹp hầu hạ, cúng dường, thấy rồi liền hổ thẹn.

Điều hổ thẹn thứ ba là thấy vị Thiên khác ở trong hoa sen, bay trên hư không, vườn cây, ngọn núi, trong ao sen, nơi đùa giỡn màu vàng Tỳ-lưu-ly. Do nghiệp vượt trội họ bay nhanh. Nếu chư Thiên nào nghiệp lành ít thì bay chậm, không thể cùng bay song song với các vị khác mà thường bay sau họ, nên cảm thấy xấu hổ với các Thiên nữ.

Điều hổ thẹn thứ tư là chư Thiên vào trong ao sen, ao sen sinh ra sắc, hương, xúc tương ứng với nghiệp. Vị Thiên kém phước thấy rồi sinh hổ thẹn với quyến thuộc.

Điều hổ thẹn thứ năm là nghiệp của chư Thiên như thế nào thì được quả báo như vậy. Chỗ ngồi cũng theo nghiệp. Nếu xưa kia tạo nghiệp lành nhiều thì có tòa ngồi bằng tỳ-lưu-ly xinh đẹp, hoặc tòa bằng châu báu màu xanh, hoặc lại có hoa sen đỏ, được ngồi ở chỗ đẹp đẽ. Nếu là chư Thiên ít phước thì khi ngồi ở chỗ đó, do nghiệp ít nên tòa ngồi vi diệu như vậy liền biến thành vàng, hoặc biến thành bạc, hoặc thành pha lê. Vị Thiên ấy thấy chỗ ngồi đã biến theo đủ các loài tạp nghiệp hoặc nặng hoặc nhẹ. Đã thấy biết rồi vị ấy liền sinh hổ thẹn. Do hổ thẹn uy đức bị giảm sút. Các vị Thiên khác thì uy đức và sắc mặt tăng thượng. Thấy vậy, các Thiên nữ của vị ấy liền rời bỏ. Họ lìa bỏ vị Thiên ít nghiệp lành và đến nương tựa nơi các vị Thiên có nghiệp lành lớn. Lúc vui chơi thọ lạc, các Thiên nữ cùng nhau đến với các vị Thiên khác. Vị Thiên ít nghiệp ấy rất hổ thẹn. Đây là sự hổ thẹn thứ năm đối với quyến thuộc ở trong chư Thiên.

Như vậy, pháp hữu vi không đáng ưa. Pháp hữu vi hay lừa dối, khiến sinh tâm tham. Giống như lá cây xoan, vị nó rất đắng được đem hòa với vị ngọt, thú vui ở cõi trời cũng vậy, khổ nằm lẫn trong vui. Ở cõi trời còn vậy, huống gì chúng sinh ở các đường khác như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hoặc do định nghiệp sinh hoặc do nghiệp bất định sinh, thường chịu khổ không dứt, có vô lượng loại khổ lớn phát sinh.

Giống như trong biển có đủ các dòng nước là do các sông khác nhau chảy vào. Tâm của chúng sinh cũng lại như vậy, chảy liên tục như sông, có đủ các nghiệp, dựa vào nghiệp mà sông tâm phát sinh, tạo nên sức mạnh dấy khởi các khổ não.

Thiên chúng các ông nên biết, ở đây lường xét như vậy và nêu rõ hết thảy loại khổ khác nhau. Tổng cộng tất cả khổ gồm có ba loại nhân chính, hòa hợp tạo thành đủ các khổ. Ba loại khổ này nếu có ba loại đối trị liền có thể trừ bỏ nó. Những gì là ba? Đó là trí tuệ, trì giới và bố thí.

Bấy giờ, Phật Tỳ-bà-thi nói kệ:

Nếu tâm không nương tựa
Ba thứ trí, giới, thí
Chúng sinh ấy thường khổ
Không thể được an lạc.
Như các loại nhân duyên
Có bao nhiêu loại nghiệp
Nghiệp mà chúng sinh tạo
Thành tựu quả như vậy.
Tất cả đều nhờ duyên
Không gì không nhờ duyên
Hữu vi không hủy hoại
Nhân duyên không thể thấy.
Do bị tâm lừa dối
Hổ thẹn khi bố thí
Người bố thí như vậy
Sẽ không được quả vui.
Hòa hợp và bố thí
Bỏ keo kiệt, ganh ghét
Do thiên thường thọ vui
Không có tâm như vậy.
Đói khát là lửa lớn
Hay thiêu các ngạ quỷ
Do keo kiệt ganh ghét
Người trí nói như vậy.
Ai thường hay bố thí
Nhất định sẽ được vui
Do bố thí được vui
Bố thí là hơn hết.
Thế gian tạo ánh sáng
Thường xuyên tự theo đuổi
Bố thí liền sinh Thiên
Được chư Thiên hầu hạ.
Thí là nơi chân thật
Như Lai nói như vậy
Do nó là chân thật
Thường nên hành bố thí.
Bỏ keo kiệt ganh ghét
Rồi khéo tu nơi tâm
Nếu hay hành bố thí
Được vượt biển sinh tử.
Thí vào ruộng Tam bảo
Ba phần đều thanh tịnh
Quyết định ở ba thời
Thấy quả báo kia ngay.
Trước hết thường bố thí
Đến tinh tấn giữ giới
Trí tuệ hay dứt ái
Đây là đạo rất vui.
Nếu không trừ bỏ ái
Không lợi ích thế gian
Người ấy không thể đến
Niết-bàn không sinh tử.
Thường lìa tâm keo kiệt
Thường thích hành bố thí
Không thí nên đói khát
Đốt thân trong ngạ quỷ.
Bố thí được giàu to
Trong thời Càn-thát-bà
Nhờ thí được làm vua
Pháp lành Chuyển luân vương.
Dựa vào đất bố thí
Người trí hay giữ giới
Người giữ giới biết thời
Nhờ trí được giải thoát.
Con đường để thoát khổ
Chư Phật đều khen ngợi
Người mạnh mẽ biết rồi
Nên thường hành bố thí.
Không bố thí sinh Thiên
Hưởng hoan lạc rất ít
Do bố thí làm người
Cả đời được giàu, vui.
Nếu sinh làm súc sinh
Cũng thường hưởng quả vui
Mọi niềm vui bố thí
Là điều người trí nói.
Nếu ở trong ngạ quỷ
Cũng có đồ ăn uống
Do bố thí chút ít
Nên được quả như vậy.
Nếu sinh trong địa ngục
Không bị đói khát thiêu
Tất cả nhờ bố thí
Đều được quả như vậy.
Sinh trong đường lầy lội
Là nghiệp của chúng sinh
Bố thí được an lạc
Như là gặp cha mẹ.
Sống trên đất bố thí
Thường làm việc bố thí
Thích bố thí, giữ giới
Được thoát các chốn ác.

Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà đã răn dạy các Thiên chúng phóng dật như vậy.

Thiên chúng hiểu rồi, tất cả đều thấy rõ quả báo của việc sống trong giới nên chuyên chú giữ giới.

Lại nữa, Thiên chúng ấy, có sự hổ thẹn đó là sự hổ thẹn trong hiện tại do thấy thức ăn nên hổ thẹn.

Vì hổ thẹn nên họ đi dạo chơi trong vườn, trên hoa sen, có nhiều Thiên nữ vây quanh tạo ra đủ loại âm nhạc. Ở trên trời, họ đi trên đất, tâm ưa cái vui của cảnh giới năm dục. Họ thành tựu được việc vui tốt đẹp nhất không thể ví dụ được.

Như vậy, từ chỗ ăn uống ra đi, họ lần lượt đến chỗ các Thiên nữ xinh đẹp. Các Thiên nữ ấy vây quanh họ ca múa đủ năm loại âm nhạc. Họ vui chơi thọ lạc. Nhĩ thức của các vị Thiên đó không biết chán biết đủ. Cảnh giới thật đáng yêu cho nên họ hưởng dục lạc không thể nhàm chán.

Lại nữa, vị Thiên ấy thấy các loại sắc đều đáng yêu, xinh đẹp dịu dàng. Họ nghĩ đến sắc đẹp như ý thích của họ, thấy rồi liền sinh vui vẻ. Sắc ấy có đủ loại ánh sáng, đủ loại màu vẻ khác nhau, đủ loại hình tướng, hoặc ở xa, hoặc ở gần, hoặc ở giữa. Vị Thiên ấy thấy rồi có ý nghĩ như vầy: “Ước gì sắc đẹp ở xa kia có thể đến gần”. Theo ý nghĩ của họ, sắc đẹp đáng yêu ấy liền đến gần. Hoặc là sắc đẹp ở giữa cũng đến theo ý muốn. Nếu nghĩ đến sắc đẹp ở gần, sắc đẹp ở gần liền đến. Nếu nghĩ đến sắc đẹp ở giữa, sắc đẹp ở giữa liền đến. Nếu nghĩ đến sắc đẹp ở xa, sắc đẹp ở xa liền đến. Do nghiệp quả thù thắng nên họ được tùy ý như vậy.

Do nghiệp nhân của họ có thượng, trung, hạ nên quả báo chư Thiên cũng có thượng, trung, hạ. Như vậy, vị Thiên ấy ngậm độc tham ái không biết nhàm chán. Như lửa gặp củi không có bao giờ đủ, người có tâm tham ái cũng không bao giờ biết chán biết đủ đối với cảnh giới. Như vậy trong cõi trời có vô lượng thú vui đủ loại đều không thể làm thỏa mãn vị ấy.

Lại nữa, Thiên chúng, tỷ thức ngửi mùi thơm có vô lượng loại, đó là mùi hương của hoa kỳ diệu ở trong vườn trời.

Lại nữa, hoa ấy sinh ra ở trong nhánh cây. Nhánh rủ xuống đất có đủ loại màu sắc, đủ loại hình tướng, đủ các thành phần, đủ loại khác nhau. Hoa nở cùng lượt trong tất cả các thời. Hoa ấy được Thiên nữ hái đem dâng cho Thiên tử ngửi. Hoặc là gió thổi, mùi hương bay đến chỗ Thiên tử, Thiên tử ngửi xong dục vọng phát sinh, Thiên tử liền thọ hưởng dục lạc.

Lại nữa, thân tướng của chư Thiên ở trong cõi trời trang nghiêm kỳ diệu, trên đầu được trang điểm bằng châu báu anh lạc thích hợp với chư Thiên ấy. Tùy theo ý niệm của chư Thiên mà đủ loại y phục được sinh ra, có đủ loại hương thơm và vô số y phục cõi trời thích hợp với từng vị. Các vị Thiên ấy sinh tâm tham ái không biết chán, biết đủ.

Lại nữa, tùy theo tâm suy nghĩ và do nghiệp của chính mình, các vị Thiên ấy có đầy đủ tất cả đồ vật cần dùng, có đồ ăn thức uống ngon nhất. Trong đất trên cõi trời có thức ăn cam lồ. Cam lồ này có các loại thượng, trung, hạ do công đức bố thí trước đây có các bậc thượng, trung, hạ.

Lại có đầy đủ các loại thức uống cõi trời gồm các bậc thượng, trung, hạ. Đó là do nghiệp mà như vậy. Nghiệp của mình cũng như con dấu ấn, giống như trong loài người, thân người dài hay ngắn, theo ánh mặt trời bóng nó cũng dài ngắn tương tợ như thân. Như vậy như vậy, vị Thiên ấy xưa kia lúc ở trong loài người tạo nghiệp như vậy thì nay hưởng thức ăn như vậy. Lúc ăn thức ăn này, Thiên nữ hiện trước mặt, vị ấy liền hổ thẹn. Vị Thiên ấy thấy Thiên nữ xinh đẹp liền rất khổ não. Ở trong các cảnh giới, tất cả đều vô thường, không có một thú vui nào không bị hủy hoại. Nên biết rằng tất cả các pháp hữu vi trong hiện tại đều như vậy.

Lại nữa, khi nghiệp lành trước đây của vị Thiên ấy đã hết, giờ thoái đọa đã đến, vị ấy liền sinh đau khổ. Nếu các vị Thiên phóng dật, ham thích dục lạc cõi trời, lúc thoái đọa phải xa lìa những điều ưa thích, mồ hôi túa ra, phước báo hết, sắp sinh về cõi khác thì có tướng hiện ra. Do sắp thoái đọa, thân tâm rất khổ như là có nỗi khổ lớn phát sinh. Nỗi khổ ấy không gì thí dụ được.

Vào lúc ấy, Phật Tỳ-bà-thi nói kệ:

Các thú vui phóng dật
Là cảnh giới lừa dối
Lúc thức ăn sắp hết
Thoái đọa không bạn bè.
Đời xưa hành phóng dật
Không làm việc bố thí
Lúc thoái đọa về sau
Lửa hối hận đốt tâm.
Các thời đầu, giữa, sau
Tâm thường làm lợi ích
Thường điều phục lợi ích
Khi chết không khiếp sợ.
Có sinh ắt có chết
Cũng có ái xa lìa
Người ngu không tư duy
Bị cảnh giới lừa dối.
Niệm thứ lớp của tử
Cảnh giới phá hoại trời
Đến nơi trời không biết
Do ý đắm nhiễm dục.
Nếu trời biết điều này
Sinh khổ ái xa lìa
Cho đến trong chốc lát
Tâm dục không chịu dừng.
Dục vô thường đáng sợ
Thường gây ra tai hại
Người ngu si như vậy
Mà còn gần tham dục.
Trời si thường như thế
Bị lửa dục thiêu đốt
Đã bị dục thiêu rồi
Làm theo dục không ngừng.
Nếu nghĩ về chân đế
Không ưa thích cảnh giới
Người ưa thích dục lạc
Sẽ thường hay than khóc.
Tất cả ba cõi này
Xoay chuyển như bánh xe
Tất cả nghiệp trói buộc
Trời không thấy sự thật.
Ở trong các nẻo đường
Bị sinh tử khắp nơi
Chúng sinh bị mê ái
Thường chịu các khổ não.
Dục như điện, vòng lửa
Rất nhanh không bắt kịp
Như mộng, thành Thát-bà
Chúng sinh không thể giữ.
Dục là như vậy đó
Xét kỹ còn hơn thế
Trong vô thường, khổ, không
Chớ sinh tâm ngã, sở.
Bánh xe lão tử này
Rất ác khó điều phục
Chúng sinh không ai cứu
Mù mắt không biết rõ.
Thế Tôn dạy năm căn
Hoàn toàn không tự thể
Có nhiều khổ, vô thường
Tự thể là bệnh tật.
Thấy biết như vậy rồi
Nên lìa bỏ dục ngay
Người trí tuệ tịch tĩnh
Liền ở gần Niết-bàn.
Khi vị Thiên sắp đọa
Thân tâm đều loạn động
Bấy giờ khổ thọ sinh
Không thể ví dụ được.
Nỗi khổ lớn như vậy
Tâm thương tiếc như vậy
Lúc trời ấy thoái đọa
Chịu khổ lớn như thế.
Các loài chưa bị chết
Các loài lìa tám nạn
Đều nên làm lợi ích
Đường này hay được vui.
Chư Thiên cũng thoái đọa
Loài người phải bị chết
Người nào biết như vậy
Mà không chán sinh tử.

Như vậy trong cõi trời, lúc nghiệp hết bị thoái đọa, dây nghiệp trói buộc khiến cho bị thoái đọa, dẫn dắt đến nơi khác, sinh sợ hãi khủng khiếp. Cho nên có chư Thiên giống như súc sinh nên tâm của chư Thiên ấy ưa thích cảnh giới và các hành động dục lạc chớ không tự làm lợi ích. Do đó Thiên chúng chớ có hành động phóng dật, đừng để về sau sinh tâm hối tiếc.

Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà chỉ cho Thiên chúng nơi Sơn thọ cụ túc trên mặt đất nơi có tháp của Phật Tỳ-bà-thi. Thấy tháp ấy rồi, Thiên vương bèn điều phục chư Thiên, làm lợi ích cho họ, chỉ cho họ thấy tai họa của dục, giảng nói chánh pháp cho những vị Thiên mắc bốn thứ điên đảo, chỉ cho họ cái chết lúc nó chưa đến để khiến họ sợ hãi. Ở nơi chết chóc đáng sợ, nơi có vô lượng khổ não ấy. Thiên vương chỉ dạy đạo bình đẳng, dùng tâm tịch tĩnh để tạo lợi ích và điều phục họ.

Phần thứ hai trong sáu kinh mà Phật Tỳ-bà-thi đã dạy đến đây thì chấm dứt.

Lại nữa, Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà là Thiên vương Dạ-ma ấy giúp đỡ tất cả chư Thiên ở Sơn thọ cụ túc, dù họ có tâm tu hay không có tâm tu. Thiên chủ làm cho họ siêng năng tu tập, tạo lợi ích cho người khác, trừ bỏ sự biếng nhác, khiến họ thấy rõ nghiệp, quả và tâm trở nên nhu hòa. Do tâm nhu hòa, lòng tin to lớn được phát sinh. Lòng tin đã phát sinh rồi, Thiên chủ mới chỉ cho họ tội lỗi của dục. Chỉ cho thấy tội lỗi của dục rồi, Thiên chủ mới dạy về sự vô thường của mạng sống. Nói về sự vô thường rồi, lại giảng nói về nỗi khổ sinh tử. Chư Thiên nghe rồi, tâm trở nên nhu hòa. Do tâm họ đã nhu hòa, Thiên vương mới dạy:

–Này chư Thiên các ông, tất cả hãy xem tháp Phật lớn lao ấy. Đó là tháp của Ca-ca-thôn-đà Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Tháp Phật quý báu kỳ diệu, ánh sáng đầy khắp, lan can kết bằng vàng ngọc, cao vút lên trên như xuyên qua hư không, mọi người đều thấy rất là đáng yêu. Nó trong sạch vào bậc nhất, tất cả chư Thiên ai thấy cũng ưa thích. Nơi cõi trời này, tháp ấy cao vút như tấm cờ phướn, chắc chắn không lay động như trong thiền định, có đủ loại châu báu tốt, ánh sáng rất đẹp đẽ, giống như giảng nói về chánh pháp rất là đáng ưa, chư Thiên đều thấy như vậy.

Này chư Thiên! Các ông hãy đi theo ta đến tháp ấy để cúng dường, lễ bái, hoặc thoa hương, rải hoa để cúng dường. Tháp của bậc Đại tiên này có gì hy hữu mà nay chúng ta cùng nhau đến chiêm ngưỡng? Đó là nó làm cho chúng ta được lợi ích, kể cả lợi ích cao nhất là nhập Niết-bàn, làm cho thân mạng đều được an lạc. Vì sao? Vì pháp mà Như Lai, Thế Tôn giảng nói tuy chỉ có chút ít cũng có thể làm cho chúng sinh được an lạc, được lợi ích. Tất cả chúng sinh đều được lợi ích, điều đó không có gì nghi ngờ.

Nay để được thêm lợi ích, chúng ta nên cùng nhau đến đó.

Bấy giờ, sau khi nghe Thiên vương nói như vậy, tâm chư Thiên đều trong sạch, tin lời Thiên vương và bạch: “Chúng ta cùng nhau đi cúng dường, lễ bái để được lợi ích an lạc”.

Khi ấy, chư Thiên ở Sơn thọ cụ túc cùng Thiên vương đi đến tháp của Thế Tôn. Thiên vương đi trước, Thiên chúng đi sau. Đến nơi, thấy tháp của Như Lai Ca-ca-thôn-đà, họ sinh tâm kính trọng, lễ bái cúng dường và đi nhiễu quanh tháp.

Lúc này ở trong tháp, các châu báu rực sáng đến nỗi ánh sáng của mặt trời giống như là ánh sáng đom đóm, ánh sáng của các châu báu ấy kỳ diệu lạ thường như vậy. Trong tháp ấy có treo một tấm bảng báu rất sáng. Bảng này có chép kinh. Đó là do thần thông của chư Thiên làm ra nên không bị mất, không bị phá, không bị hư và không thể xóa sạch.

Vì sao không mất? Vì để làm lợi ích cho cõi trời người, Như Lai Ca-ca-thôn-đà Mâu-ni đã dạy kinh điển này, nói pháp như vậy cho hàng trời, người. Vì sao? Vì cõi trời chính là đường lành của con người. Cõi người chính là đường lành của chư Thiên. Lúc chư Thiên thoái đọa thì mong cầu đường lành là sinh làm người. Con người chết thì mong cầu được sinh vào đường lành là cõi trời. Như vậy, trời và người đổi nhau làm đường lành. Trời cùng với người ưa thích lẫn nhau. Ai giữ giới đầy đủ thì sinh lên cõi trời.

Người giữ năm giới gồm có hai hạng. Người giữ giới ấy do ngu si, nên sống mà không chín, chỉ làm một cách ngu si, nhưng người ấy có lòng tin. Do lòng tin đối với Phật, họ tu tập khiến cho thân, khẩu, ý đều thiện chứ không theo tà kiến. Cho đến khi mạng căn chấm dứt họ vẫn tin quả báo của nghiệp. Họ làm ăn, sinh sống theo chánh pháp, không làm người khác buồn bực, kính trọng cha mẹ, cúng dường cha mẹ, gần gũi Sa-môn, Bà-la-môn, thường nghe chánh pháp. Người ngu si ấy chỉ làm theo lòng tin. Tuy ngu si chậm lụt nhưng người ấy tu tập thân, khẩu, ý theo nghiệp lành một cách đầy đủ. Họ có tánh như thế, không chịu thọ giới cấm. Người như vậy khi chết sẽ sinh vào đường lành là cõi trời. Người ấy cuối cùng được sinh Thiên là do tâm lành. Nếu được sinh ở cõi trời Dạ-ma thì họ sẽ thua kém các vị Thiên khác. Màu sắc của thân, quần áo và các đồ trang sức, các Thiên nữ, sức phi hành, thức ăn, tất cả đều thua kém. Do vậy, họ sinh hổ thẹn. Ánh sáng và tất cả những điều mong cầu đều thua kém. Do không có trí tuệ, không biết giữ giới nên họ thua kém những vị Thiên có giới, có trí tuệ và biết giữ giới.

Lại nữa, do ngu si họ không biết giữ giới và tu tập giới. Tuy có lòng tin trong sạch đối với Phật, Pháp, Tăng nhưng họ không thể giữ giới được một ngày. Mặc dù thân làm việc lành, miệng nói điều lành, ý nghĩ điều lành nhưng không được hoàn toàn về thân, khẩu, ý. Việc thiện của thân là không sát sinh, không tà dâm, không trộm cắp, họ không thể thực hành tất cả. Các điều lành về khẩu thì họ chỉ thực hành việc không nói dối, còn các lỗi khác thì họ đều vi phạm. Như vậy, họ chỉ thực hành được một phần chớ không thể thực hành đầy đủ tất cả các hạnh lành. Về điều thiện của ý, họ có lòng tin cho đến trọn đời. Nhờ nghiệp lành còn sót lại, hoặc là nhờ niềm tin, họ được sinh vào cõi trời Dạ-ma nhưng thấp kém hơn những chư Thiên đã ở đó trước. So với chư Thiên có tu hành, thọ giới, giữ giới đầy đủ thì hình dáng, sắc thân, đồ trang sức, thức ăn, sức phi hành, Thiên nữ, tuổi thọ, thanh, xúc, sắc, hương của họ tất cả đều kém. Do thấy mình kém, họ rất hổ thẹn đối với các vị Thiên khác là những vị có giữ giới.

Lại có người ngu si, không biết giữ giới, không thích hợp với việc trì giới. Tuy có chánh kiến, được nghe Phật pháp, tin Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng một cách cung kính, nhưng họ không giữ giới được một ngày. Nghe người trì giới đến, hoặc là bạn bè đến chỉ dạy, hoặc do sợ hãi, họ không dám trộm cắp.

Dần dần, khi nghe Phật dạy, do nghiệp xấu còn sót lại sẽ sinh nghèo nàn, vì lo sợ cho đời hiện tại, lo sợ cho đời vị lai, nên họ không trộm cắp, miệng không nói lời hủy hoại, không hủy hoại nhau. Đối với người đang phá hoại thì họ khiến cho hòa hợp lại, vì ưa thích việc lành bằng cách truyền những lời Phật đã dạy. Người ấy do dư nghiệp của lời nói hủy hoại, nên những người bạn thân, vợ con, nô tỳ, tất cả đều bị hủy hoại. Do nhân này, khi chết sẽ đọa vào cõi ác, sinh vào trong địa ngục. Do hai nhân duyên ấy, người đó không nói hai lưỡi nữa.

Do nghiệp nhân này, do có lòng tin hoặc do nghiệp đời trước, hoặc do nghiệp đời này, hoặc do tin ruộng phước nên khi chết người ấy sinh lên cõi trời Dạ-ma, nhưng sắc đẹp và hình tướng đều thấp kém, Thiên nữ cũng kém. Sức phi hành, đồ ăn uống, sắc, thanh, hương, vị, xúc, tuổi thọ tất cả đều kém so với các vị Thiên khác. Người ấy liền sinh hổ thẹn. Đó là do phóng dật, không giữ giới mà ra.

Ba hạng như vậy đều được sinh lên cõi trời, nhưng có sự buồn rầu về việc bị thua kém.

Đó là nhờ tin Phật hoặc suy nghĩ như vậy, nhờ công đức thù thắng, hoặc nhờ bản tánh tốt đẹp, hoặc do tâm thể rất nhu hòa, hoặc do rất chánh kiến, hoặc do lòng tin sâu sắc không dối trá, không làm buồn bực người khác, do những điều tốt đẹp hơn như vậy, hoặc do nuôi dưỡng cha mẹ, kính trọng cha mẹ, do nghiệp tốt đẹp hơn như vậy, hoặc do nguyện lực thù thắng.

Người ấy như vậy nên tâm cũng theo nghiệp nối tiếp không ngừng.

Người ấy rất tin tưởng đối với ruộng phước nên ý suy nghĩ về cách tạo công đức.

Với nghiệp tốt đẹp có các bậc thượng, trung, hạ như vậy nên khi được sinh lên trời, người ấy quyết định nhận quả báo tương tự với nghiệp. Điều đó trọn không hư dối, không thể nghi ngờ mà chắc chắn phải như vậy, huống hồ là người giữ giới, cho đến khi đạt Niếtbàn thì chắc chắn được, không có hư vọng.

Có mấy loại giữ giới. Tóm lược mà nói, bốn chúng đệ tử của Phật, mỗi chúng đều có bốn cách thọ giới. Chúng đều tạo ra quả báo.

Bốn chúng đệ tử là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di là bốn chúng thọ giới. Mỗi chúng có mấy loại thọ giới khác nhau?

Trước hết, xét về Ưu-bà-tắc, tóm lược mà nói thì gồm có bốn loại. Đó là bốn loại gì?

  1. Hành một phần.
  2. Hành nửa phần.
  3. Hành luôn luôn.
  4. Thực hành tất cả.

Hành một phần là chỉ giữ một giới.

Hành nửa phần là chỉ thọ ba giới và giữ ba giới.

Hành luôn luôn là thọ giới không thường (chỉ thọ giới một lần).

Hành tất cả là giữ trọn năm giới.

Lại có bốn loại trì giới. Những gì là bốn?

  1. Hi trì giới.
  2. Bán trì giới.
  3. Hối trì giới.
  4. Hợp trì giới.

Ưu-bà-tắc ấy lần lượt giữ gìn đối với biển học giới. Đầu tiên là giữ tam quy làm Ưu-bà-tắc. Người ấy tu tâm, trải qua một thời gian quán xét kỹ lưỡng, họ giữ một học giới. Họ giữ học giới ấy một cách kiên trì, không khiếm khuyết, không rò rỉ và không thất thoát.

Thế nào là không khiếm khuyết, không rò rỉ và không thất thoát?

Không khiếm khuyết là cho đến trọn đời, giữ gìn không bỏ, không khởi một tâm niệm phá giới, không tùy hỷ đối với người phá giới, ngăn cản không cho họ phá giới và khiến cho người khác sống yên ổn trong chánh pháp nên gọi là không khiếm khuyết.

Không rò rỉ là như có người thọ một học giới. Về sau họ xả học giới ấy, sau đó giữ trở lại, vài lần xả vài lần giữ. Như vậy gọi là rò rỉ. Còn người giữ giới không rò rỉ thì giữ kỹ lưỡng chứ không phải như vậy.

Thế nào là không thất thoát? Thế nào là thất thoát? Đó là ban đầu, với tâm thanh tịnh, thọ trực tiếp với bậc Thiện tri thức. Sau đấy sinh tâm hối hận không thể giữ gìn, tâm sinh nghi ngờ. Điều nghi ngờ ấy dẫn dắt tâm khiến người đó làm theo tâm vẩn đục chớ không làm theo sự suy nghĩ chín chắn. Người đó về sau bị lửa hối hận thiêu đốt. Sau khi bị thiêu như vậy, họ liền xả bỏ học giới. Xả bỏ như vậy rồi, họ không giữ trở lại. Đó gọi là thất thoát. Nếu người nào không có như vậy thì gọi là không thất thoát.

Ưu-bà-tắc hi hành là người giữ giới bị khiếm khuyết, bị rò rỉ và bị thất thoát. Thế nào là khiếm khuyết? Đó là người có tâm bình thường, không bị mất trí, thần kinh không bị hư hoại, do tâm hành phát sinh nên giữ học giới nhưng việc ấy giống như là bẹ chuối, hoặc giống như là ánh chớp. Với tâm như vậy, người ấy hoan hỷ giữ giới và rất kính trọng, tin tưởng chánh pháp. Sau đó, nghe pháp của ngoại đạo, tâm liền sinh hối hận, bị bụi ngu si làm cho tâm vẩn đục nên người ấy xả giới. Về sau, lại được nghe chánh pháp mới giữ giới trở lại. Đó gọi là khiếm khuyết.

Thế nào là rò rỉ? Đó là Ưu-bà-tắc nghi ngờ học giới. Người trì giới như vậy vừa cúng dường chư Thiên, vừa nhớ nghĩ chánh pháp. Họ nghĩ như vầy: “Nay ta nhờ lời dạy của Phật mà được thanh tịnh, nhờ sức hộ trì của chư Thiên mà được ơn ích”. Do nghĩ như vậy, họ cúng dường cả hai. Với tâm nghi như vậy mà giữ giới theo chánh pháp gọi là rò rỉ.

Còn thất thoát là gì? Đó là trong tâm thì hư dối mà bên ngoài thì giả bộ làm lành. Người này giữ gìn học giới là vì muốn người khác thấy và vì muốn được lợi dưỡng. Điều này gọi là thất thoát.

Tất cả những điều đó người trí đều nên bỏ.

Bây giờ ta nói về hạnh Ưu-bà-tắc hy trì giới. Thế nào là Ưubà-tắc hành hi trì giới? Đó là Ưu-bà-tắc giữ một học giới trong một thời gian rồi mới giữ học giới khác. Lần lượt như vậy chứ không phải là cùng một lúc, không chịu chuyên tâm, không theo một thầy. Trải qua một thời gian lâu dài người ấy giữ giới như vậy. Đó gọi là Ưubà-tắc hi hành học giới.

Điều thứ hai là Ưu-bà-tắc bán trì giới? Đó là người giữ giới từng nửa phần một, hoặc là giữ hai giới sau đó liền giữ ba giới còn lại, hoặc là giữ ba giới sau đó liền giữ hai giới còn lại. Hoặc là về sau mới giữ ba giới còn lại, hoặc là sau một thời gian lâu mới giữ hai giới còn lại. Đó gọi là bán trì giới ở trong từng nửa phần họ tăng thêm phần còn lại để thực hành. Vì sao? Vì họ gom từng nửa phần học giới lại là để giữ gìn. Người gom từng nửa phần học giới lại để giữ, gọi là loại trì giới thứ hai Ưu-bà-tắc gom từng nửa phần lại mà giữ gìn.

Thế nào là Ưu-bà-tắc hối trì giới là loại trì giới thứ ba? Đó là người trước không giữ giới do tâm ngu si nhưng có lòng tin sâu xa đối với Phật, Pháp, Tăng.

Ưu-bà-tắc ấy đến gặp thầy Tỳ-kheo, nghe thầy Tỳ-kheo nói về quả báo của việc giữ giới là có công đức vô lượng cho đến có thể đạt được Niết-bàn.

Nghe rồi, lửa hối hận thiêu đốt tâm, người đó mới sinh kính trọng, giữ giới không xả cho đến lúc chết. Đó gọi là Ưu-bà-tắc hối trì giới là loại trì giới thứ ba.

Còn Ưu-bà-tắc hợp trì giới tức loại trì giới thứ tư là người giữ đầy đủ tất cả các giới. Vì sao gọi là Ưu-bà-tắc hợp trì giới? Vì Ưubà-tắc này nghe chánh pháp rồi, liền hiểu chánh pháp, hiểu từng câu, từng chỗ ở trong mỗi kinh, hiểu về mười hai nhân duyên. Dựa vào giáo lý mười hai nhân duyên, người ấy thấy đúng như thật về pháp mười hai nhân duyên, trong tâm phát sinh ý niệm tin tưởng như vậy rồi, mới dùng miệng trì giữ tất cả các giới, giữ gìn đầy đủ năm giới, cùng một lúc một cách chắc chắn không bị khiếm khuyết, không rò rỉ và không thất thoát. Người ấy thường giữ gìn như vậy cho đến trọn đời.

Bốn hạng Ưu-bà-tắc đã nói như ở trước.

Còn về các bậc thượng, trung, hạ, theo thứ lớp như vầy, hạng thù thắng nhất là hạng giữ đủ năm giới, hạng kém nhất trong đó là hạng Hy trì giới. Hạng Ưu-bà-tắc giữ giới kém nhất chỉ cần hết lòng hộ trì giới trong một niệm thì chư Thiên cũng không bằng, Thiên ma, Ma vương cũng không bằng.

Vì sao? Vì người đó có thể bảo vệ thành trì Niết-bàn trong khi tất cả chư Thiên không mong cầu đến.

Quỷ Dạ-xoa trên đất thấy người trì giới liền cúng dường lễ bái. Dạ-xoa trên hư không thấy như vậy cũng cúng dường, lễ bái. Do người đó thực hành theo chánh pháp, có thể báo ân và có thể điều phục nên Dạ-xoa nói với chư Thiên về người đó. Người đó được quả báo trong hiện tại là được vua hoặc đại thần, hoặc chủ ruộng đất cúng dường của cải, đồ vật. Người đó được chư Thiên có thần thông lớn, có uy lực mạnh theo ủng hộ nên các việc phi pháp và các Dạxoa hung ác không thể làm não loạn, không thể phá hoại. Theo nhu cầu của tâm, các loại ý muốn đều được thỏa mãn đầy đủ, mặc tình thọ hưởng an lạc, các việc làm đều được thành tựu, không bị nhiều bệnh tật, sắc mặt thanh tịnh, ngủ nghỉ yên ổn, lúc thức thì vui sướng ổn định, vợ con, nô tỳ và người làm mướn luôn luôn bảo vệ, khi chết thì sinh vào đường lành. Khi ở cõi trời, thân sắc và hình tướng đều thù thắng. Do giữ giới nghiêm túc họ được sống một cách hạnh phúc như vậy. Với nghiệp lực như thế, do trì giới, họ được quả báo lớn.

Còn nếu ở trong cõi trời Dạ-ma mà làm việc phóng dật thì tất cả các nghiệp lành tích tụ lúc làm người đều hết sạch. Tâm chúng sinh do nghiệp trói buộc về sau sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì vậy, ta phải siêng năng tinh tấn, cho đến khi nào thấy được đạo. Nếu tinh tấn như thế thì tâm sẽ được tự chủ, còn nếu phóng dật thì lúc bị thoái đọa, vị Thiên ấy sẽ sinh tâm hối tiếc, bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh do nghiệp thiện đã hết. Vì vậy ta cần phải lìa bỏ sự phóng dật. Như vậy, hạng Ưu-bà-tắc tốt đẹp thứ tư này được an lạc trong hiện tại. Nếu có thể không ngừng tinh tấn theo thứ lớp thì liền đạt đến Niết-bàn.

Trên đây, ta đã nói về một loại thọ giới, đó là Ưu-bà-tắc đệ tử của Phật. Còn thế nào là Ưu-bà-di đệ tử của Phật? Ưu-bà-di gồm có mấy hạng?

Ưu-bà-di gồm có bốn hạng:

  1. Có lòng tin.
  2. Có chủng tánh thuận theo thứ lớp.
  3. Hạnh điều phục.
  4. Hạnh cận trụ.

Hạng có lòng tin là những người có tâm tánh như sau:

Đó là tâm nhu hòa và được tu tập khéo léo. Ưu-bà-di ấy chỉ cần nghe một ít lời Phật dạy liền có thể hiểu, hiểu rồi liền có thể nếm được vị ngọt của chánh pháp. Nếm rồi liền vào được chánh pháp. Đó gọi là đã đi vào pháp luật. Ưu-bà-di này sống với tâm lành sau đó mới thọ giới. Người này không bị câu chấp vào tâm của người nữ và khi nghe những lời dạy của ngoại đạo, họ không chấp nhận và không xả bỏ Phật pháp. Thậm chí họ không nói chuyện với ngoại đạo và chỉ sinh tâm trong sạch đối với Phật, Pháp, Tăng, thọ đủ năm giới. Đây là Ưu-bà-di có lòng tin.

Thế nào là Ưu-bà-di có chủng tánh tùy thuận theo thứ lớp? Đó là người bản tánh hiền lành, tùy thuận theo chánh pháp, nhập vào chánh pháp, tin pháp được pháp cứu giúp, quy về chánh pháp, bản tánh thuận với pháp và kiên trì với chánh pháp, không tạo nghiệp ác. Luận sư ngoại đạo không thể phá hoại được, được sinh trong dòng họ của Ưu-bà-tắc, thường hết sức tin tưởng đối với Phật pháp. Trong dòng họ này, nếu sinh người nữ thì người nữ ấy liền có thể thuận theo thứ lớp từ lúc mới sinh, thường được nghe lời Phật dạy và thường cúng dường Sa-môn. Ưu-bà-di này thường nghe điều nghĩa. Trong tất cả các thời, tâm họ được huân tập liên tục về chuyện thọ giới, giữ giới. Đây gọi là Ưu-bà-di có chủng tánh tùy thuận theo thứ lớp.

Ưu-bà-di hạnh điều phục là người vốn không tin Phật, Pháp, Tăng. Nếu được gần bạn lành làm cho tin Phật pháp hoặc nhờ một nhân duyên khác làm cho tin Phật pháp, do thấy người kia có đầy đủ công đức trì giới nên người này cũng thường xuyên giữ giới. Đó là Ưu-bà-di hạnh điều phục.

Ưu-bà-di hạnh cận trụ là như có người nữ thường gần gũi ngoại đạo, biết pháp của ngoại đạo và quan sát oai nghi của họ, biết oai nghi của họ rồi, sau đó người này mới thân cận Sa-môn, đệ tử của Phật, quan sát oai nghi của họ, theo họ nghe pháp quan sát hình tướng, cách đi đứng, ăn uống cử động tới lui, thân mặc áo ca-sa, đi lại yên lặng. Thấy như vậy rồi, sau đó họ mới từ từ lìa bỏ ngoại đạo và tin tưởng Phật, Pháp, Tăng. Do gần gũi nên được điều thuận rồi theo họ thọ giới cho nên được gọi là Ưu-bà-di hạnh cận trụ.

Bốn chúng Ưu-bà-di và bốn chúng Ưu-bà-tắc như vậy lược nói như thế này: Đó là có sự tin hiểu, do tâm tương tục, do nhân duyên khác, do-tuần tự thân cận. Như chúng Ưu-bà-tắc đã nói ở trước, có nhân duyên gì thì chúng Ưu-bà-di nhập vào chánh pháp cũng như vậy. Như chúng Ưu-bà-di có nhân duyên gì, chúng Ưu-bà-tắc cũng lại như vậy. Do tâm nối tiếp nhau, chúng Ưu-bà-tắc và chúng Ưu-bàdi đã thực hành tất cả điều thiện thuộc chánh kiến, chánh hạnh không khác nhau.

Do tâm họ đều có các bậc thượng, trung, hạ nên khi chết đều được sinh vào đường lành là cõi trời. Có người sinh vào cõi trời Dạma như sự tập khởi về giới và chánh hạnh không đồng nhau, quả báo của họ cũng khác nhau. Như vậy được sinh trong các cõi trời khác là do khéo giữ giới và công đức đã tích tụ thích ứng với nơi đó.

Được sinh lên cõi trời rồi, sống phóng dật, do không siêng năng tinh tấn những người chưa được đắc Thánh quả đều hết phước nên sinh trở lại trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh do hết phước đức vì phóng dật.

Nếu có chư Thiên không làm việc phóng dật, người đó sẽ đến nơi rất vui, do họ giữ giới và khéo tu tập. Vì vậy không nên khởi tâm phóng dật. Việc phóng dật ấy không khác gì chất độc. Tất cả kẻ phàm phu ngu si ở thế gian, bị tham dục lừa dối nên làm tất cả việc làm không lợi ích, do đó bị đường sinh tử trói buộc không lìa. Vì vậy hàng trời, người nên từ bỏ phóng dật. Nếu hàng trời, người mà giữ giới chắc chắn được sinh ở chỗ tốt đẹp nhất, còn nếu phóng dật thì sẽ hết phước đức.

Người này do tự lừa dối quá nặng nên bị đọa vào đường ác hoặc trôi lăn trong sinh tử theo thời gian rất lâu. Với tâm thiện, Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà dạy Thiên chúng bản kinh chép trên bảng ở trong tháp Phật và nói: “Vì thương xót chúng sinh và muốn tạo lợi ích cho chư Thiên nên Đức Phật dùng thần thông biến hóa ra”. Chư Thiên nghe rồi, với một tâm tốt đẹp nhất, họ chán ghét sinh tử, lìa bỏ sự phóng dật như lìa bỏ chất độc không khác.

Trên đây đã nói về hai hạng đệ tử là Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di.

 

Thế nào là hai loại quyến thuộc Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni? Họ gồm có mấy loại, có công đức gì, có những hạnh gì, giữ giới thế nào, có mấy loại giữ giới?

Sa-môn này là đệ tử của Đức Thế Tôn, hoặc là Tỳ-kheo, hoặc là Tỳ-kheo-ni, cầu hạnh Niết-bàn, siêng năng tinh tấn, không kể ngày đêm, có thể khiến cho đám quyến thuộc của ma kinh sợ. Tỳkheo-ni ấy có trí tuệ sáng suốt, hành động chân chánh, thực hành đúng pháp luật, tâm không có lo sợ, hướng đến thành Niết-bàn, tìm cầu chân đế. Do tìm cầu chân đế, họ trì giới không vi phạm nên có thể vào thành Niết-bàn. Họ tu những hạnh gì và tương ưng với công đức gì?

Tất cả người nữ ưa dục, gần dục. Hai công đức này được xem là tất cả việc thiện. Ban đầu quan sát một cách chân thật thân của người nam hoặc là thân mình, thấy thân nam ấy hoặc là bằng thân mình, hoặc lớn hơn thân mình. Thấy như vậy rồi mới tưởng rằng đó là anh em, cha mẹ… phải tu tâm như vậy. Dục lạc là gốc của người phụ nữ này. Nếu gần gũi nhau thì ý thường trông mong. Hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ngủ, hoặc thức, hoặc làm việc khác, hoặc trẻ, hoặc già, hoặc là trung niên, hoặc ở nơi bình yên, hoặc ở nơi ác độc, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc bệnh hoặc không bệnh, hoặc ủng hộ hoặc không ủng hộ, hoặc cấm hoặc không cấm, hoặc sinh trong dòng quý tộc, hoặc sinh trong dòng dõi hèn kém, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc đứng ngồi bên đường, hoặc ở trong nhà, hoặc ở nơi xóm làng, hoặc ở chỗ đồng trống, hoặc oai nghiêm, hoặc không oai nghiêm, hoặc bị ở trong địa ngục, hoặc không ở trong địa ngục, hoặc được chồng yêu thích, hoặc không được yêu thích, hoặc ở gần bậc tôn trưởng, hoặc ở gần kẻ hèn hạ, hoặc gần người nhỏ tuổi, hoặc gần người lớn tuổi, tất cả phụ nữ trong hết thảy các thời thường bị dục buộc tâm. Dục ở trong tâm cũng như lửa nóng, như sự cứng của đất, như sự lay động nhẹ nhàng của gió, như sự ẩm thấp của nước, đối với tự tướng ở trong bốn đại, đều không điên đảo, trong tất cả thời đều không tự lìa, người nữ thường bị dục trói buộc như vậy chưa từng tạm lìa.

Người nữ lại có hai sự cấu bẩn là ganh và ghét. Hai điều cấu bẩn này lại có những cấu bẩn khác cùng sinh không lìa nhau, đó là vu khống và nịnh hót. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo không rời đó là dối trá. Nó lại có sự cấu bẩn đi theo không lìa, đó là kiêu mạn. Nó lại có sự cấu bẩn đi theo không lìa, đó là suy não. Suy não là gần gũi người nam giàu có và cùng nhau hành dục. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo không lìa, đó là sự xao động, tâm thường không yên. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo không lìa, đó là sự lừa dối, vu khống bạn thân thiết và anh em quyến thuộc. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo không lìa, đó là làm mất oai nghi khi ở chỗ đông người. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo không lìa, đó là nói hai lưỡi. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo sát, đó là nói lén việc riêng của người. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo không lìa, đó là tham ăn. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo không lìa, đó là làm những việc ham muốn không nên làm. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo không lìa, đó là sự không tin tưởng. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo sát, đó là hay nói việc mất oai nghi của người phụ nữ khác. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo sát, đó là sự tranh nhau tham ái. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo sát, đó là sự hủy nhục người. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo không lìa, đó là sự gây rối loạn khiến các làng xóm bị rối loạn. Chúng lại có sự cấu bẩn đi theo sát, đó là do gần người nữ này mà bị đọa vào địa ngục. Người phụ nữ này như là phân, như thuốc độc, như dao bén, như là rớt từ trên bờ cao hiểm trở, hoặc ở trong cánh đồng lửa lớn, như rắn độc dữ và tất cả những sự tương tự. Tâm của mọi người phụ nữ đều như vậy.

Người phụ nữ có tâm như vậy, đã gặp Tam bảo, khen ngợi xưng tụng, nghe lời Phật dạy, tâm người phụ nữ ấy liền trở nên nhu hòa. Họ lại có pháp hy hữu để đối trị tâm cấu uế ngang ngược, chắc chắn như vậy. Pháp đối trị có hai loại là từ tâm sinh ra hoặc là nhờ người khác dạy. Người xuất gia do lòng tin đó là người đối trị bằng pháp do tự tâm sinh ra, do điều lành xông ướp tâm. Người do người khác dạy là người gần gũi bạn lành được họ nói cho nghe các tội lỗi tích tụ từ vô thỉ đến nay, nếu biết nghe theo họ thì có thể hết tội.

Ban đầu họ xuất gia mong làm Tỳ-kheo-ni, gần gũi bạn lành. Vì sao? Vì pháp đối trị tâm cấu uế như đã nói, biết cách để nói, khiến họ khéo an trụ và có thể cởi mở sự trói buộc của khổ não, khiến được giải thoát, sống an lạc. Bạn lành là người vỗ về, chỉ dạy cho ta những điều mờ ám từ vô thỉ đến nay và khiến cho chúng bị diệt trừ, chỉ cho ta con đường lành, nhổ cây gai ác dục từ vô thỉ đến nay, cứu ta thoát khỏi chỗ ác độc của ái dục, chỉ cho ta thấy chỗ an ổn, không sinh, không tử, không già. Nay ta nói pháp đối trị những điều cấu uế đó. Tất cả cấu uế như vậy, nếu dùng pháp đối trị này theo trình tự đã dạy thì có thể được yên tĩnh. Tất cả việc như vậy và sự ganh ghét của phụ nữ đều hơn người nam nên phải dùng pháp đối trị thuận hoặc nghịch, kia hoặc đây để thoát ly sinh tử.

Do người nữ nhiều dục nên đối trị bằng pháp bất tịnh như là quan sát sự thật của thân. Thân là kho chứa bệnh tật, là nơi tụ tập điều bất thiện, là chỗ đựng tất cả đồ bất tịnh như phân, nước tiểu. Đối với thân của mình hoặc của người, như tự tướng của nó, người ấy quán xét như vậy, quan sát nội tạng của nó xem thân này vốn từ chỗ nào sinh ra. Người ấy thấy tinh huyết dơ bẩn hòa hợp tụ tập như giọt nước. Giọt nước nhơ bẩn của cha mẹ hợp làm một thân. Như vậy thân này là do hạt giống bất tịnh sinh ra.

Lại nữa, người nữ ấy quan sát thân này. Nếu thân này sinh ra từ hạt giống bất tịnh thì trong thân này không có một chút pháp trong sạch. Tỳ-kheo-ni ấy lại quán kỹ chín loại ung nhọt, nhơ bẩn từ thân chảy ra. Như thân phụ nữ, thân người nam cũng vậy, phụ nữ và người nam đều có chín loại ung nhọt phát sinh.

Thân phụ nữ có ba lỗi lớn. Những gì là ba? Đó là nữ căn rộng lớn và hai vú có nước dịch chảy ra. Đó gọi là ba loại.

Lại nữa, nam nữ đều có các loại ung nhọt phát sinh như nhau, trong hai lỗ mũi đều có nước mũi chảy ra, hai mắt chảy ra nước mắt, trong hai lỗ tai hoặc có cứt ráy, hoặc có máu, hoặc có mủ chảy ra. Trong miệng hơi hôi hám, hoặc do ăn uống nên hôi, nước bọt chảy ra. Trong phần dưới thì có hoặc phân hoặc nước tiểu, máu… nhơ bẩn.

Quan sát như thật về các thứ bất tịnh của thân này rồi, hành giả nhớ nghĩ như vầy: Trong toàn thân ấy, không có một vật trong sạch nhỏ như hạt bụi, tất cả đều là vật bất tịnh. Thân như vậy, vật gì ở trong đó, vật gì nương tựa? Nếu có vật trong sạch đến gần thân này, thân vẫn bất tịnh. Do thân bất tịnh, vật trong sạch như vậy cũng bất tịnh theo. Những vật vốn trong sạch mà đi theo nó, nếu đụng vào thân liền bị bất tịnh, mặc dù vật ấy vốn trong sạch. Nếu ăn thức ăn trong sạch bậc nhất, thức ăn đó vào thân liền thành phân. Thân này uống đồ trong sạch vào thân thì thành nước tiểu. Vật bên ngoài chạm vào thân, do thân này, tất cả vật trong sạch đều bị bất tịnh. Những vật trong sạch như là áo thơm nếu mặc vào thân mồ hôi đổ ra liền hôi hám.

Lại nữa, nếu đem hoa là gốc của tất cả mùi thơm đeo vào thân thì nó sẽ héo và bốc mùi hôi.

Tỳ-kheo-ni này lại quan sát thân, thân này từ đâu đến? Nó vốn ở trong thân mẹ. Thân mẹ thế nào, tịnh hay bất tịnh? Tỳ-kheo-ni ấy quan sát bản tánh của mẹ mình cũng là một loại bất tịnh như vậy.

Tỳ-kheo-ni ấy lại quan sát thân. Thân ấy sống ở đâu, đi ở đâu, nơi ấy là sạch hay nhơ. Quán như vậy rồi, Tỳ-kheo-ni ấy thấy biết đúng như thật về tất cả các chỗ thanh tịnh dù ở nơi nào, nếu như thân này hoặc sống hoặc chết mà ở nơi đó, nơi đó liền có trùng bụi, tóc, lông xương… khiến cho nơi đó rất hôi. Đó là do thân bất tịnh như vậy ở tại nơi ấy.

Vì muốn đoạn trừ dục, Tỳ-kheo-ni ấy lại quan sát thân. Thân như vậy bị loài gì ăn, làm sao để quán xét, thấy nó như thật. Đó là thức ăn của La-sát, quỷ ác, là các loài bất tịnh chứ không phải là thức ăn của thiên nga, uyên ương là loài chúng sinh trong sạch.

Tỳ-kheo-ni ấy quan sát đúng như thật về thân này rồi, liền thấy thân này chỉ thuộc về tà vạy, phân biệt điên đảo, không xem xét chân chánh, hiện đang bị mờ mắt, người nam đến gần, tâm liền bị trói buộc, không thấy bất tịnh. Do như vậy, người ấy quyết định quan sát cái dục kiên cố đã tích tụ từ vô thỉ đến nay khiến chúng được diệt trừ hoặc giảm bớt.

Trong tất cả loại bụi, bụi si là xấu ác nhất. Tất cả phụ nữ, dục là ác nhất. Dựa vào dục cấu uế, lại sinh ra cấu uế khác. Nếu dùng pháp đối trị, trừ bỏ dục cấu uế, tất cả cấu uế khác đều diệt hết. Như lúc mặt trời lặn ánh sáng cũng tắt, nếu đoạn trừ gốc dục cấu uế, các sự cấu uế khác đều dứt sạch.

Tỳ-kheo-ni ấy đi theo con đường diệt dục. Do dục bị diệt, tất cả sự cấu uế sinh chung với nó đều bị diệt. Vật gì sinh chung? Đó là ganh, ghét. Nếu nam hoặc nữ có ganh ghét đều do dục. Dục là gốc của hai thứ cấu uế ganh, ghét. Nếu dục ấy đoạn trừ hoặc mỏng bớt, hai thứ ấy liền diệt.

Hai thứ cấu uế ấy lại có sự cấu uế khác theo đuổi trói buộc. Bụi nhơ khác là gì? Đó là vu khống và dua nịnh sinh ra theo sự ganh ghét. Do ganh ghét diệt, vu khống, dua nịnh cũng diệt. Từ vu khống, dua nịnh lại sinh ra các sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là sự dối trá. Sự vu khống, dua nịnh diệt thì không còn dối trá. Sự dối trá lại có sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là kiêu mạn. Sự dối trá diệt liền không còn kiêu mạn. Từ sự kiêu mạn lại sinh ra sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là chỗ não hại. Sự kiêu mạn diệt thì không còn não hại. Từ chỗ não hại lại có sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là sự xao động. Sự não hại diệt, sự xao động cũng diệt. Từ sự xao động lại có sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là sự lừa dối, tà vạy. Sự xao động diệt thì không còn sự lừa dối, tà vạy. Từ sự lừa dối, tà vạy lại sinh ra sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là làm mất oai nghi. Nếu không có sự lừa dối, tà vạy, thì không có sự mất oai nghi. Từ sự mất oai nghi lại sinh ra sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là nói hai lưỡi. Tất cả phụ nữ bị việc nói hai lưỡi phá hoại. Nếu không mất oai nghi thì không có nói hai lưỡi. Từ việc nói hai lưỡi lại sinh ra sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là nói xấu việc người ở chỗ vắng. Việc nói hai lưỡi diệt thì việc nói xấu cũng không còn. Từ sự cấu uế do nói xấu lại có sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là tham ăn. Bụng phụ nữ có thể chứa nhiều đồ ăn, thức uống. Tất cả phụ nữ đều tham ăn uống, chất chứa nhiều trong bụng để tự nuôi dưỡng thân mình. Nếu không nói dối trá liền không tham ăn.

Từ sự tham ăn lại sinh ra sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là hay làm những điều ái dục không nên làm. Tất cả phụ nữ do tham ăn uống nên ham muốn các thứ xấu ác không tương ưng với chánh pháp phát sinh. Nếu sự ham ăn uống diệt thì sự ham muốn tà vạy không tương ưng với chánh pháp liền không còn. Từ sự ham muốn tà vạy, không tương ưng với chánh pháp lại sinh ra sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là không tin Tam bảo.

Nếu có phụ nữ ham muốn không tương ưng với chánh pháp thì tất cả mọi người đều sinh nghi ngờ đối với người nữ ấy và mọi người đều ghét. Sự ham muốn tà vạy không tương ưng với chánh pháp diệt thì sự không tin Tam bảo liền diệt. Từ sự không tin lại sinh cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là hay nói về việc mất oai nghi của phụ nữ khác. Nếu việc không tin Tam bảo diệt thì không còn nói về sự mất oai nghi của người khác. Từ việc nói về sự mất oai nghi của người khác lại sinh ra việc cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là sự tranh nhau tham ái. Sự nói về người khác diệt thì sự tranh nhau tham ái diệt. Từ sự tranh nhau tham ái lại có sự cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là làm nhục người. Sự tranh nhau tham ái diệt thì không còn làm nhục người. Từ cấu uế làm nhục người lại sinh ra cấu uế khác đi theo trói buộc, đó là sự gây rối loạn hay khiến cho thôn, xã, xóm làng rối loạn. Sự làm nhục người diệt thì sự gây rối loạn diệt.

Tất cả những cấu uế này duy trì lẫn nhau, theo thứ lớp trước sau tất cả đều diệt. Như vậy, nguồn gốc của tự thể trói buộc tâm của người phụ nữ lại không có pháp khiến cho nhu hòa, chỉ trừ khi họ được nghe lời Phật dạy và lời của bạn lành. Người phụ nữ ấy nghe rồi, liền xả bỏ gia nghiệp, chỗ ở là những thứ khó xả bỏ mà xuất gia. Nếu không thể diệt hết các lậu hoặc thì có thể chuyên tâm trì giới tu hành. Đầu tiên tu không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời đâm thọc, không nói lời hung ác, không nói lời thêu dệt. Họ tu tập việc này một cách đầy đủ, tốt đẹp, thường xuyên và làm thật nhiều với tâm ưa thích.

Người phụ nữ này khi chết sinh vào đường lành là cõi trời Dục giới. Nếu không chán dục, do sức nơi nghiệp họ sẽ sinh ở Sơn thọ cụ túc cõi trời Dạ-ma, được thân trượng phu, khéo có thể trì giới không khiếm khuyết. Khi đã được thân trời rồi liền làm việc phóng dật.

Do làm việc phóng dật, nên khi nghiệp lành hết, vị Thiên ấy đọa lại trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và sinh vào thân phụ nữ cấu bẩn.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Dục phát sinh ganh ghét
Tâm như điện vòng lửa
Là kho tham, ngạo mạn
Nên người trí không tin.
Tâm thể là lưới dục
Như dao bén, lửa hừng
Tâm như bờ nguy hiểm
Sâu hơn biển khó lường.
Tâm vướng mắc như lưới
Làm mê hoặc người khác
Như kim cương, lửa đốt
Như độc hay giết người.
Đầy đủ các loại ác
Vô lượng loại hòa hợp
Phụ nữ không có tâm
Tu giữ giới chút ít.
Do sức mạnh của dục
Phụ nữ không giữ giới
Nếu rời sức mạnh dục
Thì có thể giữ giới.

Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà giảng cho chư Thiên nghe về việc trì giới ở đời trước:

–Này các thiện nam, khi làm người, mang thân nữ, do trì giới nên các ông sinh lên cõi trời này. Vốn là thân phụ nữ, do nghiệp lành trì giới, các ông được sinh làm thân nam. Được sinh như vậy rồi, do phóng dật nên hết phước. Thiên chúng các ông tự lừa dối như vậy, từ nay về sau phải cẩn thận chớ có sống phóng dật nữa.

Đức Thế Tôn đã điều phục chư Thiên, làm lợi ích cho chư Thiên rồi. Họ là bốn hạng quyến thuộc của tất cả các Bậc Chánh Giác, Chánh Biến Tri. Trong số quyến thuộc ấy, quyến thuộc thứ hai là chị em phụ nữ, thuận theo thứ lớp làm quyến thuộc của Tỳ-kheo.

Như thứ lớp ấy, Tỳ-kheo trì giới là trên hết. Do khéo tu tâm, ý, Tỳkheo này thấy sự phiền nhiễu của mình và người liền sinh sợ sệt, đối với đường sinh tử của thế gian liền sinh chán ghét. Tâm họ sợ hãi tất cả việc sinh tử, thậm chí thấy việc ác nhỏ như hạt bụi cũng sợ hãi. Họ quan sát thật kỹ các hành, không có mong cầu gì. Do nhiệt tâm, họ trì giới một cách chân chánh vào bậc nhất, huân tập tâm bố thí, chánh niệm tư duy về bốn Thánh đế.

Có mấy hạng Tỳ-kheo, mấy loại pháp hành. Tỳ-kheo không vượt qua bốn loại chánh pháp. Những gì là bốn?

Thứ nhất là Tỳ-kheo không đi đường một mình. Vì sao? Vì Tỳkheo đi một mình vào trong làng xóm liền bị khinh chê, vì buông lung. Do buông lung nên liền phá học giới. Nếu qua lại một cách tùy ý ở trong thôn, ở trong thành, ở chỗ đông người, không e ngại các Tỳ-kheo khác, khi thấy nhiều phụ nữ liền sinh vương vấn. Do tâm xao động họ ngắm các phụ nữ ấy. Người đời thấy vậy liền bất mãn. Thấy người chê trách, Tỳ-kheo ấy liền sinh tức giận nên trong tâm sinh ra lỗi thứ hai là sân. Do dục và sân che lấp, tâm Tỳ-kheo này trở nên ngu si. Người xuất gia làm Sa-môn đi một mình trong nhân gian có ba lỗi tăng trưởng như vậy, do đó không nên đi một mình trong nhân gian.

Điều thứ hai mà Tỳ-kheo không được vượt qua là: Tỳ-kheo này vừa đi vừa niệm thân. Khi đi trên đường, Tỳ-kheo này chuyên niệm thân mình như sau: “Tôi giở chân này, tâm và tâm sở quan sát chân ấy”. Tỳ-kheo ấy quan sát tất cả các phần của thân từ đầu đến chân, hoặc giở chân phải, hoặc giở chân trái, vị ấy thường quán thân này do lưới mạch ràng buộc, mỡ, xương, da gân buộc lấy gót chân, gió nghiệp thổi nên bước đi, tâm không gián đoạn, hoặc nhấc chân lên hoặc hạ chân xuống, hoặc duỗi hoặc co, giở chân thì thu giữ, hạ chân thì khoan thai.

Chân này gồm có lưới gân ràng rịt năm ngón lớn nhỏ hòa hợp thành chân. Các móng chân hợp thành mu bàn chân.

Kế đó, hành giả quán cẳng chân giống như thân cây mía còn nước, được thịt lấp đầy và gân ràng buộc, lỗ hổng trong xương dài, gân ràng buộc ở ngoài. Nó do nhân duyên sinh ra và có lông che kín da. Bên ngoài có lông tụ tập. Da như cánh ruồi che đậy cẳng chân.

Cẳng chân này một cái nhấc lên một cái hạ xuống. Hành giả quán sát đúng như thật về hành động khiến thân đi lại ở chỗ kinh hành.

Kế đó quan sát hai đầu gối của thân này do gân, máu, mỡ, thịt, xương hợp thành. Quan sát như vậy bằng tâm và tâm sở thấy thân bị gió nghiệp thổi cho nên hoạt động.

Lại quan sát hai đầu gối của thân này, thô sơ so với cẳng chân, có nhiều gân, thịt ràng buộc lẫn nhau, thịt lấp bên trên, thịt kết dính chúng với nhau, máu thúi làm nước, chất mỡ đầy bên trong. Nếu chỉ thấy da bên ngoài, tâm liền sinh ái nhiễm. Lúc giở và hạ một chân xuống phải quan sát như thật. Lại giở chân thứ hai. Lúc giở chân thứ hai cũng quán như vậy, giở chân thì thu giữ, hạ chân thì khoan thai, hoặc duỗi, hoặc co, lần lượt như vậy quan sát tất cả chỗ cứng và chỗ rỗng. Sự đi lại, cử động hoặc là các loại khác đều do tác dụng phong đại. Phần thân bên trên hai chân như là cái bình, bên trong có thục tạng, đó là phân, nước tiểu và các chất nhơ bẩn. Tất cả những điều được thấy đều không chắc chắn và bất tịnh. Do hai chân đi, bình ấy đi theo, tất cả các vật mà bình ấy chứa đựng đều đi theo. Lúc đi, hành giả duyên theo mà buộc niệm như vậy, như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy vừa đi vừa quan sát thân mình đang lay động như cái bình trên và nghĩ như vầy: Thân ta hoạt động làm sao. Khi thân bên trên hoạt động, hành giả quán ruột già, ruột non, thấy khi giở chân, khí và ruột chuyển động, ruột già, ruột non tất cả đều chuyển động, hoặc từ hông bên trái chạy qua hông bên phải, hoặc từ hông bên phải chạy qua hông bên trái. Bên trong ruột này có gió vàng lạnh, phân, nước tiểu, trùng đầy trong đó cùng chuyển động với ruột.

Tỳ-kheo ấy quan sát sự chuyển động rồi mới quán xét như thật từ ruột trở lên có sinh tạng do lưới gân ràng buộc. Các khoang trên dưới và bên cạnh có lưới mạch vây bọc, bên trong có nước bọt thối và nước dịch của đồ ăn uống. Các đồ ăn ấy giống như nước bọt lạnh lẽo mới nhổ ra, che lấp sinh tạng, đầy trong sinh tạng và hôi hám vào bậc nhất. Bên trên liên kết với yết hầu, có gân, mạch xương giữ gìn. Chúng chỉ có gió nghiệp cùng với tâm và tâm sở theo nhau làm cho hoạt động.

Tỳ-kheo quan sát thân rồi quan sát thân chuyển động. Trên mặt của ta gồm có xương mặt, xương răng, xương đầu lâu hòa hợp nhau thành cái đầu, có hai con mắt hợp với chúng làm thành cái đầu, mắt có nhiều mỡ, thường nháy không ngừng.

Nay ta quán thân phụ nữ này có lưới gân, da ràng rịt như dây quấn quanh cây, niệm niệm sinh diệt, lặn mất rồi lại sinh ra. Nếu đi khất thực ở trong thành, ấp, xóm làng để nuôi cái hòm thân thì cũng như nuôi hòm rắn. Nuôi thân như vậy không phải vì tham dục, do đó nên không được tham ăn uống, không được tham đắm mùi vị. Tỳkheo đi đường như vậy là Tỳ-kheo tinh tấn không có lỗi thứ hai vượt qua pháp hành.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy vào trong thôn, thành ấp, xóm làng chỗ đông người để khất thực, khất thực xong quan sát thân như vậy. Vị ấy quan sát tất cả người nam, người nữ như thế. Vị ấy có thể khéo tu tập như vậy một cách siêng năng tinh tấn thì tham dục ra khỏi tâm, không nhập vàp tâm.

Tỳ-kheo khác điều phục các căn như vậy là người thù thắng, chớ không phải là kẻ hèn kém. Tỳ-kheo này mong cầu được lợi ích nên không làm việc vượt qua pháp hành.

Thứ ba là Tỳ-kheo tu hành. Đó là Tỳ-kheo thường tu chánh niệm. Tỳ-kheo có chánh niệm thì tâm không tán loạn, là bạn lành, thường có ý thiện, có ý không loạn. Tỳ-kheo như vậy thường được chư Thiên đi theo nên Thiên ma không thể gây rối loạn.

Thế nào là chánh niệm? Đó là biết hoạt động của dục, biết được tâm và tâm sở pháp đã sinh và sắp sinh. Do có thể biết như vậy nên ý không phóng dật. Những điều nên duyên theo hay không duyên theo họ đều biết. Trong tâm và tâm sở pháp hoặc là pháp thiện, hoặc là pháp ác, hoặc là pháp vô ký… họ đều biết tất cả.

Tâm họ nghĩ như vầy: “Ta nhờ vào các pháp lành mà sinh ra cho nên được lợi ích, được an lạc cho đến khi nhập Niết-bàn. Nay ta phá bỏ các pháp bất thiện khác, do pháp lành thuộc về tâm và tâm sở pháp làm nhân duyên sinh ra ta nên những điều bất thiện bị phá bỏ. Nếu không phá bỏ pháp bất thiện ấy thì về sau ta sẽ không được lợi ích, sẽ không được an lạc”. Họ biết như thật pháp thiện và pháp bất thiện như vậy. Biết rồi, họ suy nghĩ về các pháp như thế và quan sát từng phần các điều mà tâm ý biết được.

Có năm loại niệm không nếm, không vướng mắc, tâm không phân biệt, không nhớ không ưa những điều đã làm trước kia. Những gì là năm?

Đó là niệm cảnh sắc mà mắt thấy, hoặc là cảnh giới đáng yêu đã thấy trước kia, sắc nơi cảnh giới của mắt hoặc gần hoặc xa, sắc đẹp, sắc xấu trước kia chưa từng thấy, hoặc các sắc đủ loại mà người khác đem đến. Tỳ-kheo này thấy rồi không ưa, tâm không suy nghĩ xem nó duyên gì mà xuất hiện. Họ xả bỏ nhân duyên ấy như người sợ bị thiêu tránh lửa vậy.

Tỳ-kheo này sợ bị lửa dục thiêu vì lúc mới nhiễm nó có nhiều vui thích, nhưng về sau nó gây nhiều đau khổ. Đối với sắc trước kia họ tiếp xúc, tâm họ không niệm, không phân biệt, không giữ lấy. Đối với sắc trước kia họ đắm nhiễm, nay họ không nhớ lại, không phân biệt, cũng không niệm sắc của thân người khác mà họ đã từng ưa thích. Họ cũng không niệm các thứ khác. Tâm họ cũng không mong cầu sắc mà người khác nhớ nghĩ. Họ ngăn cản cả bản thân mình và đệ tử không cho tham đắm, không sinh tùy hỷ, khiến trụ trong chánh đạo. Tỳ-kheo này là thanh tịnh, chánh niệm, không tham, hành động chân chánh, tương ưng với pháp chẳng nhiễm. Tỳkheo như vậy mắt không đắm sắc.

Lại nữa, Tỳ-kheo chánh niệm thứ hai là Tỳ-kheo-niệm âm thanh do tai nghe. Với chánh niệm, Tỳ-kheo này quan sát hoặc là âm thanh rất đáng ưa mà tai nghe, hoặc là tiếng ca múa, đánh trống, vỗ tay, vui đùa. Những điều đã từng nghe họ không nhớ nghĩ, không đắm nhiễm, cũng không phân biệt. Nghe điều gì họ cũng đều xả bỏ như người sợ bị thiêu xả bỏ lửa. Tỳ-kheo này xả bỏ âm thanh ấy, tâm không tùy hỷ, ngăn cản không cho tất cả người khác hay anh em đắm nhiễm âm thanh đã nghe, khiến họ trụ trong đường lành, Tỳkheo này làm lợi ích cho mình và người, không ham thích âm thanh, do niệm thù thắng nên không bám vào âm thanh. Đó gọi là Tỳ-kheo chánh niệm thứ hai. Tỳ-kheo này tai không vướng mắc vào âm thanh.

Lại nữa, Tỳ-kheo chánh niệm thứ ba là tinh tấn, giữ ý chân chánh, tịch tĩnh, giữ gìn phạm hạnh, trì giới. Tỳ-kheo này không nhớ nghĩ, tham đắm, ý không sinh niệm đối với hương đã dùng hoặc là hương xông, hoặc thơm, hoặc thối, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc xa, hoặc gần, tất cả những hương ấy họ đều không nhớ nghĩ. Họ vô tâm đối với hương. Ngửi phải mùi hương nào họ cũng đều buông xả. Nếu người khác hoặc đệ tử mình dùng mũi ngửi hương và sinh tham đắm thì Tỳ-kheo này liền ngăn cản việc ấy, tâm không tùy hỷ. Họ tự làm việc thiện và khiến người khác trụ nơi pháp lành. Tâm họ thường nghĩ thiện, chánh hạnh không tham, mũi không tham hương. Tỳ-kheo này được gọi là trừ cấu uế khéo tu trì giới, tâm sinh niệm thiện.

Lại nữa, Tỳ-kheo chánh niệm thứ tư là Tỳ-kheo đối với các mùi vị đã từng yêu thích trước đây, hoặc là đáng yêu hoặc là không đáng yêu, hoặc mùi vị đã lâu, hoặc mùi vị gần đây, họ không nhớ nghĩ các mùi vị ấy, không tham đắm vị ngọt của các mùi vị ấy, tâm không phân biệt. Nếm mùi vị nào xong, họ cũng đều xả bỏ như người sợ lửa thiêu xả bỏ lửa không khác. Nếu người khác hay đệ tử của mình mà tham đắm mùi vị, Tỳ-kheo này liền ngăn cản, tâm không tùy hỷ. Đó gọi là Tỳ-kheo không tham đắm mùi vị, nhớ nghĩ điều lành, hành động chân chánh, xa lìa các điều ác, giữ giới đầy đủ, làm lợi ích cho cả mình lẫn người.

Lại nữa, Tỳ-kheo chánh niệm thứ năm là đối với những xúc chạm đã từng tiếp xúc trước đây, những xúc chạm mềm mại, trơn láng đáng ưa sinh ra cấu uế, đối với những pháp cấu uế ấy, họ không đắm nhiễm và không tham vị ngọt của chúng, tâm không phân biệt, đều do nhân duyên gì sinh ra họ đều xả bỏ như người sợ bị thiêu xả bỏ lửa. Họ không tùy hỷ đối với sự nhiễm đắm do tiếp xúc với thân người khác và họ quan sát pháp xúc chạm một cách khéo léo. Đó gọi là Tỳ-kheo thanh tịnh, do lìa sự xúc chạm, khéo trì giới, tu hành pháp thiện, được gọi là khéo trụ lần lượt cho đến khi đạt Niết-bàn.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy có năm niệm cần phải tu hành. Những gì là năm?

  1. Niệm thời tiết.
  2. Niệm tuổi trẻ.
  3. Niệm sinh tử.
  4. Niệm đầy đủ, mất mát, tan rã.
  5. Niệm Niết-bàn, muốn đến Niết-bàn.

Tỳ-kheo này niệm thời tiết làm sao? Đó là trong tất cả các thời, Tỳ-kheo này thường chuyên niệm tu hành, không mê đắm cảnh giới, không bị cảnh giới hủy hoại, không bị tán loạn, thất niệm.

Tỳ-kheo này không niệm ngày đó, đêm đó. Thời tiết như vậy họ không niệm, không biết. Lúc giác ngộ, hơi thở ra vào tương ưng với ý, thường không lìa ý. Cho đến trong một niệm, nếu hơi thở ra vào họ đều biết hơi thở ra vào trong bụng mình một cách chắc chắn. Đó là do hơi thở này mà bụng mình khi phồng, khi xẹp. Ấm, giới, nhập được tồn tại thì các pháp hữu vi không thể trụ trong khoảng một niệm. Ấm, giới, nhập của ta mà phát ra hơi nóng thì pháp này sẽ cùng hơi thở sinh và cùng hơi thở diệt, hư hoại, thối rã. Lại nữa về sau, do nhân duyên khác sinh, hơi thở cùng nhau sinh diệt, không dừng trong một niệm.

Khi niệm như vậy, Tỳ-kheo-niệm thời tiết ấy buộc niệm vào những điều tương ưng. Vị ấy tự quán thân này do ấm, giới, nhập hòa hợp tụ tập thành, tất cả không dừng chỉ có khổ não. Tất cả các bộ phận của thân không có người tạo ra, không có người thọ nhận, làm nhân duyên lẫn nhau, sinh chung một cách bình đẳng. Thân này có từng niệm từng niệm lưu chuyển. Ở trong từng niệm có sinh, tử, lão, thối lui, các hành tụ tập. Tỳ-kheo này tu hành pháp một cách hoàn toàn. Tỳ-kheo tu hành niệm thời tiết như vậy, do niệm thời tiết chắc chắn nên đạt bốn loại thanh tịnh, nhất tâm thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh nên sắc mặt cũng thanh tịnh, nghiệp thiện thanh tịnh, đời vị lai được lợi ích, lần lượt cho đến khi nhập Niết-bàn.

Hoặc là người khác thấy người ấy trì giới, người Đàn-việt – thí chủ ấy liền hoan hỷ vô cùng, sinh tâm thanh tịnh.

Bốn loại Tỳ-kheo trì giới như vậy tư duy về nghĩa chân thật thanh tịnh. Do tất cả đều thanh tịnh nên họ được ngủ yên, thấy mộng lành, họ thường hành động không phóng dật, thuận với chánh pháp. Do không phóng dật họ được bảy loại pháp. Những gì là bảy? Đó là pháp vô ngại, tư duy pháp lành. Người có nghiệp lành ấy, tâm liền hoan hỷ, hoan hỷ ngày càng tăng. Do hoan hỷ thân thể trở nên béo tốt. Thân thể béo tốt là do hai pháp Danh và Sắc làm nhân duyên lẫn nhau. Do nhân duyên này thân trở nên béo tốt và không có bệnh tật. Thân và tâm nương tựa nhau thì trở nên khéo léo, thông minh. Người được gọi là thông minh là người biết suy nghĩ về nghiệp đã tạo trước kia. Do nghĩ như vậy nên sự thông minh tăng thêm. Đó là do họ nghĩ về pháp lành mà sự thông minh tăng thêm. Sau khi suy nghĩ xong niềm vui cũng tăng trưởng. Do niềm vui tăng trưởng nên sức lực cũng tăng trưởng. Do bảy loại pháp tăng trưởng như vậy nên ban đêm được ngủ ngon. Ban đêm được ngủ ngon là nhờ thân, tâm tu tập. Đó là Tỳ-kheo-niệm về ban đêm.

Còn thế nào là Tỳ-kheo-niệm về ban ngày? Đó là Tỳ-kheoniệm về việc nhắm, mở của mắt. Ý niệm của mình cũng như con mắt nhắm lại. Thời tiết qua thì ý niệm cũng đi qua. Thời tiết này với tâm và tâm sở cùng diệt với nhau, đều bị hoại mất. Thời tiết như vậy hoặc diệt hoặc sinh, lần lượt diệt mất. Mạng sống chỉ nằm trong một hơi thở. Nay ta đã sắp già, không còn trẻ nữa, sắp sinh cõi khác, chắc chắn sẽ đi dần đến lúc chết. Sinh mạng của ta sẽ mất trong thời gian không lâu nên không được rời bỏ tất cả phương tiện. Tất cả chúng sinh dù không có sự gây thù chuốc oán với ai, đều sắp đến chỗ mạng chung như khi đốt lửa, lửa ăn dầu. Niệm niệm diệt hết như vậy, như vậy. Lửa lão tử thiêu dầu sinh mạng làm từng niệm bị diệt hết. Suy nghĩ như vậy, thấy rõ sự vô thường rồi nên vị ấy siêng năng tu tập pháp lành. Pháp bên trong này mau chóng như vậy, niệm niệm không thường, niệm niệm diệt hết. Người tham lam lừa dối cũng bị niệm niệm hủy hoại. Như pháp bên trong ấy, pháp bên ngoài cũng vậy. Tất cả pháp hữu vi ở thế gian đều mau chóng, vô thường, niệm niệm dứt sạch. Núi, sông, thành ấp, xóm làng, cây cỏ, vườn rừng, tất cả loài người, tất cả chư Thiên đang bị hoại diệt.

Do các vị Thiên làm việc phóng dật, nên vườn rừng, hoa sen, sông, ao trước kia đã từng mất, nay đang mất và sau này sẽ mất. Họ bị sự phóng dật làm hư hoại và do sức của nghiệp đã chín mùi nên bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Như vậy đó, này các Tỳ-kheo! Tất cả thế gian này chuyển động không lường, hư hoại vô thường. Vì vậy, ta không nên để tâm ý mình bị chúng làm rối loạn, thậm chí trong một niệm cũng giữ ý không rối loạn, làm cho ý niệm kiên cố, chánh niệm không loạn. Ta cần phải nhất tâm quán xét kỹ lưỡng, giữ ý cho chân chánh không để rối loạn.

Lại nữa, Tỳ-kheo chánh niệm về thời tiết ấy nên khởi oai nghi như vậy, chánh hạnh như vậy. Trong lúc hành thiền nên gần gũi các bậc tôn trưởng và phải biết rõ là lúc này mình đang ăn, lúc này mình đang mặc áo, lúc này mình đang đến nhà Đàn-việt thuyết pháp cho họ, lúc này mình đang rời nhà Đàn-việt trở về. Tỳ-kheo này là Tỳkheo giữ chánh niệm về việc làm.

Thế nào là Tỳ-kheo-niệm về tuổi trẻ? Đó là Tỳ-kheo-niệm về thân mình kể từ lúc ở trong bào thai, niệm tuổi trẻ nối tiếp theo thứ lớp như vầy. Từ nhỏ đến lớn hành giả niệm không dừng. Đó là Cala-la, kế đó là An-phù-đà, kế đó là cục thịt, kế đó là thân phần, kế đó là đứa bé sơ sinh, kế đó là đồng tử, kế đó là trung niên, kế đó là già. Pháp thể như vậy, niệm niệm không dừng, khi ta niệm về thứ lớp của thân nhỏ này. Kẻ phàm phu ngu si không hay không biết, bị phóng dật hủy hoại, bị nước si cuốn trôi ở trong sông ái. Trôi lăn như vậy rồi lại đọa vào cõi khác tương ưng với nghiệp, bị xiềng xích nghiệp trói buộc, trôi lăn liên tục, sinh ở chỗ khác. Lại nữa, hành nghiệp của mình đi theo trói buộc tâm mình, trong tinh huyết của cha mẹ tạo ra An-phù-đà, kế đó là cục thịt, từ từ lớn lên đầy đủ các thân phần, sinh trong nhân loại làm đứa bé sơ sinh, rồi thành đứa trẻ, rồi thành thiếu niên, trung niên, cụ già, rồi chết. Một người như vậy lần lượt cho đến tất cả cõi dục, trong mọi nẻo đường khác nhau, các chúng sinh đều bị gió nghiệp thổi, từ nhỏ đến già lần lượt nhận lấy tự nghiệp như vậy và sự sai khác như vậy. Đó là Tỳ-kheo-niệm về tuổi nhỏ.

Lại nữa, Tỳ-kheo tinh tấn tu hành niệm thứ ba, chắc chắn sẽ đạt được là niệm pháp gì? Đó là niệm sinh tử. Họ thường tu hành cả ngày lẫn đêm, vì thấy rằng tất cả chúng sinh cho đến trọn đời hễ có sống đều phải chết và tất cả chúng sinh trong ba cõi đều vô thường.

Pháp sinh tử là pháp hữu vi não hại, ân ái xa lìa, trên trời hết phước đọa xuống địa ngục. Ở địa ngục ra lại sinh lên trời. Nếu loài người chết thì sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và trời, người. Ngạ quỷ chết thì sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và trời, người.

Như vậy, chúng sinh ở các phương tiện trên, dưới và bốn bên bị gió nghiệp sinh tử thổi, lưu chuyển cùng khắp. Khi nghiệp mình thành tựu, sẽ lưu chuyển trong biển sinh tử. Tỳ-kheo này hoặc ngày hoặc đêm tu pháp niệm sinh tử. Tu như vậy rồi, nếu người ấy là người ngạo mạn, thường khiến người mê đắm, ưa thích chỗ hư vọng thì nhờ chánh niệm sự ngạo mạn ấy hoặc mỏng bớt đi, hoặc bị diệt sạch hết. Niệm thù thắng nhất là niệm sinh tử. Do đó muốn nhập Niết-bàn phải tu tập pháp niệm này.

Vì sao? Vì do ta ngạo mạn, tâm thường hư dối, điên đảo, cầu sự thường còn nên thường lưu chuyển ở trong sinh tử. Do dây ái trói buộc nên không thể đạt được xứ thường kia.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Được thoát nỗi sợ ái
Không có các hy vọng
Mạnh mẽ rời nghi ngờ
Liền được đạt xứ thường.
Nếu chìm trong nước hữu
Tâm thường ưa thích dục
Người ấy tâm hư vọng
Làm sao được xứ thường.
Nếu người tâm hư dối
Ưa thích các cảnh giới
Người ấy do mê lầm
Liền sinh trong địa ngục.
Phóng dật làm loạn tâm
Không thể thấy chân thật
Phóng dật giống như lửa
Cho nên phải xả bỏ.
Do phóng dật nên mất
Tất cả kho pháp thiện
Hết tất cả phương tiện
Không thấy tám Thánh đạo.
Mười pháp đều hoại mất
Vui với độc phóng dật
Lại cũng do phóng dật
Tứ thiền đều mất hết.
Phóng dật trói chúng sinh
Hay trói mà không tướng
Xứ thường là chỗ vui
Rời phóng dật liền được.
Người nào ý không mê
Thường sợ nẻo sinh tử
Người ấy thoát đường ác
Được an ổn, tịch tĩnh.

Hành giả tu hành niệm về sinh tử như vậy. Tu hành niệm về sinh tử rồi liền thường không mê. Người ấy quán tất cả các pháp hữu vi sinh tử ở thế gian rồi mới nhàm chán sinh tử. Quán đủ loại rồi mới quán về nỗi khổ sinh tử, gồm có vô lượng thứ. Tất cả chúng sinh ở thế gian đến lúc nào mới xả bỏ phóng dật và quan sát vô thường, quán xét tận diệt trong tất cả các thời để không còn chịu vô lượng loại khổ này. Quan sát tận diệt rồi quan sát sự giác ngộ. Người như vậy thì có thể dứt khổ.

Lại nữa, Tỳ-kheo chánh niệm thứ tư là tất cả việc tu hành đầy đủ đều hoại mất thì niệm về tất cả việc đầy đủ ấy đều hoại mất. Tỳkheo này không thích lợi dưỡng, không ưa qua lại với Đàn-việt, cũng không thích gặp vua hoặc đại thần. Nếu thấy vua, họ không sinh tâm vui. Ái dục không thể làm chướng ngại họ. Ngày đêm họ không sinh phân biệt. Đối với sự đầy đủ của người khác hoặc là ngọa cụ… tâm không phân biệt, không mong cầu lấy làm vật của mình. Thấy như vậy rồi không sinh ganh ghét, tâm nghĩ như vầy: “Chúng sinh này quyết định tử vong, tất cả những việc đầy đủ nhất định hoại mất”. Như vậy, như vậy sự đầy đủ tăng trưởng. Như vậy, như vậy ái cũng tăng trưởng.

Lại nữa, do sự đầy đủ này mất đi, sự hy vọng có lại gồm vô lượng loại, vô lượng phân biệt nên tâm sinh khổ não. Việc khổ não ấy không thể ví dụ.

Tỳ-kheo này quán thấy đầy đủ sự hoại mất như vậy nên về sau ngay cả việc được làm vua trời họ cũng không mong cầu huống chi là làm vua người, hoặc làm Chuyển luân vương. Vì sao? Đó là vì họ thấy vô lượng khổ do sự hoại diệt mất mát gây ra.

Nếu vua, đại thần, hoặc đại trưởng giả dòng họ lớn Sát lợi, có của cải đầy đủ các loại, lại có sức mạnh lớn, có thể hủy hoại khiến cho các loại của cải đầy đủ đều mất, vợ con, nô tỳ, khách đều lìa bỏ. Do mất tài vật họ phải chịu sự khổ não lớn. Sự mạnh mẽ thù thắng của họ liền bị suy giảm. Họ đi khắp xóm làng, tay chân xơ xác, môi khô, y rách, đói khát, gầy ốm, thân thể khô đét. Họ đi từ thành này đến thành kia, từ thôn này đến thôn khác, từ núi này đến núi nọ, từ biên địa này đến biên địa kia và chịu đựng vô lượng khổ sở như vậy.

Tỳ-kheo này quan sát rồi lại suy nghĩ về việc đọa vào vô lượng chỗ ác bờ hiểm, nên sinh tâm nhàm chán đối với nẻo sinh tử. Tỳkheo này lại thấy của cải đầy đủ trong nhân loại bị hoại mất. Thấy như vậy rồi, Tỳ-kheo này tư duy về cõi trời:

–Ở nơi cõi người này có nhiều sự kinh sợ, không được tự tại như là giặc, nước, lửa, vua, các loại khổ não làm của cải đầy đủ và sự giàu có bị hoại mất, huống gì là sinh lên cõi trời vui sướng, rời khỏi xương thịt dơ bẩn, có vòng hoa trời trang sức trên đầu, vô lượng trăm ngàn nơi chốn thuộc cõi trời vây quanh, có nhiều Thiên nữ dạo chơi, ca múa, vui cười, thọ lạc, ở vườn rừng, ao sen cõi trời, có bảy ánh sáng báu, tụ tập vui chơi ca năm loại âm nhạc, đủ loại ca nhạc cõi trời, cung điện sáng tỏ, có các gian làm bằng bảy báu. Trong tất cả các thời, thân có vô lượng sự thù thắng, vi diệu không thể ví dụ. Ở trong cõi trời, thọ hưởng thú vui xong, họ yêu mến lẫn nhau, không có tranh cãi và được đầy đủ tất cả tùy theo nhu cầu. Họ có đủ năm loại âm nhạc và tâm hưởng thọ dục lạc. Nếu thú vui đầy đủ như vậy bị mất thì họ sẽ chịu khổ não. Do nghiệp hết, họ lại đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Đến lúc sắp đọa, những chỗ như vậy theo thứ lớp ở sát bên mình. Vô lượng nghiệp đã tạo từ xưa đến nay đều gây ra khổ não. Họ lại sinh chỗ khác, chịu đủ các loại khổ đau. Nếu chư Thiên này sinh trong địa sẽ bị lửa dữ trong ấy vây quanh thiêu đốt thân, làm đói khát vô cùng, không thể thí dụ, thọ khổ não lớn do đã tạo nghiệp địa ngục.

Tạo nghiệp đạo rồi, họ thấy thân mình đọa xuống sống trong bảy địa ngục lớn như Hoạt, Hắc thằng, Hợp, Hoán, Đại hoán, Nhiệt, Đại Nhiệt, chỉ trừ địa ngục A-tỳ lớn nhất, rời bỏ của cải ở đời, sinh khổ não dữ. Họ thấy việc khổ não và việc khổ não ấy không thể nói được. Cả ngày lẫn đêm Tỳ-kheo này tu hành chánh niệm như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo-niệm tài vật đầy đủ và của cải trong một đời bị hoại diệt. Tu hành pháp niệm này, hành giả niệm nhân, thiên có việc như vậy. Ba đường còn lại thì không có đầy đủ của cải tài vật, có gì mà mất. Đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, loài người, ít có dục lạc tương tợ. Nếu chưa được tự tại ở cõi người thì có năm loại đầy đủ và hoại mất.

Những gì là năm?

Đó là mắt thấy sắc hoặc ưa, hoặc thích liền mong cầu, tham đắm, muốn chiếm giữ, điên đảo như vậy. Điều không lợi ích thì không ưa thích. Thấy sắc bất tịnh tâm họ liền chán ghét cho nên không ưa thích. Như vậy sự đầy đủ và sự hoại mất có cùng một nguồn gốc nhưng tùy theo sự suy nghĩ mà nó đầy đủ hay hoại mất, đầy đủ những gì? Và mất mát những gì?

Đó là tai nghe tiếng. Nghe rồi tùy theo âm thanh ấy. Nếu là âm thanh đáng ưa thì tâm vui mừng. Như vậy là đầy đủ. Còn nếu âm thanh được nghe có nhân duyên khác là âm thanh của bốn đại thì tâm không ưa thích, không sinh vui mừng vì nó trái ngược với tâm, không lợi ích cho tâm nên gọi là hoại mất.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy ngửi mùi hoa thơm, trộn đủ các loại hương bột, ngửi đủ các loại hương, thuận theo tâm mà thọ vui. Do hương ấy, tâm vui sinh ra, có thể khiến tham dục phát khởi.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy thường buộc niệm tư duy về người niệm mùi hương kia, tư duy về việc mũi người ấy ngửi các mùi hương. Mỗi một hương ấy có vô lượng loại. Đó là mùi hôi thối trái ngược với tâm. Khi ngửi mùi phân, nước tiểu vô lượng các loại mùi hôi thối thì tâm không ưa thích. Gặp trường hợp như vậy người ấy coi vật này là hư hoại.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy chuyên tâm buộc niệm về việc đầy đủ và hoại mất của các loại ở trong thế gian. Buộc niệm làm sao? Đối với người thế gian, lưỡi nếm vị ưa thích thì tâm vui sướng, thức ăn dễ tiêu, tiêu rồi liền vừa ý, được thọ mạng, sắc đẹp và sức khỏe, thích biện tài, tâm sinh vui sướng. Nếu nếm phải vị khác không được ưa thích, trái ngược với tâm thì không vui, thức ăn khó tiêu, tâm liền không thích, thân mạng, dung mạo, sức lực, sự an lạc, biện tài, của cải liền giảm sút, chỉ sinh khổ não. Gặp trường hợp như vậy người ấy coi vật đó là hư hoại.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy niệm về sự xúc chạm đáng ưa thích của thân, như lúc lạnh được ấm, lúc nóng được mát, thuận theo tâm nên sinh vui. Người trong thế gian được như vậy là đầy đủ. Nếu là nhân duyên khác khiến thân xúc chạm thì tâm không ưa thích như là lúc nóng không mát, lúc lạnh không ấm, ngược với sự ưa thích của tâm cho nên thọ khổ không mừng không vui, chỉ sinh khổ não.

Đó là năm loại đầy đủ và hoại mất của con người trong thế gian. Tỳ-kheo như vậy buộc niệm tu hành cả ngày lẫn đêm.

Tỳ-kheo ấy lại niệm về cảnh giới đáng yêu ở cõi trời. Nó do sự hòa hợp sinh, bị gió phân biệt thổi và lửa ái thiêu với mức độ ngày càng tăng. Người ở các thế gian, tham cái vui ở cõi ấy, mới nghĩ: “Trên trời rất vui”.

Tỳ-kheo này buộc niệm tư duy về cõi trời kia bị thoái thất nên không sinh tham muốn đối với cảnh giới đáng ưa, rời bỏ ý nóng bức não hại. Tỳ-kheo như vậy có ý lành vào bậc nhất, vị ấy thấy các cõi trời Dục giới đều bị thoái thất.

Cõi trời Tứ Thiên vương có mười hai việc thoái thất.

  1. Sức yếu.
  2. Thường đánh nhau với A-tu-la, A-tu-la bất ngờ lén nhập vào trong quân đội.
  3. Lúc đánh nhau, bị A-tu-la đánh vào bộ giáp đang mặc trên người.
  4. Lúc đánh nhau, bị A-tu-la hất mũ trụ đang đội trên đầu khiến nó rơi xuống biển.
  5. Lúc bị thua liền sinh hổ thẹn.
  6. Lúc đánh nhau, thấy A-tu-la liền sinh kinh sợ.
  7. Lúc thoái thất, các Thiên nữ bỏ họ mà đi theo các Thiên tử khác.
  8. Lúc ăn, do nghiệp của mình, họ thấy thức ăn dở liền sinh hổ thẹn.
  9. Do nghiệp của mình, nên số lượng quân lính, sắc đẹp, hình tướng, đồ đạc trang sức đều thua kém người khác nên sinh hổ thẹn.
  10. Lúc chư Thiên ấy dạo chơi, các con chim sinh ra ở cõi trời ấy thấy họ kém cỏi, cũng sinh khinh chê.
  11. Vị trời hèn kém phải đi bộ đến chỗ vui chơi.
  12. Dục lạc mà chư Thiên yếu kém thọ hưởng tương tợ với nghiệp tự thân, nên khi thấy vật trang sức của người khác đẹp đẽ hơn mình, vị ấy liền sinh hổ thẹn.

Cõi trời Tứ Thiên vương có mười hai loại thoái thất như vậy. Tỳ-kheo nào khéo tu tâm thì không nên tham dục lạc nơi cõi trời và dùng ý trong sạch quan sát cõi trời ấy. Đã quan sát rồi, tâm sinh chán ghét, coi khinh dục lạc cõi trời. Nếu có người vì mong cầu sinh lên trời mà sống phạm hạnh thì phạm hạnh ấy chẳng phải là nhân của phạm hạnh. Những người như vậy bị Tỳ-kheo ấy coi thường. Vì sao? Đó là vì không được tự tại.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy quan sát sự thoái thất của cõi trời Tam thập tam. Họ thấy trong cõi trời ấy có tám loại thoái thất. Những gì là tám?

  1. Áo giáp không tốt, lúc đánh nhau với A-tu-la, mưa rớt xuống chất bất tịnh.
  2. Khi đánh nhau thấy tướng cầm đầu A-tu-la mạnh mẽ, tâm họ liền khiếp sợ nên thoái lui.
  3. Lúc ăn, vị trời kém cỏi bị hổ thẹn.
  4. Vị trời hèn kém không được Thiên vương Đế Thích biết đến.
  5. Vị trời kém thì diện mạo, sức lực và hình tướng cũng đều kém.
  6. Sắc, thanh, hương, vị, xúc của vị trời ấy đều kém cỏi, không bằng các vị khác.
  7. Lúc thoái đọa, vị trời ấy bị Thiên nữ lìa bỏ.
  8. Lúc vui chơi trong cung điện, thần thông của vị trời ấy cũng kém không thể đi mau.

Đó là tám việc thoái thất của cõi trời Tam thập tam.

Trong cõi trời Dạ-ma có sáu việc thoái thất. Những gì là sáu?

  1. Lúc ăn, vị trời kém phải chịu xấu hổ.
  2. Vị trời ấy có dạy điều gì thì Thiên nữ không ghi nhận.
  3. Do ít phước nên vị trời ấy tuy được các Thiên nữ cúng dường nhưng không bằng sự cúng dường các vị trời nhiều phước.
  4. Lúc Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà thuyết pháp, tâm của vị Thiên ấy không ưa thích. Đây là sự thoái thất lớn nhất trong số đó.
  5. Do nghiệp cũ ít, ánh sáng của vị trời ấy liền giảm đi. Nếu là vị Thiên đời trước đã từng làm nhiều việc lành, vị ấy liền ngồi tòa báu lớn màu xanh. Ngồi rồi lại đứng dậy, vị trời kém cỏi khi ngồi tại chỗ ấy tòa ngồi liền biến thành bạc. Do đủ loại nghiệp nên có sự thoái thất như vậy.
  6. Thân hình thấp.

Sáu điều này là việc thoái đọa của trời Dạ-ma.

Cõi trời Đâu-suất đã có bốn sự thoái thất. Những gì là bốn?

Một là lúc nghe pháp, tâm của vị trời yếu kém ở cõi trời Đâusuất-đà không ưa thích, không thích tiếng thuyết pháp của ngỗng chúa. Đó là sự thoái thất. Ở cõi trời Đâu-suất-đà, ngỗng chúa thường sống ở chỗ vui sướng và trong sạch. Ngỗng chúa ấy chính là do Bồtát tùy ý thọ sinh nên khiến cho nó có sắc đẹp như ý. Thân ngỗng làm bằng bảy báu, ánh sáng chiếu khắp không thể ví dụ. Ánh sáng của thân đầy khắp năm ngàn do-tuần, có đủ loại màu sắc. Ánh sáng của chư Thiên ở cõi trời Đâu-suất-đà không sánh kịp ánh sáng thù thắng của ngỗng chúa khiến các vị trời ấy sinh tâm thán phục. Bồ-tát ngỗng chúa khiến họ sinh tâm thán phục rồi, liền nói kệ thuyết pháp cho chư Thiên:

Nghiệp phước đức đã hết
Mạng liền mau chóng giảm
Cõi Đâu-suất phải thường
Siêng năng giữ gìn pháp.
Nếu xả bỏ chánh pháp
Phóng dật hủy hoại trời
Không tích tụ phước đức
Về sau sinh hối tiếc.
Thậm chí già chưa đến
Bệnh chết cũng chưa lại
Đều nên tạo phước đức
Chớ để sau hối hận.
Nếu không tạo phước đức
Bị phóng dật hủy hoại
Do phóng dật hủy hoại
Chịu khổ ở địa ngục.
Đã được thân đầy đủ
Mà hành động phi pháp
Sao chẳng dùng mạng, của
Và anh em thân thuộc.
Thường làm việc phước đức
Tâm ý thâu giữ pháp
Hoặc lại dứt nghiệp ác
Hoặc là gần người tốt.
Dùng dao bén trí tuệ
Cắt đứt cành lá ác
Phá bỏ đống tội ác
Diệt trừ lỗi tương tục.
Trọng trí, giới, phước, đức
Tâm không mong cầu gì
Thường gần người thiện nam
Người chỉ đường chân thật.
Nếu trì giới sinh Thiên
Bị dục làm mê hoặc
Người không tu phước đức
Thường đi trong các cõi.
Nếu thường thích trí tuệ
Giữ giới báu trang nghiêm
Người nào sợ rắn dục
Chính là Thiên Trung Thiên.
Người thường sống như pháp
Chư Thiên nên lễ lạy
Người nào sống điên đảo
Liền sa vào đường ác.
Bờ này, kia tuy xa
Nhưng đã có cầu pháp
Nếu không mau đi qua
Không được thoát các cõi.
Lửa trí tuệ hay thiêu
Vô lượng củi phiền não
Tại sao dây phiền não
Trói người ưa cảnh giới.
Nhiễm bụi dục rất nặng
Làm chướng ngại mắt tuệ
Lời Phật như thuốc hay
Trừ được chướng ngại đó.
Đại tướng của chánh pháp
Hay phá đạo quân dục
Miệng nói ra pháp lành
Ông nên thường ghi nhận.
Có bốn loại điên đảo
Thường hay gây lừa dối
Thế gian có tám pháp
Khiến cho mất tất cả.
Giữa sông ái chảy xiết
Trăm nghi không thể vượt
Ai đứng trên bè trí
Sẽ đến chỗ vắng lặng.
Vị trời nào gần dục
Sẽ khiến tâm ngu si
Thường đắm trong năm dục
Biết chừng nào giải thoát.
Dục khó được dễ mất
Nhanh như điện không bền
Dục gây khổ như dao
Trái độc, lửa, thuốc độc.
Gần như vậy, như vậy
Tăng trưởng cũng như vậy
Dục như lửa thiêu củi
Không thể thỏa mãn được.
Trời ngu mong cầu dục
Không sợ bị thiêu đốt
Nếu lìa dục bất thiện
Sẽ được niềm vui lớn.
Người ngu nhiễm dục rồi
Bị tham dục trói chặt
Tham dục y như điện
Có đó rồi mất ngay.
Nếu ưa gần tham dục
Liền bị dục chế ngự
Bị lửa dục thiêu đốt
Chỗ nào có thể thiêu.
Trời nào gần dục lạc
Tâm sẽ rất ngu si
Không thể cầu chân lạc
Ở trong pháp không thật.
Trong dục không Niết-bàn
Không vui không giải thoát
Vì vậy chớ gần dục
Gần dục rất là xấu.
Nếu gần cảnh giới dục
Căn liền không biết đủ
Không biết đủ chuốc khổ
Không thể được vắng lặng.
Nên sợ pháp hữu vi
Và biển lớn sinh tử
Vì ái dục rất ác
Thường đi theo chúng sinh.
Như trên ngọn núi này
Đủ loại cây đáng yêu
Nương đó mà tu thiền
Tư duy dục sinh diệt.
Người trí khéo tu hành
Bốn Niệm xứ vắng lặng
Sợ hãi sinh lão tử
Thoát đến bờ lành kia.
Người ngu không tư duy
Ưa dục nên bị trói
Dục lạc đã sạch rồi
Ắt thoát sinh lão tử.
Nếu niệm khổ lớn này
Không mệt bởi ba cõi
Do si bị tên dục
Bắn rớt xuống địa ngục.
Vì ngu ưa dục lạc
Nên bị mất an lạc
Ai không sợ điều ác
Thì sẽ giống như lửa.
Cho đến tận giờ chết
Hay phá hoại tất cả
Do sự phá hoại này
Phá hạt giống sinh mạng.
Để lợi ích an lạc
Được vui thoát sầu khổ
Trượng phu nên siêng năng
Thường xuyên tạo nghiệp lành.
Nếu ai trừ bỏ dục
Sẽ hết nóng được mát
Ai thật là người trí
Thì không cầu dục lạc.

Để điều phục chư Thiên, ngỗng chúa đã nói bài kệ như vậy. Nếu vị trời nào sống phóng dật thì không nghe, không nhớ nghĩ, không tư duy. Nếu vị nào thích nghe bài kệ mà ngỗng chúa đã nói để hàng phục Thiên chúng thì đi mau đến khu đất vô lậu để nghe chánh pháp. Nghe rồi, họ sinh tâm kính trọng. Được nghe chánh pháp và sinh tâm kính trọng rồi, vị ấy mau chóng trở lại tòa nhà. Trong tòa nhà ấy có các vị trời do nghe chánh pháp tâm sinh kính trọng nên ánh sáng tăng lên gấp trăm ngàn lần. Các vị trời phóng dật thì ánh sáng bị giảm. Như vậy trong cõi trời, quả báo phát sinh ngay trong hiện tại. Vị nào ưa dục lạc cõi trời thì sẽ ít sắc đẹp, hình vóc, trang phục, đồ trang sức tất cả đều thua kém. Những điều này là sự thoái thất đầu tiên của cõi trời Đâu-suất.

Sự thoái thất thứ hai của cõi trời Đâu-suất là khi Thiên chúng tập hợp lại nghe pháp thì có vô lượng trăm ngàn ức chúng hội và năm trăm Bồ-tát ở nơi đó, vua trời Đâu-suất tên là Tịch tĩnh thuyết pháp cho Thiên chúng nghe. Pháp được thuyết là Vô minh duyên hành… Lúc nghe chánh pháp, Thiên chúng nhất tâm nghe thật kỹ. Do nghe như vậy, oai đức và vẻ đẹp của họ đều vượt trội, tăng lên gấp trăm ngàn lần. Nếu vị trời nào động tâm, tâm liền như điện, hoặc như gió mạnh thổi nước biển cả làm lớp lớp sóng chuyển động, do tham ái làm duyên nên tâm động như vậy. Do ưa thích cảnh giới nên hình vóc, y phục và đồ trang sức của vị trời ấy vẫn như cũ không đẹp thêm. Vì thấy người khác hơn mình nên vị ấy sinh tâm hổ thẹn. Đây là sự thoái thất thứ hai của cõi trời Đâu-suất-đà.

Sự thoái thất thứ ba ở cõi trời Đâu-suất-đà là: Vị trời nào nghe pháp, tâm sinh kính trọng, biết như thuyết, biết như pháp tướng. Biết như vậy rồi, tâm niệm trụ ở nơi chân chánh thì oai đức, hình vóc, y phục trang sức của vị trời ấy đều tăng lên gấp trăm ngàn lần. Vị Thiên nào không niệm pháp thì oai đức, hình dáng, y phục, đồ trang sức không tăng thêm. Đây chính là sự thoái thất thứ ba ở cõi trời Đâu-suất-đà.

Sự thoái thất thứ tư ở cõi trời Đâu-suất-đà là lúc nghe chánh pháp, nếu các vị trời ấy sinh tâm kính trọng, chuyên tâm nhớ nghĩ, giữ gìn như pháp, chuyên tâm thọ trì. Người tu hành như vậy, tư duy kỹ rồi, sau đó mới hành trì. Vị trời ấy kính pháp, trọng pháp. Do nhân duyên thù thắng, do nghe pháp, oai đức, ánh sáng, hình vóc, y phục, đồ trang sức tăng lên gấp trăm ngàn lần. Vị nào nghe rồi không siêng năng tu hành, khi thấy hình vóc, đồ trang sức vẻ đẹp của người khác tăng thêm và thấy oai đức, ánh sáng, hình vóc vẻ đẹp của mình không tăng thêm thì sinh hổ thẹn. Đây chính là sự thoái thất thứ tư của cõi trời Đâu-suất-đà.

Lại nữa, sau khi quan sát bốn loại thoái thất ở cõi trời Đâusuất-đà rồi, Tỳ-kheo ấy lại quán xét sự thoái thất của cõi trời Hóa lạc. Vị ấy thấy thú vui thù thắng của cõi trời ấy còn có bốn việc thoái thất. Những gì là bốn?

Một là do hết nghiệp lành chân liền có bóng. Các phần còn lại của thân đều có ánh sáng, riêng chân thì không. Vì vậy chân của vị trời ấy có bóng. Thấy ánh sáng của các vị trời khác vây quanh mình họ như núi, vị trời thua kém ít ánh sáng ấy liền bỏ đi. Những vị trời có ánh sáng thù thắng thấy vậy liền chê cười và nói:

–Vị trời này thua kém do nghiệp lành đã hết.

Vị trời chân có bóng nghe vậy liền xấu hổ, tâm sinh buồn rầu, nói thầm như vậy:

–Nghiệp mình hết rồi nên mới như vậy.

Tất cả những sự đầy đủ rốt cuộc đều hoại mất cũng như ở thế gian do có ngày nên có đêm. Ở nơi này, tất cả những sự đầy đủ cuối cùng đều thoái thất. Nếu ai có sống thì phải có chết. Sự đầy đủ này cuối cùng phải hoại mất. Thế gian này không có sự đầy đủ nào mà không bị hư hoại. Sự thoái thất ấy là sự thoái thất đầu tiên của cõi trời Hóa lạc.

Sự thoái thất thứ hai của cõi trời Hóa lạc là: Giống như bông vải kiếp bối ở cõi Diêm-phù-đề rất mềm mại, dùng chân đạp lên nó liền xẹp, giở chân nó phồng lên trở lại, đất ở cõi trời Hóa lạc cũng mềm như vậy. Vị trời nào thọ nhận quả báo, khi nghiệp thiện hết thì đất không còn mềm mại, chân đạp lên không xẹp, giở chân không phồng lên. Vị trời khác thấy vậy biết nghiệp của vị này đã hết. Có vị trời khi thấy điều đó mới nói với các vị khác:

–Vị trời ấy đã hết nghiệp thiện, giờ thoái đọa sắp đến.

Đó là sự thoái thất thứ hai của cõi trời Hóa lạc.

Sự thoái thất thứ ba của cõi trời Hóa lạc là: Lúc vị trời ấy đi chơi, nếu đến vui chơi ở dưới tàng cây, cây liền mưa hoa bên trên vị ấy. Hoa rải đầy khắp khu đất mà vị ấy vui chơi. Nếu nghiệp lành sắp hết, hoa trên cây không rơi, không rải trên đất, các vị trời khác thấy hoa trên cây không rơi, không rải trên đất, liền nói:

–Vị trời này đã hết nghiệp thiện, giờ thoái đọa đã sắp đến.

Vị trời ấy nghe xong cảm thấy xấu hổ, buồn rầu, nghĩ thầm: Nay ta sắp thoái đọa. Đó là sự thoái thất thứ ba của cõi trời Hóa lạc.

Sự thoái thất thứ tư của cõi trời Hóa lạc là: Trời Hóa lạc ấy nhất định thoái thất. Sự đầy đủ của cõi trời nhất định sẽ bị hoại mất. Sự thoái thất thứ tư của cõi trời Hóa lạc là gì? Đó là mỗi vị trời đều ở một vùng đất báu. Đất báu này trong sạch như gương. Thân một vị trời hiện ra ở vô lượng chỗ, hiện đủ loại ảnh, đủ loại trang phục, đủ loại vẻ đẹp. Giống như cõi người, một mặt trời hiện ra ở trăm ngàn chỗ khác nhau trong các ao sen ở nhiều nơi, thân vị trời này hiện khắp trong vô lượng trăm ngàn khu đất báu và các thân ấy đều giống nhau.

Nếu vị trời nào hết nghiệp lành thì thân vị ấy chỉ hiện ảnh trong một khu đất báu mà thôi chớ không hiện ở khắp nơi. Thấy sự thoái thất ấy, các vị trời có trí tuệ khác liền nói: Vị trời này đã hết nghiệp lành, sắp bị thoái thất. Đó là sự thoái thất thứ tư của trời Hóa lạc này. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ:

Thế gian ưa đầy đủ
Không biết đến thoái thất
Đầy đủ ắt có mất
Như có ngày có đêm.
Vui đầy đủ như vậy
Tất thoái thất như vậy
Ham muốn không biết đủ
Nên thích trong chốc lát.
Nếu ai thích đầy đủ
Hoặc cầu thường được vui
Hãy xả bỏ tham ái
Thường được vui như vậy.
Chưa thỏa mãn tham dục
Đã nhập vào địa ngục
Tất cả đều do ái
Là điều Như Lai dạy.
Nếu ai vào địa ngục
Trăm lần hoặc ngàn lần
Cũng do lưới ái lừa
Nên phải bị như thế.

Trời Hóa lạc có bốn loại thoái thất như thế.

Tỳ-kheo lại quán bốn việc thoái thất ở cõi trời Tha hóa tự tại. Nếu nghiệp lành của các vị trời ấy sắp hết, lúc sắp thoái đọa liền có sự thoái thất. Chư Thiên ở cõi ấy có đủ loại vòng hoa đội đầu xinh đẹp, hoa trời không héo che khắp mặt đất. Hoa này có mùi thơm vào bậc nhất, không gì có thể so sánh. Vòng hoa xinh đẹp của họ có đủ loại màu sắc, có ánh sáng thù thắng. Ngay cả ánh sáng báu cũng không bằng một phần mười sáu ánh sáng này. Vòng hoa vị trời ấy có nhiều con ong có cánh bằng bảy báu. Chúng phát ra thiên nhạc trong mọi lúc.

Ở cõi trời Tha hóa tự tại này, lúc nghiệp hết, sắp thoái đọa, con ong có cánh bằng bảy báu ấy phát ra tiếng không hay, bỏ vị trời này và các hương hoa bay đến chỗ khác.

Biết vị trời ấy sắp bị thoái đọa, các vị trời có trí tuệ khác nói với vị này là: “Hôm nay, do ông phóng dật nên giờ thoái đọa sắp đến mà không hay biết”. Nghe như vậy rồi, lại thấy các con ong bỏ đi chỗ khác, vị trời có nghiệp lành đã hết nghĩ rằng: “Phước nghiệp của mình đã hết”.

Do thấy thú vui của mình sắp chấm dứt, vị ấy sinh tâm buồn rầu vô độ. Tâm nóng bức như vậy không khác gì lửa địa ngục và chỉ ở địa ngục mới có loại lửa này. Đó là sự thoái thất đầu tiên của cõi trời Tha hóa tự tại.

Sự thoái thất thứ hai của cõi trời Tha hóa là: Thân của vị trời ấy trơn láng bậc nhất, ánh sáng đầy khắp, sáng đến nỗi ánh sáng của mặt trời cũng giống như ánh sáng của đom đóm. Anh lạc vị trời ấy đeo trên thân và các thứ trang sức khác có ánh sáng. Chúng đều có các ngọn núi và vách báu hiện ở bên trong đó không khác gì hiện ở trong gương. Nếu sắp đến lúc thoái đọa, anh lạc và các đồ trang sức mà vị trời ấy đeo không còn hiện ngọn núi và vách ở bên trong nữa.

Thấy như vậy, các vị trời có trí tuệ khác nói với vị trời đã hết nghiệp sắp thoái đọa: “Ông sống phóng dật, sắp đến lúc thoái đọa nên anh lạc, đồ trang sức ông đeo trên người không có ánh sáng, vách báu và núi không hiện trong đó”. Các vị trời có trí tuệ đã từng thấy các vị trời lúc sắp đến giờ thoái đọa có tướng như vậy. Đó là sự thoái đọa thứ hai của cõi trời Tha hóa.

Sự thoái thất thứ ba của cõi trời Tha hóa tự tại là: Lúc vị trời ấy thoái đọa, sắp đến xứ khác, các vị trời chưa hết nghiệp cỡi cung điện sáng rỡ làm bằng đủ loại châu báu. Họ có thể đi một cách mau chóng, không bị chướng ngại, không bị chao đảo ở ba chỗ là hư không, mặt đất và nước. Vị trời nào hết nghiệp, sắp thoái đọa thì cung điện họ bị chao đảo và đi chậm. Các vị trời khác thấy cung điện đó lay động mới nói với vị ấy: “Nay ông đã sắp đến giờ thoái đọa, trước đây ta đã từng thấy các vị trời khác lúc sắp đến giờ chết có tướng như vậy.” Nghe đến việc mình sắp xa cảnh giới cõi trời, vị trời mà nghiệp đã hết bị lửa sầu thiêu đốt tâm giống như bị lửa địa ngục thiêu vậy. Đó là sự thoái thất thứ ba của cõi trời Tha hóa tự tại.

Sự thoái thất thứ tư của cõi trời Tha hóa tự tại là: Vị trời nào chưa hết nghiệp lành thì được nghe năm loại âm nhạc, được tô điểm bằng tiếng ca dịu dàng, dễ nghe, nghe xong tâm sinh vui vẻ.

Nếu vị trời nào nghiệp lành đã hết, thì năm loại âm nhạc mà họ được nghe không hay, tiếng ca mà họ nghe cũng vậy. Nó giống như bị ngọng. Nghe rồi họ không sinh tâm vui. Đó là do nghiệp của mình nên mới như vậy.

Trong đồ trang sức phát ra tiếng nói: “Do ông sống phóng dật, nay nghiệp thiện của ông đã hết. Vì nghiệp trói buộc, ông sắp đến thế giới khác”.

Do nghiệp của mình, nghe đồ trang sức nói, vị trời ấy rất buồn rầu, than:

–Nay thú vui của cảnh giới và nghiệp lành của ta đã hết.

Cái mão trang sức trên đầu liền rơi xuống. Thấy vậy, vị ấy vô cùng đau khổ. Đó là sự thoái thất thứ tư của cõi trời Tha hóa tự tại. Ở trong ba cõi, chỗ nào cũng không có vật gì là thường còn, tất cả đều vô thường. Như vậy, sáu cõi trời đều là chỗ thoái thất. Khi nghiệp thiện hết, các vị trời ấy nhất định phải thoái đọa. Vị trời thoái đọa này cầu các vị trời khác nhờ trì giới mà được sinh Thiên cứu giúp, nhưng khi nghiệp thiện hết nhất định phải như vậy.

Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà nói: “Như vậy đó, hỡi các vị trời ở Sơn thọ cụ túc, kinh điển ở trong tháp của Phật Ca-ca-thônđà đã dạy các vị trời như vậy. Chư Thiên các ông phải lìa bỏ phóng dật, chớ có sống phóng dật nữa. Vị khổ của phóng dật sẽ được thọ nhận trong địa ngục. Tất cả các mùi vị của tham dục đều như vậy. Sau khi nghe kinh mà Đức Phật thứ ba dạy rồi, vị trời nào trong số đó đang thích sống phóng dật liền giảm bớt phóng dật. Kinh thứ ba trong sáu kinh Phật Ca-ca-thôn-đà đã dạy xong.

Bấy giờ, biết Thiên chúng ấy đã sinh tâm nhàm chán dục lạc, Thiên chủ Dạ-ma ở nơi ấy mới bảo họ: Thiên chúng các ông đã nghe chánh pháp do bậc Đại tiên thuyết, có thể dứt sạch các khổ, trừ bỏ phóng dật, nói pháp trong sạch cho hàng trời, người. Thiên chúng các ông đã nghe pháp của Đức Phật thứ ba. Nay các ông nghe pháp, nghe luật rồi nên siêng năng tu hành, lại nghe pháp mà các vị Phật khác thuyết giảng, nghe rồi giữ gìn liền được lợi ích, khi thoái đọa khỏi cõi trời này không bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà nói như vậy rồi, tất cả Thiên chúng đều bạch với Thiên chủ:

–Cúi xin Thiên vương hãy làm cho chúng con được lợi ích, làm cho chúng con được an lạc.

Bấy giờ, Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà bảo Thiên chúng:

–Tất cả Thiên chúng các ông đều thấy tháp Phật thứ tư được trang điểm bằng đủ loại châu báu, có rất nhiều ánh sáng chiếu rực rỡ và đủ loại vật báu xinh đẹp, kỳ lạ xen lẫn nhau, được trang nghiêm với vô lượng công đức, ánh sáng trùm khắp tất cả cõi trời này.

Bấy giờ, Thiên chúng bạch Thiên vương:

–Chúng con đã thấy.

Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà bảo Thiên chúng:

–Bây giờ tất cả các ông hãy cùng ta viếng thăm tháp của Như Lai.

Thiên chúng đáp:

–Thưa Thiên vương, chúng con xin tuân lệnh.

Bấy giờ, Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà và Thiên chúng cùng nhau đi. Sau khi đến tháp Phật, với tâm thanh tịnh, họ đảnh lễ tháp của Đức Như Lai, tâm liền được mát mẻ. Sau khi lễ xong, họ chiêm ngưỡng tháp của Đức Phật Tỳ-diệp-bà. Tháp ấy có đủ loại châu báu kỳ diệu, ánh sáng chiếu rực rỡ như đã nói ở trước. Trên vách báu trong tháp ấy có chép kinh pháp làm lợi ích cho hàng trời, người. Đó là kinh nói về bảy pháp mà nếu ai thành tựu thì sẽ sinh lên trời. Những gì là bảy?

Pháp thứ nhất là có thiện nam nghe pháp liền hiểu nghĩa, nghe pháp rồi tu hành, nghe pháp với thiện ý, tùy theo pháp được nghe tâm họ liền thâu giữ một cách chắc chắn, nghe rồi họ thọ trì, nghe rồi họ ưa thích, sinh tâm vui mừng. Người thiện nam này gần kề với bảy loại hiểu biết đầy đủ công đức. Những gì là bảy loại hiểu biết đầy đủ công đức?

  1. Như thuyết tu hành.
  2. Gần người làm đúng như lời nói.
  3. Có thể như thuyết tu hành, kiên cố thâu giữ.
  4. Đắc pháp kiên cố tư duy.
  5. Trụ ý.
  6. Gần người có cùng nghiệp thiện.
  7. Không nghe điều ác của người khác dạy. Người thiện nam ấy gần kề bảy loại hiểu biết đầy đủ công đức này.

Thế nào là như thuyết tu hành? Người như thuyết tu hành là người làm việc một cách khéo léo. Nếu có điều gì cần nói, họ biết cách nói ít mà có thể làm lợi ích. Họ biết lúc nào nên nói, chỗ nào nên nói, không sớm không muộn, dùng ít lời nhưng chứa nhiều nghĩa. Họ giải thích rất hay và tương ưng với chánh pháp, làm lợi ích cho cả mình lẫn người. Mỗi khi nói gì, họ đều làm như điều họ đã nói.

Thế nào là gần người làm đúng như lời nói? Đó là người thường tu tập thân, khẩu, ý một cách chân chánh, ý nghĩ của họ sạch như vàng ròng. Người này tu hành y như lời Phật dạy.

Thế nào là người giữ vững việc làm đúng theo lời nói? Người này nếu có làm gì thì đều là việc trong sạch. Họ luôn quan sát việc làm của thân, khẩu, ý. Khi nghiệp đã trong sạch rồi họ được sinh vào cõi trời, người cho đến Niết-bàn. Người này hoặc tự suy nghĩ, hoặc nghe theo người khác. Niềm vui của nghiệp báo ấy là niềm vui chắc chắn, giữ được bền lâu. Người bạn ấy là hạng giữ vững.

Thế nào là đắc pháp kiên cố tư duy? Đó là họ giữ gìn điều trong sạch một cách chắc chắn, làm lợi ích hai đời. Thấy như vậy rồi họ suy nghĩ một cách chắc chắn. Người có ý suy nghĩ chắc chắn như vậy hoặc là theo lời dạy của người khác mà chắc chắn được quả báo lành, hoặc là tự suy nghĩ, ưa thích chân đế. Đó là người bạn ưa thích chân đế.

Thế nào là hạng giữ vững ý? Đó là nghe nhiều rồi nhưng ý không loạn nên gọi là trụ ý.

Thế nào là gần người có cùng nghiệp thiện? Đó là thấy người khác đồng công đức với mình liền gần người ấy.

Thế nào là không nghe điều ác của người khác dạy bảo? Đó là không bị lôi kéo do phi pháp giống như pháp thiện của người khác, thân cận với bảy hạng tri thức đầy đủ công đức. Thiện nam ấy hoặc sinh trong nhân gian, hoặc sinh lên trời. Đây là pháp đầu tiên.

Sáu pháp còn lại để thành tựu việc được sinh lên trời ấy là gì? Đó là sáu pháp sau: Đa văn, thâu giữ tu hành, không biếng trễ, nhớ nghĩ, không bức bách kẻ khác, không khi dối. Như đã nói, ai thành tựu được bảy loại pháp này khi chết sẽ sinh trong đường lành là cõi trời, ở trong bảy cung điện lớn, làm vua hoặc đại thần, cỡi cung điện như vậy, đi đến chỗ vui chơi, nghe năm loại âm nhạc, ca múa vui đùa, được trang điểm bằng vòng hoa kỳ diệu. Nếu ai thành tựu bảy pháp như vậy sẽ đi đến cõi trời.

Thế nào gọi là Đa văn? Đa văn là nghe pháp chân chánh, nghe rồi chế ngự tâm không cho kiêu mạn. Nếu như họ có nghe điều gì thì tăng thêm đa văn, không sống phóng dật, trí không tự mãn thường học hỏi người khác, không khoe công đức của mình với người khác, không ca tụng danh tiếng mình. Người đa văn này khi chết sẽ sinh nơi đường lành là cõi trời. Đây là pháp thứ nhì, theo đó tu hành sẽ được thành tựu.

Thế nào là pháp thứ ba: Thâu giữ tu hành? Đó là nghe pháp rồi thì hộ trì tu hành. Nếu có người nghe pháp rồi, lại hộ trì tu tập theo những luật lệ phi pháp, nghe pháp rồi họ coi pháp là gánh nặng, không tu tập nên không nắm giữ được thành quả của pháp.

Nếu có người dùng móc câu trí tuệ để hàng phục tâm và trì giới. Nếu trí ấy không yên tĩnh thì người trì giới đó giống như ngọn đèn đốt vào ban ngày, không có ánh sáng, không có chắc thật. Nếu trong việc trì giới mà có trí tuệ xen vào người ấy sẽ giống như ánh sáng ngọn đèn, vừa bền lại vừa thật, được kết quả không hư dối. Người nào tu tập theo chánh pháp thì được lời nói chắc thật, chẳng phải chỉ nói suông mà không làm. Người ấy có thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp đều trong sạch. Khi chết, người ấy sẽ sinh vào đường lành là cõi trời. Đây là pháp thứ ba.

Thứ tư: pháp không biếng trễ là gì? Biếng trễ nghĩa là không làm. Không làm nghĩa là pháp phải làm, họ bày ra rồi không làm, không thể đạt đến kết quả. Pháp ấy như vậy, nếu siêng năng không dứt thì có thể đạt đến kết quả, nếu biếng nhác không siêng năng thì không thể đạt đến kết quả. Chỉ làm một chút ban đầu thì không thể thực hành đầy đủ đối với pháp thế gian và xuất thế gian. Nếu là người biếng nhác thì tất cả việc làm đều yếu kém, bị mọi người khinh rẻ, chê bai, tự chịu đau khổ, khi chết bị đọa vào đường ác là địa ngục.

Người này bị biếng nhác phá hoại. Biếng nhác ghê gớm như vậy nên ta phải xả bỏ nó như xả bỏ lửa và dao, như bờ hiểm dễ rớt. Ai bị biếng nhác hủy hoại thì biếng nhác không có oai đức giống như con dê. Người ấy không có trí tuệ, không biết tất cả việc làm hoặc trí hoặc phi trí, hoặc pháp hoặc phi pháp, nên làm hay không nên làm, không biết gì cả. Vì sao? Do không đọc kinh, không nghe pháp, do biếng nhác.

Nếu có người bàn luận để khai mở tâm ý về những điều hiểu biết bằng trí tuệ để biết tất cả hoặc pháp hoặc phi pháp, nên làm hay không nên làm, nên đi hay không nên đi, phải biết tất cả những pháp như vậy nhờ trí tuệ, nhờ tinh tấn mới biết được, còn biếng nhác thì không thể biết. Những người biếng nhác không khác người mù, khi chết sẽ bị đọa vào đường ác là địa ngục. Người này không thể nào ra khỏi thế gian và phải chịu khổ vô cùng, phải ăn xin ở nhà người khác, thường đứng dựa cổng nhà người khác cầu xin thức ăn, thường cầu cạnh người khác, dung mạo xấu xí, tóc che kín mắt, mắt khô, móng chân, da, tất cả đều khô cháy, phải đến xin ăn ở từng nhà khắp bốn phía xóm làng, cuộc sống rất cay đắng, bị tất cả khinh chê. Do nhân duyên này ta nên xả bỏ tất cả sự biếng nhác.

Ngược lại, người siêng năng thì thành tựu tất cả mọi việc kể cả Niết-bàn, huống gì là các pháp thế gian khác. Khi chết, người này sinh vào đường lành là cõi trời. Do vậy, hoặc trời, hoặc người, tất cả đều nên xả bỏ biếng nhác và phải siêng năng.

Khi ấy Phật Tỳ-diệp-bà nói kệ:

Ý biếng nhác với huyễn
Hoặc mạn hoặc ác khẩu
Hoặc xả bỏ trí tuệ
Đó là sự thoái thất.
Gần gũi với bạn ác
Xa lánh những bạn lành
Hoặc là thấy sai lầm
Là nhân của thoái thất.
Không biết thiện và ác
Nói năng không đúng thời
Hoặc là tin phụ nữ
Là việc không lợi ích.
Gần gũi với người nào
Ăn uống ở nơi đâu
Thân không được lợi ích
Pháp này khiến người khinh.
Hèn nhát hoặc thất niệm
Hoặc là bị vua ghét
Hoặc là tâm ngang ngược
Sẽ chết bất thình lình.
Không biết rõ nghiệp quả
Pháp cùng với phi pháp
Xa lìa người bạn lành
Liền đọa vào đường ác.
Biếng nhác hoặc ngủ nhiều
Hoặc tham đắm mùi vị
Sân hận và nói láo
Hoặc nói lời hung ác.
Tham lam hoặc kiêu mạn
Tâm động xả bỏ pháp
Nếu làm, gần dâm dục
Hoặc khen pháp dâm dục.
Như vậy có ba lỗi
Biếng nhác là gốc rễ
Người nào siêng tinh tấn
Thì không có các lỗi.
Ai siêng năng tinh tấn
Đều thành tựu kết quả
Kết cuộc của tinh tấn
Là thành quả tốt đẹp.
Ba loại nghiệp như vậy
Hay được ba loại quả
Ba nhóm ba nguồn gốc
Chắc chắn có ba đường.

Chữ viết trên vách nơi tháp Phật Tỳ-diệp-bà đã nói bài kệ này chê trách việc biếng nhác. Thiên chúng xem rồi nói:

–Chúng ta quyết định xả bỏ biếng nhác. Từ biếng nhác này có các lỗi khác phát sinh.

Như Phật dạy, hoặc là trời, hoặc là người mà biếng nhác thì tất cả việc làm đều sút kém trong tất cả các thời. Nếu vị trời hoặc người nào mà không biếng nhác thì sẽ dần dần tiến đến Niết-bàn. Pháp thứ tư này có tác dụng lợi ích đối với cõi trời, người.

Pháp thứ năm có nhiều tác dụng, có nhiều lợi ích là: Nhớ nghĩ. Cái có thể làm chướng ngại tất cả các pháp là biếng nhác. Như vậy trong tất cả pháp thế gian, nhớ nghĩ là cội gốc có thể dẫn chúng ta đến Niết-bàn. Người xuất gia hoặc người tại gia nghĩ đến không phóng dật nên không sống phóng dật thì tất cả việc làm đều thành tựu. Người này thường tạo nghiệp như chánh pháp, siêng năng tinh tấn, tâm nhớ nghĩ hành động chân chánh theo chỗ mong cầu. Người này luôn hộ trì năm căn không cho trần cảnh xâm nhập, não hại, tâm không bị mê hoặc. Mắt thấy sắc rồi không có sinh dục nhiễm đối với sắc ấy, tâm không ưa thích, thấy như thật về sắc và biết nguồn gốc của nó. Vị ấy thấy nhân duyên nguồn gốc của sắc này, biết nó do duyên gì sinh ra. Vị ấy thấy sắc như vậy rồi, tâm không vẩn đục rối loạn. Như vậy sắc ấy không thể lôi kéo người này vì người ấy đã thấy như thật về sắc đó. Người xuất gia, hoặc người tại gia hoặc là hàng trời, người, biết cái lỗi do sắc sẽ sinh, lỗi do sắc đã diệt. Họ biết tâm duyên sắc ấy ở nơi nào, xứ nào.

Mắt duyên với cảnh giới như vậy sinh ra thức. Do cảnh giới ấy nên sinh ra nỗi sợ của ta. Niệm trong sạch này có thể trừ được phiền não. Ta nhờ niệm này đã trừ được nỗi lo sợ về cảnh giới như vậy, vì sự sợ hãi ấy phát sinh ở các cảnh giới. Điều mong mỏi nhất là nhờ tâm chánh niệm ta có thể trừ bỏ vô lượng nỗi lo sợ về cảnh giới sắc, đối với những cảnh giới sắc mà tâm niệm duyên theo thì ta có thể trừ bỏ dần dần ở trong từng niệm. Giống như người thợ rèn, lấy miếng đồng tốt đặt vào lửa rồi đem ra gò, cứ đưa vào lửa rồi đem ra gò.

Nhiều lần như vậy, chuyên cần không nghỉ, dần dần trừ bỏ được rỉ sét làm cho nó trở nên tinh luyện, cũng vậy, chánh niệm hoàn toàn sẽ trừ được tâm cấu uế dần dần cho đến khi được trong sạch.

Lại như người thợ đúc bình, do nhiều điều kiện và sự khéo tập hợp lại làm cho cục đất bùn trở thành bình, người này với tâm chuyên cần, chánh niệm, nhân duyên tu tập đó như là duyên sinh ra cái bình, chánh niệm quan sát ngay khi mặc áo, tuần tự từ hành động ban đầu, chánh niệm, cho đến khi hoàn tất. Cần phát chánh niệm như vậy lần lượt cho đến khi hết sạch tất cả lỗi, được thấy chân đế, tâm được Thánh ấn ấn khả, lỗi của vị ấy đã hết. Do lỗi đã hết, mọi người đều biết như vậy. Vì thế, nếu muốn được hoàn thiện thì phải luôn luôn chánh niệm trong tất cả các thời. Nếu mắt duyên với sắc liền dùng niệm giữ chặt tâm, không cho lay động như điều phục ngựa dữ, dùng chánh niệm giữ vững cảnh giới đã qua, ngăn cảnh giới đang hiện trước mặt, niệm chín mươi tám thứ phiền não.

Thế nào là niệm trụ? Niệm trụ là khi tham dục phát sinh, hành giả không chạy theo nó, không cho tâm tán loạn. Niệm trụ này tư duy đúng như thật về sắc này, sắc kia, gồm có vô lượng loại, vô lượng hình tướng, quán bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo khiến cho tất cả dục nhiễm kia đều vắng lặng hoặc diệt hết, hoặc đều mỏng bớt. Thế lực của pháp thiện này là gì? Hệ niệm là nguồn gốc của nó. Tất cả pháp thiện đều dựa vào niệm trụ mà vận hành. Đó là niệm trong hiện tại.

Thế nào là niệm pháp ở đời vị lai? Vị lai chưa có, chưa sinh, chưa thấy, vậy tướng của cảnh giới ấy làm sao mà niệm, nếu có cảnh giới mới có thể niệm, cảnh giới trong đời vị lai chưa có làm sao để niệm? Điều cần niệm tuy chưa có nhưng thấy tướng trạng nhân duyên đưa đến nên có thể niệm được, như là thấy có người tu tập thân, khẩu, ý, thực hành nghiệp thiện, thấy rồi liền niệm người này chắc chắn sẽ sinh Thiên. Nếu thấy có vị trời thực hành nghiệp ác liền niệm vị trời này chắc chắn phải đọa vào địa ngục. Pháp “niệm” này là pháp thứ năm có nhiều tác dụng, nhiều lợi ích cho hàng trời, người.

Pháp thứ sáu có nhiều tác dụng, nhiều lợi ích cho hàng trời, người là không gây phiền não người khác. Ai không làm não hại người thì tâm sẽ vắng lặng, không sinh phân biệt là người này có phạm hạnh, hay người này không phạm hạnh, không sinh ganh ghét khi thấy ngọa cụ, thuốc men của người, không nói thầm, cũng không nói ra: Tôi là người trì giới.

Nếu trì giới chút ít, tụng kinh chút ít thì không được đem khoe nơi nhà Đàn-việt, giữ tâm bình đẳng đối với kẻ oán người thân, thường nhớ nghĩ về Tam bảo, không tự phá giới, không não loạn người trì giới, không đòi hỏi nhiều đồ dùng nơi các Đàn-việt, tâm của người này đằm thắm, thường cầu xin sư trưởng nói pháp, thường ở chỗ vắng và luôn gần gũi người có phạm hạnh. Người tương ưng với công đức này không làm não hại người khác. Do không làm não hại người khác nên có nhiều tác dụng, có nhiều lợi ích.

Pháp thứ bảy có nhiều tác dụng, có nhiều lợi ích trong cõi trời, người là không lừa dối, tự giấu công đức, trừ bỏ nghiệp ác, tâm ý ngay thẳng, biết đủ về y bát, thường xuyên khất thực, ở trong rừng cây, hang núi, ăn uống vừa đủ, giữ tâm bình đẳng không phân biệt cao thấp, khi có lý do mới đi du hành trong nhân gian, không đi ở nơi nghi là có trùng kiến, không phá hủy sông đầm, hồ nước… vì sợ giết trùng, không cầu khẩn mưa, đá, sấm sét… khiến rớt xuống giết hại chúng sinh, không nói chuyện trăng sao, nhật thực, nguyệt thực, điềm lành, điềm dữ để cầu sự cúng dường tài vật, đồ ăn uống nuôi thân mạng, không thường qua lại một nhà Đàn-việt, cũng không vênh mặt, ngước đầu mà đi, không được động môi giả đang tụng niệm, không nói to tiếng, cũng không nói lén, không mang giày dép tạp nhạp, không lấy đủ loại dây để quấn quanh thân thể, không mang túi thơm và nhiều màu, không tích trữ ngọa cụ, không nương ở với đại chúng không có giới và công đức, không bảo người khác vào thành ấp, xóm làng, nói về việc trì giới của mình vì mong cầu lợi dưỡng, không đến những nơi làm loạn tâm ý, không tham cầu, không ở gần thôn xóm, không đường đột đến nhà bà con và bạn bè thân thiết để nhờ vả, không phơi bày việc xấu và che giấu đức tốt của người khác, khi thấy người thật có lỗi, không đem nói khi vắng mặt họ, né tránh phụ nữ như tránh rắn độc, không nói chuyện và đi chung với các phụ nữ, không tìm đến những cây có nhiều hoa, cũng không dạo chơi nơi vườn cây xinh đẹp vì sợ nghe tiếng hót của các loài chim đáng yêu sẽ làm cho tâm dục phát sinh, không ngồi thiền nơi sông suối có nhiều tiếng động vì sợ tâm loạn động khi nghe tiếng ấy, không ngồi thiền và đi kinh hành ở gần các loại hoa có nhiều hương thơm vì sợ mũi ngửi mùi thơm làm tâm ý loạn động, cũng không nhìn ngắm các loài chim, các loại chim màu, ngỗng, vịt, mạng mạng, chim sẻ… không nhìn ngắm và đi kinh hành gần các loại chim đa dục vì sợ động tâm, sợ thấy các con chim mái khiến tâm dục phát khởi.

Không ngồi thiền gần các rừng cây như là cây dừa, cây ba-nabà, cây mẫu thước, cây xoài, cây tỳ-la, cây ca-ty-tha, cây ba-lưu-sa, cây khư-thù-la, vì sợ sinh tâm tham mùi vị của nó, lìa những cây ăn quả đến tọa thiền ở những rừng cây yên tĩnh, không có mùi vị đáng tham đắm, không có nhiều người, hoặc ở trong vườn an lạc hạnh, siêng năng tinh tấn; đối với sự oán ghét và chống đối, tâm thường không loạn, không nhận giữ những thứ để cất chùa và đất cày,

Người đoạn trừ tham ái này dùng dây ràng bát sắt mục nát lại để đựng đồ ăn thức uống, tâm không nghĩ đến bát đồng hay bạc. Họ không tích trữ đến ba cái chén, ca-sa họ có vừa đủ, vào mùa hạ, trừ khi đại tiểu tiện, không đi lung tung cho đến một bước vì sợ giết trùng. Ăn trái xa-di, họ ăn trái còn tươi, không ăn trái thối. Khi ăn trái táo nhỏ, nếu không xem kỹ thì họ không ăn, ăn trái lê, trái khưthù-la, trái táo, đậu oản, đậu mục… nếu không xem kỹ thì họ không ăn vì sợ bên trong có trùng. Họ không bao giờ dẹp đuổi các con trùng sinh trên vách đất vì sợ làm tổn thương chúng, làm chúng chết. Họ ngồi yên một chỗ, không nhìn xem bát của người khác vì sợ tham thức ăn. Lúc đi đường người ấy không đi gần người khác vì sợ làm trở ngại. Họ không đại tiểu tiện nơi đất có nhiều trùng vì sợ làm tổn thương trùng và làm chết chúng. Lúc đi khất thực, họ nhìn xuống đất phía trước mặt cách chân một tầm để giữ tâm ngay thẳng. Họ thường gần người có tâm chánh trực. Tỳ-kheo này không tích chứa các vật, không mong cầu vật gì, tâm không thích thấy vật hiếm có và siêng năng ngồi thiền. Tỳ-kheo hiền thiện này, không dối trá, trì giới thanh tịnh, không vi phạm. Mạng sống và nội tâm họ thanh tịnh như vậy. Tỳ-kheo này giữ giới một cách chắc chắn, không bao giờ phạm học giới. Tỳ-kheo hiền thiện ấy sinh trong đường như vậy tùy theo tâm niệm. Do họ thường sống trong sạch nên có ý thiện phát sinh, những điều không vui ít sinh và họ nguyện sinh trong đường lành.

Khi ấy, Phật Tỳ-diệp-bà nói kệ:

Người nào sống trong sạch
Thân, khẩu, ý lặng lẽ
Ngồi thiền lìa tham ái
Cách Niết-bàn không xa.
Tinh tấn hạnh đầu-đà
Ở gò mả rừng cây
Thường ở nơi như vậy
Cách Niết-bàn không xa.
Ai ngủ trên bụi đất
Giữ một bát hư bể
Ăn trái, rễ biết đủ
Người ấy sống an lạc.
Người muốn được giải thoát
Thường thích sự biết đủ
Người ý lành mạnh mẽ
Cách Niết-bàn không xa.
Không dua nịnh, lừa dối
Xa lìa các trần cấu
Tâm họ như hư không
Cách Niết-bàn không xa.

Vị Phật ấy khen ngợi Tỳ-kheo có hạnh lành không dua nịnh, lừa dối như vậy.

Người thành tựu bảy pháp như thế là thiện nam. Người nào sống theo dục lạc thì chìm trong biển sinh tử, không khác súc sinh, tuy mang hình người nhưng thật chẳng phải người. Người nào có thể thành tựu bảy pháp ấy liền được các bậc thiện nhân khen ngợi, khi chết sẽ sinh vào đường lành là cõi trời. Thọ diệu lạc cõi trời xong, thoái đọa xuống sinh trong loài người liền được nhập Niết-bàn nhờ nghiệp còn sót lại. Họ là người hiền thiện nhất.

Bảy pháp này từ pháp đầu tiên là gần gũi Thiện tri thức, kế đến là các pháp đa văn, giữ vững sự tu hành, chánh niệm không biếng nhác, không làm não hại người khác, không lừa dối… không phải là pháp hư dối, tà vạy vì bảy pháp này là nhân duyên của kho tàng báu khiến ta được sinh trong cõi trời.

Nếu ở cõi trời nghe pháp này rồi chớ có sống phóng dật, vì nếu phóng dật sẽ khiến phước đức tiêu hết và đến lúc thoái đọa sẽ rớt xuống địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì vậy chư Thiên chớ nên sống phóng dật để tự làm hỏng đời mình. Ở trong các cõi, không ai sống buông lung mà được an lạc. Con người thành tựu bảy pháp này sinh lên trời.

Ba nguyên nhân khiến cho ở cõi trời khi bị thoái đọa sẽ rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh là: Không nghe chánh pháp, gần tri thức ác và không tin nghiệp quả. Nếu không thành tựu bảy pháp này sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Bấy giờ, Thiên chủ Mâu-tu-lâuđà bảo Thiên chúng: “Các ông đã nghe tất cả điều này. Đức Phật đó đã dùng tâm thương xót tạo lợi ích cho chúng sinh”.

Khi Thiên vương nói xong, tất cả Thiên chúng đều bạch với Thiên vương:

–Nay chúng con đã nghe kinh do Như Lai thuyết giảng, vì thương xót thế gian mà Đức Phật đã tạo lợi ích cho chúng con, đã thuyết pháp như vậy để trừ bỏ phóng dật.

Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà bảo Thiên chúng:

–Các ông nghe kinh này xong chớ có phóng dật. Do phóng dật mà chư Thiên sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì sao? Vì các ông nhờ vật quý trọng có giá trị lớn nên mới được sinh vào cõi trời này, nay không nên phóng dật khiến cho nó hết sạch mà phải thâu giữ, hành động chân chánh, xả bỏ phóng dật như lời Phật dạy trong kinh này.

Kinh thứ tư trong sáu kinh, Phật Tỳ-diệp-bà đã nói xong.

Bấy giờ, Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà chỉ cho Thiên chúng kinh chép trong tháp Phật. Sau khi khiến cho tâm của Thiên chúng ấy được thuần thục rồi, Thiên chủ lại chỉ rõ về sự khổ não của sinh tử. Nó có vô lượng lỗi lầm chất đầy trong đó. Những nỗi khổ như là: Xa lìa những người mình thích, gần những người mình ghét, già chết, buồn rầu khóc lóc đều gồm đầy đủ. Sinh tử, thoái thất chứa đầy các việc khổ não.

Bấy giờ, thấy tâm của Thiên chúng đã được điều phục tốt, Thiên vương lại đem tâm thương xót tạo lợi ích cho chúng sinh, nói với họ:

–Thiên chúng các ông nên biết: Tất cả chư Thiên ai sống phóng dật chắc chắn sẽ chịu khổ não. Sau này đến giờ chết sẽ sinh tâm hối hận, hết sức nóng bức, khổ sở, mắc phải tai họa lớn. Lúc ấy, không thể dùng phương tiện gì mà thoát được, bị dây nghiệp trói buộc, dắt đi một mình không bè bạn. Hoặc người, hoặc rồng, hoặc địa ngục, khi sắp vào địa ngục bị dây trói của tử thần buộc, không có bạn đồng hành, chỉ có pháp thiện hoặc pháp bất thiện đi theo ở trong tất cả các biển chúng sinh.

Bấy giờ Thiên chúng ấy lại bạch Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà:

–Thưa Thiên chủ, đúng vậy! Vào lúc ấy sẽ không có một người bạn đồng hành, trừ pháp và phi pháp.

Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà bảo Thiên chúng:

–Thiên chúng các ông nên biết như vậy và phải biết khi ấy không có bạn đồng hành.

Thiên vương nói tiếp:

–Thiên chúng các ông nếu muốn hạt giống tín tâm tăng trưởng, muốn được an lạc, hết khổ hoàn toàn thì nay ở trong cõi trời này có tháp báu bằng vàng Diêm-phù-na-đà, lưới bằng ngọc quý giá trùm bên trên, được trang trí bằng bảy cây trụ báu, đủ loại bảo vật, đủ loại ánh sáng. Đó là tháp của Phật Ca-na-ca Mâu-ni. Ta đang cùng tất cả Thiên chúng các ông đến viếng tháp ấy. Đến tháp rồi, sẽ lễ bái, cúng dường và vào trong tháp. Vào tháp rồi, sẽ xem hết tất cả các bài pháp có trong ấy. Xem rồi sẽ ghi nhớ, nhớ rồi sẽ tu hành để tự tạo lợi ích, ra khỏi sinh tử, tuần tự tiến đến Niết-bàn.

Khi ấy, sau khi nghe Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà nói như vậy, Thiên chúng đều sinh tâm kính trọng, lìa bỏ tâm phóng dật, các căn được tịch tĩnh và cùng nhau hướng về tháp Phật Ca-na-ca Mâu-ni, thấy ánh sáng của tháp như đã nói ở trước. Bấy giờ, tất cả Thiên chúng đều cùng Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà đến viếng tháp Phật ấy. Đến tháp Phật rồi, Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà bảo Thiên chúng:

–Vì thương xót chúng sinh, Đức Phật Ca-na-ca Mâu-ni nói: “Tất cả các pháp đều vô thường”. Để làm lợi ích cho thế gian, vì thương xót chúng sinh nên hóa hiện điều ấy trên vách tháp Phật. Này Thiên chúng! Nếu người nào gặp pháp ấy liền sinh tâm chán lìa, thấy các pháp vô thường nên sinh tâm chán lìa. Những điều Đức Phật ấy dạy bảo, giáo hóa đều được hóa hiện trên vách tháp Phật đó.

Nói như vậy rồi, Thiên vương cùng Thiên chúng vào trong tháp Phật. Tháp ấy rộng mười do-tuần. Bên trong tháp cho thấy tất cả sinh tử đều vô thường, tất cả sự đầy đủ đều thoái thất, do nghiệp của mình dẫn dắt nên không được tự tại. Những cảnh giới khác nhau, sai biệt theo năm đường đều hóa hiện nơi vách tháp Phật, tương tự như hiện trong gương. Màu sắc của nó rõ ràng, y như cảnh thật, nơi nơi đều phân biệt rõ ràng như một bức tranh đủ màu.

Trong một gian nhà, nơi ấy ta thấy tám địa ngục là: Hắc thằng, Hợp, Kêu gào, Kêu gào lớn, Nóng, Rất nóng cho đến A-tỳ… Ta thấy chư Thiên bị đọa trong đó, bị gió nghiệp thổi làm đầu rơi xuống chân, toàn thân bốc cháy, màu lửa trên toàn thân giống như cây kimthư-ca, bên trên cao đến cõi trời, dưới xuống đến địa ngục. Họ lớn tiếng kêu gào và bị tự mình lừa dối. Do nghiệp thiện đã hết, lại bị phóng dật lừa dối, nên sau khi hưởng hết thú vui tột bậc ở cõi trời, họ liền bị đọa vào chỗ rất khổ não là địa ngục, chỉ có một mình, không bạn bè. Họ lìa bỏ anh em và bè bạn thân thiết, đọa vào địa ngục không ai cứu được. Cảnh đầu tiên mà Thiên chúng các ông thấy rõ ràng trên vách tháp là cảnh trời Tứ Thiên vương bị đọa vào địa ngục. Trời Tứ Thiên vương có lỗi sát sinh, có lỗi trộm cắp.

Trời Tứ Thiên vương sát sinh thế nào? Lúc Thiên chúng đánh nhau với A-tu-la, giết A-tu-la, khi chư Thiên thắng, A-tu-la bại, chư Thiên đoạt lấy mũ đội đầu, thiết đao và tất cả của cải của A-tu-la, do nghiệp này hoặc nghiệp kia, nên họ bị đọa vào địa ngục. Do bị tâm lừa dối, họ tạo nghiệp như vậy ở trong cõi trời. Lúc bị thoái đọa, thân năm ấm diệt hết, họ theo thân trung ấm sinh trong địa ngục. Lúc rời bỏ chỗ vui ấy để nhận thân trung ấm, họ rất đau khổ. Khi ở trong thân trung ấm như vậy, họ đã khổ não không chịu nỗi, huống gì là vào trong địa ngục chịu đủ loại khổ lớn. Đó là nghiệp lớn điều khiển các chúng sinh ấy. Trên trời thoái đọa, sinh trong địa ngục, Thiên chúng đều thấy sự biến hóa của Đức Thế Tôn ở trong tháp Phật.

Lại nữa, ở nơi khác trong tháp ấy, Thiên chúng thấy trời Tứ Thiên vương khi thoái đọa ra khỏi cõi trời, bị sinh trong ngạ quỷ. Vị Thiên ấy khi đã hưởng hết phước rồi sinh nơi đồng trống, chịu sự đói khát, khổ não. Từ lâu vị ấy mặc thiên y, nay tóc trên đầu che mặt, che thân khiến vị ấy sống một cách tối tăm. Thân của vị ấy như cây bị thiêu đốt, lõa lồ không có quần áo, hoặc có vị mặc áo lửa, ở chỗ hoang vắng bị đói khát hành hạ thân, kêu la inh ỏi. Họ không thể kiếm được một chút nước như giọt sương. Họ sinh trong ba mươi sáu cảnh giới ngạ quỷ.

Trên vách tháp Phật, Thiên chúng trời Dạ-ma thấy chim quạ, chồn cáo mổ khoét mặt, hoặc mắt, hoặc miệng của những kẻ bị đọa. Họ thấy đất ở cõi trời ấy rất mềm dẻo, vui chơi rồi về sau lại sinh vào cảnh giới ngạ quỷ, đất cứng và nóng như lửa. Đất này do những bụi đất phiền não nóng bức hợp lại thành. Có những con trùng đen, mỏ bằng kim cương. Trong vách tháp Phật, Thiên chúng trời Dạ-ma thấy các quỷ kêu la ấy từ cõi trời thoái đọa xuống.

Lại nữa, ở cõi trời họ được ngửi mùi hương thơm, hoặc là Mạnđà-la, hoặc là Cư-thế-xa và các loại hương thơm thù thắng khác, được ngửi hết thảy trăm ngàn loại hương. Về sau, họ phải sống ở nơi có phân và nước tiểu bất tịnh, hôi hám, hoặc là gò mả chứa tử thi thối rửa. Ngạ quỷ này phải ngửi vô lượng loại vật bất tịnh và không khí hôi hám uế tạp. Mũi họ có nhiều kiến lửa sinh sống đầy trong đó. Việc các ngạ quỷ ấy sinh trong cõi ngạ quỷ, ta có thể thấy trên vách trong tháp Phật.

Lại nữa, trước kia khi sống ở cõi trời có vô lượng loại thức ăn thơm ngon, màu sắc và mùi vị đáng ưa, đầy đủ hương thơm, đến khi mang thân ngạ quỷ hý lộng thì chất bất tịnh nhất, khí hôi hám nhất và phân cũng khó có được. Trong một trăm năm, ngay cả phân, họ cũng chưa từng được ăn. Việc này được thấy trên vách ở một nơi trong tháp Phật. Việc ăn phân cũng được thấy trên vách tháp ấy.

Áo vị trời ấy mặc trên thân rất mềm mại, rờ vào rất láng. Nó do vô lượng châu báu dệt thành như sở thích của chư Thiên, rất đáng yêu. Ở cõi trời đã mặc áo như vậy, lại có gió trời thổi mang đủ loại hoa phủ kín thân. Về sau, do nghiệp thiện hết, họ sinh trong ngạ quỷ, lõa hình không quần áo, thân mình sinh ra lông, lông rất nhiều, cứng và màu vàng che khắp. Trên khắp thân có trăm ngàn con trùng đen rúc rỉa, lại có nhiều loại trùng lửa ăn thân thể ấy. Người sinh làm ngạ quỷ bị đói khát thiêu đốt thân, thường gầy ốm, mắt và mặt đều lở lói vì kêu khóc, chịu nỗi khổ của ngạ quỷ một cách lâu dài, do phóng dật lừa dối nên từ trời thoái đọa xuống làm ngạ quỷ.

Lại nữa, nơi cõi trời Dạ-ma, chư Thiên ở Sơn thọ cụ túc lại lần lượt thấy các chỗ khác trên vách tháp có cảnh trời Tứ Thiên vương thoái đọa làm các loài súc sinh ở đủ các nơi.

Tóm lại mà nói, họ sinh ở ba nơi là: nước, mặt đất và hư không.

Chúng sinh sinh dưới nước ăn nuốt lẫn nhau, chịu khổ não lớn, hoặc chịu khổ lạnh, hoặc chịu khổ nóng. Chúng sinh trên đất bị mặt trời thiêu đốt chịu khổ não lớn, bị đói khát bức bách thân, giết hại lẫn nhau, hoặc sợ bị trói buộc, chịu trăm ngàn loại khổ não không thể thoát. Súc sinh này bị gió nghiệp thổi, thọ các khổ não. Chúng sinh trên không hoặc tế hoặc thô, hoặc chim có thân lớn thường thích giết nhau, thọ vô số khổ não. Sau khi thoái đọa, chư Thiên ấy sinh trong súc sinh là do bị phóng dật lừa dối. Vị Thiên khác nếu không phóng dật thì tạo nghiệp thiện thù thắng. Người tu phước, từ trên trời thoái đọa xuống, sinh trong loài người, nhận quả báo theo nghiệp thiện của mình. Nếu không có nghiệp lành mà sinh trong loài người sẽ chịu khổ não theo sự tạo tác của mình, gồm có các bậc thượng, trung, hạ, có nghèo, có giàu, tùy nơi, tùy lúc màu sắc hoặc xấu hoặc đẹp, hoặc hay hoặc dở… đều thấy hiện trong tháp Phật ấy.

Nếu có nghiệp lành thích tu, thích làm, hoặc là giữ giới, tu tám Thánh đạo, giữ giới một cách vững chắc không vi phạm, không rò rỉ, khéo điều phục tâm ý, nhờ sức mạnh của ba nghiệp và uy lực của nghiệp lành vị ấy chắc chắn được hưởng quả báo tốt đẹp.

Hoặc nhờ sức mạnh của quy y Tam bảo, hoặc nhờ oai lực của việc bố thí vô úy cho chúng sinh, hoặc bố thí pháp, hoặc làm các việc tương tự khác, làm các việc lành, tư duy thường xuyên về pháp trong sạch khiến tâm vắng lặng. Kế đó là tu khẩu nghiệp khiến tâm trong sạch, can ngăn, khích lệ cha mẹ tu thí, giới, trí. Do tự thân đã có sức của nghiệp thiện nên có thể khuyến khích cha mẹ, hoặc nhờ sức bố thí, hoặc bố thí cho người bệnh, người nghèo khổ, hoặc đem thức ăn, nước uống cho người bệnh, hoặc đem thuốc và các vật cần dùng cho người bệnh không có thầy thuốc, hoặc nhờ không sát sinh, hoặc không trộm cắp, hoặc không tà dâm, không uống rượu, hoặc với tâm thiện đào giếng hay ao nước nơi đồng vắng xa xôi hiểm trở và bố thí các vật cần dùng, hoặc do nghiệp lực cúng dường Phật, Pháp, Tăng, hoặc do nghiệp lành chắp tay lễ bái, hoặc bố thí vô úy cho người ở đất nước bị nhiều kẻ quấy nhiễu, ở nơi nhiều người sợ hãi, người sợ đồng vắng nguy hiểm, hoặc người sợ đao, hoặc là nhờ nghiệp bố thí giường nằm, ngọa cụ, thuốc trị bệnh và đồ dùng cho các bậc Duyên giác, A-la-hán, hoặc là bảo vệ ban vui cho vợ con, hoặc vào năm đói kém bố thí đồ ăn thức uống cho người đói. Nghiệp này là tối thiện vào bậc nhất, có thể thành tựu như nguyện cho đến Niết-bàn, ba loại Bồ-đề, huống gì là sinh Thiên. Ở cõi trời thoái đọa, sinh lại cõi trời, thấy trở lại sự hoạt động của cõi trời. Vị ấy thấy như vậy ở vách tháp Phật. Trong cõi trời ấy có đủ loại lưới nghiệp, vô lượng nhân duyên, dây nghiệp trói lấy vô lượng chúng sinh. Dây ấy giăng khắp trong nẻo sinh tử, giữ lấy các loài.

Bấy giờ trên vách tháp Phật, Thiên chúng cõi trời Dạ-ma ấy thấy trời Tứ Thiên vương có vô lượng sự thoái thất chịu khổ não lớn như Đức Thế Tôn Ca-na-ca Mâu-ni đã hóa hiện.

Lại quan sát trời Tam thập tam. Nơi vách tháp Phật, ta đã thấy sự khổ của trời Tứ Thiên vương, kế đó lại nghĩ xem trời Tam thập tam có như vậy không? Trên vách trong sạch ở nơi khác của tháp Phật, chư Thiên ở cõi trời Dạ-ma thấy Đức Thế Tôn hóa hiện sự thật về sinh tử của thế gian. Họ bị xiềng xích nghiệp trói buộc nên hoặc khổ hoặc vui.

Kế đó, thấy trời Tam thập tam cũng như vậy, thọ vui theo nghiệp, sống theo nghiệp, hoặc là nghiệp lành, hoặc là nghiệp dữ. Vị Thiên ấy thọ vui, thọ khổ như nghiệp, hoặc đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc trời, hoặc người đủ loại sai khác, bị vô lượng dây nghiệp trói buộc. Lại nữa, khi Thiên chúng ở cõi trời Tam thập tam phải trôi lăn trong các nẻo sinh tử, họ bị gió nghiệp thổi, ở trong ba cõi không có chỗ nào thọ nghiệp mà không nhận quả báo, huống gì là cõi trời Tam thập tam.

Nơi vách tháp trong sạch ấy lại thấy năm đường do nghiệp tạo ra, bị nghiệp trói buộc. Về sau, lại vào bảy địa ngục lớn là: Địa ngục Dây đen, địa ngục Hợp, địa ngục Kêu gào, địa ngục Kêu gào lớn, địa ngục Nóng, địa ngục Rất nóng chỉ trừ địa ngục lớn nhất là A-tỳ. Vì sao? Vì ở cõi trời không tạo nghiệp để bị đọa vào địa ngục A-tỳ. Chư Thiên chỉ sinh vào trong bảy địa ngục lớn kia. Sau khi thoái đọa, chư Thiên ở trời Tam thập tam sinh vào địa ngục, hoặc là do sát sinh, hoặc do nghiệp khác.

Lúc chư Thiên đánh nhau với A-tu-la, liền bị mắc tội sát sinh. Cả hai cõi trời: Tứ Thiên vương và Tam thập tam đều mắc tội sát sinh, trộm cắp. Bốn cõi trời trên nữa thì không có như vậy. Trời Tứ Thiên vương và trời Tam thập tam đều tạo nghiệp như thế. Nghiệp của trời Tam thập tam vi tế, các trời khác không như vậy. Thiên chúng ở nơi vùng cây rậm rạp thấy nghiệp vi tế và sự thoái thất của trời Tam thập tam ở nơi vách tháp Phật.

Trong vườn Hoan hỷ của trời Tam thập tam có cây ba-lê-da chiếu ánh sáng khắp khu vườn, nơi điện đường nơi cây ấy, chư Thiên thọ hưởng đủ loại hoan lạc. Do nghiệp hết, bị lưới không biết đủ trói nên rơi vào địa ngục. Nỗi khổ mà trời Tam thập tam phải chịu khi đọa vào địa ngục lớn gấp mười lần nỗi khổ của trời Tứ Thiên vương. Vì sao? Vì cõi trời nào có cái vui lớn thì nỗi khổ về biệt ly cũng lớn hơn, nên hết sức khổ sở, lưu chuyển nối tiếp do nghiệp tăng lên rất mạnh mẽ. Như trong thân trời, tất cả các phần của thân đều mềm mại, do mắt chuyển động mềm mại nên mắt chịu khổ não cũng nhiều hơn.

Như vậy, ở nơi ấy lạc thú của trời Tam thập tam hơn hẳn lạc thú ở cõi trời Tứ Thiên vương, nên khi thoái thất, sự khổ não của trời Tam thập tam cũng lớn hơn. Tâm khổ não lớn, tâm khổ não nhiều, hai loại khổ – vui rất nhiều, không thể ví dụ. Trên trời rất vui, dưới địa ngục rất khổ, dây nghiệp trói buộc như rớt từ bờ hiểm, khiến họ thọ vô lượng loại khổ não rất lớn. Thiên chúng trời Dạ-ma đã thấy sự thoái đọa của trời Tam thập tam phóng dật ở nơi vách tháp Phật. Thấy rồi, Thiên chúng trời Dạ-ma ấy buồn rầu.

Lại nữa, nơi vách ở chỗ khác trong tháp Phật, trời Dạ-ma thấy sau khi thoái đọa, trời Tam thập tam đọa làm ngạ quỷ. Từ nơi rừng Hoan hỷ, rừng ánh sáng, nơi cung điện nguy nga, nơi vui chơi, họ thọ dục lạc cõi trời, ăn thức ăn thơm ngon của cõi trời, cung cấp đầy đủ cho thân thọ dục lạc trọn vẹn. Thọ hưởng cái vui thù thắng như vậy một thời gian dài rồi phải ăn phân và nước tiểu bất tịnh, khắp thân thể có các con trùng bất tịnh. Như vậy, họ quán thấy: Do sống phóng dật, chư Thiên cõi trời Tam thập tam bị đọa trong ngạ quỷ. Thấy vậy rồi, chư Thiên ở cõi trời Dạ-ma rất buồn rầu.

Lại nữa, nơi vách ở chỗ khác trong tháp Phật, trời Dạ-ma thấy trời Tam thập tam sinh làm súc sinh, sau khi bị thoái đọa, hoặc là ở trong biển lớn làm cá di-nê, làm con ốc, cá ma-già-la, cá thư-ma-la, sinh làm loài trùng dữ giết hại lẫn nhau, bị đói khát bức bách thân, chịu vô lượng khổ, hoặc ở trên không làm loài chim giết hại lẫn nhau, thường sợ hãi, tâm luôn sợ chết, chịu các khổ não, hoặc ở gần bờ nước làm các loại thú ăn thịt lẫn nhau, chịu các khổ não.

Như đã nói, do nghiệp lành, trời Tứ Thiên vương sinh làm người. Lần lượt như vậy, do nghiệp thiện, trời Tam thập tam sinh làm người, đồng nghiệp với nhau, chịu các khổ não, bị sinh tử trói buộc.

Lúc chư Thiên thoái đọa, sẽ chịu vô lượng loại khổ não của cõi trời. Nỗi khổ này còn không thể chịu nỗi, huống gì là nỗi khổ phải chịu khi ở trong thai người, nỗi khổ lúc sắp xuất thai ở thế gian, nỗi khổ lúc làm đứa bé sơ sinh, nỗi khổ lúc ra khỏi thai chưa thể đi được, lăn lóc trên đất, nỗi khổ lúc bò lổm ngổm, nỗi khổ vì thân thể không có sức lực, việc cần làm không làm được, ngu si la khóc không biết gì cả. Các loại khổ não đủ dạng như vậy, không thể nói hết. Tất cả Thiên chúng ở Sơn thọ cụ túc việc đó trên vách tháp Phật như thấy trong gương.

Các ngạ quỷ đói khát kia lệ thuộc vào người khác, không được tự tại, chịu lạnh, chịu nóng, bị gió thổi, bị mặt trời thiêu đốt, đi khắp nơi, ở đồng trống vắng. Các nỗi khổ như vậy có vô lượng loại, họ đều chịu đầy đủ, không thể nói hết. Thiên chúng ở Sơn thọ cụ túc đã thấy điều đó nơi vách tháp Phật. Thấy như vậy rồi, việc sinh tử ở thế gian có các loại khổ não gồm vô lượng loại đã được thấy trong vách ấy như bức họa thiện xảo.

Thấy điều hiếm có rồi, chư Thiên sinh tâm nhàm chán, suy nghĩ: “Chư Thiên hơn con người, con đường tốt nhất của loài người là cõi trời. Con đường tốt nhất của chư Thiên là cõi người. Lúc người sắp chết thì nguyện sinh Thiên. Lúc chư Thiên sắp thoái đọa thì nguyện sinh làm người. Con người thích cõi trời, chư Thiên thích cõi người. Sinh trong hai đường nhân, thiên này còn chịu khổ não như vậy, huống gì là sinh trong các đường ác khác, bị nghiệp chi phối.

Lại nữa, Thiên chúng ở Sơn thọ cụ túc thấy trên vách ở nơi khác trong tháp có trời Tam thập tam với Thiện pháp đường. Thoái đọa khỏi cõi trời ấy, sinh trong năm đường tùy theo nghiệp lực. Như đã nói ở trước, do nghiệp, vị trời thoái đọa ấy nếu thoái đọa khỏi cõi trời, sinh lại cõi trời cũng không hết khổ. Biết rằng sẽ bỏ mất thân trời cũ do ái biệt ly nên sinh ra sự sợ hãi. Sợ hãi về sự thoái thất ấy có rất nhiều cái khổ khác nhau, vị trời ấy đã thấy vô lượng khổ não. Kế đó, lại quan sát trên vách ở chỗ khác trong tháp Phật, thấy trời Đế Thích bị thoái đọa khỏi cõi trời đó phải xả bỏ tất cả các thứ như: vòng hoa báu, thiên y xinh đẹp có đủ loại ánh sáng, đồ trang sức có màu vàng rực, có ánh sáng thù thắng không thể ví dụ, sự đầy đủ các dục lạc thù thắng và sự đầy đủ năm dục. Do nghiệp của mình dẫn dắt nên đường ác mở cửa, bị phóng dật sai khiến, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do nghiệp đã tạo ra, hoặc là nghiệp thiện, hoặc là nghiệp ác dẫn dắt nên thoái đọa như vậy. Trên vách báu trong tháp Phật cho thấy có ba mươi hai vị Đế Thích đã lần lượt bị thoái đọa trong quá khứ.

Đế Thích đầu tiên tên là Yêm-thư-ma, đã làm vua trời Tam thập tam, do hết phước sinh vào trong biển làm cá có thân lớn là Magià-la. Khi làm người, vị ấy làm nghề đánh cá, thường bắt nhiều cá và cũng thường lễ Phật. Do lễ Phật nên được sinh vào trời Tam thập tam làm Đế Thích. Do sát sinh nên làm cá ở trong biển. Do nghiệp còn sót lại nên sinh làm súc sinh.

Lại nữa, trên vách ở nơi khác của tháp Phật, Thiên chúng ở vùng đất có đầy đủ cây cối lại thấy Đế Thích thứ hai tên là Tamphù-đề. Khi làm người, vị ấy đã từng làm việc thiện là: Cho người bệnh ăn, hoặc cho Tỳ-kheo ăn với tâm thanh tịnh. Do nhân duyên đó, vị ấy được sinh lên cõi trời Tam thập tam, làm vua Đế Thích. Về sau hết phước, do nghiệp ác còn lại, phải làm con rắn mối. Người ấy vào đời trước, do tâm tà kiến giết rắn mối trong ngày trai giới của ngoại đạo. Do nhân duyên đó, người ấy sinh trong địa ngục. Khi ra khỏi địa ngục, do nghiệp còn sót lại, người ấy làm rắn mối.

Trên vách ở nơi khác trong tháp Phật, Thiên chúng ở Sơn thọ cụ túc của trời Dạ-ma lại thấy Đế Thích thứ ba tên là Ba-la-ca-xa, đã thọ hưởng hết thú vui của cõi trời và sắp thoái đọa. Lúc làm người, vị ấy đã nuôi dưỡng cha mẹ, chăm sóc cha mẹ khi họ ốm đau. Do nhân duyên đó, vị ấy được sinh làm vua Đế Thích ở cõi trời Tam thập tam. Do nghiệp hết, từ cõi trời ấy thoái đọa, vị ấy sinh làm ngạ quỷ. Trong thời quá khứ, vị ấy sinh ở chỗ khác, vào lúc mất mùa đói kém, vị ấy tích trữ nhiều lúa và đem bán mắc cho người, lừa dối họ. Vị ấy mong cầu về sau sẽ mất mùa, đói kém hơn, do nhân duyên này, vị ấy sinh vào địa ngục Hắc thằng. Vì nghiệp còn sót lại, vị ấy sinh làm ngạ quỷ có cổ họng như lỗ kim.

Lại nữa, Thiên chúng ở Sơn thọ cụ túc, thấy trên vách ở nơi khác trong tháp Phật có vô lượng loại sinh tử khổ não nên sinh tâm chán ngán.

Thấy vô lượng loại như vậy rồi, họ lại thấy vị Đế Thích thứ tư

tên là Tác Ái. Sau khi thoái đọa khỏi cõi trời, vị này sinh làm heo. Thấy rồi, họ quán xem nghiệp lành của vị ấy, do nhân duyên gì mà được làm Đế Thích? Vào đời trước, vị ấy đem thuốc cho những người Bà-la-môn tà kiến bệnh nặng sắp chết uống và bảo họ với tâm thương xót: “Xin hãy uống thuốc này!”. Do nghiệp ấy, vị đó sinh vào đường lành, là cõi trời Tam thập tam và làm Đế Thích. Khi nghiệp lành hết, vị ấy đọa vào địa ngục. Khi ra khỏi địa ngục, do nghiệp còn sót lại, vị ấy sinh làm heo.

Thiên chúng lại quán nghiệp quả này do nhân duyên gì vị ấy lại sinh làm heo?

Đời trước, vị ấy thường thích săn bắn, giết hại nhiều chúng sinh, hoặc giết nhiều nai, hoặc giết nhiều heo. Do nghiệp này, khi chết sinh vào địa ngục Hoạt. Khi hết nghiệp này, do nghiệp còn sót lại, thọ sinh làm heo.

Trên vách ở nơi khác trong tháp Phật, Thiên chúng ở Sơn thọ cụ túc ở cõi trời Dạ-ma lại thấy vị Đế Thích thứ năm tên là Thiện Ý. Do nghiệp gì vị ấy sinh làm vua Đế Thích? Đời trước, vị ấy cứu sống người sắp bị sư tử ăn thịt. Với tâm thương xót, vị ấy đem người kia về nhà nuôi dưỡng nhiều ngày. Do nhân duyên này, nên vị ấy sinh lên cõi trời Tam thập tam, làm vua Đế Thích tên là Thiện Ý. Sau khi thoái đọa, vị ấy sinh trong địa ngục Thiêu đốt. Vì sao vị ấy sinh trong địa ngục đó? Vì đời trước vị ấy nói láo nên bị đọa vào địa ngục này.

Khi Đế Thích Thiện Ý thoái đọa khỏi cõi trời rồi, lại có Đế Thích kế tiếp tên Kiều-thi-ca. Thiên chúng ở Sơn thọ cụ túc nơi cõi trời Dạ-ma thấy vị ấy trên vách ở nơi khác trong tháp Phật. Vị ấy có nghiệp gì mà được làm Đế Thích? Đời trước vị ấy là một Bà-la-môn giàu có, nhiều của cải. Vị ấy thiết lập trai hội ở nơi sang trọng, cúng dường đồ ăn, thức uống và tài vật cho những người đáng tôn trọng. Do nghiệp này, vị ấy được làm vua Đế Thích tên là Kiều-thi-ca. Mặt khác, do trước kia vị ấy đã tạo vô lượng phước đức nên làm Đế Thích là Kiều-thi-ca.

Lại nữa, trên vách ở nơi khác của tháp Phật, Thiên chúng ở vùng đất có đầy đủ cây cối thuộc trời Dạ-ma thấy chỗ của Đế Thích ở cõi trời ấy có oai lực thuyết pháp của Phật Thích-ca Mâu-ni, khiến Đế Thích ấy đóng cửa đường ác. Ở cõi trời thoái đọa rồi, vị ấy sinh ở trong loài người đến bảy lần như thế. Thấy hành vi đạo đức như vậy rồi, chư Thiên nơi cõi trời Dạ-ma sinh tâm thán phục.

Trên vách ở nơi khác của tháp Phật, ta thấy đường ác mà tất cả vua trời Đế Thích phải sinh vào, chỉ không thấy đường ác của Đế Thích Kiều-thi-ca. Vì sao?

Bấy giờ, tất cả Thiên chúng bạch với Thiên chủ Mâu-tu-lâuđà:

–Đường ác của tất cả Đế Thích khác đều được thấy. Vì sao không thấy đường ác của Đế Thích Kiều-thi-ca? Vì sao thấy vị ấy chỉ lên xuống bảy lần chớ không phải tám lần?

Nghe hỏi xong, Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà nói:

–Các ông hãy chú ý, ta sẽ nói cho các ông nghe về con đường của Kiều-thi-ca. Vì ta muốn nói cho các ông nghe lý do này nên đã dẫn các ông vào tháp Phật. Vào tháp rồi, ta sẽ nói chánh pháp cho các ông nghe. Vì sao? Vì tất cả các ông đều sống phóng dật. Do dục lạc cõi trời lừa dối, tâm bị ngu si mê muội, không nghe chánh pháp. Vì thế, để tạo lợi ích cho các ông, ta đã dẫn các ông vào trong tháp Phật, khiến các ông lìa bỏ kiêu mạn. Các ông sống phóng dật, làm đời này trôi qua một cách vô ích, về sau tâm sẽ hối tiếc. Do nhân duyên ấy, ta khuyên các ông hãy nghe chánh pháp. Vì sao ở đây thấy Kiều-thi-ca chỉ sinh ở hai đường: trời, người mà không sinh vào cõi ác và lại không sinh đến lần thứ tám? Trong tháp Phật ta không thấy Kiều-thi-ca sống phóng dật, làm việc phóng dật. Khi mạng sắp hết, nghiệp lành hết, tướng thoái đọa xuất hiện, có Thiện tri thức nói với vị ấy:

–Này Kiều-thi-ca! Tướng thoái đọa của ông đã hiện ra, muốn hủy hoại tâm thanh tịnh của ông. Ông hãy tự làm lợi ích cho mình.

Sau khi nghe nói như vậy, Kiều-thi-ca thưa:

–Xin hãy chỉ dạy cho con, khiến con nghe pháp để không bị thoái đọa khỏi nơi này.

Bấy giờ, tiên nhân Thiện tri thức nói với Kiều-thi-ca:

–Này Kiều-thi-ca! Hãy lắng nghe! Có phương tiện lành khiến ông không bị thoái đọa khỏi nơi này. Cõi Diêm-phù-đề có Phật xuất thế tên là Cam Giá, sinh trong dòng họ Dận, thấy biết hết thảy, thấy tất cả nghiệp quả, dạy cho mọi chúng sinh con đường chánh. Bậc Vô thượng pháp vương sẽ nói pháp cho ông, khiến ông không bị thoái đọa khỏi cõi này.

Sau khi nghe Thiện tri thức nói như vậy, để được nghe pháp, vị ấy vội vàng đến gặp Đức Thế Tôn ở cõi Diêm-phù-đề. Trong khoảnh khắc, Kiều-thi-ca đến gặp Đức Thế Tôn, được Thế Tôn thuyết cho nghe chánh pháp để an ủi, nghe rồi được lợi ích, được thấy thành Niết-bàn. Pháp mà Phật thuyết giảng đầu, giữa, cuối đều thiện. Nghĩa thiện, ngữ thiện, phạm hạnh đầy đủ, thanh tịnh và rõ ràng. Đó là pháp khổ, nguyên nhân dẫn đến khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ. Đức Phật nói bốn Thánh đế: khổ, tập, diệt, đạo.

Nghe xong, Kiều-thi-ca hỏi Đức Thích-ca Mâu-ni:

–Thưa Đại tiên Cồ-đàm, nay con gặp chướng ngại là tướng thoái đọa đã hiện, không bao lâu nữa con sẽ thoái đọa khỏi nơi này.

Sau khi Kiều-thi-ca hỏi, Đức Phật đáp:

–Này Kiều-thi-ca! Đúng vậy! Tướng thoái đọa đã hiện như ý ông nghĩ. Sự chướng ngại của ông là do nghiệp lành đã hết, do ông sống phóng dật và bị tham ái chi phối thân tâm ông. Ông sắp sinh chỗ khác ở trong đồng vắng, sinh tử bao la không thể vượt được, không thể đến bờ kia. Tất cả phàm phu ngu si ở thế gian do không đủ sức nên phải chịu chướng ngại như: sinh, lão, bệnh, tử, kêu khóc, buồn khổ, không thể đạt được những việc ưa thích, xa lìa người mình thương, phải gặp kẻ mình ghét, rắn độc, sư tử đủ loại đáng sợ đầy trong đồng vắng ấy, bị mặt trời đốt, ngu si tối tăm, dục nhiễm tràn đầy để làm chướng ngại kẻ phàm phu ngu si ở khắp các cõi. Họ bị vô lượng trăm ngàn rừng cây phân biệt làm chướng ngại, ngăn che, không có nước chánh pháp để uống, xa lìa Thiện tri thức, là người dạy cho đường chánh, có nhiều ngoại đạo tà kiến, với ý tà chỉ cho họ đường tà. Những người này ở đầy đồng trống không thể lìa bỏ. Nơi đời trước, đời sau, ở giữa và gần xa, cái khổ trong năm đường khiến mình không thể chịu được. Nỗi khổ tối tăm che khắp mặt đất. Này Kiều-thi-ca! Tuy tâm sinh sợ hãi nhưng không thoát được đồng trống sinh tử ấy. Từ trước đến nay, ông tham đắm dục lạc nên không giác ngộ. Nay do dục lạc đã hết, ông mới thức tỉnh. Giờ thoái đọa đã đến, dục lạc không cứu được. Giờ thoái đọa đã đến, ông phải sinh nơi khác.

Sau khi nghe Phật nói, Kiều-thi-ca bèn sửa lại y phục, cởi bỏ thiên quan ở trên đầu, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi qua một bên rồi bạch với Đức Thế Tôn:

–Có phương tiện nào khiến con không bị thoái đọa khỏi cõi này và trở lại sinh làm vua cõi trời Tam thập tam không?

Đức Phật bảo:

–Ta có phương tiện khiến cho ông không bị thoái đọa. Vì sao? Ta đã thấy là không có người nào khác có thể quyết định tạo nghiệp để sinh ở nơi này, ngồi ở chỗ ngồi của ông, làm vua cõi trời Tam thập tam. Ta thấy ông sẽ ngồi lâu dài ở chỗ ngồi này. Ta thấy có nhân duyên khiến ông không bị thoái đọa, đó là được nghe ta thuyết pháp.

Nghe Phật dạy xong, Kiều-thi-ca chắp tay trên trán, sinh tâm hoan hỷ bạch với Phật:

–Cúi xin Thế Tôn chỉ dạy cho con. Con sẽ chú ý lắng nghe.

Sau khi Kiều-thi-ca thưa như vậy, Đức Phật giảng dạy về vị ngọt của dục, tai họa của dục, sự xuất ly khỏi dục lạc và giảng rộng khế kinh thù thắng.

Nghe xong, Kiều-thi-ca liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Đã đắc quả rồi, Kiều-thi-ca tuần tự vãng sinh, đời sống giảm dần, lấp các đường ác. Do đó trên vách tháp Phật, Thiên chúng trời Dạ-ma không thấy nơi tái sinh lần thứ tám của Kiều-thi-ca. Do vua Đế Thích ấy thành tựu Niết-bàn nên chỉ tái sinh bảy lần chớ không tái sinh đến tám lần.

Do nhân duyên này, ta đã chỉ dạy rõ cho Thiên chúng các ông. Bấy giờ, Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà nói kệ:

Dục không phải tài vật
Do nó không lợi ích
Giới tín là của quý
Dẫn đến quả Niết-bàn.
Dục chẳng phải tài vật
Vì khiến sinh các cõi
Nếu khiến thoát khỏi dục
Mới đúng là tài vật.
Ai không vượt nẻo ác
Hoặc ưa thích ồn ào
Người ấy do ngu si
Không của cho là của.
Vật được nói là vật
Dục chẳng phải là vật
Nếu như lìa bỏ dục
Sẽ được vật chân thật.
Nếu nói đường tịch tĩnh
Ấy là đường bậc nhất
Con đường thù thắng ấy
Người trí có thể đến.
Nếu ai không gần dục
Hoặc không bị ái lừa
Sẽ đi con đường lành
Không gần với lửa dục
Dục thường không thể đủ
Dục không phải tịch tĩnh
Hòa hợp với tham ái
Như lửa hừng gặp củi.
Trời, người hoặc là rồng
Không biết đủ liền mất
Bị lửa địa ngục thiêu
Mất chính là thoái thất.

Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà đem vô lượng pháp như vậy dạy cho Thiên chúng để ủng hộ, cứu giúp họ. Bấy giờ, Thiên chúng hết sức nhàm chán dục. Nhàm chán dục rồi, họ lại bạch với Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà:

–Thưa đại Thiên vương, chúng con đã quán thấy đời vị lai của họ, các đường họ phải sinh. Nay lại tự quán đời vị lai của con sẽ sinh đường nào?

Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà đáp:

–Nên quán như vậy.

Nghe rồi, trên vách ở nơi khác trong tháp Phật, Thiên chúng quan sát thấy địa ngục mà trời Dạ-ma thoái đọa là Hoạt, Hắc thằng, Hợp, Hoán, Đại hoán, Nhiệt, Đại nhiệt… Thấy vô lượng loại đọa địa ngục ấy có đầu ở dưới đất. Những người bị đọa ấy có người buông hai cánh tay nhưng vị ấy chưa mất thân trời, dự kiến sẽ sinh ở địa ngục như vậy.

Trên vách cũng cho thấy: Thiên chúng ở cõi trời, khi nghiệp hết, Thiên chúng ở cõi trời bị đọa vào địa ngục ấy, thân thể chín nhừ, nằm trên đất sắt nóng, có vô lượng quạ và chim thứu đầy trên đất đó. Nơi ấy có vô lượng sự đáng sợ, cát nóng trải khắp mặt đất. Chúng sinh nơi địa ngục bị thiêu đốt rất dữ dội. Vị trời ấy bị đọa xuống địa ngục, đầu ở phía dưới. Sự thọ khổ như vậy là sự khổ duy nhất, là sự khổ vững chắc nhất gồm vô lượng loại. Vị ấy chịu các khổ não, bị quan cai ngục la mắng đủ thứ. La mắng rồi, lại tạo đủ loại khổ. Các vị trời ấy đều thấy thân mình chịu khổ như vậy.

Thấy như vậy rồi, trên vách ở nơi khác trong tháp Phật, Thiên chúng lại thấy trong quá khứ, Thiên vương Dạ-ma ở trong địa ngục chịu vô lượng loại khổ não nghiệt ngã, xấu xa, bị dục làm loạn tâm, do trước kia ưa cảnh giới đã từng bị hủy hoại nên tạo các nghiệp ác.

Họ tạo nghiệp thế nào và có tướng gì? Quan cai ngục đều nói cho họ nghe đủ hết. Xưa kia, do tham cảnh giới họ đã tạo nghiệp ác. Nay việc thọ hưởng này cũng như việc thọ hưởng của các Thiên vương Dạ-ma trong quá khứ. Tên của họ là Đại Nghiệp, là Cụ Túc Chúng Hiền, là Oai Đức, là Bất Hoại, là Ý Lạc, là Thiện Sắc, là Phổ Lạc. Các Thiên chủ Dạ-ma này đọa vào bảy địa ngục và thọ nhận quả báo theo nghiệp thiện hay bất thiện. Họ đã thọ hưởng cái vui cảnh giới lớn nhất, tâm chưa biết chán, bị tham ái hủy hoại nên thoái đọa như vậy.

Người có nghiệp nặng ấy xưa đã làm gì mà được sinh lên trời Dạ-ma? Họ làm trời Dạ-ma là do xưa kia làm người họ đã dùng tâm tin tưởng trong sạch cúng thức ăn cho bậc Duyên giác. Do duyên ấy, khi chết họ được sinh vào đường lành là cõi trời Dạ-ma, làm Dạ-ma vương. Ở cõi trời ấy, họ thọ vô lượng dục lạc của cảnh giới chưa biết chán biết đủ. Khi thoái đọa khỏi cõi trời ấy, do xưa kia đã trộm cắp nên họ đọa lại địa ngục Hắc thằng. Vào đời trước, họ đã từng làm thầy thuốc, không trị đúng bệnh cho bệnh nhân để lấy của cải của họ, do nghiệp ác này nên họ sinh vào địa ngục Hắc thằng.

Quán nghiệp trong quá khứ của Thiên vương Dạ-ma thứ nhất rồi, kế đó lại quan sát nghiệp thiện và ác của vị thứ nhì. Do nghiệp gì vị ấy sinh vào trời Dạ-ma, làm vua trời Dạ-ma?

Trên vách ở nơi khác của tháp Phật lại xem thấy vào đời quá khứ, với tâm thanh tịnh vị ấy đem tài vật của mình bố thí cho Tỳkheo bệnh để xông ướp tâm. Do nhân duyên này, khi chết vị ấy sinh trong đường lành là cõi trời Dạ-ma và làm vua trời. Sau đó, vị ấy lại lênh đênh trên sông cảnh giới. Do hết nghiệp lành, vị ấy thoái đọa vào đại địa ngục Kêu gào. Đời trước, khi làm người, họ làm chủ đất giàu có sống phóng dật, sinh tâm kiêu mạn. Có người đi đường rất khát, mồ hôi nhỏ giọt, người chủ đất thấy vậy liền đem rượu mía cho người kia uống. Do uống rượu, người ấy mất sự tự chủ, liền phạm giới, đánh mất sự tự lợi ích. Do nghiệp bất thiện là cho người kia uống rượu nên khi chết, vị ấy bị đọa trong địa ngục Kêu gào.

Quan sát việc gây nghiệp ác của Thiên vương Dạ-ma thứ hai rồi, chư Thiên ấy thấy tất cả pháp hữu vi sinh tử không khác gì lửa, họ nói với nhau:

–Đại Thiên vương đã chỉ cho chúng ta quả báo tương ưng với nghiệp thiện hay bất thiện. Nay lợi ích ta có được nhờ Thiên vương này không khác gì lợi ích mà ta có được nhờ cha mẹ.

Sau khi chư Thiên nói với nhau như vậy, trên vách báu ở nơi khác trong tháp Phật lại hiện ra hình ảnh mà Phật Ca-na-ca Mâu-ni dùng thần lực hóa ra. Đó là hình ảnh trời Thiên vương Dạ-ma tên là Oai Đức. Do duyên gì mà vị ấy sinh ở cõi trời Dạ-ma, làm Thiên vương? Vào đời trước, lúc làm người, vị ấy không làm hại người khác để được của cải. Chỗ nào tối tăm mà có thuyết pháp thì vị ấy đốt đèn để chiếu sáng cho Phật, Pháp, Tăng. Do nhân duyên đó, khi chết, vị ấy sinh vào cõi trời Dạ-ma, làm Thiên vương tên là Oai Đức, làm vua trong một thời gian lâu dài. Đã làm vua rồi, tùy theo tuổi thọ, khi chết, vị ấy lại sinh vào trời Tứ Thiên vương. Ở đó thoái đọa rồi, lại sinh vào cõi Uất-đan-việt. Sau khi thoái đọa khỏi cõi đó, vị ấy lại sinh vào cõi trời Tam thập tam. Khi thoái đọa khỏi cõi đó, vị ấy sinh vào cõi Diêm-phù-đề, được làm vua loài người, có oai đức lớn, có thần thông lớn. Sinh ở cõi ấy rồi, do sống phóng dật, bị dục lừa dối, do tâm lay động, họ tạo ba nghiệp ác là sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Do tạo nghiệp ác như vậy, khi chết bị đọa vào địa ngục Thiêu đốt, nóng không thể tả, có vô lượng trăm ngàn nghiệp nhân của địa ngục khác nhau nên họ phải chịu các khổ não ở trong địa ngục, bị giặc tâm lừa dối như vậy.

Bấy giờ, Thiên chúng lại thấy ở trong cõi trời có vô lượng sự đầy đủ, lại thấy sự thoái thất hoặc vui, hoặc khổ. Thấy như vậy rồi, họ bèn nói kệ cho nhau nghe:

Ác lại chồng thêm ác
Sức mạnh thật không lường
Tâm si tạo nghiệp này
Sẽ đọa vào địa ngục.
Nghiệp do tâm sinh ra
Là duyên sinh các cõi
Ai bị si phá hoại
Đều trôi lăn chịu khổ.
Đủ loại khổ rất lớn
Phiền não không chịu được
Nghiệp trói tại thế gian
Mà không sinh chán mệt.
Trời đọa, sinh làm người
Người chết vào địa ngục
Kế đó sinh súc sinh
Thoát súc sinh, sinh quỷ.
Ở trong bánh xe nghiệp
Gió nghiệp thổi thế gian
Trôi lăn trong thế gian
Do si không hay biết.

Thiên chúng ở vùng đất có đầy đủ cây cối ấy nói cho nhau nghe về sự hóa hiện như thật của Phật Ca-na-ca Mâu-ni, về vô lượng loại nghiệp được thấy rõ trên vách tháp Phật. Quán nghiệp ấy rồi, kế đó họ lại quan sát nghiệp thiện hay bất thiện gồm vô lượng loại.

Ở trên vách nơi khác trong tháp Phật, lại thấy Thiên vương Dạma Thiện Sắc. Do nghiệp gì vị ấy sinh ở cõi trời Dạ-ma làm Thiên vương? Lúc làm người, vị ấy sinh trong dòng họ Bà-la-môn, giữ vững chánh kiến, không làm não hại người, khéo giữ gìn giới luật. Vị ấy đem nhiều đồ ăn, thức uống thơm ngon, tinh khiết cho người đang bị nhốt trong ngục chịu nhiều khổ não, người không có ai để nương tựa, hoặc người đói khát vào lúc mất mùa. Hoặc là ngày trai, hoặc chẳng phải ngày trai, vị ấy đều dùng tâm thanh tịnh để thọ giới, trì giới. Vị ấy cứu người bị trói buộc, khiến được giải thoát. Hoặc là dùng vật để mua chuộc khiến họ được giải thoát. Do những nhân duyên ấy, khi chết vị ấy sinh vào đường lành là trời Dạ-ma, làm Dạ-ma vương tên là Thiện Sắc. Suốt một thời gian dài, vị ấy làm Thiên vương có đủ oai đức lớn, có thần thông lớn.

Làm vua ở cõi ấy rồi, khi thoái đọa, vị ấy lại sinh vào cõi trời Tam thập tam, thọ hưởng vô lượng diệu lạc lớn. Đến lúc nghiệp hết, thoái đọa khỏi cõi trời Tam thập tam, sinh làm A-tu-la, thân thể rất lớn, có thần thông lớn. Khi hết nghiệp A-tu-la, vị ấy sinh trong nhân gian làm trưởng giả, có oai đức lớn. Khi hết nghiệp làm người, vị ấy sinh vào xứ Cù-đà-ni. Khi hết nghiệp ở cõi đó, vị ấy lại sinh ở biên địa của loài người. Do tâm khinh động, vị ấy trở lại sát sinh, săn bắn các thú vật, giết hại nhiều loài bằng dao hay cung tên. Do nghiệp này, khi chết vị ấy sinh trong địa ngục, bị lửa dữ ở địa ngục thiêu đốt. Do tạo nghiệp ác, vị ấy chịu vô lượng loại khổ não khắt khe.

Thiên chúng ở vùng đất có đầy đủ cây cối quan sát nghiệp báo như vậy rồi, lại thấy vô lượng loại nghiệp thiện, ác khác nhau. Thấy như vậy rồi, lại đến chỗ khác của tháp Phật để xem hình ảnh do Phật Ca-na-ca Mâu-ni hóa hiện ở trên vách. Đến đó rồi, họ lại thấy việc kỳ lạ khác ở trên vách tháp: Đời trước đã từng có Thiên vương Dạma tên là Phổ Lạc. Do nghiệp gì vị ấy sinh vào cõi trời này làm Dạma vương?

Họ thấy: Vào đời trước, lúc làm người, vị ấy có ý thiện, thường lễ lạy sư trưởng, tâm sinh kính trọng. Lúc gặp, liền đứng dậy xá chào, cúng dường. Hoặc do nghiệp khác là quét đất nơi tháp Phật. Quét xong, lại sửa, trám những chỗ lở, rải hoa, đốt hương. Trong tất cả các thời thường cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn theo khả năng của mình, thường cấp phát cúng dường cho người bệnh, hoặc bậc Ana-hàm với tâm tịnh tín. Do nghiệp lành của việc cúng dường như vậy, khi chết vị ấy sinh vào đường lành là cõi trời Dạ-ma, làm Thiên vương tên là Phổ Lạc, thân thể đều vui. Ánh sáng thân ấy có đủ loại sắc khiến người khác thấy sinh tâm vui. Ánh sáng ấy an ổn, trong mát, chiếu khắp năm trăm do-tuần. Ánh sáng này thù thắng hơn sắc đẹp của tất cả vật báu. Vẻ đẹp trang nghiêm vi diệu của nó cũng hơn tất cả, không thể ví dụ.

Như ở cõi Diêm-phù-đề, ánh sáng mặt trăng là trang nghiêm, vi diệu nhất, cũng vậy, trong tất cả Thiên chúng ở trời Dạ-ma, Thiên vương Phổ Lạc có ánh sáng thù thắng nhất, có công đức nơi năm dục trong một thời gian lâu dài. Hưởng hết dục lạc rồi, thoái đọa khỏi cõi ấy, do oai lực của nghiệp còn sót lại, vị ấy sinh làm vua loài người ở cõi Diêm-phù-đề. Vị ấy làm vua một cách tự tại ở một vùng năm trăm do-tuần. Sinh nơi ấy rồi, do tâm khinh động, vị ấy săn bắn các thú vật. Do nghiệp ấy, khi thân hoại mạng chung, vị ấy bị đọa vào địa ngục Hoạt. Khi ra khỏi nơi đó, do lực của nghiệp còn sót lại, vị ấy sinh trong loài chim.

Các vị trời ấy đã thấy quả báo của nghiệp như vậy rồi, lại quan sát chỗ khác trên tháp Phật để tìm pháp hi hữu. Trên vách ấy lại cho thấy Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà sống thuận theo chánh pháp. Vị ấy không thường thân cận với dục lạc, thích thực hành chánh pháp và làm các việc lợi ích cho chúng sinh, biết rõ tất cả các nghiệp thiện, ác.

Đã thấy nghiệp rồi, vị ấy không sống phóng dật, tuy là Thiên vương nhưng không sống phóng dật.

Các vị trời quan sát nghiệp, quả báo của Thiên chủ Mâu-tulâu-đà rồi, mới nghĩ: “Đại Thiên vương này vốn do nghiệp gì được sinh ở cõi trời làm vua trời? Họ thấy vào đời trước, khi làm người, vị ấy tu tập pháp lành. Vào thời Đức Phật Nhiên Đăng, vị ấy được nghe pháp Phật. Nghe pháp rồi, vị ấy thâu giữ thọ trì, tư duy, tu hành theo pháp được nghe. An trụ như vậy, nghe như vậy rồi, cho đến trong một niệm, vẫn chưa bị tán loạn bao giờ, vị ấy xuất gia với lòng tin chân chánh, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y. Đã xuất gia rồi, ngay cả một điều ác nhỏ như hạt bụi vị ấy cũng rất ghê sợ và tu tập phạm hạnh. Do nhân duyên đó, khi chết, vị ấy sinh vào đường lành là cõi trời, làm Thiên vương ở cõi trời Tha hóa tự tại, có tên là Bất Hoại. Khi thoái đọa khỏi cõi trời đó, vị ấy sinh trong loài người làm Chuyển luân vương, làm vua bốn phương. Khi nghiệp này hết, vị ấy chết và sinh ở cõi trời Tứ Thiên vương. Ở cõi này thoái đọa, vị ấy sinh trong nhân gian và lại được làm vua cai quản một vùng đất rộng một ngàn do-tuần. Sau khi chết, vị ấy sinh làm vua ở cõi Phất-bà-đề, có thân thể rất thù thắng. Sau đó vị ấy lại sinh làm A-tu-la có thần thông bậc nhất và có thế lực lớn. Khi chết, vị ấy lại sinh làm trưởng giả rất giàu, thường tu pháp bố thí lớn nhất. Vị ấy trì giới nghiêm túc và có đủ trí tuệ. Sinh ở chỗ nào vị ấy cũng có đủ ba việc bố thí, trì giới và trí tuệ.

Khi hết nghiệp ở nơi ấy, do tu thí, giới, trí không ngừng nghỉ nên khi chết vị ấy sinh vào đường lành là cõi trời và làm vua cõi trời Dạ-ma có tên là Mâu-tu-lâu-đà. Do các pháp như vậy lần lượt nối tiếp nhau không dứt, do tâm thiện và khéo điều phục, do không sống phóng dật, nên các cảnh giới dục không hủy hoại được tâm vị ấy. Vị ấy làm lợi mình, lợi người và tạo vô lượng nghiệp lành. Do sống tùy thuận vị ấy có nhiều Thiên chúng và không bị lệ thuộc vào dục lạc.

Bấy giờ, Thiên chúng Dạ-ma mới nói kệ:

Sống thuận theo pháp lành
Sẽ thường gặp việc lành
Vô lượng ngàn ức kiếp
Không bị mất nghiệp thiện.
Trì giới ngày càng vững
Chuyên đào luyện trí tuệ
Mọi thời đều bố thí
Thường không dứt hệ niệm.
Tu hành thí, giới, trí
Trừ bỏ ba lỗi lầm
Do lìa bỏ lỗi ấy
Siêng tu tập công đức.
Tuy đầy đủ thiên dục
Cảnh giới vui không mất
Do không sống phóng dật
Nên không đọa địa ngục.
Thường không từ bỏ pháp
Sống thuận với chánh pháp
Ai không sống theo pháp
Là kẻ rất ngu si.
Người gần với giới pháp
Siêng năng tu tập trí
Sẽ diệt khổ các cõi
Như ánh nắng trừ tối.
Ai hay tăng trưởng pháp
Được trời, người lễ lạy
Sống ở chỗ đặc biệt
Cho đến nhập Niết-bàn.
Ai biết pháp như vậy
Tư duy đúng pháp tướng
Thì sẽ thoát các cõi
Và đến thẳng bờ kia.
Trí, nhẫn thường ái ngữ
Thương tất cả chúng sinh
Bố thí đủ loại vật
Đường này đến Niết-bàn.
Kẻ ác thì gần ác
Hoặc là gần biếng trễ
Tâm thô ác pháp tăng
Đi con đường địa ngục.
Gặp ai cũng đều vui
Gặp ai cũng đều giận
Nơi nơi đều tham đắm
Như vậy gọi là si.
Bị pháp ác mê hoặc
Lìa bỏ các pháp thiện
Do si vào địa ngục
Chịu các pháp khổ não.
Cầu thiện sống theo pháp
Thường xả bỏ dục lạc
Sống trong sạch giữa trời
Xứ Mâu-tu-lâu-đà.

Thiên chúng ở vùng đất có đầy đủ cây cối nơi cõi trời Dạ-ma nói với nhau về sự ưa thích cảnh giới mà sinh lo sợ, tất cả sự buồn khổ đều hiện cho thấy rồi lại cùng với Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà đến nơi khác của tháp Phật nhìn lên vách tháp xem Thiên vương Dạma Mâu-tu-lâu-đà cùng Thiên chúng khi thoái đọa khỏi cõi này sẽ sinh cõi nào và ở đường nào.

Bấy giờ, ở trên vách tháp, tất cả Thiên chúng đều thấy bản thân mình và Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà sau khi thoái đọa khỏi cõi trời thì sinh ở Diêm-phù-đề, tất cả đều ở vào lúc Đức Phật Di-lặc ra đời. Họ có đầy đủ các căn và đều sinh trong dòng họ lớn, làm bạn với nhau, sống chung trong một nước, yêu thích lẫn nhau, ở trong dòng họ lớn, đều rất giàu có, sinh trong dòng họ tôn quý. Trên vách tháp họ đều thấy tự thân Mâu-tu-lâu-đà ở cõi nước ấy sinh trong hàng vua chúa thuộc dòng họ lớn, giàu có, có uy lực lớn, được mọi người cúng dường, trăm ngàn ức bảo vật đầy nhà, sinh làm con trưởng trong dòng dõi vua chúa, có tên là Thiện Giới.

Bấy giờ, ở nơi ấy, Đức Phật Di-lặc thuyết pháp tịch tĩnh, hướng đến thành Niết-bàn. Đức Phật nói bốn Thánh đế đầy đủ công đức đầu, giữa, cuối đều thiện, nghĩa thiện, ngữ thiện, các pháp đầy đủ, trong sạch, rõ ràng. Pháp đó chỉ ra: Đây là sắc, đây là nguyên nhân phát sinh ra sắc, đây là sự diệt mất của sắc, đây là con đường dẫn tới sự hoại diệt của sắc.

Theo thứ lớp như vậy, Đức Phật lược nói về tổng tướng của thọ, tưởng, hành, thức, tất cả chúng sinh an ổn, xa lìa uế trược, hướng đến thành Niết-bàn không có chướng ngại và thuyết pháp như vậy cho các thế gian.

Khi ấy, vương tử Thiện Giới con đầu của nhà vua truyền cho mọi người nghe tin Phật Di-lặc sắp thuyết pháp. Nghe rồi, như đã nói ở trước, các đồng bạn do nghiệp nhân tu tập nghiệp thiện ở đời trước mới so lường suy xét, tất cả đều đến chỗ vương tử Thiện Giới. Cả thảy là hai vạn người đều gặp vương tử Thiện Giới và nói như ở trước.

Khi ấy, nghe họ nói xong, do nghiệp thiện cũ, Thiện Giới sinh tâm hoan hỷ, sinh tâm kính trọng, sắc mặt thanh tịnh. Tất cả đều hòa hợp cùng nhau đứng dậy đến gặp Đức Phật Di-lặc.

Những người này vây quanh Thiện Giới cũng như trời Tam thập tam thứ hai vây quanh Đế Thích. Trên đường đi, từ xa họ đã thấy Phật Di-lặc có ba mươi hai tướng đại trượng phu. Đức Phật rộng nói pháp vi diệu, để làm lợi ích cho tất cả hàng trời, người ở thế gian cùng với các Sa-môn, Bà-la-môn. Đức Phật nói pháp nhập Niết-bàn đầu, giữa, cuối đều thiện. Pháp ấy trong sạch giống như ao nước có thể dứt hết các khổ, có thể dứt trừ tất cả dây trói sinh tử để tuần tự tiến đến Niết-bàn và đã thuyết pháp như vậy. Bấy giờ chúng hội rộng lớn hơn biển và Đức Phật Di-lặc đang thuyết pháp trong ấy.

Khi đó, từ đằng xa, thấy Thiện Giới có nhiều người vây quanh, Đức Phật bảo đại chúng: “Đây là Thiên chủ Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà cùng với Thiên chúng Dạ-ma. Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà này tu tập phạm hạnh, trước đây đã gieo nhiều hạt giống pháp lành, nay căn lành đã chín, Thiên chủ Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà đã nới lỏng dây trói buộc, phần lớn các nghiệp bất thiện đều bị tiêu diệt, xả bỏ dục lạc, nay đã đến lúc dứt sạch các khổ.

Nghe Như Lai nói như vậy, họ sinh tâm hoan hỷ, sinh tâm kính trọng, xa lìa tất cả sinh tử. Dung quang của Như Lai rất là hiếm có không thể ví dụ. Mâu-tu-lâu-đà được thấy Đức Phật đáng kính rồi, bèn đảnh lễ dưới chân rồi đứng qua một bên, bạch với Thế Tôn: “Con đã mệt mỏi, chán nản việc trôi lăn trong thế gian sinh tử”.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thuyết pháp tùy theo căn cơ, có mười ngàn người thường gần vua, thường đi chung với vua, là bạn đồng hành trước đây được sạch hết lậu, hoặc, Thiên chủ Dạ-ma Mâu-tulâu-đà lần lượt thấy tất cả đời vị lai như Đức Thế Tôn Ca-na-ca Mâu-ni đã hóa hiện trên vách. Các việc hiếm có mà bậc Nhất thiết trí hóa ra gồm có vô lượng loại, các cảnh giới khác cõi trời, cõi ma và các Sa-môn, Bà-la-môn không thể thấy được ngoại trừ người gần gũi bậc Chân chánh, sống gần Như Lai, gần Thiện tri thức, trong việc ra khỏi sinh tử đó là điều tốt nhất.

Bấy giờ, tất cả Thiên chúng đều sinh tâm vui vẻ, sinh tâm kính trọng đối với Phật, Pháp, Tăng. Lúc này Thiên vương ấy cùng với Thiên chúng đảnh lễ Phật rồi ra khỏi tháp Phật.

Kinh thứ năm trong sáu kinh mà Đức Thế Tôn Ca-na-ca Mâuni hóa hiện ra đã nói xong.

Bấy giờ, Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà sinh tâm hoan hỷ, thấy tai họa của sự dục lạc liền sinh lo sợ. Thiên chủ cùng Thiên chúng quan sát lại vùng đất có đầy đủ cây cối. Thiên chúng ra đi một cách hoan hỷ. Nơi ấy có đủ hạng Thiên chúng, có nhiều khu vườn, ao sen đầy khắp, có vô lượng loại hoa sen nơi các ao, có đủ loại chim với âm thanh đáng ưa, người nghe âm thanh ấy liền thọ an lạc. Vùng đất có đầy đủ cây cối, có vô lượng trăm ngàn Thiên nữ, ca múa vui cười, nô đùa đủ cách, họ có đầy đủ vô lượng công đức, có cây bảy báu vi diệu trang sức khắp vùng đất ấy. Quả báo của tự nghiệp có các bậc thượng, trung, hạ. Tự nghiệp của Thiên chúng là ưa thích dục lạc. Ở khắp vùng đất ấy, họ là đồng bạn của nhau, không làm trở ngại nhau, tin tưởng lẫn nhau, có nhiều Thiên tử và Thiên nữ yêu mến nhớ nghĩ lẫn nhau, có nhiều con sông bên trong có nước uống mùi vị rất ngon, lại có đủ loại cung điện bằng châu báu vi diệu, có đủ màu đáng yêu và đầy đủ công đức nơi năm dục. Chúng được trang sức bằng các ánh sáng báu. Các bảo điện ấy tranh nhau phát ra ánh sáng thù thắng, như lửa luyện vàng, san hô, xa cừ.

Có nhiều ngọn núi và châu báu xanh trang điểm vùng đất ấy.

Vùng đất có đầy đủ cây cối được tô điểm đáng yêu như vậy.

Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà đã quan sát rồi bảo Thiên chúng: Thiên chúng các ông đã xem Thiên chúng ấy sống vui vẻ như vậy, đi chơi vui vẻ từ núi này đến núi khác, từ một ngọn núi đến một ngọn núi, ca múa vui đùa bằng năm loại âm nhạc. Các ông đều thấy Thiên chúng ấy rồi phải không?

Thiên chúng đã thấy đủ thứ ở tháp Phật, trả lời Thiên vương:

“Chúng con đã thấy”.

Bấy giờ Thiên vương Dạ-ma bảo Thiên chúng:

–Như Lai đã giảng nói theo căn cơ. Điều suy não trên cõi trời là: Chư Thiên sống phóng dật, khi mạng sắp dứt, nghiệp lành sắp hết, giờ thoái đọa sắp đến, quả báo của việc giữ giới sắp tan rã, hành nghiệp như huyễn hóa nhưng họ ngu si không biết, chư Thiên sống phóng dật không hay, không biết, bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vô lượng loại khổ suy não này và việc lưu chuyển trong sinh tử đều do nghiệp cũ. Vì sao? Đó là do trong cuộc sống, niệm niệm dời đổi không dừng lại và do nhiều nghiệp lực không thể lìa được.

Tất cả ba tướng hữu vi này do ba lỗi sinh, trụ, diệt nên có vô lượng các việc suy não. Nó không có một chút mùi vị vậy mà Thiên chúng không hay, không biết, tự cho là thú vui lớn. Niệm niệm gần kề với cái chết, giờ chết sắp đến, đã vào cửa chết mà họ không hay không biết. Như tất cả các pháp hữu vi này, niệm niệm không dừng, tất cả vật có mạng sống đều bị vô thường hủy hoại, biến đổi mau chóng trong vài năm.

Lúc thoái đọa, vị trời ấy mới hay biết khổ não, có vô lượng loại ân ái xa lìa.

Khi đó, đã thấy Thiên vương, Thiên chúng sinh tâm vui mừng, vội vàng trang điểm thân mình, Thiên y rủ xuống, họ dùng mũ báu, anh lạc, vòng hoa đẹp đẽ của chư Thiên để trang điểm nơi thân. Trong ánh sáng của tự thân có nhiều Thiên nữ trang sức đủ cách, bao gồm trăm ngàn người vây quanh Thiên tử. Họ vui chơi, ca múa, đủ loại âm nhạc và thọ hưởng niềm vui lớn nhất do nghiệp của mình. Sự trang sức rất đầy đủ như vậy gồm trăm ngàn loại màu sắc hướng đến Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà.

Thấy như vậy rồi, Thiên vương theo đó mà xem xét, liền đến gần hơn để xem họ vui chơi, thọ hưởng các dục lạc. Khi ấy, Thiên vương tùy thuận với tâm của họ nên tạm thời gia nhập, vui chơi hưởng dục lạc. Thiên vương đùa vui với Thiên chúng trong chốc lát. Các vị trời ấy động tâm, ưa thích dục lạc. Vui chơi rồi, họ đến ngọn núi khác có đủ loại san hô, các cây bằng vàng bạc, vô lượng loại màu sắc vi diệu, trang sức, gồm có vô lượng loại tiếng hót của các loài chim, có vô lượng loại ánh sáng chiếu rực rỡ, có vô lượng loại ý niệm phân biệt khác nhau, có vô lượng loại châu báu kỳ diệu tô điểm ngọn núi này. Thiên chúng đi đến ngọn núi như vậy. Đến ngọn núi rồi, tâm thích thọ vui, Dạ-ma chủ ấy cùng với chư Thiên đã từng thấy tháp Phật. Họ cùng đi với nhau, cùng đến vô lượng cảnh giới vui vẻ.

Bấy giờ, Thiên chủ Dạ-ma bảo Thiên chúng: Ta cùng các ông theo nhau mà đi, làm lợi ích cho chính mình, nếu xả bỏ cảnh giới mới được lợi ích, không xả bỏ cảnh giới thì không có lợi ích. Chúng ta quyết định tùy thuận hành theo Phật pháp cho đến rốt ráo, cho đến Niết-bàn.

Nói với Thiên chúng như vậy rồi, Thiên chủ Dạ-ma cùng Thiên chúng đi đến vùng đất có đầy đủ cây cối với tâm vắng lặng.

Đến nơi, họ ở trong một chỗ có đủ loại dòng nước, có ao sen vi diệu, có rừng hoa sen, có nhiều loại chim làm đẹp ao ấy, lại có đủ loại ong bằng châu báu trang sức nơi ấy, khắp nơi đều sáng rực.

Vùng đất đáng yêu ấy có tháp của vị Phật thứ sáu hiệu là Cadiếp. Thấy cảnh ấy rồi, Thiên chủ sinh tâm thán phục. Trong số ánh sáng của tất cả châu báu, ánh sáng của tháp Phật là hơn hết, nó vọt lên tận hư không, có đủ loại châu báu kỳ diệu trang sức. Ánh sáng của châu báu ấy hơn cả ánh sáng của trăm ngàn mặt trời. Ánh sáng ấy trong lặng khiến tháp Phật được thấy ở một nơi rộng rãi.

Khi ấy, thấy như vậy rồi, Thiên chúng bạch với Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà:

–Đây là ánh sáng của những thứ châu báu kỳ diệu gì mà giống như đã thấy lúc trước.

Sau khi nghe hỏi, Thiên chủ Dạ-ma bảo:

–Thiên chúng hãy lắng nghe, cái mà các ông đang thấy là ánh sáng thù thắng, vi diệu của đủ loại châu báu như đã thấy lúc trước. Đó là tháp của Phật Ca-diếp, bậc Thiên Trung Thiên, Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, là bậc Đại tiên thứ sáu. Tháp Phật này tạo lợi ích cho chư Thiên đã từng tu phạm hạnh, đã từng tu tâm tịnh. Trên vách báu trong tháp Phật này hóa hiện rõ ràng các hình ảnh để làm lợi ích cho chư Thiên, như các Đức Phật khác đã làm. Ta và chư Thiên các ông hãy sinh tâm kính trọng đối với chánh pháp của Phật để tự làm lợi ích.

Nói như vậy rồi, Thiên chủ Dạ-ma cùng Thiên chúng đi đến tháp Phật. Đến nơi, họ thấy đầy đủ các loại ánh sáng báu, vi diệu như đã nói ở trước.

Bấy giờ, Thiên chủ Dạ-ma cùng với Thiên chúng tiến vào tháp Phật liền thấy tượng Phật Ca-diếp. Tượng này làm bằng vàng Diêmphù-na-đà, có y phục bằng châu báu vi diệu và ánh sáng trùm khắp. Tượng Phật ngồi trên tòa Sư tử, làm bằng châu báu tỳ-lưu-ly, trông giống như đang thuyết pháp không khác. Tượng ấy có hình sắc đẹp không thể ví dụ. Thân sắc của chư Thiên so với thân sắc ấy cũng giống như lửa đom đóm so với ánh sáng mặt trời. Hình sắc, oai đức của Phật thù thắng vi diệu như vậy.

Thấy tượng Phật rồi, Thiên vương và Thiên chúng tâm rất vui mừng, kính trọng và tin tưởng sâu xa, kính cẩn đảnh lễ, cởi bỏ thiên quan, chuỗi anh lạc và các đồ trang sức. Họ xa lìa các sự kiêu mạn về sắc, chấm dứt sự ưa thích về sắc, lìa bỏ sự ngạo mạn về ánh sáng, tất cả kiêu mạn đều được xả bỏ. Tâm họ xa lìa sự cấu uế của dục, cung kính đảnh lễ sát chân Phật, dần dần lìa bỏ ngạo mạn, rồi trở lại đảnh lễ Phật. Lễ xong, tất cả Thiên chúng đều nhất tâm bất động.

Do nghiệp nhân, trên vách báu trong tháp Phật ở một góc nơi điện Phật, họ thấy có văn tự. Đó là kinh do thần lực của Phật hóa hiện ra để làm lợi ích cho hàng trời, người. Tất cả thế gian đều được lợi ích. Từng chữ, từng câu đều có nghĩa thiện, vị thiện, dạy cho chúng sinh con đường tuần tự tiến đến Niết-bàn. Đó chính là bậc đại Hòa thượng của tất cả người xuất gia.

Theo môn học về luật và kinh, Tỳ-kheo bị mười ba pháp làm ngăn ngại, khiến không thể tọa thiền, đọc tụng kinh luật, ngăn trở việc tự làm lợi ích và không thể đạt đến Niết-bàn.

Nên các Tỳ-kheo không xả bỏ mười ba pháp như vậy thì không thể thoát được bệnh, già, chết, kêu gào, than khóc, buồn khổ rầu rỉ, là kẻ thấp kém chẳng phải là người xuất gia chân thật, thân, khẩu, ý thường hành động không chân chánh, không siêng năng tinh tấn. Tỳkheo như vậy nếu thọ nhận tọa cụ, thuốc men, đồ dùng của người khác trong một ngày cũng không thể tiêu. Vật như vậy làm ngăn ngại mình.

Ngăn ngại có nghĩa là khiến thân gầy ốm, biếng nhác, lo sợ không hiểu biết điều gì. Người như vậy thì không thể vượt được sông lớn rất sâu và chảy xiết. Người này có thân thể gầy ốm, không thể làm việc, tâm không được điều phục, thường hay lười biếng. Người này không biết ngồi thiền, đọc tụng kinh luật, sợ sệt, không có trí tuệ, bị sự vô minh của chính mình che lấp, cho nên không thể vượt được năm sông ái dục. Do bám theo cảnh giới nên họ không thể vượt và bị cảnh giới làm trôi dạt trong sông ái. Bị trôi dạt trong sông ái rồi, họ trôi vào biển sinh tử, trôi lăn liên tục không có lúc dừng.

Mười ba pháp đó là gì? Đó là thích nói nhiều, diễn thuyết, trị bệnh, làm họa sĩ, nghe việc tà ác, ca ngâm tán tụng, xem xét tinh tú, coi tướng lành dữ, chỉ tham ăn uống và mong cầu các vật báu, gần gũi vua quan mong họ mời đến, không thưa hỏi người khác để mong được nhiều hiểu biết, ở cùng chỗ với điều ác…

Sa-môn nào vướng vào mười ba pháp này thì sẽ bị trở ngại trong việc tọa thiền, đọc tụng. Do sự trở ngại ấy, họ bị mất lợi ích hoặc chỉ còn lợi ích rất ít. Do bị mất lợi ích, họ sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Người xuất gia hư dối như vậy chẳng phải là xuất gia, cũng chẳng phải tại gia. Họ xả bỏ pháp lành và bị những người có phạm hạnh khinh rẻ. Họ chỉ có hư danh, giống như tiếng ốc, không nghe không biết về hạnh Niết-bàn, có nhớ nghĩ điều gì đều không được theo ý, các vị Thiên hộ thân bỏ họ mà đi.

Sự ngăn ngại đầu tiên làm trở ngại việc tọa thiền vì khiến tâm rất loạn động. Việc thích nói nhiều, diễn thuyết ban đầu thì dễ ưa về sau thì hối tiếc, khó chịu. Tất cả người xuất gia nên xả bỏ pháp nói nhiều này. Người thích nói nhiều, do nói nhiều nên tâm không được điều phục, không thể làm việc chân chánh, không thể trì giới, tâm thường loạn động. Do tâm loạn động nên có nhiều nghi ngờ. Người này thích gần kẻ ác. Kẻ ác ấy là tâm loạn động. Người này thường thích xem tài tử ca múa, từ nơi này đến nơi khác, từ xứ này đến xứ khác, đi chơi không nghỉ. Hoặc thành hoặc thôn, hoặc các xóm làng người này thường đi không nghỉ để xem các trò chơi của họ. Vào các ngày lễ hội vui chơi, người này thường đi dòm ngó khắp nơi, thường đến xem các nơi nhộn nhịp. Gần người như vậy để kết làm bè bạn theo sở thích của mình thì ý thường loạn động, thường thích nói năng không ngừng nghỉ cả ngày lẫn đêm. Ý người ấy rối loạn không nghe không biết. Người ấy thường bị các bạn đồng phạm hạnh khinh rẻ. Khi biết người khác khinh rẻ, người ấy nổi giận đối với những người trì giới. Do nghiệp này, khi chết, người ấy bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Lại nữa, người thích nói nhiều ấy lại có lỗi lớn. Tỳ-kheo ác ấy chưa từng nghe pháp nhiều, phá hủy giới cấm, thích nói nhiều, tự cao, khinh động, tuy gặp Phật rồi nhưng tâm không biết hổ thẹn. Do không hổ thẹn nên không cung kính Phật. Vì vậy Đàn-việt không kính trọng người này. Do bị người khác khinh rẻ nên người ấy xả giới, hoàn tục.

Người thích nói nhiều ấy lại có tai họa lớn. Tai họa đó là gì?

Đó là do thích nói nhiều mà lại dạy người xuất gia khác bỏ chánh pháp. Người ấy tự phá hoại, lại hay phá hoại người khác. Do phá hoại cả mình lẫn người nên người ấy mang tiếng xấu. Tiếng xấu ấy vang xa khắp bốn hướng. Chúng Tăng biết việc ấy nên xua đuổi, từ bỏ. Các Tỳ-kheo khéo trì giới sợ người ác này khiến họ phạm sai lầm nên tất cả đều xả bỏ Tỳ-kheo ấy và gọi Tỳ-kheo ấy là tri thức ác. Tỳ-kheo ấy bị các Tỳ-kheo đồng phạm hạnh chê khinh như vậy.

Lại nữa, người thích nói nhiều ấy, lại có lỗi lớn nói đủ thứ chuyện mà trước đây đã nghe. Tâm họ ưa thích và cho là vui. Đã được nghe rồi, Sa-môn ác ấy sinh tâm rất vui. Do tâm vui, người ấy tin các điều phi pháp, tin cái nghĩa phi pháp, pháp cho là phi pháp, phi pháp cho là pháp. Người này cũng tin tưởng những người hành phi pháp khác. Do ưa thích nói nhiều, người này liền rơi vào tà kiến. Do tà kiến người này nói vọng động. Do nghiệp ác đó, khi chết người này bị đọa vào đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Từ lỗi lầm thích nói nhiều này lại có nhiều tai họa.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Ca-diếp Như Lai nói kệ:

Nói nhiều lời thêu dệt
Hay khiến tâm ý loạn
Làm hư hoại phạm hạnh
Ngăn ngại đường Niết-bàn.
Ai thường thích nói nhiều
Hèn hạ không giữ giới
Người ấy thường xả bỏ
Việc kiến đế tọa thiền.
Không điều phục là gốc
Khiến mất hết niệm lành
Cũng hay mất phạm hạnh
Bế tắt đường Niết-bàn.
Hay ngăn trở Thiên đạo
Lại hay mở đường ác
Khiến vào đường ngạ quỷ
Và vào đường súc sinh.
Cho nên việc nói nhiều
Chính là mẹ sinh tử
Tỳ-kheo nào thiền, tụng
Muốn an ổn phải bỏ.

Đức Phật Ca-diếp đã nói việc thích nói nhiều có lỗi lầm lớn như vậy.

Kế đến lại nói về công đức có được nhờ không nói nhiều. Đó là Tỳ-kheo khéo giữ tâm ý ngay thẳng, chỉ thích chánh pháp, chỉ biết chánh pháp, ăn nói ngay thẳng, chỉ nhớ nghĩ chánh pháp, tư duy về chánh pháp, chỉ thực hành chánh pháp và thường xuyên lễ Phật. Hạng Tỳ-kheo này có thể thấu suốt những chỗ mà họ chưa từng gặp. Nhờ xả bỏ việc nói nhiều nên họ chỉ hành động chân chánh, sợ hãi sinh tử. Lời nói của người này có đưa đến kết quả, đó là lời nói của những người chỉ nói bốn Thánh đế. Thân người ấy làm việc rất chăm chỉ. Thân người đó có kết quả, đó là siêng năng lễ bái Phật, Pháp, Tăng. Ý của người đó cũng có kết quả. Ý thường tư duy về tự tướng và tướng tương tợ. Kết quả của ba loại siêng năng như vậy là tiến gần đến Niết-bàn.

Nếu người nào dùng tất cả phương tiện, nỗ lực để xả bỏ việc nói nhiều, xa lìa, không thường gần gũi tri thức ác thì tâm sẽ ngay thẳng, không loạn động. Người nào làm được ba việc sau thì sẽ đến Niết-bàn. Ba việc đó là gì? Đó là quán hơi thở, quán bất tịnh và quán vô thường, hư hoại. Tất cả các việc này nếu giữ tâm ngay thẳng thì có thể đạt được, nếu tâm không ngay thẳng, thích nói nhiều, tâm không có chánh niệm thì sẽ ngăn ngại ba việc này. Đó chính là nẻo ác dẫn vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Chúng sẽ trói buộc người dẫn vào đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Chúng sinh này bị việc nói nhiều lừa dối cho nên thích nói nhiều, việc nói nhiều như chất độc, như dao, như lửa, như rắn, như rớt từ bờ hiểm. Tỳ-kheo có trí tuệ, ngồi thiền, đọc tụng phải thường xả bỏ việc này.

Việc nói nhiều ấy hay lừa dối nhiều người khiến bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu do dư nghiệp được sinh làm người thì người ấy làm người thường ca múa, vui chơi, nhảy nhót, lực sĩ, ca kịch, ca hát đủ loại, đi xin ăn bên cửa nhà người khác ở khắp nơi hoặc là đi buôn bán kiếm lời để sinh sống, hay là bị mù lòa phải đi xin ăn ở nơi chợ quán, hoặc các đường phố có nhiều người. Ai thích nói nhiều sẽ bị rắn độc cắn. Ai thích nói nhiều sẽ bị lửa lớn thiêu đốt. Ai rơi vào chỗ nguy hiểm là thích nói nhiều, như vậy sẽ bị nọc độc nói nhiều châm chích.

Người ngu si thích nói nhiều này bị tất cả làm mê hoặc. Tất cả sự mê hoặc là do nói nhiều. Việc thích nói nhiều là đống mờ ám lớn. Người sợ con đường ác thì phải xả bỏ việc nói nhiều. Xả bỏ rồi siêng năng tu hành theo thứ lớp liền được thấy đạo.

Vì vậy ta phải làm như vầy: Ở nơi vắng vẻ im lặng, không có các âm thanh làm trở ngại, không có tiếng gọi đáp, tiếng ca, tiếng trống, ở nơi tu tập mặt trời trí tuệ, nơi hang núi gốc cây, nơi phước đức không có âm thanh làm chướng ngại, ở một mình không có người nào khác, ngồi yên một chỗ, gom tâm giữ chánh niệm, diệt trừ ma phiền não. Phải khéo léo làm như vậy để điều phục tâm, khiến tâm tịch tĩnh xa lìa tất cả việc nói nhiều.

Tất cả anh em, bè bạn đến thăm ta đều phải lìa bỏ việc nói nhiều, tâm không mong cầu họ tới thăm, chỉ thích ở một mình, thường ngồi thiền, đọc kinh, xa lìa bốn sự điên đảo để được an lạc. Mười sáu pháp quán sổ tức họ đều biết và thực hành một cách siêng năng không kể ngày đêm nhờ vậy có thể thoát được dây trói sinh tử. Ai làm được như vậy thì có thể đến được nơi thù thắng. Nếu người nào chưa được thấy chỗ thường an ổn thì phải lìa bỏ việc nói nhiều. Người có trí tuệ, tâm ý khéo léo, tu hành vững chắc làm Sa-môn, lìa bỏ biếng nhác phải xa bỏ một pháp này đó là việc thích nói nhiều.

Lại nữa, phải đoạn trừ pháp chướng ngại thứ nhì, đó là pháp không nên làm vì nó dẫn đến việc sát sinh. Pháp thứ hai đó là gì? Đó là Tỳ-kheo làm thầy thuốc trị bệnh không thể tọa thiền, không thể đọc tụng. Tỳ-kheo hành nghề thầy thuốc đi đường khác, làm việc khác với đạo, thường tìm kiếm bệnh nhân, thường mong cầu trị bệnh. Người làm việc này lòng tham tăng trưởng rất lớn. Do tâm tham ấy người này thường tư duy: “Mong chúng sinh có nhiều bệnh, có vô lượng loại bệnh và các chúng sinh bệnh đó sẽ cúng dường thật nhiều cho ta, đem nhiều tài vật cho ta. Vì vậy ta phải làm việc ở nơi đông người, để thường thọ hưởng dục lạc từ thôn đến thôn, từ thành đến thành, từ biên địa đến biên địa”.

Đã suy nghĩ vậy rồi, lòng tham của Tỳ-kheo ác ấy càng thêm tăng trưởng. Khi lòng tham đã tăng trưởng, trong tâm Tỳ-kheo này sinh ra chất cấu uế, không thể ngồi thiền, không thể đọc tụng và không thể làm việc lành.

Lại nữa, việc trị bệnh có lỗi cấu uế là Tỳ-kheo ấy tự làm hoen ố địa vị Tỳ-kheo. Nếu các chúng sinh nào có bệnh hoạn, Tỳ-kheo ác ấy bảo người giữ thuốc hãy mau đem dầu đến. Nếu không có dầu thì ép mè. Do ép mè nên làm chết nhiều trùng. Đó chính là tội lỗi của việc trị bệnh. Người này làm Sa-môn một cách hư dối, chỉ có miệng tự nói ta là Sa-môn nhưng thật ra chẳng phải là Sa-môn.

Lại nữa, gặp người bệnh thì họ dạy người nuôi bệnh lấy thịt cho người bệnh ăn và dặn là phải lấy thịt mới giết, không dùng nhiều thịt mỡ, không dùng thịt của con vật tự chết, không dùng thịt của con vật chết vì bệnh, không dùng thịt của con vật chết vì chất độc, không dùng thịt của con vật chết vì rắn cắn, không dùng thịt khô, không dùng thịt của con vật gầy ốm. Họ dạy như vậy. Do được dạy như vậy, người kia liền sát sinh. Do sát sinh nên bị mắc tội sát sinh, hoặc dạy người sát sinh, hoặc tự sát sinh, hai hạng người ấy đều đồng một nghiệp sát sinh bị đọa vào địa ngục Hoạt. Vì vậy không nên do tâm tham mà làm nghề trị bệnh.

Tỳ-kheo làm nghề trị bệnh lại có tội lỗi là: Tuy có thể nói ta là Sa-môn nhưng thật ra là kẻ cướp lớn, là người rất ác. Vì chúng sinh bị đau bệnh, họ đi khắp nơi để thu nhặt các loại thuốc, hoặc là cành cây, hoặc là trái cây. Để có tài vật, họ thu nhặt tất cả. Các loại thuốc ấy đều chứa trùng, là chỗ nương của trùng, trùng ở đầy khắp trong đó. Do tâm tham, muốn được tài vật họ đào dưới đất lên để lấy hoặc cắt để lấy. Do đào để lấy thì họ giết trùng dưới đất hoặc phá nơi ở của trùng ấy. Nếu cắt để lấy thì giết trùng ở bên trong hoặc khiến trùng ở nơi đó chết. Đây là tội lỗi của việc trị bệnh. Tâm của họ như vậy, thích sinh sống bằng nghề bất tịnh, làm sao có thể tu thiền, đọc tụng. Tâm họ chỉ thường ưa thích việc trị bệnh.

Lại nữa, Tỳ-kheo trị bệnh này, tâm tư duy về điều ác, có lỗi rất lớn. Tỳ-kheo này tư duy pháp ác có tâm như vầy: muốn cho có nhiều người bị bệnh, nếu người bệnh nhiều ta liền được cúng nhiều của cải, đồ ăn thức uống, ngọa cụ và nhiều lợi lộc khác. Dục hủy hoại tâm làm vị ấy không nhớ pháp thiện, không thích tọa thiền, tụng kinh, không gần tôn trưởng, không gần bạn lành, cũng không lễ Phật. Làm việc bất thiện, sau khi qua đời, vị ấy bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục. Do nghiệp thiện còn sót lại, khi ra khỏi nơi đó, vị ấy sinh trong loài người nhưng thường đau bệnh, nghèo khổ, chết sớm. Ấy là do nghiệp ác trị bệnh.

Lại nữa, cái họa của người làm thầy trị bệnh là trị bệnh theo pháp cũng có lỗi lầm. Từ vô thỉ đến nay có ba loại bệnh là gió, nóng và lạnh. Ba việc này điều hòa thì tâm được an lạc, không đọa cõi ác. Thân này tan rã, hoại diệt thì ba việc này cũng mất. Vậy mà người ngu si phàm phu ấy chưa từng nghe đến, chưa có trí tuệ, thật chẳng phải Sa-môn, mà tự nói: Ta là Sa-môn, trị ba loại ấy. Vì nghĩa gì, vì nhân gì mà cạo bỏ râu tóc, đắp pháp y mà lại xả bỏ điều này? Từ vô thỉ đến nay, tham, sân, si không tùy thuộc vào thân. Nếu thiêu thân, ba thứ ấy không bị thiêu, không mất, không diệt. Chúng theo đuổi trói buộc và đi chung với ta ở khắp nơi trong năm đường, vì sao không lo trị ba thứ họa lớn là tham, sân, si này trước mà lại trị bệnh gió, nóng, lạnh kia trước? Đây là xuất gia một cách hư dối, ngu si, không trí tuệ.

Kẻ phàm phu hèn hạ, bị tâm lừa dối như có người ngu, không có quyền lực hằng ngày bị não loạn. Nếu người ngu ấy vì của cải mà gây oán với kẻ có sức mạnh thì không thể ngăn được. Nếu dùng thế lực cũng không thể phòng ngự. Kẻ oán thù có thế lực lớn này thường tìm đến gây hại nhưng người ngu này không sợ kẻ oán thù ấy. Biết người khác có chút ít oán thù, người này sinh sợ sệt đối với người có chút ít oán thù ấy. Người này kết bạn với người ngu và người ngu nói với đồng bạn là: Nay ta cùng nhau từ bỏ giặc oán ấy. Kẻ oán thù có sức mạnh lớn biết người ngu si ấy là kẻ ngu si, biếng nhác và phóng dật nên đến giết người ấy. Vì sao? Do người ngu ấy làm việc cho người khác.

Như vậy, như vậy, người Sa-môn ấy tự cho là Sa-môn, làm thầy Sa-môn mà lìa bỏ, không đối phó với kẻ oán thù có sức mạnh lớn để làm việc khác.

Tham, sân, si ấy theo đuổi không rời ở trong vô lượng đời. Chúng bày ra đường sinh tử, có sức mạnh lớn mà không có nơi chốn, không thể tìm cầu, chỉ có trí tuệ mới biết được. Để trừ kẻ oán thù lớn này người ngu si ấy đã lìa bỏ bạn thân, vợ con, anh em của mình để cạo tóc xuất gia. Tuy đã xuất gia rồi những người ấy không thể quan sát thấy kẻ thù có sức mạnh lớn này.

Vì muốn được của cải, người ấy nói với người khác là:

–Kẻ thù của ông chính là gió, lạnh, nóng mà tôi sẽ diệt trừ. Do tâm loạn động này người ngu si ấy bị thần chết đến kề, ba loại oan gia theo đuổi không rời. Kẻ thù lớn ấy là tham, sân, si. Người ấy bị dây tham dục trói nên sống rất phóng dật, dẫn sang cõi khác, thích làm việc khác và bị sự tham lam làm loạn ý. Vì vậy, người nào biết cái họa này rồi thì không làm thầy trị bệnh. Nếu có trị bệnh thì nên trị bệnh tham, sân, si… liền thường không bệnh. Khi ấy Đức Thế Tôn Ca-diếp nói kệ:

Gió, lạnh, nóng ít họa
Tham, sân… họa mới nhiều
Gió… không phải đường ác
Tham sân đọa địa ngục.
Họa tâm là họa lớn
Thường khiến đi đường ác
Vì vậy trừ liền vui
Trừ gió, lạnh chẳng vui.
Nếu bỏ nghiệp của mình
Ưa thích việc của người
Người ấy mau thoái thất
Bị người trí chê cười.
Gió lạnh nóng suy kém
Chúng sinh liền mất thân
Tham sân chưa từng mất
Sinh tử làm điên đảo.
Diệt tham dục được vui
Diệt gió lạnh chẳng vui
Do tham sân bị diệt
Liền được vui thù thắng.
Trị tâm là trị bệnh
Trị thân chẳng trị bệnh
Trị tâm bệnh khó biết
Trị gió lạnh dễ hiểu.

Do nhân duyên ấy Đức Phật Ca-diếp ngăn cản không cho người xuất gia làm thầy trị bệnh.

Lại nữa, người xuất gia trị bệnh có vô lượng lỗi là sinh tâm tham, thấy các vị thầy thuốc khác tâm liền sinh ngạo mạn, dùng lời bất thiện hủy nhục thầy thuốc khác, bỏ bê việc làm chính của thầy Tỳ-kheo, tâm sinh ganh ghét, gây nghiệp ngạ quỷ, tạo nhân sinh làm ngạ quỷ.

Tâm người này uế tạp, vọng động và rất tham. Do tâm tham sinh ra, lúc thấy phụ nữ, không khéo quan sát do đó tự làm ngăn ngại rối loạn. Người ngu si ấy khi thấy phụ nữ thì tham dục phát sinh hủy hoại tâm. Người ấy trị bệnh gió, lạnh, nóng… của người khác nhưng tự tăng trưởng của bệnh tham, sân, si trong thân. Do tăng tham, sân, si nên các loại khổ não về địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cũng tăng lên và người ấy bị tham, sân, si phá hoại. Người thầy thuốc bất thiện thì có ác kiến, bị cái họa lớn trói buộc đưa vào địa ngục. Vì vậy, tất cả người xuất gia phải thường siêng năng trừ bệnh tham, sân, si chớ đừng trị bệnh gió, lạnh, nóng.

Pháp thứ hai này là người Sa-môn nào muốn cầu Niết-bàn thì không nên dùng thuốc thang trị bệnh làm trở ngại, phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng kinh, luật.

Lại nữa, phải xả bỏ, không nên thực hành pháp ngăn ngại thứ ba. Pháp thứ ba đó là gì? Đó là làm thợ vẽ. Người xuất gia không nên làm nghề vẽ. Vì sao? Đó là vì trừ bỏ tham dục. Đã xả bỏ gia đình xuất gia sao lại sinh tâm dục khác? Đã biết ở thế gian có tâm nghiệp vẽ rồi mới tạo đủ loại bức họa khác. Nên có người không biết bức họa của tâm nghiệp thì có thể tạo bức họa có đủ màu sắc.

Người xuất gia ấy cần biết rõ năm màu sắc chính của bức họa, họa thành năm đường, do đủ loại tâm.

Những gì là năm? Đó là năm màu sắc chính tạo nên năm đường.

Tâm là người thợ vẽ dùng màu trắng và rất sạch của nghiệp để họa thành thiên đạo. Do tín tâm, thích bố thí rộng khắp, lìa keo kiệt, ganh ghét, khỏi ra pháp trong trắng nhất là núi bố thí, trì giới, họa ra chư Thiên. Tâm chính là người thợ vẽ họa nên thiên đạo.

Lại nữa, người xuất gia lại nên quán xét bức họa nghiệp, nhiều màu sắc nghiệp họa ra nhân đạo. Người có các bậc thượng, trung, hạ khác nhau. Nếu là người giàu, có thể trì giới thì người ấy do nghiệp có màu trong trắng nhất hóa ra. Nếu người rất giàu, không thể trì giới, người ấy do nghiệp có màu đen, trắng tạo ra. Nếu người bần cùng mà có thể giữ giới, người ấy là do nghiệp có màu đỏ, trắng họa ra. Nếu người bần cùng không thể trì giới, người ấy là do nghiệp đen và cấu uế họa ra. Nếu người biếng nhác mà nhiều tham dục, người ấy là do nghiệp có màu đen, vàng họa ra. Nếu người xinh đẹp, sinh trong dòng họ lớn, người ấy là do nghiệp trắng sạch họa ra. Nếu người sinh trong dòng họ bậc trung, người ấy là do nghiệp có màu đỏ, hồng họa ra. Nếu là người sinh trong dòng họ dưới, thì người ấy do nghiệp đen, bẩn họa ra.

Tâm là người thợ vẽ dùng màu sắc nghiệp lành để vẽ nên nhân đạo.

Người nào sinh trong nhân loại, hoặc làm quốc vương, hoặc làm đại thần mà lại tạo ra nghiệp chẳng lành thì màu bạch nghiệp giảm đi, màu hắc nghiệp phát sinh thêm.

Lại nữa, nếu người này sinh trong gia đình hèn hạ, hoặc hết sức bần cùng mà thường thực hành bố thí, giữ gìn giới cấm thì màu nghiệp đen của người ấy giảm đi, màu nghiệp trắng tăng thêm.

Nếu người sinh trong dòng họ bậc trung, có sắc đẹp dịu dàng và tạo nghiệp trung bình, ông thợ vẽ là tâm dùng màu sắc trắng, đỏ của nghiệp vẽ ra. Như vậy vô lượng nghiệp đủ loại màu của thợ vẽ. Người ở thế gian này do đủ loại nghiệp có màu sắc khác nhau vẽ ra nên khác hẳn nhau.
Người xuất gia lại quán đường khác đó là quán lại người thợ vẽ địa ngục súc sinh. Nó do nghiệp có hai loại màu họa ra. Đó là màu vàng và màu đen. Màu vàng là lửa, màu đen là ganh ghét, sinh ở trong địa ngục bậc trung, bậc dưới là do hai loại màu này họa ra.
Tỳ-kheo quán màu sắc của địa ngục rồi, lại quán nghiệp có màu đen của ngạ quỷ bị đói khát thiêu thân, tất cả quỷ đều do màu sắc của nghiệp họa ra.

Lại quan sát nghiệp có màu gì họa ra súc sinh? Đó là màu đen, màu đỏ. Nếu chúng thọ chịu khổ não bậc nhất, sự lo sợ nhất là do màu đen họa ra. Nếu chúng giết hại lẫn nhau là do màu đỏ họa ra.

Màu sắc này là do tâm làm thợ vẽ họa ra.

Lại nữa, nói lược qua súc sinh ở ba chỗ, sợ hãi lẫn nhau, sợ bị giết, bị trói, bị loài khác ăn thịt. Loài bay trên hư không là khổng tước, trĩ, ngỗng… loài trên mặt đất là trâu, bò, chó, ngựa. Loài ở dưới nước là cá…, chúng do màu đen họa ra, hoặc không sợ bị giết. Chúng do màu đỏ họa ra, nếu là voi trên cõi trời.

Người ấy không thể tư duy như vậy về năm đường này và năm loại màu.

Năm tướng trên trời, hành vi trong loài người, súc sinh giết nhau, ngạ quỷ đói khát, chúng sinh ở trong địa ngục chịu khổ não lớn. Nghiệp đủ loại màu sắc được họa ra như vậy. Người ngu si ít trí ấy không ghi nhớ, không suy nghĩ, do đó biếng nhác, không hay ngồi thiền, không thể giữ giới, không thể đọc tụng và không thể biết tâm là thợ vẽ tạo các bức họa khác. Bức họa thứ nhất là sinh, già, bệnh, chết, oán ghét găp nhau, thương yêu xa lìa, lạnh nóng đói khát, hủy hoại lẫn nhau, chê bai việc cúng dường, trẻ con, nô lệ, chủ nhân, khổ não, an lạc. Màu sắc của nghiệp địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người xen lẫn nhau, họa nên sinh tử. Các hạng người không thể tu hành, không thể tư duy, tâm niệm biết điều đó rồi không sinh nhàm chán. Tỳ-kheo ấy xả bỏ việc tọa thiền, đọc tụng. Nếu muốn có tâm khác vẽ ra pháp Sa-môn, phải lấy thiền, tụng làm gốc.

Lại có pháp khác họa nên nẻo sinh tử, không thể tư duy mà liền tư duy, lại tạo bức họa khác. Đó là các loại nguồn gốc của cảnh giới. Nếu có chúng sinh ưa thích cảnh giới, trôi lăn nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh trong thời gian lâu dài. Pháp này thế nào? Đó là mắt thấy sắc, ưa thích cảnh giới mà sinh tâm ham muốn, vướng chặt vào trong sắc ấy. Người đó liền thâu tóm lấy nghiệp có màu đen là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh do màu ấy họa ra.

Nếu chúng sinh ấy mắt thấy sắc rồi, tư duy như vầy: Sắc này vô thường, chuyển động, biến đổi. Vì thế người này không ưa, không thích, không tham, không đắm. Như vậy là người ấy thuộc về nghiệp có màu trắng, được sinh trong cõi trời, người cho đến Niết-bàn.

Có người mắt thấy sắc không thích, không duyên theo, không mong không nhớ, không có tâm thọ dụng, không sinh tâm ham muốn, người ấy là do nghiệp có màu trắng nhất họa ra, thọ an lạc ở trong loài người.

Do tâm si ấy, Tỳ-kheo ác này không tư duy, không nhớ nghĩ, không tọa thiền, không đọc tụng, nếu mắt thấy sắc liền ưa thích, đắm nhiễm cảnh giới. Người bị trói buộc như thế là do nghiệp có màu đen họa ra. Người có trí tuệ thì có thể xả bỏ nghiệp có màu đen ấy là nghiệp do ác ý họa ra và nên tọa thiền, đọc tụng kinh luật.

Lại quan sát thấy Sa-môn thợ vẽ, lúc tư duy để họa vẽ thành hình gì? Đó là tai nghe tiếng hoặc thích, hoặc không thích.

Người ấy quán như thật, tiếng này là vô thường, không dừng trụ, không chắc chắn, bị phá hoại. Biết như vậy rồi, tâm không ưa thích, không sinh vui mừng, không nhớ, không ưa, không nghe, không quan sát. Như vậy là bức họa màu trắng ấy sinh trong hàng trời, người. Sinh lên cõi trời rồi, họ có đủ loại bức họa thù thắng bậc nhất như vậy.

Còn người Sa-môn thợ vẽ ác ý ấy, tự xưng là Sa-môn nhưng chưa từng khởi tâm tư duy về sự thật nơi bức họa âm thanh nên mãi mê vẽ thành bức họa khác mà không chịu tư duy, tọa thiền, đọc tụng, xả bỏ việc thiền, tụng, không tu nghiệp lành.

Lại nữa, người Sa-môn ngu si lắng nghe âm thanh ấy là chưa từng nghe đến, ngu si không trí, tư duy như vầy: “Âm thanh này đáng ưa, có thể khiến tâm vui, có thể khiến ta vui”. Sa-môn ác ấy không khéo quan sát cho nên quán âm thanh ấy tâm sinh mong cầu, nhân đó sinh ham muốn, tâm sinh ưa thích đối với âm thanh ấy. Tâm là người thợ vẽ dùng màu đen ấy họa ra địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Sa-môn ác ấy biết bức họa nghiệp rồi mà còn tạo các bức họa khác nên xả bỏ việc tọa thiền, đọc tụng…

Lại nữa, Tỳ-kheo ác, lìa bỏ các loại bức vẽ đủ màu rồi, lại tạo bức họa khác.

Bức họa khác là gì? Chúng được gọi bức họa khác là vì cảnh giới của căn trói buộc chúng sinh trong vòng sinh tử. Các cảnh giới của căn ấy hoặc có thứ đáng yêu, hoặc có thứ không đáng yêu. Đó là khi mũi ngửi mùi thơm, người ấy quan sát rõ vật được mũi ngửi hoặc thơm, hoặc thối họ không thích mùi ấy, không quan tâm đến nó nên không bị nó phá hoại tâm. Họ tư duy như vầy: Hương này vô thường, niệm niệm không dừng, không chắc chắn, bị hủy hoại. Thực chất của hương này trước không, sau có, đã có rồi trở lại không. Mùi ấy hôi hám không đáng ưa, không làm tâm lay chuyển. Do bức họa nghiệp có màu trắng này là bức họa nghiệp thiện, ta được sinh trong cõi trời, người. Vậy mà người Sa-môn ác ý làm thợ vẽ ấy xả bỏ nghiệp này, xả bỏ nghiệp như vậy mà tạo bức họa khác, xả bỏ việc tọa thiền, đọc tụng.

Lại nữa, khi ngửi mùi thơm khác, đối với mùi ưa thích, do tâm mê hoặc, bị sự mong cầu làm mê, không khéo quan sát, nên tâm liền bị phá hoại. Đó là nghiệp màu đen, ai thường tích tụ nghiệp có màu đen như vậy sẽ vẽ nên địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thọ các khổ não. Sa-môn ác ấy xả bỏ bức vẽ có màu sắc nghiệp như vậy mà còn không chịu tư duy lại tạo bức vẽ khác, nên phế bỏ việc tọa thiền và đọc tụng kinh luật.

Lại có bức vẽ bằng các màu sắc tạo do các nghiệp xen tạp. Đó là mùi vị mà lưỡi nếm hoặc có vị đáng ưa, hoặc có vị không đáng ưa.

Khi nếm vị đáng ưa, Tỳ-kheo thiện ấy không vui, không giận, không nhớ, không thích, thường quan sát vị ngon này, không lúc nào mà không khéo quan sát. Mùi vị như thế này trước không, sau có, đã có trở lại không. Tay cầm thức ăn ấy đưa vào miệng, nếm nó bằng lưỡi. Lưỡi nếm thức ăn rồi, nếu thức ăn ấy ngọt, liền sinh vị ngon khiến nước miếng tươm ra từ má chảy xuống, từ sống mũi chảy ra. Đầu lưỡi nếm vị rồi, hòa trộn thức ăn với nước dãi, sau đó dùng răng nhai và nuốt. Sự trói buộc như vậy trói buộc kẻ phàm phu ngu si. Người ấy tư duy về thiệt vị như vậy, quan sát một cách đúng đắn là bức vẽ màu trắng. Bức vẽ màu trắng này sẽ khiến ta thọ hưởng thú vui bậc nhất ở trong loài người hoặc trên cõi trời.

Sa-môn ác ấy không thể quan sát bức vẽ nghiệp như vậy mà tạo bức vẽ khác, phế bỏ việc tọa thiền và đọc tụng kinh luật. Khi lưỡi nếm thức ăn, nếm được vị ngon, vừa được mùi vị ấy, người ngu si đó bèn nghĩ như vầy: “Thức ăn này có vị ngon, là vị ngon nhất, là vị thù thắng tốt đẹp, màu sắc và hương vị đều đầy đủ và trong sạch nhất”. Do ăn với tâm ngạo mạn nên thân, miệng, ý đều hành động theo nghiệp ác. Bức vẽ hắc nghiệp này sẽ khiến ta sinh vào ba chỗ rõ ràng là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Sa-môn ác ấy, tự xưng là Sa-môn, bị sự không quan sát chân chánh phá hoại, do tự gây rối loạn, xả bỏ bức vẽ nghiệp rồi, lại tạo bức vẽ khác, làm trở ngại việc tọa thiền, đọc tụng.

Lại có bức họa nghiệp, vẽ ra thế gian. Bức họa này chỉ có căn và cảnh giới tiếp xúc nhau, như là thân tiếp xúc với cảnh giới phát sinh ra thức. Tâm khéo quán xét về sự thật của sự xúc chạm ấy. Cảm giác do xúc sinh có ba tánh là không thường còn, không tồn tại và bị hủy hoại, chỉ có da mỏng nhưng khi thấy nó thì sinh tham ái. Nó chỉ có căn, xứ, không phải là vật trong sạch, không thường còn, không vui, không có ngã pháp, chỉ là sự hòa hợp giả nên gọi là thân. Bốn đại giống như cái hòm nhỏ, như tên cắm vào thân, thường ngăn ngại, thường đau bệnh. Hành giả quan sát một cách chân thật tất cả các chỗ tai họa như vậy thì không bị sự tiếp xúc làm trở ngại.

Sự tiếp xúc này chỉ là khách, hay làm trở ngại, chẳng phải là vật của ta. Ai có thể khéo quán xét như vậy sẽ vẽ nên bức họa nghiệp màu trắng sạch để sinh trong cõi trời, người.

Sa-môn ác ấy làm Sa-môn mà không tư duy quán xét như vậy, tâm nghiệp là thợ vẽ, vẽ ra thế gian gồm đủ loại nghiệp khác nhau. Tỳ-kheo ác ấy xả bỏ không quan sát, lại tạo bức vẽ khác, bỏ bê việc tọa thiền, đọc tụng kinh luật.

Lại nữa, người phàm phu ngu si ấy không khéo quan sát, không quan sát chân chánh về xúc này nên sinh tâm như vầy: “Sự tiếp xúc này của ta là sự tiếp xúc vui nhất, thân thể mập mạp liền tụ tập các nhân vui, được sự tiếp xúc dễ chịu này, ta liền thọ vui”.

Người phàm phu ngu si như vậy, không khéo tư duy, quan sát đối với xúc này. Bức họa nghiệp màu đen ấy tạo nên địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Sa-môn ác ấy làm Sa-môn xả bỏ bức họa nghiệp, không tư duy lại tạo bức họa khác, phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng kinh luật.

Lại nữa, Sa-môn ác ấy, tuy làm thầy Sa-môn nhưng thích pháp thế gian, chẳng phải là pháp xuất thế gian, không tư duy, không nhớ nghĩ đến pháp xuất thế. Pháp xuất thế là bốn Thánh đế. Họ không tu tập diệt đế và đạo đế, mười sáu pháp quán hơi thở, hơi thở ra, hơi thở vào, bốn thiền, bốn loại phạm hạnh, bốn quả Sa-môn.

Bỏ pháp này rồi, họ làm các việc làm hèn mọn khác, tâm không yên lặng, chỉ vì sự vui chút ít là bức họa ít màu sắc mà phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng kinh luật, lại cầu màu khác là bức họa không tịch tĩnh.

Do không khéo quan sát nguyên nhân ấy, khi chết người này bị đọa vào đường ác là địa ngục.

Người thợ vẽ ấy lại có lỗi lớn, tạo nhân duyên đọa vào đường ác là địa ngục, đó là vẽ người phụ nữ xinh đẹp, trang điểm bằng đủ loại màu rực rỡ. Do ngu si, tâm sinh ưa thích và khiến người khác thấy cũng sinh ưa thích, lòng dục phát ra làm loạn tâm, huống gì là người vẽ. Người như vậy hay muốn cho lòng dục của cả mình lẫn người phát khởi nên khi chết sẽ bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục.

Khi ấy, Đức Thế Tôn Ca-diếp Như Lai nói kệ:

Không nghĩ bức họa nghiệp
Mà tạo bức họa khác
Bị lửa bức họa thiêu
Đọa vào trong địa ngục.
Không nghĩ pháp vô lậu
Mà thích pháp hữu lậu
Người ấy nhiễm tâm si
Đến bờ hiểm sắp rơi.
Người siêng năng thiền, tụng
Thường sống ở trong rừng
Bỏ chỗ ấy do si
Liền đọa vào địa ngục.
Vì si nên nghĩ ác
Tạo dây trói chặt cứng
Bị bức vẽ lừa dối
Dẫn nhập vào địa ngục.
Tranh vẽ không tạp nhạp
Bức họa tâm tạp nhạp
Tranh vẽ mưa liền phai
Bức họa tâm không phai.
Nếu tâm người không vẽ
Tranh ấy không như tâm
Tranh nghiệp là tranh lớn
Vẽ ở trong ba cõi.
Chúng sinh đủ loại màu
Lưu chuyển trong năm đường
Tất cả là tranh nghiệp
Thợ vẽ tâm tạo ra.
Cái tâm thợ vẽ này
Vẽ vời ra lưới nghiệp
Trói tất cả chúng sinh
Trôi lăn trong ba cõi.
Mưa, lửa, bụi và khói
Khiến tranh vẽ hư mất
Còn bức vẽ tâm nghiệp
Ngàn ức kiếp không phai.
Tất cả đất hoại mất
Nước biển cũng cạn khô
Pháp do tâm vẽ ra
Rốt cuộc không hư hoại.
Người si không quán xét
Đủ loại tranh tự nghiệp
Nên vì mạng, của cải
Mà tạo bức họa khác.

Sa-môn thợ vẽ phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng Kinh luật, phân biệt như vậy, có vô lượng lỗi. Người thích làm thợ vẽ không được người thiện ưa và được người bất thiện thích. Vì vậy Tỳ-kheo không nên làm thợ vẽ. Công việc vẽ làm loạn tâm, không được Niết-bàn, cho đến không thể khéo quan sát, tu tập một pháp lành, vì thế phải nên tu học đúng như vậy.

Nếu các Tỳ-kheo nào sợ nghiệp ác muốn cầu Niết-bàn thì không được tự tay cầm bút vẽ. Nay ta quở trách: Ba loại pháp này Sa-môn không nên làm, do biết pháp ấy có lỗi như vậy.

Lại có pháp thứ tư Sa-môn không nên làm. Pháp thứ tư là gì? Đó là nghe pháp tà, ác, ca ngâm, tán tụng. Tỳ-kheo này xả bỏ vợ con, bạn bè thân thiết, cha mẹ anh em, vì muốn đoạn trừ phiền não cho nên xuất gia, tọa thiền, đọc tụng. Nếu ai không loạn tâm, thường nhất tâm thì có thể đoạn trừ phiền não, không bị rối loạn. Nếu ai ca ngâm tán tụng, nhớ nghĩ đủ loại việc ác, tâm ý liền loạn. Do tâm loạn ấy làm ngăn ngại pháp lành khiến họ không thể tọa thiền, đọc tụng, không gần sư trưởng, không nghe chánh pháp, không thích cúng dường Phật, Pháp, Tăng, không giữ gìn oai nghi, không thể khéo giữ oai nghi, giới luật mà thường ca ngâm, tâm sinh ưa thích sự ca ngâm như vậy, dựa vào sự ca ngâm ấy, đủ loại pháp đã từng nghe trong quá khứ phát khởi tùy thuộc vào phi pháp, chỉ nghe pháp ấy để làm vui tai không khéo quan sát, tùy thuộc vào thói quen, tương ưng với ỷ ngữ.

Pháp ấy là chỗ tin ưa của Sa-môn ác ấy. Sa-môn này thường nghe và thực hành đường ác. Do đi trên đường ác họ làm việc như người thế tục, tự hủy hoại chánh pháp. Do thích ca ngâm, họ biếng nhác, không siêng tọa thiền, đọc tụng. Người như vậy không nên vào trong Tăng chúng, không nên ăn tất cả đồ ăn, thức uống.

Biếng nhác còn vậy, huống gì là phá giới, vào trong chúng còn không nên huống gì được thọ dụng giường, tọa cụ, ngọa cụ, thuốc, đồ dùng… hoặc là nhận sự lễ bái cung kính của người khác. Những thứ ấy, người biếng nhác không nên thọ nhận.

Vì vậy, Tỳ-kheo nào thường ca ngâm, do ca ngâm, không thích ngồi thiền, đọc tụng kinh luật. Người thích ca ngâm chỉ thường chuyên tâm tập tành ca ngâm, thường thích ca ngâm trong mọi lúc, tạo đủ phương tiện khiến tâm ý rối loạn, bị đủ loại si mê phá hoại, khen ngợi sự ca ngâm ấy có đủ loại vị.

Người ấy tự làm loạn tâm ý, khi mạng sắp chấm dứt, lúc già, chết đến, sắp đến nơi chưa từng biết, đi một mình không bè bạn, lìa bỏ pháp xuất thế. Nếu thường ca ngâm, người ngu si sẽ không biết cái chết đang đến và tự lừa dối mình.

Thân người khó được, các căn khó đầy đủ, tuy xuất gia chỉ bỏ phí thì giờ để ca ngâm, nên không gặt hái được gì, chết một cách hư dối, không được lợi ích.

Lại nữa, Tỳ-kheo làm việc ca ngâm, do bị si phá hoại nên làm việc uế tạp, với tâm cấu uế gây nghiệp ca ngâm.

Trong tất cả người ngu, phụ nữ ngu si hơn hết. Tỳ-kheo không nên si như phụ nữ ấy. Si của phụ nữ tuy ít mà có thể thiêu đốt cũng như lửa tuy ít mà có thể đốt cháy một lượng đồ vật rất nhiều. Si của phụ nữ có thể thiêu đốt những người ngu si, dù sinh ra ở trăm ngàn vạn chỗ, lửa ấy đều có thể thiêu cháy hết.

Trong lúc ca ngâm, người ấy khen ngợi phụ nữ, đặt phụ nữ lên trên hết. Người phụ nữ si ấy phá hoại Tỳ-kheo đủ thứ. Do không quan sát chân chánh, bị ngu si hủy hoại tâm nên họ khen ngợi thân phụ nữ để được cúng dường, giữ ở trong tâm ý nghĩ cho là thân phụ nữ trong sạch.

Tỳ-kheo ác ấy không quan sát chân chánh toàn bộ thân mình, lại khiến người khác không quan sát chân chánh. Do làm thoái thất cả mình lẫn người nên khi chết bị rơi vào đường ác, sinh trong địa ngục. Người ấy bị lỗi nghe pháp bất thiện, ca ngâm, tán tụng ràng buộc.

Lại nữa, nghe pháp tà, ca ngâm tán tụng lại có lỗi lớn là Sa-môn ác, nghe pháp tà ác, ca ngâm tán tụng khiến ý ngu tối, không theo học hỏi những điều chưa từng nghe, chưa từng thấy với những người đã từng thấy nghe. Do tâm tham nên họ ca ngâm, lại dạy người khác ca ngâm đủ thứ, nói rằng tôi đã từng thấy, tôi đã từng nghe cho nên bị chúng trói buộc. Người khác biết người này trước đây chưa từng thấy, trước đây chưa từng nghe, liền nói như vầy: “Người bất thiện này nói dối như vậy, tâm tự lường xét mà ca ngâm”.

Do nghiệp nói dối, khi chết, người này bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục do lỗi ca ngâm.

Nghe pháp tà, ca ngâm, tán tụng lại có lỗi lớn là nghe điều tà, ưa thích ca ngâm, chê bai những người quen biết cũ mà mình đã từng nghe, nói lời ganh tỵ cho rằng ta ca hay hơn hết và chê bai những người đã ca trước đây. Đối với những bậc luận sư kỳ cựu thực sự có tài năng thì người ấy lại chê họ dở. Sa-môn ác này xả bỏ việc tọa thiền, đọc tụng, tăng trưởng sân hận, tăng trưởng đầy đủ các nghiệp cấu uế, bất thiện. Các nghiệp thiện, trong trắng có thể tạo an lạc trong đời vị lai họ đều làm mất hết. Những người phạm hạnh khinh chê người nghe pháp tà ác và ca ngâm này vì người này tâm không chân chánh.

Nghe tà pháp, ca ngâm tán tụng lại có lỗi lớn. Người nghe điều tà vạy, ca ngâm như vậy hoặc ngày hoặc đêm tâm ý không chân chánh, không nhớ Phật pháp mà thích ca ngâm, thường tán tụng, không tư duy chánh pháp, không chịu tọa thiền, lại không siêng năng diệt trừ phiền não. Người như vậy chẳng phải Sa-môn chân thật, không có ý tứ của Sa-môn, khó đắc được chánh pháp, trong trăm ngàn kiếp khó đắc được chánh pháp. Sa-môn ác ấy tuy làm Sa-môn, được pháp như vậy mà không thực hành chân chánh và không giữ gìn.

Nghe tà pháp, ca ngâm tán tụng lại có lỗi lớn, đó là người ác ấy ham việc ca ngâm, nên đến chỗ chưa từng nghe để mà tán thán, hoặc có lúc nói dối, người ấy thường gần người có hành động không chân chánh, giống như người điên. Do tâm náo động, họ tìm đến tất cả mọi chỗ có ca ngâm tán tụng và bị lời tà vạy trói buộc. Người khen ngợi việc nói dối có nói điều gì đều là nói dối, chưa từng nói thật được một lần. Người này bị việc ca ngâm che lấp tâm, lại gần gũi những người giàu có ác độc, dựa vào họ mà tạo nghiệp ác. Do gần người ác, người này được cúng dường rượu. Do uống rượu họ không làm được một việc lành, tâm họ loạn động, không được lợi ích. Do uống rượu, cửa đường ác mở ra. Do say người ấy có thể tạo tất cả nghiệp ác. Do thấy phụ nữ, không quan sát chân chánh cho nên mất chánh niệm. Sa-môn ác ấy, làm việc trái phạm hạnh, đốt hết phước đức. Họ là vật xấu xa, thối nát, giống như cây Tỳ đầu la có hoa không trái, giống như ngọn đèn vào ban ngày, không có ánh sáng chiếu ra, lại như mặt trăng vào ban ngày, không tạo cảm giác mát mẻ gì cả. Cũng vậy, Tỳ-kheo ác ấy chỉ có hình tướng Sa-môn mà thôi, khi chết bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục, do lỗi nghe pháp ác, ca ngâm, do lỗi tán tụng. Vì vậy Sa-môn không nên nghe pháp bất thiện, không nên ca ngâm tán tụng.

Nếu ca ngâm, tán tụng chánh pháp, khiến chánh pháp tăng trưởng, hoặc tán tụng không làm hại chánh pháp, hoặc ca ngợi Phật, ca ngợi Tam bảo, tăng trưởng chánh pháp, khiến pháp sáng rỡ, người nào tán tụng như vậy thì sẽ được phước đức, dần dần sẽ đạt được Niết-bàn.

Kết quả của khẩu nghiệp nơi người siêng năng tu tập phép ca ngợi như thế là khi chết sẽ sinh vào đường lành là cõi trời. Do người ấy ca ngợi sự thật như vậy làm tăng trưởng chánh pháp, nếu tán tụng như vậy thì nên làm còn nếu không như vậy sẽ bị đọa vào địa ngục.

Lại nữa, pháp thứ năm làm trở ngại việc tọa thiền, đọc tụng kinh luật, pháp ấy là gì? Đó là Tỳ-kheo tư duy các loại sao, thật chẳng phải Sa-môn tự cho là Sa-môn. Tư duy các loại sao là việc không nên làm. Tỳ-kheo này hủy bỏ pháp Sa-môn, phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng.

Người ấy tư duy về sự vận hành phước đức, số mạng mà không hay biết về sự mất mát của nó, xuất gia làm gì mà không rõ được pháp ấy. Khi chết, người ấy chưa làm xong việc cần làm nên không thoát được sự suy kém già, bệnh, chết, buồn rầu, than khóc, sầu não, khổ sở. Người ấy thường phải trôi lăn trong đường sinh tử. Người ấy được lợi ích từ việc tư duy về sao, không thể cứu mình cũng không thể cứu người khác.

Vì sao? Vì chỉ có nghiệp tư duy về sao, hạn thì làm sao cứu được mình và người.

Vì sao vậy? Những người cùng sinh nhằm một ngôi sao có khổ, có vui, có xấu, có đẹp, có dòng họ lớn, có dòng họ nhỏ, có người sống theo pháp, có người không sống theo pháp, có nghèo, có giàu, có vua, có dân, có sang, có hèn, có người trộm cướp, có người không trộm cướp, có thông minh, có mờ ám, có ngu, có trí, có nam, có nữ, có người giữ giới, có người không giữ giới, có người siêng năng tinh tấn, có người không siêng năng tinh tấn, có người được người thương, có người không được người thương, có người được tất cả đều thương, có người tất cả đều ghét, chỉ một loại sao hạn mà có nhiều người khác nhau với cuộc sống không giống nhau. Vậy nếu sao là nhân duyên thì tại sao tất cả những người sinh ra một sao không giống nhau và đều là một hạng.

Như đã nói ở trước, do lỗi không biết tất cả công đức trước đây, không chịu tư duy sao nghiệp mà tư duy sao trong không trung, nên người ngu si không biết, không đếm công đức và lỗi, không tính kết quả của hai loại nghiệp thiện và bất thiện, lại đi tính sao trong không trung.

Lại nữa, người tư duy về sao thật sự bất thiện, cũng không yên lặng vì cho rằng một ngôi sao mà sinh làm người, hoặc sinh làm súc sinh, hoặc sinh làm ngạ quỷ, sai khác không giống nhau. Như vậy chẳng phải do sức mạnh của sao mà là do sức mạnh của nghiệp khiến chúng sinh sinh vào các đường khác nhau.

Việc tư duy về sao này, không lành mạnh, cũng không yên lặng. Tư duy sao nghiệp mới thật sự tịch tĩnh, lần lần cho đến nhập vào Niết-bàn.

Lại nữa, người tư duy về sao ấy thật sự bất thiện, không yên tĩnh. Đó là ngôi sao ấy có sức lực không nhất định do có sự ngăn ngại, do có hơn có kém. Ngôi sao này lại bị ngôi sao lớn hơn nó che đậy. Vào lúc khác, ngôi sao ấy lại bị ngôi sao khác che đậy. Vì vậy nên biết việc tư duy về sao không thích hợp với thật tế. Nếu có người tư duy về sao cho rằng ngôi sao là nguyên nhân làm có khổ, có vui, chớ không phải là tự mình gây khổ, gây vui. Ngôi sao ấy lại bị ngôi sao khác che đậy thì làm sao có thể ban khổ vui cho người khác.

Do đó nên biết, do nghiệp mà có quả tốt hay xấu chứ chẳng phải do ngôi sao ban cho.

Nếu sinh ra từ ngôi sao thì lại có sự sân hận của ngôi sao, ngôi sao đầu tiên liền chịu khổ não. Như khi mặt trời, mặt trăng bị A-tu-la nuốt mất liền chịu khổ não. Mặt trời, mặt trăng không thể tự cứu thì làm gì có thể cứu người khác, vì vậy Sa-môn nào làm Sa-môn mà tư duy về sao thì nên từ bỏ công việc ấy.

Có ba ngôi sao lớn là bệnh, già, chết. Đó là ba thứ lớn nhất thường trụ ở thế gian. Sa-môn ác ấy không tư duy những thứ này mà lại tư duy về những ngôi sao khác ở thế gian. Người ngu si ấy, không có văn tuệ, tư duy về hai mươi tám ngôi sao xuất thế gian, nếu có thể tư duy quan sát chân thật thì nhập vào thành Niết-bàn.

Hai mươi tám thứ ấy là năm ấm, năm thủ ấm và mười tám giới. Tư duy về các thứ ấy thì đến được Niết-bàn. Do quan sát như thật, lìa dục, trì giới cho nên đắc Niết-bàn; tư duy về sao thì không thể chứng đắc được.

Lại nữa, Sa-môn ấy làm Sa-môn lại có pháp khác là tính mười hai tháng, tính như vậy rồi, không được lợi ích, cũng lại không thể đoạn trừ phiền não, vẫn trôi lăn trong các cõi như xưa và không thể biết tính mười hai nhập. Nếu có thể tư duy tính mười hai nhập, biết nghĩa chân thật rồi, sinh nhàm chán dục, do tịch tĩnh liền đắc Niếtbàn. Sa-môn ác ấy làm Sa-môn, do không thể tính, không thể tư duy nên tư duy về sự ô nhiễm của kẻ khác và tính việc của người khác.

Sa-môn ác ấy làm Sa-môn lại có đủ loại tư duy ác khác làm nhiễm ô là tư duy về sáu thời. Đã tư duy rồi, không được giải thoát khỏi bệnh, già, chết, bị sự ô nhiễm của vô thường làm rối loạn, không tư duy ba mươi sáu thứ ô trược trong thân. Nếu ai tư duy, quan sát chân thật chúng thì có thể xả bỏ mà đạt Niết-bàn.

Lại nữa, Sa-môn ác ấy làm Sa-môn niệm thời của thế gian, tư duy thời ấy và nói rằng: “Lúc này là tốt, lúc kia không tốt, lúc này là được, lúc kia không được”. Người niệm ác, tư duy ác như vậy chẳng phải là tịch tĩnh, nên không được an lạc, không gần Niết-bàn, cần niệm thời của tâm, chỗ vin theo của tâm có thiện và bất thiện, hữu ký và vô ký.

Người niệm thời của thế gian tâm không tư duy ba loại thời này. Nếu tư duy tâm thiện, bất thiện có chỗ duyên dựa tư duy như vầy: “Ta sinh tâm này, nếu vin theo điều thiện, vào thời vị lai ta sẽ sinh nơi đường lành, hoặc là đắc Niết-bàn. Nếu ta sinh tâm này, vin theo điều bất thiện, làm nhiễm tâm thì sẽ không được an lạc, chẳng phải là tịch tĩnh, chẳng phải là Niết-bàn, không được Niết-bàn. Nếu ta sinh tâm này vin với vô ký, sẽ được quả báo vô ký.

Sa-môn ác, tương tự Sa-môn, niệm pháp thế gian, tư duy thời của thế gian, chỉ một niệm về thời, không cần lâu xa, hoặc trong một ngày, nửa tháng, một tháng, đạt được quả báo thiện hoặc bất thiện, tư duy trong loài người khi mạng đã hết, mà không tư duy mạng của ta đã chấm dứt trong từng niệm, hết trong khoảng khảy móng tay, không cần lâu xa, hoặc trong một ngày, nửa tháng, một tháng, mạng của ta diệt hết trong từng niệm mà không thể tránh, không có cách nào để tránh được lúc chết.

Tỳ-kheo ác ấy, lại tư duy pháp tánh thời khác, phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng kinh luật, đó là tư duy pháp ô nhiễm của thế gian, tư duy thời của sao. Người ấy tư duy, thích làm, làm nhiều, niệm ở trong tâm, ghi nhớ và nói như vầy:

–Sao này, hạn này đến che, có thể làm ngăn ngại, có thể tạo điều xấu cho họ.

Trong thế gian này có thể tốt, có thể xấu, tư duy về việc ấy thì không thể lìa suy, già, bệnh, chết, buồn, khóc, than, kêu, rầu, khổ, áo não, không cắt đứt sinh tử, vì vậy không nên tư duy như là bị sao, hạn ngăn che…
Lại có pháp khác bị pháp khác ngăn che là sao sinh bị hạn tử che lấp, sao không bệnh bị hạn bệnh che lấp, sao tuổi trẻ bị hạn tuổi già che lấp, sao thương yêu sum hợp bị hạn thương yêu xa lìa che lấp, sao sinh Thiên bị hạn thoái đọa che lấp, sao sinh làm người bị hạn tạo ác che lấp, sao thọ vui bị hạn thọ khổ che lấp, sao sinh tâm thiện bị hạn sinh tâm bất thiện che lấp, sao quán bất tịnh bị hạn tham dục che lấp, sao Từ tâm bị hạn sân hận che lấp, sao trí tuệ bị hạn ngu si che lấp.

Sa-môn ác ấy làm Sa-môn, không hay tư duy những điều nên tư duy, không chịu tư duy về pháp xuất thế, đó là tư duy về sao xuất thế gian như đã nói ở trên, quán như thật về sao pháp thật bị hạn thật che lấp.

Như đã nói ở trước, đã tư duy rồi quan sát như thật về tám Thánh đạo. Tư duy về sao hạn như vậy sẽ đắc quả, được tịch tĩnh an lạc cho đến Niết-bàn.

Nếu người phàm phu ngu si tư duy về sao, hạn thế gian như vậy, hoặc tư duy hạn, hoặc tư duy sao chính là khiến vô lượng trăm ngàn người rơi vào đường ác, sinh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đó là nguyên nhân sinh tử trong thế gian, sinh ra tham, sân, si.

Nếu tư duy sao hạn thời tiết xuất thế gian, hoặc tư duy thời, tư duy sao, hạn, tư duy điều đó rồi, quan sát như thật rồi tu hành thì sẽ khiến cho vô lượng trăm ngàn người được giải thoát khỏi già, bệnh, chết, buồn khóc rên la, sầu khổ, áo não được giải thoát đến nơi bất thoái, không già, không bệnh, không chết, không chấm dứt. Niết-bàn thù thắng là chỗ bất thoái. Nếu học như vậy, Tỳ-kheo Sa-môn là Samôn muốn được hết khổ, muốn hết nỗi khổ sinh tử, nên tu tập tư duy về sao, tu tập tư duy về thời theo cách đã nói ở trước.

Việc đó là điều hèn hạ, là điều nhiễm ô, biết như vậy rồi, biết chẳng phải là rốt ráo, chẳng phải là tịch tĩnh, chẳng phải là đạt Niếtbàn, chỉ ngăn ngại việc tọa thiền, đọc tụng của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không nên tư duy về sao. Việc tư duy về sao không thích hợp với Tỳkheo.

Lại nữa, pháp thứ sáu không nên tư duy đó là Sa-môn làm Samôn, ngăn ngại, phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng kinh luật. Pháp thứ sáu không nên tư duy là gì? Đó là xem tướng. Sa-môn không nên tư duy pháp ô nhiễm của thế gian làm tăng tham, sân, si, tư duy tướng ấy làm ngăn ngại, phế bỏ pháp lành. Nếu các Sa-môn, làm Sa-môn, biết tướng động đất, tướng ô nhiễm của thế gian, hoặc ngày hoặc đêm, tư duy như vầy: Sắp có động đất, nay thấy có tướng đó là: Nước ở trên đất vốn đứng yên lặng, bằng phẳng, gió thổi liền lay động, tuy động nhưng không đục, do sắp động đất, gió thổi liền đục, hoặc lúc sắp mưa thì loài kiến vận chuyển trứng; mặt trăng bị xâm thực thì dầu mỡ chìm xuống nước, chim ở trên không bay xuống gần mặt đất; mặt trời sắp bị xâm thực, các phương có màu đỏ; nếu sắp an ổn, gió ẩm ướt thổi, các phương không có bụi xoay chuyển theo chiều phải, thấy tướng như vậy thì biết an ổn.

Nếu sắp có điềm xấu, các phương đỏ, vàng, khô, không có màu mỡ màng, gió khô nổi lên, vừng sáng hình bánh xe của mặt trời có các màu đỏ, vàng, xanh ở trong hư không; mặt trời sắp bị xâm thực các phương có màu đỏ. Nếu sắp có điềm lành phương ấy liền có gió ẩm ướt thổi, trong sạch không nhơ, sương mù không có bụi, lại thấy tướng lành, xoay theo chiều bên phải.

Tướng báo hiệu sẽ có điều chẳng lành là: Thấy các phương có màu đỏ, vàng, màu khô khan không mát mẻ, hoặc thấy phương ấy không có gió ẩm ướt thổi, thấy vừng sáng hình bánh xe của mặt trời có màu đỏ, vàng, xanh xuất hiện ở trên hư không.

Sa-môn ác ấy làm Sa-môn, coi tướng như vậy, do xem như vậy, phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng kinh luật, suy xét ghi nhớ và nói ra để mong cầu của cải và các loại đồ cúng dường. Họ suy tính xem hai vua ai thắng ai thua, để từ đó cầu thắng hay thua nên trong tâm sinh tham, sân, si. Ba loại như vậy, việc ấy là gốc. Tỳ-kheo này mắc ba thứ lỗi, đã không phải Sa-môn, lại không phải thế tục.

Nếu là Sa-môn thiện làm Sa-môn, thì không sử dụng phép coi tướng vì thấy tướng này làm tăng trưởng dục nhiễm.

Lại có sự xấu xa khi tư duy về tướng là: Có thầy xem tướng khi vua muốn tiến hành chiến tranh, hỏi ông ấy về thời tiết. Ông ấy dự đoán: Ở trong thời gian vào ngày đó tiến hành chiến tranh sẽ đánh bại mọi người, nếu những kẻ muốn chiến đấu ở nơi nào đó giết được vô lượng trăm ngàn chúng sinh, bắt trói và làm tan rã hết.

Ở trong thành hoặc trong nước như vậy, hoặc nơi nhiều người, nơi các vua chiến đấu với nhau, hủy hoại lẫn nhau, có thể khiến cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh mất mát thọ khổ.

Sa-môn ác ấy coi ngày cho vua, coi thời tiết cho vua, nói rằng: Ngày đó tốt, thời đó tốt, vua chắc chắn thắng có thể đánh bại các vua khác. Xem tướng rồi họ nói như vậy. Sa-môn ấy tư duy như vầy: “Nếu vua đó thắng ta sẽ được vua cho nhiều của cải, được cúng dường nhiều, sẽ được việc như vậy từ nhà vua”.

Sa-môn ác ấy làm Sa-môn, diệt mất pháp lành tọa thiền, đọc tụng kinh luật, hoặc có lúc tăng trưởng pháp bất thiện do họ phân biệt thắng với không thắng. Do tư duy pháp như vậy, khi chết người ấy bị đọa trong đường ác, sinh trong địa ngục.

Do nhân duyên này, nếu Sa-môn lành nào làm Sa-môn thì không tư duy tướng của thế gian, vì tư duy việc này thì ba thứ lỗi phát sinh làm ngăn ngại pháp lành. Nếu không tư duy tướng thế gian này mà tư duy pháp khác sẽ lìa ba thứ lỗi, giữ chánh niệm, tư duy pháp xuất thế gian.

Pháp này thế nào? Đó là như biết tướng động đất nên cả ngày lẫn đêm tư duy như vầy: “Sắp có động đất”.

Người này hoặc ngày hoặc đêm sao không tư duy về đất tâm đang động. Như lúc động đất tất cả núi, sông, vườn tược, cây cối, thôn thành trên thế gian đều lay động, cũng như vậy, do đất tâm động, tất cả đại địa pháp thiện và các pháp khác đều lay động. Vì vậy, Sa-môn nào thật là Sa-môn thì nên quan sát đất tâm này trước chắc chắn là do tham dục phát động nên đất tâm lay động, đất tâm chấn động. Đất tâm này bị ba pháp làm lay động. Đó là tham, sân, si khiến đất tâm động. Như đất sắp động ắt có tướng báo trước đó là nước vốn trong, gió thổi liền đục, cũng vậy, kẻ phàm phu khi tham, hoặc sân, hoặc si sắp sinh, sắc mặt người đó liền tái hoặc đỏ như là sự vẩn đục báo trước. Do đó Sa-môn làm Sa-môn nên quán tướng này, giữ lấy tướng Niết-bàn. Người quán tướng này không bị khổ não. Tướng tâm địa này là tướng xuất thế gian.

Lại nữa, quán tướng pháp thế gian, do mưa sắp rơi, đàn kiến liền vận chuyển trứng. Sa-môn này làm Sa-môn quan sát tướng xuất thế gian như vầy: Như ở trong thôn, trong thành nơi có nhiều người, thấy có Đàn-việt hoặc các Sa-môn, Bà-la-môn, các trưởng giả vì tin Phật, vì nghe pháp đi đến gặp Phật. Sa-môn lành ấy làm Sa-môn thấy thật tướng như vậy liền dự đoán:

–Nay ở xứ ấy có Phật Thế Tôn, sắp nói chánh pháp. Đàn-việt, các Sa-môn, các Bà-la-môn, các trưởng giả đều đến gặp Phật. Đức Phật quyết định chuẩn bị nói chánh pháp. Nay thấy tướng này chẳng phải là tướng thấp kém. Nay biết tướng này là tướng mưa pháp.

Lại nữa, Sa-môn ác ấy làm Sa-môn, thấy tướng ánh sáng mặt trăng, biết chắc mặt trăng sắp bị xâm thực, do đặt dầu trong nước dầu liền chìm xuống, tướng như vậy chẳng tốt, chẳng lành cũng chẳng tịch tĩnh. Tướng như vậy chẳng phải tướng Sa-môn, chẳng phải tướng tịch tĩnh. Tướng của Sa-môn ấy không thích hợp với sự quan sát tướng xuất thế gian. Xem mặt trăng thế gian rốt cuộc là ác, biết mặt trăng chánh pháp chắc chắn bị xâm thực vì dầu chánh pháp bị chìm trong nước tâm của người tà kiến. Tướng này chẳng lành, cũng chẳng mát mẻ. Tướng thứ nhất này chẳng phải là tướng mặt trăng thế gian bị xâm thực.

Lại nữa, Sa-môn ác làm Sa-môn lại quán tướng khác của nguyệt thực ở thế gian như mặt trăng đang bị xâm thực, chim trên không trung bay gần xuống đất, Sa-môn này làm Sa-môn lại quán tướng không thích hợp.

Lại có tướng tốt, tướng xuất thế gian nên quan sát, đó là quán mặt trăng chánh pháp bị xâm thực. Như vậy mới là Sa-môn sống theo chánh pháp.

Hiện tượng chánh pháp bị xâm thực là: Sa-môn ấy hiểu biết thấp kém, hạ mình dưới Đàn-việt, hạ mình đi cạnh người thế tục như chim bay xuống thấp, xuống gần với những kẻ bạch y không đàng hoàng, những kẻ tà kiến, đi đến nhà họ để nói chuyện như chim ở trên không bay xuống gần mặt đất, bị lỗi thoái thất.

Tất cả Sa-môn, nếu làm Sa-môn nên quan sát tướng này là tướng thù thắng nhất, chứ không nên quan sát tướng mặt trăng bị xâm thực kia, vì đó chẳng phải là tướng tốt.

Lại có tướng: Nếu Sa-môn ác làm Sa-môn dùng tướng mặt trời bị xâm thực để quán tướng thế gian. Mặt trời sắp bị xâm thực, các phương liền đỏ. Sắp có điều lành phương ấy liền có gió ẩm ướt thổi, trong sạch không bụi, thấy tướng lành ấy xoay tròn bên phải là tướng thích hợp.

Sa-môn lành ấy làm Sa-môn, không nên xem tướng ấy vì nó là ngăn ngại việc tọa thiền, đọc tụng. Tướng thế gian này chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải an lạc.

Như vậy, như vậy Sa-môn lành ấy làm Sa-môn, muốn được tịch tĩnh hãy quan sát tướng xuất thế gian, quán mặt trời Bồ-tát sẽ được Bồ-tát Nhất thiết trí bảo hộ hoặc trong một kiếp, hoặc trong hai kiếp, hoặc trong ba kiếp quyết định sẽ được dự vào. Sa-môn này thấy tướng của Bồ-tát xuất thế gian, đó là tinh tấn, bố thí, trí tuệ. Tướng của phương màu đỏ là tâm Từ bi thương xót tất cả chúng sinh. Màu đỏ của thân Bồ-tát sẽ làm chúng sinh yên ổn. Bồ-tát này có đầy đủ công đức lớn nhất, tướng nhất thiết trí chắc chắn sẽ viên mãn, ắt sẽ thuyết pháp. Các phương không có uế tạp, không có bụi mù ngăn che là khi lìa khỏi điều ác. Những thứ ấy báo hiệu sắp có điềm lành là gió mát danh xưng của Như Lai thổi.

Như chỗ nhà coi tướng ở thế gian thấy, nhà coi tướng xuất thế

gian này thấy tướng chưa đến tướng Thanh văn, Duyên giác, A-lahán. Tướng xoay tròn bên phải là sự quan sát chân chánh.

Lại nữa, thầy coi tướng chỉ thấy tướng sinh tử trong pháp thế gian như vậy, khi có điều chẳng lành liền thấy các phương có màu đỏ, vàng, khô, không có sắc ẩm ướt hoặc thấy phương ấy không có gió ẩm thổi, có vầng sáng hình bánh xe màu xanh, vàng, đỏ của mặt trời xuất hiện ở trong không trung. Sa-môn ác ấy quán tướng như vậy làm ngăn ngại, phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng. Nếu Sa-môn lành làm thầy coi tướng xuất thế nói trước cho các tín đồ, sẽ có chỗ chẳng tốt. Cái gì là không tốt? Đó là thấy tướng như vậy làm ngăn ngại chánh pháp. Tướng như vậy là như thấy phương ấy có màu đỏ, chánh pháp sắp diệt có tướng như vầy: Người các phương ưa thích nói lời độc ác, nói dối, nói hai lưỡi, sát sinh, trộm cướp. Gió khô thổi lúc có người ấy là tiếng xấu. Nếu có chúng sinh thực hành phi pháp thì gió tiếng xấu thổi đồn khắp tám phương, phổ biến khắp bốn phương. Do các chúng sinh không thực hành chánh hạnh, tạo nghiệp bất thiện, nên gió tiếng xấu thổi đồn khắp như vậy.

Thầy coi tướng ở thế gian thấy vầng sáng hình bánh xe màu đỏ, xanh, vàng của mặt trời xuất hiện ở trong hư không, thầy coi tướng này là thầy coi tướng thế gian. Thầy coi tướng xuất thế gian thấy vừng sáng hình bánh xe màu xanh, vàng, đỏ của mặt trời là Samôn ác, Bà-la-môn ác.

Chúng hội như vậy chẳng phải là Nhất thiết trí mà khởi lên sự kiêu mạn về trí, tự xưng ta là bậc Nhất thiết trí. Người tà kiến này chẳng phải là mặt trời thật, chẳng phải là nhất thiết trí tự xưng là nhất thiết trí, chẳng phải là dòng họ tốt, chẳng phải sinh ra trong dòng họ Phạm. Khi mặt trời tà kiến của người này xuất hiện, tất cả cây cỏ, vườn, lá cây đều khô, như vậy là vườn cây tất cả người thiện và cỏ thuốc chánh kiến đều khô hết.

Như vậy, như vậy mặt trời chánh pháp xuất thế gian này xuất hiện làm tăng trưởng việc tọa thiền, đọc tụng và trí tuệ thù thắng sáng sủa, Đệ nhất nghĩa đế. Người ấy quan sát tướng thế gian như vậy, quan sát trước rồi sau đó dự đoán, đó là có các vị Sa-môn, trưởng giả có đức tin dự đoán như vậy: Các bạn gặp mặt trời chánh pháp xuất hiện đều nên siêng năng tạo các nghiệp lành chớ để sau này tất cả chánh pháp đều diệt hết mặt trời tà kiến xuất hiện, chẳng phải Sa-môn tự xưng là Sa-môn, chẳng phải Bà-la-môn tự xưng là Bà-la-môn, chẳng phải Nhất thiết trí tự xưng là Nhất thiết trí. Khi vừng sáng mặt trời hình bánh xe Sa-môn ác, Bà-la-môn ác xuất hiện các ông sẽ bị não hại.

Dự đoán về pháp Nhất thiết trí như vậy thì thích hợp. Đó là thầy xem tướng chân thật có ý rất thù thắng. Người có thể tư duy về tướng như vậy không phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng kinh luật. Người tư duy về tướng thế gian thì làm ngăn ngại việc tọa thiền, đọc tụng.

Đường thế gian và đường xuất thế gian hơn kém như vậy. Pháp thế gian thì thuộc về sinh tử. Pháp xuất thế gian thì lần lượt dẫn đến Niết-bàn.

Khi ấy Đức Phật Ca-diếp nói kệ:

Lìa tọa thiền, đọc tụng
Thường ưa thích xem tướng
Người ấy bỏ pháp lành
Không thể đắc Niết-bàn.
Nếu xả bỏ việc mình
Mà ưa thích việc người
Hai pháp ấy hoại mất
Sẽ đi vào đường ác.
Người nào bỏ nhà mình
Mà ưa thích nhà người
Sẽ bị người chê cười
Mau chóng bị bần cùng.
Ý ngu ác như vậy
Tự cho mình hơn hết
Xả bỏ pháp của mình
Để tu tập pháp khác.
Xuất gia mà tà mạng
Mất pháp mất danh xưng
Bị người khinh như cỏ
Vị lai đọa đường ác.
Xả bỏ pháp tịch tĩnh
Mà thực hành nghiệp ác
Người ấy không bao lâu
Do đây mất Phật pháp.
Tâm mong mỏi lìa dục
Không mong cầu gì khác
Siêng năng và biết đủ
Như vậy là hành thiền.
Nếu tâm thích dục lạc
Thường tham ăn và uống
Là giặc đắp ca-sa
Không gọi là Tỳ-kheo.
Nếu Tỳ-kheo nói tướng
Thường tư duy sao hạn
Gần vua, sống phóng dật
Chẳng thích hợp Tỳ-kheo.
Làm thầy thuốc thợ vẽ
Nghe pháp ác tán, vịnh
Sống chung với người ác
Liền mất pháp Tỳ-kheo.
Ghét ngồi thiền, đọc tụng
Ưa thích việc nói nhiều
Ham của cải cúng dường
Liền mất pháp Tỳ-kheo.
Tìm cầu các vật báu
Ưa thích hiểu biết nhiều
Lại tham của cải khác
Thoái thất pháp Tỳ-kheo.
Chỉ tham đồ ăn uống
Ngã mạn không hỏi người
Mong được người ca ngợi
Đánh mất pháp Tỳ-kheo.
Nếu không gần tất cả
Lìa bỏ chúng ác độc
Ăn rau cỏ đạm bạc
Là Tỳ-kheo chân thật.
Đạt các cảnh giới rồi
Bỏ chúng như bỏ lửa
Trừ bỏ lỗi ngã mạn
Là Tỳ-kheo chân thật.
Trong ngoài đều tịch tĩnh
Ánh sáng trí trang nghiêm
Y trì giới che thân
Là Tỳ-kheo chân thật.
Lìa bỏ pháp thế gian
Như Tu-di không động
Thương tất cả thế gian
Là Tỳ-kheo chân thật.
Ở trong thành ba đêm
Nơi đông người đều vậy
Chỉ ở trong hang núi
Là Tỳ-kheo giải thoát.
Sợ ác không gần người
Hạnh chánh tâm không động
Trí xét kỹ vắng lặng
Là Tỳ-kheo độc hành.
Không đọa thường ái ngữ
Lìa bỏ bạn bè ác
Không thích làm lăng xăng
Là Tỳ-kheo giải thoát.
Tỳ-kheo ấy như vậy
Được thoát khỏi các cõi
Biết thế gian, Niết-bàn
Tâm bình không mong cầu.
Tâm thường ưa trí tuệ
Và do khéo tịch tĩnh
Nên thoát nỗi lo sợ
Là sinh lão bệnh tử.

Tỳ-kheo này đắc A-la-hán, nếu không như vậy thì chỉ có tên là Tỳ-kheo vì tự làm ngăn ngại, rơi xuống bờ hiểm. Pháp thứ sáu này gây chướng ngại như vậy, nếu là Sa-môn lành thì không nên làm.

Lại nữa, Sa-môn nào thật là Sa-môn thì không nên phạm pháp thứ bảy. Pháp thứ bảy là gì? Đó là chỉ chuyên ăn uống đầy bụng. Việc này gây ra nhiều tham, sân khiến xả bỏ tất cả việc tọa thiền, đọc tụng, chỉ ngồi không trên giường lớn mà thôi, thọ dụng một cách uổng phí đồ đạc, giường nằm, tọa cụ, thuốc trị bệnh thuộc về chúng Tăng.

Lúc ở nhà, người này bê trễ, biếng nhác, sợ phải làm việc cho nên xuất gia, người này chỉ tham mùi vị thức ăn, thường tìm đến nơi hội hè để tìm xin đồ ăn uống hoặc cảnh giới vui.

Tỳ-kheo này là Tỳ-kheo tuy sống mà coi như đã chết, tuy được gọi là Tỳ-kheo nhưng không thể tọa thiền, đọc tụng kinh luật, phá hủy tịnh giới. Những người khác khi chết chỉ bỏ xác thân còn Tỳkheo hủy giới thì phá hủy tất cả pháp lành.

Tỳ-kheo này chỉ hay ngồi trên giường, tâm sinh kiêu mạn, tự cho là tốt, chỉ là Tỳ-kheo trên hình dáng và y phục mà thôi. Người ấy thực chất không có giới, lìa bỏ giới chân chánh.

Điều được gọi là giới đó là tâm giới thì người này không thể thọ trì, không thể làm theo.

Giới có bảy loại. Những gì là bảy? Đó là khẩu giới. Tỳ-kheo giữ khẩu giới không nói chuyện với Tỳ-kheo hoặc người đời trừ khi có pháp sự. Trừ lúc khất thực, Tỳ-kheo giữ giới không nói chuyện với phụ nữ, hoặc chú nguyện rằng: “Cầu cho cô được an lạc, được Niếtbàn”.

Khi gặp mẹ hay chị em gái, Tỳ-kheo này chỉ dòm chân họ, chớ không dòm mặt, y phục và đồ trang sức. Bấy giờ, Đức Thế Tôn Cadiếp nói kệ:

Tay rờ hoặc gió thổi
Lửa này đốt rất chậm
Thấy phụ nữ lửa phát
Đốt liền không đợi lâu.

Vì vậy Tỳ-kheo nào sợ bị lửa dục thiêu thì không được nói chuyện với tất cả các phụ nữ. Đó là giới thứ nhất.

Lại nữa, giới thứ hai là không gần gũi bạn ác, không ở lâu tại một chỗ, không nhận nhiều tài lợi, xả bỏ đồ cúng dường dư thừa, không bỏ người bệnh, không gặp vợ con, chỗ nào có nhiều lợi dưỡng liền bỏ mà đi vì sợ sinh tâm tham, lìa bỏ không ở cùng chỗ với người phá giới.

Bảy loại như vậy Tỳ-kheo ấy không giữ gìn, chỉ tham ăn uống, nếu thấy hoặc nghe đến của cải hoặc đồ cúng dường của người khác liền sinh buồn rầu và nghĩ như vầy: “Nay ta phải làm gì để được các lợi dưỡng ấy”.

Tư duy như vậy, tâm họ liền sinh tham đắm, tâm cấu uế như vậy làm tâm tham sinh trưởng.

Sa-môn ác ấy hủy hoại tất cả pháp lành, ngày đêm thường buồn không được yên ổn. Tỳ-kheo ấy, thấy các Tỳ-kheo trì giới khéo thực hành, được người khác cúng dường liền sinh lòng ganh ghét tham lam và liền đi đến nhà người Đàn-việt, cải trang hình dáng, y phục, ít nói và đi từ từ, tâm không yên tĩnh nhưng bên ngoài trá hiện oai nghi và tướng yên tĩnh, thân mặc y vá, lại kết bạn cùng với nhiều người không trì giới, chỉ có tiếng rỗng, thực hành pháp ác. Họ cùng bạn bè theo nhau đến nhà Đàn-việt hiện tướng trì giới như vậy tùy theo chỗ toan tính của tâm.

Người Đàn-việt ấy cho rằng Tỳ-kheo này là người giữ giới mới nghĩ: “Những Tỳ-kheo này giữ giới bậc nhất”. Các Tỳ-kheo ác trá hiện tướng trì giới này khiến người Đàn-việt sinh tâm tin tưởng kính trọng rồi cùng với bè bạn thường đến nhà người Đàn-việt.

Tỳ-kheo này, tùy theo chỗ hiểu biết ít nhiều về Phật pháp của mình, cùng với bè bạn nói pháp mà mình biết cho Đàn-việt ấy.

Với phương tiện như vậy, họ làm cho Đàn-việt đem những lợi nhuận của mình cho các Tỳ-kheo ấy.

Tỳ-kheo như vậy, tuy hình tướng là Sa-môn nhưng thật ra là kẻ cướp lớn nhất, đến nhà Đàn-việt tạo phương tiện để đoạt của cải nơi người khác dưới hình thức nhận cúng dường. Tỳ-kheo này thấy của cải của người khác, thấy đồ cúng dường của người khác liền sinh tham lam, ganh ghét chưa từng tạo pháp lành trong khoảnh thời gian nháy mắt.

Tỳ-kheo ác phá giới này xả bỏ việc tọa thiền, đọc tụng, chưa từng có một niệm nào không thuộc về địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Lại nữa, do tâm lừa dối, Tỳ-kheo ấy cùng với bạn bè của mình, nói lỗi xấu của Tỳ-kheo trì giới với nhà Đàn-việt đã quen biết, hoặc do tâm ghen ghét nói rằng các vị kia phá giới, hoặc do tâm ganh ghét nói rằng các vị kia dốt nát, hoặc nói về hành tướng của các vị ấy với tâm ganh ghét.

Tỳ-kheo ấy nói với Đàn-việt: “Thầy của các ông hủy phá giới cấm, hoặc nói là biếng nhác, không nghe, không trí, ngu si như chim, ít nghe, ít trí tuệ”.

Tỳ-kheo ác này nói xấu như vậy với Đàn-việt, thường gần gũi, quen thuộc với cảnh giới phi pháp, làm sao có thể tu thiền, đọc tụng?

Người ấy trống rỗng, không chắc, không thật, khi chết bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục.

Khi ấy, Đức Thế Tôn Ca-diếp Như Lai nói kệ:

Người nói lời vọng ngữ
Gây hại cho chúng sinh
Người ấy như bóng tối
Tuy sống mà như chết.
Nói tựa dao cắt lưỡi
Làm sao lưỡi không rơi
Ai nói lời vọng ngữ
Mất công đức chân thật.
Người nào nói vọng ngữ
Trong miệng có rắn độc
Dao nằm ở trong miệng
Lửa hừng cháy trong miệng.
Độc trong miệng mới độc
Nọc độc rắn không bằng
Miệng độc hại chúng sinh
Khi chết đọa địa ngục.
Ai nói lời vọng ngữ
Mủ từ miệng chảy ra
Lưỡi liền thành bùn nhơ
Lưỡi cũng như lửa hừng.
Dây trói này như vậy
Đẩy ta vào địa ngục
Cầu pháp bị phá hoại
Đều do lỗi vọng ngữ.
Người nói vọng ngữ ấy
Thì chẳng còn cha mẹ
Cũng không thể giữ giới
Đọa vào trong đường ác.
Người nào nói vọng ngữ
Liền bị người khinh rẻ
Bị người thiện tránh xa
Chư Thiên không hộ trì.
Ai không giữ lời nói
Dễ có nhiều sân hận
Tâm ai ưa nói nhiều
Sẽ thường chịu khổ não.
Thường ganh ghét người khác
Cùng với chúng sinh ác
Tìm cách gây rối người
Do đó đọa địa ngục.

Đức Phật Ca-diếp đã dạy bảo bảy loại pháp ác làm chướng ngại việc tọa thiền, đọc tụng như vậy. Tỳ-kheo ác ấy gây sự bất lợi đối với Tỳ-kheo trì giới cho nên bị chư Thiên xa lánh. Trong miệng họ sinh ra dao, vì món lợi nhỏ mọn mà nói người thật có công đức là không có công đức và nói người thật không có lỗi là có lỗi. Người như vậy là Sa-môn ác, tự xưng là Sa-môn mà nói lời vọng ngữ.

Người ấy thường có ý ác, hạnh ác và pháp ác. Về sau, người Đànviệt biết liền khinh rẻ vì biết sự lừa dối của người ấy. Đây là pháp thứ bảy. Vì vậy, Tỳ-kheo nên xả bỏ pháp ác thứ bảy này, đó là việc nói láo vì muốn đồ ăn thức uống mà thí chủ cúng dường đều thuộc về mình.

Lại nữa, pháp ác gây chướng ngại thứ tám làm ngăn ngại việc tọa thiền, đọc tụng cho nên Sa-môn phải bỏ. Pháp thứ tám là gì? Đó là góp nhặt các loại châu báu để tạo thành các vật báu.

Tỳ-kheo này sợ sinh tử, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y xuất gia với lòng tin. Ở trong sinh tử có nhiều khổ não, tóm lại mà nói thì có hai loại khổ dựa vào ấm, giới, nhập, ở trong ba cõi, nói rộng là năm đường. Lại nói rộng hơn là tám địa ngục lớn, ngạ quỷ, súc sinh, sáu cõi trời Dục giới. Ở trong Dục giới, có đủ các loại khổ chi nhánh khác. Ở trong Sắc giới có nỗi khổ về tâm, ở trong cõi vô sắc có nỗi khổ thoái đọa. Cho nên, lúc sắp thoái thất thì mất chánh định. Tâm này có vô lượng khổ khác nhau. Thiện nam ấy quán xem sự khổ não rồi, tâm sinh chán ghét, sợ vô lượng lỗi xấu xa như vậy, nên cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y, xuất gia với lòng tin Tam bảo.

Sa-môn ấy lại quán xét các khổ khác, tâm sinh lo sợ. Đó là thân khổ. Thân khổ ở hai nơi là Dục giới và Sắc giới, tùy theo chỗ có thân đều chịu khổ não.

Ở trong Sắc giới làm sao thọ khổ? Đó là trong lúc thiền định sự mệt mỏi xuất hiện, nên khi thiền xong thân liền mệt mỏi. Khi họ sắp thoái đọa, oai đức của họ kém cỏi, gió chạm vào thân. Gió này từ trước đến nay không chạm mà bây giờ chạm vào thân cho nên họ thọ khổ. Chỉ trừ nhãn xúc là thọ vui, không khổ vì là vô ký.

Việc thọ khổ không giống nhau, sai khác như vậy, dựa vào sắc thân mà có.

Nghe điều này rồi, người thiện nam ấy biết tất cả khổ não trong sinh tử đều do sự tụ tập của ấm, giới, nhập hòa hợp nên khổ.

Người ấy quán vô lượng vô biên nỗi khổ sinh tử rồi, liền xuất gia. Đã xuất gia rồi họ gần người ác. Do gần người ác nên họ cùng người ác tạo nghiệp khi nghe đến tính chất châu báu. Vì sợ tính chất gì mà họ xuất gia với tín tâm và khi nghe tính chất khác lại sinh tâm tham? Hoặc nghe tính chất của vàng, hoặc nghe tính chất của bạc, hoặc nghe tính chất của châu báu, nghe như vậy rồi, họ không biết chán, biết đủ, bị lửa tham thiêu đốt.

Bị lửa ấy thiêu đốt rồi, họ cùng người bạn ác đi ở trong núi, từ núi đến núi, từ ngọn núi đến ngọn núi. Họ đi khắp như vậy ở những nơi sâu kín, bị lửa tham thiêu đốt, ngày đêm thường thọ khổ không có lúc vui.

Do nhân duyên gì người xuất gia này không niệm tánh xả bỏ thân mạng mà tư duy về tánh khác của vàng bạc,… nghĩa là không tư duy về tính chất của thân mạng như đã nói ở trước.

Với tâm ý bất chánh, rối loạn như vậy, người ấy bị trở ngại việc tọa thiền, đọc tụng, đánh mất pháp lành.

Người ấy chẳng phải là Sa-môn, cũng chẳng phải là người đời, vì muốn cầu Niết-bàn cho nên xuất gia, bị tánh quỷ trói buộc liền sinh tâm tham, bị dây tham trói buộc nên rơi vào địa ngục.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Ca-diếp nói kệ:

Người quan sát tánh thân
Là quán tất cả tánh
Ai muốn đắc Niết-bàn
Phải điều phục tánh thân.
Nếu xả bỏ tánh thân
Tham đắm các tánh khác
Nên mê muội chân tánh
Không thoát được khổ não.
Tánh vàng đâu có thể
Trừ bỏ các khổ não
Người ấy rõ chân tánh
Được thoát khổ không nghi.
Trong tất cả các khổ
Khổ này khó thoát được
Đối với vua, giặc, lửa
Tất cả đều lo sợ.
Vì vậy nên xả vật
Như xưa nay không vật
Lìa bỏ thì được vui
Cất giữ thì chịu khổ.
Biết rõ về tánh thân
Lại biết rõ tánh tướng
Ưa thích việc thiền, tụng
Đốt cháy núi phiền não.
Vì vậy người trí tuệ
Quan sát tánh của thân
Chúng sinh biết tự tướng
Liền được vui Niết-bàn.

Người có trí phải siêng năng quán tính chất của thân này, không thích kinh doanh vàng bạc…. Đó là gốc lo sợ của tất cả người tại gia, huống gì là người xuất gia. Người xuất gia phải xả bỏ tất cả. Tất cả tài vật ấy đều đáng sợ, chẳng phải là tài vật chân thật. Thú vui như vậy, tài vật như vậy chẳng phải là tài vật, chẳng phải là tánh của tài vật.

Vậy cái gì là tài vật? Đó là quán tánh của thân. Nếu bỏ tánh của thân mà thích tánh khác thì không siêng năng tọa thiền, tụng kinh. Người như vậy khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục.

Vì vậy niệm xuất gia phải thường góp nhặt tài vật thiền, tụng, không nên tìm cầu vật tầm thường ở thế gian, vì nhân duyên ấy làm tăng trưởng tham ái. Do đó, biết đủ là tài vật tốt nhất, tài vật khác chỉ hay khiến khổ não.

Pháp thứ tám này làm ngăn ngại việc tọa thiền, đọc tụng, người Sa-môn xuất gia phải nên xả bỏ.

Lại nữa, pháp ác thứ chín gây chướng ngại ngăn cản Tỳ-kheo tọa thiền, đọc tụng vì vậy Sa-môn nên lìa bỏ. Pháp thứ chín là gì? Đó là thân cận nhà vua.

Người xuất gia không nên thân cận vua. Vì sao? Sa-môn gần vua bị tất cả người đời hiềm khích, không cúng dường. Sa-môn ác thân cận vua ấy để mong cầu của cải, thường xin tài vật ở thành hoặc thôn, hoặc nơi nhiều người, không biết chán, không biết đủ. Nếu không tìm xin thì cứ theo nhà vua, bỏ bê việc tọa thiền, đọc tụng. Tỳ-kheo này phát tâm muốn hành đạo giải thoát mà ngược lại đi vào con đường trói buộc.

Vì vậy, Tỳ-kheo không nên gần vua. Lại nữa, Tỳ-kheo không nên gần hạng người nào? Tỳ-kheo không nên gần người ác. Người ác là người gì? Đó là bạn ác, hoặc có lúc đắm nhiễm nơi cảnh giới năm trần, không khéo quan sát sắc, thanh, hương, vị, xúc, lười biếng ngu si, sống trong thôn ấp. Ta phải trừ bỏ hết thảy, không gần tất cả những người lười biếng, không gần tất cả những người dua nịnh, dối trá, không gần tất cả những người tham ăn, không gần tất cả những người buôn bán, không gần tất cả những người đồ tể, thợ săn, sinh sống bằng nghề ác, không gần tất cả những người bản tánh hay ghen ghét, không gần tất cả những người tà kiến, không gần tất cả những người hời hợt, không gần tất cả những người ngã mạn, không gần tất cả những người giàu có, quan quyền, không gần tất cả những người cờ bạc, không gần tất cả những người bán rượu, không gần tất cả những người nghiện rượu, không gần tất cả các quán rượu, không gần những người tham đắm phụ nữ, không gần tất cả tú bà, không gần tất cả người mua bán, tích trữ hàng hóa, không gần tất cả những đầu bếp của vua, không gần tất cả người gác ngục, không gần tất cả người bắt chim, không gần tất cả người ưa lý luận, không gần tất cả người tin ngoại đạo, không gần tất cả người bị mọi người ghét. Tỳkheo không nên gần những hạng người này, hoặc cùng ở, cùng nói chuyện, hoặc cùng đi đường, tất cả việc ấy đều không nên làm. Vì sao? Vì làm vậy sẽ bị nhiều người nghi ngờ. Hoặc người xuất gia, hoặc những người trong sạch, xa lìa các tội lỗi đều không nên gần những người như vậy. Nếu gần sẽ bị nghi là Tỳ-kheo ấy cũng giống như người kia ở gần người kia, hoặc ở cùng chỗ. Tỳ-kheo này bị lỗi của người khác làm cấu nhiễm.

Do đó không nên gần những người như vậy huống gì là gần vua. Người gần vua là người hèn hạ nhất.

Khi ấy, Đức Thế Tôn Ca-diếp nói kệ:

Tỳ-kheo nên ở rừng
Gần vua là hèn nhất
Mặc ca-sa, gần họ
Như nô lệ dựa chủ.
Tỳ-kheo không gần người
Cũng không nên gần trời
Như ngỗng không gần chó
Vì ngỗng rất sạch sẽ.
Vô ngã không tìm cầu
Tâm không mong gì cả
Người sợ hãi sinh tử
Gần vua thì chẳng tốt.
Sống ở rừng, gò mả
Hoặc đất bằng, hoặc núi
Chính là Tỳ-kheo thiện
Gần vua thì chẳng tốt.

Vô lượng phương tiện đủ loại như vậy nhắc ta đừng thân cận vua. Người thân cận vua bị những người có phạm hạnh chê trách. Người mà ta nên gần là vua trí. Gần người này sẽ được đạt đến tịch tĩnh. Do gần vua trí, chắc chắn sẽ đắc Niết-bàn, đắc được đạo quả nào cũng đều không bị thoái chuyển. Gần vua trí ấy liền có điều kiện để tọa thiền, đọc tụng, siêng năng một cách chắc chắn, không tạo nghiệp khác phế bỏ việc tọa thiền, tụng kinh, gần gũi bậc tôn trưởng, tu tập hạnh biết đủ. Tâm điều hòa, không có tham cầu, thường gần gũi các bậc tôn trưởng để tùy thời thưa hỏi, ghi nhớ không quên. Đối với những vật hiếm có, không cầu thấy nghe và cũng không cho đó là lạ. Người gần vua trí sẽ có phương tiện như vậy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Ca-diếp Như Lai nói kệ:

Gần tôn trưởng cúng dường
Tùy thời siêng thưa hỏi
Tu hành thí, giới, trí
Lại gần gũi vua trí.
Người chỉ chỗ yên ổn
Trong thế giới trời, người
Chẳng bị khổ trói buộc
Vua phàm ở thế gian.
Nếu không có khổ não
Mới được gọi là vua
Nếu thường chịu khổ não
Không được gọi là vua.

Tỳ-kheo nên gần vua trí này, đừng gần vua phàm vì gần vua phàm sẽ làm chướng ngại việc tọa thiền, đọc tụng. Nếu không tọa thiền, tụng kinh sẽ đọa trở lại trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Đây là cảnh giới vua phàm ở thế gian, vì vậy Tỳ-kheo biết lỗi này rồi không gần vua. Người sống trong rừng mà gần vua thì chẳng thích hợp cho nên phải lìa bỏ.

Pháp thứ chín này làm ngăn ngại việc tọa thiền, tụng kinh.

Lại nữa, pháp ác thứ mười gây chướng ngại làm Tỳ-kheo phế bỏ việc tọa thiền, tụng kinh cho nên Sa-môn phải xả bỏ.

Pháp thứ mười là gì? Đó là Tỳ-kheo mong cầu được mời mọc, ham thích mùi vị thức ăn, đã ở trong cảnh giới tu hành chân chánh rồi, về sau lại đi trong nhân gian, xả bỏ nơi đáng ưa là rừng vắng để du hành khắp nơi chốn. Tỳ-kheo này gần với sự phóng dật, đi từng nhà, từng thôn, từ thành đến thành, từ nơi nhiều người đến nơi nhiều người, đi khắp như vậy, thích nói nhiều, đi rong trong nhân gian, thích nói chuyện thế tục, thích gặp người thân, bạn cũ, mời mọc lẫn nhau, để được thức ăn ngon. Đã được đủ loại thức ăn ngon rồi, người này sống một cách hư dối trong rừng, bỏ bê việc tọa thiền, đọc kinh, sống phóng dật, mong cầu ăn uống.

Do thường tham đắm đủ loại thức ăn, không hay biết thân mạng chấm dứt nên họ vướng mắc nơi mùi vị như vậy, mong cầu được mời mọc, tâm cho là vui.

Lại nữa, Tỳ-kheo nào ở trong đời sống của mình không sống như pháp, mắt thấy sắc đẹp, do tâm ưa thích liền sinh dục nhiễm, mong cầu được thấy rồi sinh tham đắm, tâm sinh ưa thích những nơi ấy.

Tỳ-kheo này đi trong nhân gian đánh mất lợi ích của mình do việc tọa thiền, đọc tụng đem lại. Mất như vậy rồi, họ thường mong cầu mùi vị thức ăn, thường đến nhà người khác, do mắt thấy sắc, tâm sinh ưa thích, lần lượt như vậy, tai nghe tiếng, tâm sinh ưa thích; mũi ngửi mùi thơm, tâm sinh ưa thích.

Tham đắm tất cả cảnh giới như vậy, bị tất cả dây trói buộc, bị tất cả lưới ấy siết chặt, nên theo đuổi tất cả dục lạc, chẳng phải là người tại gia, cũng không phải xuất gia. Người này khi chết bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục. Vì vậy không nên thích được người mời mọc. Thích được người mời mọc có lỗi như thế.

Vì thế Tỳ-kheo nên quán lỗi này không nên thường đi rong trong nhân gian.

Người tu hành có năm nhân duyên được du hành trong nhân gian. Những gì là năm? Đó là:
Vì đi tìm thuốc và đồ dùng cho người bệnh.
Vì làm lợi ích cho thầy, tổ.
Vì sửa chữa tháp Phật và nhà cửa bị hư hoại.
Vì tạo lợi ích cho chúng sinh.
Vua khác phá hoại nước mình, vì muốn giáo hóa vua kia để cứu mạng muôn dân.

Vì những nguyên nhân như vậy thì được đi du hành trong nhân gian. Nếu không do năm nguyên nhân này, mà đi rong trong nhân gian là đi một cách hư dối, phế bỏ việc tọa thiền, đọc kinh. Người đi như vậy không thể thoát được già, bệnh, chết, buồn khóc, kêu gào, rầu, khổ, áo não.

Sa-môn ác ấy làm Sa-môn, xuất gia một cách hư dối, vì vậy nếu Tỳ-kheo nào muốn đoạn trừ ái dục, tâm nên quan sát chân chánh để làm tịch tĩnh các căn, nương cậy vào sư trưởng, gần gũi Tam bảo, thâu giữ tâm mà đi. Nhờ nương vào Tam bảo mà có thể chặt đứt tất cả phiền não và các gốc rễ kết sử.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Ca-diếp nói kệ:

Lìa bỏ nghiệp thiền tụng
Chỉ tham vị thức ăn
Chẳng phải là Tỳ-kheo
Tâm họ như ngạ quỷ.
Bỏ thiền thì không vui
Bậc trí nói như vậy
Lìa thú vui thiền định
Thì không còn gì vui.
Người ngu bỏ vui trên
Chỉ tham đắm các vị
Người ngu ác như vậy
Sẽ gặp việc buồn bực.
Người nào thích cảnh giới
Thường vui theo cảnh giới
Làm tăng pháp bất thiện
Chết đọa vào đường ác.
Người nào lìa thiền, tụng
Bỏ trì giới, bố thí
Hung ác khó điều phục
Tuy sống mà như chết.
Ai hành động thuận pháp
Không chết ở thế gian
Lìa pháp thường ngu si
Tuy sống mà như chết.
Tuy là mang hình người
Ngu si giống súc sinh
Do ánh sáng đèn trí
Không chiếu vào tâm họ.
Người nào giữ gìn giới
Mới được gọi là người
Tất cả người phá giới
Thì giống chó không khác.
Nếu tham không bố thí
Làm ác không sửa đổi
Thì không gọi là người
Mà xếp vào ngạ quỷ.
Người nào không giới trí
Lại không báu bố thí
Người ấy tuy còn sống
Mà không khác gì chết.
Nếu hành giới, thí, thiền
Giữ gìn niệm Tam-muội
Người ấy chính là người
Đáng được chư Thiên lễ.
Có công đức là người
Không công đức giống dê
Công đức, biết công đức
Người ấy chính là trời.

Người có công đức phải biết công đức ấy.

Người có công đức ở đâu cũng vui.

Nếu không có công đức thì thường chịu khổ.

Vì vậy Tỳ-kheo đã nghe công đức thù thắng như vậy rồi, thì không nên tham mùi vị. Pháp thứ mười này làm chướng ngại việc tọa thiền, tụng kinh. Sa-môn nào sợ việc sinh tử phải nên xa tránh nó.

Lại nữa, pháp chướng ngại thứ mười một làm Tỳ-kheo phế bỏ việc tọa thiền, tụng kinh cho nên Sa-môn phải xả bỏ. Pháp thứ mười một là gì?

Đó là Tỳ-kheo ngu si, do tâm ngã mạn không học hỏi người khác, bên trong không mở mang trí tuệ, bên ngoài nói với người khác: “Tôi là bậc Nhất thiết trí, tôi có Nhất thiết trí, nên tôi có thể nói, có thể giải nghĩa, có thể đọc tụng tất cả các pháp tụ, tôi nắm giữ ý nghĩa của trăm ngàn pháp, tôi dạy đệ tử, không ai có thể sánh với tôi!”

Tỳ-kheo tự giữ ý nghĩ đó trong tâm lại nói với người khác như vậy. Người ấy chỉ có trí tăng thượng mạn mà thật chẳng phải là trí. Người ấy thường nói công đức của mình với tất cả mọi người. Vì vậy, tất cả những người thế gian đã nghe họ nói đều quý trọng người ấy.

Tất cả người đời đều nói: Đó là Tỳ-kheo hoàn hảo, đủ Nhất thiết trí. Tỳ-kheo này không ai sánh kịp. Tất cả người đời nói như vậy.

Nhưng Tỳ-kheo ấy thật sự không biết gì, bên trong trống rỗng không biết gì, trong tâm không chứa gì cả giống như thùng rỗng hoặc như mây mùa thu, lìa bỏ việc tọa thiền, đọc tụng.

Nơi mà những người có chút ít trí tuệ muốn cúng dường là người tu thiền, đọc kinh, giữ giới, bố thí, siêng năng tu hành, vin theo pháp lành, trí tuệ, giới luật để sửa chữa, làm trang nghiêm, sống yên trong Phật pháp, siêng năng không ngừng nghỉ, dùng đại bi xông ướp tâm đó là những pháp mà Sa-môn nên làm.

Còn Tỳ-kheo ác ấy bên trong hoàn toàn không trí, nghĩ như vầy: “Nay nếu ta gặp Tỳ-kheo ấy, Tỳ-kheo ấy sẽ khinh chê ta, nhà Đàn-việt ấy thường cúng dường ta, nếu đến học với vị ấy thì Đànviệt kia sẽ không cúng dường ta nữa, khinh chê ta. Vì vậy nay ta sẽ theo chỗ hiểu biết của mình mà diễn nói cho họ có hiểu hoặc không hiểu. Ta không thể đến học với người kia được”.

Bên trong trống rỗng như vậy, sợ người khinh chê, do tâm ngạo mạn, đã tự mình không hiểu, lại không thưa hỏi người khác vì sợ người khinh chê.

Người nói vọng ngữ với tâm ngạo mạn như vậy đánh mất năm học xứ. Những gì là năm?

Một là vọng ngữ. Do người khác chưa biết nên người ấy nói dối với họ. Đó là người ấy đã phá học xứ đầu tiên.

Kế đó người ấy phá học xứ thứ hai là trộm cắp. Người ấy không nên nhận đồ cúng dường của người khác, vậy mà người Đànviệt lầm tưởng rằng người ấy có trí nên đem đồ cúng dường, nhưng người ấy ngu si, ít trí tuệ mà nhận vật cúng dường. Người ngu si như vậy liền trở thành ăn trộm. Như vậy gọi là phá học xứ thứ hai.

Kế đến là phá học xứ thứ ba. Đó là Tỳ-kheo lúc mới xuất gia, thọ nhận học xứ, sống dựa vào việc trì giới, nương theo việc trì giới phát khởi tâm như vầy: “Ta đã xuất gia!” Nhưng Tỳ-kheo ấy nếu không học hỏi thì biết trì giới như thế nào, lại còn nói với người khác là ta biết nhiều. Như vậy là phá học xứ thứ ba.

Kế tiếp là phá học xứ thứ tư. Đó là khi có ai hỏi điều gì, sợ bị họ khinh rẻ nên hủy báng pháp và thuyết phi pháp, bảo rằng đó là pháp. Đây là phá học xứ lớn nhất. Như vậy gọi là phá học xứ thứ tư.

Tiếp theo là phá học xứ thứ năm. Đó là do người ấy không biết pháp, nên đối với chánh pháp người đồng phạm hạnh đã thuyết lại bảo là phi pháp và nói: Các ông không biết chút gì về pháp sâu xa, những điều các ông thuyết chẳng phải là điều Phật đã thuyết… Người ấy hủy báng chúng Tăng khác như vậy và nói: “Chỉ ta mới có thể biết, tất cả chúng Tăng các ông đều không biết gì!”

Hủy báng tăng như vậy, do sợ người khác khinh, người ấy nói với chúng Tăng là: “Các ông thuyết phi pháp”, nhưng pháp chúng Tăng thuyết thật đúng là pháp.

Tỳ-kheo ác ấy đánh mất công đức chánh pháp như vậy, vọng ngữ bậc nhất, khi chết bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục vì không thưa hỏi người khác nên gây nhân ác.
Không thưa hỏi người khác lại có lỗi lớn là tâm ngã mạn. Do tâm ngã mạn, họ không vào trong rừng, sợ người khinh chê nên không thưa hỏi với bậc đạo sư về cách hành đạo, thế nào là duyên của tâm, thế nào là duyên của trần, thế nào là quên mất, thế nào là thâu giữ tâm? Đối với việc ấy, do tâm ngạo mạn, họ không thưa hỏi người khác nên không thể đắc đạo. Họ sinh tâm mệt mỏi, vừa ngồi kiết già liền đứng ngay dậy, nghĩ: “Pháp này hư dối, các Tỳ-kheo ấy hiểu sai lầm về việc này!” Nên cho rằng đây chẳng phải là đạo, thật không có thiền, không có định cũng không có kết quả của thiền, không có kết quả của định.

Do ngã mạn, sợ người khác khinh chê, họ đã phỉ báng như vậy.

Người tà kiến ấy khi qua đời bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục. Bấy giờ, Đức Thế Tôn Ca-diếp nói kệ: Biết thời lìa ngã mạn

Thưa hỏi bậc tôn trưởng Tỳ-kheo siêng tinh tấn Mau đạt được Niết-bàn. Học hỏi được điều gì

Đều chỉ cho người khác
Tự biết lìa ngã mạn
Tỳ-kheo ấy biết chắc.
Lìa ngã mạn, đại mạn
Biết đạo, biết phi đạo
Biết mình, người như vậy
Là Tỳ-kheo biết đủ.
Tâm ngã mạn, cố chấp
Sợ sệt và ngu dốt
Mong của cải cúng dường
Thì không được tịch tĩnh.

Vì không chịu thưa hỏi người khác, tâm ngã mạn càng thêm chắc nên họ không thể tọa thiền, đọc kinh. Tỳ-kheo này thường ăn thức ăn của người khác để bảo tồn tánh mạng, người ấy chỉ có hình dáng và tên gọi Tỳ-kheo, khi chết bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục, do tâm ngạo mạn không thưa hỏi người khác. Vì vậy, người học hễ còn sống thì phải thường thưa hỏi người khác. Tỳ-kheo này như thế, tâm thường an lạc, khi chết sinh vào đường lành là cõi trời. Sinh ở chỗ ấy rồi, họ dần dần tiến đến Niết-bàn, nhờ lìa ngã mạn.

Lại nữa, pháp ác chướng ngại thứ mười hai ngăn cản Tỳ-kheo tọa thiền, tụng kinh. Pháp thứ mười hai đó là thích nhiều bạn bè, có tiếng nhiều bạn bè, làm việc không lợi ích.

Tỳ-kheo như vậy chỉ tăng thêm tham ái. Tỳ-kheo nào có nhiều trở ngại, loạn động. Do làm nhiều việc tâm ý bị ngăn ngại, rối loạn. Do tâm ý rối loạn nên không thể tọa thiền, tụng kinh.

Người xuất gia xem kẻ oán, người thân đều bình đẳng, vì vậy không nên thân cận một người bạn, huống gì là có nhiều người bạn hay sao? Người bê trễ chỉ có tên là Tỳ-kheo, do đến nhà người, lúc mắt thấy sắc, tâm loạn động, nhãn thức thay đổi, tâm không nương theo pháp tịch tĩnh, không suy nghĩ, không quan sát, tâm không ngay thẳng, nói chuyện rất nhiều. Gặp bạn bè rồi kế đó nghe tiếng, tâm liền loạn động, có sự quan sát khác, tâm không tịch tĩnh, do không tịch tĩnh nên không quán sự tịch tĩnh, có chỗ nương theo, nếu gặp bạn bè trong thời gian một niệm cũng bị ngăn ngại, huống chi là gặp bạn bè trong thời gian lâu.

Vì vậy, Sa-môn không được có một người bạn huống gì là nhiều người bạn. Nếu có Tỳ-kheo gần gũi bạn bè, đi vào nơi đông người, từ chỗ đông người đến chỗ đông người, đi chơi như vậy mà không biết mạng đang chấm dứt trong từng niệm liền mất phần tốt đẹp. Nếu mất phần tốt đẹp là tự lừa dối mình nhiều nhất, đến nỗi không thể tọa thiền, tụng kinh trong khoảng một niệm.

Thế nên Tỳ-kheo biết việc ấy tăng ái nhiễm như vậy nên không thân cận người bạn thế tục.

Lại nữa, nếu là người bạn Đạo sư, chỉ đường Niết-bàn, khiến ta được an ổn trong đời vị lai, cùng ta tọa thiền thì ta nên thân cận. Người mà ta nên đi chung là người đã diệt trừ tất cả phiền não, đến thành Niết-bàn. Đó là người bạn tốt nhất. Những người bạn còn lại thì là oan gia, chẳng phải bạn chân thật. Do không chân thật nên không phải là bạn. Nếu gặp gỡ, cùng nói chuyện, cùng đi, cùng làm việc, thì sẽ cùng làm phế bỏ nghiệp lành. Người nào tạo được năng lực như thế trong đời vị lai mới gọi là bạn, hoặc là chỉ bày phạm hạnh, hoặc khiến tu hành, hoặc dạy bảo lo lắng cho đời sau, hoặc khiến cho lo sợ bị sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đó gọi là bạn lành. Còn nếu ai khiến cho thân, khẩu, ý gây ra việc ác, đi vào đường ác thì chớ gần họ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Ca-diếp nói kệ:

Ai chỉ đời vị lai
Người ấy là bạn lành
Ai hay ngăn nẻo ác
Lại hay cứu tai họa.
Thường thuyết pháp lợi ích
Lợi lạc đời vị lai
Ấy là người bạn lành
Làm bạn được lợi ích.

Người bạn thù thắng này có vô lượng loại, vô lượng sự sai khác, thuyết pháp đủ cách, chẳng tham ăn uống, vào nhà một cách cung kính, không chỉ bày ta ưa thích sắc, thanh, hương, vị, xúc, được gọi là bạn.

Còn người bạn như đã nói ở trước chẳng phải là bạn lành, Tỳkheo lành nên lìa bỏ không nên gần gũi một người bạn như vậy, huống chi là gần gũi nhiều người bạn như thế. Nếu gần người như vậy sẽ sinh vô lượng lỗi.

Nếu người bạn nào tạo điều bất lợi cho đời vị lai thì tuy gọi là bạn nhưng thật ra là oan gia. Tỳ-kheo nào gần người bạn ấy liền phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng.

Lại nữa, pháp ác chướng ngại thứ mười ba làm ngăn cản việc tọa thiền, tụng kinh của Tỳ-kheo cho nên Sa-môn phải lìa bỏ.

Pháp thứ mười ba là Tỳ-kheo cùng ở một chỗ với điều ác. Tất cả Tỳ-kheo đều cùng ở một chỗ với điều ác thì phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng.

Ở cùng chỗ với ác gồm có năm loại. Những gì là năm?

Đó là Tỳ-kheo giữ tịnh giới và pháp lành bậc nhất, có tâm ngay thẳng mà cùng ở một chỗ với người ác, phá giới bậc nhất, tự mình không có quyền lực gì hết. Đó là ở cùng chỗ với điều ác thứ nhất.

Ở cùng chỗ với điều ác thứ hai là: Tỳ-kheo chưa được vững vàng hoặc đã vững vàng mà cùng đi với người tà kiến, hoặc ở thôn, hoặc ở thành, hoặc ở nơi nhiều người, cùng đi, cùng ở. Đó là ở cùng chỗ với điều ác thứ hai.

Lại nữa, ở cùng chỗ với điều ác thứ ba là: Tỳ-kheo thường ưa gặp bạn thân, muốn đến gần họ, cùng đi theo nhau đến nhà trước đây đã ở khi còn tại gia. Đó là ở cùng chỗ với điều ác thứ ba.

Ở cùng chỗ với điều ác thứ tư là: Tỳ-kheo sợ người khác khinh chê, do cần hiểu biết nên đến nơi luận sư ác ở để thân cận làm quen. Đó là cùng ở với điều ác thứ tư.

Ở cùng chỗ với điều ác thứ năm là: Tỳ-kheo tâm ý loạn động, không thể hành động đàng hoàng, đối với đồ ăn, thức uống đã dọn sẵn hoặc ngọa cụ trải sẵn, Tỳ-kheo này hoặc đến ăn trước, hoặc đến uống trước, hoặc nằm trước, đến gần phụ nữ, hoặc là nhớ nghĩ, tư duy về các loại sắc, thanh, hương, vị, xúc đã từng thọ hưởng lúc trước.

Họ nhớ nghĩ cảnh giới và bị việc nhớ nghĩ cảnh giới phá hoại, tất cả chỗ khác đều có thể tránh nhưng cảnh giới này thì không thể tránh. Do việc xấu ác nhất này, tất cả việc tọa thiền, đọc tụng đều bị ngăn ngại rất lớn. Những nơi ác khác đều có thể tránh nhưng chỉ một chỗ này rốt cuộc không thể tránh, đó là thú vui nơi cảnh giới hiện ra từ nơi tâm, việc phân biệt xấu ác rất khó tránh, chỉ trừ tọa thiền, nhập định, quán xét chân chánh mới có thể tránh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Ca-diếp nói kệ:

Không nhìn kỹ hướng gió
Bị thổi lửa cháy hừng
Biết quan sát trời mưa
Diệt lửa tắt không còn.
Chúng sinh trước đã có
Vô minh tối lâu đời
Nếu thắp đèn trí tuệ
Sẽ diệt hết vô minh.
Lửa si, dục thiêu đốt
Người ngu trong địa ngục
Người trí thì không vậy
Do đó đắc Niết-bàn.
Mười ba pháp như vậy
Ánh sáng trí diệt trừ
Cho nên người sợ tội
Thường phải siêng giữ giới.
Nhổ bậc ra khỏi thân
Ba loại gốc tội lỗi
Dùng lửa lớn trí tuệ
Thiêu cháy củi phiền não.

Như trên đã nói, phải tạo phương tiện để xa lìa việc ở cùng chỗ với điều ác.

Thầy Sa-môn đã xuất gia thà đi một mình, đừng nhớ nghĩ nhiều, cũng đừng bê trễ, đừng nhớ đừng thích thôn cũ, thành cũ, những nơi đông người khi xưa và các việc vui trong quá khứ. Đừng nhớ nghĩ, ưa thích ngày lễ hội khi xưa ở nơi đông người, cũng đừng nhớ nghĩ mong muốn được thấy những chỗ mình đã du ngoạn khi xưa, đừng thu nhận các đệ tử ác, không gần gũi các bạn ác, không ưa thích sắc, thanh, hương, vị, xúc, không sinh tâm ô nhiễm, đừng hành động bất chánh, tâm chớ kinh động, cũng đừng mong cầu đồ ăn, thức uống, thuốc chữa bệnh và đồ đạc cần dùng, đừng mặc ca-sa nhiều màu sắc, cũng đừng tìm cách ũi, hồ cho bóng láng, lúc tắm rửa đừng lấy bàn chân lau chùi, chà đạp thân thể, đừng nói năng bừa bãi đủ thứ chuyện, có như vậy mới thiêu đốt, tiêu diệt được sự tối tăm tích tụ từ vô thỉ đến nay.

Năm căn và cảnh giới sáu trần là cửa của đường sinh tử cực ác. Ngọn lửa phân biệt phát khởi ra địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thường thiêu đốt tất cả phàm phu ngu si trên thế gian làm họ trôi lăn khắp nơi, bị thiêu đốt, tan rã, vào trong biển khổ. Vậy mà chúng sinh vẫn chưa nhàm chán việc trôi lăn nơi sinh tử nên bỏ bê việc giữ giới.

Nếu người sinh lên trời, phóng dật bậc nhất, về sau thoái đọa khỏi cõi trời ấy, xa lìa những người bạn thù thắng trước đây, sinh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thọ khổ vô cùng, bị lửa buồn rầu thiêu đốt, không ai cứu giúp, bị phóng dật phá hoại.

Vì những lý do như vậy, các chúng sinh nào lo sợ bị thoái đọa đều phải tu tập chánh pháp một cách thường xuyên, không gián đoạn. Pháp luật này là do tất cả các Đức Phật dạy để đoạn trừ phóng dật của các vị trời phóng dật.

Người nào được sinh Thiên đều do sức của việc trì giới. Nếu có người nào khéo điều phục tâm thì không được bảo rằng người này chết. Khi thân hoại mạng dứt, người này sinh vào đường lành là cõi trời.

Tất cả Thiên chúng các ông chưa biết nguyên nhân sinh ở cõi trời này là do sự coi trọng hay coi khinh giới. Vì muốn cho các ông được lợi ích nên ta chỉ dạy rõ về nghiệp ấy, thuyết mười ba pháp môn này. Cõi trời, cõi người làm nhân duyên lẫn nhau. Cõi người thì có thể trì giới, cõi trời thì không thể trì giới. Người chết sinh Thiên, nếu không phóng dật, khi thoái đọa sinh trở lại làm người.

Do nhân duyên đó, ta nói kinh này, Đức Phật Ca-diếp Như Lai làm lợi ích cho hàng trời, người, khiến được an lạc cho đến Niết-bàn, tạo lợi ích cho tất cả thế gian như vậy.

Bấy giờ, Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà và Thiên chúng ở nơi ấy rất là nhàm chán, tuy sống ở cõi dục nhưng không buông lung theo dục lạc. Tất cả đều thành tựu hạnh không phóng dật, đảnh lễ tháp Phật Ca-diếp Thế Tôn. Tâm họ thanh tịnh, tất cả chư Thiên ấy đều trở về chỗ cũ.

Kinh thứ sáu là kinh của Đức Phật Ca-diếp đã hết.

Pháp này gọi là sáu kinh được lưu hành ở vùng đất có đầy đủ cây cối.

Khi ấy, tất cả Thiên chúng đều ra khỏi tháp của Phật Ca-diếp, hỏi Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà:

–Vì sao Thiên vương biết được tháp Phật này?

Sau khi Thiên chúng hỏi như vậy, Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà bảo: Tất cả Thiên chúng các ông hãy lắng nghe: Ta có nhân duyên được thấy tháp này trước. Lúc trước, khi mới sinh ở cõi trời này, ta sống buông lung, ưa thích cảnh giới, bị năm sợi dây trói buộc, đi khắp cõi trời Dạ-ma này, vui chơi thọ hưởng công năng của năm dục, đi khắp nơi, từ một vườn đến một vườn, từ núi đến núi, từ hang núi đến hang núi, từ sườn núi đến sườn núi, từ một ao sen đến một ao sen, từ một ngọn núi đến một ngọn núi, có nhiều đến vô lượng trăm ngàn Thiên tử bị chúng Thiên nữ vây quanh. Các Thiên nữ ấy có vô lượng trăm ngàn đồ đạc trang sức, ca múa vui đùa, dạo chơi quây quần phía trước Thiên tử.

Lúc ấy, ta quán khắp như vậy về cõi trời này, ham thích, đắm nhiễm vào cảnh giới năm dục, tâm sinh vui thích, bị tham ái dẫn dắt.

Ta đi ở ba chỗ đều không bị trở ngại. Đó là ở trong nước, trên lưng ngỗng, từ lưng một con ngỗng đến lưng một con ngỗng, kế đến lại trên lưng uyên ương, từ một con uyên ương đến một con uyên ương, kế đó lại cỡi trên lưng vịt, từ lưng một con vịt đến lưng một con vịt, kế đến lại ở trong hoa sen, từ một hoa sen đến một hoa sen, ở trên sóng nước từ ngọn sóng đến ngọn sóng, tùy ý mà dạo chơi khắp nơi, không có trở ngại. Tất cả đều vui chơi ca múa, tươi cười, đi chơi như vậy, tâm rất hoan lạc.

Ta đã dạo chơi đủ cách như vậy rồi, lại nghĩ đến trò chơi khác ở trên đất, cỡi trên cung điện có trăm ngàn cung nữ chung quanh, từ núi đến núi, từ một hang núi đến một hang núi, từ vườn đến vườn, từ khe núi đến khe núi, khi ấy ta đi ở mọi nơi không có trở ngại.

Lần lượt như vậy, ở trong hư không lại cỡi cung điện có trăm ngàn Thiên chúng vây quanh, tạo các loại âm nhạc cõi trời phát ra âm thanh vi diệu, ca múa vui cười, vừa đi vừa chơi, khắp tất cả cõi trời này, thấy đủ loại nơi khác nhau không thể nói, nơi có nhiều bảy báu chiếu ra ánh sáng rất vi diệu. Ở ngọn núi như vậy, chỗ nào cũng thấy có trăm ngàn cây được trang sức bằng bảy báu, lần lượt như vậy lại thấy sông có trăm ngàn hoa sen tập trung trên bờ, nơi nơi đều có hoa sen xinh đẹp. Ta và Thiên chúng đều thấy như vậy ở trên hư không, ngó xuống các thứ dục lạc đầy đủ công đức.

Trên cõi trời này, chỗ nào cũng có trăm ngàn loại cung điện, ta thường đi lại không bị ngăn ngại ở ba nơi là nước, đất liền và hư không, đi chơi như vậy thọ hưởng đủ loại dục lạc.

Lại có lúc ta trông thấy sáu ngọn núi có sáu ánh sáng vọt lên hư không, màu sắc rõ ràng, không biết là vật gì. Thấy rồi ta sinh tâm thán phục và thường nghĩ: “Cái mà ta thấy đây xưa nay chưa từng có, đó là vật gì vậy?”

Nghĩ như vậy rồi, ta liền cùng với cung điện và tất cả Thiên chúng tiến mau về phía trước đến chỗ sáu ánh sáng đó. Khi đến nơi ta và cung điện đều bị rơi xuống, tất cả oai đức và ánh sáng ta có trước đây đều bị giảm sút.

Lúc ấy, ta nghĩ: Đây là vật gì, là thế lực gì mà khiến cho thân ta và Thiên chúng này tất cả đều rơi xuống, tất cả ánh sáng và oai đức đều bị giảm sút!

Sau khi suy nghĩ, ở trong Thiên chúng có một vị trời kỳ cựu tên là Vô Cấu Quảng. Vị Thiên ấy trước kia đã thấy sáu loại ánh sáng của sáu ngọn núi như vậy mới nói với ta: “Xin Thiên vương đừng có sợ, Thiên vương không có lỗi gì. Lúc này Thiên vương không có gì chẳng lành, xin Thiên vương lắng nghe. Vì lý do gì mà nay Thiên vương và Thiên chúng bị rơi từ trên không xuống. Trong quá khứ từng có vô lượng Thiên vương đã từng đi trên hư không ở nơi này, không thể vượt qua và đều rơi xuống như vậy. Từ trước đến nay, Thiên vương chưa từng được nghe do không biết nên muốn vượt qua như vậy liền bị rơi xuống, tất cả oai đức và ánh sáng đều sắp tắt.

Nay tôi nói lý do này cho Thiên vương nghe: Ở vùng đất cây cối sum suê có tạo sáu bảo tháp của sáu Đức Phật Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Bậc Thiên Trung Thiên là những bậc hiểu biết như thật về tất cả thế gian, để làm lợi ích cho hàng trời, người. Tháp Phật này là nơi nên lễ bái, nên cúng dường. Ai lễ bái, cúng dường đều được sức mạnh. Vì sao? Vì không có gì hơn tháp ấy.

Tháp Phật này không ai được đi qua. Do nhân duyên ấy nên hôm nay Thiên vương bị rơi xuống như vậy.

Khi đó ta bảo với Vô Cấu Quảng:

–Phật ở nơi nào?

Vô Cấu Quảng liền thưa:

–Ngày nay thì không còn, tất cả thế gian đều không có, vị ấy biết tất cả, thấy tất cả, biết tội lỗi xấu xa của tham dục, biết các khổ não ở trong sinh tử rồi, siêng năng tu tập sáu pháp Ba-la-mật, đủ ba a-tăng-kỳ kiếp, được tất cả trí rồi nhập Niết-bàn. Đó là nói tóm lược. Muốn được nghe rộng rãi, hãy xem tháp Phật này sẽ được nói rộng. Sáu tháp Phật này ở tại vùng đất có đầy đủ cây cối.

Khi ấy, nghe vị cựu Thiên tên là Vô Cấu Quảng nói, ta sinh tâm thán phục, thấy thế lực rồi liền cùng vị trời kỳ cựu Vô Cấu Quảng và Thiên chúng đến chỗ tháp Phật. Đến rồi suy nghĩ, vì muốn nghe pháp vượt sinh tử, nên vào tháp Phật. Đã vào tháp rồi, được nghe pháp mà Đức Phật Thế Tôn ấy đã giảng nói.

Bấy giờ, được nghe Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà nói như vậy, Thiên chúng đều từ giã Thiên vương đi về chỗ ở của mình. Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà cũng về chỗ ở từ trước đến nay của mình. Việc nói về tháp Phật đã xong.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy biết quả báo của nghiệp, quán khu vực thứ bảy của trời Dạ-ma tên là Quảng bác hành. Chúng sinh do nghiệp gì sinh ở nơi này? Do thấy, nghe, biết hoặc bằng Thiên nhãn, nếu người nào từng biết giữ giới, tâm hiền lành không giết, không trộm như đã nói ở trước, lại xả bỏ tham dục, đó là có người vào trong rừng, gần con chim có tiếng hót dịu dàng. Để làm phát sinh tâm dâm dục của nhau, con chim có tiếng hót dịu dàng ấy phát ra âm thanh dâm dục, chúng đi theo nhau, chim trống phía trước, chim mái phía sau. Lông cánh của chim ấy có đủ loại màu sắc. Khi thấy chim này mọi người đều hoan hỷ, phát sinh dục tình, nhưng riêng vị ấy không sinh dục niệm, không suy nghĩ đến, huống chi là hành dục.

Người ấy được như vậy là do giữ giới trong sạch, xả bỏ tham dục, tà vạy. Nhờ giữ giới trong sạch, khi chết vị ấy được sinh vào cõi trời ở Quảng bác hành. Sinh nơi ấy rồi, do tất cả các công đức nơi dục tập hợp, họ thọ hưởng các dục lạc, có vườn thù thắng, có cây bằng bạc, Tỳ-lưu-ly và châu báu màu xanh, cây bằng châu báu rất xanh, cây bằng đủ loại châu báu, hoặc châu báu màu hoa sen trang sức trong vườn, đủ loại ao báu nước chảy tràn đầy. Nếu người nào vốn tạo nghiệp lành, đến khu rừng này thọ hưởng đủ loại thú vui. Đó là khu rừng có tên “Rừng màu đỏ”, ở trong rừng này có các Thiên chúng và các Thiên nữ. Nếu vào trong đó, ánh sáng nơi cây ấy trở nên rực rỡ hơn, đủ loại châu báu vi diệu trang sức đẹp đẽ, đủ loại y phục. Nếu Thiên chúng vào trong vườn ấy, ánh sáng cây đó đều có màu đỏ, nhưng rừng cây này đều có màu như hoa sen báu đỏ, hoặc là châu báu màu ca-kê-đàn-na, màu cây ấy êm dịu, có lưới bằng ngọc quý, có gắn linh trùm khắp bên trên, theo ý nghĩ sinh trái cây và rượu, ý nghĩ muốn đến nơi nào thì thân liền đến đó, tùy theo ý niệm của vị trời muốn thọ lạc nơi nào, cành lá cây ấy liền phát ra đủ loại âm nhạc kỳ diệu. Họ đi về như vậy, có nhiều Thiên nữ và Thiên chúng đều cùng với cây ấy bay trong hư không qua lại tùy ý giống như loài chim. Cây ấy bay trong hư không có màu đỏ như mặt trời mọc, làm tất cả hư không đều tươi đẹp.

Lại nữa, cây màu đỏ ấy phun nước như mưa, ở trong hư không rất đáng ưa. Tiếng chim ấy, tiếng linh ấy, tiếng thiên nhạc… đủ loại âm thanh thù thắng như vậy đầy khắp hư không. Bấy giờ, Thiên chúng thấy cây bay ở trước mặt, các Thiên nữ vây quanh, họ đều vui vẻ. Có vô lượng trăm ngàn Thiên nữ cùng nhau cất tiếng ca hát, bay trên hư không. Cây ở phía trước như là dẫn đường, Thiên chúng theo sau. Khi Thiên chúng này có ý nghĩ: “Bây giờ ta lên cây ấy” thì cây ấy liền ở dưới, còn chư Thiên vui chơi trên cành cây. Thiên chúng ấy vui chơi khắp nơi trên cây. Theo tâm niệm của chư Thiên ở trên cành cây, cành cây ấy liền sinh ao sen, chư Thiên và Thiên nữ ở trong ao sen, vui chơi thọ hưởng dục lạc. Chư Thiên sống trên cây như vậy cùng với các Thiên nữ ở trong rừng đỏ, vui chơi thọ hưởng dục lạc. Họ đều thọ hưởng thú vui theo ý niệm như vậy.

Lại có chư Thiên khác ở trong lá cây. Nếu họ mong muốn, trong lá cây liền sinh ra cung điện đẹp đẽ. Cung điện xuất hiện theo ý niệm của họ, được trang hoàng bằng đủ loại châu báu kỳ diệu xen lẫn nhau, có lưới gắn linh che khắp cung điện ấy, có ao sen trang điểm cho nó, cửa sổ và cửa chính đều có rèm bằng ngọc quý. Chư Thiên ở trong ấy ca múa vui chơi với Thiên nữ. Họ giúp đỡ nhau, không gây khó khăn cho nhau, yêu thương lẫn nhau. Do nghiệp lành, chư Thiên này kết thân với nhau không có thù oán. Sự thân thiết ấy là kết quả của nghiệp lành. Kết quả của nghiệp lành lớn là có nhiều bạn thân. Khi đó, chư Thiên ấy đồng lòng với nhau vui chơi đủ cách ở trong rừng cây đỏ. Chư Thiên ấy đầy đủ tất cả thú vui nơi cõi dục ở trong rừng ấy. Do nghiệp thù thắng, họ đi trong hư không thọ hưởng vô lượng thú vui tùy theo ý niệm.

Lại nữa, chư Thiên ấy không bay trên hư không mà trở lại chỗ cũ, nơi có đủ loại nước chảy tràn đầy ao sen, ở nơi như vậy Thiên nữ vây quanh, vui chơi thọ hưởng dục lạc.

Kế đó, lại đến rừng tên là Trù thọ. Rừng Trù thọ ấy rất là đáng ưa, trong rừng có sông, trong sông có sữa chảy, sông sữa này làm rừng ấy xinh đẹp. Năng lực của sữa ấy là: Nếu vị trời nào uống thì nhớ lại đời trước sinh ở chỗ nào, khi bỏ thân mạng thì đến đây. Và khi ở nơi này thoái đọa thì sinh về đâu. Nếu sống buông lung sẽ chịu đủ loại khổ. Nhớ lại vô lượng loại khổ rồi, tâm sinh buồn rầu, khổ não. Nhờ buồn khổ, họ liền lìa bỏ sự buông lung. Lìa bỏ sự buông lung rồi họ sống thuận theo pháp. Sự lợi ích lớn này là nhờ nếm mùi vị sữa đó mà được.

Đã được uống sữa có năng lực như vậy, họ lại vào trong rừng Trù thọ, rừng có đủ loại sông, suối, ao tô điểm, có đủ loại chim ở trong ao ấy, chim có rất nhiều, hoa trên cành cây cũng rất nhiều. Do hoa nặng nên đều rơi xuống để trang điểm cho khu rừng, có ong bằng bảy báu, màu sắc hài hòa hút mật hoa ấy.

Để tự vui chơi, họ đi từ ao sen đến ao sen, từ một gốc cây đến một gốc cây, tất cả cây ấy đều bằng Tỳ-lưu-ly. Lá báu của hoa sen có quả bằng sắc vàng, quả này hơn cả vị cam lồ thơm ngon của cõi trời. Quả này là quả có mùi vị thay đổi theo ý nghĩ. Nếu lúc nào cần mùi vị liền có quả có mùi thơm ngon sinh ra. Ăn quả ấy xong, lại ca múa, đi đến nơi khác, tâm sinh vui sướng.

Kế đó, họ lại đi đến rừng “Thức uống”. Cây của rừng này phun ra rượu trời, hương sắc thơm ngon, rất ưa thích, không thể nói hết. Rượu này không gây ra lỗi say sưa. Rượu thù thắng này từ cây phun ra như mây rơi xuống thành mưa. Chư Thiên ấy uống rồi liền sinh tâm hoan hỷ. Sinh tâm hoan hỷ rồi, chư Thiên ấy nghe đủ loại âm thanh, uống rượu ngon cõi trời, thọ hưởng đủ loại thú vui. Lại có vô lượng ánh sáng trang sức thân mình, Thiên nữ đi theo vui chơi, ca múa vui cười với nhau.

Tiếp đó, lại đến rừng “Rồng và hoa sen”, rừng này rộng đến năm trăm do-tuần, bên trong tô điểm bằng hoa sen báu cõi trời rất thơm. Vườn “Rồng và hoa sen” này không có vật gì khác ngoài hoa sen và các con rồng. Ở trong hoa sen ấy, các con rồng này làm phát khởi tâm dục với nhau. Chúng ăn hoa sen và đồng lòng làm bạn lẫn nhau. Có các con rồng cái vây quanh, chúng ở nơi nước trong sạch có bảy công đức, không làm ướt áo, không có bùn nhơ, không có sâu cạn. Khi tiếp xúc với nước ấy thì mặc sức thọ hưởng thú vui. Rồng tự ý nghĩ tưởng, nước tùy ý sinh ra. Lúc các con rồng cùng các con rồng cái vui đùa trong ấy cũng giống như chư Thiên và các Thiên nữ thọ hưởng thú vui.

Bấy giờ, Thiên chúng thấy các con rồng vui đùa trong rừng “Rồng và hoa sen” ấy, liền từ không trung hạ xuống, hướng đến tiếng ca ngâm ở rừng hoa sen hòa cùng âm thanh dịu dàng của các Thiên nữ. Rồng ở trong ao phát ra âm thanh như sấm, vang khắp cõi trời ấy. Tiếng ca ở cõi trời ấy như vậy khiến các núi hang đều có tiếng vang. Tất cả chư Thiên ở nơi khác nghe tiếng ấy đều hướng đến khu rừng rồng hoa sen. Họ có đủ loại ánh sáng trang điểm trên thân. Rất nhiều Thiên nữ cùng họ hướng đến rừng hoa sen.

Khi ấy, chư Thiên đã đến rừng rồng hoa sen từ trước vui chơi đủ cách. Lại có các vị trời khác từ núi, khe và các nơi khác đến. Tất cả chư Thiên ấy thấy nhau rồi liền tăng thêm vui vẻ. Chư Thiên ấy cùng với Thiên nữ, các con rồng và rồng cái cùng nhau vui chơi, thọ hưởng dục lạc ở trong nước. Chư Thiên, Thiên nữ, rồng và rồng cái ấy thọ hưởng dục lạc như vậy trong thời gian rất lâu. Họ nô đùa, ca múa, vui cười. Các vị trời ấy sống buông lung như vậy, nghiệp lành sắp hết, mạng sống sắp diệt. Lúc phước đức, nghiệp lành của chư Thiên và Thiên nữ ấy sắp dứt, nếu họ lên hoa sen, hoa sen không đón nhận. Hoa sen ấy chìm xuống nước, liền bị hư hoại. Phải nên biết tướng hết phước đức của chư Thiên và Thiên nữ là như vậy.

Lại nữa, tướng biểu hiện sự hết phước đức của chư Thiên và Thiên nữ ấy là khi chư Thiên và Thiên nữ ấy nô đùa trèo lên lưng rồng thì rồng không chịu nổi và làm họ rớt xuống. Đó là tướng hết phước đức của chư Thiên và Thiên nữ.

Chư Thiên sống buông lung, bị sự buông lung hủy hoại làm tướng như vậy xuất hiện. Bấy giờ, chư Thiên ấy có vị xưa nay không sống buông lung lắm, đã biết trước tướng ấy. Do biết tướng đó, họ mới nói kệ:

Sống lâu rồi cũng qua
Lúc tuổi thọ sắp dứt
Giờ chết đã sắp đến
Vì si, trời không biết.
Nên tâm không biết đủ
Tham đắm cảnh giới vui
Do căn không biết đủ
Thêm ham muốn cảnh giới.
Năm căn ưa cảnh giới
Tham dục phá hoại tâm
Nghiệp phước thiện sắp hết
Trời si, không hay biết.
Bánh xe thời gian này
Thường cắt mạng chúng sinh
Thay đổi rất mau chóng
\Trời si, không hay biết.
Lửa chết này rất ác
Bị gió nghiệp thổi phừng
Giờ thoái đọa sắp đến
Trời si, không hay biết.
Trong hữu vi sinh tử
Không kể đến thân sơ
Lưới chết rất đáng sợ
Không ai có thể thoát.
Các hữu tình chưa chết
Chúng sinh mạng chưa dứt
Đều nên bỏ phóng dật
Để tự làm lợi ích.
Không bao lâu gậy chết
Sẽ đoạt mạng chúng sinh
Khi sức đoạt mạng đến
Sẽ khiến mạng thoái thất.
Mù vì mê cảnh giới
Xa lìa ngọn đèn pháp
Do đó không hay biết
Lưới chết rất đáng sợ.
Người ngu không biết gì
Lo sợ khi sắp chết
Do tâm tham cảnh giới
Nên bị ái lừa dối.
Thoái đọa rồi sinh lại
Xoay vần trong sáu nẻo
Chúng sinh bị si hoại
Nên chịu quả của nghiệp.
Rất ác và rất mau
Hủy hoại các thế gian
Làm sao vào lúc chết
Mà không sinh lo sợ.
Phải chăng do vô tâm
Nên chúng sinh không sợ
Ngu không biết như vậy
Vào giờ chết, lo sợ.
Tướng thoái đọa rõ ràng
Như thấy ở trước mắt
Nên biết không bao lâu
Thoái đọa khỏi cõi trời.

Thấy tướng thoái đọa rồi, vị Thiên ấy biết rõ tướng thoái đọa nên tâm ý buồn rầu, nhưng không đến nói việc đó với các vị Thiên chưa thoái đọa và các vị Thiên sắp thoái đọa. Vì người chưa thoái đọa, thọ hưởng các dục lạc ở trong năm cảnh giới nên sợ họ không tin là về sau sẽ thoái đọa. Vì sao? Ở trong cảnh giới do ngu si, phóng dật, hoặc do ý mê muội, Thiên chúng nào thân mạng sắp dứt mà buông lung thì không nên nói, cũng không nên chỉ cho họ việc đó. Lúc ấy, vị trời này biết như vậy rồi im lặng không nói, rời ao sen đi về nơi khác.

Về sau, vị trời ấy lại ưa thích cảnh giới, thọ hưởng các thú vui nơi cảnh giới. Lúc vị ấy sắp thoái đọa, tướng rất xấu hổ xuất hiện, tướng rất lo sợ xuất hiện. Do ngu si không biết nên họ không lo sợ, vui đùa trên lưng rồng và cùng các Thiên nữ ở trong hoa sen. Thọ hưởng dục lạc ở nơi đó trong thời gian rất lâu rồi họ lại cùng với vô lượng trăm ngàn Thiên chúng đến một ngọn núi. Núi ấy có tên là Thường lạc man, đến rồi, họ muốn lên núi. Trên ấy có kim ngân cõi trời, Tỳ-lưu-ly cõi trời, hoa sen báu cõi trời, có trăm ngàn cung điện bằng châu báu cõi trời, có cánh cửa kỳ diệu tô điểm cho núi ấy. Lại có trăm ngàn hoa sen rất kỳ diệu cùng trang điểm cho cảnh. Trong núi này đầy đủ tất cả các thú vui thù thắng nhất, trăm ngàn âm nhạc rót vào lỗ tai. Họ mặc đủ loại thiên y không phải bằng chỉ sợi, ánh sáng của thân mình có thể làm họ thấy mặt lẫn nhau, có sắc, thanh, hương, vị, xúc như sở thích của họ nên họ thọ hưởng dục lạc theo ý nghĩ. Tất cả những thú vui không thể nói đều thành tựu. Sông suối, vườn tược trang hoàng núi ấy khiến ta thấy liền sinh vui.

Theo thứ lớp, chư Thiên ấy lại lên núi Thường lạc man. Đã lên núi rồi, có người ngồi trên giường ở trong tòa nhà, có người cỡi ngỗng, có người ngồi kiết già trên đài sen. Chư Thiên và Thiên nữ đứng trên lá cây Cưu-bà-la vui chơi đủ kiểu, hoặc ca múa phát ra năm loại âm nhạc, hoặc ngồi thọ hưởng hoan lạc. Tâm họ muốn đi trong hư không cùng với các Thiên nữ xem xét khắp mọi nơi.

Ở cõi trời ấy, theo tâm ưa thích, họ tùy ý đến những nơi đáng ưa. Có chỗ như ngọn lửa phát ra ánh sáng vàng bạc của hoa sen báu vi diệu sáng rỡ, có chỗ có nhiều lá Cưu-bà-la màu xanh bóng láng, có chỗ là báu Tỳ-lưu-ly xanh sáng rỡ của cõi trời. Có chỗ là bạc, pha lê, chân châu sáng rực đáng ưa.

Kế đó, lại có con sông cát bằng ngọc quý, bên cạnh mọc lên ngọn núi báu có dòng nước trong mát gồm bảy công đức. Dòng sông của núi ấy có nước chảy xoay tròn giống như là châu báu anh lạc.

Quan sát nơi ấy rồi, họ bay lên hư không, lại thấy nơi khác có hoa sen bảy báu trang điểm ao nước, có rất nhiều ong trang điểm hoa sen. Thấy rồi, họ lại đi xem nơi khác có vườn, ao rất đẹp, có chim thú. Thú có nhiều màu. Có con màu bạc, có con màu vàng, sừng bằng châu báu rất đẹp, mắt bằng hoa sen báu, lưng có màu vàng ròng, hai bên hông có vảy màu bạc trắng và màu pha lê, lưng và hông cân đối. Lại có các con thú khác theo nhau thành bầy, có màu bảy báu. Chúng không sợ sệt gì, quây quần vui chơi, thọ hưởng hoan lạc. Hình dáng chúng rất kỳ diệu, do nghiệp tạo ra và cũng do nghiệp chúng đều thọ hưởng thức ăn cõi trời.

Lại nữa, ở nơi khác trong vườn có chim khổng tước, mạng mạng, vô lũ, hý luận, mắt lớn, vỗ cánh, đi chơi thành bầy trên ngọn núi, ra vào trong vườn, rừng đều thấy chúng. Đã đến núi Thường lạc man, khi sắp trèo lên thấy chim như vậy. Phần thứ nhất của núi ấy là châu báu xanh, phần thứ hai là hoa sen báu, phần thứ ba là châu báu vàng. Phần thứ tư là châu báu bạc.

Nơi bằng châu báu xanh có cung điện tên là Tạp ảnh bằng châu báu vi diệu, trong cung điện có cây Tỳ-lưu-ly, hoa rơi xuống giống như cái dù lớn tô điểm cho sông, suối, ao. Trong rừng hoa sen có trăm ngàn loại chim nhiều màu trang điểm, có nhiều Thiên nữ rất xinh đẹp ở trong cung điện ấy.

Phần thứ hai của núi ấy tên là rừng cười, rừng này có cây bằng bạc, lá bằng vàng, bầy ong đỏ, đàn chim hót véo von, sông suối chảy, nước có mùi thơm, gió thổi nhè nhẹ. Tất cả những thứ ấy tô điểm cho khu rừng cười.

Phần thứ ba, nơi châu báu vàng có rừng châu báu vi diệu tên là rừng Lạc bảo. Rừng này được trang điểm bằng cây pha lê, cành bằng vàng che khắp, có chim hót líu lo và sông suối tô điểm. Nơi ấy có nhiều Thiên chúng tươi vui và Thiên nữ vui vẻ ca múa. Họ được trang điểm bằng tất cả thú vui vi diệu đầy đủ công đức.

Phần thứ tư, nơi châu báu bạc, có hoa sen báu, cành bằng châu báu màu xanh trang điểm cho cây, có đủ loại chim tiếng hót rất hay, có nhiều đến vô lượng chư Thiên và Thiên nữ, có vô lượng trăm ngàn hoa sen tô điểm, chúng có nhiều loại khác nhau, có vô lượng loại khác nhau tùy theo con mắt nhìn, khi thấy liền thọ vui. Rừng cây, sông suối, cành báu, ao sen, chim thú, hoa sen ấy gồm đủ loại màu và mùi thơm, đủ loại hình dạng rất xinh đẹp, tô điểm cho núi Thường lạc man. Nơi nơi đều có chư Thiên và Thiên nữ cỡi hư không đi lên núi Thường lạc man và dạo khắp núi ấy. Tất cả đều thấy núi đẹp đẽ hơn cả ý nghĩ này có ánh sáng đủ màu. Thấy như vậy Thiên chúng liền tham đắm, đều muốn lên núi cùng với chúng Thiên nữ ca năm loại âm nhạc, thọ hưởng hoan lạc của năm dục, đó là kết quả của việc siêng làm việc lành, thích tu tập tạo nhiều nghiệp thiện đáng ưa, giữ gìn báu lành giới luật, là kết quả mà bậc Thánh ưa thích. Thọ hưởng thú vui như vậy, tất cả đều muốn lên núi Thường lạc man. Lúc họ sắp đến núi, có chim Thật ngữ hót kệ:

Vui thú của nghiệp lành
Trôi mau như sông này
Kẻ ngu không hay biết
Bị lòng tham lừa dối.
Giống như là lúc sinh
Chết đến cũng như vậy
Do mê muội buông lung
Trời si không hay biết.
Người ngu vì vô trí
Không biết mạng đã hết
Nên bị mất nghiệp lành
Cũng chưa hết tham ái.
Chúng sinh không lìa ái
Trôi lăn trong các cõi
Chúng sinh si ái ấy
Không biết thiện, bất thiện.
Quả lành rất đáng ưa
Khiến trời hưởng dục lạc
Tạo điều bất thiện ấy
Ở đường ác khổ cực.
Ai bỏ thiện và ác
Lại xa lìa các lỗi
Liền đến chỗ bất thoái
Nơi không sinh, không tử.
Thú vui ấy giải thoát
Dục lạc không giải thoát
Dạ-ma và trời khác
Hết nghiệp được siêu thoát.
Vô thường thì không dừng
Thường chính là bậc nhất
Tìm vui trong các cõi
Thoái đọa không thể vui.

Sau khi nghe chim Thật ngữ nói như vậy, trong Thiên chúng, vị nào không quá phóng dật thì vị trời ấy liền nghe và ghi nhận. Còn vị nào phóng dật, do lỗi ấy nên không nghe và tiếp tục tham đắm trần cảnh. Vị trời phóng dật ấy không ghi nhận một chút gì từ lời nói của chim trời, dù lời nói của chim ấy thật là lợi ích.

Với tâm vui vẻ, Thiên chúng ấy đến núi thứ nhất và bay lên đỉnh núi. Trên núi có cung điện, họ ngồi trong cung điện như đã nói ở trước. Ngọn thứ nhất ấy tên là núi Phổ kiến. Ngọn núi này là ngọn cao nhất trong một ngàn ngọn núi. Vì vậy núi ấy có tên là Phổ kiến. Thiên chúng cùng với Thiên nữ lên đỉnh ngọn núi ấy ca múa đủ loại âm nhạc để vui chơi. Có nhiều Thiên chúng và Thiên nữ lên ngọn núi ấy thấy vô lượng màu sắc do nghiệp lành hóa ra. Có ao nước quang minh, ao nước quang minh ấy có chứa nước rất đáng ưa. Nước này trong sạch, bên trong có cá vàng khiến người thấy sinh vui. Trong ao có sóng nổi cuồn cuộn, có các đàn chim như: ngỗng, uyên ương, vịt… Các loại chim này có tiếng hót rất hay và chúng ở rất nhiều trong ao nước. Ao nước ấy có nhiều hoa sen, hoa câu-bà-la-da, hoa câu-vật-đầu, hoa ny-na-đà, hoa ca-trá-ma-la. Những hoa này phủ khắp ao nước. Có nhiều loại ong phát ra đủ thứ tiếng. Lại có nhiều hoa Mạn-đà-la, có nhiều vàng và châu báu xen lẫn nhau, ao nước ấy trong sạch. Trong ao nước xinh đẹp ấy lại có hoa sen tên là mộc man, có trăm ngàn cánh, trong mỗi cánh lại mọc ra vô lượng cánh. Có cánh sen màu châu báu xanh, có cánh màu pha lê, có cánh màu hoàng kim, có cánh màu bạc, có cánh màu xa cừ, có cánh hoa sen bằng ca-kê-đàn-na, có cánh bằng kim cang. Chúng có mùi rất thơm và trong lành. Trong những cánh sen có màu khác nhau này đều có đài sen, ánh sáng của nó có màu mặt trời mới mọc. Các loại đài sen ấy có vô lượng màu. Cánh sen có vô lượng màu mọc khắp ao, đó là xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, đài sen có màu trắng và đỏ, nó có mùi thơm dễ chịu đầy khắp một vùng.

Bấy giờ, Thiên chúng từ hư không bay xuống, hướng đến ao quang minh rồi vào trong ao. Ao có chim vàng. Chư Thiên đã vào ao, có vị ở trên lưng chim, có vị ở trên đài sen, cùng nhiều Thiên nữ nô đùa, thọ lạc. Có vị ở trên hoa sen câu-bà-la-da, lại có vị khác ở trong nước, có vị ở trên lưng ngỗng, vào trong nước mà vui chơi. Có vị vui chơi với Thiên nữ ở trên đất liền. Họ đều có đầy đủ năm dục, vui cười với nhau, nô đùa thọ vui. Có vị vui chơi với Thiên nữ ở nơi khác trong cung điện và cùng nhau uống thứ rượu của cõi trời không gây ra nạn say sưa. Công đức vui trong hiện tại là: sắc, thanh, hương, vị, xúc đều đầy đủ. Chư Thiên ấy có vị dùng chén bằng châu báu để uống rượu. Đó là các loại chén làm bằng châu báu xanh, bạc, vàng, Tỳ-lưu-ly, màu hoa sen và pha lê. Có vị cùng với Thiên nữ uống rượu bằng cánh sen vàng. Có vị dùng cành sen uống rượu nhưng không làm hư hoa sen và cùng nhau ca ngâm vui vẻ, thích thú. Có vị trời thọ hưởng thức ăn cam lồ đầy đủ sắc, hương, vị, xúc. Mỗi vị đều cùng quyến thuộc của mình thọ hưởng đủ loại thú vui khác nhau. Có vị ở nơi khác cùng các Thiên nữ ca múa đủ năm loại âm nhạc, đi chơi xung quanh ao quang minh. Có vị cùng theo Thiên nữ đi chơi ở trong nước mà mùi vị thay đổi theo ý nghĩ của chư Thiên. Nếu vị trời nào muốn khiến sắc, thanh, hương, vị, xúc của nước này hoặc lạnh, hoặc ấm thì nhờ nghiệp lành nên đều được như ý. Quả báo của nghiệp thiện và bất thiện là như vậy, không có tác giả.

Lại nữa, nếu vị trời ấy nghĩ như vầy: “Nước này là rượu, ta có thể uống”. Ngay lập tức nước ấy biến thành rượu cõi trời có đầy đủ sắc, hương, vị, xúc không gây lỗi say sưa. Chư Thiên uống rượu ấy vào, do nghiệp lành, thú vui thù thắng tăng thêm, tâm sinh vui vẻ. Như vậy, do nghiệp của mình, chư Thiên ấy thọ hưởng thú vui do nghiệp mình tạo ra. Tất cả nghiệp lành không mất. Lưới nghiệp là thành phần chủ yếu tạo ra thân người, nhưng vì vui chơi đủ kiểu ở trong ba cõi, kẻ phàm phu ngu si không hay không biết.

Chim Thật ngữ nói kệ cho chư Thiên thọ hưởng thú vui đầy đủ năm thứ dục ở trong cõi trời ấy:

Như dầu hết, đèn tắt
Thân mạng cũng như vậy
Do nghiệp cũ đã hết
Phải lìa bỏ cõi trời.
Như khi vách bị hư
Tranh trên vách cũng mất
Do nghiệp hết như vậy
Thú vui cũng không còn.
Chư Thiên ở cõi trời
Hết phước liền thoái đọa
Hết thảy pháp vô thường
Chúng sinh đều tan rã.
Đều vô thường không định
Mạng ngắn ngủi không lâu
Sức thần chết rất mạnh
Vậy mà trời không biết.

Chim Thật ngữ ấy làm lợi ích cho Thiên chúng. Do nghiệp lành của chư Thiên ấy nên chim đó đã nói như vậy. Nếu vị nào trong số chư Thiên ấy chưa buông lung trong thời gian quá lâu thì khi nghe lời chim dạy, chỉ trong chốc lát liền tư duy chân chánh. Còn nếu vị nào phóng dật thì cũng như không nghe vì loạn tâm. Tuy nghe nhưng không ghi nhận.

Chư Thiên ấy thọ hưởng thú vui nơi cảnh giới trong thời gian lâu dài rồi họ đều cùng các vật mà mình đang cỡi hướng lên đỉnh núi ấy, cùng các Thiên nữ bay lên đứng trên hư không.

Lại thấy nơi khác có vô lượng núi, đủ loại hình tướng, trong tất cả núi, núi Thường lạc man là cao nhất. Lại có hai núi nữa là Bình đẳng tụ và Phổ kiến. Ba ngọn núi này cao lớn nhất ở cõi trời Dạ-ma. Thiên chúng quan sát núi như vậy, ánh sáng núi này chiếu khắp cõi trời ấy. Thiên chúng thấy rồi liền lên núi Thường lạc man. Lên rồi liền thấy đủ loại cây báu xen lẫn nhau như là cây vàng, bạc, Tỳ-lưuly tạo trang nghiêm cho núi ấy. Rễ, thân, cành, lá của cây ấy đều bằng bảy báu rất xinh đẹp. Rễ và thân cây ấy được trang sức bằng bảy báu. Các đoạn cây đều lần lượt làm bằng các châu báu khác nhau như là Tỳ-lưu-ly, châu báu màu hoa sen, bạc, vàng, pha lê, xa cừ, ca-kê-đàn-na. Từng đoạn của cây này đều được trang sức khác nhau, từ gốc, thân cho đến lá tất cả đều được trang nghiêm bằng bảy báu. Cách cây ấy không xa lại có cung điện báu hiện ra rõ ràng, có cùng một màu như ánh sáng mặt trời ở thế gian. Để vui chơi, Thiên chúng hướng đến tòa nhà đó. Số tòa nhà ấy gồm có mười, một trăm, một ngàn. Những tòa nhà như vậy có ở cõi trời ấy theo sự suy lường của tâm, sự suy nghĩ và sự tạo tác của ý nghĩ. Gần tòa nhà ấy có ao sen, số lượng ao sen nhiều ít cũng như tòa nhà ấy và mỗi mỗi tuần tự được trang hoàng bằng bảy báu. Ở nơi ấy có những con chim đi ở ba nơi: đi trên nước, đi trên cạn, đi trên cây. Những loại đi trên nước là uyên ương, nê-lô-bàn, đại hồ lô, ngỗng, vịt, ma-cưu-la. Những loại đi trên đất liền ở trên đỉnh núi ấy phát ra âm thanh dịu dàng, chúng có tên là Nhị chi, Âm thanh hoan hỷ, Nhất thiết nhẫn, Nhất thiết điểu thanh, Tất cả thời thường thọ vui, âm thanh của chúng là âm thanh hay nhất trong các âm thanh nơi cõi trời. Những loại đi trên cây là chim câu-sí-la, mạng mạng, khổng tước, anh vũ, phổ nhãn, bất tuần nhãn, phổ hạnh, thật ngữ, tri thời, ở trong loài người chỉ có một nửa loại chim đó, ở cõi trời ấy thì có đủ. Ở tại cõi trời có vô lượng các con chim như vậy, phát ra đủ loại âm thanh. Ba loại chim ở cõi trời này phát ra âm thanh vi diệu.

Lại nữa, trên đỉnh núi Thường lạc man còn có chim bay trên hư không, thân bằng bảy báu. Nếu chư Thiên sống phóng dật, khi bị phóng dật hủy hoại, con chim ấy nói kệ quở trách:

Phóng dật hủy hoại trời
Bị cảnh giới lừa dối
Bị tâm ái mê hoặc
Thần chết đã sắp đến.
Do tham đắm dục lạc
Không biết thiện, bất thiện
Tất cả chúng sinh ngu
Bị cảnh dục lừa dối.
Trôi lăn các cảnh giới
Gây ra đủ loại nghiệp
Bị các tâm sai khiến
Luân hồi trong năm đường.

Do thấy các vị trời phóng dật sống buông lung, con chim ấy đã nói bài kệ để quở trách họ, giống như cha mẹ dạy dỗ các con. Nhưng chư Thiên ấy tuy nghe lời này mà không ghi nhớ, giữ gìn, vẫn thọ hưởng dục lạc như cũ, vui chơi, ca múa cho đến khi tất cả nghiệp lành đều hết và sau đó thoái đọa khỏi cõi trời ấy. Khi thoái đọa khỏi cõi trời rồi, theo nghiệp của mình, họ sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu nhờ nghiệp còn sót lại, họ sinh trong nhân loại, ở nơi tương ưng với nghiệp, sinh vào nơi vui sướng, giàu có bậc nhất, có tâm ý thù thắng, tâm thường hoan hỷ, ở các cõi nước tốt đẹp thịnh vượng, ở châu Già-na-na, nước Sư tử, sinh ở nơi an lạc, giàu có trong gia đình trưởng giả.

Hết phần Quảng bác hành thứ bảy.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy biết quả báo của nghiệp, quán vùng đất thuộc cõi trời Dạ-ma. Do thấy, nghe, biết, vị ấy thấy cõi này còn có nơi tên Thành tựu. Do nghiệp gì chúng sinh sinh vào nơi ấy? Họ thấy có người tin Phật Thế Tôn, giữ giới với tâm thiện, không giết, không trộm như đã nói ở trước, lại xả bỏ việc tà dâm, tâm không nghĩ về việc hành dâm cùng với phụ nữ mà trước đây mình đã từng làm. Thiện nam ấy trì giới như vậy, đem ý lành huân tập vào tâm, khi chết sinh vào vùng đất Thành tựu, thuộc cõi trời Dạ-ma. Sinh nơi ấy rồi, họ được quả báo tương ưng với nghiệp của mình. Đó là vườn cây, ao sen, có đủ loại chim có tiếng hót rất hay. Họ được các Thiên nữ xinh đẹp vây quanh. Sinh ở nơi cõi trời vui vẻ như vậy, đầy đủ năm loại âm nhạc, vui chơi đủ cách, không thể ví dụ. Họ thọ hưởng dục lạc về sắc, thanh, hương, vị, xúc thù thắng vi diệu. Ví như ao nước có năm ngòi nước chứa đầy nước ở tại bờ ao, nước từ ngòi ấy chảy vào ao không bị ngăn ngại, năm căn đắm nhiễm năm trần, thân ấy thường chạy theo năm chỗ không biết chán, không biết đủ. Ví như năm chỗ ấy đều có lửa thiêu đốt tất cả. Nếu đặt củi khô vào và có gió thổi sẽ cháy rộng thêm. Cũng như vậy, năm căn tham đắm như ngọn lửa cháy mạnh lên. Lòng khát ái của căn này cũng tăng lên như lửa. Sự nhớ tưởng là gió thổi, sự quan sát không chân chánh là ngọn lửa, cảnh giới là củi khô làm năm căn bốc cháy. Lửa năm căn này có được củi cảnh giới nên các căn bị bùng cháy cũng như con thiêu thân bay vào lửa bị thiêu đốt. Cũng vậy, nếu ai vào trong ngọn lửa tham ái cảnh giới thì sẽ bị thiêu. Tất cả sự đắm nhiễm đều như con thiêu thân không hay, không biết. Như con thiêu thân ấy bị lửa đốt, tất cả chư Thiên đều rơi vào năm cảnh giới, cùng Thiên nữ đi trong vườn cây, từ ao sen này đến ao sen khác, từ chỗ có thức ăn ngon này đến chỗ có thức ăn ngon khác, từ nơi uống rượu này đến nơi uống rượu khác, từ nơi có âm nhạc hay này đến nơi có âm nhạc hay khác, ngửi hương hoa ở vườn hoa này rồi lại đến vườn hoa khác thơm hơn, từ rừng cây này đến rừng cây khác, nhìn rừng vui mắt này rồi lại đến rừng vui mắt khác, như vậy họ vào trong ngọn lửa cảnh giới ở khắp nơi.

Núi ấy giống như là đang hoạt động. Chư Thiên thấy nó giống như một con vật có mạng sống. Chư Thiên ấy nhìn núi như vậy. Như vậy, như vậy họ nhìn khắp nơi như lửa được dầu thì cháy phừng phực. Ở nơi ấy, Thiên tử mới sinh thấy vô lượng nơi được trang điểm bằng bảy báu này nên rất ưa thích và thấy ở đó có vô lượng Thiên nữ. Thiên nữ ấy rất nhiều. Tất cả mọi chỗ đều có nhiều Thiên nữ, trang sức đủ kiểu và Thiên chúng cũng vậy. Họ ca múa, nô đùa, cùng nhau hoan lạc, thọ hưởng năm loại âm nhạc, du ngoạn thọ lạc. Vị trời thấp kém thì số lượng Thiên nữ xinh đẹp vây quanh chỉ có một vạn. Nhiều phước hơn một tí thì số đó là ba vạn hai ngàn, kế đến là bốn vạn, kế đến là năm vạn. Lần lượt như vậy cho đến trăm ngàn Thiên nữ. Khi ấy, các Thiên nữ này cùng với các Thiên tử yêu thương lẫn nhau không sinh nhàm chán. Tất cả Thiên nữ đều tin chắc rằng Thiên tử yêu mình. Chư Thiên ấy ưa thích dục lạc, không biết chán đủ, như lửa gặp dầu thì cháy bừng lên.

Các vị trời sống buông lung ấy cùng với các Thiên nữ đáng yêu thọ hưởng dục lạc ở trong vườn, rừng cây, ao sen, sông suối. Lần lượt như vậy, về sau họ lại cùng Thiên nữ vào rừng ngỗng. Rừng này ngay cả ở cõi trời ấy còn hiếm có huống chi là ở nơi khác. Khu rừng ấy được trang trí bằng ngỗng. Ngỗng đó có con cánh bằng bạc, có con cánh bằng vàng, chân bằng châu báu hoa sen. Lại có con ngỗng khác mỏ bằng châu báu hoa sen, bụng bằng châu báu vàng. Có con ngỗng thân bằng vàng, lưng bằng bạc, chân bằng châu báu thù thắng ca-kê-đàn-na, mỏ cũng bằng ca-kê-đàn-na.

Lại có con ngỗng khác lưng bằng pha lê, hông bằng xa cừ, bụng bằng châu báu xanh, chân bằng vàng. Lại có con ngỗng khác thân bằng bảy báu. Có con ngỗng thân thuần một màu là sắc bạc hoặc màu pha lê. Có con thuần một màu vàng kim, có con màu xa cừ, có con màu châu báu xanh, lại có con ngỗng khác có màu rất xanh. Lại có con ngỗng khác màu châu báu thù thắng ca-kê-đàn-na, chúng giống như một bức họa bằng nghiệp của tâm. Họ thọ hưởng thú vui như vậy. Các con ngỗng này lại cùng các con ngỗng mái xinh đẹp dịu dàng đi chơi khắp nơi, hoặc ở trong ao, hoặc ở trong rừng hoa sen, hoặc trong sông, núi, hoặc ở trong rừng hoa sen trên đất bằng, hoặc ở trên đất mềm mịn có đủ loại hoa. Chúng cùng các con ngỗng mái thọ hưởng dục như vậy.

Bấy giờ chư Thiên vào rừng ngỗng ấy, có nhiều Thiên nữ trang điểm đủ cách đi theo. Chư Thiên cùng Thiên nữ vui chơi thọ hưởng hoan lạc. Thấy ngỗng rồi, chư Thiên ấy sinh tâm thán phục, càng thêm vui vẻ, đảo mắt nhìn khắp khu rừng thù thắng này. Các Thiên nữ ấy thuận theo tâm ý vui vẻ của chư Thiên mà nói:

–Thiên tử nên biết! Đây là rừng ngỗng rất đáng ưa thích với đủ loại cây báu, ánh sáng kỳ diệu, đủ loại châu báu, đầy đủ các công đức hy hữu, đủ loại hoa sen, vô lượng ngọn núi xinh đẹp, đủ loại hoa không thể kể hết và ao sen trang trí rừng cây. Trong rừng ấy có vua ngỗng Thiện Thời. Ngỗng như vua trời Mâu-tu-lâu-đà sống tại cõi trời đó. Ngỗng Thiện Thời đó chính là vua của tất cả loài ngỗng sống ở khu rừng ấy, vui chơi thọ hưởng dục lạc ở trong ao rộng rãi. Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà thường đến chỗ ngỗng chúa này cùng với ngỗng chúa vui chơi đủ cách. Vui chơi với ngỗng chúa đem lại lạc thú nhiều hơn hẳn so với việc vui chơi cùng tất cả chư Thiên khác. Vui chơi với tất cả các vị Thiên tử khác đều không vui bằng chơi với ngỗng chúa.

Các Thiên tử hỏi:

–Vì lý do gì vua trời Dạ-ma thường vui chơi với ngỗng chúa Thiện thời?

Thiên nữ đáp:

–Nguyên nhân này tất cả Thiên chúng đều không biết. Thưa Thiên tử, tôi nghĩ: Nay ta hãy đi đến chỗ ngỗng chúa Thiện Thời, vào trong rừng ấy rồi đến ao, quan sát kỹ lưỡng khu rừng, gặp Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà và ngỗng chúa:

Nghe Thiên nữ thưa như vậy, các vị Thiên mới sinh ấy nói:

–Chúng ta hãy cùng đến gặp ngỗng chúa ấy và Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà:

Bấy giờ, các Thiên nữ và các vị Thiên mới sinh hướng đến chỗ ngỗng chúa trong ao nước giữa rừng. Chưa đến chỗ ngỗng ở, họ đã thấy đủ loại rừng cây kỳ diệu của cõi trời, có nhiều đàn chim, thú, có đủ loại chim, thú nhiều màu sắc, chim trống cùng chim mái, thú đực cùng thú cái, chúng ăn đủ loại rễ cây, trái cây cõi trời khác nhau theo nhu cầu. Chúng đều có thân bằng bảy báu trang nghiêm thù thắng vi diệu. Ở giữa có đất bằng, chim, thú ấy ở trong rừng cây, ở trong hang, hoặc ở nơi bằng phẳng, hoặc ở bờ sông, hoặc bờ ao sen, hoặc ở trong ao, hoặc trong hang núi, đi chơi thành từng đàn hoặc phát ra tiếng kêu.

Thấy cảnh đó rồi, chư Thiên mới sinh ấy rất vui vẻ, sinh tâm thán phục về việc chưa từng có, mắt lay động. Các Thiên nữ vây quanh họ, ca ngâm. Họ vui chơi như vậy và đi vào rừng ngỗng.

Lại nữa, một nơi khác thấy có đàn khổng tước ở trong vườn. Các chim khổng tước có con nghểnh cổ, có con đang cọ xát cổ vào nhau. Chúng vui chơi đủ kiểu ở nơi trống trải. Lại có chim khổng tước thân bằng bảy báu, đi chơi ở chỗ kín đáo trong rừng tối, có con đi chơi trong bọng cây. Đủ loại khổng tước tương ưng với cõi trời như vậy.

Thấy như vậy rồi, Thiên tử mới sinh cùng các Thiên nữ muốn vào rừng ngỗng, có nhiều đến vô lượng trăm ngàn ức các Thiên nữ ở trong rừng ngỗng.

Lại thấy rừng khác rất đáng ưa, rừng đó có sông, nước trong bậc nhất. Khắp hai bên bờ sông có nhiều chư Thiên và Thiên nữ, nước bảy công đức đầy ngập ao ấy. Các sông đó tên là sông Dục, Tịch tịnh thủy, Hoan hỷ, Tửu lưu, Bồ đào tửu, Tùy xứng, Nhất thiết niệm, Điểu âm thanh, Khả ái lạc.

Trong rừng ấy có sông như vậy chảy. Các con chim sống ở trên bờ sông, uống nước lạnh rồi mới nói kệ:

Chớ để nghiệp thiện hết
Phải thường tạo nghiệp mới
Do nghiệp thiện đã hết
Thoái đọa khỏi cõi trời.
Người nào tạo nghiệp mới
Ba cõi, ba thời sinh
Tạo thêm khi chưa hết
Thì không đọa đường ác.
Ai lo cho tương lai
Không tham đắm hiện tại
Không tiếc nuối quá khứ
Sẽ giải thoát không lâu.
Nếu tâm không lay động
Khổ vui không chuyển tâm
Người trí ấy xả thân
Liền được vui nơi khác.
Nếu hưởng hết nghiệp cũ
Mà không tạo nghiệp mới
Nghiệp cũ hưởng hết rồi
Người ngu chết mới biết.
Vị trời nào tâm si
Hưởng thú vui cảnh giới
Nếu siêng tạo công đức
Không bị dục dẫn dắt.
Nếu có được cái thân
Đầy tai họa như vậy
Mà không tham dục lạc
Thì là người trí tuệ.
Ai không bị dục lôi
Sợ lỗi, không tham đắm
Lại sợ con đường ác
Tức là người mạnh mẽ.
Nếu tâm tham dục lạc
Mà không sợ đường ác
Người tham dục lạc này
Do ái nên thoái thất.
Tham đắm các dục lạc
Được rồi, tâm vui vẻ
Không nỗ lực tu tập
Về sau đọa đường ác.
Như chớp, như bóng nắng
Như thành Càn-thát-bà
Dục ác độc như vậy
Dối gạt hết tất cả.

Các chim trên bờ ấy vì thấy các vị trời mới sinh sống phóng dật nên đã nói kệ như vậy. Các vị trời mới sinh do say đắm dục lạc nên tuy nghe mà không ghi nhận. Khi ấy, nghe chim Thật ngữ nói xong, chư Thiên đã không ghi nhận lại vào trong rừng ngỗng thọ hưởng vô lượng thú vui theo cảnh giới. Do mới tham đắm dục lạc, do rừng ngỗng thù thắng nên chư Thiên tuy nghe mà không ghi nhận. Rừng ngỗng này do cành lá đan kín nên không thể biết được thật và không thật. Trong rừng ngỗng ấy thấy có cây bằng châu báu, từ xa ta thấy ánh sáng rất sáng, lại có trăm ngàn ánh sáng rất sáng tỏa khắp xứ ấy. Chư Thiên ở đây còn không thể thấy ánh sáng ấy huống gì là chư Thiên ở các cõi trời dưới, như: trời Tam thập tam, trời Tứ Thiên vương làm sao thấy được. Rừng cây bằng châu báu ở cõi trời ấy có ánh sáng như vậy. Vị trời nào phát khởi lòng ham muốn châu báu ấy sẽ biến thành nhà cửa bay trong hư không, bên trong khối châu báu có chỗ trống, chư Thiên ngồi trong đó, bay trên hư không vui chơi thọ hưởng dục lạc. Do nghiệp lành của họ nên hạt châu biến thành nhà cửa bay trong hư không. Ở trong khối châu báu như vậy, có vườn cây và ao sen cõi trời, có đủ loại cây, từng phần từng phần, ở vùng núi ấy có nhiều ngọn núi, có rất nhiều tiếng chim hót. Chư Thiên ở trong hư không nghe âm thanh ấy để vui tai. Họ thọ hưởng tất cả công đức nơi dục lạc, vui chơi thọ hưởng hoan lạc.

Lại nữa, nếu chư Thiên có ý nghĩ muốn hạ xuống thì họ liền hạ xuống. Xuống rồi, họ trở về chỗ ở của mình, châu báu ấy trở lại như cũ, có ánh sáng rất sáng. Các Thiên nữ đã nói với các Thiên tử mới sinh về điều đó.

Bấy giờ, chư Thiên mới sinh ấy bị dục lạc trói buộc, lại say đắm cảnh giới, hướng đến rừng châu báu, thấy ở một nơi không xa, có vô lượng trăm ngàn ánh sáng đủ loại, màu vàng, đỏ, trắng chiếu khắp rừng châu báu. Cách rừng châu báu ấy không xa là rừng ngỗng.

Khi ấy, Thiên tử mới sinh ở bên cạnh Thiên nữ, nghe như vậy rồi bèn hướng đến rừng châu báu, cùng với các Thiên nữ đi đến nơi đó. Đến sát nơi ấy rồi, họ thấy châu báu phát ra ánh sáng có đến vô lượng tia.

Lúc này, các Thiên tử mới sinh suy nghĩ như vầy: “Như các vị trời khác trong rừng châu báu, bay trong hư không, ngó khắp cõi trời, ta cũng vào rừng châu báu mà bay như vậy”.

Lập tức, như ý niệm, khối châu báu biến thành nhà cửa ở trong hư không. Các vị trời mới sinh thấy nó ở trong không trung rồi liền vào tòa nhà châu báu ấy cùng với các Thiên nữ.

Do nghiệp lành của mình, họ thấy trong tòa nhà ấy có đủ thứ đáng yêu. Trong tòa nhà châu báu ấy, có sông suối chảy, có ao sen, vườn rừng, ngọn núi đầy khắp tòa nhà châu báu ấy. Mắt thấy rồi, tâm sinh vui.

Lại nữa, ở các nơi, thấy có các con chim, tiếng chim ấy đáng yêu. Nơi ấy có đủ loại màu sắc, hình tướng hương hoa.

Lại thấy ở nơi khác có đủ loại chim thú, có sông bờ bằng phẳng, có sông bờ cao, chúng đều đáng yêu.

Ở nơi khác, bên cạnh sông ấy có nhiều Thiên tử và các Thiên nữ ca múa, vui cười, đùa giỡn thọ hưởng thú vui. Các rừng cây nơi ấy đều như đã nói ở trước. Thiên tử mới sinh cùng với Thiên nữ vui chơi thọ hưởng dục lạc, sống buông lung, tham ái không biết đủ.

Họ lại đi nơi khác, đến nơi có thức ăn ngon cõi trời để ăn. Họ được thức ăn tương ưng với nghiệp của chính mình. Ăn thức ăn ấy rồi, bị lửa cảnh giới thiêu đốt, họ lại hướng đến sông rượu cùng với các Thiên nữ bồng bềnh trên sông ái. Họ đi đến sông ấy là nơi uống rượu, đến chỗ ấy rồi họ dùng chén châu báu đựng rượu để uống. Uống rượu xong càng vui vẻ và họ bị ngọn lửa ưa thích cảnh giới thiêu đốt, bị năm cảnh giới làm mê hoặc, nên lại ca múa vui chơi cùng Thiên nữ.

Sau khi thọ hưởng dục lạc ở nơi ấy, chư Thiên lại hướng đến rừng hoa sen trong ao nước vì muốn vui chơi nơi ao ấy và cùng Thiên nữ thọ hưởng dục lạc, họ đi đến ao sen thọ hưởng thú vui cảnh giới, cùng với Thiên nữ vui chơi ở dưới nước. Đó là thú vui bậc nhất không thể ví dụ.

Thọ hưởng thú vui như vậy rồi, tham dục lại phát khởi, tâm mong cầu dục lạc, muốn nghe âm thanh, tham đắm cảnh giới và năm loại âm nhạc. Tâm mong cầu được nghe tiếng ca ngâm của các Thiên nữ và năm loại âm nhạc. Nghe xong, tâm liền vui sướng không thể tả được, không có pháp gì khác có thể ví dụ.

Vị ấy thọ hưởng công năng của năm dục gồm đủ loại thú vui thù thắng không biết chán, đủ. Do tham ái và lòng tham không biết đủ giống như lửa được củi không có hạn lượng, người tham dục này ham muốn không biết đủ, thường thọ hưởng các thú vui gồm vô lượng loại khác nhau.

Đã thọ hưởng lạc thú vui trong thời gian lâu dài rồi, nay lại ngồi trong tòa nhà châu báu ở trong rừng ngỗng, lại cùng các Thiên nữ bước ra khỏi tòa nhà châu báu ấy, để đi xem những nơi chưa từng có trong rừng ngỗng. Như vậy, như vậy thấy nơi ấy rồi, tâm liền sinh ưa thích. Thấy đủ loại như vậy rồi mà họ vẫn còn chưa biết đủ đối với cảnh giới. Chư Thiên và Thiên nữ vui chơi như vậy ở sông suối, ao sen, vườn cây, nghe vô lượng loại âm thanh của năm thứ âm nhạc.

Lại nữa, ngỗng chúa ở nơi rộng rãi. Chư Thiên và Thiên nữ hướng đến chỗ ngỗng chúa ấy. Ở đó, họ thấy vô lượng trăm ngàn chư Thiên đủ hạng, ca múa, nô đùa thọ hưởng thú vui cõi trời, không có vật gì khác có thể thí dụ. Nơi ấy sáng đến nỗi mặt trời ở thế gian cũng giống như con đom đóm. Ánh sáng ấy không thể ví dụ.

Thú vui cảnh giới ở nơi ấy không thể ví dụ được. Lạc thú chư Thiên thọ hưởng ở nơi ấy cũng không thể ví dụ được.

Mùi vị ngon nhất ở thế gian là vị mật hòa với rượu thuốc, nước mía. Đó là mùi vị ngon nhất trong cõi Diêm-phù-đề. Hòa hợp tất cả những vị đó đem so với vị tô đà thì cũng giống như vị đắng, vị thuốc không khác. Mùi vị ngon nhất của loài người đem so với mùi vị của cõi trời ấy thì sút kém như vậy. Mùi vị thù thắng này chỉ có thể nêu thí dụ một phần nhỏ. Mùi vị của cõi trời không thể ví dụ.

Hương thơm ở cõi trời cũng không có gì thí dụ được. Hương thơm nhất ở thế gian là hương chiên-đàn, hương trầm thủy, hương bột, hương thoa, hoa Chiêm-bặc-ca, hoa Ni-cư-tư-đế-tô-ma-na, Cànđà, Bà-ly-sư-ca, Ưu-bát-la, Câu-vật-đầu, Ni-châu-la… Hòa hợp tất cả hoa này cũng vẫn không bằng hoa trên cõi trời. Hương thơm của các hoa ấy không bằng một phần mười sáu hương thơm của hoa Nhẫmba sắc ở cõi trời đó. Trong cõi trời này, hương cũng như vậy, không gì có thể ví dụ được.

Lại nữa, trong cõi trời ấy, sự xúc chạm cũng như vậy không thể ví dụ. Sự xúc chạm thù thắng bằng phẳng của tất cả các nước trên thế giới là lụa kiêu-sa-da, ô-noa, hoặc kiếp bối… Hợp với tất cả những sự xúc chạm tốt nhất của loài người đem so với sự xúc chạm kém nhất trên cõi trời là vàng rất cứng thì sự xúc chạm ấy vẫn thù thắng hơn. Sự xúc chạm tốt nhất của loài người không bằng một phần mười sáu so với sự xúc chạm kém nhất của cõi trời. Như vậy các sự xúc chạm trên cõi trời không gì có thể thí dụ.

Lại nữa, âm thanh trong cõi trời cũng như vậy không thể ví dụ. Âm thanh hay nhất ở trong thế giới loài người là tiếng đàn tỳ-bà, đàn tranh, đàn địch, đàn không hầu, tiếng trống, tiếng ca. Hợp tất cả âm thanh này cũng không bằng âm thanh đầy đủ sự trang nghiêm trong cõi trời ấy. Nó không bằng một phần mười sáu âm thanh vi diệu của cõi trời ấy. Âm thanh trong cõi trời đó không gì có thể thí dụ.

Thí dụ này chỉ có thể đem dùng để thí dụ cho âm thanh của cõi trời Tứ Thiên vương, chớ không thể dùng để ví dụ cho âm thanh của cõi trời Tam thập tam, cũng không thể thí dụ cho âm thanh của cõi trời Dạ-ma.

Dục lạc của loài người chỉ có thể so sánh được với dục lạc của trời Tứ Thiên vương. Dục lạc của trời Tứ Thiên vương thọ hưởng chỉ có thể đem so sánh với dục lạc mà trời Tam thập tam thọ hưởng. Dục lạc của trời Tam thập tam chỉ có thể đem so sánh với dục lạc của trời Dạ-ma thọ hưởng.

Lần lượt như vậy, do nghiệp lực thù thắng, sáu cõi trời thuộc dục giới tốt đẹp dần dần lên. Cảnh giới chư Thiên cũng lại như vậy. Thú vui của các cõi trời tốt đẹp dần dần lên. Thú vui của tâm ý có vô lượng loại và tất cả đều hòa hợp.

Các Thiên tử vui chơi, thọ hưởng hoan lạc trong rừng ngỗng ấy. Theo thứ lớp, họ tiến dần về phía trước và tiến gần đến ngỗng chúa. Họ thấy ngỗng chúa vui chơi đủ kiểu ở trong ao rộng. Ngỗng chúa sống cùng với các con ngỗng mái trong rừng hoa sen, Thiên chúng vây quanh ngỗng chúa ấy. Có một bông sen bằng bảy báu rộng một do-tuần, nó có tua làm bằng kim cang, chạm vào rất mềm mại, hương sắc của nó không thể ví dụ. Có vô lượng ánh sáng phát ra từ hoa sen ấy. Hoa đó có trăm ngàn cánh. Vào lúc lễ hội, ngỗng chúa đứng trong hoa sen như vậy, thuyết pháp cho Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà và Thiên chúng nghe. Do nguyện lực ngỗng chúa này sinh ở cõi trời Dạ-ma tạo lợi ích như vậy, nói pháp cho trời Dạ-ma khiến họ lìa bỏ phóng dật.

Lúc này, các vị Thiên tử mới sinh lần lượt tiến về phía trước, đến bên ao rộng. Thấy các Thiên tử mới sinh ấy, ngỗng chúa Thiện Thời nói pháp cho họ nghe:

Do vì có khát ái
Ham muốn không biết đủ
Các căn động bởi tâm
Không biết thời giờ qua.
Dục lạc ta tham đắm
Thuộc về pháp vô thường
Nhìn phụ nữ để vui
Không biết thời giờ qua.
Bị ái làm mê hoặc
Lệ thuộc vào sinh tử
Người ngu si như vậy
Không biết thời giờ qua.
Tâm bị tham dục dắt
Chìm đắm nơi si ám
Người bị sân trói buộc
Không biết thời giờ qua.
Bị giam ở địa ngục
Không sinh tâm chán bỏ
Bị phóng dật mê hoặc
Không biết thời giờ qua.
Không hổ thẹn sửa chữa
Ỷ thế sinh kiêu mạn
Tâm tham không biết đủ
Không biết giờ đã qua.
Bị năm dây lưới trói
Và sáu pháp mê hoặc
Trong ba thời thường si
Không biết thời giờ qua.
Không biết nẻo đường ác
Bị lưới ác phá hoại
Nếu có tâm như vậy
Không biết thời giờ qua.
Dục mới được thì vui
Về sau thì thành hại
Do tham đắm dục lạc
Không biết thời giờ qua.
Không biết khổ đời trước
Mà say đắm thiên lạc
Chưa biết ái biệt ly
Không biết thời giờ qua.
Bị lưới nghiệp trói buộc
Như cá bị mắc lưới
Do đó mất đường lành
Không biết thời giờ qua.
Người ngu si vô tâm
Không biết có tai họa
Chìm đắm nơi si ám
Không biết thời giờ qua.
Lưới nghiệp trói chúng sinh
Một mình không bè bạn
Thấy Thiên nữ nên mê
Không biết thời giờ qua.
Cưỡi trên ngựa các căn
Mê hoặc, mất đường lành
Tham đắm vị ba cõi
Không biết thời giờ qua.
Không biết giới, phi giới
Hoặc là nhiều sân hận
Mất ý, mất cả đạo
Không biết thời giờ qua.
Không biết lợi hay hại
Và nên làm hay không
Vui chơi như trẻ con
Không biết thời giờ qua.
Như nước sông chảy xiết
Ở nơi ao, vườn cây
Do thường hưởng dục lạc
Không biết thời giờ qua.
Ở tòa nhà trên núi
Hoặc ở rừng hoa sen
Do thường hưởng dục lạc
Không biết thời giờ qua.
Chưa từng có hiểu biết
Về quả báo nghiệp lành
Chỉ tham đắm mùi vị
Không biết thời giờ qua.
Bị gió nghiệp thổi bay
Thường ở ba cõi ấy
Trôi lăn như bánh xe
Do si không hay biết.
Thường ở nơi nguy hiểm
Đi trên cầu dây cao
Người ngu si như vậy
Không siêng trừ bỏ lỗi.
Ai xả bỏ tham dục
Là người tinh tấn nhất
Lìa tất cả mong cầu
Liền không còn phiền não.
Người ấy đầu, giữa, cuối
Nếu được Phật pháp rồi
Do tu hành yên tĩnh
Là người không phiền não.
Nếu ai được dục lạc
Dục lạc ắt phá hoại
Chịu quả khổ vì dục
Dục chẳng phải pháp lành.
Vì vậy người có trí
Tâm không ưa dục lạc
Người ấy thường trừ bỏ
Nguồn gốc khổ sinh tử.

Ngỗng chúa nói kệ chê bai việc tham dục cho các vị trời mới sinh nghe. Do ngỗng chúa nói như vậy, chư Thiên mới sinh tiến dần về phía trước đến sát ngỗng chúa. Chư Thiên mới sinh ấy tuy nghe pháp thù thắng nhưng tâm không ghi nhớ vì bị cảnh giới mê hoặc. Tuy dần dần đến gần ngỗng chúa nhưng không ghi nhận pháp vẫn say đắm cảnh giới thọ hưởng các dục lạc.

Khi ấy, thấy ngỗng chúa vui chơi trong nước, họ vào rừng hoa sen, cắt lấy hoa sen, cùng Thiên nữ ném vào nhau để vui chơi.

Ngỗng chúa Thiện Thời nói với họ:

–Đây là lời an ổn mà không chịu tiếp thu, sau này các ông sẽ làm được gì?

Bấy giờ, nơi rừng ngỗng ấy, các Thiên tử mới sinh lại nghe ở nơi xa có âm thanh thù thắng, vi diệu, hơn cả âm thanh cõi trời. Nghe âm thanh ấy rồi, tâm họ sinh ưa thích. Âm thanh ấy phát ra cùng khắp và giống như tiếng đàn tỳ bà, đàn không hầu, tiếng trống, tiếng ca, tiếng sáo, đủ loại âm thanh đáng yêu như vậy.

Lúc đó, chư Thiên đang vui chơi đủ kiểu ở bờ ao rộng chợt nghe âm thanh ấy, tất cả đều quay mặt về phía âm thanh đó lắng nghe.

Họ thấy ở đằng xa có trăm ngàn tòa nhà, vây xung quanh nhau, có tiếng ca của chư Thiên rất là đáng ưa. Tiếng ca ấy khiến người nghe phát khởi ham muốn. Các tòa nhà ấy ngay ngắn, trang nghiêm, tốt đẹp giống như sao đi quanh mặt trăng. Như vậy, như vậy tòa nhà vây quanh nhau ấy phát ra ánh sáng xoay tròn xung quanh.

Thấy cảnh ấy, tất cả Thiên chúng đều rất vui. Ở đó có tiếng ca ngâm của trăm ngàn Thiên nữ. Thiên chủ Dạ-ma ngồi trên đài sen bằng bảy báu có trăm ngàn cánh, có vô lượng Thiên nữ vây quanh để nghe pháp. Họ hướng đến nơi Bồ-tát Ngỗng chúa Thiện Thời ở.

Thấy họ đến, Bồ-tát Ngỗng chúa Thiện Thời liền nghinh đón. Bồ-tát cùng với các ngỗng mái và ngỗng trống có vô lượng trăm ngàn bảy báu tốt đẹp trang điểm thân cùng một lúc bay lên hư không hướng đến Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà. Lại có tiếng ca ngâm của các con ngỗng khác.

Hai vị vua này, một là ngỗng chúa, hai là vua trời kính trọng lẫn nhau, dùng lời tốt đẹp hỏi thăm nhau. Do nguyện lực trước kia là trừ bọ phóng dật của trời Dạ-ma, ngỗng chúa Thiện Thời sinh ở trời Dạ-ma.

Ngỗng chúa Thiện Thời nói: Lâu quá Thiên vương không đến ao rộng này. Tôi nghe chư Thiên khác nói rằng:

–Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà không sống phóng dật, đã cùng Thiên chúng chiêm bái sáu tháp Phật ở “Vùng đất cây cối sum suê” để lễ bái, cúng dường các kinh do Phật hóa ra, đã đọc kinh ấy và giảng cho chư Thiên nghe ở tại tháp Phật đó. Vì lý do ấy nay tôi đến tiếp đón. Lúc Thiên chủ thuyết pháp ở nơi ấy, tôi cũng thuyết pháp thích hợp cho các vị trời đang chơi ở bên ao rộng này. Đó là pháp đệ nhất nghĩa, tịch tĩnh an ổn, trừ bỏ phóng dật, lợi ích rốt ráo. Vì lý do này, nay tôi tiếp đón Thiên vương như vậy. Vì mến pháp, lìa bỏ tâm ngã mạn và kính trọng Thiên chủ nên tôi nghinh đón.

Nghe lời ấy xong, Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà nói:

–Ngỗng chúa đã tạo lợi ích rộng rãi cho tất cả chư Thiên ở cõi trời Dạ-ma. Vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chư Thiên ở cõi trời Dạ-ma nên tôi đến nơi này. Nay chúng ta hãy cùng nhau trở về ao rộng.

Nói lời ấy xong, Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà, vô lượng Thiên chúng và các Thiên nữ vây quanh, ngỗng chúa Thiện Thời và vô lượng trăm ngàn ngỗng chúng vây quanh, hai vua ấy cùng với đồ chúng của mình hòa đồng với nhau ở trên hư không phát ra đủ loại âm thanh, tâm họ đều không cấu uế, giống như châu báu, tuy ở nơi phóng dật nhưng họ không phóng dật và có oai đức lớn, tất cả cùng hướng đến ao rộng.

Sau khi họ đến ao rộng, tất cả Thiên chúng nơi ấy liền tạm thời ngừng sống phóng dật, không ca hát, không vui chơi với nhau, không nô đùa đủ kiểu ở trong nước và sinh tâm kính trọng.

Biết tâm Thiên chúng đã điều thuận, Thiên vương Dạ-ma bảo với ngỗng chúa:

–Ngỗng chúa Thiện Thời, lúc này rất thuận lợi, có thể thuyết pháp. Thiên chúng thấy tôi, tâm họ đều lìa bỏ ngã mạn, tất cả Thiên nữ cũng không còn ngã mạn, có thể thuyết pháp cho họ.

Lúc đó, ngỗng chúa tự nghĩ, đời trước đã từng sống ở thời có Phật, hiệu là Ca-ca-thôn-đà, chỉ cần dùng một pháp trong các pháp đã được nghe Phật ấy giảng để thuyết, nêu cho Thiên chúng, bèn bảo với Thiên vương:

–Thiên vương hãy nghe kỹ, nay tôi sẽ nói: “Có năm tai họa mà trời hoặc người nào sống phóng dật sẽ phải gánh chịu.

Đó là người sống phóng dật tâm sẽ bị loạn. Ý nhớ nghĩ về pháp khác. Miệng nói lời khác. Nếu có nói gì đều không thật và vô nghĩa, trước sau trái nhau, thay đổi không nhất định, người khác không tin. Vì sao? Vì họ sống phóng dật nên tâm loạn động, tự mình không thể biết là nói về việc gì, nói vì ai. Do đó, người kia liền khinh chê, người kia không ưa thích. Do như vậy, tự mình làm cho tất cả đều khinh thường. Đó là tai họa của việc phóng dật. Do lỗi phóng dật, họ bị đọa vào đường ác, sinh vào nơi tương ưng trong ba đường ác. Đó là tai họa đầu tiên.

Sự phóng dật ấy lại có tai họa thứ hai. Tai họa thứ hai là gì? Đó là không biết điều cần làm và điều không nên làm. Do ý phóng dật nên họ không biết việc gì nên làm và việc gì không nên làm, không biết nghiệp gì, không biết quả gì, do không biết nghiệp nên không biết quả. Do mê muội không biết nghiệp quả nên khi chết người ngu si ấy bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục. Do phóng dật nên chịu tai họa như vậy. Đó là tai họa thứ hai.

Người phóng dật ấy lại có tai họa thứ ba. Đó là do phóng dật nên trời hoặc người gần gũi bạn ác, không tôn kính Tam bảo, không mong cầu trí tuệ, không kính trọng bậc tôn trưởng, không biết đâu là tai họa, đâu là công đức, không nhàm chán nỗi khổ sinh tử, không biết tạp nghiệp là đủ loại nghiệp, không siêng năng, thường thích ngủ nghỉ, không thể giữ giới, khi chết bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục. Do phóng dật nên mắc tai họa như vậy. Đó là tai họa thứ ba.

Người phóng dật ấy lại có tai họa thứ tư. Tai họa thứ tư là gì? Đó là ở trong loài trời hoặc trong loài người lúc mới sinh, thân mạng thay đổi không dừng, thoạt sinh, thoạt diệt, nghiệp lành cũng vậy, vừa sinh liền hết, thần chết sắp đến, sẽ buông lung với ai. Người ấy chắc chắn phải lìa bỏ (sự phóng dật khi đã chết).

Có bốn pháp nhất định phải lìa bỏ:

  1. Là tuổi trẻ.
  2. Là sự an ổn.
  3. Là tuổi thọ.
  4. Là sự đầy đủ.

Bốn thứ này nhất định phải lìa bỏ. Người trí thường quán bốn thứ này. Người phóng dật thì không thể biết việc ấy. Do không biết nên bị đọa vào đường ác. Do phóng dật nên chịu tai họa như vậy. Đó là tai họa thứ tư.

Người sống phóng dật lại có tai họa thứ năm. Đó là tin tưởng nơi không đáng tin nhất.

Điều không đáng tin hơn hết trong những điều không đáng tin là phụ nữ. Vậy mà người ngu ấy tin phụ nữ. Tuy người ngu ấy tin phụ nữ nhưng phụ nữ không tin người ấy. Cho đến khi chết họ không lìa sự nói láo. Tất cả phụ nữ đều hay dua nịnh, nói láo, đều hay giả dối, thường phá hoại, uế tạp, tâm họ rất ngã mạn, phá giới, tâm vẩn đục, những lỗi như vậy tất cả phụ nữ đều không lìa bỏ giống như là hơi nóng không lìa lửa. Tất cả phụ nữ không lìa pháp này. Do ngu si, bị tham dục dẫn dắt, nên người ngu ấy thân cận và tin tưởng người phụ nữ chỉ nói miệng mà không có thật ấy.

Năm tai họa do phóng dật gây ra đã được trình bày sơ qua. Năm tai họa này không rời bỏ phóng dật. Vì vậy hàng trời, người nên xả bỏ phóng dật. Hành vi phóng dật này khép kín Niết-bàn. Người sống phóng dật khi chết sẽ bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do sống phóng dật nên mắc tai họa như vậy. Đó là năm tai họa do phóng dật mang lại. Vì vậy người trí nên xả bỏ phóng dật.

Người nào bỏ phóng dật sẽ có năm công đức.

Thứ nhất là hành động chân chánh, tâm ý tin tưởng chân chánh, làm điều nên làm, không làm việc chẳng nên làm, trong tất cả các thời thường xuyên dụng ý để làm lợi ích, xả bỏ phóng dật như xả bỏ chất độc, biết rõ ba đời. Đây là công đức đầu tiên của việc không phóng dật. Nhờ không phóng dật nên được công đức ấy.

Không phóng dật lại có công đức thứ hai. Đó là biết nên khinh cái gì và trọng cái gì, gần gũi bạn lành, thường tạo nghiệp lành, xa lìa bạn ác, không tạo nghiệp ác vì nghiệp ác ấy bị người lành chê bai, nếu gặp người ác liền né tránh, gặp người có công đức liền đến thân cận. Do tu hành như vậy, hành động theo ý thiện nên không đọa vào đường ác. Đó là công đức thứ hai của việc không phóng dật. Nhờ không phóng dật nên được công đức này.

Không phóng dật lại có công đức thứ ba. Công đức thứ ba là gì? Đó là cẩn thận, cho đến khi lìa đời, họ không phó thác cho phụ nữ, không tin lời phụ nữ, không tin lời phụ nữ mà chỉ xét hình tướng của họ trong tất cả mọi lúc. Tất cả phụ nữ đều có hai sợi dây để trói buộc thế gian nhưng người ấy chỉ quan sát sắc mặt của phụ nữ chớ không tin lời nói của họ. Người có trí ấy quan sát phụ nữ một cách như thật. Nhờ đã quan sát như thật như vậy rồi, nên thấy phụ nữ ca múa, vui cười, đùa giỡn, trang điểm đủ thứ mà tâm vị ấy cũng không tham đắm. Tất cả sự phóng dật đều do phụ nữ gây ra. Tất cả phụ nữ là một nửa của sự phóng dật. Nếu có thể lìa bỏ sự phóng dật của phụ nữ thì có thể vượt biển lớn sinh tử.

Trong thế giới loài người, mọi người đều nói người nào không phóng dật được gọi là người tốt. Đó là công đức thứ ba của việc không phóng dật. Nhờ không phóng dật nên được công đức này.

Không phóng dật lại có công đức thứ tư. Công đức thứ tư là gì? Đó là người cẩn thận không phóng dật, không tin vào thú vui giàu có và dục lạc… Biết nó là vô thường. Vị ấy biết rằng dục lạc này vô thường, thay đổi không cố định, nên không thể tin tưởng, không lâu sẽ bị hủy hoại, không bao lâu sẽ bị diệt mất. Vì không tin cậy vào sự an ổn, nên họ không phóng dật. Tất cả sự an ổn đều bị bệnh tật hủy hoại. Vị ấy cũng không tin cậy vào tuổi trẻ, tất cả tuổi trẻ đều bị già hủy hoại. Vì vậy, vị ấy không sinh tâm ngã mạn và tuổi trẻ của mình. Vị ấy cũng không tin cậy vào thọ mạng nên không sinh tâm ngã mạn, không tạo nghiệp ác.

Vì sao? Vì thọ mạng chắc chắn sẽ bị thần chết cướp đi. Vì vậy, vị ấy không tin vào tất cả các pháp hữu vi sinh tử. Do không tin vào những thứ đó, vị ấy không sống phóng dật. Đó là công đức thứ tư của việc không sống phóng dật. Do không sống phóng dật nên được công đức này.

Người không sống phóng dật lại có công đức thứ năm. Công đức thứ năm là gì? Đó là thường thân cận Thánh nhân. Do ưa thích trí tuệ nên vị ấy quy y Tam bảo, nghe pháp rồi suy tư về nghĩa lý, lúc sắp chết họ không sợ hãi. Do biết tướng chết và biết tướng thoái đọa nên họ không sinh sợ hãi, khi Thiên tử sắp thoái đọa vị ấy biết tướng thoái đọa, khi người già sắp chết vị ấy biết tướng chết. Vị ấy biết họ sẽ sinh đường dữ hoặc đường lành. Vị ấy biết mình sẽ sinh đường lành hoặc đường dữ. Lúc sắp chết tướng đường ác xuất hiện, họ liền tìm cách khiến tâm thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh, tướng đường ác diệt mất và tướng đường lành xuất hiện. Đó là kết quả tốt đẹp nhất của việc không phóng dật. Điều ấy rất khó được. Đó là điều tốt nhất trong các điều lành. Đó là công đức thứ năm của việc không phóng dật. Do không phóng dật nên được công đức đó.

Bấy giờ, ngỗng chúa Thiện Thời ở xứ ấy tụng bài kệ của Phật Ca-ca-thôn-đà đã thuyết:

Như Lai đã lìa dục
Khen hạnh không phóng dật
Chê việc sống phóng dật
Dẫn đến chỗ sinh tử.
Không phóng dật giải thoát
Do phóng dật chịu khổ
Phóng dật này trói buộc
Người ngu không thể dứt.
Người lành không phóng dật
Liền sinh ở cõi trời
Ở cõi trời phóng dật
Lúc thoái thất hối tiếc.
Hết thảy người phóng dật
Không thoát được sinh tử
Lưới phóng dật lớn nhất
Trói buộc khiến luân hồi.
Làm việc không nên làm
Chẳng làm việc cần làm
Hết thảy người phóng dật
Đều làm việc điên đảo.
Thế pháp còn không làm
Huống gì pháp xuất thế
Vì vậy các bậc trí
Chê bai việc phóng dật.
Do đó ta không nên
Làm các việc phóng dật
Sống phóng dật như vậy
Là gốc của đường ác.
Ai có thể xả bỏ
Nơi chất chứa khổ não
Đó là người dũng mãnh
Vượt biển lớn các cõi.

Ngỗng chúa Thiện Thời đã thuyết pháp mà mình học trong quá khứ cho Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà và Thiên chúng nghe để làm lợi ích cho hàng trời, người.

Ngỗng chúa lại thuyết pháp cho Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà:

–Có năm pháp để đối trị hành động phóng dật của Sa-môn.

Pháp thứ nhất tất cả những người sống phóng dật đều chịu khổ não. Tùy theo sự phóng dật nào dẫn đến khổ não thì người này xả bỏ sự phóng dật ấy. Biết tai họa đó rồi, vị ấy tu hành công đức. Nhờ lìa bỏ phóng dật, vị ấy được lợi ích rất nhiều, không còn chịu khổ não, các nghiệp ác, bất thiện không còn tăng trưởng, tu tập hạnh chân chánh. Đó là pháp đối trị phóng dật đầu tiên của Sa-môn.

Pháp thứ hai đối trị phóng dật của Sa-môn là: Thấy ý nghĩa chân thật. Người thấy sự thật ấy thì tất cả tâm ý đều được định hướng thấy một cách như thật. Do thấy như thật, vị ấy không sống phóng dật vì thấy như thật về lỗi phóng dật. Đó là pháp thứ hai để đối trị phóng dật.

Pháp thứ ba để đối trị phóng dật của Sa-môn là: Gần gũi người không phóng dật, thọ giới, giữ giới, sống giống như họ, làm giống như họ, thường ở cùng chỗ với người giữ giới, xa lánh không gần gũi những người phá giới. Do đó vị ấy không còn một chút phóng dật. Đó là pháp thứ ba để đối trị phóng dật.

Pháp thứ tư để đối trị phóng dật là: Thường gần gũi người trí để cầu trí tuệ. Người thường thích trí tuệ xả bỏ phóng dật, gần người không phóng dật. Người cẩn thận không phóng dật như vậy thích xa lìa khổ não. Thiện nam ấy thường không sống phóng dật. Đó là pháp thứ tư để đối trị phóng dật.

Pháp thứ năm để đối trị phóng dật của Sa-môn là: Có vua hoặc đại thần bắt người phóng dật, phạt tội người ấy hoặc là giết, hoặc tịch thu hết của cải, hoặc dùng gậy đánh, hoặc chặt tay, áp dụng đủ loại hình phạt khác nhau đối với người phóng dật như vậy. Người ấy thấy vậy sinh tâm lo sợ, vì lo sợ nên lìa bỏ phóng dật, không sống phóng dật, đối trị như vậy để họ lìa bỏ phóng dật khi thấy người khác chịu các hình phạt ấy. Vì sợ nên họ sống thuận theo pháp. Vì sợ sống phóng dật sẽ bị đọa vào địa ngục nên vị ấy không làm tất cả việc ác. Đó là pháp thứ năm để đối trị phóng dật. Phóng dật như vậy thì không an ổn đối với hàng trời, người.

Nghe kinh này rồi, phần lớn Thiên chúng xả bỏ phóng dật.

Nghe ngỗng chúa thuyết pháp xong, Thiên vương Dạ-ma Mâutu-lâu-đà phát khởi tâm tùy hỷ, lại cùng Thiên chúng bay lên hư không để trở về giống như lúc đến.

Các vị Thiên khác, có vị ở lại ao rộng để thọ hưởng dục lạc, có vị vào rừng để thọ hoan lạc. Đã vào rừng họ hưởng đủ loại dục lạc như vậy cho đến khi hưởng hết nghiệp lành.

Do nghiệp hết, họ thoái đọa khỏi nơi ấy. Khi thoái đọa khỏi chỗ ấy rồi, theo nghiệp lực của mình họ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sinh. Hoặc nhờ nghiệp còn lại họ được sinh làm người, sinh ở nơi giàu có, vui sướng bậc nhất, làm người lợi căn, thông minh, nhiều hiểu biết, có trí tuệ. Do có trí tuệ nên vị ấy rất giàu, được vua quý mến. Đó là nhờ nghiệp còn sót lại. Vùng đất Thành Tựu đã được nói xong.

Lại nữa, biết quả báo của nghiệp, Tỳ-kheo ấy quan sát vùng đất thuộc cõi trời Dạ-ma. Vị ấy thấy có vùng đất tên là vườn Quang minh. Do nghiệp gì, chúng sinh sinh ở nơi ấy?

Do thấy nghe, hoặc Thiên nhãn, vị ấy biết nếu người thiện nam nào từng nghe ý nghĩa của pháp, thọ giới, giữ giới, giữ gìn chánh kiến, không làm người khác rối loạn, khổ não, tâm ý ngay thẳng, không sát sinh, trộm cướp như đã nói ở trước, lại xả bỏ tà dâm. Vì sợ phạm tà hạnh nên ngay cả ảnh của người phụ nữ họ cũng không xem. Vị ấy thường tạo nghiệp lành, khéo tu tập việc sinh sống trong sạch. Người này khi chết sinh vào đường lành là cõi trời, ở vườn Ánh sáng.

Sinh ở nơi ấy rồi, do nghiệp lành, với sáu căn họ thọ hưởng đủ loại lạc thú, công đức của năm dục và cảnh giới vi diệu ở cõi trời, họ thích xem vườn rừng.

Như vậy, như vậy họ thấy đủ loại pháp, như vậy như vậy sáu căn ngày càng hoàn hảo, tăng thượng. Do sáu căn tăng thượng nên có thể khiến vùng đất đó bằng phẳng, mềm mại bậc nhất, có bảy báu xen lẫn nhau rất đáng ưa thích.

Trong vùng đất ấy nếu có cây mọc thì rờ vào rất mềm mịn, quả bằng vàng, lá bằng bạc, có đầy đủ xúc, hương, vị thù thắng. Trái cây cõi trời ấy tỏa mùi hương như ý muốn và sinh mùi vị như ý muốn.

Nếu chư Thiên nơi ấy có ý nghĩ muốn cây đó phun ra rượu theo ý muốn thì liền có rượu ngon của cõi trời đầy đủ xúc, hương, sắc vị từ quả phun ra, ở dưới cây ấy. Lúc đó chư Thiên cùng Thiên nữ cầm chén bằng châu báu hứng uống. Rượu trời này có hương vị, xúc, gồm ba loại thượng, trung, hạ. Do có vô lượng loại nghiệp nên tùy theo nghiệp của mình mà họ được rượu có các bậc thượng, trung, hạ.

Lại nữa, các vị trời khác thọ hưởng vô lượng loại thú vui theo năm dục, bị phóng dật thiêu đốt, thích xem vườn cây, ca múa vui chơi, đi chơi khắp nơi, theo nhau mà đi đến vườn cây ấy.

Như vậy như vậy, theo con đường đi, họ thấy đủ loại cảnh sắc vi diệu khác nhau.

Mùi vị mà họ nếm được gồm vô lượng loại khác nhau, có đủ loại vị thù thắng. Mùi hương mà họ ngửi gồm vô lượng loại khác nhau, có đủ loại mùi hương vi diệu thích hợp với tâm. Xúc chạm mà họ nhớ nghĩ gồm vô lượng loại khác nhau tương ưng với sự xúc chạm vi diệu mà chư Thiên thọ hưởng. Âm thanh vi diệu của cõi trời mà vị trời ấy nghe gồm vô lượng loại khác nhau, thích hợp với sở thích của tâm, nghe xong trở nên vui vẻ. Do nghiệp lành thù thắng là giữ giới bậc nhất nên họ thọ hưởng lạc thú đầy đủ nơi công năng của năm dục.

Do thọ hưởng dục lạc như vậy nên trong một thời gian lâu dài vị ấy thọ hưởng không biết chán, biết đủ.

Lại thấy ở đằng xa có một khu rừng tên là Tâm lạc. Nó được trang điểm bằng vô lượng trăm ngàn cây báu. Rừng Tâm lạc ấy đáng yêu như vậy. Cành, lá, rễ, thân mỗi thứ đều khác nhau.

Một phần là rừng bạc có màu trắng như tuyết, tên là rừng cây bạc. Ánh sáng của nó giống ánh sáng mặt trăng ở cõi Diêm-phù-đề. Mỗi một cây ấy đều rất xinh đẹp, vi diệu. Vị trời nào thấy nó đều yêu thích.

Một phần khác lại có màu đỏ ca-kê-đàn-na rất đỏ, không gì đỏ bằng. Nó có ánh sáng đỏ. Lá nó cũng đỏ. Những lá như vậy hòa hợp thành rừng. Rừng đỏ này rất là đáng yêu. Do rừng màu đỏ chiếu lên hư không nên khắp hư không đều có màu đỏ.

Lại có một phần gọi là rừng Thường lạc. Một phần của rừng này có vườn cây màu xanh, toàn bộ rừng ấy đều xanh, bóng của ánh sáng cũng xanh.

Một phần của rừng ấy có ánh sáng như vậy, rất vi diệu, xinh đẹp giống như hư không ở cõi Diêm-phù-đề không khác, hoặc như ánh sáng của châu báu Tỳ-lưu-ly. Nơi ấy tên là rừng Thường lạc.

Lại nữa, một phần khác là rừng pha lê. Gốc, thân, cành, lá đều có ánh sáng trong sạch. Trong rừng có vô lượng sông suối, ao hồ. Mọi thứ đều đầy đủ.

Khu rừng rộng lớn ấy lại có một phần là rừng có cây bằng châu báu xanh, gốc, thân, cành lá phát ra ánh sáng màu xanh. Ở trên cành cây có nhiều loại chim, chim hót đủ loại âm thanh, có đủ loại ao sen kỳ diệu tô điểm vườn cây ấy phát ra ánh sáng rất xinh đẹp, vi diệu.

Bấy giờ, ở vườn Quang minh ấy, tất cả chư Thiên có ánh sáng quanh thân vì muốn vui chơi thọ hưởng dục lạc nên hướng đến rừng Tâm lạc. Họ đi chơi thọ hưởng dục lạc trong rừng ấy và bị rừng ái trói buộc. Họ thọ hưởng hoan lạc của cõi trời đầy đủ công đức của năm dục không biết chán, biết đủ.

Họ lại vào rừng Tâm lạc vui chơi, thọ hưởng đủ mọi thú vui. Trong rừng ấy có đủ loại màu sắc, mùi vị, hương thơm, hoa quả, có nhiều con ong kỳ diệu trang nghiêm rừng ấy, ở khắp mọi chỗ, lại có nhiều con chim đáng yêu, nhiều ao sen vi diệu đáng yêu, có đủ loại nhà cửa đáng yêu làm bằng cành cây, hoa rải khắp mặt đất, đất mềm mại rất đáng ưa thích, có nhiều đến vô lượng trăm ngàn Thiên chúng. Vì vậy, nơi đó rất xinh đẹp.

Nhà cửa làm bằng cành cây có chứa nhiều hoa sen, sông suối, ao hồ, đủ loại hang núi và có nhiều cây cối. Thiên chúng ca múa vui cười, nô giỡn đủ kiểu. Nơi ấy có âm thanh rất hay giống như tiếng ca, gió nhẹ lay động rừng làm cành hoa rũ xuống. Vì thế rừng ấy rất xinh đẹp.

Bấy giờ, các vị trời vào trong rừng đó càng thêm vui vẻ, lại ca múa, nô đùa, vui cười, cùng nhau thọ hưởng hoan lạc, tâm ưa thích cảnh giới trong tất cả mọi lúc, tâm thường xuyên nghĩ đến việc phóng dật.

Chư Thiên ấy thọ hưởng lạc thú như vậy suốt một thời gian dài, lại vào rừng Mạn-đà-la bằng bảy báu, rừng ấy rất đáng yêu và tốt đẹp như núi chúa. Ánh sáng của nó hơn cả trăm ngàn mặt trời. Nó có ao sen vây quanh để tô điểm cho cảnh.

Rừng Mạn-đà-la có chim khổng tước chúa tên là Tạp Sắc được làm bằng đủ loại bảy báu xen lẫn nhau. Tiếng chim ấy hót vang khắp rừng đó. Thật ra đó là Bồ-tát, do nguyện lực nên sinh vào cõi trời ấy, để trừ bỏ phóng dật cho các vị Thiên phóng dật vì thấy chư Thiên bị lửa cảnh giới thiêu đốt. Vị ấy đứng trên cành cây, dũng mãnh, không sợ sệt, thương xót bảo chư Thiên:

–Chư Thiên các ông làm nhiều việc phóng dật không sợ sau này bị thoái đọa, niệm vui này sắp hết, vô thường không dừng, tất cả thú vui cõi trời mau chóng trôi qua như sông trên núi, dòng chảy rất xiết mà không hay biết, tâm thường say đắm dục lạc do lòng tham ái xấu xa.

Bấy giờ, chim khổng tước chúa Tạp Sắc nói kệ:

Việc làm như nằm mộng
Chỗ ở như đóm lửa
Thành như Càn-thát-bà
Trời tham dục như vậy.
Trời nào sinh tham ái
Rốt cuộc bị hủy hoại
Bảo thú vui không hết
Trời tham dục như vậy.
Vui không lâu thì mất
Như dòng sông chảy xiết
Bị thành dục lừa dối
Trời tham dục như vậy.
Như gió thổi động nước
Như trăng hiện trong nước
Như bánh xe lửa xoay
Trời tham dục như vậy.
Như luồng điện chuyển động
Như nai theo bóng nắng
Như bọt nước không chắc
Trời tham dục như vậy.
Như thân chuối lá lay
Như tai voi luôn vẩy
Người bất thiện yêu mến
Trời tham dục như vậy.
Như trái ngon có độc
Như thức ăn có móc
Như huyễn hóa vô thường
Trời tham dục như vậy.
Đều hư dối không thật
Tạm thời không dừng lại
Vì ban đầu thì ngọt
Trời thọ vui như vậy.
Chỉ một giọt phóng dật
Là nhân sinh các cõi
Khiến mau vào đường ác
Trời tham dục như vậy.
Cho tham ái là tốt
Thường ghê sợ ngăn ngại
Như chất độc, như dao
Trời tham dục như vậy.

Ở trong rừng Tâm lạc ấy chim sẻ chúa Tạp Sắc thuyết bài kệ ấy để điều phục chư Thiên. Do ý nguyện tốt lành, vị ấy sinh trong cõi trời. Chim sẻ chúa ấy dùng vật trong nhân gian làm thí dụ nói cho Thiên chúng nghe khiến Thiên chúng nghe xong nhớ lại đời trước. Do nhớ lại đời trước, biết quả báo của nghiệp nên họ tu hạnh vô thường. Do tu hạnh vô thường nên không sống phóng dật. Vì vậy chim sẻ chúa Tạp Sắc dùng thí dụ trong nhân gian để thuyết pháp cho chư Thiên. Vị ấy thuyết những pháp gì? Vị ấy thuyết pháp vô thường để nói về tai họa của dục lạc và sự vô thường của dục lạc.

Khi ấy, có vị trời nghe bài thuyết pháp liền nhớ lại đời trước. Do nhớ lại đời trước, biết quả báo của nghiệp liền không phóng dật trong một thời gian ngắn và phát sinh ý lành. Vị trời ấy phát sinh ý lành và không phóng dật trong một thời gian ngắn nên được lợi ích và an ổn trong chốc lát. Vì muốn họ gieo vô lượng trăm ngàn hạt giống nghiệp lành để sinh nơi an ổn trong đời vị lai nên Bồ-tát chim sẻ chúa Tạp Sắc thuyết pháp như vậy.

Lúc đó, Thiên chúng vẫn còn say đắm dục lạc vào trong rừng ấy, dùng vòng hoa sen để trang điểm đầu, dùng ánh sáng thân mình trang nghiêm cho thân, nghe năm loại âm nhạc, thọ hưởng đủ loại hoan lạc. Trong rừng ấy có vô lượng sông suối, ao hồ tràn ngập, đầy đủ vẻ đẹp.

Thấy cảnh đó, Thiên chúng sống phóng dật không sợ nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, ca múa vui chơi không biết chán, biết đủ.

Họ lại vào rừng khác có tên là Man. Số cây trong rừng có đến vô lượng trăm ngàn. Hoa trên cành cây ấy có đủ màu sắc xen lẫn không giống nhau. Nó có vô lượng loại hình tướng sắc hương, có đủ loại hoa vi diệu đầy đủ trên từng cành. Hoa vi diệu ấy lớn nhỏ đều nhau, do mong cầu mà được.

Trong rừng ấy có ong bằng bảy báu, tiếng của nó rất đáng yêu. Những con ong này vui chơi cùng chư Thiên trong hoa ấy.

Chư Thiên lấy vòng hoa ném lẫn nhau để vui đùa với Thiên nữ. Chư Thiên và Thiên nữ vốn đã xinh đẹp, do đeo vòng hoa vi diệu này trở nên đẹp hơn trước gấp mười lần. Họ đồng lòng đi chơi, thọ hưởng thú vui trong rừng, ngắt lấy cành hoa. Mùi thơm của hoa đầy khắp năm do-tuần, có loại đến mười do-tuần, hai mươi do-tuần, ba mươi do-tuần. Rừng ấy đầy đủ mùi hương của cõi trời, do vô lượng loại hoa hòa hợp mà có.

Bấy giờ, chư Thiên vui chơi như vậy, thọ hưởng các thú vui xong, họ lại đến sông rượu. Sông có tên là Hoan hỷ. Sông ấy rất lớn. Rượu đó có đầy đủ âm thanh sắc, thanh, hương, vị, xúc chảy ở trong sông. Thấy vậy, chư Thiên ngồi trên bờ sông múc rượu uống.

Lại có con chim tên là Thường Lạc thấy chư Thiên uống rượu ở sông Hoan hỷ mới nói kệ cho họ:

Chìm trong biển phóng dật
Tham đắm các cảnh giới
Rượu này mê hoặc tâm
Tại sao lại uống nó.
Bị lửa cảnh giới thiêu
Không biết cần làm gì
Sinh tâm tham vườn cây
Uống rượu để làm gì.

Thấy chư Thiên thích rượu, uống rượu ở bờ sông, chim Thường Lạc mới nói bài kệ đó để điều phục họ. Nghe bài kệ xong, chư Thiên ấy vẫn uống rượu không ngừng không nghỉ như cũ, sinh tâm vui vẻ, ánh sáng của tự thân bao quanh như vòng hoa. Họ lại lấy tua hoa trang điểm thân thể, uống rượu vui chơi không hề biết chán, thọ hưởng công đức của năm dục và năm loại âm nhạc, ca múa, vui chơi.

Kế đó họ lại đến khu rừng có nhà làm bằng cành hoa. Để tìm cầu dục lạc nên họ đến rừng ấy, ca múa vui cười cùng Thiên nữ.

Khi ấy, thấy rừng cây đó đầy đủ các loại hoa, chư Thiên sinh tâm vui vẻ. Vì trước kia đã được nghe nói nên khi thấy họ liền vui vẻ. Rừng cây thù thắng đáng yêu như vậy được trang nghiêm bằng các con ong bảy báu. Thấy rồi, Thiên chúng sinh tâm thán phục, đảo mắt nhìn khắp, không hề biết chán. Các Thiên nữ cũng như vậy, họ thấy đầy đủ trăm ngàn loại nhà bằng hoa có trăm ngàn kiểu khác nhau. Các Thiên nữ dòm thấy bèn bước vào ca múa vui chơi thọ hưởng hoan lạc. Cành lá cây ấy rất đáng ưa thích che kín như cái nhà. Các cành cây làm bằng đủ loại châu báu, như là cành bằng Tỳlưu-ly có lá bằng vàng che phủ, hoặc là cành bằng vàng được lá bằng Tỳ-lưu-ly che phủ và có đầy đủ quả màu ca-kê-đàn-na xinh đẹp, hoặc là cành bằng châu báu xanh ca-kê-đàn-na được lá màu bạc che phủ, hoặc lá bằng pha lê có đầy đủ quả bằng vàng. Lại có cây cành bằng ca-kê-đàn-na được lá bằng châu báu xanh che phủ và có đầy đủ quả bằng vàng, hoặc là cây pha lê, nhà bằng cành pha lê, được che phủ bằng lá vàng và có đầy đủ quả bằng châu báu rất xanh. Chúng được trang điểm theo ý niệm rất là đáng yêu, có các con ong vây quanh phát ra âm thanh rất hay. Chúng bay quanh nhà làm bằng cành hoa. Bên trong nhà làm bằng cành hoa đó xinh đẹp như vậy. Do nghiệp lành, Thiên chúng muốn thọ hưởng hoan lạc liền vào bên trong.

Bên ngoài tòa nhà làm bằng cành cây ấy có đầy đủ mọi thứ, có ao sen, hoa sen có cành bằng vàng, tua bằng châu báu xanh Tỳ-lưuly, đài bằng bạc trắng, có vô lượng con ong trang điểm khắp rừng ấy, có ngỗng, vịt, uyên ương, ca-đàn-bà-la, chúng phát ra âm thanh vi diệu làm vui tai người nghe. Vì thế rừng ấy rất vi diệu. Bên ngoài rừng hoa sen ấy là ao hoa giống như là vòng hoa vậy. Nhà làm bằng cành hoa báu bao quanh rừng ấy ở khắp mọi nơi.

Bên ngoài rừng hoa sen lại có rừng cây có chim thú ở. Tâm chúng đều vui vẻ, có con ngồi dựa vào gốc cây, có con đi chơi, có con ở trong rừng ăn quả, hoa, rễ ngon ngọt của cõi trời. Quả hoa, rễ… có sắc, hương, vị, xúc vào hạng nhất, hòa hợp đầy đủ. Chim thú ấy, trống, mái, đực, cái đều đi theo nhau.

Nghe chư Thiên ca, các chim thú ấy đều mở mắt, ngóng tai, lông mao dựng đứng, tâm rất hoan hỷ. Chim thú ấy trống, mái, đực, cái từng cặp đi theo nhau ở chỗ đất mềm mại dưới gốc cây, nhìn mặt nhau để thọ hưởng dục lạc hoặc đi chơi với nhau.

Các con thú nhai nuốt thức ăn, đực cái cùng ở một chỗ nhìn mặt nhau, cùng thọ hưởng hoan lạc. Thân chúng đều bằng bảy báu xen lẫn nhau. Chúng thọ hưởng dục lạc như vậy ở trong rừng.

Lại nữa, chim ấy có đủ loại hình tướng, ai thấy cũng ưa thích. Chúng nhớ nghĩ đủ thứ và thọ hưởng đủ loại thú vui. Những thú vui đó là: Miệng ngậm hoa sen, tai nghe tiếng ca, đi đi về về, con trống con mái theo nhau đi chơi, có những con chim đứng thành đàn, co duỗi thân thể, chú tâm lắng nghe âm thanh phát ra từ nhà bằng cành cây ấy, có con dùng miệng ngậm châu báu có ánh sáng thù thắng đi chơi khắp nơi. Chúng có thân bằng bảy báu. Do nghe tiếng ca ở trong núi, chúng vỗ cánh bay đến để nghe tiếng ca. Chúng bay về phía tòa nhà bằng cành hoa khiến cho khắp hư không đều xinh đẹp. Tâm chúng rất vui vẻ.

Lại có chim khác ở trong rừng khác, có đủ loại châu báu vi diệu trang điểm hai cánh, dùng mỏ bẻ lấy đủ loại hoa đã nở ngậm bay đến tòa nhà bằng hoa ấy.

Lại có chim khác nghe tiếng ca ngậm vòng hoa báu, có ánh sáng thù thắng vi diệu đủ loại màu sắc, bay đến tòa nhà bằng cành hoa khiến cho khắp hư không đều đẹp đẽ.

Chim thú ở bên trong và bên ngoài rừng ấy có đủ loại màu, đủ loại hình tướng, đầy đủ mọi thứ đều rất đáng yêu. Rừng ấy rất xinh đẹp, kỳ diệu, Thiên chúng thọ hưởng đủ thứ dục lạc ở trong rừng ấy.

Bấy giờ, trải qua một thời gian dài vui chơi trong rừng ấy, nghe năm loại âm nhạc, bị lửa ái thiêu đốt, Thiên chúng vẫn không biết chán lại hướng đến rừng khác tên là Điểu âm thanh lạc có vô lượng Thiên nữ vây quanh. Họ ca múa, vui cười, đi chơi như vậy ở trong hư không, tay gẩy đàn không hầu. Họ bay như vậy, có người ở trên lưng ngỗng, có người cỡi chim sẻ, có người ngồi trên đài sen trong hư không. Lại có vị trời khác cỡi chim bảy báu ở trong hư không, tất cả đều hướng đến rừng Điểu âm thanh lạc.

Lúc họ còn đi trên đường chưa đến nơi, thì đã nghe đầy đủ mọi thứ âm nhạc thù thắng.
Chim Thật ngữ mới nói kệ cho họ:

Xe nghiệp là hơn hết
Các xe khác không bằng
Con người do xe nghiệp
Đi khắp trong ba cõi.
Người nào ở nơi nào
Nghiệp gì làm việc gì
Người ấy ở nơi ấy
Chịu khổ vui đã tạo.
Nghiệp có đủ các loại
Đều do tâm tạo ra
Không gì chẳng làm được
Dần dần sẽ có hết.
Đủ thứ vui khác nhau
Do nghiệp mà phát khởi
Do nghiệp nhân đã hết
Thú vui cũng không còn.
Các hữu tình không mất
Nghiệp lành mình đã tạo
Ai muốn thường được vui
Thì nên tạo nghiệp khác.
Nếu tâm thường biếng nhác
Buồn vì độc phóng dật
Trời phóng dật không biết
Chỗ khổ não về sau.
Xa lìa mọi thú vui
Đến chỗ rất khổ não
Do phá ấm, giới, nhập
Cho nên gọi là chết.
Nó đến rất mau chóng
Khiến thân mạng chấm dứt
Trời mê muội cảnh giới
Cho nên không hay biết.

Do tâm lành thương xót Thiên chúng, nên chim Thật ngữ nói bài kệ thuyết pháp chân thật như vậy để tạo lợi ích cho chư Thiên ấy, nhưng vì tham ái che lấp tâm nên họ không ghi nhận và lại vui vẻ tiến về phía trước vào rừng Điểu âm thanh lạc. Tất cả Thiên chúng đều muốn thấy rừng Điểu âm thanh. Rừng ấy đã có tên như vậy, lại còn có tên là Điểu âm thanh lạc. Tất cả cây trong rừng ấy đều bằng châu báu như là cây bằng vàng, bạc, Tỳ-lưu-ly, có cây bằng bạc trắng, pha lê, châu báu xanh. Trong rừng hoa sen, ở đầm nước bằng phẳng, các hoa sen giống như cây đèn. Tất cả mọi thứ rất đáng yêu, có đủ loại chim có vô lượng màu, vô lượng hình tướng, cành làm bằng châu báu xen lẫn nhau không thể nói đủ.

Vì sao? Do nghiệp lành của tâm có vô lượng loại nên hình tướng của chim cũng có đủ loại như vậy. Do có đủ loại tâm nên tạo đủ loại nghiệp lành. Do có đủ loại nghiệp lành nên nhận đủ loại quả báo như vậy, không thể nói hết. Vì tâm vi tế thay đổi rất mau, nên không thể nêu bày. Hết thảy pháp của chư Thiên đều không thể nói. Nay nói chút ít về quả báo nơi nghiệp thiện của chư Thiên là có cảnh giới đầy dục lạc tốt đẹp như vườn cây, sông suối, ao sen, đủ loại ngọn núi, rừng hoa sen, chim và châu báu, Thiên nữ đáng yêu. Do quả báo của nghiệp mà trong cõi trời hóa hiện như thế. Do nhân duyên ấy, Ta bảo: Cõi trời đáng yêu. Quả báo có được do nghiệp lành ấy không bị diệt mất. Nếu ai không làm thì không được quả báo. Lại đem nhân duyên này nói về thú vui như vậy.

Vị Thiên ấy dùng đủ loại hoa trang điểm cho thân, dùng hương xoa lên thân, tự thân phát ánh sáng để thọ hưởng hoan lạc. Với tâm rất hoan hỷ, chư Thiên ấy quan sát rừng Điểu âm thanh lạc thấy các cây bảy báu có ánh sáng như ngọn lửa, có đủ loại chim vây quanh rừng ấy. Chim đó cất tiếng ca ngâm và chư Thiên lắng nghe. Nếu đó là âm thanh trước đây chưa từng được nghe thì khi nghe xong tâm họ vui vẻ thọ hưởng hoan lạc. Nghe xong, tất cả chư Thiên đều vui vẻ.

Các con chim ấy có con đứng trên cành cây mà ca vịnh, có con ở trong rừng hoa sen mà ca vịnh, có con ở trong hoa mà ca vịnh, có con ở trong ao sen mà ca vịnh. Nghe ca xong, chư Thiên ấy sinh tâm vui vẻ. Nếu chư Thiên và Thiên nữ hòa hợp với nhau thì tất cả tiếng ca đủ loại đều ngưng lại. Nghe tiếng chim ca họ sinh tâm ưa thích. Tiếng ca vịnh của chim ấy vang khắp ngọn núi. Tất cả thú trong núi đó vốn có tánh thích tiếng ca nên khi nghe tiếng ca ấy cả trăm ngàn con đều tiến đến gần, đã đến gần rồi tai mắt chúng không động đậy lắng nghe tiếng ca ấy, có con đứng dưới gốc cây nghe tiếng ca, có con đứng đối diện trái cây cõi trời nghe tiếng ca mà không muốn ăn. Âm thanh của chim ở trong rừng đó đáng yêu như vậy.

Mùi hương trong rừng ấy rất dễ ngửi có đủ loại hương hoa gồm đủ màu sắc, theo ý niệm mà có, sắc thanh đều theo ý niệm mà được, tiếng đàn không hầu hòa với tiếng ca, tiếng trống, đàn tranh, sáo, tiếng ca, đủ loại âm thanh hay ho đều là âm thanh cõi trời. Âm thanh tiếng chim ấy hay hơn cả âm thanh của chư Thiên. Do cảnh giới của một căn tốt đẹp như vậy nên rừng ấy thật đáng yêu. Trong rừng ấy lại có cảnh giới tốt đẹp của một căn khác là mùi vị cõi trời, theo ý niệm mà được, quả có mùi vị thù thắng, hoặc là mùi vị của rượu cõi trời, hoặc là vị cỏ thuốc cõi trời. Như vậy ở rừng ấy, tùy theo ý niệm mà được mùi vị. Trong rừng như vậy đầy đủ các mùi vị.

Trong rừng ấy lại có pháp thù thắng khác đó là có núi và đi chơi ở núi đó. Núi đó có lưới bằng cành cây che khắp, có đủ loại lầu nhiều tầng làm bằng cành cây kết lại, đi trong đó không bị lạc đường. Có vô lượng vách bằng bảy báu, có vô lượng loại bức tranh ở khắp nơi, có nhiều Thiên nữ xinh đẹp ở trên lầu. Rừng ấy được trang nghiêm bằng đủ loại như vậy. Vườn ấy lại có công đức để trang nghiêm rừng đó và đã được nói đầy đủ. Nay lại nói về tướng đầy đủ đáng yêu trang nghiêm núi đó. Núi ấy được trang nghiêm bằng Tỳlưu-ly. Núi có đầy đủ bảy loại công đức. Đó là sắc, thanh, hương, vị, xúc,… tùy theo ý niệm mà có, có loại cây theo ý niệm, đầy đủ mọi thứ.

Thấy công đức ấy, chư Thiên ở nơi đó ngu si, mê loạn, không thấy, không nghe chim ấy thuyết pháp.

Pháp chim ấy nói giống như pháp cha mẹ nói đều có tính chất quyết định. Do tham đắm cảnh giới, không nghe không biết, bị cảnh giới mê hoặc nên chư Thiên ấy không ghi nhận lời chim, đi trong đồng hoang tham ái, lại hướng đến khu rừng rộng lớn bị ba loại lửa thiêu đốt, bị năm tên giặc sai khiến, bị tham ái lừa làm lạc mất con đường chân thật, chỉ có niềm vui dẫn đến khổ và niềm vui dẫn đến khổ tương tợ. Do tham đắm thú vui giả dối như vậy nên họ không hay không biết, thuyết cho nghe pháp lợi ích thì không ghi nhớ, mà lại nghe tiếng chim sống ở ba nơi ca vịnh. Chim sống dưới nước có màu sắc và hình dáng đáng yêu, có thân bằng bảy báu gồm đủ loại xen lẫn nhau, đó là ngỗng, vịt, uyên ương… đủ loại, âm thanh của những con chim này hòa với âm thanh của nước. Chư Thiên ấy thích nghe âm thanh hay nên thích sống phóng dật trong mọi lúc. Chư Thiên ấy nghe đủ loại âm thanh của các con chim khác chớ không nghe pháp âm.

Các loại chim sống trong rừng là: Chim khổng tước, bồ câu trắng, chim trang điểm cây, chim sống trong hang núi, chúng phát ra âm thanh rất hay. Tiếng của tất cả các con chim đều tương tợ tiếng chim vi diệu, thân bằng bảy báu để trang nghiêm núi, cả hai loại đều bay trong hư không, cùng phát ra âm thanh. Nhìn các chim ấy thấy chúng rất đẹp. Ánh sáng của chim ấy khiến người thấy thường vui vẻ, sinh tâm say đắm. Âm thanh của các con chim ấy thù thắng như vậy.

Chư Thiên ấy có vị thích nghe tiếng nói, có vị thích nghe tiếng ca, có vị thích nghe tiếng giao hưởng.

Có vô lượng âm thanh hấp dẫn đủ loại khác nhau như vậy, chư Thiên có tâm ham muốn được Thiên nữ vây quanh lắng nghe âm thanh ấy.

Suốt một thời lâu dài, nghe âm thanh thọ hưởng hoan lạc, lại bị tham ái sâu dày che mất tâm, lại uống rượu có đầy đủ hương vị ngon nhất như sở thích của chư Thiên. Rượu ấy từ hang núi chảy ra và có nhiều ong vi diệu tụ tập bên trên. Các vị trời ấy đồng lòng uống rượu trời, không làm trở ngại nhau.

Lại có chư Thiên khác hướng đến rừng hoa sen, trong cánh sen có chứa nhiều rượu trời, đầy đủ vị, hương, xúc ngon nhất cõi trời, có vị ngon tùy theo ý niệm, chư Thiên và Thiên nữ mặc sức cùng nhau uống rượu ca múa, vui cười, đồng lòng với nhau, làm thỏa mãn ý dâm dục.

Các vị trời ấy vui chơi thọ hưởng dục lạc ở trong khu rừng thù thắng, tâm không hề biết chán cảnh giới và lại hướng đến núi có châu báu Tỳ-lưu-ly trang nghiêm.

Núi ấy có nhiều ngỗng, vịt, uyên ương. Bóng núi màu xanh che khắp một vạn do-tuần. Núi ấy cao khoảng ba trăm do-tuần, có nhiều vườn cây, nhiều ao sen, sông suối tràn ngập, có những con chim hạng nhất, ai thấy cũng ưa thích.

Ở trong vùng đất ấy, có khu đất bằng phẳng tốt đẹp, có khe núi xinh đẹp, có hang xinh đẹp, có nguồn sông suối, có nhiều rừng biến đổi, có ao sen đầy đủ hoa lá, có ba loại ngỗng.

Loại ngỗng thứ nhất phát ra âm thanh ở trên bờ, có con màu châu báu pha lê, bảy báu xen lẫn nhau, hoặc là thân màu trắng. Ngỗng này ở trong núi rất nhiều, trang nghiêm núi ấy. Núi Tỳ-lưu-ly có suối chảy, màu nước trong sạch, giống như châu báu. Núi ấy có nhiều hương hoa đủ loại, có nhiều đến vô lượng trăm ngàn chim đủ loại. Các chim này được dùng để trang điểm ao sen. Nơi ấy có vô lượng vật thù thắng hiếm có vào bậc nhất, màu dịu dàng đáng yêu trang nghiêm núi ấy. Có vô lượng vật như thanh, sắc, hương… trang nghiêm núi ấy. Thú vui mà sáu căn thọ hưởng trang nghiêm khắp núi. Vì muốn thọ hưởng dục lạc, chư Thiên đến núi ấy, ca múa vui chơi ở khắp mọi nơi, dùng chuỗi ngọc hoa sen trang điểm thân, tâm thường hoan hỷ trong tất cả các thời. Giặc năm cảnh giới như năm ngọn lửa thiêu đốt, tham ái trói buộc cổ họng. Họ hướng lên đỉnh núi ấy là để thọ hưởng dục lạc. Họ mong muốn được thấy, nhớ, nghĩ đủ thứ, phân biệt đủ thứ, dần dần họ đến gần núi ấy, thấy có hang núi bằng Tỳ-lưu-ly. Hang ấy có ánh sáng màu xanh có khoảng một vạn tia sáng vi diệu, thù thắng, tươi vui bậc nhất trang điểm núi ấy. Chư Thiên đã ở trên núi, vào trong hang vui chơi đủ kiểu. Những vị trời vào trong hang thấy hang ấy rộng ra dần dần theo tâm của chư Thiên. Như vậy, như vậy họ nhớ tưởng đủ thứ và được đầy đủ mọi thứ ở trong hang ấy. Hang ấy tên là hang “được như ý niệm”. Các vị trời ở trong hang thường thọ hưởng hoan lạc cùng Thiên nữ không hề biết chán. Do nghiệp thiện, các Thiên nữ ấy trang điểm đủ kiểu.

Nhìn các Thiên nữ ấy ta sẽ rất ưa thích. Các Thiên nữ ấy có hình dáng, trang phục xinh đẹp, dáng dấp rất tươi vui, ca múa vui cười, thọ hưởng thú vui cõi trời.

Để làm lợi ích cho chư Thiên, Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâuđà đã chép bài kệ mà Phật dạy trên cửa hang báu của núi ấy.

Bài kệ rằng:

Thần chết ăn chúng sinh
Già suy uống tuổi trẻ
Bệnh tật diệt mạnh khỏe
Người thế gian không biết.
Có vô lượng loài sinh
Có vô lượng loài diệt
Như sinh, già cũng vậy
Người thế gian không biết.
Thần chết không thể đợi
Một giờ hay một ngày
Hoặc là trong một niệm
Người thế gian không biết.
Đã nhiều lần sinh ra
Cũng nhiều lần chết đi
Trời ngu mê cảnh giới
Người thế gian không biết.
Các cõi như cái lồng
Nhốt những người tham ái
Dây ái cột dắt đi
Người thế gian không biết.
Ái hơn là sóng dữ
Có nhiều chim phân biệt
Sông ái này rộng lớn
Người thế gian không biết.

Để làm lợi ích cho chư Thiên, cửa hang báu ấy có chép bài kệ tụng của Phật. Pháp ấy như vậy, có vị trời thấy nó liền tìm đọc. Đọc xong, nhớ lại đời trước của mình nên không sống phóng dật trong thời gian ngắn. Do nghiệp lành, họ tư duy chân chánh trong chốc lát, làm tăng thêm thú vui trong vô lượng trăm ngàn đời ở vị lai, tăng thêm phần thanh tịnh, giảm bớt phần nhiễm ô. Nhờ suy nghĩ chân chánh trong thời gian ngắn, chư Thiên ấy có thể giảm bớt vô lượng trăm ngàn kiếp tái sinh. Người nào xem bài kệ chép trên cửa hang báu ấy liền sinh nhàm chán, không sống phóng dật. Nếu vị trời nào vào hang mà không đọc bài kệ thì thật uổng phí. Tất cả những người vào trong hang ấy dù là thấy hoặc không thấy bài kệ đều sống buông lung. Ở một nơi trong hang ấy có một đống châu báu, đó là kim cang và châu báu xanh, châu báu ma-già-la-da, châu báu rất xanh. Hang báu ấy vốn đã tự sáng, nhờ châu báu ấy, ánh sáng càng rực rỡ hơn. Mặt khác là do chư Thiên vào trong hang, ánh sáng trên thân chư Thiên khiến ánh sáng hang báu ấy càng sáng hơn. Như vậy hang ấy rất đáng yêu. Do nghiệp lành, chư Thiên và Thiên nữ ở trong hang ấy thọ hưởng dục lạc đầy đủ công đức của năm dục, an ổn, xa lìa phiền não, xa lìa buồn rầu, thọ hưởng vô lượng dục lạc thù thắng, vi diệu của cõi trời. Thấy vùng đất báu ấy rồi, các vị trời ấy sinh tâm vui vẻ, ca múa vui cười, nghe năm loại âm nhạc để thọ hưởng hoan lạc.

Lại nữa, những người vào trong hang ấy thấy có sông tràn ngập rượu trời, đầy đủ hương xúc bậc nhất. Hai bên bờ sông ấy có nhiều chim uống rượu trang nghiêm sông ấy. Những con chim đó lần lượt có các tên là: Hoan Hỷ, Thường Lạc, Thường Hý, Vô Dị Vị, Kiến Khả Ái, Thẩm Đế Tâm, Dị Xứ Bất Lạc, Ẩm Hương Lạc.

Lại có các con khác uống rượu, vui chơi ở sông rượu đó. Do nghiệp lành, chim nói kệ:

Mới uống, vị rượu ngon
Uống xong thường làm ác
Chịu quả ác về sau
Ở bên trong địa ngục.
Uống rồi bị si mê
Do si tạo nghiệp ác
Bởi gây tạo nghiệp ác
Nên đọa vào địa ngục.
Ban đầu thì vui vẻ
Về sau chịu quả ác
Ban đầu trừ được khát
Về sau bị nóng sốt.
Ban đầu thỏa miệng ý
Về sau thì hết vui
Vì vậy người có trí
Thì không nên uống rượu.
Người thường hay uống rượu
Thì không khác gì chim
Uống rượu rất si mê
Nên nói rượu rất độc.
Ai coi rượu như độc
Ắt thấy chỗ bất thoái
Uống rượu không mùi vị
Là uống sắt nóng chảy.
Trong tất cả điều ác
Rượu chiếm hết một phần
Ai uống rượu thì sẽ
Phá hết thảy mọi giới.
Uống rượu tâm điên đảo
Không thể tư duy pháp
Tỳ-kheo do uống rượu
Đi ở nơi đông đúc.
Uống rượu khiến tâm loạn
Không biết thẹn, sửa chữa
Lỗi đạo không phước đức
Hiện tại và vị lai.
Không biết tu oai nghi
Không biết thời và xứ
Làm chướng ngại chánh pháp
Chỉ nói lời vô nghĩa.
Tự mình không thể biết
Là đã nói những gì
Miệng nói lời hôi thối
Cũng không thể hay biết.
Khiến người đời khinh rẻ
Làm tổn thương chánh pháp
Người ham thích uống rượu
Như ngọn lửa cháy hừng.
Quên hết việc quá khứ
Mê muội việc hiện tại
Lầm lẫn việc vị lai
Uống rượu hại ba thời.
Làm hủy hoại thân tâm
Hoặc hại thân chúng sinh
Khiến sinh vô lượng lỗi
Uống rượu chướng ngại pháp.

Do nghiệp lành, chim sống ở hang núi ấy có tâm thường hoan hỷ, nói kệ cho chư Thiên.

Nghe xong chư Thiên nào do nghiệp lành sống thuận theo pháp mà sinh đến đây, nhớ lại đời trước liền biết lỗi của rượu, vì biết lỗi của rượu nên không uống rượu, không sống phóng dật nữa.

Các vị trời khác không ghi nhận bài kệ của chim, vẫn uống rượu như cũ, sinh tâm hoan hỷ, nghe năm thứ âm nhạc, ca múa vui cười, thọ hưởng đủ thứ dục lạc ở trong hang núi suốt một thời gian dài, thọ hưởng dục lạc xong họ lại trở ra theo con đường cũ, ra rồi họ vẫn không nhàm chán cảnh giới, thích phóng dật, thích ngắm vườn cây và các Thiên nữ rồi lại vui chơi đủ kiểu ở tất cả vườn cây, bờ sông, hang núi. Do nghiệp lành, chư Thiên ấy thọ hưởng hoan lạc như vậy.

Xứ ấy như vậy không thể ví dụ, có đầy đủ thú vui cõi trời. Các vị trời thọ hưởng dục lạc ở trong cảnh giới ấy không hề biết chán, do tham ái nhiều và rộng… cái rộng đó là do tự thể rộng. Họ chưa từng thâu giữ mà thường khai mở nên gọi là rộng.

Lại nữa, do không biết chán cảnh giới là do các cảnh giới rộng vô lượng, do căn thường thèm khát chưa từng được đoạn trừ. Như vậy, công đức của năm dục của vị trời ấy ngày càng tăng trưởng, không bị dứt đoạn. Vị ấy thường thọ hưởng dục lạc, tâm sinh khao khát. Công đức đáng ưa không thể ví dụ.

Vì vậy vị trời ấy không biết chán. Như biển nuốt sông không có lúc đủ, chư Thiên không biết đủ cũng như vậy, thường thọ hưởng dục lạc ở nơi ấy trong tất cả mọi lúc, đi đến đủ loại vườn cây bị nước tham dục cuốn trôi, vui chơi thọ hưởng dục lạc cùng chư Thiên nữ.

Cứ như vậy, cho đến khi nghiệp lành tích tụ trước kia đã hết, về sau vị trời ấy bị thoái đọa khỏi cõi trời, sống theo nghiệp, bị dây nghiệp trói buộc.

Do nghiệp hết, thoái đọa khỏi nơi vui vẻ ấy rồi đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu có vị trời khác do nghiệp thiện còn sót lại sinh trong loài người thì sinh vào dòng họ bậc nhất nơi rất giàu có vui vẻ ở cõi Diêm-phù-đề. Họ ca múa vui cười, đùa giỡn đủ cách, thường thọ hưởng dục lạc, màu sắc của thân rất thù thắng vi diệu, hình dáng trang phục xinh đẹp, đầy đủ mọi thứ, làm vua hoặc đại thần ở đất nước tốt đẹp như nước Ca-sa, nước Kiều-tát-la ở nơi an ổn. Đó là do nghiệp còn sót lại.

Vùng đất thù thắng thứ chín ở cõi trời Dạ-ma có tên là vườn Quang minh đã được quan sát xong.

Lại nữa, Tỳ-kheo ấy biết quả báo của nghiệp thiện nhờ quan sát vùng đất thuộc cõi trời Dạ-ma. Do thấy, nghe, biết hoặc bằng Thiên nhãn vị ấy biết có vùng đất tên là Chánh hạnh. Chúng sinh do nghiệp gì mà sinh ở nơi này? Họ thấy có người nhờ làm việc chân chánh, sống theo pháp trong sạch bậc nhất, quả báo cũng trong sạch. Do nghiệp thanh tịnh, vị ấy thọ hưởng quả báo vui sướng, được bậc Thánh ưa thích, vị ấy siêng bố thí nhưng thiếu trí tuệ. Nhờ bố thí, vị ấy sinh trong cõi trời, thọ hưởng quả báo đáng ưa của cõi trời.

Người nào được quả báo trong cõi trời ấy?

Đó là người tâm lành, thanh tịnh, sinh tâm kính trọng, tâm mềm dịu, không giết, không trộm, như đã nói ở trước. Vị ấy lại xả bỏ tà dâm, là tâm không vui thích khi nghe lúc trước có người từng làm việc dâm dục với phụ nữ, tâm không nhớ nghĩ tìm xét các việc dâm dục trước kia và ngăn cản người khác không cho nhớ nghĩ về nó.

Thành tựu nghiệp hạnh thanh tịnh như vậy, người ấy sinh vào đường lành là vùng đất Chánh hạnh của cõi trời Dạ-ma, thọ hưởng quả báo nghiệp thiện đã tu tập đời trước.

Sinh ở nơi ấy rồi, thọ hưởng lạc thú gồm đủ loại hương vị xúc, có vô lượng cảnh giới, đi trong vườn, ao sen cõi trời, được trăm ngàn Thiên nữ cúng dường, đi không tạm nghỉ trong vườn cây, ao sen, sông suối, những nơi trước đó chưa từng thấy không thể ví dụ, không thể nói hết các loại thú vui cõi trời, vị ấy thọ hưởng đầy đủ vô lượng thú vui cõi trời, tâm không biết đủ.

Lại nữa, nơi ấy có vô lượng loại rừng cây vi diệu của cõi trời, các Thiên tử mới sinh ấy có một vài Thiên nữ vây quanh. Ở trong vườn khác có các Thiên nữ đang vui chơi trong ấy, thấy Thiên tử mới sinh liền phát khởi tâm ham muốn, liền có hành động khác trước dùng thiên y vòng hoa trang điểm đủ kiểu, thấy các vị trời mới sinh liền tiến lại gần.

Thấy các Thiên nữ ấy, tâm ham muốn của chư Thiên mới sinh phát khởi tăng gấp năm lần tiến đến gần các Thiên nữ. Các Thiên nữ và Thiên tử mới sinh hòa hợp với nhau, cùng hưởng vô lượng thú vui, đồng lòng thỏa thuận không phản bội nhau.

Tất cả Thiên nữ ấy cùng nhau ca múa vui cười. Các Thiên nữ ấy nghĩ như vầy: “Vị trời mới sinh này là chồng ta”. Vị trời mới sinh cũng nghĩ như vầy: “Các Thiên nữ này là vợ của ta”.

Thiên tử ấy cùng các Thiên nữ tin tưởng lẫn nhau, không nghi ngờ nhau, ca múa vui cười, yêu mến lẫn nhau ở trong vườn cây, từ một vườn cây đến một vườn cây, từ một ngọn núi đến một ngọn núi, từ ao sen đến ao sen, từ nhà làm bằng cành cây đến nhà làm bằng cành cây, từ một rừng cây đến một rừng cây, từ một ao đến một ao, ao này có màu châu báu xanh, ao ấy có nhiều ngỗng, vịt, uyên ương phát ra đủ loại âm thanh, có vô lượng con chim phát ra đủ loại âm thanh như vậy nghe rất vui tai. Nước trong ao này có đầy đủ sắc, hương, vị được sinh ra theo ý nghĩ gồm có vô lượng loại. Ở trong ao ấy họ ca múa vui chơi thọ hưởng dục lạc.

Đã thọ lạc rồi, lại thấy nơi khác, có các vị Thiên khác đi chơi vui vẻ, các vị trời mới sinh liền cùng Thiên nữ đến đó nghe năm loại âm nhạc, ca múa, vui chơi.

Khi đó, thấy các vị trời mới sinh này, chư Thiên ấy mới nói kệ:

Trong núi hoặc vườn cây
Hoặc tại ao hoa sen
Nơi tất cả tầng lầu
Hưởng lạc cùng Thiên nữ.
Hoặc ở trong núi vàng
Hoặc núi Tỳ-lưu-ly
Hoặc vườn cây, rừng cây
Thọ lạc cùng Thiên nữ.
Cây xinh đẹp như ý
Hoặc ở nơi sông suối
Hoặc ở nơi rộng rãi
Thọ vui cùng Thiên nữ.
Nơi bảy báu xen lẫn
Hoặc ở trong sông núi
Hoặc nơi tốt bằng phẳng
Thọ lạc cùng Thiên nữ.
Rừng cây Mạn-đà-la
Rừng cây hoa sen xanh
Âm thanh đủ loại chim
Thọ lạc cùng Thiên nữ.
Ở đủ loại vùng đất
Hoặc ở trong rừng báu
Hoặc tòa nhà xinh đẹp
Thọ vui cùng Thiên nữ.
Hoặc năm loại âm nhạc
Khiến tâm vui trong sạch
Thường ca múa vui chơi
Thọ lạc cùng Thiên nữ.

Chư Thiên ấy nói kệ như vậy với vị trời mới sinh. Các vị Thiên mới sinh đã nghe xong. Nơi ấy lại có chim tên Thật Ngữ làm lợi ích như pháp, để chư Thiên sống chân chánh mới nói kệ:

Trong núi hoặc vườn cây
Hoặc ở rừng hoa sen
Ái mê hoặc trời si
Đọa lạc cùng Thiên nữ.
Hoặc ở trong rừng vàng
Hoặc núi Tỳ-lưu-ly
Hưởng hết nghiệp lành rồi
Đọa lạc cùng Thiên nữ.
Cây đáng yêu theo người
Hoặc ở nơi sông suối
Vui chơi hết nghiệp lành
Đọa lạc cùng Thiên nữ.
Nơi bảy báu xen lẫn
Hoặc ở tại sông núi
Bị cảnh giới mê hoặc
Đọa lạc cùng Thiên nữ.
Rừng cây Mạn-đà-la
Rừng cây hoa sen xanh
Si tham dục làm mù
Đọa lạc cùng Thiên nữ.
Ở đủ loại vùng đất
Hoặc ở trong rừng báu
Không tu tập pháp lành
Đọa lạc cùng Thiên nữ.
Hoặc năm loại âm nhạc
Khiến tâm vui trong sạch
Tham đắm, tuổi thọ hết
Đọa lạc cùng Thiên nữ.

Chim Thật ngữ đã thuyết bài kệ ấy để làm lợi ích cho chư Thiên, khiến chư Thiên an ổn, sống chân chánh. Chư Thiên phóng dật nghe nhưng không ghi nhớ, các vị trời cao tuổi còn không chịu ghi nhận huống gì là các vị trời mới sinh. Do bị độc phóng dật làm tổn hại, các vị trời mới lẫn cũ đều ca múa, sinh tâm vui vẻ, đi chơi khắp nơi trong vườn, thọ hưởng thú vui cảnh giới, tự thân phát ra ánh sáng không cần nhờ ánh sáng bên ngoài soi chiếu.

Tất cả chư Thiên ấy lại cùng với Thiên nữ hướng đến một núi tên Sơn Man. Núi Sơn man này có nhiều tính chất quý báu, được trang nghiêm bằng đủ loại vật báu, ánh sáng chiếu khắp núi, có trăm ngàn hoa sen như mặt trời mới mọc trang nghiêm núi ấy, có trăm ngàn ức sông suối ao. Bốn phần của núi ấy có bốn rừng cây:

Rừng thứ nhất tên là Bách trì lưu thủy.
Rừng thứ hai tên là Đại quang.
Rừng thứ ba tên là Nghiêm sơn.
Rừng thứ tư tên là Phổ hương.

Đó là tên của bốn khu rừng ở các phần của núi ấy. Trong phần thứ nhất của núi ấy tức là rừng Bách trì lưu thủy có cây tùy theo ý niệm, có trăm ngàn ao, có cá màu châu báu vàng bạc xanh và màu châu báu ca-kê-đàn-na ở khắp trong ao. Nước ao trong sạch mát mẻ, nước đó đầy khắp ao như ý nghĩ. Có nhiều vườn cây bao bọc ao ấy, có ngỗng, vịt, uyên ương phát ra âm thanh đáng yêu khiến người nghe vui vẻ. Có chim Thường hoan hỷ trong mọi lúc thấy chư Thiên ấy mới nói kệ:

Tất cả mạng vô thường
Tuổi trẻ không dừng lại
Cõi trời này cũng vậy
Mà trời không hay biết.
Các pháp đều không dừng
Lần lượt đều hoại mất
Bị dây nghiệp trói buộc
Thế gian không hay biết.
Ngàn ức các Thiên chúng
Đi chơi ở vườn cây
Giờ thoái đọa sắp đến
Thế gian không hay biết.
Các vị trời lục dục
Buông lung hưởng ái lạc
Tất cả đều diệt mất
Người thế gian không biết.
Dục lạc như bọt nước
Như nằm mộng được vật
Chóng mất không dừng lâu
Thế gian không hay biết.

Lúc các vị trời ấy muốn lên núi, chim Thường hoan hỷ trong mọi lúc đã nói bài kệ như vậy để làm lợi ích cho các vị trời có nghiệp lành. Vì ham thích cảnh giới, các vị trời ấy không nghe, không nhớ, không hay, không biết, không thấy chân lý, không thấy chim ấy như người mù không thấy đường đi.

Bấy giờ, các vị trời ấy lại hướng đến rừng cây thứ hai tên là Đại quang. Ánh sáng của rừng này hơn cả ánh sáng của một trăm ngàn mặt trời. Các cây ở rừng ấy có ánh sáng thù thắng. Hoặc là ánh sáng của cây, hoặc là ánh sáng châu báu, hoặc ánh sáng rực rỡ đầy đủ công đức thù thắng vi diệu. Ba loại ánh sáng của rừng Đại quang ấy chiếu khắp khu rừng. Khắp khu rừng ấy đều đáng yêu. Nó được trang nghiêm bởi sông suối, ao. Có cây thay đổi tùy theo ý niệm trang nghiêm rừng ấy. Rừng ấy như vậy, mỗi chỗ đều khác nhau. Chư Thiên ấy mỗi vị đều ở một nơi khác nhau, nghe năm loại âm nhạc, ca múa vui chơi thọ hưởng đủ thứ dục lạc. Khi nghiệp lành hết dần, họ lại tiếp tục thọ hưởng thú vui cảnh giới, ở nơi khác trong núi ấy giống như voi say, họ hưởng dục lạc ở trong rừng một thời gian lâu dài như vậy.

Lại nữa, do tâm lay động chư Thiên ở trong núi ấy, hướng đến rừng cây của ngọn núi xinh đẹp, thọ hưởng thú vui của năm cảnh giới ở trong đó, bị giặc phóng dật làm mê hoặc, không biết sợ thoái đọa, không có cách để thoát ra, chỉ được vui lúc đầu, về sau thì khổ não. Họ thọ hưởng các thú vui dục lạc đầy đủ thanh vị sắc hương, do tham ái làm loạn tâm nên họ đi du hành khắp nơi.

Lại thấy rừng khác, khắp bên ngoài rừng ấy có rừng hoa sen vây quanh bốn phía, có cây thay đổi tùy theo ý niệm và trăm ngàn loại hoa trang nghiêm rừng ấy, có cây đại thọ khác có mùi hương thù thắng, vi diệu trang nghiêm rừng ấy. Lại có sông, suối, ao trang nghiêm rừng ấy. Lại có đủ loại chim, thú, nhà bằng cành cây bảy báu trang nghiêm rừng ấy. Lại có nhiều sông chứa đủ loại đồ ăn, thức uống thơm ngon. Các Thiên chúng ấy đến núi đó gồm có trăm ngàn vị. Họ ca múa vui chơi kết bạn với nhau. Họ có chung một ham muốn là đến rừng ấy cùng các Thiên nữ thọ hưởng dục lạc trong thời gian lâu dài, kết hợp với nhau để tìm cầu thú vui cảnh giới.

Lại nữa, chư Thiên ấy chưa biết chán đối với núi đó, kế đến lại thấy khu rừng đáng ưa tên là Phổ hương. Rừng ấy rất thơm, nhờ hương thơm của hoa trên cành cây. Long hoa làm bằng cành cây vàng trùm bên trên rừng ấy. Có mùi hương cư-thi-xa vi diệu bậc nhất. Rừng ấy còn có mùi hương của hoa Mạn-đà-la vi diệu bậc nhất. Hương thơm đó lan khắp một trăm do-tuần.

Chư Thiên nghe mùi thơm ấy liền sinh tâm thán phục. Các vị trời ấy ngửi vô lượng mùi thơm vi diệu như vậy rồi đi vào trong rừng.

Các vị trời ấy cùng nhau thọ hưởng hoan lạc. Họ cùng một ham thích thọ hưởng thú vui cảnh giới không hề biết chán, đi chơi khắp nơi làm đủ mọi việc.

Chư Thiên ấy đi chơi khắp nơi như vậy vừa đi vừa vui chơi dần dần đến đỉnh núi Sơn man. Cứ như vậy họ lần lượt đi đến hàng trăm, hàng ngàn đỉnh núi ấy. Họ thấy có cái thành lớn. Thành ấy rất đáng yêu, mỗi bề rộng đến năm trăm do-tuần. Trong khắp thành ấy có các tầng lầu, có nhà bằng vàng, có nhà bằng bạc, có nhà bằng Tỳlưu-ly, có nhà bằng xa cừ, đủ loại nhà bằng châu báu vi diệu trang nghiêm cho thành đó. Có đường đi thích hợp. Hình dáng của cửa rất đáng yêu đều là châu báu vi diệu. Khắp trong thành có nhiều hoa sen.

Các vị trời vào thành đó sinh tâm vui vẻ, thọ hưởng dục lạc đầy đủ các loại công đức. Ở trong nhà báu, trong vườn cây báu hoặc là trong ao sen, trong nhà bằng cành hoa, trong rừng hoa, trong ao hoa sen, hoặc là ở vùng đất nhiều hoa, hoặc ở trong hang núi, hoặc ở trong thành, hoặc ở nơi khác trên đỉnh núi, chư Thiên cùng Thiên nữ thọ hưởng nhiều loại thú vui đầy đủ công đức, nghe năm loại âm nhạc. Họ đi chơi, thọ hưởng đủ loại hoan lạc như vậy. Lúc họ thọ hưởng dục lạc như vậy, các con chim thấy mới nói kệ:

Nghiệp lành của chư Thiên
Tất cả đều sẽ hết
Về sau chịu khổ não
Mới biết lỗi phóng dật.
Người say đắm dục lạc
Chỉ hưởng vui chút ít
Vui ấy không bền lâu
Về sau sẽ hoại mất.
Ham thú vui cảnh giới
Thường có tâm mong cầu
Thấy phụ nữ buông lung
Về sau sẽ hoại mất.
Trời tham đắm cảnh giới
Không sợ khổ thoái đọa
Lúc bị hoại về sau
Mới biết khổ thoái đọa.
Trời nào gần Thiên nữ
Để cùng sống phóng dật
Về sau lúc thoái đọa
Phải lìa bỏ tất cả.
Trời nào sắp thoái đọa
Không có ai cùng đi
Chỉ có tất cả nghiệp
Là cùng đi theo sau.
Nên thường tu nghiệp lành
Thường bỏ nghiệp bất thiện
Thường lìa bỏ phóng dật
Thường sống không phóng dật.
Phóng dật gốc các cõi
Không phóng dật thanh tịnh
Phóng dật, không phóng dật
Tướng nó như đã nói.
Người mạnh thường tư duy
Tu tập các nghiệp lành
Ai tu tập theo pháp
Thì không chịu các khổ.

Để lợi ích cho chư Thiên, chim ấy đã nói bài kệ này. Do sống phóng dật, chư Thiên ấy không nghe không nhớ và lại bị cảnh giới làm mù, đi trong vườn cây, vui chơi đủ cách, thọ hưởng đủ loại dục lạc ở trong vườn cây hoặc ở thành báu đáng yêu.

Đã thọ hưởng dục lạc ở trong núi Sơn man xong, chư Thiên ấy lại hướng đến núi Thiên phong mong được thấy núi báu ấy. Vì thích cảnh giới cõi trời nên họ đến núi ấy. Nhờ nghiệp lành, họ thọ hưởng hoan lạc. Thấy núi báu ấy, họ liền sinh tâm ưa thích. Núi ấy đầy đủ tất cả dục lạc, trong mọi thời đều có đầy đủ hoa quả, sông suối, ao rừng, hoa sen.

Ở nơi vui vẻ ấy, tất cả chư Thiên nhìn liền thọ hưởng dục lạc, đi cũng thọ hưởng dục lạc, ăn cũng thọ hưởng dục lạc. Thấy núi ấy, họ sinh tâm thán phục. Đó là núi Sơn man. Núi lớn thù thắng đó lại có các núi khác đều là núi báu vây quanh bốn phía. Vì vậy núi đó gọi là Sơn man. Núi ấy có nhiều vườn cây, ao hoa, có sông suối, có nhiều ong báu, có vô lượng chim báu đủ loại âm thanh. Các loại chim này đều có thân bằng châu báu đủ loại hình tướng đáng yêu. Có các con ong trang nghiêm núi, bay đầy khắp núi ấy, có ánh sáng chiếu khắp. Các ánh sáng ấy có trăm ngàn loại giữa các ngọn núi, ta thấy đảnh núi báu ấy cắm vào hư không, có ánh sáng lớn vi diệu, thù thắng.

Chư Thiên ấy lên núi đó với các Thiên nữ nghe năm loại âm nhạc, vui chơi thọ hưởng hoan lạc, sinh tâm vui vẻ, đi theo ý nghĩ lên trên núi ấy, có vị đi ở trên hư không, có người cùng một lòng ham muốn với Thiên nữ thọ hưởng dục lạc ở năm cảnh giới, bị sông ái cuốn trôi không thể tạm dừng.

Nếu là niềm vui tịch tĩnh thì phải là niềm vui thường xuyên. Họ xả bỏ niềm vui tịch tĩnh lợi ích, an lạc ở đời vị lai mà ưa thích thú vui cõi trời. Thú vui cõi trời giống như mật có độc mà chư Thiên say đắm. Ban đầu nó giống như hiền lành nhưng về sau thì chẳng tốt, thật chẳng phải là thú vui chỉ tương tợ như vui.

Chư Thiên ấy không biết sinh tâm say đắm, cùng các Thiên nữ nghe năm loại âm nhạc, đi chơi tùy ý, leo lên đỉnh núi.

Họ leo lên đỉnh núi. Núi ấy càng nhìn càng đáng yêu. Khắp núi báu này đều đáng yêu. Nó có rừng cây, sông ao, có đủ loại chim ở trong vườn cây. Khắp vùng núi ấy có vô lượng trăm ngàn vườn cây đủ loại trang nghiêm núi đó, có ánh sáng bảy báu bao quanh bốn phía. Phần lớn Thiên chúng cùng Thiên nữ ca múa vui chơi từ từ lên núi ấy, cùng đi, cùng ngắm cảnh chư Thiên và Thiên nữ có đủ loại y phục và vòng hoa trang điểm thân. Họ không có tâm nào khác ngoài tâm thường ưa thích dục lạc, sống phóng dật. Các vị trời tự thân phát ra ánh sáng ấy cùng với các Thiên nữ xinh đẹp được trang sức bằng vô lượng trang phục tự thân phát ánh sáng vây quanh nhau mà đi một cách an lành. Theo ý nghĩ họ đi lên núi ấy.

Do nghiệp lành, là tự tạo nghiệp lành và tự được quả báo, chắc chắn tự thọ hưởng, họ vui chơi ca múa ở trong sông ao, thọ hưởng vô lượng loại hoan lạc, từ từ lên núi ấy, nghe năm loại âm nhạc, không bệnh tật, không mệt mỏi, tâm sinh hoan hỷ.

Đi chơi như vậy, họ thấy vô lượng loại hang núi, suối khe, mỗi thứ đều khác nhau, họ đi một cách tùy ý và không hề sợ sệt khi đến bất cứ nơi đâu. Lần lượt như vậy, họ tiến dần lên núi.

Núi Sơn man ấy lại có chỗ khác, có ngỗng chúa lớn sống ở trong ấy. Ngỗng chúa ấy tên là Thiện Thời có châu báu trang nghiêm thân. Thấy chư Thiên ấy sống buông lung, các vị trời ấy do nghiệp lành thù thắng nên được hưởng cuộc sống vui sướng này, lẽ ra phải nên lo sợ sẽ bị thoái đọa khi hết phước, đằng này lại vui cười, vì muốn tạo lợi ích cho tất cả, Bồ-tát Ngỗng chúa Thiện Thời sống trong hang núi ấy tu tập nghiệp lành tịch tĩnh. Để tạo lợi ích cho chư Thiên, để trừ bỏ phóng dật cho chư Thiên bậc mạnh mẽ nhất có đủ thứ vi diệu mới dùng âm thanh mà tất cả chư Thiên đều ưa thích, âm thanh hay hơn âm thanh của tất cả chư Thiên để nói kệ:

Ái dục khiến tâm si
Thường say đắm cảnh giới
Trời ấy không hay biết
Lợi lạc đời vị lai.
Còn chút ít phước đức
Sắp đến lúc thoái đọa
Thoái đọa đến nơi khác
Nhận quả báo theo nghiệp.
Trong trăm ngàn đời trước
Bị xích nghiệp ràng buộc
Nghiệp này trói chúng sinh
Tu đạo làm tư lương.
Nếu trời thường thọ vui
Thường tạo nghiệp bất thiện
Bởi vì không tương tợ
Si mê ở trong tâm.
Bị dục gây mê hoặc
Chỉ ăn mà chờ chết
Nếu không biết sự thật
Không lợi lạc chúng sinh.
Bị dục làm mê hoặc
Chỉ ăn mà chờ chết
Ai vì muốn vui thân
Phá hoại pháp là ngu.
Trong mọi thời hết lòng
Thường siêng tu nghiệp lành
Tránh xa người bất thiện
Đó là tướng trí tuệ.
Phóng dật không giữ giới
Hưởng hết sạch nghiệp cũ
Do buông lung như thế
Thoái đọa khỏi cõi trời.
Ai thường nghĩ như vậy
Bị thời giờ xua đuổi
Bị lửa hối hận thiêu
Không một ai cứu được.
Quả ác không thể tránh
Chúng sinh phải nhận chịu
Về sau đến giờ chết
Biết rồi sống tịch tĩnh.

Ngỗng chúa Thiện Thời có thân thể mạnh mẽ bậc nhất, đã dùng âm thanh vi diệu như vậy nói bài kệ này cho Thiên chúng nghe. Vì tất cả chư Thiên, âm thanh của Bồ-tát Ngỗng chúa biến thành vô lượng âm thanh đủ loại, hiện thành từng bài từng câu, đều tương ưng với nhau. Tiếng của Bồ-tát ấy có oai lực vi diệu mạnh mẽ, thù thắng hơn âm thanh của chư Thiên.

Tất cả Thiên chúng lại nghe có âm thanh lớn ở đằng xa, có vô lượng Thiên nữ vây quanh, có cung điện thù thắng, vi diệu trang nghiêm đủ kiểu, đầy đủ hoa quả, trong tất cả các thời có vô lượng hoa sen che khắp vùng đất ấy, có nhiều Thiên nữ có tiếng ca đáng yêu, có ánh sáng của xâu chuỗi châu báu chiếu rực rỡ, bảy báu xen lẫn nhau, có vườn cây sông suối trang nghiêm, có cờ phướn bằng cây cẩu, cây lan trang điểm đủ cách, có trăm ngàn Thiên nữ có âm thanh vi diệu đủ năm loại âm nhạc làm người nghe sinh tâm vui, có trụ bằng châu báu Tỳ-lưu-ly và châu báu rất xanh, trụ bằng vàng ròng trang nghiêm điện ấy, có tòa sư tử lớn trang nghiêm núi ấy.

Cung điện báu đó bay trong hư không, Thiên vương Dạ-ma ở trên điện ấy, có vô lượng trăm ngàn Thiên nữ cúng dường Thiên vương, chấp tay ca ngợi Thiên vương ở trong hư không rõ ràng như ban ngày, tâm rất vui vẻ hướng về núi Sơn man để gặp ngỗng chúa Thiện Thời.

Ngỗng chúa ấy do nguyện lực lớn là tạo lợi ích cho chư Thiên nên sinh ở cõi trời Dạ-ma, nhớ được đời trước của mình vì vậy Thiên vương sinh tâm kính trọng nên đến gặp Thiên chủ để nghe pháp để làm lợi ích an lạc cho mình và Thiên chúng, lợi lạc cả mình lẫn người khiến không đọa vào đường ác, lìa bỏ phóng dật.

Bấy giờ, chư Thiên trong núi Sơn man ấy, vui chơi thọ lạc, họ ở đủ mọi nơi trong vườn cây trên núi, có vị ở tại nơi bằng phẳng, có vị ở trong hang núi, có vị ở trong rừng hoa sen, có vị ở trong ao nước, có vị ở trên cung điện, có vị ở trong nhà châu báu, có vị ở trên ngọn núi, có vị ở trên bờ sông, có vị ở trên đỉnh núi, có vị ở trong rừng hoa, có vị ở trong rừng cây ăn trái, có vị ở chỗ loại cây thay đổi tùy theo ý niệm, có vị ở chỗ cây vàng Tỳ-lưu-ly thay đổi tùy theo ý niệm, có vị ở vô lượng rừng cây xinh đẹp tất cả đều ở cùng với các Thiên nữ, hoặc nhiều hoặc ít. Tất cả Thiên chúng đều mau chóng sinh tâm vui vẻ, ca múa vui chơi quan sát Thiên vương ấy, thấy đại Thiên vương ngồi trên cung điện thù thắng thành tựu hoan lạc không gì sánh bằng của cõi trời. Thấy rồi tất cả Thiên chúng đều dùng hết sức chạy thật nhanh. Đã thấy Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà, họ vừa nhìn vừa chạy, tâm rất vui, dòm không nháy mắt và tiến dần lên phía trước.

Các vị Thiên ấy tự tư duy như vầy:

–Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà vì muốn nghe pháp cho nên đến đây, chúng ta phải xin ngỗng chúa Thiện Thời đến cúng dường Thiên vương.

Đã tư duy như vậy rồi, tất cả đều đến gần Thiên vương Dạ-ma. Vị ấy đầy đủ tất cả thú vui cảnh giới và công đức nơi năm dục, có thiên y và vòng hoa cõi trời trang sức. Tất cả Thiên chúng đều tiến đến chỗ Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà đang bay ở trong hư không.

Vị trời nào vui chơi ở một ngàn ngọn núi, được trang điểm bằng thiên y mà thấy như vậy rồi thì đều đến gặp Thiên vương lễ bái, cúng dường. Cúng dường rồi, họ lại càng thêm vui vẻ, ca múa vui cười, đến gần Thiên vương. Tất cả đều cùng Thiên vương Dạ-ma quây quần một chỗ, cùng hướng đến chỗ Bồ-tát Ngỗng chúa.

Bồ-tát Ngỗng chúa ấy thông minh bậc nhất, có trí tuệ lớn. Do xưa kia có nguyện trừ phóng dật cho Thiên chúng nên Bồ-tát sinh ở cõi trời Dạ-ma. Tất cả vị trời ấy đều đến chỗ Bồ-tát Ngỗng chúa. Thấy Bồ-tát, Thiên vương Dạ-ma sinh tâm kính trọng. Do kính trọng pháp, vị ấy cùng Thiên nữ theo cung điện đi xuống. Bồ-tát Ngỗng chúa thường nói pháp lớn, thường tạo pháp nhũ, đã thấy Thiên vương Mâu-tu-lâu-đà, vị ấy liền trao cho pháp nhũ. Do oai lực của pháp, Ngỗng chúa ấy là thù thắng vi diệu nhất đối với chư Thiên. Do uy lực của pháp, vị ấy có ánh sáng tuyệt vời.

Khi ấy, gặp Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà, Ngỗng chúa chào hỏi và nói những lời khen ngợi, chào hỏi và nói những lời khen rồi cúng dường. Cúng dường xong, Ngỗng chúa khen ngợi:

–Lành thay! Thưa Thiên vương Dạ-ma, chỉ riêng Thiên chủ mới có thể sống không phóng dật, rất đáng thán phục, ở nơi phóng dật bậc nhất này mà có thể không phóng dật thì đã hiếm có lại càng hiếm có hơn. Tất cả Thiên vương đều thọ lạc gấp trăm lần ở cõi trời, vậy mà Thiên chủ không sống phóng dật thì thật hiếm có, xa lìa dục lạc thì càng không thể có.

Bồ-tát Ngỗng chúa Thiện Thời nhớ lại kinh pháp đã từng nghe Phật Thi-khí giảng trong đời trước. Nhớ xong, Bồ-tát nói với Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà:

–Này Đại Thiên vương! Ông đã được lợi ích tốt đẹp là không phóng dật và vì muốn nghe ta giảng nên đến đây, thật là hiếm có. Ông hãy chú ý, ta sẽ nói cho ông nghe những điều mà Đức Thế Tôn Thi-khí Như Lai đã từng thuyết giảng.

Khi ấy ta là vua, đã nghe Như Lai dạy, nay ta nói lại cho ông những điều xưa kia ta đã nghe, ông hãy lắng nghe và ghi nhớ nghĩ. Có một pháp môn tên là Vương pháp hành. Pháp môn này có thể làm lợi ích cho vị vua Sát-đế-lợi đã được quán đảnh lên ngôi. Vua được pháp này thì đời hiện tại thường an lạc, thường có lợi ích bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người tốt khen ngợi, khi chết được sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Vị vua Sát-đế-lợi đã được quán đảnh lên ngôi thành tựu nghiệp gì mà đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích giữ gìn thế gian, rất giàu mạnh, có thể bảo vệ bản thân, được người tốt đẹp khen ngợi, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma, có thần thông lớn, rất giàu rất mạnh? Đó là do vị vua này thành tựu đầy đủ ba mươi bảy pháp, khiến ở đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, bảo vệ thế gian, nhờ bảo vệ thế gian nên rất giàu mạnh, tất cả vua khác không thể hủy hoại, có thể bảo vệ bản thân, được người tốt khen ngợi, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma.

Ba mươi bảy pháp đó là:

  1. Quân đội trong sạch về mọi mặt.
  2. Thu thuế đúng như pháp.
  3. Thường nhẫn chịu không nổi giận.
  4. Phán đoán sự việc một cách bình đẳng không thiên lệch.
  5. Thường cúng dường các bậc tôn trưởng.
  6. Thuận theo việc cũ, kết hợp với việc hiện tại mà ban thưởng.
  7. Bố thí không keo kiệt.
  8. Không bao che những kẻ làm việc phi pháp.
  9. Không thân cận bạn ác.
  10. Đàng hoàng, không lệ thuộc người nữ.
  11. Không hoàn toàn tin khi nghe nói điều chi.
  12. Thích được tiếng thơm, không tham của cải.
  13. Xả bỏ tà kiến.
  14. Thường hay bố thí một cách nhân từ.
  15. Nói lời dịu dàng êm ái.
  16. Nói lời chân thật.
  17. Nếu không có lý do thì không thăng chức hay hạ chức quần thần.
  18. Biết việc tốt xấu của người.
  19. Thường định thời gian quan sát muôn dân.
  20. Không ngủ nghỉ nhiều.
  21. Thường không biếng nhác.
  22. Gắn bó thuận hợp với bạn lành.
  23. Không thân cận tất cả bạn không có ích.
  24. Không bị giận vui làm lay động.
  25. Không tham ăn uống.
  26. Tâm khéo tư duy.
  27. Không đợi đến lúc an lành mới làm.
  28. Dùng pháp làm lợi ích thế gian.
  29. Thường tu mười nghiệp lành.
  30. Tin vào nhân duyên.
  31. Thường cúng dường chư Thiên.
  32. Bảo vệ đất nước một cách chân chánh.
  33. Giữ gìn vợ con một cách chân chánh.
  34. Thường tu tập trí tuệ.
  35. Không ưa thích cảnh giới.
  36. Không cho người ác sống trong nước mình.
  37. Y theo pháp để ban lợi lộc và tước vị cho mọi người dân.

Đó là ba mươi bảy pháp. Nếu thành tựu ba mươi bảy pháp này thì được gọi là vị vua Sát-đế-lợi đã được lên ngôi, đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, rất giàu, rất vui, có nhiều của báu, có thể giữ gìn đất nước, bảo vệ bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm vua trời Dạ-ma. Đó là nhờ thành tựu ba mươi bảy pháp nói trên.

Thế nào là quân binh trong sạch của vị vua Sát-đế-lợi?

Đó là người có tâm lành làm lợi ích cho người khác, y theo pháp để phán đoán sự việc khi phân xử tranh chấp, không làm trái pháp luật, bảo hộ chân chánh theo pháp. Không trái yêu cầu vốn có, can ngăn chủ với tâm trung thực, chủ làm được điều lợi ích thì thành thật khen ngợi, y theo pháp bảo vệ tổ quốc, có răn dạy điều gì đều để tạo lợi ích cho người tâm tánh ngay thẳng, không làm phiền người khác, y theo pháp thờ chủ, không sợ bị phạt, tâm không tham lam, ngạo mạn, thuận theo tất cả các pháp, vì đời vị lai mà sống thuận theo pháp, sợ hãi sinh tử, tin quả báo của nghiệp, từ bỏ ba nghiệp ác, không thích dục lạc, không thích hành phạt, ý chân chánh không bị loạn, có thể độ thoát cả mình lẫn người. Có thể tạo lợi ích cho vua. Người này là quân binh tương ưng với vua, khiến vua ở đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Do quân đội của vua trong sạch về mọi mặt nên vua không sinh tâm ác. Đó là do nghiệp lành mà ra.

Lại nữa, vị vua Sát-đế-lợi nên siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai thì ở đời hiện tại thường được lợi ích, có thể bảo bệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma.

Pháp thứ nhì là Thu thuế đúng theo pháp để cung cấp áo quần, thức ăn. Y theo pháp là hoặc trong nước, hoặc ở thành phố, hoặc thôn, hoặc ấp, hoặc nơi nhiều người tụ tập, trong mọi lúc thường dựa vào phép tắc cũ, dựa theo đạo lý để thu. Lúc đất nước bị giặc giã phá hoại, lúc mất mùa thì không thu thuế, lúc thu chỉ dùng lý lẽ chứ không cưỡng bức và trừng phạt, dùng cân, đấu, thước cân bằng theo mẫu đời trước. Việc thu thuế y theo pháp không trái nghịch, không cưỡng ép, không phạt, không xâm lấn, không cướp đoạt, quốc vương đó thương xót tất cả chúng sinh. Nếu vua thu thuế y theo pháp như vậy thì nhờ công đức đó ở đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là do nghiệp lành thường thu thuế y theo pháp.

Lại nữa, vị vua Sát-đế-lợi cần phải siêng năng tu tập, thành tựu pháp thứ ba để đất nước không bị xâm lấn và làm lợi ích cho hai đời hiện tại, vị lai.

Pháp thứ ba là Thường nhẫn nhục không giận dữ, tâm thường nghĩ xem do nhân gì khiến mình giận và xả bỏ tất cả nhân đó. Tuy đã được tự chủ nhưng không chê cười khi thấy lầm lỗi của người khác, khi các quan, quyến thuộc, nô bộc mắc tội lỗi không hành phạt nặng, không nói lỗi lầm và tội ác của kẻ thù với người thân, khi nổi giận với quân đội liền niệm nhẫn nhục, nhờ niệm nhẫn nhục tâm sân biến mất, miệng thường nói lời ngọt ngào khiến quân binh không lo sợ. Thường nhẫn nhục trong mọi lúc đối với tất cả pháp. Việc nhẫn nhục đó là tự thể chân thật, chẳng phải do nhân duyên mà có. Nếu vua mà nhẫn nhục không sân không giận như vậy, thì nhờ công đức này ở đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể giữ gìn đất nước, bảo vệ bản thân, được người tốt khen ngợi, khi chết sinh lên trời làm vua trời Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành thường nhẫn nhục với người.

Lại nữa, vị vua Sát-đế-lợi phải siêng năng tu tập thành tựu

pháp thứ tư để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ tư là phán đoán sự việc công bằng không thiên vị, nhà vua phải có tâm ý tốt, đối với người dân giống như cha mẹ đối với con cái, không vì của cải, hữu dụng, thân quyến, ân nghĩa, bạn bè, thế lực quý phái, hoặc sự phó chúc mà chỉ y theo pháp để phán đoán sự việc không có thiên vị, không phân biệt kẻ oán người thân khi xét xử việc tranh chấp, nói lời lợi ích và lời chân thật. Nếu vua phán đoán sự việc một cách công bằng và ngay thẳng như vậy thì nhờ công đức này đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, không bị mất nước, không mất tiếng thơm, tất cả quân binh đều không có tội ác đến nỗi phải bị phạt, có thể bảo vệ đất nước, không sợ người bàn luận, vua khác không thể thắng làm vua, trong thời gian dài thống lãnh đất nước, có thể giữ gìn bản thân, được người tốt khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là do nghiệp lành phán đoán sự việc với tâm công bằng.

Vị vua Sát-đế-lợi phải siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ năm để làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai cho đến khi đạt được Niết-bàn. Pháp thứ năm là Thường cúng dường tôn trưởng, tôn trưởng là người thấy như thật, hành trì giới luật có trí tuệ, làm lợi ích cho chúng sinh, thường tạo nghiệp lành, thân, miệng, ý thường trong sạch, tâm không bợn nhơ, khiến người khác được phước. Nhà vua nên thân cận hạng tôn trưởng như vậy để nghe pháp, cúng dường, ghi nhận những lời dạy bảo của vị ấy và thực hành theo. Nhờ công đức cúng dường bậc tôn trưởng trong mọi lúc nên ở đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là do nghiệp lành thường xuyên cúng dường bậc tôn trưởng.

Lại nữa vị vua Sát-đế-lợi nên siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ sáu để làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ sáu là: Thuận theo việc cũ kết hợp với việc hiện tại mà ban thưởng. Nếu phụ vương và các tiên đế đã hứa cho người khác các vật như đất đai, vàng, bạc… với tâm thanh tịnh, vị vua mới lên ngôi hoan hỷ tùy thuận theo, ưa thích sự việc kia, y theo pháp cũ và tùy thuận khen ngợi rồi sai người đem cho. Nếu vua y theo sự việc trước đây mà cho thì nhờ công đức đó đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người tốt khen ngợi, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là do nghiệp lành thuận theo nghiệp cũ kết hợp với hiện tại mà ban thưởng.

Vị vua Sát-đế-lợi nên siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ bảy để làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ bảy là bố thí không keo kiệt. Bố thí là từ lúc còn nhỏ tuổi cho đến trưởng thành và về già thường xuyên bố thí, bố thí tất cả mọi thứ vào mọi lúc, làm lợi ích an lạc cho tất cả, thường nhớ nghĩ đến chúng sinh đang đói khát, khổ não trong tất cả các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, khi bố thí cầu nguyện cho chúng sinh ở ba đường sớm được giải thoát làm hàng trời, người. Nếu vua làm vậy sẽ được quả báo hiện đời là được tiếng khen, khi gặp nạn không bị nô bộc và quân lính từ bỏ, thường được người trong nước đến cúng dường, người khác thấy vậy không thể phá hoại, tất cả giặc thù không thể lợi dụng chút sơ hở nào và vị ấy thường chiến thắng họ. Bố thí như vậy được phước báo hiện đời. Bố thí vào nơi chẳng phải là ruộng phước mà còn được quả báo hiện tại như vậy, huống gì là bố thí một cách thù thắng vào ruộng phước là nơi có đủ cả vật chất và tinh thần thì thường đóng cửa các đường ác, thường được quả báo vui.

Có vô lượng cách bố thí. Đó là: Bố thí pháp, bố thí của cải, bố thí vô úy. Nhà vua bố thí đủ cách như vậy, hoặc bố thí cho Sa-môn, hoặc bố thí cho Bà-la-môn, nhờ công đức bố thí này ở đời hiện tại được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn thân thể, người lành khen ngợi, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành bố thí.

Lại nữa, vị vua Sát-đế-lợi phải chuyên cần xả ly thành tựu pháp thứ tám để làm lợi ích cho đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ tám là không bao che người sống phi pháp, không cho họ ở trong nước. Vì vua Sát-đế-lợi sống thuận theo pháp nên không chấp nhận những người sống phi pháp và không cho phép họ ở trong nước mình. Người sống phi pháp là: Kẻ dùng đủ cách cướp tài sản của người khác. Hoặc bóp cổ khiến họ chết ngất để lấy của. Hoặc chuốc thuốc độc khiến họ mê muội để lấy của. Hoặc bày cách để lấy trộm đồ vật của người. Hoặc lén lấy trộm đồ vật của người. Hoặc tạo các phương tiện để lấy của cải của người ở trên đường, ở chợ. Hoặc mua đồ thật, bán đồ giả, lừa dối đủ cách để lấy đồ vật của người. Hoặc là người gian dối, vô đạo đàn áp việc lành, nâng đỡ việc ác, thúc đẩy việc ác, đẩy lùi việc phải, vu oan người hiền lương, nâng đỡ người ngu xuẩn. Hoặc là người có tà kiến, đoạn kiến. Hoặc là người mổ giết chúng sinh để mong được giải thoát. Hoặc là ngoại đạo mổ giết dê trong ngày hội lớn, để mong có phước đức. Hoặc là người thiến chúng sinh. Hoặc là người nam hành dâm với người nam. Hoặc là người không cúng dường cha mẹ, sư trưởng. Không nên cho những người như vậy sống trong nước. Vì sao? Vì nếu cùng sống trong một nước với những người như thế thì tâm ý những người hiền thiện sẽ bị hư hỏng do sống cùng chỗ và bắt chước lẫn nhau. Vì người lành trở nên hư hỏng nên vua không còn sức lực, mất sức phát triển, mưa nắng không đúng thời nên ngũ cốc bị thất thu vì không chín đúng thời vụ, tất cả đất nước đều bị thiệt hại do tội của người ác. Vì các lý do ấy nên không được bao che tất cả những người sống phi pháp, không cho họ sống trong nước và chỉ cho phép những người sống đúng pháp ở trong nước. Nhờ bảo bọc những người sống đúng theo pháp nên mưa nắng đúng thời vụ, vì vậy ngũ cốc đến thời vụ là chín tốt, không làm đất nước bị thiệt hại, lìa xa sự lo sợ, không sinh buồn rầu. Việc lợi ích của tất cả các nước là giữ gìn người sống theo pháp, nhờ đó có thể từ bỏ tất cả khổ não trong sinh tử khiến người có phước sống tại nước mình. Nhờ gần gũi những người có phước đức, sống theo pháp nên họ là người có phạm hạnh bậc nhất. Người sống yên ổn là người có phước đức, thân cận người phước đức và sống thuận theo pháp. Vì vậy tất cả các vị vua có trí tuệ đều gần gũi người sống theo pháp và cho họ sống trong nước mình. Nếu vua không bao che tất cả những người sống phi pháp thì nhờ công đức đó đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành không bao che người sống phi pháp.

Lại nữa, vị vua Sát-đế-lợi phải siêng năng xả ly thành tựu pháp thứ chín để đời hiện tại và vị lai được lợi ích. Pháp thứ chín là không gần gũi bạn ác. Nói tóm lại bạn ác gồm có tám hạng và nhà vua phải xa lánh tất cả. Tám hạng đó là:

  1. Đoạn kiến: Có người bảo rằng không có nghiệp, không có sự bố thí, không có đời này, không có đời sau, đó là bạn ác đầu tiên.
  2. Bạn ác thứ nhì là người nói như vầy: Nếu đúng thời hành dâm với tất cả phụ nữ thì không phá phạm hạnh.
  3. Bạn ác thứ ba là người nói như vầy: Nếu dùng lửa thiêu sẽ được phước đức lớn, còn bố thí cho chúng sinh thì không có phước.
  4. Bạn ác thứ tư là người nói rằng: Từ lúc có sinh mạng cho đến lúc chết được gọi là người. Nếu thân này mất rồi thì tất cả nghiệp thiện và nghiệp ác đều mất. Như gió thổi tan mây không thể tụ lại nữa, chúng sinh cũng vậy không có tội phước.
  5. Bạn ác thứ năm là người thường dạy người khác quấy nhiễu cha mẹ, không chịu cúng dường tôn trưởng.
  6. Bạn ác thứ sáu là người bảo sát sinh là thiện, nếu giết người già, người đui, người bệnh nặng hoặc người bệnh dai dẳng… thì nhờ đoạt lấy mạng sống của họ mà được sinh đến chốn vui vẻ.
  7. Bạn ác thứ bảy là người nói rằng: Từ trên ngọn núi gieo mình xuống đất, hoặc dùng lửa đốt thân, hoặc nhịn đói chết, hoặc lấy lửa đốt năm chỗ trên thân, nếu chết như vậy thì được phước vô lượng, sau được sinh Thiên có vô lượng quyến thuộc, được vô lượng Thiên nữ cúng dường.
  8. Bạn ác thứ tám là người nói: Tất cả đều do trời định, chẳng có nghiệp và quả.

Không nên cho tất cả tám hạng bạn ác này sống trong nước, mắt không nhìn chúng, chỉ nên chấp nhận những người nói chân thật và theo họ để nghe chánh pháp, nghe xong ghi nhớ và tu tập. Nếu vua không gần tất cả những bạn ác như vậy thì nhờ công đức đó hiện đời thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là do nghiệp lành không gần gũi bạn ác.

Lại nữa, vị vua Sát-đế-lợi cần phải siêng năng lìa bỏ thành tựu pháp thứ mười để đời hiện tại và vị lai được lợi ích. Pháp thứ mười là cần phải xa lánh phụ nữ. Người có trí thì không lệ thuộc vào phụ nữ, người lệ thuộc vào phụ nữ là kẻ hèn hạ nhất trong thế gian. Những người phàm khác mà lệ thuộc vào phụ nữ còn hèn hạ như vậy huống gì nhà vua là người đứng đầu trong nước. Tất cả phụ nữ đều có thể làm hư hỏng con người. Tất cả đất nước, tất cả thường dân và vua chúa đều do phụ nữ mà bị hư hỏng. Do tâm tham họ có thể khiến nhà vua mất hết lợi ích, có thể chiếm lấy của cải, khiến nhà vua làm việc phi pháp, không chịu bố thí. Do tâm tham nhà vua có thể trở nên biếng nhác. Do thích dục lạc nên nhà vua thường gần gũi không rời và người phụ nữ khiến cho bậc trượng phu đánh mất lợi ích. Phụ nữ như mưa đá làm hại mầm thiện, tất cả phụ nữ thích nói lời hủy hoại, là kho chứa ngã mạn và ganh ghét. Người lệ thuộc vào phụ nữ thì có việc làm giống phụ nữ. Lệ thuộc vào phụ nữ thì đánh mất đất nước, vì vậy không nên lệ thuộc vào phụ nữ. Nếu lệ thuộc vào phụ nữ tức là người hèn hạ. Do thói của phụ nữ là hèn hạ xấu xa, nên người lệ thuộc vào phụ nữ cũng hèn hạ xấu xa. Người lệ thuộc vào phụ nữ bị mất hết thảy các pháp, thường đi đến nơi khổ cực, bị người thiện lìa bỏ. Do lỗi tham dục người đó bị phụ nữ lừa dối. Tất cả phụ nữ đều lừa dối, lấn lướt, bản tánh của người nhu nhược là như vậy, không biết công ơn nuôi dưỡng, làm tăng sự suy yếu, khổ não, nhiều tham lam ganh ghét. Phụ nữ là như vậy, cho nên không thể tin. Ai lệ thuộc vào phụ nữ thì là người hèn hạ nhất trong tất cả những người ở thành ấp, xóm làng, huống gì là nhà vua, nếu là nhà vua thì sự tổn thất càng nặng hơn. Vì vậy không nên lệ thuộc vào phụ nữ. Nếu vua sợ tai họa phụ nữ thì nhờ công đức này ở đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành xa lánh phụ nữ.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi phải siêng tu tập, thành tựu pháp thứ mười một để đời hiện tại và vị lai được lợi ích. Pháp thứ mười một là Nghe nói điều gì thì không tin hoàn toàn. Tâm của tất cả mọi người trên thế gian không giống nhau, thường phá hoại lẫn nhau, bản tánh thích phá hoại, có thể phá hoại khi đang làm hoặc khi đã làm xong, vì bản tánh uế tạp nên họ phá hoại, do thích tranh chấp nên họ phá hoại, do thân cận nên họ phá hoại nhau, do tự thể phá hoại, do tai họa của đất nước nên họ phá hoại, do tự khinh nên họ phá hoại. Họ nói xấu lẫn nhau và bày điều tốt của mình để hủy hoại nhau. Vì muốn mình thắng kẻ khác thua nên họ phá hoại nhau. Nhà vua không nên tin những lời như vậy. Vì nó trái đạo lý, trước sau trái nhau.

Đó là do theo thứ lớp của tâm ác mà ra, do thương bạn mình nên nói như vậy, hoặc do đã được dạy từ trước, được phó thác từ trước, hoặc do ân nghĩa hay thù oán từ trước, hoặc do muốn phá hoại nhau nên nói với vua như vậy. Do những điều nói trước hoặc do giận nhau nên họ nói những lời như vậy, nhà vua không được tin hết, nhờ thế đất nước mới không bị phá hoại. Tâm tánh nhà vua phải tốt, không bị rối loạn, chỉ nổi giận đúng đạo lý, không bạ đâu giận đó, không tin những lời phá hoại, nhà vua phải có công đức không tin hoàn toàn vào người khác như vậy thì tự tâm được vui vẻ, ít nổi giận, được tất cả chúng sinh ưa thích, tâm khéo suy tính, sống thuận theo pháp, tâm ý chân chánh, nắm giữ nhiều đất đai. Nếu vua không tin tất cả những điều người khác tâu lên thì nhờ công đức đó hiện đời thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người thiện khen ngợi, khi chết sinh lên trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành không tin tất cả những điều người khác tâu lên.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ mười hai để làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ mười hai là ưa thích tiếng thơm, không tham của cải. Do tâm vua không tham của cải, không nắm chặt bàn tay, không nhăn mặt nhíu mày, không trợn mắt, không nói lời hung dữ, không giận vô duyên vô cớ, không vui khi không có lý do, tâm ý vững vàng. Nếu vua như vậy sẽ được tiếng thơm và được của cải. Khi được của cải vua không mừng lắm, nhưng lại rất vui khi được tiếng khen, phép vua không làm trở ngại, kẻ oán lẫn người thân, đều không thể lợi dụng khi thấy có nhiều của cải.

Lại có mười nhân duyên được tiếng thơm. Những gì là mười?

  1. Lời nói dịu dàng.
  2. Có thể xả bỏ.
  3. Xét kỹ.
  4. Người ở nước xa xôi đến thăm.
  5. Gần gũi được an lạc.
  6. Theo thời hạn cấp phát cho kẻ dưới.
  7. Dâng hiến đồ cần dùng cho những bậc tôn kính, cung cấp cho người lành và cứu giúp người cô độc.
  8. Hành động trong sạch.
  9. Tâm tốt không làm não loạn người khác.
  10. Chánh kiến không sinh tà kiến.

Thực hành và dạy người thực hành mười pháp này thì sẽ được tiếng khen. Nếu vua thích tiếng lành và không tham của cải thì nhờ công đức đó hiện đời thường được an lạc, thường có lợi ích, sống thuận theo pháp, người khác không thể thắng, người khác gần gũi liền được an lạc, không bao lâu người ấy sẽ làm vua loài người, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người thiện ca ngợi, khi chết sinh lên trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là do nghiệp thiện thích tiếng lành và không tham của cải.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi phải siêng năng xả bỏ, thành tựu pháp thứ mười ba để đời hiện tại và vị lai được an vui. Pháp thứ mười ba là xả bỏ tà kiến. Tà kiến là nguồn gốc khiến tất cả chúng sinh không an ổn, có cái thấy điên đảo này thì sẽ không tin tất cả nhân duyên. Do không tin nên tất cả mọi người đều ghét và chê trách. Vì vậy vua phải xả bỏ tà kiến. Nếu vua không xả bỏ thì sống theo tà kiến, bị mọi người ghét và không tin, mọi người không làm theo. Do không thuận nên mọi người đều xả bỏ. Lúc gặp suy yếu khổ não, tất cả chư Thiên sống y theo pháp đều xa lánh. Khi chư Thiên bỏ đi rồi thì không thể làm được bất cứ việc gì. Vì vậy cần phải xả bỏ tà kiến. Nếu vua có chánh kiến, không có tà kiến thì nhờ công đức đó hiện đời thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, tạo ra lợi ích chân chánh trong mọi lúc, được mọi người cúng dường yêu mến, các vị trời sống theo pháp thường ủng hộ, mọi người trong nước đều làm theo ý vua, mọi sự mong muốn khác nhau đều được thỏa mãn, bản tánh và tâm ý của vua ấy không bị rối loạn, thống lãnh đất nước trong thời gian dài, yên ổn, không bị tai hoạn, khi chết sinh vào đường lành là cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành xả bỏ tà kiến.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi nên siêng năng tu tập thành tựu pháp

thứ mười bốn để tạo lợi ích cho đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ mười bốn là pháp thế gian và xuất thế gian, pháp căn bản của vua, đó là bố thí với lòng nhân ái. Vua hoặc đại thần có thể làm việc bố thí với lòng nhân ái thì mọi người trong nước đều kính yêu, không từ bỏ, tâm sinh kính trọng không bỏ nước họ đi đến nước khác, người ở nước khác thấy vua hay bố thí liền cùng với vợ con, tôi tớ của họ đến quy tụ. Do nhiều người đến nên dân số tăng lên và các nước khác không thể xâm lấn. Do dân số đông nên không ai có thể phá hoại. Bố thí như vậy là bố thí thuộc thế gian nên được an ổn bậc nhất ở thế gian. Ngoài ra, còn có bố thí xuất thế gian là loại bố thí tốt nhất. Ai bố thí thì được chư Thiên hộ trì, có năng lực lớn, có oai đức lớn, bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo khổ, là việc làm trang nghiêm cho đời vị lai và hiện tại được sắc đẹp. Vì sao? Do tâm thanh tịnh nên thức ăn thanh tịnh. Nhờ thức ăn thanh tịnh nên sắc mặt thanh tịnh, sắc mặt thanh tịnh nên xinh đẹp vui vẻ. Đó là do sức mạnh của bố thí tạo ra. Lại có pháp khiến ta được quả báo hiện tiền. Đó là bố thí với tâm không kiêu ngạo, lìa bỏ tham lam ganh ghét, tin nhân quả, tin có đời vị lai, cúng dường tôn trưởng, tâm họ mềm mỏng, tư duy chân chánh, xả bỏ các thứ của cải để giữ lấy nhân giàu có, lìa sự keo kiệt ganh ghét, tin vào ruộng phước, gieo hạt giống lành vào ruộng phước công đức. Nếu vua dùng lời lành xông ướp tâm, khiến tâm trong sạch bậc nhất thì nhờ công đức đó đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, làm vua trong thời gian dài, thống lãnh đất nước, hưởng lạc suốt thời gian dài, đất nước không loạn lạc, thường yên ổn, không lo không buồn, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành bố thí với lòng nhân ái.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi phải siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ mười lăm, để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ mười lăm là ái ngữ. Người thực hành ái ngữ phải thương yêu và gần gũi hết thảy mọi người, nếu cho của cải thì không thể thu phục chúng sinh như là ái ngữ, cũng không thể khiến họ hoan hỷ thanh tịnh như là ái ngữ. Tất cả chúng sinh như vậy cho nên phải nói lời êm ái, đầu tiên phải sinh tâm thương yêu, sau đó mới phát ra lời nói.

Do nhân duyên này miệng nói lời êm ái. Vị vua như vậy có thể chiếm giữ thành khác, nước khác, còn thành mình, nước mình thì người khác không thể chiếm được và mọi người đều yêu mến. Nếu vua nói thật và êm ái thì giả sử có kẻ thù cũng thành bạn thân, huống gì những người đã thân từ trước. Nếu vua nói lời êm ái như vậy thì nhờ công đức đó ở đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, kẻ thù thành bạn thân, mọi người đều yêu mến, cúng dường, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người thiện khen ngợi, được làm vua tất cả mọi người trong thời gian lâu dài, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là do nghiệp lành ái ngữ.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi nên siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ mười sáu để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ mười sáu là tu tập nói thật. Nói thật là nhân để giải thoát tất cả sinh tử. Việc nói thật không cần phải mua bằng của cải và không khi nào hết, nó chính là kho tàng lớn sinh ra từ biển tâm, không ai có thể cướp đoạt, là sự hiểu biết chân chánh bậc nhất, được tất cả thiện nhân khen ngợi, lần lượt phát ra từ tất cả thế gian. Pháp này chính là cửa thành Niết-bàn, dùng trong mọi lúc mà không thể hết, làm tăng công đức, diệt trừ tội lỗi, khiến mọi người đều tin, có thể trừ bỏ nghèo khổ. Nếu có thể nói thật thì tuy xấu xí quê mùa vẫn là người hơn tất cả những người xinh đẹp khác, do tự trang điểm bằng ánh sáng nói thật. Tất cả dòng dõi thấp kém mà có thể nói thật thì hơn tất cả những người thuộc dòng họ lớn, vì thật ngữ đã trang sức cho dòng họ kia. Người nói thật được mọi người tin tưởng thân cận và xem như anh em, đi đến đâu cũng được người khác cúng dường như cúng dường cha mẹ, vua chúa, tuy đi vào nơi đồng vắng, hiểm ác mà vẫn an vui, đến nước nào cũng được vua nước đó cúng dường như chủ, hoặc thôn, hoặc thành, nơi nhiều người ở, tất cả mọi người và hàng đại trưởng giả đều cúng dường họ. Danh tiếng vang khắp những nơi mà họ chưa đặt chân đến, ở nước mình lẫn nước khác. Những người ở nơi đó biết rằng, hoặc vua hoặc đại thần làm việc thiện nói thật thì như cây phướn cao, tiếng đồn đến sáu cõi trời, thiện nam này thường được chư Thiên đi theo sau và cúng dường, không thấy mộng ác, vị trời đứng đầu cũng cúng dường như chư Thiên, nếu nghèo khổ thì nhờ nói thật về sau được giàu có, ước muốn điều gì đều được đầy đủ, cái già đến gần trong từng niệm nhưng các căn không suy yếu, được thần thông vi diệu, thân thể rất mạnh, thành tựu được nghiệp sống lâu, tất cả sự tranh chấp đều nhờ vị ấy làm chứng, xét lường, ai có người thân phạm pháp vua bị bắt trói nếu đem đồ gởi cho họ thì chỉ có vị ấy là đáng tin cậy nhất. Vì vậy người giàu có đem đồ gởi cho họ. Do nói thật, tâm ý họ không lay động, kẻ oán người thân không thể làm lay động, chỉ tự vui với thật tướng, sinh tâm hoan hỷ, lấy thật ngữ làm thức ăn để no bụng, thường tư duy về sự ưa thích thật ngữ, không bị giận hoặc vui làm động tâm. Vua này là vị Tiên lớn nhất, thường tạo hai loại lợi ích thế gian và xuất thế gian không gì hơn nói thật, thường dùng nước nói thật để tắm rửa cho trong sạch, thường mặc áo báu mới lành lặn, hương thơm của nói thật bay khắp mười phương, tất cả những người chưa gặp họ đều thành bạn bè huống gì người đã gặp, tiếng thơm lan khắp cả núi Tu-di, tuy tuổi còn nhỏ nhưng người già gặp cũng cúng dường như cha, vì việc nói thật cũng có thể tạo nghiệp sống lâu, cho đến tạo nghiệp đại trí Vô thượng Bồ-đề, huống gì là nghiệp làm Thiên vương Dạ-ma. Nếu vua tu tập thật ngữ như vậy thì nhờ công đức đó ở đời hiện tại thường được an lạc, thường được lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành nói thật.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ mười bảy để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ mười bảy là nếu không có lý do thì không được nâng hoặc giáng chức các bề tôi. Vị vua đó coi trọng ý chí, nếu không biết hình tướng và ý chỉ của người khác thì không dám tin tưởng. Phép làm vua là phải suy nghĩ kỹ càng rồi mới làm. Nếu không suy nghĩ kỹ mà nâng hoặc hạ chức bề tôi thì đó chẳng phải là vua, hoặc chỉ có tên là vua mà thôi, nếu là vua thì không bao lâu sẽ bị diệt. Làm mà không suy nghĩ thì tâm trí ít hoạt động, ý chí hời hợt không chắc chắn, nếu nói pháp xưa thì mọi người không tin cho là vua nói láo vì vậy không yêu mến vua hoặc là đưa người khác lên làm vua thay thế vua đó. Vì vậy đã biết tai họa này rồi nhà vua không được nói dối. Nói dối thì đời hiện tại và vị lai không được lợi ích, vì thế hiện đời có vô lượng tai họa. Biết tai họa này rồi thì không nên nói dối. Người khác mà như vậy còn không thích hợp huống gì là vua. Nếu làm như vậy sẽ mất pháp vua và mất luôn thế gian. Nếu vua có phước hơn người thế gian thì mọi thứ đều thù thắng. Vua thường nói thật thì bảo vệ được thế gian. Do bảo vệ thú vui ấy nên pháp vua không bị ngăn ngại. Trong tất cả các pháp thiện thật ngữ là cội gốc. Nếu nói không chân thật thì sẽ nâng hoặc giáng chức bề tôi mà không có lý do. Nếu thường nói thật thì không có nâng hoặc giáng chức các quan khi không có lý do. Nếu vua được như vậy thì ngôi vua vững vàng không mất. Biết vua như vậy, hết thảy các quan không bỏ đi đến nước khác và rất kính trọng vua như là kính trọng cha mẹ. Vị vua ấy được vui vẻ trong mọi lúc, có tâm ý an trụ vững chắc và thường quan tâm vui vẻ với bề tôi. Nếu vua không nâng hoặc hạ chức bề tôi khi không có lý do như vậy, thì nhờ công đức đó hiện đời thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành không nâng hoặc không giáng chức các quan mà không có lý do.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi phải siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ mười tám, để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ mười tám là có thể biết được người lành người dữ. Đó là do thường tu tập trí tuệ lớn. Ai có thể biết việc đó liền trở thành vị vua thù thắng nhất, biết được người khác có trí hay không có trí. Nếu biết như vậy tất cả người tài trên thế gian đều tín nhiệm vị vua ấy nên tất cả vua khác không thể phá hoại, nếu siêng năng làm việc gì thì đều thành tựu như mong muốn, không bị mất của cải, các công việc đều trôi chảy. Nhà vua không chấp nhận những hạng người sau: Người sống phi pháp, người tham ăn, người không biết ơn nghĩa, người bị nhiều người ghét, người tà kiến, người không biết thương xót, người nói láo, người bị vua khác ghét, người giữ giới ác, người không biết thời, người khó điều phục, người thường gây nghiệp ác, người tham đắm cảnh giới, người nói sai nhân quả, người có tánh không biết đủ, người không thường làm việc lợi ích, người thường gây điều xấu cho người khác, người có tâm kiêu mạn, người hay thù oán, người bồng bột, người có lời nói không chắc thật, người có tâm ý rối loạn, những người như vậy nhà vua không chấp nhận.

Vua chỉ chấp nhận những người sau: Người tu hành theo pháp, người không dối nịnh, người không ngã mạn, người nói thật, người thông minh trí tuệ, người có tâm mềm dẻo, người không làm khổ não người khác, người không lừa dối người khác, người hay cúng dường Tam bảo, người được tin cậy, người biết đủ, người đã được điều phục, người không biếng nhác, người thường tạo nghiệp lành, người ít ăn, người được mọi người yêu mến, người có tâm Từ bi, người tinh tấn, người có cái nhìn chân chánh, người có trí tuệ, người sống theo pháp luật, người từ xưa nay có thân, khẩu, ý trong sạch, người tin nhân duyên, người biết nghiệp báo, người không uống rượu, người không ngủ nhiều, người gần bạn lành, người thích bố thí, người có giới, người có trí tuệ. Những hạng người này nhà vua nên thu nhận. Vua phải lường xét xem những người đó có thể làm được việc gì để phân bổ công việc cho họ làm. Nếu vua làm vậy thì không có vua nào khác có thể phá hoại, được giàu có vui vẻ, đầy đủ vô lượng của báu, sống thuận theo pháp. Do sống thuận theo pháp nên có thể bố thí, tạo phước đức, cúng dường Tam bảo. Nếu vua biết người tốt, người xấu thì nhờ công đức đó hiện đời thường an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm vua trời Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành biết phân biệt người tốt kẻ xấu.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi phải siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ mười chín, để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ mười chín là thường định thời gian để quan sát muôn dân. Nếu thường định thời gian để quan sát muôn dân thì sẽ làm vua lâu dài, mọi người trong nước đều không ganh ghét, có thể biết sự thiện ác của mọi người, khiến cho mọi người trong nước đều sống theo pháp, mạnh không hiếp yếu, mọi người trong nước đều có thể gặp vua bất cứ lúc nào. Nhà vua có đầy đủ của cải và dùng phương tiện này phát triển mạnh mẽ. Do giàu có về của cải và pháp nên không bị lệ thuộc vào vua khác, do được yên ổn nên sống thuận theo pháp, cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, theo họ nghe pháp, đã nghe pháp rồi pháp hành càng thù thắng. Do định thời gian quan sát người dân nên các phép tắc vua đưa ra ngày càng tốt đẹp hơn. Do sống theo pháp nên họ càng giàu có an vui, có thể bố thí rất nhiều, gây rất nhiều phước nghiệp, siêng năng giữ giới. Nếu vua ít đi xét xem muôn dân thì sẽ không biết công đức này, vì vậy vua nên thường xuyên định thời gian để gặp dân chúng. Nếu thường làm vậy vua liền có thể thực hành chánh pháp. Người thực hành chánh pháp thì có phước đức lớn. Nếu vua thường định thời gian để quan sát muôn dân thì nhờ công đức này hiện đời thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người thiện khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành thường định thời gian để gặp gỡ mọi người.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần phải siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai mươi để đời hiện tại và vị lai được lợi ích. Đó là ít ngủ nghỉ. Do ít ngủ nghỉ nên tâm khéo tư duy, ý không lẫn lộn, không ngu si đần độn, khiến kẻ thù không thể lợi dụng. Đã quyết định là không đổi ý. Do đã quyết định nên khi làm có suy nghĩ kỹ. Nếu vua làm việc có suy nghĩ kỹ thì làm việc gì đều mau thành tựu, không tốn nhiều thời giờ. Vào sáng sớm vị vua ấy không phóng dật nên tuổi thọ dài. Nhờ khéo tư duy nên mọi người trong nước đều mến mộ, không chán ghét, dân chúng trong nước, tất cả quân binh, tất cả nô bộc, bá quan, tả hữu, các đại thần đều tăng lên, của cải rất dồi dào. Do có nhiều thần dân nên có nhiều của cải. Do có nhiều của cải nên có oai đức lớn. Do có oai đức lớn nên có thể bố thí, tu hành phước nghiệp, có thể khéo giữ giới. Nếu vua ít ngủ nghỉ như vậy thì nhờ công đức đó hiện đời thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người thiện khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành ít ngủ.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai mươi mốt, để đời hiện tại và vị lai được lợi ích. Pháp thứ hai mươi mốt là thường không biếng nhác trong tất cả các thời, vị vua không biếng nhác thì siêng năng bền bĩ, tu tập như pháp, làm bất cứ việc gì đều thành tựu rốt ráo, muốn chế ngự ai thì người đó đều lệ thuộc vào mình, người khác không thể hủy hoại, không thể cướp đoạt, mọi người trong nước đều mến tâm ý của vua nên sinh kính trọng.

Ở đất nước của vị vua này mọi thứ đều tốt và đầy đủ, hoặc thành, hoặc thôn, hoặc nơi nhiều người, đầy khắp trong nước không có chỗ trống. Vua không biếng nhác mà rất siêng năng, có uy lực lớn, làm việc gì cũng thành tựu. Vì sao? Vì không biếng nhác và đầy đủ các phương tiện thời gian, nơi chốn, phương pháp. Vị vua không bê trễ có thể thành tựu nghiệp thế gian và xuất thế gian, thậm chí nghiệp Niết-bàn cũng có thể thành tựu huống gì là nghiệp khác, nếu siêng năng không lười biếng đầy đủ cả thời gian, nơi chốn, phương pháp để hành động, thì vua ấy hơn tất cả mọi người, được đầy đủ mọi thứ. Vua ấy thành tựu được mọi việc ở thế gian. Trí tuệ như vậy mà họ có thể tạo ra thì nghiệp xuất thế gian đều được thành tựu. Pháp xuất thế gian là thí, giới, trí, nếu vua thường không biếng trễ như vậy thì nhờ công đức ấy đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người thiện khen ngợi rằng thí, giới, trí như hương thơm, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành không biếng nhác.

Lại nữa, vua thuộc dòng Sát-lợi phải siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai mươi hai để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ hai mươi hai là gắn bó với bạn lành. Nhà vua gắn bó với bạn lành, suy nghĩ chín chắn rồi mới làm thì làm vua trong thời gian dài, xa lìa các tai họa, người khác không thể hủy hoại. Như cây có nhiều rễ dài và sâu thì đứng rất vững không thể lay chuyển, gió không thể phá hoại. Nhà vua cũng như vậy, nhờ gắn bó với bạn lành có tâm ý tốt nên mọi người đều yêu mến. Điều mà người đời kính trọng là gắn bó với bạn lành có đầy đủ công đức. Có mười ba hạng bạn lành đầy đủ công đức.

Mười ba hạng đó là:

  1. Biết điều thiện: Nếu vua có điều xấu thì có thể khiến cho vua được trong sạch.
  2. Chịu khó: Có thể giúp vua làm công việc khó nhất.
  3. Có trí: Nếu bạn lành ấy lại có bạn tốt thì tạo điều kiện cho người bạn kia làm bạn với người nọ luôn.
  4. Tận tâm: Có của cải gì bạn lành đều biết.
  5. Tận ý: Nhiệt tình làm giúp bạn những việc lợi ích.
  6. Tâm thư thái: Thình lình gặp nhau thì rất cởi mở.
  7. Rốt ráo: Gặp điều khổ não cho đến mất mạng cũng không bỏ bạn.
  8. Ý cân nhắc: Làm những việc mà mình thấy cần thiết.
  9. Không che giấu: Không cất giấu những thứ có trong nhà, ai xin gì cũng đều cho không tiếc.
  10. Có tâm tùy hỷ: Nếu thấy bạn lành có đầy đủ mọi thứ thì vui mừng.
  11. Nếu bị khổ não thì cùng chịu khổ, giả sử rất giận, tâm cũng không thay đổi, có thức ăn gì đều ăn chung và cùng nhau vui chơi.
  12. Không nài nỉ xin vật gì của người, không đợi người năn nỉ khổ sở mới đem vật của mình cho họ.
  13. Nếu biết tin tức tốt xấu trong nhà bạn cho đến việc tranh cãi thì đều nói hết, không kiêng kỵ, lúng túng, các việc trong nhà mình, cho đến việc tranh chấp đều nói với bạn.

Mười ba hạng bạn lành có đầy đủ công đức này giúp ta thành tựu đầy đủ công đức thế gian. Nếu vua có được một trong số mười ba hạng bạn lành có đầy đủ công đức thì đã có sức mạnh lớn, huống gì là có nhiều hạng bạn như thế. Vì vậy, vua có trí tuệ phải siêng năng chiêu tập bạn lành. Nếu vua siêng năng chiêu tập bạn lành thì tất cả mọi việc đều thành tựu.

Lại nữa, nhờ bạn lành ta có thể thành tựu đường xuất thế gian. Tóm lược mà nói thì có mười hạng bạn lành có đầy đủ công đức giúp ta thành tựu đường xuất thế gian.

Mười loại đó là:

  1. Có thể ngăn chận những việc phi pháp.
  2. Có thể dạy tu hạnh bố thí.
  3. Có thể dạy thọ giới, giữ giới.
  4. Mở bày trí tuệ, có thể dạy tu luyện trí tuệ.
  5. Có tâm tốt, ngăn không cho gần bạn ác.
  6. Có lòng tin chân chánh chỉ bày nghiệp quả.
  7. Nếu thấy bạn đi theo đường mê ác thì dạy trở về đường lành.
  8. Nếu thấy bạn hủy phạm giới cấm thì có thể giúp bạn từ bỏ việc đó.
  9. Dạy bạn cúng dường cha mẹ.
  10. Thường xuyên khuyên răn chỉ dạy bạn.

Mười loại bạn lành xuất thế này có thể giúp ta vượt khỏi tất cả đường ác cũng như là cha mẹ. Bạn lành gắn bó thường không sinh tâm ngã mạn đối với bạn, hoặc bạn của bạn mình. Bạn lành chẳng những giúp ta trong đời hiện tại mà còn giúp ta trong đời sau. Vì vậy bậc vua chúa cần gắn bó với bạn lành. Nếu vua gắn bó với bạn lành như vậy thì nhờ công đức lành này ở đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người thiện khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp thiện gắn bó với bạn lành.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai mươi ba để đời hiện tại và vị lai được lợi ích. Pháp thứ hai mươi ba là không gần người bạn vô ích, tức là tất cả những người lừa dối, không gần tất cả những người cờ bạc, người chỉ vẽ làm điều ác, hoặc suy nghĩ ác rồi làm theo suy nghĩ đó. Gần những người như vậy không được lợi ích và bị mất mát rất lớn. Việc mất mát lớn nhất là sự lừa dối. Lừa dối gồm hai thứ, một là bí mật, hai là công khai. Công khai là các việc lừa dối như cờ bạc… Bí mật là ngụy trang giống người lành nhưng thật ra là người ác để người không biết cho rằng họ là người tốt. Những người này bị lệ thuộc vào ngoại đạo hoặc chính là ngoại đạo bị gai ngoại đạo đâm, lừa dối cả mình lẫn người, không lo cho đời sau nên đã trá hiện hình tướng thiện, nhưng thật ra là tên giặc lớn. Những người đó không đáng để ta nhìn mặt và nói chuyện, huống chi là gần gũi làm bạn. Người lành nên từ bỏ hạng bạn đó, bởi vì họ không thể làm lợi ích cho bản thân thì làm sao có thể làm lợi ích cho người khác. Vua chúa cũng nên từ bỏ bạn ác, vô ích, không gần tất cả những người lừa dối, những người cờ bạc. Không nên làm quen với những người như vậy. Nếu vua gần gũi với những người bạn lành, làm việc với chánh niệm, chánh tư duy, thì nhờ công đức được bạn lành huân tập, đời hiện tại thường được an lạc, lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người thiện khen ngợi, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành không gần gũi người bạn vô ích.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi nên siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai mươi bốn để đời hiện tại và vị lai được lợi ích. Pháp thứ hai mươi bốn là không bị giận, vui làm lay động, nếu vua Sát-đế-lợi có thể kềm chế được giận, vui thì đất nước sẽ vững chắc, không bị phá hoại, mọi người trong nước đều ưa thích, không chán ghét, không thể phá hoại, không khinh thường. Nếu vua không nổi giận suy nghĩ rồi mới làm, không hạ chức của người khi không có lý do và chưa suy nghĩ kỹ, không thăng chức và ban cho của cải khi không có lý do, do không nổi sân nên kín đáo, không để lộ mọi việc, không nâng cao hoặc hạ thấp người khác khi không có lý do, ở nơi vui vẻ không bị cao hứng gây cho dao động. Vị vua đó có ý chân thật, không làm các việc ác, không chấp nhận người ác, có ý chí vững vàng và bình đẳng, vị vua này không bị các pháp giận, vui trong thế gian làm lay động và được an ổn.

Thế nào là đi trên đường xuất thế gian không bị giận, vui làm lay động và được yên ổn? Nếu vua không giận thì có thể loại bỏ đường sinh tử uế tạp, nếu vua không vui thì có thể loại bỏ những thế lực cấu nhiễm. Vua ấy có thể loại bỏ các thế lực cấu uế và đường sinh tử cấu uế. Người nào loại bỏ được hai cấu nhiễm này thì có thể loại bỏ sự ngu si uế tạp. Nếu vua loại bỏ được ba loại cấu nhiễm này thì ý chí sẽ kiên nhẫn vững chắc và nhờ công đức đó hiện đời thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành không bị giận, vui làm lay động.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi nên siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai mươi lăm để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ hai mươi lăm là không quá tham đắm việc ăn uống. Vì sao? Vì tham ăn uống thì sẽ làm trở ngại cho vua. Do thường nghĩ đến việc ăn uống nên vua bị muôn dân trong nước, các quan quân binh chán chê và nghĩ: “Tâm ý nhà vua giống như súc sinh, chỉ nghĩ đến việc ăn uống mà thôi”. Do thường tham ăn uống, ưa thích mùi vị của đồ ăn uống nên vua không phân biệt được pháp với phi pháp, không thể tính toán, tư duy, lường xét các việc trong nước. Người không tư duy thì không thể điều phục tất cả các quan và quân đội trong ngoài, không thể ban chức tước thích hợp theo thứ lớp cho quan lại và muôn dân, không biết việc đang làm là khinh hay trọng nên của cải ngày càng tổn thất và ít dần. Vì của cải ít nên hết đồ ăn uống. Do không có đồ ăn uống nên bị mọi người khinh chê. Vì tham ăn uống cho nên họ bị bần cùng. Việc tham ăn uống không tự tiết chế gây ra trở ngại cho sự lợi ích ở thế gian như vậy.

Việc ấy làm trở ngại đường xuất thế gian ra sao?

Do tâm tham đắm, ưa thích ăn uống, thích các mùi vị nên không tư duy chân chánh, không thể niệm thân, thọ, tâm, pháp không thể tư duy về khổ, tập, diệt, đạo, không thể suy nghĩ về tất cả các việc khác. Người tham đắm ăn uống giống như súc sinh, như vậy cho nên cần phải ăn uống một cách thích hợp thuận theo đạo lý, làm việc thích hợp, nói năng thích hợp, làm trong sạch các căn, tư duy về chánh đạo, tư duy về thân, thọ, tâm, pháp, khổ, tập, diệt, đạo, tâm khéo điều phục, có thể tư duy nhớ nghĩ về các pháp đó. Do tâm chánh niệm nên các căn được trong sạch. Nhờ ăn uống điều độ nên thân được điều hòa. Thân điều hòa nên tâm cũng điều thuận. Do tâm điều thuận nên có thể niệm pháp lành. Do đó không nên tham đắm các mùi vị. Nếu ăn uống thích hợp với thân thể thì sẽ được yên ổn và thường tu tập y theo pháp. Vị vua đó có thể điều phục tâm, nên tâm có chánh niệm. Do tâm có chánh niệm nên có thể tạo nghiệp lành. Nếu vua không tham ăn uống như vậy thì nhờ công đức đó ở đời hiện tại được an lạc, có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người thiện khen ngợi, khi chết nhờ nghiệp lành đã tu tập giống như hương thơm nên sinh lên trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành không tham mùi vị thức ăn uống.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần phải siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai mươi sáu để làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ hai mươi sáu là khéo tư duy. Vua khéo tư duy thì thành tựu được tất cả các việc, yên ổn ở thế gian và xuất thế gian. Vì sao? Do công đức của tâm, người khéo tư duy thường được an lạc giải thoát ở đời hiện tại và vị lai. Việc gì cũng suy nghĩ kỹ rồi mới làm, thì không có các lỗi lầm. Họ nghĩ như vầy: “Rác rưởi tham dục thường dẫn ta đi trong đường ác, cần phải trừ sạch chúng, dùng pháp quán bất tịnh để trừ tham dục, dùng pháp quán từ bi để trừ bỏ sân hận, dùng pháp quán trí để trừ bỏ ngu si. Nhờ khéo tư duy nên họ có thể diệt sạch các ý bất thiện. Nếu tư duy điều ác thì không thể thành tựu pháp thế gian, còn khéo tư duy thì có thể thành tựu. Vì vậy nên biết, nếu suy nghĩ kỹ rồi mới làm thì có thể thành tựu tất cả các pháp. Nếu vua khéo tư duy như vậy thì nhờ công đức đó ở đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành khéo tư duy.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần phải siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai mươi bảy để làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ hai mươi bảy là: Không chờ đợi mà tuần tự tiến hành. Nếu tạo các pháp lợi ích cho thế gian và xuất thế gian mà để sau một thời gian lâu dài mới làm thì không thể làm được. Đã không thể làm mà làm thì không thể thành tựu giống như vừa có bệnh, không trị ngay mà để kéo dài về sau mới trị thì không thể trị được và có thể chết. Cũng vậy, có vô số công việc nếu không mau làm đúng lúc mà để sau một thời gian dài mới làm thì khó làm, hoặc không thể làm được. Như vậy, có thể tạo chướng ngại đường xuất thế gian. Phiền não vi tế cũng như bệnh ấy, do không sớm trị nên không thể đoạn trừ nó được. Do không đoạn trừ nên đi vào đường ác. Họa hoạn lớn của việc để lâu mới làm gây chướng ngại đường xuất thế gian như vậy. Do không đoạn trừ phiền não vi tế nên nó lớn dần như mầm độc, sau một thời gian dài liền lớn mạnh thiêu đốt toàn thân khiến chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do vậy, không nên đợi sau một thời gian dài mới làm. Nếu vua như vậy thì hoặc các người khác, hoặc các Tỳ-kheo, hoặc những người đời, hoặc các người giàu, hoặc người bần cùng, tất cả đều không nên đợi sau một thời gian dài mới làm, vì nếu làm như vậy thì sẽ sinh ra tai họa, mau chóng chịu khổ não, suốt thời gian dài không thể diệt trừ, không thể phá hủy, không thể dứt sạch. Do không đoạn trừ nên tự mình chịu suy yếu khổ não. Người nào không quan sát tai hại của việc để lâu mới làm thì sẽ mau chóng bị mất mát hư hoại, bị nhổ sạch gốc rễ. Người nào không có lỗi đó sẽ được niềm vui rốt ráo, đứng vững ở đường thế gian và xuất thế gian. Người này có thể diệt trừ các tội lỗi mới sinh như mầm độc vừa sinh liền bị nhổ bỏ. Mầm độc dụ cho phiền não, để lâu liền phát triển sinh ra nhiều tai họa. Vì vậy người nào dứt trừ lỗi lầm mới sinh thì đó là người có hiểu biết chân thật, thường được an ổn vui vẻ, nếu vua không đợi về sau mới làm thì nhờ công đức đó đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm vua trời Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành không đợi về sau mới làm.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai mươi tám để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ hai mươi tám là dùng chánh pháp để làm lợi ích cho đất nước, không dùng phi pháp. Vị vua nhiều chánh pháp đó có thể tạo lợi ích cho cả mình lẫn người. Tự lợi ích là nếu vua giữ giới thì có thể bảo vệ đất nước, chẳng phải không giữ giới là tự lợi ích.

Lợi ích cho người khác là: Thấy có người không sống theo pháp thì bắt họ phải sống theo pháp. Vua làm như vậy thì bảo vệ đất nước một cách chân chánh. Do đất nước được bảo vệ nên ba thứ: Pháp, của cải, danh tiếng đều được hòa hợp. Đã có thể khiến người khác sống theo pháp thì làm sao bản thân không sống theo pháp được. Vị vua như vậy liền được của cải. Của cải đó do đâu mà có được. Đó là do quyết định: Lấy một phần sáu trong toàn bộ của cải của đất nước. Do vua dùng chánh pháp để bảo vệ đất nước nên đất nước rất giàu. Nếu đất nước giàu, khi vua có việc cần, do mọi người đều yêu mến vua, biết vua có việc cần nên họ đem dâng cho vua nhiều của cải và vật cần dùng. Đó là vị vua thành tựu đầy đủ công đức thứ nhì. Vị vua dùng chánh pháp để bảo vệ đất nước như vậy được các quan và quân đội kính yêu, ca ngợi, tiếng tốt của vua ở khắp mọi nơi.

Nếu vua như vậy thì pháp, tài sản, danh tiếng đều đầy đủ và hòa hợp, đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành làm lợi ích cả mình lẫn người.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần phải siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ hai mươi chín để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ hai mươi chín là thường tu tập mười nghiệp lành. Mười nghiệp lành này đem lại quả báo an vui bậc nhất. Nói tóm lại thì nghiệp gồm có ba loại là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân nghiệp gồm có ba loại là sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Khẩu nghiệp gồm có bốn loại là nói dối, nói hai lưỡi, nói lời hung ác và nói thêu dệt. Ý gồm có ba loại là tham, sân, tà kiến. Ngược với mười loại nghiệp ác này là mười nghiệp thiện tức đường trí tuệ hay đường chánh. Đường nghiệp bất thiện thì không có trí tuệ, đường lành thì có trí tuệ cho nên gọi là tuệ đạo. Đường này bao gồm cả nhân, thiên và tuần tự cho đến Niết-bàn. Vị vua ấy có thể tự mình đứng vững, lại khiến người khác và quân đội đứng vững nên giống như cha mẹ của chúng sinh. Vị ấy có thể đạt đến Niết-bàn, cầu nguyện gì cũng đều được như ý, tất cả ý niệm đều được thành tựu, thường được chư Thiên hộ trì, không sợ dao kiếm và kẻ thù. Cả nước thường không bị phá hoại, loạn lạc, ngũ cốc đều chín đúng thời vụ, mặt trăng, mặt trời đều hòa, chiếu sáng khắp nơi. Tất cả đồ dùng trong nước đều đầy đủ, làm nhiều lợi ích cho dân chúng. Vị vua ấy dùng chánh pháp bảo vệ đất nước, về sau khi vô thường đến, họ chết và sinh lên trời thọ nhận nghiệp báo gì và hưởng thú vui gì?

Nói tóm lại ở cõi trời Dạ-ma, do không sát sinh nên có tuổi thọ dài gồm các hạng thượng, trung, hạ. Ở sáu cõi trời thuộc Dục giới đều như vậy. Nhờ không trộm cắp nên rất giàu, đầy đủ bảy báu, có đủ loại vườn cây ngọn núi đáng yêu. Họ vui chơi thọ lạc ở các nơi như vậy. Nhờ không tà dâm nên có các Thiên nữ không đến gần gũi với các Thiên tử khác mà chỉ đến gần gũi họ, từ khi họ mới sinh lên trời cho đến lúc bị thoái thất. Các Thiên nữ này đều xinh đẹp, ánh sáng thù thắng vi diệu nhìn rất vui mắt. Người nào có hạnh tà thì các Thiên nữ ở cõi trời mà họ mới sinh lên không đến với họ mà chỉ đến với các vị Thiên khác. Nghiệp báo thành tựu khác nhau như vậy. Nếu thường tu tập nghiệp lành nơi thân một cách khéo léo, không vi phạm thì sẽ được sinh lên cõi trời và hưởng thú vui cõi trời.

Nếu siêng năng tu tập bốn nghiệp lành nơi miệng sẽ được sinh lên cõi trời. Nơi miệng có những nghiệp lành gì và sinh lên trời thọ hưởng những thú vui gì? Đó là tu tập bốn loại giới hạnh chân chánh nơi miệng. Nhờ không nói dối nên lời nói tròn trịa tốt đẹp, lời nói chân thật, thường rất dịu dàng, nói ra điều gì cũng đều vui tươi và đạt được như lời nói. Nhờ không nói hai lưỡi nên quân đội của mình không bị phá hoại và thường tùy thuận cúng dường trong mọi lúc. Nhờ không nói hung dữ nên thường được nghe các âm thanh ca múa, vui cười, đùa giỡn vi diệu, nghe âm thanh dịu dàng làm vui tai nhất. Nhờ không nói thêu dệt nên thường nói những lời có ý nghĩa, tất cả chư Thiên thích nghe và tin lời nói ấy. Ở cõi trời họ thành tựu quả báo của nghiệp nơi miệng như vậy.

Còn ý nghiệp là gì và hưởng thú vui gì ở cõi trời? Do không tham nên tất cả nhớ nghĩ, tất cả vật cần dùng đều được như ý, được rồi không bị mất, các vị trời khác không thể cướp đoạt, chỉ riêng mình thọ hưởng quả báo này. Đó là do nghiệp không tham.

Nhờ không sân hận nên họ được tất cả chư Thiên yêu mến, xinh đẹp bậc nhất, thân sắc đáng ưa. Nhờ không tà kiến nên mong gì được nấy, thường được đầy đủ mọi thứ.

Đó là nói tóm tắt về quả báo mà người hành mười nghiệp thiện thu được. Người nào bố thí thì được quả báo thù thắng. Nhờ bố thí sự giàu có vui vẻ càng thù thắng hơn. Với trí tuệ thù thắng, vị trời đó hơn hẳn chư Thiên. Nguyện lực là gốc của tất cả các thú vui. Người nào si mê dục lạc thì đó chẳng phải là thú vui. Do tâm tự chủ, do sức của ruộng phước, do tự chủ về thời gian và vật chất, do sức tin hiểu, do tự chủ nên có một nghiệp lành cũng sinh Thiên, thậm chí có chúng sinh nhờ đó được nhập Niết-bàn huống gì là sinh Thiên. Nghiệp báo là thứ vi tế nhất, người nào không biết liền mê lầm về nghiệp báo. Do mê lầm về nghiệp báo nên bị đọa vào địa ngục. Nếu vua tu tập mười nghiệp lành đã nói ở trước thì dân trong nước, hoặc quân binh đều tu tập theo. Nếu vua tu tập mười nghiệp lành như vậy thì nhờ công đức đó đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành tu mười pháp thiện.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi nên siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ ba mươi để làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ ba mươi là tin nhân duyên. Vua hoặc đại thần tin nhân duyên thì không mê lầm nơi nghiệp báo, ý thường chánh niệm, ở trong cảnh giới của mình không sống phóng dật. Nhân duyên chính là hạt giống của quả. Nhân duyên hòa hợp đầy đủ với thời và xứ. Đó là tin nhân duyên. Người nào tin nhân thì cũng tin quả. Do thấy rõ nhân quả nên họ không tạo nghiệp ác. Ví như hạt giống là nhân của mầm xanh, do thấy rõ, tin nhân duyên nên họ không mê lầm nơi nghiệp báo. Nghiệp gồm có hai loại là thiện và ác. Nó khiến chúng sinh đi thọ sinh ở khắp nơi, trôi lăn trong các cõi, chịu đủ loại khổ vui, nối tiếp không dứt ở trong đường sinh tử. Chúng sinh trôi lăn liên tục như vậy ở trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người là do ba hành vi sau:

  1. Tạo nghiệp phước đức.
  2. Gây nghiệp tội lỗi.
  3. Gây nghiệp bất động, tức là hành tứ thiền.

Việc tạo nghiệp phước đức là nhân của hàng trời, người; việc gây nghiệp tội ác là nhân bị đọa vào địa ngục; việc tạo nghiệp bất động là nhân sinh vào Sắc giới.

Nếu vua biết rõ nhân quả của ba cõi này thì sẽ không lầm lạc trong đồng hoang sinh tử. Tất cả mọi thứ có trong cõi hữu vi này chính là nhân quả tạo ra. Nếu vua tin nhân quả thì không bị tai họa hủy hoại, vì sợ tai họa nên họ không gây nghiệp ác, thường tạo nghiệp lành. Nếu vua tin nhân duyên thì nhờ công đức đó đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người thiện khen ngợi, khi chết sinh vào cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành tin nhân duyên. Pháp thù thắng bậc nhất của chúng sinh là tin nhân duyên. Vì vậy nhà vua phải siêng năng tu tập và thọ trì pháp này.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ ba mươi mốt để làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ ba mươi mốt là cúng dường chư Thiên. Vì sao phải cúng dường chư Thiên? Vì do tạo nghiệp lành, họ được sinh lên trời có thần thông lớn. Nếu ta gây nghiệp ác họ có thể ngăn cản ta. Nếu ngày đêm thường cúng dường chư Thiên thì mọi việc đều có thể thành tựu, ở trong mộng, chư Thiên có thể chỉ bày điều lành, dữ cho ta, có thể hộ trì đất nước vào lúc khó khăn, khiến ta đi vào pháp lành. Chư Thiên có thể ngăn cản điều chẳng lành, thường hay ủng hộ ta cả ngày lẫn đêm, giống như cha mẹ dùng đủ cách để giúp đỡ con cái. Phải cúng dường chư Thiên vì họ hay làm việc lành. Do đó, bậc vua chúa nên cúng dường chư Thiên, do ưa thích chánh pháp nên họ bỏ nghiệp ác, không xâm phạm người khác, do không có tà kiến nên không có ý nghĩa là ngoài chư Thiên ra thì không có nghiệp, chư Thiên tạo ra tất cả thế gian, không cho rằng tất cả khổ vui đều do trời tạo ra.

Cúng dường chư Thiên là làm lợi ích cho mình, không mất sự lợi ích, không hủy báng nhân duyên, không có tâm tà kiến. Do cúng dường chư Thiên nên vị vua đó được người khác cúng dường. Nếu vua thường cúng dường chư Thiên thì nhờ công đức đó ở đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành cúng dường chư Thiên.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ ba mươi hai để làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ ba mươi hai là luôn luôn bảo vệ đất nước một cách chân chánh. Vị vua bảo vệ đất nước một cách chân chánh sống thuận theo pháp giống như cha mẹ đem sự an vui đến nơi đáng sợ. Do bố thí sự an vui nên ngày đêm pháp lành thường tăng trưởng, tất cả quân đội đều kính yêu, không có tâm lìa bỏ, người trong nước hiến của cải hoặc ca ngợi tiếng thơm của vua. Vị vua này ngày đêm thường suy nghĩ cách làm cho dân mình được an vui. Do vị ấy làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh nên ngày càng thêm thư thái. Do rất thư thái nên ngũ cốc được mùa, đất nước phát triển, tất cả quân đội đều lớn mạnh, những người lớn tuổi ở trong nước đều cầu nguyện cho vua được thịnh vượng. Vị vua bảo vệ đất nước một cách chân chánh như vậy thì ba thứ: pháp, tài sản, danh tiếng ngày càng tăng trưởng, hòa hợp với nhau. Nếu vua bảo vệ đất nước một cách chân chánh như vậy luôn luôn làm lợi ích cho đất nước, lìa bỏ tham lam, sân hận thì nhờ công đức đó đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành bảo vệ đất nước một cách chân chánh.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần phải siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ ba mươi ba để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ ba mươi ba là luôn luôn giúp đỡ vợ con một cách chân chánh. Nhờ sự giúp đỡ, vợ con được an vui. Vua hoặc đại thần đã có vô lượng phước đức, lại gieo nhiều phước đức, cùng nhau tăng trưởng, nếu có của cải thì cấp cho vợ con không có tiếc rẻ, không kể đó là vật gì, ở nơi nào, vào lúc nào, hoặc là cấp của cải, hoặc đồ ăn uống, hoặc giường chiếu, hoặc quần áo, hoặc bảo trợ, tín nhiệm, nói lời êm ái khiến họ vui mừng ban cho sự an vui. Tùy sức mà chu cấp cho vợ con thì trong nhà được phước. Trong số vô lượng loại phước đức trong nhà, việc giúp đỡ vợ con có phước đức rất lớn, người nào không có lòng thương xót, hoặc bị tham lam che lấp nên không thương vợ con thì người đó ác hơn thú dữ, là các loài thú sát sinh ăn thịt ăn phân. Người nào không thể xuất gia sống trong chánh pháp thì phải tùy sức mà giúp đỡ vợ con một cách chân chánh khiến họ được an vui. Nếu có khả năng mà không có tâm thương xót, không giúp đỡ vợ con thì người đó không phải tại gia, cũng không phải xuất gia. Vì vậy nên đem của cải và các thứ khác chu cấp cho vợ con hoặc dạy họ giữ giới. Vua hoặc đại thần có thể khiến cho vợ con thọ giới, giữ giới, dạy họ bố thí, tu tập trí tuệ và lần lượt dạy làm các việc khác để bảo vệ sự an vui của họ một cách chân chánh. Nếu vua hoặc đại thần làm như vậy tùy theo sức mình thì được hưởng lạc trong thời gian dài và có tuổi thọ lớn. Nếu vua giúp đỡ vợ con một cách chân chánh thì nhờ công đức đó trong hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước và bản thân, được người lành khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm vua trời Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành giúp đỡ vợ con.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ ba mươi bốn để làm lợi ích cho đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ ba mươi bốn là thường tu tập trí tuệ. Việc tu tập trí tuệ sẽ diệt tất cả khổ, lìa khỏi nguyên nhân của tất cả sinh tử. Nếu có thể quyết định tu tập trí tuệ thì rất tốt. Trí tuệ này thường như ngọn đèn chiếu sáng cho những người đi ở nơi tối tăm gặp nhiều khổ não, làm tiền của, lương thực cho người đi trong đường hiểm, nơi đồng hoang sinh tử. Nó khiến người mù sáng mắt, người mất sức được lại sức, người không có bạn được bạn, người không ai cứu giúp được cứu giúp, người bệnh được thuốc hay, người mê gặp đạo sư, người đi xa chịu đói khát, thiếu thốn ở trong đường hiểm nơi đồng hoang sinh tử được nước mát và đồ ăn uống, người bị giam cầm trong lao ngục sinh tử được thả ra, người không bà con thân thích có được bà con thân thích và lợi ích, người không có mắt được mắt sáng, trí tuệ có thể làm người bạn mạnh mẽ vào lúc chết, làm người bạn rất mạnh khi thần chết đến gần, có thể bít lấp tất cả các chỗ ác giống như đưa tay cứu giúp người sắp rơi xuống bờ hiểm, nếu làm đồng bạn với nó thì được tất cả các thú vui, nó là quần áo đẹp không ai có thể cướp đoạt đối với người lõa lồ, nó có thể làm vô lượng cây có đầy đủ bóng mát, có nhiều cành, lá, hoa để che chở cho người đáng lo sợ bị lửa phạm tội phá giới và lửa khổ não thiêu đốt, nó khiến ta nhìn gì cũng đều thấy đáng yêu. Do đó trí tuệ thù thắng có thể khiến cho các chúng sinh đã trôi lăn trong các cõi từ vô thỉ đến nay được an vui trong hiện tại và vị lai. Không có pháp nào khác có thể làm nhân cho sự an vui như trí tuệ, phải thường biết rõ, tu tập theo đường chánh, khéo tư duy thì được an trụ. Trí tuệ có thể dẹp trừ vô lượng ý nghĩ cùng các pháp thay đổi khác không được tốt ở giai đoạn đầu và giữa. Trí tuệ có thể chỉ bày đường chân thật, theo đó liền được yên ổn, tất cả việc lợi ích đều được thành tựu, thành Niết-bàn được chỉ rõ. Do đó phải thường tu tập trí tuệ. Nhờ tu tập và hiểu biết nên được sinh vào hàng trời, người làm vị vua thù thắng. Lửa trí tuệ có thể đốt cháy tất cả phiền não về sau được thú vui tịch diệt. Không có pháp nào khác có thể lìa khỏi hết thảy sinh tử như trí tuệ này. Vì vậy mong rằng tất cả mọi người đều phải tư duy tu tập trí tuệ và dạy người khác tu tập. Vị vua nào thường tu tập trí tuệ và chỉ dạy cho người khác tu tập thì nhờ công đức đó hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước, bảo vệ bản thân, được người thiện khen ngợi, về sau trôi lăn trong đường chánh, khi chết sinh lên trời làm vua trời Dạ-ma, cuối cùng đạt được Niết-bàn. Đó là nhờ nhân lành tu tập trí tuệ.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ ba mươi lăm để làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ ba mươi lăm là không tham đắm hết thảy cảnh giới. Nếu vua Sát-đế-lợi ưa thích cảnh giới thì sẽ không được yên ổn. Nếu vua ưa sắc, thanh, hương, vị, xúc thì mọi phương tiện đều không được yên ổn, cũng không thể bảo vệ đất nước và bản thân một cách chân chánh. Do tâm thường say đắm cảnh giới nên ba thứ pháp, tài sản, danh tiếng đều thoái thất, hư hỏng. Vị vua ưa thích cảnh giới có thể bị vua khác đánh bại. Do bị người khác đánh bại nên quân đội của mình đều chán ghét, không còn yêu mến nữa. Do bị chán ghét nên mất ngôi vua và chịu sự suy sụp khổ não, hoặc mất mạng. Vì vậy vua không được phóng túng say đắm cảnh giới. Vị vua nào không phóng túng, say đắm cảnh giới thì có thể bảo vệ pháp của mình một cách chân chánh, hoặc là tâm thanh tịnh thâu giữ một cách chân chánh, không bị sắc, thanh, hương, vị, xúc làm động tâm, thì được làm vua lâu dài, thống lãnh đất nước, tất cả quân đội không chán, không bỏ, vì vậy vua khác không thể đánh bại. Vị vua ấy đứng vững trong thời gian dài, không bị khổ não, được hưởng thú vui trong thời gian dài, lúc đó đã thọ lạc về sau lại sinh vào nơi vui sướng. Nếu không tham đắm cảnh giới thì nhờ công đức đó đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước và bảo vệ bản thân, được người thiện khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm vua trời Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành không tham đắm cảnh giới.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ ba mươi sáu để tạo lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ ba mươi sáu là không cho người ác và người không thể điều phục ở trong nước. Nếu vua cho người ác, người gây nghiệp ác phá giới ở trong nước thì làm vua trong thời gian ngắn và bị người đó gây tai họa. Do tai họa lớn đó người trong nước nổi loạn, thế lực của vua bị giảm sút, ngũ cốc mất mùa, muôn dân không làm việc, vua không thể giữ vững đất nước, mọi người dân đều không ưa thích vua, chư Thiên sống trong nước không thương xót. Do trong nước có người ác và người không phục tùng ở nên những người có thể phục tùng được cũng trở thành người không phục tùng. Do ở gần người ác nên người tu tập nghiệp lành bậc nhất cũng có lỗi. Vì vậy vua không được cho người không phục tùng ở trong nước. Nếu vua không cho những kẻ không phục tùng ở trong nước, thì không có những người thực hành pháp ác ở trong nước và sẽ không có những tai họa nói trên. Vua lại có thể giữ vững đất nước, mọi người dân đều biết vua không cho người ác ở trong nước nên không làm ác và đều tụ tập theo chánh pháp không làm việc phi pháp. Nếu vua có thể thực hành theo pháp thì mọi ý niệm đều được thành tựu, mọi người dân đều biết luật pháp và sống theo luật pháp, không phát sinh các việc không lợi ích. Vua đó cầu cứu nơi pháp, làm bạn với pháp. Nếu vua lấy pháp làm gốc, không cho người ác sống trong nước mình thì nhờ công đức đó hiện đời thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước và bản thân, được người thiện khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành lánh xa người ác.

Lại nữa, vua Sát-đế-lợi cần siêng năng tu tập thành tựu pháp thứ ba mươi bảy để thu được nhiều phước đức, mọi người dân đều không chán ghét, làm lợi ích cho đời hiện tại và vị lai. Pháp thứ ba mươi bảy là dựa theo pháp cũ người trước để lại cấp phát không gián đoạn khiến cho người dân và quân đội trước đây đã được cấp phát hoặc của cải, ruộng đất thì nay vẫn tiếp tục được cấp phát như xưa, không có gián đoạn hoặc bị thu trở lại. Nếu có người nào trước đã được cấp phát theo thứ bậc của dòng họ thì nay cũng được cấp phát một cách thích hợp. Mọi người dân không chán ghét vua, các quan và quân binh đều không làm trở ngại nhau. Vua không buồn rầu, hối hận hoặc khổ não, ngôi vua không bị lay động, đất nước không loạn lạc mà thường đứng vững, hết thảy quan chức không phán đoán sự việc một cách sai lệch, người mạnh không lấn hiếp người yếu, không làm trái pháp luật, mọi người dân đều làm công việc của mình với tâm vui vẻ. Do chư Thiên vui nên mưa nắng nóng lạnh đúng thời và đất nước thường giàu có không bị nghèo thiếu, không có nạn binh đao, rồng không nổi sân, tất cả các vị trời thiện không bỏ nước mình đi đến nước khác. Do thực hành chánh pháp nên đất nước của vị vua đó không bị các vị trời khác hủy hoại. Do con người mà có chư Thiên, nhờ sức người mà chư Thiên có sức mạnh. Đã biết tai họa này rồi vị vua ấy theo lệ xưa mà cấp phát không gián đoạn, không thu lại, hoặc vua khéo thực hành theo pháp hành thứ nhất: Theo thứ bậc mà cấp phát cho thích hợp, theo sự truyền thừa của tổ tiên để cấp phát một cách thích đáng cho người trong nước, hoặc khiến chánh pháp tồn tại lâu dài ở nước mình, dựa theo pháp để bảo vệ một cách chân chánh, theo thứ bậc mà cấp phát, nếu vua y theo pháp như vậy thì tất cả chư Thiên không đợi cầu khẩn liền bảo vệ đất nước đó. Nhà vua đó rất giàu, đất nước đầy đủ. Do rất giàu nên họ bố thí làm phước, giữ giới, tu tập trí tuệ. Nếu vua thực hành theo pháp thì nhờ công đức đó đời hiện tại thường được an lạc, thường có lợi ích, có thể bảo vệ đất nước và bản thân, được người thiện khen ngợi, khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên vương Dạ-ma. Đó là nhờ nghiệp lành không trái pháp xưa. Nếu vua thành tựu ba mươi bảy pháp này và giữ gìn pháp ấy thì tất cả công đức đều được đầy đủ, từ cảnh giới vui lại đến cảnh giới vui.

Khi ấy, ngỗng chúa Thiện Thời nói bài kệ mà Đức Như Lai Thi-khí đã nói trong quá khứ.

Nếu quân đội trong sạch
Dùng pháp chế ngự mình
Liền có pháp trí tuệ
Được sinh lên cõi trời.
Nếu vào lúc thu thuế
Vua theo pháp để thu
Liền lìa bỏ tham lam
Làm Thiên vương Dạ-ma.
Vua nhẫn nhục, ái ngữ
Giận vui không lay động
Nhờ bảo vệ đất nước
Sinh cõi trời thù thắng.
Nếu vua không thiên vị
Không thấy bạn với thù
Thì tâm được bình đẳng
Thù thắng trong chư Thiên.
Nếu vua kính người già
Cúng dường bậc tôn trưởng
Ý vững chắc không tham
Được làm vua cõi trời.
Nếu vua theo đời trước
Cấp phát như tiên đế
Không đoạt của chúng sinh
Được làm vua cõi trời.
Nếu vua tu thí, giới
Nói pháp chế ngự mình
Người bảo vệ nước ấy
Đáng quý trong cõi trời.
Nếu vua bỏ phi pháp
Giữ lấy người hành pháp
Người giữ giới đúng pháp
Sinh cõi trời thù thắng.
Nếu vua lìa phụ nữ
Chỉ gần gũi người thiện
Không có ý uế tạp
Làm vua trong cõi trời.
Nếu vua không tin hết
Chỉ giữ lấy người thiện
Khi chết thấy chân thật
Sinh cõi trời Dạ-ma.
Nếu vua thích tiếng lành
Không tham đắm của cải
Nhờ lìa tham cấu nhiễm
Làm vua trời Dạ-ma.
Nếu vua không tà kiến
Tâm ưa thích chánh kiến
Tịnh kiến ấy không động
Làm vua trời Dạ-ma.
Vua siêng bố thí, giới
Lại thường tu trí tuệ
Sẽ được các đất nước
Sau sinh làm vua trời.
Nếu vua thường ái ngữ
Làm người khác rất vui
Nước vị ấy trong sạch
Sinh cõi trời thù thắng.
Nếu vua nói lời thật
Bất động như Tu-di
Sẽ lên thềm thang báu
Đứng đầu trong chư Thiên.
Nếu không có lý do
Không thăng, giáng quân đội
Dân không ghét vua ấy
Khi chết làm vua trời.
Nếu vua biết tốt xấu
Lại biết mạnh và yếu
Vua ấy có sức tuệ
Làm vua trời Dạ-ma.
Hơn hết trong ba cõi
Đó chính là Tam bảo
Nếu vua thường cúng dường
Sẽ liền được sinh Thiên.
Nếu vua thường gặp dân
Làm lợi ích đất nước
Thu giữ không ngã mạn
Sinh cõi trời thù thắng.
Nếu vua bớt ngủ nghỉ
Liền thoát họa ngu si
Trí và cảnh tương ưng
Chắc chắn làm vua trời.
Nếu vua lìa biếng trễ
Thường siêng năng bền vững
Tát cạn biển lầm lỗi
Đời sau làm vua trời.
Nếu gắn bó với bạn
Người thường sống theo pháp
Được bạn lành vây quanh
Sinh Thiên làm Thiên vương.
Nếu vua lìa bạn ác
Thường xả bỏ không gần
Liền lìa độc dối, nịnh
Sinh Thiên làm Thiên vương.
Vua tự chủ giận, vui
Không thích tạo nghiệp ác
Do xa lìa cấu uế
Thường làm vua trên trời.
Nếu không tham mùi vị
Chỉ ưa thích pháp lành
Dạy đường thiện trí tuệ
Sinh vào nơi thù thắng.
Nếu vua khéo tư duy
Sống thuận theo pháp lành
Sẽ thấy đạo như pháp
Đến cõi trời Dạ-ma.
Nếu mau chóng đúng lúc
Làm theo pháp như vậy
Sẽ sớm lìa các khổ
Làm vua trời Dạ-ma.
Nếu vua dùng vương pháp
Làm lợi bảo vệ nước
Sẽ được người ca ngợi
Sinh Thiên, thiên cũng khen.
Nếu tu hành mười thiện
Là điều Như Lai dạy
Đó là pháp tu tập
Sinh Thiên làm Thiên vương.
Nếu vua tin nhân duyên
Là đạo và phi đạo
Thì sẽ lìa tà kiến
Trí tuệ sinh lên trời.
Nếu vua cúng dường thiên
Mà làm theo đúng pháp
Được chư Thiên cúng dường
Sinh lên trời thù thắng.
Nếu giúp đỡ vợ con
Tâm ý không vẩn đục
Biết đủ với vợ mình
Sẽ sinh lên cõi trời.
Nếu vua xa cảnh giới
Lìa ngu si, tham ái
Đó là người giữ giới
Sẽ sinh làm vua trời.
Nếu vua bỏ người ác
Gần người sống theo pháp
Đó là vua pháp lành
Sẽ làm Dạ-ma vương.
Nếu vua sống theo pháp
Đứng đầu bảo vệ nước
Đáng làm vua mọi xứ
Làm vua trời Dạ-ma.

Do nguyện lực Ngỗng chúa Thiện Thời sinh vào cõi trời ấy làm Ngỗng chúa đã gặp Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà nhớ lại kinh pháp đời trước đã nghe Đức Phật Thi Khí giảng, vì muốn Thiên chủ Mâu-tulâu-đà vui mừng nên ngỗng chúa đã nói như vậy rồi bảo Thiên vương:

–Thiên vương nên biết! Do nghiệp như vậy nên đạt được cõi trời này, do sự thù thắng của pháp lớn cho nên đạt được cõi này. Nếu đến được nơi đây mà không sống phóng dật thì về sau đến lúc thoái đọa sẽ không hối tiếc, vào giờ chết quỷ sứ có bộ mặt xấu xí đáng sợ không đến trước mặt. Thiên chủ là vua trời Dạ-ma thì hãy cẩn thận chớ có phóng dật, đừng làm việc phóng dật. Ở nơi đây Thiên chủ đã nghe âm thanh của ta cho nên tìm đến. Thiên chủ đã lìa bỏ tất cả cảnh giới đến đây để nghe pháp. Nếu là người khổ não mà sống thuận theo pháp thì chẳng có gì kỳ lạ nên còn thọ hưởng lạc thú cõi trời mà không phóng dật đó mới là việc khó. Này Thiên vương Mâutu-lâu-đà, nếu không tham đắm dục lạc thì sẽ rất vui. Nếu các vị Thiên khác gần gũi và yêu mến đi theo Thiên chủ làm quân binh, được sinh nơi tốt đẹp, do gần gũi bạn lành nên thường được vui, nếu gần bạn ác thì không thể vui. Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà đã tạo nhiều lợi ích cho Thiên chúng. Nhờ gần Thiên vương mà các vị đó được hai loại thú vui là thú vui đời này và về sau được thú vui Niết-bàn. Tất cả chúng chư Thiên các ông hãy trở về nơi của mình, ta sắp đến nơi các vị trời phóng dật khác để dứt trừ phóng dật cho họ.

Ngỗng chúa Thiện Thời nói xong thì từ trên đỉnh núi chư Thiên bay lên hư không. Sau khi nghe thuyết pháp, Thiên vương Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà vui vẻ ca ngợi rồi bay lên cung điện cõi trời với Thiên chúng vây quanh, bay lên hư không cùng với chư Thiên và chư Thiên nữ.

Lại có các vị trời khác sống ở một ngàn ngọn núi Sơn man, vui chơi thọ lạc. Họ sống phóng dật, bị cảnh giới làm mê hoặc, ưa thích cảnh giới, bị tham ái phá hoại. Ở trong vườn cây, ao sen và rừng cây thay đổi theo ý niệm, họ cùng bạn bè vui chơi thọ lạc, nghe năm loại âm nhạc là âm nhạc cõi trời không gì có thể ví dụ. Họ lại vui chơi thọ lạc ở sông ăn uống, luôn luôn có hoa quả và chim hót véo von.

Đó là nơi có nhiều ao sen và bông trái do nghiệp mình tạo ra. Ở nơi đó họ hưởng thú vui bậc nhất cho đến khi hưởng hết nghiệp lành đã tích tụ. Do nghiệp lành hết, họ đi theo nghiệp của mình bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sinh. Nếu do nghiệp còn sót được sinh làm người nơi tương ưng với nghiệp thì giàu có, vui vẻ bậc nhất, hoặc ở gần bờ biển, hoặc ở nơi nhiều sông ngòi, làm người buôn bán rộng rãi rất giàu có, hoặc làm vua, thường ở nơi bờ biển có nhiều tàu thuyền, có nhiều của cải, có nhiều người giúp việc, được mọi người yêu mến.

Biết quả báo của nghiệp, Tỳ-kheo ấy lại quan sát nơi trời Dạma ở. Do trí tuệ hoặc Thiên nhãn, họ thấy trời Dạ-ma có vùng tên Thường lạc. Do nghiệp gì chúng sinh sinh vào nơi này?

Vị ấy thấy người nào không sát sinh, trộm cắp như đã nói ở trước và thường xa lìa tà dâm, ngay cả thấy tranh vẽ người nữ cũng không có ý niệm dâm dục, không cho rằng tranh vẽ đó xinh đẹp nhất, không nghĩ rằng nó giống như người nữ ấy, cũng không nghĩ rằng bức vẽ thật đáng yêu. Nếu không đem tâm dâm dục quan sát tượng người nữ thì tâm không bị mê hoặc và y theo chánh pháp. Nhờ chánh niệm nên họ xả bỏ tâm tham dục, tránh xa người nữ, không tự hủy thân mình. Sau khi nghĩ về việc mình không có tà dâm họ liền vui vẻ. Khi tâm tham dục chưa sinh, họ thường tạo phương tiện khiến nó không sinh. Họ khuyến khích người tà dâm sống trong đường chánh và nói cho người đó nghe về tai họa đáng ghét của tham dục. Nếu có thể lìa bỏ tà dâm thì sẽ có thân nghiệp trong sạch nhất, có chánh kiến không tham dục, khi chết sinh vào vùng Thường lạc thuộc cõi trời Dạ-ma. Từ khi ở trong thân trung ấm cho đến lúc đã đến cõi trời họ đều nhờ nghiệp lành, năm căn thọ nhận lạc đầy đủ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, theo thứ tự hóa sinh vào ba nơi trên cõi trời.

  1. Sinh trong đài hoa sen.
  2. Sinh trong tua hoa Câu-bà-la-da.
  3. Sinh trong hoa Mạn-đà-la.

Người nào sinh ở tua hoa Câu-bà-la-da thì ánh sáng và màu sắc

cũng giống hoa ấy hoặc đỏ, hoặc xanh, hoặc nhiều màu, được trang sức bằng bảy báu giống như tua hoa Câu-bà-la-da.

Bảy báu nhiều màu trang điểm như thế nào?

Đó là Tỳ-lưu-ly xanh làm tóc, mắt, mi mắt, lông mi đều như vậy và có màu bạc, móng tay có màu đỏ, trắng, hồng, răng đẹp như ngọc, thân có màu vàng như vàng Diêm-phù-đàn, màu lông dưới rốn như châu báu nhân-đà, các phần khác của thân có đủ loại màu khác nhau. Tâm là người thợ vẽ tạo nên tác phẩm giống bức vẽ.

Người nào sinh trong đài sen thì có màu giống màu Diêmphù-đàn chân kim, tóc có màu châu báu xanh, môi có màu giống châu báu hoa sen đỏ, hoặc màu xa cừ, móng có màu giống châu báu hoa sen, lông dưới rốn có màu giống xa cừ xanh biếc. Đó là nói sơ lược.

Người nào sinh trong hoa Mạn-đà-la thì áo quần mặc trên thân tuy có đủ loại màu nhưng vì sinh bên trong nên trở thành màu giống màu của hoa ấy. Điều đó giống như việc đang xảy ra trên đời là: Tùy theo trái cây có màu gì mà các sinh vật sinh ra trong đó cũng có cùng màu vì được sinh trong đó. Giống như thế, tùy theo nơi sinh, mọi vật liền có màu giống nơi ấy. Cũng như vậy, do ở trong hoa nên tất cả chư Thiên đó đều có màu giống hoa.

Sau khi sinh, Thiên tử thường đầy đủ các thú vui không có gián đoạn, thường hưởng các thú vui cõi trời không thể ví dụ, nay chỉ nói một phần nhỏ trong thú vui ấy. Giống như một giọt nước trong biển cả, thú vui được nói ở đây cũng như vậy. Người nào lúc làm người tạo nghiệp thiện, khi nghe nói đến thú vui cõi trời này liền siêng năng hơn. Vì sao? Vì đã biết nghiệp quả, mong cầu quả báo vui nên họ siêng năng tu tập nghiệp thiện. Người nào siêng năng tinh tấn vì muốn giải thoát, vì muốn phá trừ vô số khổ não ở trong các cõi và phá chất độc tham ái thì thấy trong các cõi không có một chút vui thú. Do nhân duyên đó, họ mới nói về quả báo của nghiệp thiện. Ở đây nói rằng thú vui của cõi trời không phải là quả báo của các cõi.

Bấy giờ, Thiên tử đã sinh vào vùng Thường lạc thuộc cõi trời này, thường vui chơi thọ lạc đầy đủ công đức của năm dục, được trăm ngàn Thiên nữ ca vịnh khen ngợi và cúng dường. Ở vườn cây, ao sen, họ ca múa, đùa giỡn với nhau, không làm trở ngại nhau, hưởng lạc theo nghiệp của chính mình. Ở vườn cây, đất bằng, ngọn núi, rừng hoa sen, họ hưởng thú vui cõi trời.

Khi ấy các Thiên tử được các Thiên nữ vây quanh ở từng vườn cây, từng nơi vui chơi đáng yêu, từng ngọn núi bảy báu, họ thọ hưởng ái dục ở cõi trời không hề biết nhàm chán, họ nhìn ngắm các ao sen đáng yêu, nghe âm thanh dịu dàng, ăn thức ăn thượng vị của cõi trời, mặc thiên y mềm mại, xinh đẹp, có mùi thơm đáng ưa, thọ hưởng năm dục trong thời gian lâu dài và yêu thích lẫn nhau.

Khi ấy, có chim tên Giác Thời nói kệ cho các vị Thiên phóng dật nghe:

Chúng sinh trong ba cõi
Tất cả đều sẽ chết
Người ngu không chán ghét
Đối với biển sinh tử.
Tất cả đều sẽ chết
Phải siêng tạo phương tiện
Khi giặc chết đã đến
Không ai có thể cứu.
Đoạn trừ mọi thú vui
Làm tăng các khổ não
Lìa những thứ đáng yêu
Cho nên gọi là chết.
Khiến chúng sinh lo sợ
Làm họ rất khổ não
Khiến cho ý mê hoặc
Vì vậy gọi là chết.
Dẹp tâm bảo vệ mạng
Phá hủy hết các căn
Chúng sinh không thể cứu
Vì vậy gọi là chết.
Chúng sinh không thể hủy
Các nghiệp không thể thắng
Khiến chúng sinh thoái thất
Vì vậy gọi là chết.
Mọi chúng sinh đều có
Quyết định bị giết hại
Khiến xa lìa người thương
Vì vậy gọi là chết.
Trời, Dạ-xoa, Thần nhạc
Quỷ, Rồng và La-sát
Đều bị thời gian giết
Vì vậy gọi là chết.
Não loạn khó điều phục
Đốt mọi thứ như lửa
Chắc chắn, không thể tránh
Cho nên gọi là chết.
Có thể hủy ấm, nhập
Mạng, khí và tâm ý
Thời gian, uy lực lớn
Vì vậy gọi là chết.
Nó hoạt động rất mau
Hủy hoại các chúng sinh
Phải siêng tu phước nghiệp
Chớ nên sống phóng dật.

Chim Giác Thời thuyết giảng về pháp chết, chắc chắn, không nghi cho các vị trời phóng dật. Do phóng dật nên tuy nghe pháp này chư Thiên không sinh tâm nhàm chán, do tự thể của các căn có tánh động, người hưởng nhiều lạc thú thì các căn động, khó kiềm chế. Do thú vui thù thắng, các căn bị khuấy động không thể bị kiềm chế. Vì lý do này, tuy nghe việc lợi ích chân thật, chắc chắn mà chư Thiên vẫn không hay biết về ý nghĩa đó, giả sử có hay biết cũng không thọ nhận vì bị độc tham ái làm hại. Vì vậy tuy nghe những lời chân thật lợi ích nhưng họ không ghi nhận. Do không ghi nhận nên họ tham đắm cảnh đẹp, thọ hưởng dục lạc, nghe năm loại âm nhạc, ca múa cười giỡn với Thiên nữ, vui chơi đủ kiểu ở vườn cây, ao sen. Do nghiệp lành, ở vô số ngọn núi xinh đẹp, đáng yêu bằng bảy báu, họ thường thọ hưởng hoan lạc không có gián đoạn, đầy đủ công đức dục lạc nơi cõi trời, vui đùa với nhau ở nơi được trang sức bằng đủ loại của báu, thường hưởng hoan lạc. Họ vui chơi thọ lạc và đi dần đến ao rộng. Mỗi bề của ao này rộng một trăm do-tuần, trong ao có một hoa sen rất mềm mại, được kết bằng bảy báu, cành bằng Tỳ-lưu-ly, tua bằng kim cang, hoa ấy nở rộng che khắp ao. Do chưa từng thấy nên khi thấy hoa này chư Thiên sinh tâm thán phục. Cõi trời này rất đáng yêu, những nơi được nhìn thấy đều đáng ưa thích. Thấy hoa sen đó, chư Thiên vui vẻ gấp trăm lần và chỉ cho nhau xem để cùng nhau chiêm ngưỡng. Với tâm vui vẻ, họ cùng đi dạo một vòng xung quanh hoa sen. Khi nhìn ngắm hoa sen này tất cả đều sinh tâm thán phục và nói với nhau:

–Này bạn! Hãy xem kìa, thật là một bông sen đáng yêu, trước đây chưa từng thấy. Bông sen đó có ánh sáng lớn và vô số ong bằng bảy báu trang sức. Bông sen này che khắp ao rộng, xung quanh hoa sen chỉ thấy một ít nước, trên bờ ao rộng có ngọc báu xen lẫn với châu báu nhân-đà màu xanh, châu báu hoa sen đỏ, châu báu màu bạc trắng, xen lẫn nhau để trang hoàng bờ ao. Đài sen cao năm trăm do-tuần, rộng mười do-tuần. Do sức của nghiệp thiện, khi chư Thiên vui chơi thọ lạc, tùy theo ước muốn hoặc lớn hoặc nhỏ của chư Thiên, mọi thứ đều đầy đủ ở trong hoa sen nơi ao lớn. Vì vậy ao đó tên là ao tùy theo ý niệm và hoa ấy tên là hoa sen theo ý niệm. Hai thứ đó đều tên là tùy theo ý niệm.

Khi ấy, lúc mới thấy lần đầu, chư Thiên vui vẻ gấp trăm lần. Do nghiệp lành, họ ca múa cười đùa, nghe năm loại âm nhạc, ở bờ ao ấy, tất cả đều cùng nhau thọ hưởng dục lạc cõi trời.

Sau khi đi chơi xong, chư Thiên lại uống rượu thượng vị của cõi trời, không có lỗi say sưa, uống rượu thượng vị xong, công đức hưởng lạc liền được như ý niệm, hương thơm, sắc đẹp, mùi vị đều như ý niệm. Ở trong ao có nhiều loại đồ đạc bằng châu báu, tùy theo ước muốn của họ, từ trong ao chảy ra các loại thức uống thượng vị như là rượu trời thơm ngon vi diệu. Chư Thiên uống thức uống thượng vị này. Uống xong họ lại đến nơi khác vui chơi và thấy có thức ăn thơm ngon cõi trời, có đầy đủ sắc, hương, vị, xúc. Vì muốn ăn, họ vui vẻ chạy đến. Khi đã đến nơi chứa thức ăn họ liền cùng nhau ăn, hoặc là dùng tay bốc ăn, hoặc là dùng các vật bằng châu báu tương ưng với nghiệp để ăn. Ăn xong họ trở về chỗ cũ nơi ao rộng, vây quanh nhau, cùng vui với nhau, nghe năm loại âm nhạc, ca múa vui cười, đi đến ao rộng vui chơi, thấy ánh sáng thù thắng của bông sen, lớn hơn cả trăm ngàn mặt trời. Ánh sáng châu báu vi diệu của tất cả chư Thiên không bằng một phần mười sáu ánh sáng của hoa đó. Thấy hoa sen lớn Thiên chúng rất vui mừng, vây quanh hoa ấy, nghe năm loại âm nhạc, ca múa, vui chơi, cùng nhau đi quanh ao lớn. Khi đi quanh ao, họ lại thấy trong ao có một việc kỳ lạ là: Ở trên ao hoa sen có nhiều loại ong bằng bảy báu, màu sắc vi diệu đáng yêu, con đực và con cái vui chơi với nhau thọ hưởng dục lạc. Chúng cùng nhau hút mật hoa có mùi vị rất ngon, không thể ví dụ. Vừa hút mật chúng vừa tụng bài kệ:

Nếu tạo nhiều loại nghiệp
Thì sinh nhiều loại quả
Có đủ loại thọ sinh
Là do đủ loại nghiệp.
Do có nhiều loại tâm
Tạo ra nhiều cảnh giới
Các loại nghiệp đều hết
Không lâu liền thoái thất.
Việc thọ hưởng thiên lạc
Không thể nói đầy đủ
Sức vô thường rất mạnh
Sẽ đến trong giây lát.
Thú vui như bọt nước
Hoặc như là bóng nắng
Các thú vui cũng vậy
Tất cả đều bị hủy.
Rất ác không thể ngăn
Chúng sinh đều sợ hãi
Thần chết đã sắp đến
Sức nó không thể phá.
Hủy hoại mọi thú vui
Và dứt trừ mạng căn
Bị xích nghiệp trói buộc
Dẫn đi qua đời khác.
Thú vui nào đã qua
Thì không thể nghĩ đến
Thú vui trong vị lai
Cũng không gọi là vui.
Thú vui ở hiện tại
Xen với cảnh ưa thích
Bị vô thường dời đổi
Mọi thứ đều hư hỏng.
Thú vui thuộc ba cõi
Bậc trí không ca ngợi
Vì sao chư Thiên lại
Thích thú vui như vậy?
Thân này không lâu bền
Lửa chết ắt sẽ đến
Thiêu đốt hết tất cả
Như lửa đốt củi khô.
Thú vui chóng bị diệt
Chớ có sống phóng dật
Đừng để đến giờ chết
Mà sinh tâm hối tiếc.
Vô số trăm ngàn đời
Nghiệp vui đều đã qua
Như mơ đến nơi nào
Như gió niệm không dừng.
Người ngu thích không chán
Như lửa được củi khô
Vì vậy các thú vui
Chẳng phải là thường còn.
Người giải thoát khát ái
Thoát khỏi họa tham dục
Tu thiền, không phóng dật
Được thú vui trong sạch.
Người được thú vui ấy
Mới gọi đó là vui
Thú vui ở các cõi
Giống như mật có độc.
Người tham đắm dục lạc
Tâm thường cầu dục lạc
Dục lạc không thường còn
Vì vậy không lặng lẽ.

Do nghiệp lành, các con ong này nói bài kệ đó cho chư Thiên nghe. Tuy nghe bài pháp đó nhưng chư Thiên không ghi nhận và lại ngắm ao sen với tâm ưa thích, vui chơi ca múa cùng các Thiên nữ và quan sát khắp nơi. Họ vui chơi thọ lạc ở đó trong một thời gian dài rồi lại muốn xem hoa sen trong ao. Nhờ sức tự chủ của bốn đại nhẹ nhàng, nhờ uy lực của nghiệp, họ đi dạo một cách thư thái trong hoa sen, hoặc có các vị trời vào trong cánh hoa vui chơi, hưởng lạc; hoặc có vị vào đài hoa kết bằng đủ loại châu báu vi diệu cùng các Thiên nữ thọ hưởng dục lạc. Theo tâm niệm, từ đài hoa họ bay lên cánh hoa. Khi ấy cánh hoa lớn dần. Do nghiệp lành, hoa sen lớn dần lên đến hai trăm do-tuần, ba trăm do-tuần cho đến một ngàn do-tuần. Do nghiệp lành của chư Thiên và sức của ý niệm, đài sen cũng lớn dần đến hai trăm do-tuần, ánh sáng của hoa sen cũng tăng lên dần. Bấy giờ, từng vị trời ở trên các cánh hoa khác nhau vui chơi thọ lạc cùng các Thiên nữ. Các vị trời này đã lên cánh hoa, cánh hoa liền lớn dần lên.

Khi ấy Thiên chúng vui chơi thọ lạc và nghĩ như vầy: “Nơi ta dừng lại vui chơi ở đây cần có sông rượu và thức ăn thơm ngon của cõi trời”.

Ngay khi họ nghĩ, trong cánh hoa sen liền sinh ra sông rượu và đầy đủ thức ăn thơm ngon của cõi trời. Họ lại nghĩ: “Ta uống rượu và ăn thức ăn của cõi trời”. Ngay lúc ấy, họ liền cùng Thiên nữ uống rượu trời và ăn vị Tô-đà.

Sau khi hưởng lạc đã lâu, chư Thiên lại nghĩ: “Ta phải dừng lại vui chơi ở đây, trong cánh hoa này cần sinh ra vườn cây”. Nhờ nghiệp lành, theo ý nghĩ của họ, vườn cây xuất hiện với cây bằng bảy báu, có đủ loại chim, đủ loại âm thanh, bóng cây báu phủ khắp giống như cung thất, có nhiều hoa quả sinh ra tùy theo ý nghĩ, có nhiều sông, suối, ao, dòng nước tốt đẹp đáng ưa, có nhiều âm thanh vi diệu, mặt đất được lát bằng châu báu, có nhiều loại hoa vi diệu, màu sắc, hương thơm, hình dạng đều đáng ưa. Hoa có ba loại là:

Hoa mọc dưới nước bao gồm hoa ưu-bát-la màu xanh, hoa câuvật-đầu, hoa yêm-ma-la-na, hoa tô-chi-la, hoa hương diệp, hoa ly-nê, hoa cụ túc dục, hoa la-bà-la, hoa quân-trà-la. Đó là các loại hoa mọc dưới nước. Trong ánh sáng hoa phát ra có nhiều con ong. Tùy theo ý nghĩ mà hoa này có đủ loại màu như là màu châu báu xanh. Hoa này mọc khắp nơi để trang hoàng cho rừng cây.

Trên mặt đất cũng sinh nhiều loại hoa, có đủ màu sắc và hình dạng đáng yêu. Chư Thiên ở trong rừng này, sống trong cánh hoa sen có tên Lạc quang minh hoa. Khi Thiên tử, Thiên nữ gọi nó liền hiện đến. Lại có hoa tên Kiến lạc, có hoa tên đủ màu sắc, có hoa cánh mềm mại vui mừng, hé nở, có hoa với hết thảy ánh sáng trang điểm xinh đẹp, hoa chu-đa-lam, hoa vô yểm túc, hoa ức niệm lạc. Đó là những hoa mọc trên đất liền. Chúng hiện ra trước mặt theo ý muốn của chư Thiên.

Ở trong vườn cây cũng có các loại hoa như hoa Mạn-đà-la, hoa ban vui, hoa hương xúc ái, hoa hương vị khả ái, hoa chi-đa-la, hoa năm cánh, hoa long lâm thiệt, hoa giá-mạt-la, hoa lâm man, hoa tu-ma-na, hoa ánh sáng, hoa văn hương bảo, hoa nhất thiết ái, hoa sơn man, hoa sơn phong man, các hoa này có loại mọc dưới gốc cây, có loại mọc trong bụi cây. Do nghiệp lành lúc chư Thiên dừng lại vui chơi ở trong hoa sen, có các loại hoa đó sinh ra. Khi ấy, chư Thiên cùng các Thiên nữ vui chơi trên cánh hoa ở rừng hoa sen, hưởng đủ loại thú vui. Hoa sen lớn và ao rộng tùy niệm có uy lực như vậy.

Ở trong cánh sen, chư Thiên suy nghĩ: “Ở nơi này cần có các ngọn núi, đủ loại núi báu từ nơi đây mọc ra với đầy đủ ánh sáng, có nhiều loại chim phát ra đủ loại âm thanh vi diệu, ta sẽ đi chơi ở trong núi, hang động, sông, ao, nơi bằng phẳng và bờ hiểm, nơi được lót châu báu”.

Họ lại suy nghĩ: “Ta đang sống trong cánh sen lớn, nếu nơi này có núi hang, sông ao, đất bằng, suối thì ta sẽ vui chơi thọ lạc ở nơi đó”.

Do nghiệp lành, ngay lúc họ nghĩ, có nhiều vườn cây, ao hoa, ngọn núi, hang động, đỉnh núi bằng phẳng xuất hiện. Tất cả đều đáng yêu được trang hoàng bằng ánh sáng bảy báu. Nơi đó có đủ loại cây rất xinh đẹp, nhìn rất vui mắt, có hơn một trăm ngọn núi, trên cây có hoa trái cõi trời, bóng râm của cành lá che phủ như cung thất, rất đáng ưa thích, có trăm ngàn hang báu ở trong núi để trang hoàng cho núi. Khi ấy, chư Thiên được một ngàn Thiên nữ vây quanh. Các Thiên nữ được trang điểm bằng hoa trời vi diệu có đầy đủ sắc, hương, xúc không bị héo úa. Họ có giọng ca rất hay, nghe rất vui tai, chư Thiên có đầy đủ năm dục theo ý thích rời khỏi cánh hoa sen từ từ bay lên núi lớn, đảo mắt nhìn khắp nơi. Họ vui chơi thọ lạc, ăn ở sông thức ăn, uống ở suối vị. Sau khi ăn uống no nê, họ thấy hoa Mạn-đà-la, hoa câu-thi-da-xá ở bờ sông để trang điểm cho mình và Thiên nữ rồi ca múa vui chơi. Sau một thời gian dài đắm mình trong năm dục để tận hưởng hoan lạc, thọ nhận các dục lạc ở cảnh giới đáng yêu không biết nhàm chán, bị sông ái cuốn trôi, họ lại đến hoa sen lớn ở ao rộng. Mỗi vị trời có một trăm hoặc một ngàn Thiên nữ trang sức đủ kiểu vây quanh. Họ đến ao lớn và vào chỗ của mình trong cánh hoa sen để vui chơi thọ hưởng thú vui thù thắng, vi diệu. Như dấu ấn đóng xuống, họ thọ hưởng thú vui tương tợ với nghiệp của mình.

Bấy giờ, chư Thiên lại suy nghĩ: “Nơi này cần có các loại hang động, các loại chim đủ loại hình dáng và màu sắc, nhìn rất vui mắt, thân bằng bảy báu, phát ra âm thanh vi diệu, chúng đi ở tất cả mọi nơi, hoặc trong nước, hoặc dưới đất, hoặc trên không không có trở ngại, không biết mệt mỏi. Nếu có loại chim này đến đây, ta sẽ cỡi chúng để đi trên hư không, vui chơi trên đó cùng các Thiên nữ, rồi cúi xuống quan sát chư Thiên ở vùng Thường lạc, vui vẻ thọ lạc, sau khi đã quan sát cùng khắp, ta sẽ cùng các Thiên nữ hưởng thú vui thù thắng”.

Lúc chư Thiên suy nghĩ như vậy, do nghiệp thiện nên có đủ loại núi, đủ loại ngọn núi, hang núi, khe núi, rừng cây, chim chóc, theo ý nghĩ lập tức xuất hiện, với đủ loại tướng mạo xinh đẹp, phát đủ loại âm thanh thù thắng, vi diệu. Nơi ấy có đủ loại chim nhiều màu bằng bảy báu. Các Thiên nữ thấy chúng đều sinh tâm thán phục. Chúng có tiếng hót rất hay vang khắp hư không. Chúng bay đến cánh hoa sen, che khắp hư không nơi chư Thiên dạo chơi. Thấy chim ấy, chư Thiên và Thiên nữ trở nên vui vẻ, do vui vẻ, họ muốn bay lên hư không cùng với các Thiên nữ.

Biết ý nghĩ của chư Thiên, các con chim bay đến gần họ. Chư Thiên và Thiên nữ liền lên lưng chim. Chim bay khắp hư không. Chư Thiên gẩy đàn không hầu, ca lên âm thanh vi diệu, thổi sáo, đánh trống, nghe rất vui tai. Họ lại quan sát chư Thiên ở dưới đất thọ hưởng dục lạc cõi trời, bị tham ái trói tâm, không nghĩ đến việc bị thoái thất. Do nghiệp lành, họ chỉ hưởng thú vui cõi trời.

Khi ấy có chim tên Thật Ngữ nói kệ để điều phục chư Thiên phóng dật:

Gió mạnh và chim cắt
Bay rất là mau lẹ
Mạng sống của chúng sinh
Còn mau hơn như thế.
Gió qua có lúc lại
Chim đi có lúc về
Mạng sống đã hết rồi
Thì không còn trở lại.
Do nghiệp rất mau dứt
Giờ chết mau chóng tới
Nhất định lìa cõi trời
Kẻ ngu không hay biết.
Sức lớn không thể ngăn
Rất thù ghét chúng sinh
Thần chết rất mạnh bạo
Sẽ đến trong giây lát.
Trời thường sống phóng dật
Bị dục lạc lừa dối
Không biết sẽ phải chịu
Vô số khổ não lớn.
Tất cả pháp vô thường
Nhất định bị hủy hoại
Pháp hữu vi như vậy
Rất là đáng ghê sợ.
Già hủy hoại trai trẻ
Chết làm rã thân mạng
Bại hoại phá của cải
Pháp tương đối như vậy.
Ở nơi rất dữ tợn
Suy não rất ghê sợ
Ngươi vẫn sống phóng dật
Thì thật là vô tâm.
Lo cho đời vị lai
Đó là có mắt trí
Nếu làm trái điều đó
Là kẻ rất ngu si.
Tất cả tâm lừa dối
Khiến cho ý mê loạn
Nghiệp hết liền thoái thất
Như dầu hết đèn tắt.
Những thú vui cảnh giới
Đều vô thường biến đổi
Do nghiệp cũ đã hết
Nên chúng bị diệt theo.

Do nghiệp lành muốn điều phục chư Thiên, chim Thật ngữ đã nói kệ trên. Lúc đó, do buông lung ngu si không biết chư Thiên không tin hiểu, cũng không ghi nhận. Họ lại nhìn ngắm những nơi đáng yêu ở vùng Thường lạc như núi, hang, sông, suối, dòng nước, ao hoa, vườn cây, rừng hoa, ngọn núi, khe núi. Chư Thiên dạo chơi đầy không trung, nghe các tiếng ca vang khắp hư không, Thiên chúng lại thấy các nơi khác có nhiều Thiên tử và Thiên nữ ở bờ ao hoa, uống nước thượng vị cõi trời, ở cây như ý, nghe năm loại âm nhạc, thọ hưởng hoan lạc, họ lại đến nơi khác thấy có cung điện ở trên hư không, bên trong có Thiên tử, Thiên nữ có vòng hoa xinh đẹp, có đầy đủ năm dục cõi trời, đang vui chơi thọ lạc. Họ lại thấy hai nhóm chư Thiên họp lại với nhau ở trên hư không, đi chơi thọ lạc, cỡi chim bảy báu xinh đẹp, trời Na-la-lâm sống trong cung điện. Hai nhóm chư Thiên này hợp lại với nhau để cùng vui chơi ở trên hư không. Khi vui chơi đã lâu, họ lại bay lên ngọn núi. Sau khi đi chơi thọ lạc trên ngọn núi đã lâu, họ lại hướng về ao rộng, vừa nghĩ đến hoa vừa đi, có vị cỡi chim bay đầy hư không. Họ bay vọt lên, ca âm thanh vi diệu của cõi trời. Nhớ đến thú vui thù thắng nên chư Thiên này lại hướng đến ao rộng. Khi đã đến ao, họ từ lưng chim bước xuống cánh sen ở ao rộng vui chơi hưởng đủ thứ dục như đã nói ở trước.

Sau một thời gian dài thọ hưởng hoan lạc trong hoa sen ở ao rộng, chư Thiên lại suy nghĩ, ở đây cần có cung điện do bóng râm của cành lá che phủ tạo nên, có âm thanh Câu-sí-la, có đủ loại châu báu vi diệu trang điểm rừng hoa, có bóng râm của cành lá mang màu sắc của đủ loại châu báu làm thành cung điện, ta sẽ vui chơi hưởng lạc ở trong đó. Do nghiệp lành, ngay lúc họ nghĩ, đủ loại châu báu vi diệu có ánh sáng rực rỡ xuất hiện, có hoa xinh đẹp bậc nhất, đầy đủ màu sắc, hương thơm che bên trên, các loại châu báu đó là bạc, châu báu Tỳ-lưu-ly, ngọc báu rất xanh, châu báu hoa sen đỏ, châu báu màu pha lê, cho đến châu báu màu vàng kim vi diệu bậc nhất, nhìn rất vui mắt. Do nghiệp lành, có cung điện do bóng râm của đủ loại cành lá châu báu che phủ tạo thành được sinh ra theo ý nghĩ.

Khi ấy, thấy cung điện do bóng râm của cành lá che phủ tạo nên, chư Thiên rất vui mừng, đi vào cung điện đó vui chơi thọ lạc, tất cả Thiên nữ vây quanh chư Thiên, họ được trang điểm bằng thiên y và vòng hoa trời, có đầy đủ tất cả dục lạc cõi trời. Tâm họ hòa thuận không gây lộn nhau, xa lìa ganh ghét, tranh cãi giận hờn và chỉ hưởng lạc. Do nghiệp lành, họ hưởng dục lạc cõi trời, nghe năm loại âm nhạc, mọi thứ đều đầy đủ. Họ ở trong cung điện do bóng râm của cành lá tạo ra, thọ hưởng dục lạc với Thiên nữ, không hề biết nhàm chán, bị độc tham ái thiêu đốt hưởng năm dục lạc, không biết nhàm chán, không thể ví dụ, ở trong cung điện do bóng râm của cành lá che phủ tạo ra, họ hưởng thú vui thù thắng của cõi trời và bị đắm nhiễm dục lạc. Cung điện được tạo ra bởi bóng râm của cành lá. Cành lá này do nhiều loại châu báu tạo thành, có cây bằng Tỳ-lưuly, lá bằng vàng ròng, quả bằng châu báu hoa sen đỏ, cành làm bằng châu báu nhân-đà xanh, hoặc là lá bằng bạc, quả bằng pha lê, hoặc lá bằng châu báu xanh, quả bằng hoa sen đỏ, hoặc lá và quả làm bằng đủ loại châu báu, hoặc lá bằng vàng, quả bằng bạc, hoặc quả vàng lá vàng, quả đỏ lá đỏ, bóng râm của đủ loại cành lá che phủ tạo thành cung điện. Do nghiệp lành theo ý nghĩ của chư Thiên, mọi thứ đều đầy đủ.

Bấy giờ, Thiên tử và các Thiên nữ vui vẻ chui vào cung điện do bóng râm của cành lá che phủ tạo thành, sống một cách yên ổn, cùng các Thiên nữ vui chơi hưởng đủ loại thú vui như cá ở trong nước không hề biết chán, họ rất thán phục đối với cung điện do bóng râm của cành lá tạo thành, nô đùa, ca vịnh vui vẻ thọ lạc ở trong cung điện. Sau khi thọ hưởng hoan lạc, họ lại nghĩ: Ở trong cung điện này cần có thức uống thượng vị cõi trời với sắc, hương, vị, xúc bậc nhất từ trong lá phun ra, để ta cùng các Thiên nữ uống và hưởng hoan lạc. Do nghiệp thiện, ngay lúc họ nghĩ, thức uống thượng vị cõi trời với sắc, hương, vị, xúc bậc nhất từ lá phun ra. Chư Thiên cùng Thiên nữ liền uống để thọ hưởng dục lạc không biết nhàm chán. Do tâm ái dục, họ ca múa, vui chơi thọ lạc, buông lung không hề nhàm chán. Nghiệp lành đã tạo trước kia sắp hết, vậy mà họ vẫn vui chơi hưởng lạc, thèm khát cảnh giới không biết chán.

Họ lại suy nghĩ: Trong cánh hoa ở nơi này cần sinh vị tu đà bậc nhất đầy đủ hương vị xúc. Do nghiệp lành ngay lúc họ nghĩ, vị tu đà ngon nhất, đầy đủ hương vị xúc từ trong cánh hoa vọt ra. Chư Thiên liền ăn thức ăn đó. Thọ nhận đã lâu, chư Thiên lại nghĩ: Trên cành cây báu ở đây nên sinh Thiên quan thù thắng, vi diệu được trang sức bằng châu báu anh lạc, đầy đủ ánh sáng, vật trang điểm cánh tay đủ loại vật trang sức cho chư Thiên với ánh sáng rực rỡ cũng từ cây hiện ra. Lúc họ nghĩ như vậy, do sức của nghiệp lành, đủ loại vật trang sức của chư Thiên với ánh sáng rực rỡ xuất hiện. Khi ấy, chư Thiên mang các đồ trang sức, hưởng thú vui cõi trời trong thời gian dài, cùng các Thiên nữ hưởng thú vui của năm dục không biết nhàm chán. Tuy hưởng lạc đã lâu nhưng họ càng thêm thèm khát đối với thú vui cảnh giới.

Do tâm không biết đủ, họ lại sinh ý nghĩ khác: Ở đây cần có gió thơm thổi đến làm lá cây xúc chạm lẫn nhau phát ra âm thanh vi diệu, hơn cả tiếng ca. Lúc họ nghĩ như vậy, do nghiệp lành, đủ loại gió thơm thổi làm lá cây lay động, xúc chạm lẫn nhau phát ra âm thanh vi diệu hay gấp mười sáu lần tiếng ca của Thiên nữ. Khi ấy, Thiên chúng cùng các Thiên nữ ca múa vui chơi, thọ lạc trong thời gian dài mà không biết đủ. Thiên chúng lại nghĩ: Ở đây nên sinh cung điện được trang hoàng bằng đủ loại bảy báu nhiều màu, tất cả dục lạc cõi trời đều đầy đủ và sinh ra theo ý niệm. Khi các thứ đó đã sinh ra, chư Thiên vây khắp ao rộng và cùng Thiên nữ ca múa, vui chơi thọ lạc ở trên hư không. Lúc họ nghĩ như vậy, liền có cung điện được đủ loại bảy báu nhiều màu sắc trang điểm, như là chân châu, anh lạc, bốn mặt cung điện này có lan can làm bằng đủ loại châu báu, thù thắng vi diệu, trông rất đáng ưa, trên lan can có ngỗng hoặc khổng tước, chim mạng mạng, đủ loại chim đậu trên đó. Khắp nơi đều có chim đậu, các loại chim đều hiện trước mặt theo ý thích của chư Thiên. Thấy vậy chư Thiên cùng Thiên nữ bay lên cung điện vui chơi ca múa, tất cả đều hướng đến ao rộng. Ở trong cung điện, họ cúi xuống quan sát ao lớn thấy các hoa sen sinh tâm thán phục. Hoa sen lớn này có nhiều loại cánh báu, phát đủ loại ánh sáng, đủ màu sắc vi diệu trang điểm. Đó là kim cương, báu nhân-đà xanh, báu hoa sen đỏ, báu Tỳ-lưu-ly ngọc báu rất xanh, cánh phát ánh sáng vàng kim trông rất đáng ưa.

Lúc ấy, chư Thiên ở cung điện trên hư không hoặc ở trên cánh sen rộng lớn, đùa giỡn, ca múa vui chơi với Thiên nữ, chư Thiên này tạo vô số cách để vui chơi hưởng lạc không thể ví dụ. Họ cất lên đủ loại tiếng ca vang khắp năm trăm do-tuần. Họ có đầy đủ công đức của năm dục, nghe năm loại âm nhạc, hưởng vô lượng thú vui. Nghiệp lành tích tụ được đã hết mà họ vẫn không hay biết. Nghiệp lành sắp hết, giờ thoái đọa sắp đến, phải đi nơi khác, sẽ sinh vào đường nào chịu nỗi khổ gì và hưởng những thú vui gì? Nghiệp thiện và ác dẫn ta đến những nơi nào, chỉ cho ta con đường gì, là đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hay nhân đạo là đường đáng sợ hay không đáng sợ? Do bị chìm trong bóng tối phóng dật nên họ không hay không biết về những việc này. Đến lúc biết thì nghiệp lành đã hết, bị gió lớn vô thường thổi rơi rớt.

Thiên chúng thường sống phóng dật thì giống như giặc giả làm người thân, chẳng phải lợi ích chân thật giả làm lợi ích. Nghiệp lành đã hết sắp nhận quả báo khác, đến lúc ấy họ mới biết và nghĩ rằng: “Ta làm việc chẳng lành thường sống phóng dật đến lúc chết mới hay biết”.

Do đã quen thói nên họ không sợ kẻ thù phóng dật này và lại vui chơi ca múa ở ao hoa. Do nghiệp lành, họ rất ưa thích việc đó, thích quan sát chư Thiên vui chơi trên cánh hoa sen và chư Thiên sống trong cung điện trên hư không hòa hợp với nhau để thọ lạc.

Khi ấy, có chim tên Thủy Ba Luân nói kệ cho chư Thiên sống phóng dật nghe:

Mạng chúng sinh không dừng
Giống như là sóng cả
Dễ vỡ như bọt nước
Nhưng trời không hay biết.
Nếu gió không thổi, vỗ
Bọt nước còn dừng lâu
Vô thường phước trời hết
Chóng diệt không dừng lâu.
Giống như đèn hết dầu
Ánh sáng cũng không còn
Cũng như vậy nghiệp hết
Thiên lạc liền diệt theo.
Không có loại nghiệp gì
Mà không bị hư hoại
Các chúng sinh như vậy
Ngu si không hay biết.
Tất cả các hữu tình
Có sinh phải có diệt
Tất cả pháp hữu vi
Cũng đều như vậy cả.
Chúng sinh do tự nghiệp
Trôi lăn trong sinh tử
Vì sao thế gian này
Bị phóng dật phá hoại?
Phóng dật mất pháp lành
Phóng dật bị trói chặt
Do phóng dật nên họ
Thoái đọa xuống địa ngục.
Nguyên nhân của việc đó
Sinh ra từ phóng dật
Người nào muốn an vui
Nên lìa bỏ phóng dật.
Ai lìa bỏ phóng dật
Liền đến chỗ bất tử
Do không sống phóng dật
Liền đến gần Niết-bàn.
Nhờ không còn phóng dật
Được nhập vào Niết-bàn
Vì vậy bậc trí nói
Phóng dật là nhân khổ.
Tất cả người phóng dật
Giống như người bệnh cuồng
Hiện đời bị người khinh
Chết liền vào đường ác.
Hết thảy người phóng dật
Ở trong nghiệp quả báo
Và nẻo đường sinh tử
Không đâu không điên đảo.
Lửa địa ngục hừng cháy
Thiêu chúng sinh địa ngục
Nếu muốn thoát địa ngục
Phải lìa bỏ phóng dật.
Nếu muốn lìa phóng dật
Phải thích tu trí tuệ
Thoát dây trói phiền não
Thường được nơi an lạc.
Năm căn sinh ba độc
Tâm trôi lăn ba cõi
Người đã lìa phóng dật
Nói phóng dật như vậy.
Kho phóng dật rất khổ
Không phóng dật thì vui
Nếu ai muốn an lạc
Phải lìa bỏ phóng dật.

Vì muốn điều phục chư Thiên, khiến họ lìa bỏ phóng dật nên chim Thủy Ba Luân đã nói kệ như vậy, nhưng do ham phóng dật nên tuy nghe những lời chân thật đó chư Thiên vẫn không thể ghi nhận và lại tiếp tục ở trên hư không, nơi cánh sen trong ao rộng vui vẻ với nhau, đi chơi thọ lạc, đánh đàn cõi trời phát ra âm thanh vi diệu cõi trời và các cảnh giới khác, vướng chặt vào sắc, thanh, hương, vị, xúc không biết nhàm chán. Như uống nước mặn, tuy uống rất nhiều vẫn không hết khát, chư Thiên này cũng như vậy, tuy hưởng vô lượng thú vui cõi trời mà không hề biết đủ.

Sau khi đã thọ hưởng dục lạc trong thời gian dài ở trên hư không, chư Thiên lại vui chơi hưởng lạc cùng với Thiên nữ trong cánh hoa sen lớn ở ao rộng, nghe năm loại âm nhạc. Họ hòa hợp, ân ái, vui vẻ với nhau, bám chặt vào cảnh giới sáu dục. Họ ở nơi đó trong một thời gian dài, ca múa vui cười, hưởng vô số thú vui khác nhau của cõi trời. Những thú vui này được thành tựu đầy đủ theo ý nghĩ. Do nghiệp lành, tùy theo ý nghĩ khác nhau của họ, tất cả các thú vui khác nhau đều được thành tựu. Chư Thiên ấy bị sông lớn đầy sóng cuốn trôi, sóng đó chính là vô số ý nghĩ. Họ sinh tâm vui mừng. Tất cả chư Thiên đã ở lâu trong hoa sen nơi ao rộng thành tựu thú vui cõi trời, hưởng vô lượng thú vui phóng dật của cõi trời.

Khi ấy, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà biết chư Thiên vướng mắc vào thú vui phóng dật nên sinh tâm thương xót, vì muốn trừ bỏ sự phóng dật và sự kiêu ngạo về sắc đẹp của họ, Thiên chủ đã hóa ra núi lớn tên Thanh tịnh cách ao rộng không xa. Núi đó giống như được trang sức bằng Tỳ-lưu-ly rất trong, vô số vàng bạc và đủ loại châu báu, khắp núi ấy có rừng vui chơi, có nhiều dòng suối bao bọc xung quanh nước rất trong mát. Ngọn núi báu này có ánh sáng chiếu khắp, được trang hoàng bằng các rừng cây, có nhiều ao hoa được trang điểm bằng đủ loại hoa, có vô số bóng râm được cành lá che phủ giống thiên cung. Ngọn núi thù thắng như vậy được trang hoàng khắp nơi ở vùng Thường lạc trên trời Dạ-ma. Tất cả chư Thiên sống ở đó đều trông thấy.

Vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà lại suy nghĩ hóa làm Thiên chúng giống kẻ thù của chư Thiên, nhan sắc xinh đẹp, đi rất mau lẹ, ca múa vui vẻ gấp mười lần chư Thiên ở xứ Thường lạc, hoặc hóa làm Thiên nữ xinh đẹp gấp mười lần Thiên nữ ở vùng Thường lạc. Tất cả mọi thứ của Thiên nữ ở vùng Thường lạc đều không bằng. Tất cả những thứ đó là tướng mạo đoan nghiêm, nhan sắc xinh đẹp, ca múa vui cười, các cách giải trí đều thù thắng. Tất cả mọi thứ ở núi thanh lương đều như vậy, còn núi Tỳ-lưu-ly thì như đã nói ở trước.

Khi ấy, vị trời thù thắng đứng trên ngọn núi cao nhất ở núi giả hóa ra Thiên tử và Thiên nữ, ca vịnh, trổi nhạc, âm thanh rất hay khiến người nghe say đắm. Thiên chúng và Thiên nữ giả ở trên ngọn núi từ từ đi xuống, vui chơi ca múa, đi về phía chư Thiên thật.

Nghe tiếng ca vịnh của chư Thiên giả có âm thanh hay gấp mười lần mình chư Thiên thật vẫn cùng các Thiên nữ vui chơi, ca vịnh. Lúc đó, chư Thiên giả cũng ca vịnh giống vậy và từ từ đi xuống nơi chư Thiên thật. Khi hai nhóm thiên này gặp nhau, tiếng ca vịnh của chư Thiên giả ngày càng hay hơn. Chư Thiên thật thấy nhan sắc thù thắng của chư Thiên giả liền xa lìa sự kiêu ngạo về sắc đẹp của mình. Sau khi phá bỏ sự kiêu ngạo về sắc đẹp của chư Thiên thật, chư Thiên giả liền phát ra âm thanh ca vịnh lấn át tiếng ca vịnh của chư Thiên thật. Hương thơm, sắc đẹp, tướng mạo của chư Thiên giả và Thiên nữ giả đều hơn chư Thiên thật. Khi ấy cảnh giới nơi năm dục và tất cả dục lạc của chư Thiên thật đều bị cảnh giới của năm dục và tất cả dục lạc của chư Thiên giả lấn át. Đó là do vua trời Dạma tạo phương tiện làm cho sự kiêu ngạo của chư Thiên mỏng dần. Khi chư Thiên giả và chư Thiên thật tập trung lại một chỗ thì oai đức và ánh sáng của chư Thiên thật đều ẩn mất. Giống như ở Diêm-phùđề khi ánh sáng mặt trời xuất hiện thì ánh sáng của trăng, sao đều biến mất, oai đức của chư Thiên giả khiến cho ánh sáng của chư Thiên thật diệt mất cũng giống như vậy.

Khi ấy, chư Thiên giả phát ra tiếng ca rất hay che lấp mất tiếng ca của chư Thiên thật. Tiếng của chư Thiên thật so với tiếng của chư Thiên giả cũng giống như tiếng ca của loài người so với tiếng ca của chư Thiên. Sắc đẹp và hình tướng của các vị Hóa thiên so với chư Thiên thật cũng giống như sắc đẹp và hình tướng của trời Dạ-ma so với loài người.

Lúc đó chư Thiên thật rất hổ thẹn đi về phía ao rộng. Ở trên hoa sen lớn trong ao, chư Thiên giả ca múa vui đùa, đầy đủ công đức nơi năm dục của chư Thiên, thành tựu các việc vui, ca múa vui cười ân ái với nhau. Tất cả thú vui của chư Thiên giả đều hơn chư Thiên thật. Chư Thiên giả nói kệ cho chư Thiên thật nghe bằng cách ca tụng:

Tất cả nghiệp giống nhau
Được thú vui cõi trời
Mạng trời và thú vui
Nghiệp hết liền không còn.
Vì vậy người nào còn
Hưởng lạc thú cõi trời.
Đều là nhờ phước đức
Vô phước thì rất khổ.
Mạng sống không tạm dừng
Sắc đẹp cũng như vậy
Cái chết đến rất lẹ
Chớ có sống phóng dật.
Phóng dật thường phá hỏng
Tất cả các thú vui
Mạng bị thần chết diệt
Chớ có sống phóng dật.
Các căn không thể kềm
Cảnh giới không thể ngăn
Người trí làm chủ được
Đối với các cảnh giới.
Vậy nên bỏ ngu si
Thường tu tập trí tuệ
Thường xa lìa các lỗi
Gốc của sự bất lợi.
Phóng dật sinh tham dục
Tham dục là nhân khổ
Sinh tử đều là khổ
Pháp sinh diệt như vậy.
Nếu lìa bỏ phóng dật
Thì không ưa cảnh giới
Xa lìa các lỗi lầm
Được thú vui giải thoát.
Phóng dật là cây khổ
Là gốc của khổ lớn
Phóng dật hay phá hoại
Tất cả các chúng sinh.
Sắc đẹp là vô thường
Chẳng vui chẳng hòa hợp
Được rồi lại bị mất
Hữu tình đều như vậy.
Việc ưa thích cảnh giới
Đều là nhân trói buộc
Hễ được liền lớn dần
Như lửa gặp củi khô.
Không biết đủ như vậy
Thì không gọi là vui
Nếu lìa được tham ái
Mới được gọi là vui.
Nếu lìa vui sinh tử
Mới chính là thường lạc
Nếu bị dục sai khiến
Thì không gọi là vui.

Vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà dùng sức nơi phương tiện để dẹp bỏ sự ngã mạn của chư Thiên, dùng lời ca vịnh này là âm thanh hay nhất trước đây chưa từng nghe để dẫn dụ chư Thiên, làm cho các vị trời thật nhờ nghe tiếng ca mà được nghe pháp. Sau khi nghe xong, nhờ xưa kia đã từng tu tập nên chư Thiên liền giác ngộ ý nghĩa của lời ca ấy, sinh tâm nhàm chán và nói: “Chư Thiên ấy hơn ta về mọi thứ mà còn lìa bỏ phóng dật và nói kệ tụng huống gì là người hèn kém như ta sao lại sống phóng dật”.

Khi đó, vua trời Dạ-ma đã dùng phương tiện làm cho chư Thiên sinh tâm nhàm chán không còn phóng dật, dùng cách hay nhất để làm lợi ích. Chư Thiên vốn kiêu ngạo về sắc đẹp và thú vui vì vậy không biết mình đang bị thoái thất dần. Về sau, lúc bị thoái đọa họ sẽ bị lửa hối hận thiêu đốt, sau đó bị lửa địa ngục thiêu, vì thương xót họ, vua trời Dạ-ma đã dùng phương tiện đó khiến chư Thiên thật sự sinh tâm nhàm chán và được lợi ích.

Lúc đó, biết chư Thiên đã sinh tâm nhàm chán, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà lại hóa hiện để tăng thêm sự chán lìa. Thiên chủ hóa ra chư Thiên vui chơi ca múa ở trong cánh sen vì muốn chư Thiên thật xa lìa sự ngạo mạn. Các vị Thiên thật chưa từng thấy chư Thiên vui chơi thọ lạc với vô lượng cách khác nhau như vậy.

Nghe tiếng ca của các vị Hóa thiên, chư Thiên thật sinh tâm hổ thẹn, dừng ca múa không đi chơi, không thọ hưởng dục lạc nữa, đứng yên chăm chú quan sát các vị Hóa thiên và thấy họ ca múa vui cười đủ cách rất đáng yêu, không gì có thể thí dụ. Các vị Hóa thiên ca múa vui chơi hưởng đủ thứ thú vui ở trong cánh sen.

Khi ấy, thấy chư Thiên thật đã lìa tâm ngạo mạn và được điều phục rồi, Thiên chủ Mâu-tu-lâu-đà lại hóa ra chư Thiên đang ca múa trong cánh hoa sen. Có một cánh hoa sen chứa đầy các vị Hóa thiên bỗng nhiên rơi xuống ao rộng, có vị chìm hẳn không nổi lên, lại có vị trồi lên trên nước giống như xác chết, hoặc có hai vị ôm nhau chìm xuống cùng la to, kêu gọi lẫn nhau: “Cứu tôi với, cứu tôi với”, có vị ôm nhau kêu lớn, có vị vừa ôm nhau liền chìm. Ở trên bờ ao chư Thiên thật quan sát các vị Hóa thiên thấy họ bị chìm rất nhiều nên cảm thấy buồn rầu, lo sợ.

Bấy giờ, sau khi có một cánh hoa sen rơi rụng ở trong ao, lại có một cánh hoa sen khác chứa đầy các vị Hóa thiên rơi xuống ao rộng, có vị chìm hẳn, có vị hơi nổi trên mặt nước, kêu gào rất to, có vị bị chìm không biết ở đâu, có vị chết rồi chìm xuống nước, có vị chết rồi nổi lên trên mặt nước như thuyền bè, có vị kêu gào, có vị cùng với

Thiên nữ ôm nhau kêu lớn, có vị bị Thiên nữ ôm riết rồi chìm xuống nước. Như ở nhân gian lúc tàu bị đắm chìm trong nước, mọi người đều chìm, các vị Thiên sống trong cánh hoa cùng cánh hoa rơi vào trong nước và chìm xuống ao lớn giống như vậy.

Khi ấy, lại có một cánh sen chứa đầy các vị Hóa thiên lại rụng xuống ao lớn như đá rơi vào nước không nổi trở lên, lại có một cánh hoa sen có nhiều vị Hóa thiên rơi vào trong nước, họ ôm nhau kêu gào rất to, hoặc chìm nửa thân, kêu la rất lâu rồi mới chết chìm. Hàng trăm hàng ngàn cánh hoa sen chìm vào ao bằng đủ cách giống như đá chìm làm cho tất cả chư Thiên thật đều thấy vô số Thiên chúng chìm rồi không nổi trở lên.

Bấy giờ, lại có một cánh hoa sen sắp bị rơi xuống, các vị Hóa thiên ở trong đó la rất to như núi lớn sụp đổ, như đất động, hoặc như tiếng sóng của biển lớn. Ở trên bờ, nghe các vị Hóa thiên phát ra âm thanh như vậy và thấy các việc não hại như vậy, các vị trời thật đều sinh tâm chán lìa và rất sợ hãi. Họ vây quanh ao quan sát các vị Hóa thiên, tâm rất nhàm chán và nói với nhau: “Xưa nay chưa từng thấy chư Thiên khổ não như vậy. Xưa nay chưa từng nghe, chưa từng thấy việc đáng sợ này”.

Nói xong, họ suy tư, sinh tâm nhàm chán. Khi ấy, lại có cánh hoa sen chứa đầy Thiên nữ rơi xuống ao làm cho họ kinh sợ la lên: “Cứu tôi với, cứu tôi với” rồi nói với nhau: “Nếu chư Thiên phóng dật thì sẽ mắc tai họa khổ não như thế”.

Lúc họ bị chìm và nói với nhau như vậy, các vị trời thật đều được điều phục, sinh tâm nhàm chán, không còn phóng dật và trở lại sống thuận theo pháp.

Khi ấy, thấy tâm chư Thiên thật đã được điều phục, để cho họ được lợi ích, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà tự ẩn thân mình chui vào đài sen cùng với chư Thiên đã được điều phục không phóng dật làm cho chư Thiên thật không thấy vua trời. Để tạo lợi ích cho chư Thiên, vua và các vị trời có tâm tốt nhất đều chui vào đài sen, ẩn mình trong đó quan sát chư Thiên và nghĩ: “Làm cách nào để điều phục chư Thiên làm cho họ xa lìa ngã mạn”.

Khi ấy, biết chư Thiên thật đã được điều phục, không còn ý nghĩ phóng dật, đều sinh lo sợ, đúng là lúc cần nói pháp để thức tỉnh họ, vua trời liền làm các phép biến hóa ở trên hoa sen trong ao làm cho họ lo sợ. Vị ấy hóa ra hoa sen có vô số cánh, bên trong chứa đầy các vị Hóa thiên bị rơi xuống ao lớn. Lúc bị rơi, họ phát ra tiếng kêu gào ghê rợn. Thiên chủ lại hóa ra tử thi của chư Thiên nằm ngổn ngang.

Vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà suy nghĩ: “Chư Thiên này rất sợ hãi nên có vị chạy sang chỗ khác, phải lập tức hóa hiện để họ quan sát hóa Thiên và dần dần tăng thêm tâm nhàm chán”.

Làm tất cả các việc hóa hiện xong, Thiên vương cùng Thiên chúng chui vào đài sen để quan sát tiếp. Khi đã quan sát hết với tâm rất từ bi, Thiên chủ ra khỏi đài sen để tạo lợi ích cho chư Thiên. Sau khi cùng chư Thiên ra khỏi đài sen, Thiên chủ liền thu thần lực, các việc biến hóa đều mất hết. Thiên chủ vỗ về chư Thiên và nói: “Nếu sống phóng dật thì chư Thiên sẽ phải chịu sự khổ não đó. Phóng dật là gốc của tất cả lo sợ, không phóng dật thì không lo sợ, không bị khổ não”.

Lúc này, vua trời Mâu-tu-lâu-đà nói kệ cho chư Thiên nghe:

Ngu si thích phóng dật
Thường chịu các khổ não
Người nào lìa phóng dật
Thì luôn được an lạc.
Tất cả các cây khổ
Phóng dật là gốc rễ
Vì vậy muốn hết khổ
Phải xả bỏ phóng dật.

Bấy giờ, thấy vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà, chư Thiên thật đều được an ổn, vui vẻ chạy lại và bảo nhau: “Ta đã gặp chủ. Vua trời Dạ-ma ngồi trên đài sen lớn được Thiên chúng vây quanh có thể cứu giúp ta, có thể che chở ta!”

Sau khi suy nghĩ, tính toán, tất cả đều chạy đến đài sen ở trên hoa sen lớn. Tòa sư tử của vua trời Mâu-tu-lâu-đà cùng màu với đài sen. Vua trời Dạ-ma cùng với chư Thiên sống trong đài hoa. Đến nơi rồi, chư Thiên bạch với Thiên vương: “Cái gì làm cho chư Thiên bị khổ não, bị rơi chìm trong nước, kêu gào như thế, cái gì có thể gây cho chư Thiên đủ loại khổ não như vậy?”

Vua trời Mâu-tu-lâu-đà bảo chư Thiên: “Tất cả chúng sinh đều phải chịu tai họa của việc phóng dật, việc đó chư Thiên các ông đều chưa biết”.

Lúc đó, vua trời Mâu-tu-lâu-đà nói kệ cho chư Thiên nghe:

Tất cả các chúng sinh
Đều không phá được nghiệp
Tất cả các hành nghiệp
Không ai có thể thắng.
Làm cho các thế gian
Tất cả đều hư hoại
Do có sức như vậy
Nên đó gọi là chết.
Nó phá hoại thế gian
Hủy hoại ấm, giới, nhập
Thần chết từ đời này
Cho đến đời vị lai.
Không sức gì chống giữ
Không ai có thể cứu
Chỉ chánh pháp cứu được
Nên pháp là cứu tinh.
Mạng mau chóng không dừng
Sắc đẹp cũng như vậy
Cái chết đến rất nhanh
Không nên sống phóng dật.
Thú vui của chúng sinh
Bị vô thường hủy hoại
Mạng bị thần chết diệt
Không nên ưa phóng dật.
Khi nghiệp lành đã hết
Rơi vào ba nẻo ác
Đã biết tai họa này
Không nên thích phóng dật.
Thế gian là vô thường
Đều có gai ba độc
Có sinh thì có tử
Không nên thích phóng dật.
Chết hủy hoại mạng sống
Già làm cho suy yếu
Bệnh phá sự an ổn
Không nên thích phóng dật.
Dây nghiệp trói chúng sinh
Tâm giống như cầu treo
Trôi lăn trong ba cõi
Không nên thích phóng dật.
Vui rồi sẽ chịu khổ
Khổ lại càng khổ thêm
Chồng cha làm vợ con
Không nên thích phóng dật.
Mẹ trở lại làm vợ
Vợ lại là kẻ thù
Cứ xoay vần như vậy
Không nên thích phóng dật.
Ở vườn cây hang núi
Các Thiên nữ vây quanh
Thế gian sẽ bị diệt
Không nên thích phóng dật.
Tất cả trời thọ lạc
Đều sẽ bị hủy hoại
Hư dối không thể tin
Không nên sống phóng dật.
Có sinh là có khổ
Là nhân khiến già chết
Chắc chắn sẽ phải chịu
Không nên thích phóng dật.
Các căn khó điều phục
Không ai điều phục được
Mọi thú vui đều hết
Không nên thích phóng dật.
Tuổi trẻ rồi sẽ già
Dục lạc như giấc mộng
Vì vậy người có trí
Không nên thích phóng dật.
Giống như là bẹ chuối
Như điện không dừng lâu
Tất cả đều hư hoại
Không nên thích phóng dật.
Các căn khó điều phục
Tham đắm các cảnh giới
Chỉ có người trí tuệ
Đứng vững nơi của mình.

Do chư Thiên đã sinh tâm nhàm chán, vua trời Mâu-tu-lâu-đà nói kệ tạo lợi ích cho họ rồi lại giảng cho họ nghe về tai họa của sự phóng dật:

–Này chư Thiên, vì sao các ông chìm đắm trong bóng tối phóng dật không thấy việc rất xấu xa, đáng sợ? Các ông đều thấy các vị trời do phóng dật nên đều bị tan rã chết hết, không ai cứu được. Các vị trời ấy có đầy đủ các thú vui hơn các ông, các thứ thân sắc, tướng mạo, giàu sang, ánh sáng, Thiên nữ, ca vịnh vui chơi đều thù thắng. Các ông vừa thấy do phóng dật nên các vị trời ấy đều bị tiêu diệt. Các ông nên tư duy xa lìa phóng dật. Trên thế gian, trong số tất cả rồng dữ nơi các loại ao, rồng ở ao phóng dật là dữ nhất. Trong các loại gió lửa dữ, lửa phóng dật với gió nhớ nghĩ là dữ nhất. Tất cả bóng tối tích tụ từ xưa đến nay, bóng tối phóng dật là mờ ám nhất. Trong tất cả kẻ giặc tìm cầu sự tiện lợi, giặc phóng dật cầu sự tiện lợi nơi cảnh giới là ác nhất. Trong tất cả đao bén, đao phóng dật là đao sát hại dữ nhất làm ta đọa vào đường ác. Trong tất cả rắn độc, rắn độc phóng dật, độc tham dục, chất độc có thể giết tất cả chúng sinh ngu si là độc địa nhất. Trong tất cả oan gia giả làm người thân, oan gia phóng dật là ác nhất. Trong tất cả gông cùm, xiềng xích, dây trói, xiềng xích phóng dật là chắc chắn nhất. Trong tất cả đồng trống không có nước, cây cối, trái cây, bóng mát, vô số chúng sinh gặp khổ sở ở trong đó, đồng trống phóng dật là ác nhất vì nó xa lìa nước vui vẻ, cây thiện nhân và bóng mát giữ giới, làm cho tất cả chúng sinh ở thế gian chịu vô lượng khổ não. Trong tất cả cái thấy hư dối, không thật như là bánh xe lửa xoay tròn, thành Càn-thát-bà, dợn nắng khiến nai theo, hư dối phóng dật là giả dối nhất. Trong cảnh giới thường thay đổi không có lúc dừng, không thật có, chỉ được thấy một cách hư vọng như bánh xe lửa xoay, thành Càn-thát-bà, dợn nắng khiến nai theo thì phóng dật là thứ hư dối không thật bậc nhất. Trong tất cả bờ hiểm, bờ hiểm phóng dật là đáng sợ nhất vì nó khiến ta đọa vào đường ác. Thiên chúng các ông phải biết: Do phóng dật, chúng sinh bị ràng buộc trong năm đường, do gây nghiệp ác, chúng sinh trong ba cõi bị đọa vào đường ác. Vì vậy tất cả những người sợ khổ não phải nên siêng năng xả bỏ phóng dật. Phóng dật là gốc của tất cả khổ.

Khi ấy, vua trời Mâu-tu-lâu-đà nói kệ cho chư Thiên nghe:

Không phóng dật được thoát
Phóng dật thường chịu khổ
Phóng dật không phóng dật
Đã lược nói tướng ấy.

Vua trời Mâu-tu-lâu-đà điều phục chư Thiên, dạy chánh đạo cho họ. Chư Thiên hết lòng ghi nhận. Do tâm được điều phục nên các căn cũng được thu phục và vắng lặng.

Lúc này, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà ngồi ở tòa sư tử trên đài sen. Chư Thiên bạch vua trời:

–Xin Thiên vương dạy chúng con pháp lợi ích, an lạc rốt ráo.

Chúng con phải làm sao để được lợi ích và an lạc rốt ráo?

Vua trời bảo chư Thiên:

–Có Đức Phật, bậc thầy giải thoát đầy đủ nhất thiết trí, đã thoát khỏi tất cả tai họa, đầy đủ tất cả công đức, là bậc thù thắng nhất trong chúng sinh, nếu quy y Phật, thì sự khổ não của các người có thể được đoạn trừ. Các người nên quy y vị Phật không phóng dật đó để có thể cứu vớt vô số nỗi sợ về sinh tử của các người.

Nghe Thiên vương dạy, tất cả chư Thiên và Thiên nữ đều quỳ xuống, sinh lòng kính trọng, thâu giữ các căn, kính cẩn chấp tay đảnh lễ, thọ ba quy y. Tất cả chư Thiên thành thật quy y Phật, Pháp, Tăng, quở trách sự phóng dật với tâm hoàn toàn thanh tịnh và thành tâm sám hối vì họ thấy hóa Thiên chịu vô lượng loại khổ não, hoại diệt, chịu vô số nỗi khổ không thể chịu đựng.

Thấy chư Thiên sinh tâm nhàm chán, vua trời Mâu-tu-lâu-đà lại hóa hiện vô lượng thần thông, trong chốc lát có thể biến một thân thành ngàn thân, trong ngàn thân hiện thành trăm ngàn thân, từ một hình tướng hiện ra vô số hình tướng, bay lên hư không, có đủ loại châu báu và y phục trang điểm thân, trong chốc lát lặn xuống nước hiện một ngàn đầu, đội đủ loại mão báu, có đủ loại ấn báu trang điểm cánh tay, ánh sáng nơi thân ấy hơn cả ngàn mặt trời, trong chốc lát hóa làm núi lớn có đủ vườn cây và được chư Thiên vây quanh trong vườn cây. Chư Thiên đều thấy việc ấy. Lại thấy ở trong hoa sen lớn có vô số Thiên nữ vây quanh. Thân các Thiên nữ này phát ra ánh sáng. Khi ấy chư Thiên thật đều không thể quan sát thân Thiên vương và các Thiên nữ.

Vua trời Mâu-tu-lâu-đà lại hiện thần thông để làm chư Thiên lìa bỏ phóng dật. Từ trong miệng Thiên chủ hiện ra trăm ngàn chư Thiên, có người ngồi trên cung điện bảy báu, thân phát ra ánh sáng của đủ loại châu báu, mặc đủ loại y phục, được các Thiên nữ xinh đẹp vây quanh ca vịnh âm nhạc cõi trời. Tất cả đều từ miệng vua trời Mâu-tu-lâu-đà đi ra. Hoặc có vị ngồi trong đài sen, ca hát như bầy ong. Họ uống rượu trời có hương vị thích hợp cùng với trăm ngàn Thiên nữ được trang điểm bằng áo và vòng hoa cõi trời, thân phát ra ánh sáng. Tất cả đều từ miệng vua trời đi ra.

Khi ấy, vua trời Mâu-tu-lâu-đà lại hiện thần thông, từ trong miệng hóa ra hoặc là chư Thiên cỡi chim bảy báu, vui chơi ca vịnh năm loại âm nhạc, cùng các Thiên nữ vui chơi thọ lạc, chư Thiên ấy xinh đẹp không gì sánh kịp, có đầy đủ ánh sáng và công đức.

Vua trời Mâu-tu-lâu-đà dùng thần lực, từ trong miệng mình có chư Thiên vọt ra ngồi trong hoa sen, tấu nhạc trời, phát ra âm thanh vi diệu, được các Thiên nữ vây quanh, họ uống rượu trời, vui chơi ca hát với các Thiên nữ, họ được trăm ngàn hoặc trăm ngàn ức Thiên nữ có sắc đẹp không thể ví dụ vây quanh, vui chơi đủ cách, ở trong vườn trời hoặc đi trên không như đi dưới đất, cất tiếng ca hát hơn chư Thiên thật cả trăm lần, tiếng ca sắc đẹp và thú vui của họ đều đầy đủ các loại công đức. Được nghe thấy sự việc hiếm có chưa từng thấy đó, các vị trời thật đều sinh tâm thán phục, vui mừng, hoặc có vị nghi ngờ nghĩ rằng: “Vì sao có vị trời này lại từ trong miệng vua trời mà ra, thật là hiếm có”, chư Thiên suy nghĩ và bàn luận với nhau về việc ấy nhưng không tìm được nguyên do.

Bấy giờ, vua trời Mâu-tu-lâu-đà lại hiện thần thông, từ trong miệng hóa ra các vị trời có đủ loại hình dáng hoặc tóc dài, hoặc búi tóc, hoặc mặc áo bằng vỏ cây tay cầm bình nước, hoặc mặc thiên y trang sức bằng vòng hoa, hoặc mặc áo bằng da nai màu đen, có trăm ngàn vị Tiên đủ loại tướng mạo, màu sắc, từ trong miệng Thiên vương đi ra, đứng yên trên hư không và nói kệ:

Tâm tất cả chúng sinh
Như pháp huyễn không dừng
Tất cả đều sẽ chết
Chớ có sống buông lung.
Gặp các thứ đáng ưa
Tham ái càng tăng trưởng
Rốt cuộc bị hủy hoại
Chớ có sống phóng dật.
Trong các cõi không có
Nơi sinh mà không diệt
Thú vui đều đáng sợ
Chớ có sống buông lung.
Trong những thứ ta thấy
Là năm dục đáng ưa
Tất cả đều như mộng
Chớ có sống phóng dật.
Tham ái khó chế ngự
Thường bị chúng sinh ghét
Mau chóng vào địa ngục
Chớ có sống phóng dật.
Tuy thường hưởng dục lạc
Được rồi nhưng lại mất
Rốt cuộc đều hoại diệt
Chớ có sống phóng dật.
Đầu, giữa, cuối không tốt
Hay hủy hoại thế gian
Bị vòng nghiệp trói buộc
Giống như cá mắc câu.
Tuy dùng đủ phương tiện
Muốn chặt đứt vòng nghiệp
Trời và các loài khác
Đều không thể chặt được.
Xích sinh tử rất dài
Không thể thấy đầu đuôi
Tham ái này rất chắc
Trói buộc kẻ ngu si.
Ta và chư Thiên khác
Người hoặc A-tu-la
Tất cả đều vô thường
Ngu, mù không thấy được.
Thân nghiệp biến khắp nơi
Thường trôi lăn các cõi
Mọi tham ái trói tâm
Chỉ trí tuệ chặt đứt.
Từ vũng nước tham ái
Sinh nơi năm bó đuốc
Do sức gió quan sát
Bị thời gian thiêu đốt.
Ngu si không trí tuệ
Tìm vui trong tham khổ
Do mê nên điên đảo
Trôi lăn trong năm đường.
Thích thú vợ và con
Với đủ loại thú vui
Năm thú vui giả dối
Bị thần chết dắt đi.
Như hổ, sói giết nai
Không một chút mệt nhọc
Uy lực của thần chết
Giết hại cũng như vậy.
Ở trong các cảnh giới
Có nhiều loại khổ não
Bị ngu si mê hoặc
Nên tâm không biết mệt.
Người nào làm điều ác
Là người không yêu thân
Đã không tự yêu thân
Làm sao yêu thế gian.

Từ trong miệng, vua trời Mâu-tu-lâu-đà hóa ra chư Thiên nói kệ đó để trừ bỏ phóng dật cho các vị trời thật làm cho họ được lợi ích rốt ráo.

Khi ấy, vua trời Mâu-tu-lâu-đà lại biến hóa thần thông để tạo lợi ích, từ trong ngực vọt ra ao sen lớn rất đáng ưa. Ao có nhiều ngỗng, vịt, uyên ương tô điểm, có tám công đức trong sạch bậc nhất, ao sen có trăm ngàn ức hoa sen bảy báu che bên trên, hương thơm lan khắp một trăm do-tuần. Vua trời ngồi trên đài hoa, có đủ loại châu báu trang điểm cho mão trời, đủ loại ánh sáng, đủ loại y báu trang điểm trên thân, đủ loại ấn báu trang điểm cánh tay, được nhiều Thiên nữ vây quanh. Vua ngồi trên tòa sư tử, các Thiên nữ cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên, lại có người ca ngợi vua bằng những lời hết sức tốt đẹp giống như chư Thiên ca ngợi Đế Thích, vị vua cõi trời thứ hai. Có trăm ngàn hóa vương như vậy. Do thương xót, muốn làm lợi ích cho họ, muốn tất cả chư Thiên thật xa lìa phóng dật, nên vua trời Dạ-ma hóa làm Đế Thích, Chuyển luân thánh vương và vô số các vua khác.

Bấy giờ, vua trời Mâu-tu-lâu-đà lại thị hiện biến hóa để tạo lợi ích cho chư Thiên, từ trong rốn mọc ra bông sen lớn rộng một trăm do-tuần, gồm trăm ngàn ức cánh hoa sen bằng bảy báu, có đủ loại cánh báu, nhiều con ong cất tiếng ca vịnh làm vui tai người nghe, trông rất yêu thích, thân của hoa sen được hóa ra từ rốn của vua trời dài năm ngàn do-tuần, được làm bằng Tỳ-lưu-ly xen lẫn với kim cang và châu báu nhân-đà xanh, có màu bảy sắc cầu vồng rất đáng ưa thích. Bên trong hoa sen lớn có các hóa nhân thân được trang điểm bằng đủ loại y phục. Họ hưởng thú vui bậc nhất, cầm cày cày đất và nói kệ:

Tất cả người cày đất
Đều mong thu hoạch quả
Do ngu si ham lợi
Không nhìn thấy thần chết.
Người ngu si ham lợi
Niệm niệm thường tăng trưởng
Mà không biết các hành
Niệm niệm sẽ diệt hết.
Lúc già nua ập đến
Tuổi trẻ sẽ lụi tàn
Nếu bệnh khổ tới nơi
Sẽ mất hết an ổn.
Ba loại hình phạt này
Thường hủy hoại chúng sinh
Việc đó đến rất mau
Người ngu không hay biết.
Trời, rồng, A-tu-la
Càn-thát, Khẩn-na-la
La-sát, Tỳ-xá-xà
Đều bị nạn già chết.
Làm cho người tham ái
Lìa bỏ người thân thích
Ngu, ái trói buộc nhau
Trôi lăn trong các cõi.
Các cháu và chắt chít
Các dòng giống như vậy
Ai bị tham ái lừa
Sẽ đánh mất tất cả.

Để làm lợi ích người khác, các vị hóa nhân đã nói kệ đó. Nghe kệ xong, chư Thiên thật suy tư và không còn ưa thích cảnh giới. Để tạo lợi ích cho chư Thiên, vua trời Mâu-tu-lâu-đà lại hóa hiện ra trời Càn-thát-bà, Người, Rồng, A-tu-la gồm đủ loại vẻ đẹp, đủ loại dung mạo, đủ loại mão báu vô số màu sắc, vô số hình dáng, vô số loại tướng, tất cả đều từ lỗ chân lông của vua trời đi ra. Mỗi vị đều có màu sắc hình dáng của riêng mình. Họ cùng các Thiên nữ ca múa vui đùa, say mê thọ lạc. Vua trời thọ hưởng hoan lạc cũng vui vẻ giống như người. Họ ưa thích lẫn nhau, ca múa vui đùa với nhau. Lại có các rồng trang điểm đủ cách hoặc có một đầu, hoặc có hai đầu, cho đến bảy đầu gồm đủ loại màu sắc và hình tướng, đầu đội mão bằng châu báu xinh đẹp. Chúng ca vịnh, vui chơi với tâm vui vẻ và say mê thọ hưởng hoan lạc. La-hầu-la, A-tu-la đều được hóa ra như vậy. Lại hóa ra lạc thú của vua trời Đế Thích, lạc thú ấy kém hơn trời Dạ-ma. Đế Thích có các Thiên nữ vây quanh cúng dường, trổi năm thứ âm nhạc nghe thật hay. Vua A-tu-la đứng trong cung điện hiện ra từ thân vua trời Mâu-tu-lâu-đà, hưởng lạc thú bậc nhất.

Thiên vương lại hóa hiện người cõi Uất-đan-việt đứng trên đám mây ở mười ngọn núi lớn vui sướng tự tại, hạ xuống vườn cây, ao hoa của trời Tam thập tam thứ hai, ở nơi có nhiều con sông ăn uống. Họ vui chơi ca múa, thọ lạc đủ cách. Tất cả đều từ trong thân vua trời Mâu-tu-lâu-đà hiện ra.

Vua trời Mâu-tu-lâu-đà lại hóa ra người cõi Cù-đà-ni thọ hưởng thú vui của mình, đi chơi vui vẻ giống như vậy. Khi ấy, chư Thiên thật thấy trời Dạ-ma thực hiện thần thông bậc nhất gồm vô lượng loại khác nhau để trừ bỏ phóng dật cho chư Thiên và đạt được lợi ích lớn nhất. Thiên chủ đã hóa hiện như vậy rất là hữu ích, làm cho các vị Thiên phóng dật thấy được vô thường, tâm tánh trở nên mềm dẻo. Thiên chủ đã hóa hiện đầy đủ mọi thứ, trước tiên chỉ ra mùi vị của dục lạc, sau đó nêu ra tai họa của nó khiến họ chán nản dục lạc. Do nhân duyên ấy, vua trời Dạ-ma đã vì các vị trời thật hóa hiện ra mùi vị của dục, hưởng đủ loại thú vui, ca múa vui chơi, y phục xinh đẹp, được các Thiên nữ gần gũi cúng dường đồ ăn thức uống, năm căn thọ lạc, có đầy đủ mọi thứ như ước muốn. Đó là mùi vị của dục lạc.

Còn tai họa của dục lạc là: Nếu được dục lạc rồi, tâm sinh ưa thích nhưng cầu mong không được vì nó đã thuộc về người khác chớ không phải chỉ thuộc về mình.

Ái biệt ly khổ gồm đủ loại khổ như bị người mạnh cướp đoạt. Có năm thứ sức mạnh cướp đoạt là vua, giặc, nước, lửa, oan gia.

Lại có nỗi khổ khác là thường bị kẻ thù cướp, thường sợ người khác đoạt nên lo sợ giữ gìn, sinh tâm buồn rầu, cả đời tham vui khiến thân tâm thường chịu khổ. Tai họa của tham dục là dẫn ta đến chỗ chết. Có vô số loại khổ não. Người ngu si không nhàm chán các khổ não là tai họa do tham dục gây ra.

Lại có tai họa của tham dục là nó làm mẹ con xích mích, cãi cọ, không ở chung chỗ, tất cả việc đó đều do tham dục gây ra. Hoặc là anh em tranh cãi, thù ghét lẫn nhau, hoặc chém hoặc trói nhau, tất cả đều là tai họa do tham dục gây ra. Hoặc vua tranh giành đất nước công phạt lẫn nhau, đánh trói giết hại nhau, gây nên các nỗi khổ, tất cả đều là tai họa do tham dục gây ra. Vì vậy nên biết do tham dục trói buộc nên tất cả chúng sinh phải ở trong vòng luân hồi sinh tử.

Để làm lợi ích cho chư Thiên, vua trời Mâu-tu-lâu-đà hóa ra tai họa của tham dục đối với vô số người khác nhau như vậy. Do tham dục mà vua chúa cũng như người khác đi vào trong biển hoặc đánh nhau, hoặc bị trói buộc, buồn rầu khổ não, sợ hãi, làm việc không lợi ích. Tất cả đều do tham dục gây ra. Do tai họa của tham dục, tất cả mọi người đều không được yên ổn.

Tham dục gây cho chư Thiên tai họa gì? Đó là do tham dục mà chư Thiên đánh nhau quyết liệt với A-tu-la, hoặc A-tu-la đánh nhau với chư Thiên. Tai họa của tham dục là như thế. Do nhân duyên ấy, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà đã hóa hiện như vậy để trừ phóng dật cho các vị trời thật.

Nếu rồng gây chiến với rồng thì đất nước bị hư hao vì sấm sét và mưa đá. Tất cả đều do tham dục gây ra. Nếu các súc sinh cắn xé nhau thì sẽ bị bắt trói hoặc bị giết. Tất cả đều là tai họa do tham dục gây ra. Hoặc là quỷ thần vì tranh ăn hoặc tham dục dùng dao chặt chém đánh đập nhau. Tất cả đều do tham dục và là tai họa của tham dục. Do nhân duyên đó vua trời Dạ-ma hóa hiện như vậy để trừ bỏ phóng dật cho các vị trời thật.

Chúng sinh ở trong địa ngục bị thiêu đốt, đánh đập, giết hại lẫn nhau, chịu các khổ não là do lúc làm người vì tham dục mà gây ra nghiệp ác, tranh giật ganh ghét, hoặc do nhớ đến nữ sắc nên ganh ghét nhau. Do nghiệp ác đó họ bị đọa vào địa ngục, thân thể bị tan nát. Địa ngục ấy là do tai họa của tham dục. Do nguyên nhân đó vua trời Dạ-ma hóa hiện để làm chư Thiên xả bỏ phóng dật, hiện ra tai họa của tham dục ở cả năm đường để họ nhàm chán sinh tử. Thiên chủ đã thị hiện các mùi vị của dục lạc ở trong loài người đều tiêu tan hết, kế đó, lại thị hiện tai họa của tham dục đối với chư Thiên bằng cách hóa ra hoa sen trăm cánh bị rơi rụng tan nát, rồi thị hiện rộng ra về tai họa của hàng trời, người. Sau đó Thiên chủ lại thị hiện hạt giống giải thoát để làm chư Thiên được lợi ích an lạc.

Để tạo lợi ích cho chư Thiên, vua trời Dạ-ma lại nêu ra tai họa của tham dục để họ nghe tai họa khác nhau của tham dục mà nhàm chán sinh tử. Đó là lý do mà vua trời nêu lên tai họa của tham dục. Sau khi nêu ra vị ngọt của dục đối với trời, rồng, A-tu-la, Thiên chủ lại trình bày về tai họa của tham dục. Đó là lúc thoái đọa sẽ chịu các việc khổ não. Trời, người, rồng, A-tu-la sau khi đã hưởng vô số dục lạc sẽ bị thoái đọa và chịu những khổ não tương ưng với nghiệp như là ở núi cao bờ hiểm có vô số sư tử, hổ, báo, chồn, heo, thỏ, lừa, voi, ngựa, lạc đà, mèo, trâu, cá thất-thâu-ma-la, cá ma-già-la, dòng họ rùa, ba ba, hoặc có một đầu, miệng ngậm đất, tay mang lửa, hoặc khói lửa, phun ra khắp thân, hoặc có mưa, lửa, hoặc có mưa đá cứng như kim cương ở khắp nơi, tiếng gầm thét của các thú dữ nghe thật khủng khiếp giống một trăm ngọn núi sụp lở cùng một lúc, có vô số loại thú thân màu đen sẫm, đầu như núi lớn, sắc tướng đáng sợ, lông tóc dựng đứng, lửa phát khắp thân, chúng có một trăm hoặc một ngàn cánh tay trên tay cầm lưới, dao, gậy hoặc kim cương khiến mọi người rất sợ, khắp hang núi đều có những loại như vậy. Chúng từ trong núi chạy về phía các vị Hóa thiên trợn mắt giận dữ, mắt đỏ như máu, miệng phun ra lửa, có vô số màu như là màu vàng, đỏ, tím giống ánh chớp xẹt loạn xạ trong mây đen.

Vua trời lại hóa ra thần chết Diêm-la, tướng mạo đáng sợ chạy về phía hóa Thiên, tay cầm sợi dây đỏ và gậy gộc, đầu gậy phát lửa. Chúng gầm vang như sấm, thân rực cháy khắp mười do-tuần. Diêmla có một trăm mắt hoặc bốn trăm mắt cho đến một ngàn mắt, mắt phát lửa đủ màu như xanh, vàng, đỏ, trắng, bốc cao đến mười dặm. Chúng mang đủ tướng mạo, hôi hám đáng ghét, làm tất cả chúng sinh sợ hãi, từ trong ngọn hóa sơn gào thét, đi ra, bụng xệ xuống, hông như hang núi, đầu như ngọn núi, hoặc rụt cổ xuống hai vai, hoặc tóc dài và dựng ngược, lửa từ cổ họng phun ra, hoặc có móng dài xẹt ra lửa dữ, hoặc lông và toàn thân bốc lửa như thiêu núi lớn, chúng từ hóa sơn đi ra và phóng mưa đá cứng như kim cương.

Lại có thần chết Diêm-la đầu như đầu quạ, chim thứu, diều hâu, mặt giống chồn, cáo, chó, lạc đà, toàn thân phát lửa và có nhiều trùng dữ đe dọa chư Thiên. Chúng từ ngọn hóa sơn đi ra, chạy mau như gió về phía hóa Thiên, cuốn theo mây đen, chớp xẹt chói lòa.

Khi ấy, thần chết Diêm-la đến gần hóa Thiên, dùng dây sắt phát lửa trói ngược cánh tay rồi kéo đi. Thấy các vị Hóa thiên rất sợ hãi, bỏ chạy tán loạn. Thần chết liền đuổi theo bắt bỏ lên đầu rồi vọt lên không đi mất. Họ cất tiếng gầm thét rất đáng sợ.

Hoặc có Diêm-la bắt được hóa Thiên dùng dây sắt phát lửa buộc vào cổ chui xuống đất đi mất. Lại có thần chết Diêm-la bắt hóa Thiên khác ném vào trong nước và cất tiếng kêu gọi, răn dạy các vị Hóa thiên. Thân họ không chìm, đứng ở trên mặt nước nói kệ cho các vị Hóa thiên nghe:

Tâm ngu si kiêu mạn
Bị phóng dật sai khiến
Thời vui đã qua rồi
Nay sắp chịu chết khổ.
Vô số rừng cảnh giới
Đầy ác độc trong đó
Rằng ái rất rộng lớn
Muốn việc lành nên bỏ.
Không tạo các nghiệp lành
Thường ngu si phóng dật
Giờ chết đã đến rồi
Còn làm gì được nữa.
Chìm ở trong nước ái
Không thể vượt các khổ
Do chìm trong sinh tử
Vĩnh viễn không an lạc.
Mọi thứ hễ có sinh
Chết thường đi theo sau
Vì sao người ngu si
Lại thích sống phóng dật.
Tuy biết không thể ngăn
Thường có thế lực lớn
Là quân chết rất mạnh
Thế gian không hay biết.
Chẳng phải sức chiến đấu
Không cách nào lìa bỏ
Chúng sinh do phóng dật
Không biết giặc chết đến.
Thần chết có hai loại
Đi khắp ở thế gian
Là lão bệnh khổ não
Ngu si không hay biết.

Thần chết Diêm-la nói kệ này quở trách chư Thiên đến trăm ngàn lần và làm tăng thêm các khổ não. Sau khi thấy các việc khổ não, chư Thiên thật lìa bỏ tất cả tâm phóng dật, thọ ba quy y.

Biết chư Thiên đã được điều phục rồi, vua trời Dạ-ma lại thị hiện biến hóa để chư Thiên thật sinh tâm nhàm chán. Các vị hóa vương đội mũ đầy đủ tất cả dục lạc. Họ từ trong thân vua trời Mâutu-lâu-đà đi ra và được Thiên nữ đi theo cúng dường. Như đã nói ở trước, sắc đẹp đầy đủ lại bị già yếu hủy hoại nên tóc bạc, mặt nhăn, gân máu hiện khắp thân, đi phải chống gậy, gầy ốm tiều tụy, không làm được công việc gì, đi phải tựa vào người khác, bị những người ngu khinh chê giễu cợt, buồn bã thở hơi lên, các căn rã rời, không còn sức lực, bị người khinh rẻ, đi thường bị ngã, giờ chết sắp đến, đi sát người khác, thân rất gầy ốm, phải nhờ người cõng, dung mạo xấu xí, trong thời gian không lâu, thân phát ra đủ thứ bệnh như bệnh nóng, kiết lỵ, ho hen, sưng phù, ung thư, ghẻ chóc, ban sởi, gần chết thân rất dơ bẩn. Đó là những bệnh dữ không thể trị liệu, tướng chết đã hiện. Vua ấy mắc đủ các thứ bệnh như vậy, chịu khổ não dữ dội sau đó mới chết, sau khi chết, thân sình trướng hôi thối, có vô số loại trùng.

Khi ấy, chư Thiên thấy tử thi này, lại có các loại chim dữ tham ăn như diều hâu, chim thứu từ núi bay lại mổ ăn các xác chết, có con cắp xác chết bay lên không. Thấy việc ấy, chư Thiên nhàm chán dục lạc và giữ tâm chánh niệm.

Để tạo lợi ích cho chư Thiên vua trời lại hiện thần thông hóa ra La-hầu, A-tu-la vương, tất cả vua A-tu-la mạnh mẽ đều từ dưới nước biển lên đến trời Dạ-ma, đứng ở một phía cách vua trời không xa, lớn tiếng thở than rồi rơi xuống đất chết ngay lập tức như gỗ đá không động đậy, không hay biết. Thấy việc đó, các vua A-tu-la và thể nữ rất khổ não, vây quanh kêu gào than khóc. Lúc họ than khóc, có các con chim bay đến, gắp các xác chết giống như gắp gỗ đá. Than khóc xong, tất cả A-tu-la nữ đều chết và bị diều hâu, chim thứu, quạ, chim cắt đua nhau đến gắp bay vọt mất không còn thấy nữa. Để làm lợi ích cho chư Thiên, vua trời Dạ-ma đã hóa ra việc than khóc bi thảm như vậy.

Lúc này, vua trời Dạ-ma lại hóa ra rồng chúa và thị hiện sự vô thường. Có rồng chúa bị cát nóng thiêu như than Khư-đà-la thiêu cháy cỏ khô. Có rồng chúa được rồng cái vây quanh bị chim cánh vàng tóm lấy mang đi làm các rồng cái kêu la thất thanh, có rồng chúa bị cưa ra nhiều khúc kêu la thảm thiết. Vì thù hận, chúng chặt chém làm hại nhau. Các rồng ấy đã bị thần chết dắt đi.

Sau khi thấy việc ấy chư Thiên rất nhàm chán.

Vua trời Dạ-ma lại hóa ra vô số người cõi Phất-bà-đề và người cõi Cù-đà-ni gồm cả nam lẫn nữ đều bị khổ não. Trong phút chốc họ đều trở nên già yếu rồi đều chết. Sau khi chết, thân nằm dài trên đất và sinh nhiều trùng rất là gớm ghiếc.

Thấy vô số tai họa ghê gớm khác nhau và nỗi khổ sinh tử, chư Thiên đều sinh nhàm chán nói với nhau: “Các chúng sinh này hoặc bị khổ mà chết, hoặc già bệnh mà chết, rốt cuộc không biết đến nơi đâu và được ai dắt đi, tất cả của cải đều vô thường, tất cả thú vui đều có lẫn tai họa, là pháp vô thường hư hoại không thể tin cậy, tất cả các pháp đều bị hủy hoại không có chút vui”. Sau khi bàn luận xong các vị trời thật đều sinh tâm nhàm chán.

Khi ấy, biết chư Thiên đã sinh tâm nhàm chán, vua trời Dạma lại hóa ra bậc trượng phu tự tại lìa kiêu mạn, chắc chắn được sinh lên trời. Đó là người cõi Uất-đan-việt. Họ hưởng thú vui bậc nhất nên phước trời giảm dần. Vua trời lại hóa ra thân già bệnh chết. Sau khi chết, có vô số trùng rúc ăn tử thi làm ai trông thấy đều sinh tâm nhàm chán như thấy đống phân. Để đánh thức chư Thiên đang phóng dật, vua trời Dạ-ma đã hóa ra người cõi Uấtđan-việt như vậy.

Vua trời lại hóa hiện cho chư Thiên thấy thân trung ấm và những việc liên quan với nó. Giống như chúng sinh sau khi chết, do nghiệp lực nên sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, hoặc trời, vua trời hóa ra thân trung ấm để chư Thiên đều thấy vô số nghiệp của tâm hành, do nhân duyên nên gây ra vô lượng sinh tử trong năm đường. Để chư Thiên thật sinh tâm nhàm chán, ở trong ao lớn vua trời đã hóa hiện những việc không thể nghĩ bàn, không gì sánh được, làm cho chư Thiên thấy đủ các loại chúng sinh ở năm cõi ngay trong ao nước. Do nghiệp lực phiền não, họ bị trôi lăn từ đường này sang đường khác, hết sinh rồi chết không ai cứu giúp, không nơi nương tựa, không có bạn bè, trôi lăn các cõi, luân hồi ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người và trời. Thiên chủ làm cho chư Thiên thật thấy thân trung ấm phải sinh đủ chỗ làm họ hết sức sợ hãi, nhàm chán. Chư Thiên lại được thấy thân trung ấm của các vị Thiên ở cõi trời Dạ-ma, do hết nghiệp họ bị thoái đọa, bị lửa hối hận thiêu đốt, họ phóng dật nên thân trời bị diệt sinh vào thân trung ấm, đầu chúc xuống, chân chổng lên như dấu ấn trung ấm, do nghiệp ác nên sinh vào địa ngục. Do thấy nghiệp sinh tử, chư Thiên rất sợ hãi nói với nhau: “Nghiệp nhân này đùa cợt chư Thiên ở trời Dạ-ma thật đáng sợ”.

Thấy việc này, chư Thiên thật đều sinh tâm nhàm chán. Đó là họ chỉ thấy trung ấm địa ngục chứ chưa thấy sinh ấm.

Vì sao Mâu-tu-lâu-đà không thị hiện sinh ấm?

Tâm chư Thiên quá mềm yếu không thể chịu đựng, nếu thấy sinh ấm thì sẽ chịu nỗi khổ không thể ví dụ và liền bị chết. Vì vậy, Thiên chủ chỉ cho chư Thiên thật quan sát chư Thiên ở trời Dạ-ma thoái đọa sắp vào thân trung ấm ở địa ngục.

Vua trời Dạ-ma lại dùng thần lực hiếm có hóa hiện ra trung ấm để cho chư Thiên trời Dạ-ma thấy tai họa của việc phóng dật. Do hết nghiệp, họ sắp đọa làm ngạ quỷ chân ở phía trên, đầu lộn xuống đất giống như dấu ấn, bị dây nghiệp lôi, lãnh quả báo theo nghiệp đã tạo. Chư Thiên thật lại thấy trung ấm thứ nhì và thứ ba, thấy trung ấm được hóa hiện giống như chư Thiên trời Dạ-ma bị phóng dật làm hại, nghiệp hết bị thoái đọa, bị nghiệp ác trói buộc, sắp đọa làm súc sinh, chân ở trên, đầu ở dưới, trung ấm này như dấu ấn dẫn chư Thiên sinh vào súc sinh. Có vô số loại trung ấm. Đó là tướng trung ấm của đường thứ ba. Thấy việc đó chư Thiên rất nhàm chán kinh sợ, cùng nhau quan sát rồi nói kệ:

Nhỏ nhiệm khó hiểu biết
Đi hết thảy mọi nơi
Nghiệp này khiến chúng sinh
Trôi lăn trong các nẻo.
Người nào khinh Hiền thánh
Thích làm việc tà kiến
Không tin vào nghiệp quả
Chết sẽ vào địa ngục.
Người nào ôm lòng ác
Dùng pháp lừa dối người
Còn sống bị người ghét
Khi chết vào địa ngục.
Ai say đắm dục lạc
Thường gây tạo nghiệp ác
Bị dục lạc lừa dối
Chết sẽ vào địa ngục.
Nếu được vui rốt ráo
Đó mới là an ổn
Vui mà chịu quả khổ
Đó chẳng phải là vui.
Các vị Thiên phóng dật
Thoái đọa khỏi cõi trời
Ai có đầy đủ pháp
Được bậc trí khen ngợi.
Vui chơi trong vườn cây
Thích ngắm các Thiên nữ
Không biết chán cảnh dục
Do đó bị thoái đọa.
Do thú vui tăng lên
Khát ái càng tăng thêm
Bậc trí tuệ dạy rằng
Dứt ái là tốt nhất.
Ta thấy thân trung ấm
Trở nên rất nhàm chán
Ai sẽ cứu giúp ta
Làm cho ta giải thoát.

Thấy đủ loại trung ấm, chư Thiên sinh tâm nhàm chán. Biết tâm chư Thiên đã được điều phục, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà dẹp bỏ hóa Thiên và hiện nguyên hình lặng lẽ trang nghiêm. Thấy Thiên chủ, chư Thiên trở nên an ổn, đến nhiễu quanh rồi đứng về một phía, sinh tâm kính trọng, hết sức vui mừng nghĩ rằng: “Ta đã gặp chủ”.

Sau khi thấy vô số việc dữ, các vị Thiên thật đều sinh tâm nhàm chán.

Khi ấy, vua trời Dạ-ma bảo Thiên chúng:

–Vì sao hôm nay các ông không ca múa, vui chơi ở vườn cây, ao hoa và các ngọn núi châu báu xinh đẹp?

Thiên vương quan sát xem Thiên chúng đã nhàm chán hay chưa?

Nghe vua trời hỏi, chư Thiên bạch:

–Ở vườn cây và ngọn núi bảy báu nào có thú vui, chúng con đều thấy vô lượng sinh tử và khổ não khác nhau, chính mắt chúng con thấy tất cả dục lạc đều vô thường và đưa đến khổ đau. Dục lạc thật là vô thường, không bao lâu sẽ hư hoại, không chắc chắn, chẳng có gì vui.

Nghe chư Thiên nói, vua trời Dạ-ma bảo họ:

–Các ông nên biết, tất cả dục lạc đều đưa đến khổ đau.

Chư Thiên bạch với Thiên vương:

–Chúng con đã hiểu dục lạc là nguồn khổ lớn.

Vua trời Dạ-ma bảo chư Thiên:

–Ta có thể chỉ bày rõ về vô lượng khổ não của tất cả sinh tử. Nay ta sẽ nói một phần nhỏ cho các ông nghe để trong ngàn ức kiếp các ông không còn phóng dật và thường làm việc lành nơi hai đường trời, người. Ai bỏ được phóng dật là người có trí tuệ. Nếu duyên phóng dật đến ta phải tránh xa nó. Ai không bị phóng dật sai khiến thì không bị đọa nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Thiên chủ lại bảo chư Thiên:

–Hôm nay ta sẽ nói cho các vị nghe về ba đường ác và hai đường lành. Hai đường lành là trời và người. Ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ta có thể chỉ bày sự khổ lớn trong năm đường nhưng chỉ nói tóm lược.

Ở trong cõi trời, người có mười sáu loại khổ là:

  1. Khổ trung ấm.
  2. Khổ ở trong thai.
  3. Khổ khi ra khỏi thai.
  4. Khổ vì tìm kiếm thức ăn.
  5. Khổ vì phải gặp kẻ oán ghét.
  6. Khổ vì xa người mình thương.
  7. Khổ vì lạnh nóng.
  8. Khổ vì bệnh.
  9. Khổ bị người sai khiến.
  10. Khổ vì tìm kiếm việc làm.
  11. Khổ vì gần bạn ác.
  12. Khổ vì vợ con họ hàng bệnh hoạn, khổ não.
  13. Khổ vì đói khát.
  14. Khổ bị người khinh chê.
  15. Khổ vì già.
  16. Khổ khi chết.

Mười sáu nỗi khổ đó là nỗi khổ lớn của con người ở thế gian từ lúc sinh ra cho đến khi chết. Ngoài ra còn có nhiều nỗi khổ khác là ở trong đường sinh tử không thể chịu đựng, các pháp hữu vi không có một chút vui, mọi thứ đều vô thường, đều bị hư hoại, diệt vong.

Đầu tiên, nói về những nỗi khổ mà thần thức phải chịu khi vào thân trung ấm. Nó bị gió nghiệp thổi. Gió này không bị ngăn ngại và không thể dùng nhục nhãn, Thiên nhãn để thấy nó. Nếu sinh làm người họ sẽ sinh vào dòng họ thuộc các bậc thượng, trung, hạ, nhờ quả báo bố thí, giữ giới, tu tập trí tuệ, khi sắp sinh, thức này ở trong giai đoạn trung ấm như là hương khí cũng được thức ăn tương tự. Nếu sắp sinh vào dòng họ bần cùng thì nó phải ăn thức ăn thô nhám, sắc, thanh, hương, vị, xúc đều thô xấu, thân nhỏ và hèn kém, do ít bố thí nên họ không được quả báo tốt. Đó là nỗi khổ ở trong thân trung ấm của loài người.

Nỗi khổ thứ hai là ở trong thai. Do nghiệp phiền não nên họ sinh vào nhà bần cùng. Người mẹ ăn những thức ăn thô nhám, đắng cay, gân, màng nhầy, chỉ có chút ít chất bổ vào rốn làm cho đứa bé trong thai gầy ốm, xấu xí, khí lực yếu ớt. Do mẹ mệt nhọc nên đứa con ở trong thai rất khổ não, xoay qua lại để tránh đau đớn. Khi mẹ ăn đồ lạnh nóng nó liền chịu khổ không ai cứu được, không thể kêu la. Nó bị chìm trong phân và nước tiểu chịu vô số khổ. Nỗi khổ thứ nhì của con người còn như vậy huống gì là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Nỗi khổ thứ ba là lúc ra khỏi thai bị thai tạng dồn ép giống như ép dầu. Đó là nỗi khổ lớn.

Lại nữa, lúc mới sinh thân mềm mại giống như cục sữa, như bẹ chuối, hoặc như quả chín. Cô mụ đưa tay đón đứa bé, tay bà ta cứng nhám nứt nẻ, mặt bà ta rộng và đáng ghét, móng tay bén, mặt mày xấu xí. Khi bà ta đưa tay ẵm, đứa bé cảm thấy như bị lửa thiêu hoặc dao cắt. Thân đứa bé rất mềm mại nên khi người mẹ đụng vào nó rất đau đớn. Nếu có được áo mới thì nó thô rít, dày và nặng. Nếu được áo cũ rách rưới may vá lỗ chỗ có nhiều lỗ hổng, chật và mỏng như là đan bằng cỏ thì lúc trời lạnh đứa bé sẽ chịu khổ vì rất lạnh và khi trời nóng sẽ giống như lửa đốt. Do xưa kia làm việc bố thí không trong sạch nên nay nó phải chịu khổ não này. Từ trong thai sinh ra, đứa bé chịu khổ não rất lớn. Lại do việc bố thí bất tịnh nên khiến cho người mẹ ít sữa. Vì ăn uống thiếu thốn nên người mẹ ít sữa làm cho đứa bé gầy ốm, xấu xí, thân thể chỉ còn da bọc xương. Do đói khát bệnh tật nên thân thể đứa bé yếu ớt. Nếu không có đồ ăn nó phải đi xin người khác và bị khinh rẻ nhưng chỉ được chút ít đồ ăn thức uống lạt lẽo, thiếu sắc hương vị. Nó phải sống dựa vào người khác một cách khổ sở, vì ăn uống thiếu thốn như vậy nên nó thường bệnh đau. Do xưa kia không khéo bố thí nên cho đến khi chết họ thường không được no đủ và thường chịu khổ não vì ăn uống thiếu thốn.

Lại nữa, khổ não thứ tư là nỗi khổ vì tìm kiếm thức ăn. Do bị đói khát hành hạ nên họ làm việc trộm cướp gây ra nghiệp ác, làm việc không lợi ích hoặc làm việc nặng đến nỗi mất mạng, hoặc chịu khổ sở mà chết. Nỗi khổ nặng nhất trong các thứ khổ là đói khát.

Khi ấy, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà nói kệ cho chư Thiên nghe:

Sinh tử rất khổ não
Nhưng không bằng đói khát
Chúng sinh vì đói khát
Mà gây các nghiệp ác.
Lửa trong thân phát ra
Gọi là khổ đói khát
Đói khát thiêu ba cõi
Như lửa dữ đốt rừng.
Lửa dữ ở thế gian
Không cháy đến đời sau
Lửa đói khát khó dứt
Cho đến trăm ngàn kiếp.
Người ngu gây nghiệp ác
Đi con đường hiểm ác
Đều là do ăn uống
Người trí nói như vậy.
Đói khát có sức mạnh
Còn hơn cả lửa dữ
Chúng sinh trong ba cõi
Đều do ăn mà sống.
Người nào ở thế gian
Có các loại của cải
Tất cả đều do ăn
Tạo ra biển ba cõi.

Vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà đã nói cho chư Thiên nghe bài kệ đó.

Lại nữa, này chư Thiên! Người thế gian còn có nỗi khổ thứ năm là khổ vì phải gặp kẻ oán ghét. Khổ này gồm có sáu loại là: Mắt thấy người mình ghét… thì tâm không ưa thích, không thương xót. Khi thấy sắc thân người ấy, tâm ta liền bị não loạn, tâm và tâm sở phát sinh lo sợ, không được lợi ích, tâm và tâm sở phát sinh khổ não. Trong tất cả sự thù ghét, sự thù ghét bậc nhất là thấy thân tướng của kẻ thù và bạn ác.

Lại nữa, khổ vì phải gặp kẻ oán ghét thứ hai là khi nghe âm thanh của kẻ ấy mình không được lợi ích, không ưa thích nên tâm sinh rối loạn, khổ não. Đó chính là khổ vì phải gặp kẻ oán ghét. Âm thanh đáng ghét nhất là âm thanh ngược với pháp chân chánh. Do âm thanh đáng ghét ấy, khi chết ta bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu phải nghe âm thanh không đáng ưa, không lợi ích thì ta sẽ bị tâm xấu làm rối loạn vì ta không ưa thích, không thương xót người ấy. Đó là khổ vì phải gặp kẻ oán ghét.

Khổ vì phải gặp kẻ oán ghét thứ ba là khi mũi ngửi mùi không ưa thích thì tâm không tùy thuận, ngửi thấy mùi ấy thì tâm liền phát sinh khổ não. Đó là sự tụ hợp của những việc xấu xa không đáng ưa. Này chư Thiên, đó là sự tụ hợp những điều không đáng ưa của con người.

Người nào ngu si không có trí tuệ, khi đi hoặc ngồi tâm sinh tham đắm, khinh khi ngã mạn không tôn kính Tam bảo. Khi có người dâng hương cúng dường Phật, Pháp, Tăng, người ấy ngửi mùi hương đó với tâm tham dục. Vì vậy khi chết người đó đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì tham đắm thân mà thân tâm người đó trở nên bất tịnh và khi chết sẽ đọa vào địa ngục. Này chư Thiên đó là khổ vì phải gặp kẻ oán ghét của con người.

Lại nữa, khổ vì phải gặp kẻ oán ghét thứ tư là: Người ngu si độc ác tham đắm mùi vị mà gây nghiệp ác. Do nghiệp ác nên khi chết họ bị đọa vào địa ngục.

Người nào chẳng phải Sa-môn mà hiện tướng Sa-môn, bên trong mục nát giống như tiếng ốc, hoặc ở chùa, hoặc ở nhà dân, người này chẳng phải là Sa-môn lại đắp y Sa-môn, thường tham đắm thức ăn ngon và bị mùi vị trói buộc. Do đó khi chết, họ bị đọa nơi địa ngục.

Lại có Tỳ-kheo biếng nhác, xả bỏ vị ngọt của thiền, đi khắp nơi để tìm thức ăn ngon, tâm thường thèm ăn. Do biếng nhác khi chết họ bị đọa vào địa ngục. Này chư Thiên, đó là do tham đắm mùi vị và gặp những điều không ưa thích nên họ bị khổ não.

Lại nữa, này chư Thiên! Khổ do phải gặp kẻ oán ghét thứ năm của con người là sự xúc chạm của thân. Do bị nó trói buộc nên tâm không khéo tư duy, không sống đúng pháp, không có chánh niệm.

Người ác đó bị cảnh ác trói buộc nên khi chết bị đọa vào địa ngục. Này chư Thiên, đó là sự tụ họp những điều không đáng ưa sinh ra khổ não trong loài người.

Lại nữa, này chư Thiên khổ do phải gặp kẻ oán ghét thứ sáu là có người tâm ý lăng xăng, bất chánh, thường tán loạn, thường nghĩ về việc ác, không thích pháp lành, không làm được việc gì lợi ích. Do đó khi chết họ bị đọa vào địa ngục. Này các Thiên tử, đó là khổ do phải gặp kẻ oán ghét của loài người. Ngoài ra con người còn thọ nhận vô lượng loại khổ khác.

Lại có ba loại khổ do phải gặp kẻ oán ghét khác là: Ở gần kẻ thù mà bị hại như cây gai trong mắt thường làm xốn mắt. Đó là khổ do phải gặp kẻ oán ghét đầu tiên.

Khổ do phải gặp kẻ oán ghét thứ hai là làm việc chung với bạn ác.

Khổ do phải gặp kẻ oán ghét thứ ba là do ôm lòng sân hận nên lập tức bị tổn hại. Này chư Thiên, đó là vô lượng loại khổ của loài người.

Để chư Thiên sinh tâm nhàm chán, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâuđà lại nói về nỗi khổ thứ sáu của loài người. Đó là nỗi khổ vì xa lìa người mình thương. Thương yêu là lợi ích của hai đời. Xa cách bạn lành là nỗi khổ lớn. Nếu xa lìa cha mẹ, anh chị em, bà con và những người có ân nghĩa với ta thì ta sẽ rất đau khổ giống như bị rơi xuống đao lửa, bị thiêu đốt thân tâm, chịu khổ não lớn. Đó là nỗi khổ phải xa người mình thương. Để làm lợi ích cho chư Thiên, vua trời Dạ-ma đã nói pháp này.

Vua trời Dạ-ma lại nói về nỗi khổ thứ bảy trong loài người. Đó là hai thứ khổ về lạnh và nóng. Thế nào là hai thứ khổ về lạnh và nóng của con người? Do con người ăn uống không điều hòa, cơ thể cần thức ăn lạnh lại ăn thức ăn nóng, hoặc cơ thể cần thức ăn nóng lại ăn thức ăn lạnh, ngồi lâu thì khổ, đứng lâu cũng khổ, ăn nhiều cũng khổ, không ngủ cũng khổ, lúc ngủ nếu chỉ nằm nghiêng về một phía mãi cũng khổ, ban đầu vui về sau khổ. Do ham vui, người đời bị dục lạc lừa dối không tạo nghiệp lành nên bị đọa vào địa ngục.

Này chư Thiên, thú vui của loài người không khác gì khổ. Để làm lợi ích cho chư Thiên, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà dạy: “Này chư Thiên! Các ông chớ sinh ý nghĩ đó và nên nhàm chán lạc thú của loài người để thoát khỏi sinh tử”. Thiên chủ đã thuyết pháp lợi ích để trừ bỏ phóng dật cho chư Thiên.

Vua trời Dạ-ma lại nói về nỗi khổ lớn thứ tám cho chư Thiên nghe. Đó là khổ vì bệnh. Có vô số loại bệnh khác nhau như là bệnh nóng sốt, kiết lỵ, ho, khó thở, tất cả gồm bốn trăm lẻ bốn bệnh làm hại chúng sinh. Lại có bệnh khổ làm hại chúng sinh là bệnh buồn rầu, áo não. Đó là nỗi khổ lớn của con người.

Để làm lợi ích cho chư Thiên, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà lại nói về nỗi khổ lớn thứ chín. Vì muốn cho họ xa lìa sinh tử, Thiên chủ đã chỉ cho họ thấy nỗi khổ lớn trong đường sinh tử của con người là bị người khác sai khiến. Tuy cùng một loài, một thời, một giới tính, tuổi tác, sức lực nhưng nghiệp của người nào thấp kém thì người ấy bị người khác sai khiến cả ngày lẫn đêm không được tự do, thường chịu khổ não. Đó là nỗi khổ vì bị sai khiến của con người.

Lại nữa, nỗi khổ bị người khác sai khiến là có người thuộc dòng họ lớn có sắc đẹp và sức khỏe, siêng năng học hỏi, đầy đủ trí tuệ nhưng do nghèo nàn nên bị người hạ tiện sai khiến.

Vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà lại tiếp tục thuyết pháp làm lợi ích cho chư Thiên.

Do nghiệp thấp kém, không làm việc bố thí nên họ bị người khác khinh chê, ngày đêm chịu cay đắng, bị người sai khiến. Do không bố thí nên họ thường khổ não, tay chân nứt nẻ, nghèo nàn thiếu ăn, quần áo dơ bẩn rách rưới, bị đói khát nóng lạnh làm khổ não. Họ phải chịu vô lượng khổ não không thể chịu nổi, ngày đêm bị người sai khiến không ngớt.

Lại có dòng họ tuy nhan sắc thế lực hèn kém nhưng giàu có, có dòng họ tuy nhan sắc, sức mạnh, trí tuệ thù thắng nhưng thường nghèo nàn. Do nghèo nàn nên họ gần gũi những người hèn hạ và bị nghiệp lừa dối, phải chịu khổ nặng nề.

Này chư Thiên! Đó là nỗi khổ bị sai khiến của con người. Nỗi khổ vì bị sai khiến khác là: Có người nghèo nàn sống thuận theo pháp. Do nghèo nàn, họ gần gũi người ác và cùng người đó làm việc ác. Tuy không thích thú nhưng họ bị người khác sai khiến gây nghiệp ác, nên khi chết họ bị đọa vào địa ngục. Do bị người khác sai khiến nên họ phải chịu khổ hai đời.

Này chư Thiên! Nỗi khổ thứ mười của con người là nỗi khổ vì tìm cầu. Nỗi khổ này gồm vô số loại như do mong cầu của của phải vào biển lớn, chiến đấu với quân địch, kinh doanh, nói năng biện bác, gần người hạ tiện, cày ruộng gieo trồng, mua đi bán lại, chăn nuôi súc vật, đi buôn bán ở khắp mọi nơi, phải lên núi cao lệ thuộc vào người khác. Họ phải làm những việc đó là vì muốn tìm kiếm của cải, quần áo đẹp, hoặc là vì nghèo nàn, hoặc do tham đắm của cải, bị lưới tham trói buộc nên cả đời họ tạo nghiệp ác hoặc nói láo lừa dối người khác, dùng cân non đấu nhỏ mua bán rượu, thóc, mè và thuốc độc. Họ làm các luật nghi ác như vậy. Để mua bán kiếm sống, họ hủy hoại đất nước, thành ấp, xóm làng, quân đội, dân chúng và gây ra đủ loại nghiệp ác khác. Vì phải lo cho vợ con về việc ăn uống, giường nằm, đồ đạc nên nỗi khổ này gồm vô lượng thứ, kể đến ngàn năm cũng không hết. Này chư Thiên! Đó là nỗi khổ tìm cầu của con người.

Để làm lợi ích cho chư Thiên, giúp cho họ nhàm chán các cõi, vua trời Dạ-ma đã nói pháp rốt ráo.

Này các Thiên tử! Chớ khởi tâm mong cầu làm người, phải nên nhàm chán nó. Nếu tham đắm các cõi thì sẽ không được lợi ích. Vì lý do đó ta đã nói tất cả những khổ não của loài người. Nếu sinh làm người do tìm cầu phương tiện sống gây ra nghiệp ác nên bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Khi đã sinh vào đường ác sẽ chịu đủ loại khổ.

Vua trời Dạ-ma lại nói cho chư Thiên nghe về nỗi khổ thứ mười một của con người, đó là nỗi khổ vì gần bạn ác. Gần bạn ác là nhân của tất cả khổ và không được lợi ích. Nó gây ra tất cả các nghiệp của thân, miệng, ý. Do đó, khi chết họ sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu vô lượng khổ. Sau khi cho chư Thiên quan sát tai họa sẽ sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh của loài người để ngăn không cho họ mong cầu làm người, vua trời nói về cõi Niết-bàn vắng lặng.

Để làm lợi ích cho chư Thiên, vua trời Dạ-ma lại nói về nỗi khổ thứ mười hai của con người. Đó là nỗi khổ khi thấy vợ con, họ hàng bị các loại khổ não như là: Bị giết, bị trói, bị đánh đập, đói khát, nghèo nàn… Vì thấy người thân bị khổ não nên họ cũng khổ theo. Đó là nỗi khổ vì thấy vợ con họ hàng chịu khổ não của loài người. Do đó không nên ưa thích sinh làm người.

Tất cả mọi vật hễ có sinh thì phải có chết và đều là khổ não. Nỗi khổ lớn trong đường sinh tử là sinh, già, chết. Ba thứ khổ này loài người đều có đủ. Này chư Thiên, đã biết nỗi khổ lớn không thể chịu đựng của loài người rồi, các người chớ có sinh ưa thích.

Vua trời đã đem đạo nghĩa lành mạnh, trong sạch không gì sánh bằng dạy cho chư Thiên, chỉ cho họ thấy ở trong cõi người không có việc gì lợi ích, chỉ toàn là lưới khổ không thể ví dụ. Cõi người còn vậy huống gì là ba đường ác là nơi có vô số nỗi khổ nặng nề không thể ví dụ, không thể so sánh với nỗi khổ của loài người. Lúc chư Thiên thoái đọa, các vị trời ít phóng dật nói với vị ấy: “Cầu cho ông sinh vào đường lành là cõi người”. Lúc con người chết, bà con bạn bè nói với người ấy: “Cầu cho ông sinh vào đường lành là cõi trời”. Hai đường lành còn vậy huống chi là ba đường ác là nơi chúng sinh phải chịu khổ não nặng nề. Để làm lợi ích cho chư Thiên, giúp cho họ bớt phóng dật, vua trời Dạ-ma đã dùng vô số phương tiện, thuyết vô số pháp, vạch cho họ thấy pháp Niết-bàn thù thắng.

Sau khi nói về nỗi khổ vì thấy vợ con khổ, vua trời Dạ-ma lại nói về nỗi khổ thứ mười ba của con người đó là nỗi khổ vì đói khát. Do đói khát nên họ gây ra vô số tội ác. Đói khát là nỗi khổ nặng nề nhất, không nỗi khổ nào sánh bằng. Do đói khát họ phải vào nơi hung dữ. Để có đồ ăn uống, người thuộc dòng họ lớn phải vòng tay than khóc, gần gũi với người hạ tiện, van xin họ thương xót. Vì sợ đói khát, họ không kể đến thân mạng, đi vào nơi nguy hiểm có nhiều đao kiếm mũi nhọn, voi dữ của quân địch, hoặc vào biển lớn vượt qua vô số do-tuần đầy cá dữ như cá kình, cá niêm và lướt trên sóng cả bằng chiếc xuống con nên chìm xuống biển, tự xả bỏ thân mạng. Tất cả những việc đó đều do nỗi khổ vì sợ đói khát gây ra. Ngoài ra còn có vô số việc khác không thể nói hết. Tất cả nỗi khổ đó đều do bụng miệng mà ra. Nếu ai bị bắt trói dẫn ra khỏi cửa quan, đánh trống phát tiếng ghê rợn, bị cột vào vòng chết, giáo nhọn ở phía trước, sợ hãi khổ não vì sắp đến pháp trường mạng sống thật mỏng manh, thì người đó tuy rất khổ nhưng cũng không khổ bằng bị đói khát. Vì vậy ta phải bố thí của cải vào ruộng phước với tâm thanh tịnh. Vì sợ sinh tử nên khi có đủ thời giờ và phương tiện ta phải hết lòng bố thí. Chư Thiên ít bị đói. Tất cả chúng sinh trong đường sinh tử đều nhờ ăn uống mà khỏi đói khát, vì vậy tất cả đều nên thực hành bố thí. Này chư Thiên, đó là nỗi khổ vì đói khát của loài người. Ở trên trời, nỗi khổ đó nhỏ nhẹ nhàng lại bị thiên lạc che lấp, do có nhiều phước đức, dễ được đồ ăn thức uống nên chư Thiên không biết rằng khắp cõi dục đều bị lửa đói khát vây kín, thật là đáng sợ. Này chư Thiên, các ông đã thấy đủ loại khổ sinh, lão, bệnh, tử của loài người rồi vậy đừng mong ước sinh làm người nữa.

Thấy tâm chư Thiên đã được điều phục trở nên nhu hòa, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà lại nói cho họ nghe về nỗi khổ con người. Siêng năng làm lợi ích cho người khác là làm lợi ích cho chính mình. Để làm lợi ích cho chư Thiên, vua trời Dạ-ma đã liên tục nói vô số pháp trong đó có nỗi khổ lớn mười bốn của con người. Đó là nỗi khổ vì bị người khinh rẻ, không thể chịu nỗi. Người nghèo nàn thì bị khinh chê càng nhiều. Nỗi khổ này có mười loại là: Bị anh em, bà con giàu có khinh chê, do nghèo khổ phải đi ăn xin, nói những lời thêu dệt, không thật, những lời rỗng tuếch, vô nghĩa, sống nhờ người khác, quần áo dơ bẩn, bị người khinh chê, nếu vào thành ấp nhằm ngày lễ hội thì bị người khinh chê. Trong loài người có vô số sự khinh chê như vậy. Người thế gian không bị lửa củi thiêu đốt trong lòng nhưng họ lại bị lửa khinh chê của anh em, bè bạn, bà con thiêu đốt rất dữ. Do không có phước nên họ bị mười loại khổ này thiêu khắp thân họ, bị nỗi lo dữ dội thiêu thân cháy khô làm hơi thở phun ra như khói. Này chư Thiên! Các ông nên biết vừa đủ, đừng vui thích sinh trong loài người.

Loài người rất ít vui và chịu nhiều khổ não, tuổi thọ ngắn lại thường bị khinh chê. Chỉ loài người mới có việc khinh chê còn bốn đường kia thì không có. Ở trong loài người sự khinh chê rất nặng nề, khi bị người khác khinh chê, toàn thân ta giống như trúng độc, nhất là khi trước được cúng dường, sau lại bị khinh chê. Người nào trước được cúng dường chu đáo, sau được lợi nhỏ trong một thời gian ngắn, sau đó lại bị khinh chê thì người ấy còn khổ hơn là bị chết. Này chư Thiên! Đó là nỗi khổ lớn khó chịu đựng của loài người.

Lại nữa, nỗi khổ lớn thứ mười lăm của con người là khổ vì già yếu. Già làm tất cả các bộ phận của thân thể gầy ốm, hao mòn, các căn rã rời hư hoại, yếu ớt, đi phải chống gậy, không có khí lực, không còn thích nghi với chỗ ở, lưng gù, mũi quặp, tóc bạc, sắp chết, thân tâm suy sụp, tuy chưa chết mà giống như súc sinh. Này chư Thiên! Đó là nỗi khổ vì già của loài người. Khi danh và sắc đùa cợt nhau thì người ấy không bao lâu sẽ chết. Ai thấy nỗi khổ vì già mà không lo sợ thì đó thật là người vô tâm, giống như gỗ đá. Do vô tâm nên tuy là người mà họ giống như súc sinh. Này chư Thiên! Trong loài người sinh là nỗi khổ lớn. Do có sinh nên có nỗi khổ vì già. Đã biết nỗi khổ này rồi, các ông đừng mong ước sinh làm người.

Nỗi khổ thứ mười sáu là phải sinh vô số lần trong loài người và hễ có sinh thì phải có khổ, nỗi khổ đó là khổ vì chết, chết rồi sinh trở lại. Khi chết thân căn hư rã, mạng căn chấm dứt, không còn gặp lại anh em, bạn bè. Sau khi sắc thân diệt mất, họ lại đi nơi khác lấy nghiệp quả làm tư lương. Tất cả chúng sinh cuối cùng đều sẽ chết. Mạng sống chấm dứt, bỏ thân này nhận lấy thân trung ấm, đó gọi là chết. Hễ có sinh thì phải có chết, không có chuyện chết mà không sinh, hoặc sinh mà không chết. Này các Thiên tử, đừng nên ưa thích làm người.

Khi ấy, trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà nói kệ:

Trong thế giới loài người
Có thân đều chịu khổ
Có sinh thì có chết
Có chết thì có sinh.
Nếu mang thân trung ấm
Chịu khổ não theo nghiệp
Khổ mãi trong đêm dài
Không thể nói hết được.
Chìm trong phân nước tiểu
Bị hơi nóng thiêu đốt
Sự khổ ở trong thai
Không thể nói hết được.
Tham đắm vị thức ăn
Tâm luôn luôn mong cầu
Chịu khổ vì mùi vị
Không thể nói hết được.
Tâm nhỏ nhen mong cầu
Tham dục không biết đủ
Phải chịu các khổ não
Không thể nói hết được.
Phải gặp người mình ghét
Như gặp lửa, chất độc
Sinh ra các khổ não
Không thể nói hết được.
Phải xa người mình thương
Chúng sinh rất khổ não
Đau đớn không chịu được
Khổ này thật khó tả.
Nỗi khổ vì lạnh nóng
Sinh vô số loại khổ
Rất khổ, rất bạo ác
Không thể nói hết được.
Bệnh khổ hại mạng người
Là sứ giả tử thần
Chúng sinh chịu khổ này
Không thể nói hết được.
Bị người khác sai khiến
Thường không được tự chủ
Chúng sinh chịu khổ này
Không thể nói hết được.
Độc tham ái thiêu đốt
Tìm cầu chịu khổ lớn
Đi dần đến chỗ chết
Khổ này thật khó tả.
Nếu gần gũi bạn ác
Thường không dứt các khổ
Phải chịu khổ đường ác
Khổ này thật khó tả.
Thấy vợ con khổ não
Liền sinh ra khổ lớn
Hơn cả đọa địa ngục
Khổ này thật khó tả.
Đói khát thiêu đốt thân
Giống như là lửa dữ
Phá hoại cả thân tâm
Khổ này thật khó tả.
Thường bị người, bà con
Và bạn bè khinh chê
Sinh khổ não, sầu bi
Khổ này thật khó tả.
Khi tuổi già ập đến
Thân gầy, tâm bạc nhược
Lưng còng, chống gậy đi
Khổ này thật khó tả.
Người bị thần chết bắt
Dẫn đi sang cõi khác
Chết là nỗi khổ lớn
Không thể nào nói hết.
Chúng sinh không thể thấy
Không thể ngăn các nghiệp
Hủy hoại các chúng sinh
Cho nên gọi là chết.
Sức mạnh khó chịu đựng
Làm cho các chúng sinh
Đi một mình rất sợ
Vì vậy gọi là chết.
Cuối cùng chúng sinh không
Ngăn được lửa thời gian
Chấm dứt mạng chúng sinh
Cho nên gọi là chết.
Sức mạnh của thần chết
Có thể phá mạng căn
Diệt sạch ấm, giới, nhập
Vì vậy gọi là chết.
Có hợp thì có tan
Bạn bè và anh em
Biệt ly không trở lại
Cho nên gọi là chết.
Ai chưa đến giờ chết
Phải tu tập hạnh lành
Thần chết rất độc ác
Ta phải sớm tu thiện.
Thần chết rất hung bạo
Ác độc không Từ tâm
Vì vậy phải tu thiện
Làm vị Thiên chân chánh.
Ai học pháp sinh tuệ
Là người có mạng lành
Người nào không lìa pháp
Mạng sống được bảo vệ.
Người nào thường niệm Phật
Là người có mạng lành
Nhờ không lìa niệm Phật
Mạng sống được bảo vệ.
Người nào thường niệm Pháp
Là người có mạng lành
Nhờ không lìa niệm Pháp
Mạng sống được bảo vệ.
Người nào thường niệm Tăng
Là người có mạng lành
Nhờ không lìa niệm Tăng
Mạng sống được bảo vệ.
Người nào niệm sự thật
Là người có mạng lành
Ai không lìa niệm thật
Mạng sống được bảo vệ.
Người nào thường niệm Đạo
Là người có mạng lành
Nhờ không lìa đạo pháp
Mạng sống được bảo vệ.
Người nào thường nhớ nghĩ
Hướng về cõi Niết-bàn
Mới được gọi là trời
Chẳng phải người tham dục.
Ai thường đem hết lòng
Thích tu nghiệp thiền định
Thú vui lìa các cõi
Không tham đắm dục lạc.
Đã biết tai họa này
Nên nhàm chán dục lạc
Siêng năng cầu Niết-bàn
Là vị trời chân thật.

Vua trời Dạ-ma đã dùng đủ cách để làm lợi ích cho chư Thiên giúp cho tâm họ được mát mẻ và đoạn trừ con đường ác.

Khi ấy, chư Thiên bạch với Thiên vương:

–Thưa vua trời! Đúng như lời Thiên vương đã nói, chúng con thấy người có sắc đẹp, sức lực, tướng mạo gấp mười lần chúng con đều đã bị suy yếu, khổ não huống gì là chúng con.

Khi chư Thiên nói xong, vua trời Dạ-ma bảo họ:

–Như các ông đã thấy, chư Thiên ít suy yếu khổ não lắm nhỉ. Chư Thiên trời Dạ-ma các ông sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh gấp trăm lần những vị ấy, vì các ông làm việc phi pháp, sống phóng dật. Nếu chư Thiên sống đúng pháp, lìa bỏ phóng dật thì sẽ đóng cửa tất cả đường ác, thường được hưởng đủ loại thú vui của hàng trời, người, sẽ thoát khỏi nỗi khổ sầu bi, già, bệnh, chết, đạt được chỗ thường trụ, không còn các khổ não như đã nói ở trên. Do đó các ông chớ nên sống phóng dật. Thú vui của dục lạc không bằng một phần trăm ngàn thú vui thiền định, trí tuệ vô lậu.

Nghe Thiên vương dạy và tận mắt thấy các tai họa, chư Thiên mới nói:

–Thiên vương thuyết pháp tạo lợi ích cho chúng con, thực hành theo đó chúng con sẽ không phải chịu nỗi khổ trong đường sinh tử nữa.

Bấy giờ, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà nói kệ:

Nếu mình gây ra nghiệp
Thì mình tự lãnh lấy
Người nào khéo điều phục
Thì sẽ đạt Niết-bàn.
Tất cả các nghiệp khác
Đều không bằng nghiệp lành
Vô lượng trăm ngàn đời
Nghiệp thường đi theo ta.
Làm nhiều việc phước đức
Luôn tu tập pháp lành
Sẽ đến nơi thù thắng
Xa lìa già bệnh chết.
Chư Thiên nên tư duy
Về nghiệp lành của mình
Việc tu tập nghiệp lành
Là tư lương tốt nhất.

Nói kệ xong, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà bảo chư Thiên từ nay trở đi đừng vì tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc mà sống phóng dật, vui chơi trong vườn cây. Nghe vua trời dạy, chư Thiên bạch:

–Cầu xin trong đời vị lai chúng con được gặp Phật Di-lặc Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Đạo Sư xuất hiện ở đời, lúc ấy chúng con được sinh làm người, được gặp Đức Thế Tôn ở hội thuyết pháp đầu tiên, thường được nghe pháp để dứt sạch các lậu hoặc. Lại có chư Thiên cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phát nguyện xong họ quy y Phật, Pháp, Tăng. Bảy vạn Thiên tử và chư Thiên khác đều nguyện sinh làm người, gặp Phật Di-lặc, sau khi được nghe thuyết pháp, các lậu hoặc đều bị trừ sạch.

Lại có các vị trời khác trước đây đã thấy tháp Phật và phát nguyện thành quả Chánh đẳng Chánh giác, có các vị khác phát nguyện đời vị lai sẽ đắc quả Duyên giác.

Khi ấy, vua trời Dạ-ma nghĩ: “Ta đã giúp cho họ được lợi ích lớn, làm cho họ lìa bỏ phóng dật”.

Biết chư Thiên đã được điều phục, vua trời dạy họ trở về cung. Chư Thiên liền cung kính vây quanh vua trời và rời khỏi ao.

Sau khi làm lợi ích cho chư Thiên ở đó rồi, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà lại đi đến nơi khác để làm lợi ích cho chư Thiên khác.

Kinh thứ tám vua trời Mâu-tu-lâu-đà biến hóa ở vùng Thường lạc thuộc trời Dạ-ma đã nêu bày xong.

Lại nữa, biết quả báo của nghiệp, thầy Tỳ-kheo lại quan sát vùng trời Dạ-ma cư trú. Nhờ văn tuệ, vị ấy thấy ở cõi trời Dạ-ma có vùng tên Tăng trưởng pháp. Nhờ nghiệp gì chúng sinh sinh ở vùng này?

Vị ấy thấy người nào hết lòng giữ giới, không sát sinh, trộm cướp như đã nói ở trước lại lìa tà dâm, ngay cả lỗi nhỏ cũng xả bỏ, không nhớ nghĩ khi thấy tranh vẽ nam nữ. Họ không ngắm nhìn, nhớ nhung, tham đắm vì sợ làm vẩn đục tâm niệm và vi phạm tịnh hạnh. Họ thuyết cho người khác nghe về nghiệp quả của tà dâm để ngăn ngừa tội lỗi của tâm, làm cho tâm không vui, không ưa, không thích việc ấy.

Việc tà dâm chẳng phải là con đường vắng lặng, không nên học tập, không đáng ưa thích. Người làm việc thiện không nên ưa thích việc ấy, phải nên giảng rộng quả báo vi tế của phạm hạnh giữ giới và lo sợ khi thấy việc ác nhỏ như hạt bụi. Khi chết người này sẽ sinh vào vùng Tăng trưởng pháp thuộc cõi trời.

Sau khi sinh vào cõi trời, nhờ nghiệp lành, họ được hưởng quả báo đáng ưa là vườn cây, ngọn núi vàng, sông suối, ao, được trang sức bằng các loại châu báu có tiếng chim hót rất hay, bốn bờ ao được trang sức bằng bảy báu, có Tỳ-lưu-ly xanh, báu nhân-đà xanh xen lẫn trong đất, có nhiều ngọn núi mang đủ âm thanh, màu sắc, hình tướng khác nhau trông rất đáng yêu. Chúng phát ra âm thanh nghe rất vui tai.

Ở trong vườn cây, các thú vui càng đáng ưa hơn. Ở nơi khác có châu báu kim cang xanh và pha lê làm đá trang sức cho hang núi. Ở núi Quang Minh, chư Thiên nghe tiếng suối reo hưởng mọi hoan lạc, tự do làm theo ý thích, hưởng các dục lạc không thể ví dụ.

Họ được vô số Thiên nữ vây quanh cùng nhau thọ hưởng vô số dục lạc khác nhau. Họ cỡi trên đủ loại núi vàng, núi Tỳ-lưu-ly hoặc hư không, mặc đủ loại y phục, ca múa vui cười, được các Thiên nữ xinh đẹp vây quanh, cùng nhau hưởng đầy đủ năm dục nơi cõi trời.

Nếu thấy sắc đẹp của chư Thiên gồm muôn màu muôn vẽ, họ sẽ phát sinh niềm vui vô tận và tự do đi chơi. Đó là sắc dục. Nếu nghe âm thanh, họ sẽ cùng Thiên nữ ca múa vui cười theo sở thích. Nơi đó phát ra đủ hương thơm khác nhau. Gió thổi qua ao sen mang theo hương sen và hương các loại hoa khác cùng với gió thổi qua hang núi mang theo đủ loại hương hoa làm mũi ngửi rất dễ chịu. Lưỡi nếm vô số mùi vị cõi trời, tùy theo ý nghĩ họ được đầy đủ các vị mặn, lạt, đắng, ngọt, chua, cay như ý thích không thể ví dụ.

Thân họ tiếp xúc với lạnh, nóng, ấm, mát, mềm mại, trơn láng tùy theo ý thích. Họ mặc loại áo không phải đan bằng chỉ sợi và được trang điểm bằng châu báu nhiều màu. Nơi đó có vô số ánh sáng báu chiếu khắp mười do-tuần, hai mươi do-tuần, cho đến một trăm do-tuần. Chư Thiên tiếp xúc với ánh sáng báu để thọ nhận hoan lạc.

Do nghiệp lành, khi ngửi mùi hương của các loại hoa trong vườn cây, các Thiên tử hưởng thú vui hiếm có. Thú vui này chẳng phải tự nhiên sinh ra, chẳng phải do ý nghĩ sinh ra, không phải do người khác ban cho hoặc tạo ra mà đó là quả báo do nghiệp lành ta đã gieo từ trước sinh ra. Khi nghiệp quả thành tựu thì tùy theo sự mong cầu ưa thích của người giữ giới các sắc đẹp lộng lẫy của chư Thiên liền sinh ra và vô số lạc thú cũng thành tựu theo ý niệm trong thời gian dài. Đó là do nghiệp lành khéo giữ giới mà ra.

Chư Thiên nơi ấy tham đắm cảnh giới sáu dục, bị sông dục cuốn trôi nên đi chơi ở từng vườn cây, từng ngọn núi được trang điểm bằng bảy báu. Trong vườn cây có các dòng suối phát ra âm thanh vi diệu, có các con chim đủ màu cất tiếng hót kỳ lạ. Do nghiệp lành, họ vui chơi trong đó. Họ có đủ loại màu sắc kỳ diệu, đủ loại tướng mạo, đủ loại công đức và được trang sức đủ kiểu. Họ được các Thiên nữ trang điểm bằng vòng hoa trời, thiên y, hương xoa và hương bột vây quanh ở các ngọn núi. Họ vui chơi thọ hưởng dục lạc với các Thiên nữ ở các ngọn núi theo vô số ham muốn của họ rồi cùng các Thiên nữ đến vùng đất cao thấp khác nhau. Đất ở đây bằng vàng, bạc, Tỳ-lưu-ly xanh, châu báu nhân-đà xanh, xa cừ thật đáng yêu. Nơi đó được trang sức bằng lưới gắn linh báu phát ra âm thanh và có các con chim.

Thấy các Thiên tử sống phóng dật, chim Bất Phóng Dật nói kệ quở trách:

Chỉ hưởng nghiệp cũ
Không tạo nghiệp mới
Nghiệp hết liền đọa
Các pháp như vậy.
Nghiệp đã sắp hết
Mạng trong từng niệm
Chết đến rất lẹ
Người ngu không biết.
Thiên tử, Thiên nữ
Không biết dục nhiễm
Niệm dục qua mau
Giờ thoái đọa đến.
Nhiều lần được mất
Do cảnh giới dục
Ở trong si não
Nghĩ ác làm gì.
Người nhờ nghiệp lành
Mới được thọ lạc
Lại tạo nghiệp lành
Để đến đường lành.
Nếu thích cảnh giới
Sẽ bị luân hồi
Nếu lìa cảnh giới
Thì được giải thoát.
Sóng cả cảnh giới
Phát từ sông ái
Người trí lìa bỏ
Đến thành Niết-bàn.
Người mạnh lìa dục
Để cầu chân đế
Thấy rõ cảnh ái
Vượt khỏi ba cõi.
Lìa bỏ cảnh giới
Đừng sinh tâm niệm
Như là quả độc
Quả báo rất khổ.
Loài người ham vui
Chạy theo cảnh giới
Tích chứa nghiệp ác
Trôi lăn đường ác.
Phải thường giữ tâm
Nhẹ nhàng rộng rãi
Thường đắm cảnh giới
Bị tham ái lấp.
Chạy theo các cảnh
Không biết suy não
Suy não đến rồi
Mới biết nghiệp quả.
Đã biết nghiệp này
Và lỗi cảnh giới
Phải thường lìa bỏ
Dây trói thế gian.

Tuy chim Bất Phóng Dật nói kệ này nhưng các Thiên tử đó không ghi nhận và cùng các Thiên nữ tiếp tục thọ hưởng dục lạc. Các Thiên nữ này là nhân duyên của sinh tử và các nỗi khổ lớn. Họ thường đi chơi với những người không hiểu biết, thường làm việc ác, thường sinh tâm ái dục mong cầu người nam. Tâm họ như chất độc, như bờ hiểm có thể thiêu đốt tất cả người nam.

Do ngu si nên các Thiên tử đã hưởng lạc với các Thiên nữ đáng sợ như vậy mà không biết tránh xa, người nào có trí, sợ hãi sinh tử muốn được an lạc thì phải lìa bỏ Thiên nữ. Người ngu si mê hoặc bị tham dục che lấp tâm tuy biết vì người nữ mà mình chịu khổ não nhưng không thể lìa bỏ và cùng các Thiên nữ hưởng dục lạc. Do bị tham dục, ngu si, sân hận che lấp, họ chìm trong vũng bùn sinh tử, đi chơi thọ lạc cùng các Thiên nữ, không biết giữ gìn vô số lợi ích để ngăn đường ác. Vì bị tâm lừa dối nên họ không biết chánh pháp, chỉ biết đi chơi trong vườn, mê say thọ hưởng dục lạc với các Thiên nữ không đoan chánh.

Họ lại đến vùng khác, nơi được trang nghiêm bằng vàng, Tỳlưu-ly, châu báu nhân-đà xanh, châu báu chúa rất xanh để đi khắp nơi nghe tiếng ca vịnh, giải rõ từng lời ca. Âm thanh đó rất êm dịu, đầy đủ năm loại âm nhạc có công đức thù thắng xưa nay chưa từng nghe. Nghe âm thanh này xong, các Thiên tử mới sinh cùng các Thiên nữ chạy vào rừng. Rừng này tên Đại hoan hỷ, có vô số cây báu, dài một trăm do-tuần, rộng ba mươi do-tuần. Rừng này đầy đủ của báu và công đức lớn, có hàng trăm ngàn chư Thiên ca múa vui chơi thọ lạc.

Chư Thiên mới sinh thấy rừng lớn này có cây bằng Tỳ-lưu-ly, có ánh sáng lớn và vô số hoa thơm, có tua hoa công đức gồm đủ loại màu sắc và hình dạng. Họ lại thấy cây khác có thân bằng Tỳ-lưu-ly, lá bằng vàng ròng, cành bằng châu báu xanh, quả bằng bạc có đầy đủ mùi vị công đức của cõi trời. Cây đó được trang điểm bằng châu báu nhân-đà xanh, cành cây được trang điểm bằng hoa đủ màu. Họ lại thấy cây khác có thân bằng châu báu xanh, cành cây bằng vàng ròng, lá bằng Tỳ-lưu-ly được trang điểm bằng vô số con ong đủ màu sắc và phát âm thanh vi diệu nghe rất vui.

Chư Thiên mới sinh lại thấy hoa báu giống như mắt mở trông thật đáng yêu. Bên trong hoa có các con ong phát âm thanh rất hay. Họ lại thấy bóng râm của cành lá vàng giống như cung điện, bên trong có các con ong phát âm thanh vi diệu rất đáng ưa. Họ lại thấy bóng râm của cành Tỳ-lưu-ly, lá châu báu xanh làm thành cung điện, được trang sức bằng ngọc báu và các con chim đủ màu.

Đất nơi ấy rất mềm mại có sân lát châu báu. Nơi ấy phát ra mùi thơm cõi trời và có nhiều Thiên nữ.

Chư Thiên mới sinh lại thấy màu hồng trang điểm cho đất trông rất đáng yêu. Mặt đất được lát bằng bảy báu bằng phẳng đáng yêu. Nơi đó có nhiều Thiên nữ.

Chư Thiên mới sinh thấy màu gì cũng đều thích mắt, nghe âm thanh gì cũng đều vui tai, ngửi mùi gì cũng đều ưa thích, nếm vị gì cũng đều thích thú. Họ hưởng đầy đủ mùi vị cõi trời. Các vật họ xúc chạm đều đáng ưa và họ nghĩ gì cũng đều được như ý.

Chư Thiên này bị tất cả dục lạc trói buộc. Họ không ngừng thọ hưởng vô số thú vui đáng ưa đi trên đất lát châu báu, nghe tiếng chim hót, cùng các Thiên nữ đi vào rừng lớn. Họ lại thấy ao hoa gồm đủ loại hoa xinh đẹp khác nhau, có loại hoa sen cành bằng Tỳ-lưu-ly, lá bằng vàng ròng, tua bằng kim cương, đài bằng châu báu nhân-đà xanh, các bông hoa đều mềm mại. Lại có hoa sen cành bằng vàng ròng, lá bằng Tỳ-lưu-ly, đài bằng bạc, tua bằng châu báu hoa sen đỏ và có đủ loại ong phát âm thanh vi diệu.

Lại có hoa sen làm bằng bảy báu, lá bằng vàng ròng, đài bằng bảy báu như là báu nhân-đà xanh, báu hoa sen đỏ, báu Tỳ-lưu-ly, báu hoa sen hồng, xa cừ báu chúa rất xanh. Chúng tỏa ánh sáng đủ màu sắc. Vô số đài sen đều giống đài sen đó là Thiên tử nhìn không biết chán. Cảnh vật mà Thiên tử nhìn càng ngày càng xinh đẹp hơn làm họ say đắm giống như rưới dầu vào lửa thì không bao giờ đủ.

Làm sao gọi là vui khi thú vui đó chẳng thật vui chẳng vắng lặng. Ai không tham ái thì tâm sẽ vắng lặng. Hễ được thú vui thì tâm tham ái lớn dần, khi tâm tham ái lớn dần thì họ không biết đủ và vì không biết đủ nên phải chịu khổ. Ở trong cái khổ mà họ tưởng là vui và bị lửa ái thiêu đốt.

Họ lại vào rừng thấy trong hang núi có vô số cây phát ra vô số ánh sáng. Họ nhìn không chớp mắt và bị lửa ngũ dục thiêu đốt không hề biết chán. Họ lại vào ao ma-ni bảo thạch, nước có màu vàng ròng và pha lê, chạm vào rất mềm mại. Nơi ấy có năm loại nước mềm mại, không làm ướt áo và có các con chim cất tiếng hót véo von. Nơi ấy rất yên tĩnh.

Họ lại thấy nơi khác có ao sen chứa đầy nước màu pha lê bốn phía lót đá báu ánh sáng chiếu khắp. Ao đó được trang sức bằng ngỗng, vịt, uyên ương và hoa sen, có rừng cây vây quanh. Trong rừng có nhiều chim hót rất hay. Ao được trang trí bằng đủ thứ như vậy.

Các vị Thiên mới sinh lại thấy có đủ loại ong cánh bằng bảy báu, cây trên bờ ao tiết ra mùi thơm và có đủ màu sắc hình dạng để trang trí ao.

Chư Thiên mới sinh lại tiến vào rừng và thấy có ao lớn chứa đầy vị tu-đà. Họ thấy nơi khác có sông cháo sữa và sông nước uống trong sạch. Tiếng nước chảy nghe như tiếng đàn cầm. Những sông đó gồm trăm ngàn dòng và chảy khắp nơi, có nhiều chim uống rượu thượng vị và hót rất hay.

Các vị Thiên mới sinh lại thấy trên đất liền có nhiều loại hoa đủ màu sắc và hình dáng trang sức cho rừng. Các bông hoa chứa đầy các con ong tiết ra mùi thơm. Nhờ hương thơm của hoa rừng vốn đã thơm nay lại thơm gấp trăm lần. Các vị Thiên mới sinh và chư Thiên nữ lại thấy trong rừng có ngọn núi lớn được trang hoàng bằng các loại của báu và vô số dòng nước. Bóng râm của cành cây giống như cung thất. Nơi ấy có đủ loại ánh sáng báu và vô số loại chim hót rất hay, trông rất đáng yêu. Nơi đó có tiếng chim Câu-sí-la, có vô số loại hoa rất thơm và ánh sáng xinh đẹp. Giống như ở Diêm-phù-đề ánh sáng của mặt trời, mặt trăng chiếu sáng hư không, cõi trời cũng có vô lượng ánh sáng trang nghiêm cõi trời. Có vô lượng ánh sáng thù thắng trang điểm cho ngọn núi ấy.

Thấy vậy Thiên tử cùng Thiên nữ leo lên ngọn núi, khi đã đến ngọn núi, họ thấy rừng càng xinh đẹp, tiếng ca từ từ cao vút lên, càng đến gần nghe càng hay, nghe tiếng ca này họ càng chạy mau đến và thấy những việc xưa nay chưa từng thấy.

Chư Thiên giương mắt nhìn và thấy các hàng cây thẳng hàng đáng yêu gồm các cây bằng Tỳ-lưu-ly, hoặc nhân-đà xanh đứng ngay ngắn. Chư Thiên mới sinh liền đi vào, thấy trong rừng ấy có nhiều Thiên tử và Thiên nữ, có các đồ trang sức màu sắc vi diệu sinh ra theo ý nghĩ. Mỗi Thiên tử đứng một nơi khác nhau cùng với Thiên nữ uống rượu thượng vị của cõi trời, không có lỗi say sưa. Họ vui chơi thọ hưởng hoan lạc trong từng hàng cây báu rồi vào ao sen cùng các Thiên tử nghe năm loại âm nhạc, ca múa, vui cười, vui vẻ hưởng lạc. Do bị tham ái che lấp tâm, họ say đắm năm dục không biết nhàm chán, vào rừng hoa sen, dùng cánh sen uống rượu thượng vị của cõi trời không hề say sưa. Có Thiên tử say đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc. Có Thiên tử vui đùa với nhau ở hai bờ sông.

Các vị Thiên mới sinh lại thấy các cung điện báu đan nhau như rừng, có lan can bằng Tỳ-lưu-ly trông rất đáng yêu. Do nghiệp lành có bậc thượng, trung, hạ nên họ được nhan sắc xinh đẹp, nghe năm loại âm nhạc, hưởng vô số thú vui không thể ví dụ. Vì chưa từng thấy Thiên chúng vui chơi hưởng lạc như vậy nên các Thiên tử mới sinh liền cùng với Thiên nữ vui vẻ hướng về phía Thiên chúng. Thấy các Thiên tử có y áo đẹp đẽ, nhan sắc xinh đẹp chưa từng có Thiên chúng cũng vui mừng hướng về phía Thiên tử. Hai Thiên chúng này hòa hợp vào nhau không chút ngăn cách và cùng các Thiên nữ vui chơi thọ nhận hoan lạc ở từng rừng cây, từng ngọn núi, từng ao sen, từng sông rượu, từng dòng suối.

Sau khi hưởng lạc đã lâu, chư Thiên lại hướng đến núi nhất thiết kiên cố. Núi này bằng bảy báu và có vô số ao, sông suối. Các Thiên tử mới sinh được Thiên nữ vây quanh cùng với Thiên chúng sinh tâm thán phục khi nghe âm nhạc, thấy sông suối đầy khắp núi và thấy vô số cung điện đan nhau như rừng rất đáng yêu, có hoa sen vây quanh giống như cây đèn, có cây như ý trang điểm cho núi.

Một phía của núi ấy làm bằng báu Tỳ-lưu-ly, mặt thứ hai bằng vàng ròng, mặt thứ ba bằng châu báu nhân-đà xanh, mặt thứ tư làm bằng châu báu chúa rất xanh. Bốn mặt đều được trang sức như nhau và đều bằng phẳng. Ở nơi bằng phẳng có đủ ngọn núi, hang núi, rừng cây, vị trời nào nhớ đến lạc thú, muốn vui chơi thì lên rừng này. Hàng trăm ngàn Thiên tử, mỗi vị có một ngàn Thiên nữ làm quyến thuộc cùng nghe năm loại âm nhạc và vô số âm thanh giao hưởng với nhau. Hàng trăm ngàn Thiên chúng cùng các Thiên tử mới sinh ca múa vui cười với nhau ở vườn cây ao hoa, dòng suối nơi được trang nghiêm bằng trăm ngàn cây xinh đẹp, ánh sáng bảy báu và rừng hoa sen.

Ở các nơi này, chư Thiên cùng nhau đi dạo vui chơi, hướng về núi lớn và ưa thích lẫn nhau. Họ làm bạn với nghiệp lành và lấy nghiệp lành làm của cải. Do nghiệp lành nên họ không có xương thịt và các chất nhơ bẩn. Họ cùng nhau dạo chơi trên sông Thức ăn và thức uống. Do nghiệp lành, họ đầy đủ sắc, hương, vị, xúc. Ăn thức ăn đó, Thiên tử phát sinh tham dục nên thọ hưởng hoan lạc ở khắp nơi. Sau khi hưởng các lạc thú không gì sánh bằng và muốn bay lên núi, họ thấy nơi tốt đẹp chưa từng có của núi lớn. Bay một hồi lâu họ mới lên đến đỉnh núi đó để dạo chơi rất là thích thú. Đỉnh núi này có nhiều nơi dạo chơi được trang sức bằng các loại của báu. Khắp đỉnh núi có rừng cây, ao nước, hoa Câu-vật-đầu, rừng hương thơm. Tùy theo tâm niệm mà họ có đầy đủ mọi thứ dục lạc. Những thứ họ ưa thích đều có đầy đủ như ý và không bị người khác chiếm đoạt.

Sau khi hưởng lạc ở đó đã lâu các Thiên tử lại quan sát khắp nơi và tiến đến hang núi bảy báu, nơi có rừng bảy báu che phủ. Ánh sáng rực rỡ, có các con chim trời hót rất hay. Xung quanh hang tịch tĩnh có ao hoa tên tịch tĩnh hành xứ. Người nào đời trước giữ giới không đủ thì sinh vào ao này. Vào đời trước, họ cứng đầu cứng cổ có thể nói pháp chính yếu nhưng không thực hành đúng pháp giống như người đóng kịch nói về quả báo của nghiệp nên khi ra khỏi địa ngục, ngạ quỷ, họ sinh làm ngỗng, chim trong ao này. Do đời trước họ sống tịch tĩnh nên sinh vào ao tịch tĩnh này, có cánh bằng bảy báu, thân phát ra ánh sáng, tiếng hót rất hay, ăn hoa sen, từng cặp trống mái theo nhau vui chơi.

Bồ-tát Ngỗng chúa Thiện Thời thường ở trong hang núi này thuyết pháp cho chư Thiên và thuyết pháp cho các con chim ở trong ao. Khi ấy, chư Thiên vui chơi ca hát và phân làm hai nhóm. Một nhóm do nghiệp lành nên đến ao này. Nhóm còn lại đi vào rừng phóng dật vui chơi ca múa say mê thọ lạc. Khi nhóm có nghiệp lành đến ao lớn, ngỗng chúa thấy liền nói kệ:

Người nào tuy thuyết pháp
Không sống đúng như pháp
Người ngu đó nói dối
Thường chịu các khổ não.
Nếu chỉ dạy cho người
Còn mình thì không làm
Nói những lời vô nghĩa
Đó là người không tâm.
Phóng dật tham dục sinh
Tham dục nên sân hận
Người này đi đường ác
Vào địa ngục rất mau.
Thú vui trong quá khứ
Không còn trong hiện tại
Thú vui hiện đang hưởng
Cũng không gọi là vui.
Người ngu ưa phóng dật
Thích thú vui hiện tại
Bị nghiệp quả lừa dối
Liền đọa vào địa ngục.
Ba đời bị ái lừa
Thường làm việc bất lợi
Sinh tử trói chúng sinh
Người trí không nên tin.
Người ngu gần tham ái
Bị hại như gặp giặc
Trói chúng sinh ở đời
Người trí không nên tin.
Nếu bị gông cùm xích
Còn có thể chặt đứt
Người thường cầu ái dục
Không thể thoát xích ái.
Ai cắt đứt dây ái
Là thích nơi thường lạc
Người này lìa cảnh ái
Sống cảnh giới trí tuệ.
Người trí thích ánh sáng
Nói ái rất tối, khổ
Người trí giữ ánh sáng
Liền phá trừ tối tăm.
Dùng dao bén trí tuệ
Đốn ngã cây tham ái
Ai chặt đứt cây ái
Sẽ đến nơi rất vui.
Chặt bỏ rừng tham ái
Và dùng nhiều sông suối
Đã chặt rừng cây ái
Được thoát khỏi các cõi.
Ba đường sông ái lớn
Nước phóng dật cuốn xoáy
Nếu lên thuyền trí tuệ
Đến bờ kia an ổn.
Lên ngọn núi trí tuệ
Hang giữ giới xinh đẹp
Dùng vô số mắt trí
Sẽ thấy hết các họa.
Người nào xa lìa pháp
Người ấy thật trống rỗng
Ai không ưa thích pháp
Dễ vỡ như bọt nước.
Nếu có người chắc thật
Trong ngoài như kim cương
Theo pháp sống tịch tĩnh
Làm ích lợi mọi người.
Ai chìm trong phóng dật
Thích thú vui cảnh giới
Bị rắn cảnh giới cắn
Thường chịu các đắng cay.
Người nào thích được vui
Không nên sống phóng dật
Người nào lìa phóng dật
Thì được nhiều thú vui.
Người nào có trí tuệ
Không tin ở phóng dật
Nếu bị phóng dật cắn
Sẽ trôi lăn năm đường.

Để điều phục chư Thiên, ngỗng chúa đã nói kệ đó. Do tham đắm dục lạc, chư Thiên không ghi nhận mà lại tiếp tục ca hát, vui chơi thọ lạc.

Khi ấy, Bồ-tát Ngỗng chúa Thiện Thời thống lãnh các con ngỗng, dùng tâm chánh niệm để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh nên quan sát các con ngỗng đang hưởng hoan lạc và riêng mình ở trong hang tư duy về chánh pháp. Ngỗng chúa Thiện Thời thích nghĩ đến pháp lạc và lấy việc thuyết pháp cho người khác làm thú vui. Lại có các con ngỗng khác cũng suy nghĩ về pháp.

Khi ấy, do tâm vui mừng muốn tìm thú vui, chư Thiên hướng đến nơi này và thấy ao rộng rãi đáng yêu, có đầy đủ hoa quả trong mọi mùa, thấy vậy Thiên chúng và Thiên nữ càng thích thú, ca múa, vui chơi, thọ lạc gấp trăm lần lúc trước ở xung quanh ao lớn.

Thấy chư Thiên, Bồ-tát Ngỗng chúa nói kệ để thành tựu trí tuệ:

Người trí không phóng dật
Có thể lìa phóng dật
Liền lên lầu trí tuệ
Được yên ổn vô cùng.
Ai trừ bỏ phóng dật
Được đạo rất vắng lặng
Vào con đường rộng này
Trí tuệ đến Niết-bàn.
Phóng dật ngăn che đạo
Làm tâm gây tội mãi
Chính việc phóng dật này
Phá hỏng cây cầu pháp.
Hủy bỏ hết thiện niệm
Đánh mất đường giải thoát
Chính việc phóng dật này
Dẫn người vào đường ác.
Phóng dật làm loạn tâm
Không biết lúc lợi ích
Không biết lời nói pháp
Không khác gì người chết.
Tuy đang mang thân trời
Mà chẳng khác súc sinh
Bị phóng dật hủy hoại
Hoặc múa hoặc vui cười.
Hoặc sống hoặc thoái đọa
Thường sinh rồi lại diệt
Chúng sinh trong ba cõi
Trôi lăn vì phóng dật.
Tạo tất cả tội lỗi
Bị dây nghiệp trói buộc
Mê lầm tất cả pháp
Bị giặc phóng dật trói.
Vì bị phóng dật hại
Nên không biết nội pháp
Cũng chẳng biết ngoại pháp
Đánh mất tâm không hay.
Bị người trí chê cười
Thiên tử mà làm thế
Không thẹn, không sợ sệt
Bị phóng dật làm hại.
Tâm ưa thích vui chơi
Và thường thích ca múa
Không biết chán cảnh giới
Thoái đọa khỏi cõi trời.
Bị phóng dật lừa dối
Vui cười nơi đáng sợ
Giống như người bị mù
Không biết đường đúng sai.

Để làm lợi ích cho người khác khi quan sát chư Thiên, Bồ-tát Ngỗng chúa Thiện Thời đứng ở một nơi đáng yêu nhất nói bài kệ điều phục. Tuy nghe bài kệ, nhưng chư Thiên không ghi nhớ mà vẫn tiếp tục ca múa vui chơi, hưởng năm thứ dục lạc, đứng xung quanh ao thích thú ngắm cảnh.

Ở cõi trời Dạ-ma có ba vị Đại sĩ thường thuyết pháp cho các vị Thiên phóng dật ở cõi trời ấy. Ba vị đó là:

1. Vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà.
2. Bồ-tát Ngỗng chúa Thiện Thời.
3. Bồ-tát Khổng tước chúa Chủng Chủng Trang Nghiêm.

Đó là ba vị Đại sĩ thường giảng rộng chánh pháp cho người khác, giúp họ đắc quả Thanh văn hoặc Duyên giác. Các Đại sĩ này đã vượt khỏi cảnh giới ma.

Lúc ấy, ma Ba-tuần suy nghĩ: “Các Đại sĩ này làm trống rỗng cảnh giới ta và muốn bỏ ta đi. Các thầy Sa-môn trong loài người, bốn vị vua ở trời Tứ Thiên vương, Kiều-thi-ca ở cõi trời Tam thập tam, Mâu-tu-lâu-đà, Bồ-tát Thiện Thời, Bồ-tát Chủng Chủng Trang Nghiêm ở trời Dạ-ma, trời Đâu-suất-đà với vua trời Tịch tĩnh và quyến thuộc của họ, những người này tuy ở cảnh giới ta nhưng không thuộc về ta. Sứ thần của ta có thể đánh bại sáu cõi trời và người. Trời Hóa lạc tuy là cảnh giới của ta nhưng có sức mạnh nên ta không thể nhiễu loạn. Nay ta sẽ cho đại thần trí tuệ đến trời Dạ-ma để nhiễu loạn pháp của họ”.

Nghĩ xong, ma vương liền bàn bạc với các đại thần:

–Các ông hãy đến đánh bại vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà, Bồ-tát Thiện Thời, Bồ-tát Chủng Chủng Trang Nghiêm. Ba người khéo ăn nói, giỏi biến hóa và có thế lực lớn là Hoan Hỷ, Phóng Dật và Dục Mê hãy đi đến chỗ các vị ấy để nói pháp đánh bại họ.

Nghe ma vương nói, ba vị đại thần liền đến trời Dạ-ma và tới chỗ ngỗng chúa Thiện Thời. Đến nơi, họ thấy ngỗng chúa có oai đức mạnh mẽ, tướng mạo thù thắng không khiếp sợ, đang nói kệ thuyết phục chư Thiên.

Chẳng phải lúc phóng dật
Không nên sinh hoan hỷ
Hai pháp này sinh si
Giờ chết có sức mạnh.
Khói vui lửa phóng dật
Thiêu đốt rất nhiều người
Bị cảnh giới mê hoặc
Đui mù không ai biết.
Sẽ không còn thân trời
Rơi vào nghiệp chúng sinh
Bị cảnh giới làm mê
Không hay biết lợi ích.

Nghe bài kệ đó xong, ba vị đại thần của ma vương nói kệ:

Phóng dật rất vui thích
Sinh ra các lạc thú
Phóng dật sinh ưa thích
Vì sao nói như vậy?
Ngỗng chúa Thiện
Thời nói kệ trả lời:
Phóng dật không có vui
Cũng không sinh lạc thú
Phóng dật sinh khổ não
Nên nói ao hoa sen.

Đại thần Phóng Dật của ma nói kệ:

Lạc thú các cảnh giới
Phóng dật và Thiên nữ
Cùng với các kỹ nhạc
Là thứ đáng yêu nhất.

Ngỗng chúa Thiện Thời nói kệ đáp:

Nếu pháp sinh phóng dật
Tất cả đều là khổ
Đánh mất các căn lành
Đi vào ba đường ác.

Đại thần Phóng Dật lại nói kệ:

Hoặc ở trong vườn cây
Hoặc trong ao hoa sen
Hoặc tại các tầng lầu
Thọ lạc nhờ phóng dật.

Ngỗng chúa Thiện Thời nói kệ đáp:

Ở núi rừng vườn cây
Nơi đồng trống yên tĩnh
Phóng dật không thể mở
Dây trói của ma ác.
Phóng dật vào địa ngục
Hoặc đọa vào súc sinh
Hay sinh vào ngạ quỷ
Phóng dật là ngu si.

Ngỗng chúa Thiện Thời nói kệ như vậy đáp lại đại thần Phóng Dật của ma vương.

Khi ấy, các Thiên tử đang lìa bỏ phóng dật tu tập thiền định trong hang vàng. Biết việc này, Mâu-tu-lâu-đà đến ao rộng. Thiên chủ được rất nhiều Thiên nữ vây quanh đầy khắp hư không, ca múa vui đùa, phát ra âm thanh rất hay. Các vị trời không phóng dật ở gần Thiên vương, không ca múa và bất ngờ xuất hiện ở ao rồng khi việc vấn nạn xảy ra.

Sau khi nghe ngỗng chúa nói tất cả bài kệ, vua trời Mâu-tulâu-đà hồi tưởng như vầy: Ta và các vị trời khác nghe nói: Ba đại thần của ma vương tên Phóng Dật, Hoan Hỷ và Dục Mê đã đến đây làm tăng thêm mê hoặc cho những kẻ ngu. Ta sẽ nói cho các vị đại thần này nghe mười một pháp môn đáp lại vấn nạn để trừ ma chúng ấy.

Sau khi suy nghĩ, vua trời Dạ-ma bàn với ngỗng chúa Thiện Thời rồi từ không trung hạ xuống ngồi trên đài sen với vô lượng vị trời phóng dật vây quanh. Thiên chủ nói mười một pháp môn đáp lại vấn nạn thù thắng và bảo chư Thiên:

–Các ông hãy lắng nghe về tai họa của việc phóng dật. Trước đây ta đã từng được vị Thiên tử không phóng dật tên là An Ổn dạy cho ta pháp này. Đó là bài thuyết pháp của Đức Như Lai Ca-diếp. Các ông phải lắng nghe và ghi nhớ kỹ. Tất cả Thiên chúng, các chim thuyết pháp, ngỗng chúa Thiện Thời, quân của ma vương, đại thần Phóng Dật, người nói pháp điên đảo, làm những việc bất lợi đối với thế gian, làm bạn bè của ma, tất cả hãy lắng nghe mười một pháp môn đáp lại vấn nạn thù thắng. Đó là mười một bạch pháp, dứt được mười một pháp nhiễm ô. Ai muốn cầu Niết-bàn chân thật, muốn lìa cảnh giới ma, sợ dây trói sinh tử, ở một mình nơi vắng vẻ, muốn cầu chân lý, diệt trừ hắc ám thì hãy chú ý lắng nghe. Mười một pháp môn tối thượng đó là gì? Và nó đoạn trừ mười một pháp gì?

  1. Dùng sự điều phục đoạn trừ sự kiêu mạn.
  2. Chánh tâm bất loạn trừ hai loại phá giới.
  3. Tinh tấn để diệt trừ biếng nhác.
  4. Dùng pháp trong sạch để diệt trừ pháp dơ.
  5. Dùng pháp trong sạch đoạn trừ pháp ác.
  6. Biết đủ trừ bỏ nhiều ham muốn.
  7. Sống xa lìa để trừ bỏ sự gần gũi thân thuộc.
  8. Dùng lời chân chánh để dứt trừ lời vô nghĩa.
  9. Dùng chánh định để đoạn trừ xao động.
  10. Bố thí để dứt bỏ nghèo nàn.
  11. Trí tuệ để đoạn trừ ngu si.

Mười một pháp nhiễm ô này trói người vào cây phóng dật, muốn lìa bỏ cảnh giới ma phải dứt trừ nó. Ai sợ sinh tử phải trừ bỏ phóng dật. Phóng dật là gốc rễ của sinh tử, không phóng dật là nhân của giải thoát.

Vì muốn tất cả chúng sinh lìa bỏ sinh tử, Đức Phật Ca-diếp đã nói bài pháp này. Trước đây ta đã nghe vị Thiên tử tiền bối nói lại pháp ấy. Vị Thiên tử ấy được nghe Đức Phật Ca-diếp nói pháp đó và giảng lại cho ta, lần lượt truyền trao như vậy, nay ta nói cho các ngươi nghe.

Dùng pháp gì để điều phục kiêu mạn? Người điều phục kiêu mạn được chúng sinh yêu mến, kính trọng. Nhờ điều phục nên họ dứt trừ tất cả pháp kiêu mạn, thô ác, kiêu mạn có năm thứ là:

Người nào vào xóm làng, thành ấp hoặc đi trên đường, đi rất mau không giữ gìn oai nghi, hoặc đi trên đường hoặc nơi chẳng phải đường, phe phẩy y phục, hoặc đi nhón gót làm người có tâm ngay thẳng thấy vậy sinh tức giận, nghĩ: Tại sao người này sống trái với pháp, làm người say, người cuồng. Đó là sự kiêu mạn thứ nhất.

Để đoạn trừ sự kiêu mạn này ta phải đi đứng một cách ngay ngắn, không liếc ngó hai bên mà ngó thẳng về phía trước khoảng một tầm, oai nghi tề chỉnh, không vung vẩy y áo, không giở chân cao, chỉ giở cách đất khoảng bốn ngón tay, không để bày vai, y áo phải ngay ngắn, không vung vẩy tay khi đi. Không phóng dật có thể dứt trừ phóng dật.

Lại có bốn loại phóng dật mà các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni cần phải lìa bỏ. Đó là nói lời vô ích, tâm không suy nghĩ, không biết nhiều ít. Khi đến nhà thí chủ, không khảy móng tay, không lên tiếng mà đường đột xông vào, ngồi ở trên cao mà nói nhiều lời vô nghĩa nhưng không hay biết, nói lớn tiếng ở nơi tĩnh tọa, dòm ngó những người nữ, giận dữ vô cớ, liếc ngó hai bên, không xem xét trước sau, là quyến thuộc của kiêu mạn, lén vào nhà người, tất cả người đời đều không ưa hạng Tỳ-kheo này. Người sống tịch tĩnh gọi họ là Tỳkheo kiêu mạn. Tại gia, xuất gia đều như vậy.

Làm sao để diệt trừ những lỗi này?

–Khi gặp thí chủ hoặc người khác thì nói chánh pháp, trước sau tương ưng, quan sát người, quan sát tâm rồi mới nói, nói đúng nơi, đúng lúc, không nói trái ngược nhau, nói lời hòa nhã dễ hiểu, nói tương ưng với pháp, sống đúng với pháp, không dòm ngó người nữ, khảy móng tay rồi mới vào nhà, ra vào phải biết thời, biết tướng, không vung vẩy y áo, không vung vẩy tay khi đi, không khạc nhổ từ trên cao xuống, không nói lớn tiếng, dùng lời hay đẹp thuyết pháp, đợi hỏi mới nói, không cướp lời người khác, ít nói, nói lời tốt đẹp và đúng pháp. Đó là dùng giới luật để trừ bỏ kiêu mạn.

Lại nữa, sự điều phục thứ hai có thể dứt trừ kiêu mạn là: Tỳkheo khi vào nhà người khác nếu nghe ca nhạc, vui cười hoặc trong khi đi chơi nghe người khác cười nói thì không nghe, không thích, không thưởng thức, không mong cầu, không nói nhiều, không nói lỗi của người khác, không tự trang điểm khi đến nhà người khác, không thường đến nhà người khác, không thường cầu xin. Khi đến nhà người khác hoặc nhà thí chủ của mình, nhờ sự điều phục đó, Tỳ-kheo này dứt trừ được kiêu mạn.

Lại nữa, điều thứ ba, Tỳ-kheo đến nhà thí chủ, nói lời phi pháp, nói lời thế tục, bàn luận về đất nước, về việc sinh Thiên, về việc vui chơi ca múa và các việc ái nhiễm trong quá khứ, ngồi gần người nữ, mặc y nhiều màu đi vào nhà người khác. Nếu Tỳ-kheo nào bị kiêu mạn thiêu đốt như vậy thì dùng giới luật gì để diệt trừ?

Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào vào nhà người khác nói về pháp

xuất gia, pháp bố thí, pháp trì giới, khen ngợi công đức của trí tuệ, thuyết pháp vô thường, hư hoại, nói về già, bệnh, ái biệt ly, tự tạo nghiệp, tử biệt ly, nói về pháp tri túc, pháp điều thuận, nói về khổ, tập, diệt, đạo, về sự tiến thối của người khác, về tai họa của việc phá giới, nói về pháp nhàm chán, pháp trừ bỏ tham lam keo kiệt, nói cho người tự kiêu về sắc đẹp nghe tai họa của sắc đẹp, tai họa của thức ăn, sự hủy hoại của vô thường, tai họa của tuổi trẻ là bị già hủy hoại, quan sát thâm tâm người khác rồi mới nói pháp thích hợp, nhờ điều phục, Tỳ-kheo này phá bỏ sự kiêu mạn.

Lại nữa, sự điều phục đoạn trừ kiêu mạn thứ tư là không thọ nhận nhiều đồ ăn uống. Không gần gũi người tham đắm mùi vị thức ăn không biết nhàm chán, ưa thích đến nhà người, khi được cúng dường y phục, đồ ăn uống, ngọa cụ, thuốc men thì biết đủ mà thọ nhận, không nghĩ đến và không tham đắm thú vui của người khác, không có nghi ngờ dò xét, chỉ hết lòng thực hành với tâm điều phục, giữ oai nghi chân chánh, Tỳ-kheo điều phục dùng pháp điều phục để diệt trừ kiêu mạn.

Tất cả kiêu mạn do phóng dật sinh, phóng dật không có lợi ích đối với các công đức. Vì vậy, muốn cầu Niết-bàn ta nên đoạn trừ phóng dật. Vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà, Ngỗng chúa Thiện Thời nói cho nhóm đại thần Phóng Dật của ma vương nghe pháp trước kia Đức Phật Ca-diếp đã dạy cho Thiên tử và lần lượt truyền dạy cho đến nay.

Đáp lại vấn nạn thứ hai là gì?

–Đó là dùng chánh niệm hiện tiền đoạn trừ sự phá giới. Giới có hai loại. Giới mà tâm có thể giữ gìn ở thế gian và xuất thế gian gồm nhiều loại nhưng nói tóm lược thì có hai loại là tánh trọng giới và lìa giới ác. Ai phá tánh trọng giới thì không phải là đệ tử của Đức Phật Ca-diếp.

Tánh trọng giới là: Sát sinh, phi phạm hạnh, trộm cắp đủ ba bát-lê-sa-bàn, trộm cắp đồ vật của Phật hoặc của pháp để ăn không chút hối tiếc, cũng không bồi thường trở lại, luôn che dấu không nói ra. Tỳ-kheo như thế chẳng phải là đệ tử của Đức Phật Ca-diếp. Đó chỉ là người mục nát, hư hoại không phải là pháp khí, chỉ dùng lời nói dối để làm y phục. Do phóng dật nên họ phá tánh trọng giới. Vì thế, Đức Phật Ca-diếp dạy các thầy Tỳ-kheo nên lìa bỏ phóng dật. Thiên vương Dạ-ma thuyết pháp cho Bồ-tát Ngỗng chúa Thiện Thời, các con ngỗng, các đại thần của ma vương như đại thần Phóng Dật.

Ngồi trên đài sen, Mâu-tu-lâu-đà đã nói pháp đó.

Lìa giới ác gồm có chín loại. Chín loại đó là:

  1. Tịnh tu nhất hành.
  2. Thường hay hối cải.
  3. Thuận hành.
  4. Thực hành một nửa.
  5. Thực hành nhiều.
  6. Phạm giới nhẹ liền hối hận.
  7. Hết sức thực hành sau khi nghe chỉ dạy.
  8. Làm việc hủy hoại.
  9. Thực hành tất cả.

Đó là chín loại lìa giới ác. Tất cả pháp ngu si hoặc Sa-môn do phóng dật nên là người vô trí, làm việc bất tịnh.

Thế nào gọi là nhất hành? Do coi thường ác kiến, phóng dật nên họ phá hủy giới khinh như đào đất, dãy cỏ rồi sau đó hối tiếc. Đó gọi là nhất hành.

Thế nào gọi là sống phóng dật phá giới rồi thường hay hối cải? Đó là Sa-môn phá nhất hành giới một hoặc hai hoặc ba lần. Sau khi phá giới khinh họ trở lại hối tiếc. Nhiều lần làm, nhiều lần hủy hoại như vậy là xả bỏ giới ác, không kính trọng pháp, không lìa bỏ phóng dật, tâm thường tán loạn. Đó là phá giới rồi hối tiếc.

Thế nào là thuận hành? Đó là ngày càng phóng dật, khinh tâm, khinh giới, không siêng năng học giới, người này có thể nói và biết nguyên nhân phá giới, biết việc thật, việc không thật, biết rằng phá giới trọng ở trong giới pháp thì mắc tội rất nặng nên đã kiên quyết không phạm, nhưng khi gặp nạn thì họ phá hủy giới khinh, không giữ gìn, không kính trọng chánh pháp. Đó là Tỳ-kheo thuận hành.

Thế nào là Tỳ-kheo thực hành một nửa? Đó là người chỉ học giới pháp, biết giới trọng giới khinh, hoặc giữ gìn hoặc không giữ gìn, trong tâm suy nghĩ việc giữ các giới khác. Người này chuyên tâm giữ gìn một nửa số giới và không thực hành số giới còn lại. Đó gọi là thực hành một nửa. Tỳ-kheo sống phóng dật bị phóng dật sai khiến, sống trong cảnh phóng dật, không thể mau chóng đạt Niếtbàn.

Thế nào là thực hành nhiều? Đó là hoặc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, giữ giới đầy đủ, thực hành thuận theo pháp, giữ nhiều giới lìa ác không khiếm khuyết, thất thoát, hư dối, tuy giữ chắc chắn nhưng không thể giữ hết, đó là thực hành nhiều.

Thế nào là Tỳ-kheo và đệ tử Phật phạm giới nhẹ liền hối hận? Do phóng dật hoặc gần bạn ác, Tỳ-kheo này phạm giới nhẹ và mau chóng hối cải, vì sợ nỗi khổ ở địa ngục nên họ lập tức sám hối để tâm được thanh tịnh. Họ đến trước chúng Tăng và nói: “Tôi đã làm việc bất thiện”, họ không che giấu, sám hối rồi không tái phạm. Đó là Tỳ-kheo phạm giới rồi liền hối cải.

Thế nào là Tỳ-kheo hết sức thực hành sau khi nghe chỉ dạy? Nếu Tỳ-kheo và đệ tử của Phật vì phóng dật hoặc gần người ác nên phá hủy hoặc nới lỏng trọng giới, sau đó vội vàng gặp thầy sám hối, hoặc lúc Bồ-tát sám hối trước chúng Tăng không chút che giấu, sau khi được nghe chúng Tăng dạy bảo thì không tái phạm. Vì sợ hãi ba đường ác nên họ không dám phá hủy hoặc nới lỏng. Đó là Tỳ-kheo hết sức thực hành sau khi được chỉ dạy.

Thế nào là làm việc hủy hoại? đó là Tỳ-kheo trọn đời khinh thường, buông thả tâm, không ưa thích và không thực hành việc tọa thiền, tụng kinh, đi vào thiên miếu để cầu y phục, đồ ăn, thức uống, đi dạo khắp nơi, vào nhà thí chủ, gần gũi người thế tục, chịu sự sai khiến của họ để tìm cầu sự an lạc. Đó là Tỳ-kheo làm việc phá hoại. Tỳ-kheo này khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục.

Thế nào là người thực hành tất cả? Đó là người tin tất cả các pháp Tỳ-ni và nói cho người khác nghe, họ không thể giữ một hoặc hai giới khinh. Do tính chất hoặc thói quen nên họ không thể giữ đầy đủ giới chớ không phải vì không kính trọng. Phạm rồi, họ sinh hối hận. Đó là người thực hành tất cả. Tội của họ rất nhỏ. Nếu Tỳkheo hoặc đệ tử của Phật phá giới chút ít, tất cả đều do lỗi phóng dật.

Vua trời Dạ-ma ở trong đài sen nói pháp cho Ngỗng chúa Thiện Thời, các chim và nhóm đại thần Phóng Dật của ma vương.

Khi ấy, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà nói kệ:

Bị phóng dật làm mù
Uống phải độc phóng dật
Bị phóng dật trói buộc
Dẫn vào trong địa ngục.
Người nào sống phóng dật
Bị thế gian khinh chê
Hiện đời không lợi ích
Khi chết vào địa ngục.
Người ngu suốt ngày đêm
Hoặc đứng hoặc đi đường
Tất cả người phóng dật
Không được một niệm vui.
Do họ sống phóng dật
Trôi lăn trong cõi Dục
Qua lại ở năm đường
Thoái thất khỏi thiền định.
Nếu đắc định thế gian
Sinh vào cõi Vô sắc
Trôi lăn qua các cõi
Đều là do phóng dật.
Những thứ trong ba cõi
Do lưới ái tạo ra
Bị phóng dật ràng buộc
Người ngu không hay biết.

Vua trời Dạ-ma nói cho ngỗng chúa Thiện Thời, các chim và nhóm đại thần Phóng Dật nghe kinh mà Phật Ca-diếp đã dạy cho vị Thiên trưởng lão. Thiên chủ đã giảng ba pháp trong số mười một pháp. Ba pháp đó là:

  1. Điều phục diệt trừ kiêu mạn.
  2. Chánh tâm bất loạn, trừ bỏ hai hoại phá giới là tánh giới và lìa giới ác. Muốn trồng căn lành phải gần gũi bạn lành. Nhờ gần bạn lành mà người phá giới trọng còn được giải thoát sinh tử huống gì là người phá giới lìa ác. Vì vậy người trí nên cố gắng gần gũi bạn lành.
  3. Lìa bỏ việc biếng trễ, siêng năng tinh tấn. Nếu tinh tấn thì sẽ diệt trừ tất cả biếng nhác, còn như phóng dật thì sẽ vô ích đối với tất cả các pháp. Gần bạn lành là gốc của tất cả pháp thiện.

Pháp thứ tư là dùng pháp sạch để diệt trừ pháp nhơ, đó là dùng tinh tấn để diệt trừ biếng nhác giống như ánh sáng diệt trừ tất cả bóng tối. Người biếng nhác sẽ làm hại tất cả các pháp. Sau khi sinh ra, sự biếng nhác sẽ ngày càng tăng thêm và làm hư hỏng hết tất cả các pháp thế gian lẫn xuất thế gian, không thể nói hết trong hiện tại và vị lai. Ai biếng nhác thì thế lực yếu kém, bị người khinh chê, không thể sửa sang gia nghiệp, nghèo khổ, thấp kém, không thể kinh doanh, mua bán, cày cấy, gieo trồng và làm các việc khác, không thể gần gũi bạn lành. Do biếng trễ họ bị người khác khinh rẻ chê cười, họ không học hỏi trí tuệ, ngu si không biết gì, không biết thời, xứ, không biết sức mình, sức người, tất cả những việc nên làm theo hoàn cảnh trong hiện tại và vị lai đều bị thất bại.

Người tinh tấn thì có thể trừ bỏ biếng nhác, được mọi người yêu mến, kính trọng, đầu đêm đến cuối đêm tâm không mệt mỏi, ngủ rất tỉnh táo, biết lúc nào nên dậy lúc nào nên nằm, biết lúc thích hợp, suy nghĩ rồi mới làm, nỗ lực bền bĩ, làm bạn với tinh tấn, dùng nước tinh tấn tẩy sạch chất bẩn biếng nhác, tất cả mọi việc đều nhờ lìa cấu uế mà được thành tựu, khi có việc gì suy kém khổ não thì họ tinh tấn, không thoái lui, khiếp sợ, không mệt mỏi, gián đoạn, nhờ làm bạn với tinh tấn nên họ thành tựu được những việc lớn, khi làm việc gì họ không ỷ lại người khác, họ biết người tốt người xấu, biết sức mình sức người, được người tốt khen ngợi, mọi người kể cả vua và đại thần đều cúng dường họ, họ rất giàu mạnh không có địch thủ, những người rất mạnh cũng không thể phá nổi họ, bạn lành của người ấy ngày càng đông, nhờ nhiều bạn lành nên họ có sức mạnh, hưởng nhiều sự an lạc, đi đến đâu, dù đó là xứ lạ cũng thường được an vui. Nếu họ đến xứ khác thì cũng được người lành gần gũi, được những người xung quanh cung kính, cúng dường, dùng lễ tiếp đãi. Nhờ xa lìa biếng nhác nên họ được vô lượng công đức như vậy. Nhờ mặc áo giáp tinh tấn, kiên cố, lìa bỏ chất bẩn biếng nhác nên họ có thể phá tan quân ma, thoát biển sinh tử, được tất cả người thiện kính yêu, nhờ làm bạn với siêng năng tinh tấn nên họ được sự vô lậu, vô cấu của đường xuất thế gian và đạt được Niết-bàn, họ thấy những nơi trần cấu kiên cố không ràng buộc mà khó thoát như nhà cửa trói buộc thế gian, vợ con, quyến thuộc, anh chị em, tôi tớ, ruộng vườn, tài sản, kho vựa, đó chính là sông ái hung bạo. Nhờ lấy tinh tấn làm bạn, họ có thể thoát khỏi nỗi sợ sinh tử, xuất gia mặc ba y, làm bạn với tinh tấn. Nhờ tinh tấn họ thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, đắc đạo vô trụ, siêng tu thiền định, tụng đọc chánh pháp. Họ muốn vào Niết-bàn để được giải thoát, biết lúc cần phải siêng năng tinh tấn như biết rõ những vật phát ra từ thân miệng. Họ biết rõ tự tướng, biết như thật về tướng sinh diệt của ấm, giới, nhập. Suốt ngày đêm họ siêng năng gần gũi minh sư, dùng trí phương tiện siêng năng tu tập đạo diệt sạch tội lỗi, chặt bỏ hết dây trói làm ta trôi lăn trong đường sinh tử. Biếng nhác giống như bóng tối không có lợi cho tất cả chúng sinh. Nó là việc ác rất kiên cố, chỉ được diệt trừ bằng sự tinh tấn. Tùy theo chỗ chứng đắc, người ấy siêng năng tinh tấn phá tan tất cả sự hòa hợp, không ưa cảnh giới phiền não trói buộc, giả làm thân thiện, lừa dối tất cả phàm phu ngu si. Cảnh giới sắc, hương, vị, xúc này giống như giặc dữ cướp đoạt của cải pháp thiện, phá hoại pháp lành, khiến ta làm tất cả các việc không lợi ích, không thích quả báo, chẳng ưa của cải, làm não loạn tất cả phàm phu ngu si khiến họ mê muội. Vì vậy ta nên lìa bỏ, không nên tham đắm cảnh giới, phải tu đạo giải thoát giúp cho tâm trong sạch, nhờ tâm thanh tịnh liền được tinh tấn, chánh niệm không nghi ngờ, dùng việc tu hành tinh tấn chống lại kẻ thù. Nhờ làm bạn với tinh tấn, ta có thể dứt bỏ tham, sân, si, quan sát chân chánh để dứt trừ các hữu.

Sau khi diệt kẻ thù rồi, giống như ở Diêm-phù-đề vào lúc hư không không bị mây che, mặt trời, mặt trăng chiếu sáng rực rỡ, sự trong sạch của người ấy cũng như vậy, giống như người bệnh được lành, người nghèo được của, người mù đi lạc trong đồng trống bỗng được sáng mắt và tìm ra đường đi. Cũng như vậy, nhờ giữ giới cấm, tu hành chân chánh, người ấy được chứng đắc trong hiện đời, sinh tử đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã làm xong, không còn thọ nhận thân sau. Vị ấy lìa tất cả cấu uế, tất cả sự trói buộc được giải thoát, vượt qua bờ bên kia, có trí tuệ dũng mãnh, rũ sạch bụi nhơ, tất cả đều nhờ làm bạn với tinh tấn.

Vì vậy phải phát đại tinh tấn, đoạn trừ biếng nhác và các dây trói sinh tử.

Khi ấy, vua trời Dạ-ma nói kệ mà Đức Phật Ca-diếp đã dạy:

Phát sinh niệm tinh tấn
Thường thích ở một mình
Thoát khỏi các nghiệp ác
Trí tuệ được Niết-bàn.
Làm bạn với tinh tấn
Lìa bỏ bụi biếng trễ
Thoát đồng trống sợ hãi
Người ấy được thường lạc.
Biếng nhác và phóng dật
Ngăn cản hết mọi pháp
Do lầm lỗi lớn đó
Chúng sinh bị khổ não.
Ai muốn an vui mãi
Nên từ bỏ biếng trễ
Người phóng dật biếng nhác
Giống như chó không khác.

Vua trời Dạ-ma đã nói cho ngỗng chúa Thiện Thời, các loại chim thuyết pháp, nhóm đại thần Phóng Dật… nghe bài kinh mà Đức Phật Ca-diếp đã dạy cho vị Tiên trưởng lão và vị ấy dạy lại cho vua trời…

Pháp thứ năm là dùng pháp bạch tịnh để đoạn trừ pháp ác. Pháp ác là việc thích vào thành ấp, xóm làng, nơi ồn ào, không thích ở nơi vắng vẻ, làm hủy hoại pháp Sa-môn, Tỳ-kheo này lìa bỏ việc tu thiền tụng kinh, vào xóm làng, thành ấp, thích ở nhà bạch y, suốt ngày nói chuyện với người nam, người nữ. Nếu cùng người nữ nói chuyện thì ta có thể bị trói buộc, mất hết lợi ích, hoặc sinh tâm dục. Vì sao? Vì người nữ như lửa, khi gần họ thì ta ngày càng bị vướng chặt, ai gần người nữ thì tâm dần dần bị rối loạn, vì vậy Tỳ-kheo không nên vào xóm làng, thành ấp, nếu nói chuyện với người nam thì đánh mất tất cả sự tự lợi đối với pháp vô lậu, tâm không trong sạch, Tỳ-kheo này tự hủy hoại pháp của mình. Lại nữa, nếu có Tỳkheo vào xóm làng, thành ấp sẽ mắc nhiều lỗi lầm. Những lỗi đó là:

Do vào nhà người khác nên tâm bị não loạn, khi thấy người bạch y giàu có, nhiều đồ ăn uống, giường nệm, ngọa cụ thì sinh tham đắm. Tỳ-kheo làm như vậy giống như ăn lại đồ ăn vừa nôn ra. Người ấy rời nơi vắng vẻ đi trong nhân gian, bỏ đạo vào tục, bỏ thú vui nhàn nhã, bị gia đình trói buộc, làm việc tham, sân, si. Do những lỗi đó, họ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì sao họ chịu khổ như vậy? Đó là do họ vào thành ấp, xóm làng. Vì vậy Tỳ-kheo nào muốn chứng đắc thì phải từ bỏ lỗi lầm này. Làm sao để trừ bỏ lỗi lầm đó? Nhờ sống ở nơi vắng vẻ ta có thể giữ tất cả công đức vô trụ, được an ổn bậc nhất. Nếu có Tỳ-kheo ở một mình nơi vắng vẻ, các căn tịch tĩnh, tâm trong sạch, ý như vàng ròng, khéo hộ trì các căn, xa lìa sự sợ hãi và sự nhơ bẩn, được an ổn bậc nhất, đạt thú vui vô lậu. Tất cả dục lạc mà chư Thiên hưởng trong sáu tầng trời dục giới là nhờ tạo nghiệp lành mà có. Lạc thú trong một tầng trời đã đáng yêu vô cùng huống gì là tất cả các lạc thú trong sáu tầng trời. Nếu được thú vui vô lậu trong một niệm thì không gì có thể thí dụ được. Vì vậy muốn cầu thú vui bậc nhất thì nên lìa bỏ nơi ồn ào, không vào xóm làng, để cầu chánh định Tam-muội, thường đi một nình nơi núi, hang, nơi vắng vẻ, bờ cỏ, tìm cầu thú vui vô lậu, xa lìa bà con, bè bạn; quan sát thú vui bà con, bè bạn là vô thường, không yên trụ, là pháp biệt ly, chẳng phải là pháp vô trụ, là sự cấu nhiễm, não loạn không được tự do, có nhiều sự lo sợ. Vì vậy người ngu ít trí tuệ nào bỏ thú vui bậc nhất để đi tìm thú vui hữu lậu thì người ấy là người xa lìa ánh sáng để tìm bóng tối, là người ngu si, lùi bước vì họ không biết tướng lỗi lầm làm mất công đức. Vì vậy cần phải lìa bỏ thú vui ở xóm làng, thành ấp, thường ở một mình nơi vắng vẻ, rời khỏi xóm làng, thành ấp, ở trong rừng cây đạt thú vui vô trụ. Đó là pháp thứ năm dùng pháp bạch tịnh để đoạn trừ nghiệp cấu uế. Nếu muốn cầu thú vui, muốn lìa cảnh giới của ma phải dùng pháp thanh tịnh để đoạn trừ pháp ác.

Lúc này, tâm các loài chim đã hướng thiện, vua trời Mâu-tulâu-đà đã nói cho các chim, Bồ-tát Thiện Thời và nhóm đại thần Phóng Dật nghe năm pháp trong số mười một pháp mà xưa kia Đức Phật Ca-diếp đã thuyết cho Thiên tử trưởng lão để làm lợi ích cho họ. Vua trời Dạ-ma nói:

–Nay sẽ nói tiếp sáu pháp còn lại. Các ông hãy tập trung chú ý lắng nghe. Nay là lúc các ông đã xa lìa các hoạn nạn, nếu không nói pháp và nghe pháp thì đó là sự lừa dối lớn. Vì vậy, khi các ông đã xa lìa các hoạn nạn, không bị khuyết tật, các căn đầy đủ, ta sẽ nói pháp. Ở trong ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh làm sao nói pháp, làm sao nghe pháp, súc sinh thì giết hại lẫn nhau, ngạ quỷ thì đói khát, địa ngục thì bị khổ não hành hạ làm sao nghe pháp được? Chỉ có người hoặc trời nếu không phóng dật thì có thể nghe pháp.

Các ông nên tin rằng đã lìa bỏ phóng dật. Các ông hãy chú ý, ta sẽ nói cho nghe. Pháp khó được nghe, các căn đầy đủ cũng rất khó.

Lại nữa, sự cấu uế thứ sáu là nhiều ham muốn. Nhiều ham muốn là sự uế tạp bậc nhất, phải dùng hạnh biết đủ mới có thể diệt trừ nó. Người nhiều tham dục dù ở tại gia hay xuất gia đều không được an lạc. Dù tại gia hay xuất gia mà tâm nhiều ham muốn thì cả ngày lẫn đêm đều không được an lạc. Nếu có được của cải rồi thì tâm không yên tĩnh không biết vừa đủ đối với tài sản đã có. Người tại gia mà nhiều ham muốn thì chưa đáng lo như người xuất gia. Người xuất gia mà nhiều ham muốn thì chẳng phải là tại gia, cũng chẳng phải xuất gia. Người xuất gia là người trừ bỏ kiêu mạn, ganh ghét, trừ bỏ ham muốn.

Tóm lại, nếu ai có nhiều ham muốn thì bị tất cả khinh chê. Tỳkheo nào nhiều ham muốn, thường mong cầu của cải thì tâm không thanh tịnh đối với pháp thiện, do tâm bất tịnh nên các căn bất tịnh, việc làm cũng bất tịnh.

Nếu đi kinh hành chỉ một bước trên đất của chúng Tăng với tâm kiêu mạn cũng đủ đọa địa ngục huống gì là sử dụng ngọa cụ, thuốc men mà không có tội sao? Người ấy sẽ toàn đi trong địa ngục. Người nào phá giới, nhiều ham muốn, thực hành pháp ác thì thật chẳng phải Sa-môn nhưng tự xưng là Sa-môn giống như con cáo đội lốt sư tử, như viên ngọc giả, như tiếng ốc, bên trong không có vật gì. Tỳ-kheo nào nhiều ham muốn mà tự xưng là đệ tử của Đức Phật Ca-diếp, xuất gia trong giáo pháp của Phật thì chẳng phải là Tỳ-kheo.

Đa dục thiêu đốt còn hơn cả lửa lớn, đa dục làm cho mê muội hơn cả bị trúng độc, đa dục làm hại người hơn sự già suy, đao bén, đa dục chặt vào cây lành làm hại cây hơn cả dao thường. Tai họa đa dục còn hơn bệnh dữ, tâm nhiều ham muốn thường tìm chỗ sơ hở để đoạt mạng sống của người còn hơn kẻ thù tìm cách hại người. Vì vậy nên biết tai họa của đa dục là phá hoại hai đời, ta nên bỏ sự uế tạp của đa dục là thứ làm ta suy nghĩ suốt ngày đêm rốt cuộc chẳng được vui.

Khi ấy, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà nói kệ của Đức Phật Cadiếp đã thuyết:

Đa dục như dao bén
Làm hại người ngu si
Chặt chém như đao kiếm
Giết hại người đui mù.
Đa dục là ghẻ lở
Sinh ở trong tâm người
Do người ấy tham dục
Ngày đêm không được vui.
Lửa dục, củi nhớ nghĩ
Được gió tham ái thổi
Lửa dữ cháy hừng hực
Thiêu đốt tâm chúng sinh.
Do tham che lấp tâm
Làm tâm bị chao đảo
Do tham đắm của cải
Nên bị mất thân mạng.
Người nào ở thế gian
Tạo ra các nghiệp ác
Do tham lam, ngã mạn
Bậc trí nói như vậy.
Người nào dùng hết sức
Đi vào trong lửa lớn
Đều do tâm tham lam
Tự làm việc vô ích.
Hoặc bị đao làm hại
Hoặc sinh chuyện tranh chấp
Đều do tâm làm nhân
Gần gũi với người ngu.
Nên biết suy não này
Đều do lỗi tham lam
Không nên gần tham dục
Bậc trí nói như vậy.

Mâu-tu-lâu-đà nói cho ngỗng chúa Thiện Thời, các loài chim thuyết pháp, nhóm đại thần Phóng Dật nghe về tai họa lớn này và cách trừ bỏ là dùng bạch pháp ít ham muốn.

Người nào ít muốn thì được tất cả sự an lạc. Người ấy không sợ vua giặc lửa nước. Vì ưa thích của cải nên người nhiều ham muốn lân la nơi nhà người ác và những kẻ tiểu nhân để cầu xin của cải. Người nào ít tham dục thì không đến nhà người ác, không nói dối, không ca múa, vui cười, dối trá, không nói thêu dệt, không gây nghiệp ác, không bị lửa ham muốn của cải thiêu đốt, không buồn rầu khi thấy người khác được vui sướng, không gần bạn ác vì tham của cải, không nghi ngờ lo lắng, khi đi đường thì không sợ trộm cướp, không có kẻ thù, không bị người làm hại, không sợ chém giết, người tại gia mà được như vậy thì không có lo sợ gì, được luôn luôn yên ổn, huống gì là người xuất gia xa lìa lỗi lầm, sợ hãi, lìa bỏ pháp tại gia, sống trong rừng mà lại đến nhà người tại gia cầu xin nhiều thứ, thì nên biết người ấy giống như kẻ ăn lại thức ăn vừa nôn ra.

Việc đáng quý nhất của Sa-môn là ít ham muốn. Tỳ-kheo nào ít muốn, biết đủ, trong sạch thì tiếng lành vang xa. Người ấy chỉ nhận một bữa ăn, chỉ mặc áo phấn tảo, sống một mình không bè bạn, du hành ở núi, hang, đồng cỏ, sống ở gò mả, chỉ ăn hai phần ba số thức ăn xin được, lúc khất thực họ tránh xa bà con, bè bạn, chỉ giữ một bình bát, tay cầm tích trượng, khi được cúng dường họ dùng trí tuệ tư duy rồi mới đi, khi đi trên đường họ nhìn xa một tầm về phía trước không có liếc nhìn hai bên, họ xả bỏ đồ ăn ngon, không ăn đồ ăn cách đêm, ở trong xóm làng không quá ba đêm và chỉ ở trong thành ấp đến bảy đêm, họ không ngồi trên ghế được trang sức quý báu, không sống với bà con quyến thuộc, không nhớ nghĩ đến đồ ăn ngon, giường nệm, ngọa cụ của vua chúa, đàm luận với người cùng giới, Tỳ-kheo này lìa sự xấu xa nhơ bẩn, ít ham muốn, biết đủ, có thể chặt đứt sự trói buộc của ma.

Nếu có Tỳ-kheo nhiều ham thích phá giới mà mặc ca-sa của hàng trời, người cúng dường thì sẽ mắc tội vô gián. Người ấy như người bệnh, như kẻ cướp, Tỳ-kheo biết đủ thì các căn không chạy theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, đứng ở đất trống có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, thâu giữ tâm ý, tu tập quán niệm thân, thọ, tâm, pháp, giữ gìn các căn. Do biết đủ nên họ được gọi là Tỳ-kheo. Nếu Tỳ-kheo nào muốn sống thiểu dục thì nhờ không phóng dật liền được thiểu dục, nếu phóng dật liền sinh nhiều ham thích, tại gia xuất gia đều như vậy.

Khi ấy, vua trời Dạ-ma nói kệ:

Người nào không phóng dật
Thì đắc quả giải thoát
Còn ai sống phóng dật
Liền đọa vào địa ngục.
Phóng dật, không phóng dật
Nay nói quả thù thắng
Hoặc sáng hoặc tối tăm
Giải thoát hoặc trói buộc.
Phóng dật, không phóng dật
Nghĩa nó cũng như vậy
Ít muốn được an vui
Đa dục thì khổ não.
Tướng khổ vui như vậy
Là điều người trí nói
Chúng sinh nào đa dục
Tâm họ giống như lửa.
Ít muốn như ao mát
Tắm gội người ly tham
Như lửa được củi khô
Thiêu đốt không biết đủ.
Người đa dục ham của
Không chán cũng như vậy
Người tham suốt ngày đêm
Thường không có an lạc.
Do họ nhiều ham muốn
Tên ái cắm vào tâm
Vô số vua đời trước
Tham của không biết chán.
Vị lai cũng như vậy
Tất cả đều bị diệt
Vì vậy người trí nói
Ít muốn là vui nhất.

Ở trên đài hoa, vua trời Dạ-ma nói cho ngỗng chúa Thiện Thời, các loài chim thuyết pháp, nhóm đại thần Phóng Dật nghe pháp thứ sáu của Đức Phật Ca-diếp.

Vì muốn điều phục nhóm đại thần Phóng Dật của ma vương nên vua trời Dạ-ma, ngỗng chúa Thiện Thời, chim thuyết pháp đã thuyết sáu pháp trong kinh mà trước kia Đức Phật Ca-diếp đã dạy cho vị trời trưởng lão và nay dạy lại cho họ.

Nay họ lại nói đến pháp cấu nhiễm thứ bảy cần phải dùng pháp trong sạch để diệt trừ.

Pháp cấu nhiễm thứ bảy là thấy quê nhà liền sinh ưa thích, thích gặp lại bà con, bè bạn mà mình xa cách đã lâu, suốt ngày đêm tâm thường thích gặp gỡ và nghĩ đến việc gần gũi họ, không thích tu tập thiền quán, không thân cận minh sư, không cúng dường Tam bảo, không nghĩ đến nghiệp quả trong đời vị lai, không nói cho người khác nghe về ba nghiệp, không thực hành ba nghiệp, chỉ nghĩ đến việc gặp gỡ bà con bạn bè thân thích để xem họ làm ăn, sinh sống như thế nào.

Nghĩ như vậy xong, họ bị buồn rầu che phủ, tuy sống trong rừng để cầu giải thoát, nhưng không sống đúng pháp. Đó là người không có trí tuệ, để tâm rơi vào biển buồn rầu. Sau khi vào biển buồn rầu, họ lại vào biển sinh, lão, bệnh, tử rất đáng buồn. Vì muốn gặp bà con, bè bạn nên họ rơi vào lưới ma. Do gặp bà con nên họ tăng thêm tham ái. Khi được từng nhà mời mọc ăn uống họ liền sinh tâm tham đắm và làm theo thế tục, nghe người tại gia nói điều gì họ liền sinh tâm ưa thích. Do ưa thích họ liền làm theo và đánh mất sự lợi ích. Vì ngu si họ bị lùi bước và không biết sợ nỗi khổ trong đời vị lai, không nghĩ đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và các nơi khác, cũng

không nghĩ đến các nỗi khổ đáng sợ trong hiện tại như lão, bệnh, tử, xa cách người thân, gặp mặt kẻ thù, không nghĩ đến việc tất cả các thứ mình yêu thích đều sẽ bị hư rã. Vì lo sợ cho bà con, bạn bè thân thích mà sau khi xuất gia người ấy trở lại gần gũi ưa thích họ, vì thích ăn uống nên thường đến nhà họ. Khi chết người ấy bị đọa vào đường ác, sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đánh mất lợi ích của việc xuất gia. Khi đã đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh họ chịu khổ não lớn, bà con bạn bè không ai có thể cứu giúp. Vì vậy, Tỳkheo nào sợ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì không nên thích gặp bà con bè bạn ở quê nhà vì gần gũi họ thì sẽ gặp điều bất lợi.

Vì thấy tai hại của tham ái nên họ đi xuất gia, trừ bỏ lưới ái, sau đó, do ngu si họ lại đến gần lưới ái. Giống như người sợ lửa bỏ chạy để tránh nó rồi lại chui vào đám lửa lớn. Cũng vậy người này sợ sự ràng buộc của gia đình mới bỏ nhà xuất gia rồi trở lại nơi đáng sợ đó, bỏ bà con vào rừng sống rồi trở ra gần gũi họ. Đó là người không có mắt, bị sự vô tri che lấp, các căn chưa được điều phục. Đó chính là pháp cấu uế. Làm sao để diệt trừ nó, ai không thể dùng trí tuệ đoạn trừ tham ái, hoặc không thể ngăn cản giữ gìn các căn thì nên tránh xa việc ấy trong thời gian lâu dài. Người nào không có trí tuệ, không thể dùng phương tiện để đoạn trừ tham ái thì cần phải tránh xa việc ấy. Nhờ không gặp những người mình thương yêu nên ta dứt trừ tất cả pháp tham ái. Đến lúc chết không ai có thể cứu chúng ta, chỉ có nghiệp lành là cứu được. Dù ta sinh ở nơi nào, chỉ có pháp thiện là người cứu ta trước hết, còn bà con, anh em, bè bạn thì không ai cứu được. Tỳ-kheo này bỏ bà con thân thuộc ở một mình nơi vắng vẻ có thể dứt trừ pháp cấu nhiễm. Khi già, bệnh, chết đến thì không có bà con nào có thể cứu giúp. Tỳ-kheo nào tư duy như vậy thì có thể diệt trừ hoặc làm giảm bớt tất cả tham ái. Đó là Tỳkheo đoạn trừ sự ưa thích gần gũi bà con.

Lại nữa, người tại gia, xuất gia phải đoạn trừ pháp cấu nhiễm thứ tám. Đó là đoạn trừ việc nói lời vô nghĩa bằng lời nói chân chánh. Người tại gia nào nói lời vô nghĩa thì bị mọi người khinh rẻ như cỏ rác. Lời nói có ý nghĩa là của cải quý nhất, không thứ của cải nào sánh bằng. Ai nói lời vô nghĩa thì tuy giàu có nhưng vẫn là người nghèo nàn. Người nói lời vô nghĩa hư dối không thật thì bị người khinh chê như con dê trắng. Đó không thể gọi là của cải. Người trí coi người đó như súc sinh và rất xem thường.

Để diệt trừ lời nói vô nghĩa ta phải dùng lời nói chân chánh. Lời nói chân chánh gồm hai loại: Một là im lặng; hai là bốn loại chánh ngữ.

Bốn loại chánh ngữ là:

  1. Không nói dối.
  2. Không nói lời hung ác.
  3. Không nói hai lưỡi.
  4. Không nói lời phá hoại.

Người tại gia, xuất gia nào được như vậy thì không bị khinh chê.

Có sáu nguyên nhân làm người tại gia, xuất gia bị người khác khinh chê. Sáu nguyên nhân đó là:

  1. Nói lời vô nghĩa.
  2. Thình lình đi vào nhà người khác.
  3. Tham đắm thức ăn của người khác.
  4. Ngồi ở nơi sang trọng.
  5. Nói dối.
  6. Không chân thật.

Đó là sáu pháp làm ta bị chê cười. Vì vậy người xuất gia nên lìa bỏ pháp này.

Pháp cấu nhiễm thứ chín cần phải dùng pháp trong sạch để diệt trừ là trạo cử. Pháp này cần phải dùng chánh định để diệt trừ. Trạo cử làm chướng ngại tất cả pháp, làm cho tâm tánh xao động. Do trạo cử, họ không tin, không hiểu, không biết công việc của thế gian, không biết ăn nói, không biết thời tiết, không gần bạn lành, do phóng dật trạo cử nên họ không thông suốt pháp thế gian. Sự trạo cử cấu uế này có thể làm hư hỏng đời hiện tại và vị lai, làm cho không được lợi ích. Người tại gia lẫn xuất gia cần phải dùng bạch pháp chánh định để dứt bỏ trạo cử. Ai giữ thân, miệng, ý trong chánh định, xa lìa trạo cử thì được mọi người cúng dường, có được giới luật trí tuệ và ý nghĩa chân chánh, xa lìa cảnh giới ma, đầy đủ pháp lành, cuối cùng được Niết-bàn. Về pháp thế gian họ được người trí ca ngợi và có thể thành tựu mọi việc ở thế gian, được mọi người cúng dường, đến đâu cũng được an lạc, làm việc gì cũng thành công. Người tại gia, xuất gia nào lìa bỏ trạo cử thì được mọi người ca ngợi.

Vua trời Dạ-ma nói cho chim thuyết pháp, Ngỗng chúa Thiện Thời, nhóm đại thần Phóng Dật và Thiên chúng nghe kinh mà Đức Phật Ca-diếp đã dạy cho vị trời trưởng lão và vị trời đó dạy lại cho vua trời…

Lại nữa, pháp cấu nhiễm thứ mười người trí cần phải xả bỏ là nghèo nàn.

Có hai loại nghèo nàn:

  1. Nghèo giới.
  2. Nghèo trí.

Lại có hai loại khác:

  1. Nghèo bố thí.
  2. Nghèo trí tuệ.

Có hai loại khác:

  1. Dòng họ bần cùng.
  2. Nghèo kiến thức.

Lại có hai thứ nghèo khác:

  1. Nghèo của báu.
  2. Nghèo đạo sư.

Có hai loại nghèo nàn:

  1. Nghèo thân tộc.
  2. Nghèo người quen.

Tất cả sự nghèo nàn đều đáng khinh chê. Cách đoạn trừ nó là bố thí. Việc bố thí có thể trừ bỏ tất cả sự bần cùng, giống như đèn sáng có thể diệt trừ bóng tối, trí tuệ có thể diệt trừ mọi thứ ngu si, chánh kiến diệt trừ tà kiến, chánh pháp diệt trừ phi pháp. Bố thí là pháp hơn hết, là việc các người trí ưa thích. Nó đoạn trừ đường ác làm cho ta được an ổn trong hiện tại và vị lai.

Ta phải bố thí cách nào? Bố thí có nhiều loại là bố thí trì giới, an ổn, chỉ đường thánh, chỉ lối cho người bị lạc đường, đem nước uống cho người đi đường, bố thí thân mạng, vô úy, thật ngữ, dứt nghi ngờ, năm giới, giới xuất gia, giới cụ túc, thuốc trị bệnh và bố thí mắt.

Các loại bố thí này giống như cha mẹ, có thể làm lợi ích cho ta trong hiện tại và vị lai. Sau khi thường tư duy như vậy ta sẽ dứt bỏ sự nghèo nàn, dứt bỏ đường ác, hưởng an lạc ở cõi trời, người, sau khi thọ hưởng an lạc rốt cuộc đắc Niết-bàn.

Việc bố thí có thể trừ bỏ sự nghèo nàn vì vậy người có trí tuệ cần thực hành bố thí.

Pháp tối tăm thứ mười một là pháp trói buộc chúng sinh trong đường sinh tử. Pháp đó là không có trí tuệ, vô tri, là bóng tối vô minh trói buộc sự sống, là đống tối tăm đè nặng trên cổ. Sự vô tri như dao, như lửa, như chất độc. Sự vô tri là nhân duyên sinh ra tất cả vô minh, làm cho chúng sinh trôi lăn trong đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, có thể trói buộc chúng sinh làm họ luân hồi sinh tử.

Làm cách nào để diệt sự cấu nhiễm đáng ghét này? Chỉ có trí tuệ vô lậu là có thể diệt trừ nó. Trí tuệ vô lậu giống như đèn sáng, là nơi cứu giúp và cho ta nương tựa. Đối với chúng sinh trí tuệ vô lậu giống như cha mẹ, thầy thuốc, thuốc hay. Nó dứt trừ vĩnh viễn dây trói vô tri.

Như rễ cây bị cắt đứt thì cây không thể sống, củi khô bị lửa đốt thì không sinh lại, nước chảy xuống rồi không chảy ngược trở lên, bị trí vô lậu thiêu đốt sự vô tri không sinh trở lại cũng giống như vậy. Vì thế, trong mọi lúc, ta phải siêng năng tinh tấn dùng trí vô lậu dứt bỏ sự vô tri.

Trên đây đã nói về mười một pháp gốc rễ của phóng dật. Chúng đi theo phóng dật và do phóng dật sinh ra. Vì vậy ta nên bỏ hết tất cả sự phóng dật. Mọi thứ gốc rễ của phóng dật đều không có lợi ích, có thể trở thành phóng dật. Giống như tất cả cỏ thuốc, rừng, sông suối, thành ấp, xóm làng, vườn cây, núi Tu-di đều dựa vào mặt đất mà có, cũng như vậy, tất cả địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh đều do phóng dật sinh ra. Vì thế, người trí phải xa lìa nó.

Khi ấy, vua trời Dạ-ma nói kệ:

Người già da nhăn nheo
Yếu ớt chống gậy đi
Già mà không biết pháp
Chính là do phóng dật.
Bệnh tật hủy hoại thân
Nằm bẹp trên giường chiếu
Mà không sinh nhàm chán
Đều là do ngu si.
Nếu ai bị đói khát
Hoặc vào đường hiểm ác
Mà không sinh nhàm chán
Đều là do phóng dật.
Ai xa lìa người thương
Mà sinh ra khổ não
Đó là do phóng dật
Như Lai nói như vậy.
Nếu ở trong năm đường
Chịu đủ mọi thứ khổ
Chúng sinh thường khổ não
Là do họ ngu si.
Than ôi không nhàm chán
Luân hồi trong các cõi
Các nghiệp luân chuyển mãi
Tuần hoàn không tạm dừng.
Ba cõi đều không vui
Không có gì thường còn
Vậy mà người ngu si
Không biết sinh nhàm chán.
Cảnh giới đều rỗng không
Ba cõi giống như mộng
Tất cả đều là khổ
Không mắt, không thấy biết.
Người ngu si như vậy
Bị phóng dật làm hại
Lúc thần chết sắp đến
Không ai cứu giúp được.
Bị cảnh tượng bất thiện
Làm não loạn tâm ý
Thần chết đã sắp đến
Mà ta không hay biết.
Thần chết lại sắp đến
Đoạt mạng sống con người
Ba thứ không lợi ích
Não hại các chúng sinh.
Nỗi khổ già, bệnh, chết
Do phóng dật sinh ra
Mong cầu não hại người
Phóng dật hại chư Thiên.
Đói khát hại ngạ quỷ
Địa ngục bị khổ não
Súc sinh nhiều ngu si
Nên đã tàn hại nhau.
Các khổ não như vậy
Làm hại các chúng sinh
Do làm việc phi pháp
Vì ngu si phóng dật.
Giống như nhờ đất mẹ
Các loại cỏ thuốc sinh
Phóng dật cũng như vậy
Làm tăng các phiền não.
Nhóm đại thần đứng đầu
Quân binh của ma vương
Dùng trí kim cương đánh
Như ánh sáng trừ tối.
Qua bài thuyết pháp này
Biết công đức và lỗi
Phóng dật sẽ chịu khổ
Không phóng dật thì vui.
Vị vua trời Dạ-ma
Đã chỉ rõ như vậy
Tội lỗi của phóng dật
Công đức không phóng dật.
Các khổ, già, bệnh, chết
Ái biệt, oán tắng hội
Vô số các khổ não
Đầy khắp đường sinh tử.
Người nào biết phương tiện
Ngăn nỗi khổ đời sau
Nghiệp ác là nhân khổ
Không làm ác được vui.
Diệt phiền não rất vui
Người trí nói như vậy
Đây là đường Niết-bàn
Là nơi bậc trí nói.
Thu phục, không phóng dật
Sống ở nơi vắng vẻ
Dũng mãnh lìa tâm tham
Cách Niết-bàn không xa.
Lìa kẻ thù, bà con
Để thoát khỏi cõi dục
Cảnh giới không phóng dật
Cách Niết-bàn không xa.
Người nào bỏ việc ác
Tu dưỡng tâm Từ bi
Sợ hãi việc sinh tử
Cách Niết-bàn không xa.
Dùng trí trừ phiền não
Tâm trí tuệ trong mát
Vượt qua sự biếng trễ
Cách Niết-bàn không xa.
Tương ưng với bốn đế
Dứt ba loại tội lỗi
Làm chủ được các căn
Cách Niết-bàn không xa.
Biết cách quán hơi thở
Tu hành hai loại tướng
Thấu rõ hết mọi việc
Cách Niết-bàn không xa.
Nếu thoát khỏi lỗi lầm
An lạc không trói tâm
Giúp người đến bờ kia
Nên gọi là Mâu-ni.

Vua trời Dạ-ma nói cho các chim thuyết pháp, ngỗng chúa Thiện Thời nghe kinh Đức Phật Ca-diếp đã dạy. Để họ xa lìa phóng dật, Thiên chủ đã nói vô số chánh pháp với âm thanh thù thắng, vi diệu, có sức thuyết phục. Nghe chánh pháp xong, nhóm đại thần Phóng Dật, quân binh của ma vương nghĩ: “Ta không thể làm lay chuyển vua trời Dạ-ma. Pháp này thật sâu xa, khó hiểu, không thể xoay chuyển”. Nghĩ xong họ nói với đồng bọn: “Không thể làm Mâu-tu-lâu-đà thay đổi lòng tin dù một câu trong đạo pháp này.

Sau khi suy nghĩ như vậy, thế lực của ma bị giảm yếu, ý nghĩ trước đây tan biến, oai đức bị mất hết. Họ bay lên hư không và trong chốc lát đã đến cung trời Tha hóa tự tại gặp ma Ba-tuần.

Khi ấy, tất cả sứ thần của ma vương nói: “Việc các ông làm có được như ý không? Có được trọn vẹn không?”

Nghe hỏi, ba vị đại thần thưa với ma vương: “Thưa Thiên vương, chúng tôi bị mất thế lực, vua trời Dạ-ma Mâu-tu-lâu-đà có trí tuệ lớn, không thể làm ông ta thay đổi lòng tin cho đến một câu ở trong chánh pháp, Thiên chúng của ông ta cũng như vậy. Do đó tôi không thể làm não loạn họ.

Nghe xong, ma Ba-tuần nghĩ: “Ta có thể làm cho các vị trời phóng dật sống trong cõi dục. Tuy có sức mạnh nhưng do phóng dật, họ phải ở trong cảnh giới của ta”.

Sau khi suy nghĩ, ma vương bảo chúng ma: “Về sau, ta có thể phá trời Dạ-ma, các ông chớ có hấp tấp, ta có sức mạnh thì có thể làm rối loạn tất cả Thiên chúng. Sau này ta có thể phá họ”.

Nói xong, ma Ba-tuần lại hưởng thú vui của lục dục không gì sánh bằng, tạo nên vô số thú vui trên đất phóng dật.

Vua trời Dạ-ma, chim thuyết pháp, ngỗng chúa Thiện Thời đã thuyết giảng vô số pháp đẩy lùi quân ma phóng dật. Lúc đó, chư Thiên đã làm xong công việc của mình.

Bấy giờ, chư Thiên mới sinh đi chơi vui vẻ ở trong vườn, hướng đến nơi vua trời, ngỗng chúa Thiện Thời và các chim đang thuyết pháp.

Thấy các vị Thiên này, vua trời Dạ-ma nói với Bồ-tát Thiện Thời:

–Chắc ông cũng thấy các vị Thiên sống phóng dật đang đến đây phải không? Nay tôi phải tới vườn tịch tĩnh.

Nói xong, Thiên chủ bay lên hư không, đi vào vườn tịch tĩnh. Chư Thiên ở đó sống phóng dật, hưởng đầy đủ năm dục, vui chơi dưới ao nước, trong vườn cây cho đến khi hết nghiệp và lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ai có nghiệp còn sót lại thì sinh làm người giàu có, đầy đủ của cải, làm vua hoặc đại thần ở những nơi rất vui, được mọi người yêu mến. Đó là nhờ nghiệp lành còn sót lại.

Biết quả báo của nghiệp, Tỳ-kheo ấy lại dùng văn tuệ quan sát cõi trời Dạ-ma và thấy có vùng tên Nhất hướng lạc.

Do nghiệp gì chúng sinh sinh vào nơi này?

Do văn tuệ, vị ấy thấy có thiện nhân giữ giới không sát sinh, trộm cắp như đã nói ở trước, xả bỏ tà dâm, không phạm tà hạnh, giữ được những giới khó giữ nhất. Khi thấy các con thú đực, cái giao hợp, họ không phát sinh ý niệm dâm dục, không muốn nhìn chúng, cũng không tư duy về việc đó. Vì sợ quả báo của việc tà hạnh, nên họ xả bỏ việc ấy. Thấy người tà hạnh họ khuyên đừng làm và nói về quả báo của tà hạnh để người kia đi theo đường lành. Nhờ nói pháp như vậy, nói rằng việc tà dâm đưa đến quả báo không đáng ưa, nhất định bị đọa vào địa ngục, tự mình không làm, lại dạy người khác đừng làm, tự lợi mình, lợi người, nên khi chết người này sinh vào vùng Nhất hướng lạc của cõi trời Dạ-ma. Do nghiệp lành, họ thường được hưởng vô số thú vui ngày càng tăng và không gián đoạn. Ở vùng đó có vườn cây trông rất đáng ưa, có cây như ý, tất cả dục lạc đều được đầy đủ theo ý nghĩ, họ say sưa thọ lạc ở trong vườn cây.

Chư Thiên mới sinh có các vườn cây:

  1. Quang minh lạc.
  2. Lưu thủy lạc.
  3. Sơn tụ lạc.

Họ có ao sen tên Tạp trì, có sông Danh hương, có ao Viên lâm sơn và có nhiều ngọn núi, công đức của chư Thiên rất đầy đủ. Các vị trời mới sinh vui chơi thọ lạc trong các ao đáng yêu, có công đức gấp ngàn lần như ao Ma-ni lan thuẩn, ao Chúng điểu âm nhạc, ao Thiên hoan hỷ, ao Thường du hý, ao Thọ lạc, ao Vô trược, ao Thật hữu, ao Kiến đương hữu. Khắp các ao này có những chim nhiều màu sắc phát ra âm thanh vi diệu, trên bờ ao có nhiều cây như ý có đầy đủ vô lượng công đức.

Do nghiệp lành, họ cùng với Thiên nữ hưởng năm thứ dục. Sắc đẹp của chư Thiên tăng theo ý nghĩ, ngắm không biết chán.

Do trì giới, tu tập nghiệp lành họ được quả báo như vậy, vui chơi ca múa ở trong ao hoa, hưởng năm thứ dục lạc. Năm thứ dục lạc là rừng gai khát ái. Được các Thiên nữ vây quanh, họ đi từ ao được trang điểm bằng ngọc ma-ni kết xen lẫn nhau, đến ao hoa sen, rồi đến ngọn núi xinh đẹp vui chơi thọ hưởng dục lạc. Họ đeo vòng hoa trời và mặc thiên y rất đẹp. Năm thú vui cảnh giới trông rất đáng yêu. Họ bay lên núi này để thọ hưởng hoan lạc. Trên ngọn núi này có một hang núi rất đáng yêu.

Trên núi ấy, lại có chư Thiên khác được trang điểm bằng vòng hoa trời và thiên y từ núi vàng hạ xuống. Hàng trăm ngàn vị trời vây quanh nhau đi chơi, theo nhau hạ xuống.

Thấy Thiên chúng kia, Thiên tử mới sinh hỏi Thiên nữ: “Các Thiên chúng kia vui chơi thọ lạc, ta cũng vui chơi họ lạc giống vậy chứ?”

Chư Thiên nữ đáp: “Xin tuân theo ý các vị”.

Đã biết ý Thiên nữ, các Thiên tử mới sinh liền cùng các Thiên nữ vây quanh nhau dạo chơi vui vẻ vô cùng, ca hát năm loại âm nhạc. Hai nhóm chư Thiên tập hợp lại vui chơi thọ lạc không biết nhàm chán.

Trên núi có chim khổng tước chúa tên Sơn Quan nói kệ cho Thiên chúng nghe:

Nghiệp trang trí thế gian
Nghiệp trang trí cõi trời
Vì cõi trời vô thường
Nghiệp hết bị hủy hoại.
Thế gian thích hòa hợp
Không thích sự biệt ly
Có hợp phải có tan
Pháp thế gian như vậy.
Tâm ưa thích thú vui
Bị cảnh giới lừa dối
Mạng chư Thiên sắp hết
Sinh diệt giống như tâm.
Già bệnh chết hủy hoại
Xa lìa hết mọi người
Pháp chết này thường có
Người ngu không hay biết.
Tuổi già dần dần đến
Giờ chết đã sắp tới
Bị quân bệnh hủy hoại
Người ngu không hay biết.
Sáu trần mất thân người
Năm căn hay hủy hoại
Như người mất chánh đạo
Ở đâu cũng chướng ngại.
Ai nghĩ đến nhân quả
Thường nhớ nghĩ không quên
Người ấy thấy thật quả
Về sau không hối tiếc.
Ai đối với cảnh giới
Thấy như thật không tham
Người này mau chóng thoát
Khỏi cảnh giới tham ái.
Nếu thoát khỏi lưới ái
Thì vượt cánh đồng ác
Xa lìa lửa phóng dật
Là người đại trí tuệ.
Năm thứ sợ hãi lớn
Phá tất cả thế gian
Do nghiệp của chính mình
Già, bệnh, chết, biệt ly.

Chim Sơn Quan này là Bồ-tát Khổng tước chúa Chủng Chủng Trang Nghiêm, do nguyện lực Bồ-tát đã hiện thân Khổng tước nói pháp đoạn trừ phóng dật để làm lợi ích cho chư Thiên và các Khổng tước.

Khi ấy, thấy chư Thiên mới sinh, Thiên chúng rất vui mừng. Do phóng dật, họ không tin nhận pháp lành mà chỉ ca múa vui chơi thọ lạc, nghe năm loại âm nhạc ở ngọn núi, vườn cây nơi có vô số hang ánh sáng vàng, rừng như ý, có vô số chim, trăm ngàn núi sông và rừng hoa xinh đẹp. Họ cùng Thiên nữ hưởng đầy đủ mọi thứ dục lạc, đầy đủ thú vui cõi trời và thường xuyên đi chơi.

Theo thứ lớp, Thiên chúng này lên núi bằng tạp Ma-ni xen lẫn dạo chơi. Trên núi này có cây bằng bảy báu, cây như ý trang điểm cho nó. Núi rộng năm do-tuần. Trong rừng có khổng tước chúa tên Chủng Chủng Trang Nghiêm sống ở rừng này thuyết pháp cho chư Thiên nghe để họ lìa bỏ phóng dật. Vì thích thuyết pháp, Bồ-tát đi khắp vườn cây, rừng hoa sen, rừng có đủ loại cây, sông suối, dòng nước, ngọn núi, nơi được trang nghiêm bằng của báu, nơi có tiếng hót vi diệu của trăm ngàn con chim, nơi có chư Thiên và chư Thiên nữ làm đẹp và hòa hợp thọ lạc. Do nghiệp lành, họ hưởng đủ mọi thú vui. Tất cả đều đi chơi bằng vô số cách khác nhau theo ý niệm không thể ví dụ.

Khi ấy, khổng tước chúa ở ngọn núi có Ma-ni xen lẫn thấy Thiên chúng hưởng thú vui phóng dật, Bồ-tát nói kệ để họ lìa bỏ phóng dật:

Hiện tại hoặc vị lai
Không nhàm chán cảnh giới
Bị lửa nhớ nghĩ thiêu
Luôn luôn tìm cảnh giới.
Tuy được sinh lên trời
Rồi lại bị thoái đọa
Bị lưới nghiệp trói buộc
Lại đọa xuống địa ngục.
Làm ngạ quỷ, súc sinh
Chịu vô số khổ não
Do nghiệp nên chúng sinh
Đi mãi trong năm đường.
Chúng sinh đủ loại nghiệp
Rất nhiều không thể tính
Nên được đủ loại quả
Nhiều thú vui cõi trời.
Nghiệp hết liền thoái đọa
Có sinh thì có diệt
Người nào thấy chân đế
Thấy chư Thiên thoái thất.
Giờ chết đã sắp đến
Thân mạng bị hủy hoại
Những thứ làm não loạn
Người ngu không hay biết.
Dùng đủ cách điều phục
Nói đủ việc lợi ích
Bị dục lạc làm mê
Thiên chúng không nhàm chán.
Tương ưng với pháp lành
Hai đời được an lạc
Người ngu không giữ gìn
Về sau rất hối tiếc.
Dùng nhiều pháp điều phục
Chân thật và rõ ràng
Chư Thiên say phóng dật
Không biết chân lợi ích.
Giặc chết hại mạng trời
Sức mạnh không thể cứu
Mạnh bạo chạy rất mau
Giờ chết đã sắp đến.
Chư Thiên, rồng, Dạ-xoa
Càn-thát, Tỳ-xá-xà
Đều không chống cự nổi
Vì thần chết rất mạnh.
Ai biết sức mạnh yếu
Là người biết đúng nghiệp
Nghiệp ác không làm bẩn
Không đi vào đường ác.
Thường tu tập việc lành
Lìa cảnh giới bất thiện
Người tạo nghiệp như vậy
Thì không có khổ não.
Sống thuận theo chánh pháp
Tăng lòng tin, tinh tấn
Tương ưng với sức địch
Như mẹ chăm sóc con.
Pháp lành có thể cứu
Chúng sinh ở năm đường
Sức của cha mẹ thì
Không làm được việc ấy.
Tin thuận theo chánh pháp
Cứu khổ nơi đường ác
Dù sinh ở nơi nào
Thường có sức tin lớn.
Như đèn dẹp bóng tối
Như bệnh được thuốc hay
Như người mù sáng mắt
Như người nghèo được của.
Như người bị nước trôi
Đức tin là thuyền lớn
Người nào sống phóng dật
Nhờ tin hết phóng dật.
Lúc chết nhờ đức tin
Không có sinh biển hữu
Đến được nơi tịch diệt
Đức Phật xưa đã nói.
Do có được lòng tin
Nên tu hành chánh trí
Tin và không phóng dật
Tinh tấn biết dừng nghỉ.
Luyện trí gần bạn lành
Là sáu nhân giải thoát
Thí giới lành vắng lặng
Tâm Từ lợi chúng sinh.
Thực hành Bi, Hỷ, Xả
Thành tựu nhờ pháp này
Trạo cử gần bạn ác
Thô lỗ thích nói dối.
Tà kiến sống phóng dật
Đó là nhân địa ngục
Ganh ghét, nói hung dữ
Sống buông lung lìa thiện.
Tham tài vật của người
Là nhân sinh ngạ quỷ
Ngu si không trí tuệ
Tham dục xa chánh pháp.
Tham ăn thích ngủ nghỉ
Là nhân của súc sinh
Người nào thân, miệng, ý
Tạo ba loại nghiệp ác.
Người ngu si như vậy
Sẽ đọa vào địa ngục
Hễ gây nên nhân nào
Thì sẽ hưởng quả ấy.
Như trồng lúa được lúa
Nghiệp thiện, ác như vậy
Đã thấy những người này
Tạo nhân khổ sinh tử.
Nhưng chư Thiên ngu si
Vẫn không hề hay biết
Phóng dật ban đầu vui
Về sau chịu khổ lớn.
Pháp nào về sau khổ
Người trí nên xả bỏ
Hễ chưa được giải thoát
Thì không có chút vui.
Người nào được giải thoát
Thường muốn được thành tựu
Vui vô thường, phóng dật
Người trí nói chẳng vui.
Nếu việc gì thường vui
Người trí nói là vui
Trên dưới nối tiếp nhau
Các nghiệp đều như thế.
Quả báo cũng như vậy
Trên dưới không gián đoạn
Đã biết nghiệp quả rồi
Nên lìa bỏ phóng dật
Phải phát sinh thọ nhận
Là thú vui vô thượng.

Bồ-tát Khổng tước chúa dùng đủ phương tiện thuyết pháp từ bỏ phóng dật cho chư Thiên nghe. Do nghiệp lành, âm thanh rất hay và hùng hồn của Bồ-tát lấn át tiếng ca vịnh của chư Thiên. Âm thanh đó vang khắp hai vạn do-tuần làm người nghe vui vẻ như hưởng pháp lạc.

Lúc đó, vì muốn tìm cầu thú vui, chư Thiên bay lượn trên không, giống như các vị trời hành xứ ở trời Tứ Thiên vương đi đi lại lại, chư Thiên này cũng như vậy.

Nghe âm thanh ấy, bảy vạn vị trời ở trời Đâu-suất từ trên không hạ xuống. Vì kính trọng pháp và ít phóng dật nên họ hướng đến chỗ khổng tước chúa Chủng Chủng Trang Nghiêm ở trời Dạ-ma. Thấy chư Thiên ở cõi trời Đâu-suất, Bồ-tát Khổng tước chúa Chủng Chủng Trang Nghiêm nói với chư Thiên:

–Xin chào các vị, do ít phóng dật các vị đã đến đây để cầu quả báo đời vị lai. Nếu muốn được nghe pháp chính yếu, các ông hãy mau xuống đây, tôi sẽ nói cho các ông pháp tịch tĩnh tôi đã được nghe. Tôi đã tu tập thành tựu Niết-bàn. Đây là pháp ngày trước các vị chưa được nghe. Pháp này xưa kia tôi được Đức Phật Ca-ca-thônđà chỉ dạy, do nguyện lực đời đời tôi không quên và nói lại cho người khác.

Nghe Khổng tước chúa nói, chư Thiên ở cõi trời Đâu-suất-đà từ trên hư không hạ xuống. Vì kính trọng chánh pháp, họ tập hợp trên ngọn núi. Ngọn núi này có vô số ao sen, sông suối, châu báu, có vô số loài chim hót rất hay. Họ quay quanh bốn phía Khổng tước chúa ở ngọn núi Ma-ni xen lẫn. Họ có oai đức thù thắng, đầy đủ sắc tướng và có ánh sáng hơn hẳn chư Thiên trời Dạ-ma. Giống như chư Thiên ở cõi trời Dạ-ma so với người cõi Diêm-phù-đề, chư Thiên ở trời Đâu-suất-đà so với trời Dạ-ma cũng hơn hẳn như vậy.

Thấy chư Thiên ở trời Đâu-suất, chư Thiên ở trời Dạ-ma không còn ngạo mạn về sắc đẹp và thú vui của mình nữa. Họ bèn đến chỗ Bồ-tát Khổng tước chúa. Có vị vào rừng dạo chơi và đứng ngắm các vị trời mà trước đó họ chưa từng thấy ở trời Đâu-suất tới, có vị lên đảnh núi dạo chơi, có vị vây quanh bốn phía Khổng tước chúa.

Bồ-tát Khổng tước chúa bảo chư Thiên:

–Nay ta sẽ nêu rõ về hai mươi hai pháp mà ta đã tôn kính, tu tập, làm lợi ích cho hàng trời, người, làm an lạc cho tất cả chúng sinh, giúp cho họ được chánh hạnh. Hai mươi hai pháp này tạo lợi ích an lạc cho cõi trời, người yêu thích pháp ở trong hiện tại và vị lai, giúp họ xả bỏ hẳn phóng dật. Nếu hàng trời, người lìa phóng dật thì thường được an lạc và có thể đạt được Niết-bàn. Pháp này lợi ích còn hơn cha mẹ.

Hai mươi hai pháp đó là:

  1. Tâm hối hận.
  2. Sợ đường ác.
  3. Nhẫn nhục.
  4. Tinh tấn.
  5. Thuyết pháp.
  6. Từ bi.
  7. Tâm dịu dàng.
  8. Điều phục.
  9. Tin nghiệp quả.
  10. Không sống ở nơi hư hỏng.
  11. An trụ tâm.
  12. Sợ tiếng xấu.
  13. Không say đắm.
  14. Đi một mình.
  15. Tâm không tán loạn
  16. Nghĩ về cái chết.
  17. Lìa bỏ sự kiêu mạn về sắc đẹp, của cải và dòng họ.
  18. Nói lời dịu dàng, hòa nhã.
  19. Giữ tâm bình đẳng đối với mọi người.
  20. Biết đủ.
  21. Sợ cảnh giới.
  22. Lìa bỏ tâm nghi ngờ.

Trời, người nào tu tập đúng theo hai mươi hai pháp này thì không bị đọa vào đường ác, mau chóng đạt được Niết-bàn.

Thế nào là hối hận? Vì sao hối hận rồi sẽ được yên ổn? Khi đã hối hận rồi ta sẽ bỏ các pháp bất thiện.

Thế nào là hối hận phát sinh khi thấy người khác tạo nghiệp bất thiện về thân, miệng, ý? Nếu thấy người khác tạo nghiệp bất thiện nơi thân thì quở trách họ và sinh tâm hối hận, không cùng làm với họ. Nếu có nhân duyên làm phát sinh suy nghĩ bất thiện thì liền xả bỏ, không nhớ nghĩ, không tham đắm, trong lòng phát sinh hổ thẹn, cố gắng làm cho người khác không phát sinh và không làm theo suy nghĩ bất thiện, tâm luôn chê trách sự suy nghĩ thô, tế. Giống như có cái hố đầy phân và chó chết dơ bẩn, có người thích sạch sẽ vào đó để tìm sự trong sạch, sau khi vào trong hố và chất bất tịnh ngập đến cổ người ấy liền chán ghét, nếu có cảm giác bất thiện phát sinh thì người kia sinh tâm hối tiếc cũng như vậy. Giống như có người khác thích sạch sẽ, do không biết nên họ ăn nhầm phân nhơ, hoặc bị kẻ giặc mạnh bạo bắt ăn, ăn xong, người ấy sinh tâm hối hận, về sau không ăn nữa. Người sống theo nghiệp lành hổ thẹn quở trách việc suy nghĩ bất thiện cũng giống như vậy. Họ rất siêng năng trừ bỏ sự suy nghĩ thô tế. Đó là pháp đầu tiên không sinh phóng dật, đoạn trừ phóng dật. Vì vậy phải nên siêng năng tu tập pháp ấy.

Người nào muốn cầu chân đế, sợ hãi sinh tử thì khi có chút ít suy nghĩ bất thiện phải sinh tâm hối hận, không mong cầu, không sống phóng dật. Người không phóng dật mới có thể phát sinh hối hận sau khi làm việc ác. Người sống phóng dật thì không thể sinh tâm hối hận. Pháp này là gốc rễ của các nghiệp lành. Đó là hối hận và trừ bỏ các suy nghĩ bất thiện, là pháp đầu tiên.

Pháp thứ hai làm tăng pháp lành là sợ đường ác. Đó là pháp lớn để ra khỏi sinh tử và diệt trừ phóng dật. Tất cả hàng trời, người sợ phải đi con đường ác. Sa-môn, Bà-la-môn hoặc bất cứ người nào, nếu sợ đường ác thì không gây nghiệp ác, không tùy hỷ khi thấy người khác làm. Biết nghiệp bất thiện khiến ta đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh nên họ không tạo nghiệp ác. Vì sao nghiệp ác là nhân đọa vào đường ác? Nếu ta gần gũi, ưa thích chút ít nghiệp ác thì sẽ làm cho nó lớn mạnh khiến ta bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì vậy Sa-môn, Bà-la-môn và các người khác phải luôn sợ hãi quả báo ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sợ đường ác thì người phóng dật, ít trí tuệ sẽ không còn sống phóng dật, không tạo ra ba loại nghiệp ác nơi thân, miệng, ý. Người này thường tu nghiệp lành, xả bỏ nghiệp ác. Đó chính là sợ đường ác. Giống như có người biết sức mình và người nên sợ rắn độc, dao và lửa là những thứ có thể giết hại mạng sống, người sợ đường ác, sợ nghiệp ác cũng giống như vậy. Người này không tạo những nghiệp ác vi tế, không sống phóng dật, do không phóng dật, họ sinh trong hàng trời, người, hưởng sự vui sướng, giàu có rồi nhập Niết-bàn. Vì thú vui thù thắng, vì sự không chết, không thay đổi, không thoái lui, không diệt tận, ta phải sợ hãi đường ác.

Sa-môn, Bà-la-môn và người nào có thể sống như vậy sẽ đạt đến nơi vô thượng.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Ai sợ hãi đường ác
Nên lìa bỏ phóng dật
Làm lành cầu công đức
Liền đến thành Niết-bàn.
Người nào sợ đường ác
Người ấy tâm ngay thẳng
Do tâm họ ngay thẳng
Đã vui lại thêm vui.
Ai không sợ đường ác
Thì gây nhiều nghiệp ác
Bị lửa dữ thiêu đốt
Dắt đi vào địa ngục.
Giống như một đóm lửa
Tuy nhỏ cũng thiêu được
Đường ác cũng như vậy
Nhiều kiếp chịu quả báo.
Người nào muốn được vui
Nên sợ hãi đường ác
Ai biết sợ đường ác
Thì thường được an lạc.

Hoặc trời, hoặc người, Sa-môn, Bà-la-môn và các người khác ai sợ đường ác thì phải hối hận, khi mắc phải điều ác nhỏ tâm không tùy hỷ, không tư duy về việc ác đó, sợ hãi quả khổ ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, vì sợ ba đường ác nên họ xả bỏ mười nghiệp ác, không dạy người khác làm, không tùy hỷ, không gần người ác. Người này tu tập nghiệp lành, bỏ tất cả nghiệp ác, việc làm trong sạch, lìa bỏ phóng dật, được giải thoát khỏi các pháp bất thiện trong các hữu. Sau khi đã được giải thoát tất cả các pháp và các lỗi lầm, họ được an ổn vượt qua bờ bên kia.

Vì vậy ta cần phải sợ đường ác và phải nhớ rằng tất cả hàng trời, người ai thích pháp này thì sẽ đạt được Niết-bàn.

Lại nữa, Đức Phật dạy nếu lìa phóng dật thì đạt được Niết-bàn, làm cho tất cả hàng trời, người được lợi ích an lạc. Trước đây, lúc làm người ta đã được nghe pháp này và nhớ mãi không quên. Nay ta sẽ nói cho chư Thiên nghe về pháp thứ ba là pháp nhẫn nhục. Nhẫn là pháp lành bậc nhất, trong sạch bậc nhất, là pháp được Đức Phật ca ngợi. Nhẫn có hai loại là pháp nhẫn và sinh nhẫn.

Pháp nhẫn là sống theo đạo pháp, suy tư về pháp lành, nhẫn chịu với các pháp kiên cố. Nhờ tư duy về đường lành thù thắng nên họ có thể nhẫn nhục.

Giống như đại địa nhẫn chịu với núi sông, vườn cây và vô số loại khác ở các thế gian không biết mệt mỏi, tất cả pháp nhẫn cũng giống như vậy, có thể đạt đến Niết-bàn. Tất cả pháp nhẫn là pháp lành trong sạch và chắc chắn nhất, thâu giữ đường Niết-bàn. Người đó có thể nhẫn nhục đối với thế gian kiên cố nên có thể đạt Niếtbàn.

Pháp nhẫn thứ nhì là Sa-môn, Bà-la-môn hoặc người khác sắp phát sinh sân hận, nhẫn nhục làm nó không phát sinh. Do biết tai hại của sân hận, họ nghĩ: “Nếu phát sinh sân hận thì tự thiêu đốt thân mình, tâm chứa chất độc, dung mạo biến đổi, người khác đều sợ hãi tránh né, mọi người không ưa thích, khinh rẻ, khi chết bị đọa vào địa ngục. Do sân hận, không có việc gì ta không làm, vì vậy người trí xả bỏ sân hận như xả bỏ lửa. Nhờ biết tai họa của sân hận ta có thể tự làm lợi ích. Ai muốn tự lợi mình và lợi người nên thực hành nhẫn nhục. Giống như lửa lớn đốt cháy nhà cửa, có người mạnh mẽ dùng nước dập tắt, người trí tuệ dùng nhẫn để diệt sân hận cũng giống như vậy. Người có thể nhẫn nhục là người có tâm thiện bậc nhất, có thể xả bỏ sân hận. Người này được mọi người yêu mến, tin tưởng và muốn gặp mặt. Họ có thân tướng thanh tịnh, tâm vắng lặng không chao động, xa lìa lỗi lầm của thân miệng, lìa tâm nóng nảy, không sợ đọa vào đường ác, lìa sự oán ghét, tiếng xấu và sự buồn rầu, không sợ hãi kẻ thù, xa lìa người ác và lời chửi rủa hung ác, lìa sự hối hận, không sợ những âm thanh ghê rợn, không có sự lo sợ vô ích và không có kiêu ngạo. Ai có thể xa lìa những nỗi lo đó thì tất cả công đức đều được đầy đủ, tiếng lành đồn khắp, được thú vui ở hiện tại và vị lai, được mọi người coi như cha mẹ. Người này được mọi người gần gũi, sự sân hận giống như rắn độc, dao, lửa, ta có thể dùng nhẫn nhục để diệt trừ nó. Có thể nhẫn chịu khi giận dữ đó gọi là nhẫn.

Nếu người nào muốn tu tập việc lành nên nghĩ như vầy: “Nhẫn nhục như của báu, cần phải giữ gìn nó, nhẫn nhục có thể dẹp trừ sân hận, ánh sáng chánh pháp nơi nhẫn nhục giống như ngọn đuốc có thể dẹp tan bóng tối sân hận. Như con mắt đối với người mù, như của cải chánh pháp trừ bỏ sự nghèo nàn tà kiến, như cha mẹ làm lợi ích cho con, nhẫn là thuyền lớn đối với người bị chìm trong sân hận, là sự cứu giúp đối với người bị đọa vào đường ác, nhẫn là nước lớn dập tắt lửa địa ngục, sức mạnh của nhẫn nhục có thể diệt trừ nỗi khổ vì đói khát, ganh ghét của ngạ quỷ. Đối với súc sinh giết hại lẫn nhau, nhẫn nhục có thể cho chúng thân mạng. Ai sợ đường ác thì phải siêng năng thực hành nhẫn nhục không gián đoạn và phải tư duy về sức mạnh của nhẫn nhục. Khi ấy, Khổng tước chúa nói kệ: Ai bận áo nhẫn nhục

Là trang phục đẹp nhất
Của cải có thể mất
Nhẫn nhục không thể mất.
Người nào tu nhẫn nhục
Được mọi người yêu mến
Về sau được yên ổn
Nhẫn là giới đứng đầu.
Người nào tu nhẫn nhục
Bỏ tất cả sân hận
Hiện tại và vị lai
Thường được nơi an ổn.
Nhẫn nhục, giới, trí tuệ
Ba loại của cải đó
Tài sản này hơn hết
Vật báu không sánh bằng.
Người nào tu nhẫn nhục
Tất cả nên cúng dường
Được người tốt ngợi khen
Vậy nên tu nhẫn nhục.
Vui nhẫn nhục hơn hết
Có thể trừ sân hận
Nhẫn nhục diệt sân hận
Làm nó không sinh lại.
Người ngu si tối tăm
Nhẫn là ánh sáng chói
Như đèn trừ bóng tối
Nhẫn nhục chỉ đường chánh.
Ai lìa của chánh pháp
Lưu chuyển trong năm đường
Ai có của cải nhẫn
Là người rất giàu có.
Sân hận là đồng trống
Tối tăm khó vượt qua
Có nhẫn làm hành trang
Sẽ vượt qua không khó.
Ai lạc đường chánh pháp
Nhẫn nhục là đường chánh
Người sợ hãi đường hiểm
Sẽ được nhẫn nhục giúp.
Thường làm chúng sinh vui
Diệt trừ các khổ não
Thường được vui yên ổn
Vĩnh viễn thoát lo sợ.
Được người lành yêu thích
Sinh công đức tin tưởng
Tập hợp các điềm lành
Lìa bỏ pháp bất thiện.
Chỉ bày đường giải thoát
Diệt nỗi sợ sinh tử
Là thềm thang lên trời
Diệt trừ lửa địa ngục.
Cõi ngạ quỷ, súc sinh
Nhẫn là người cứu giúp
Nhẫn đầy đủ công đức
Làm chúng sinh tịch diệt
Muốn được thú vui lành
Phải tu tập nhẫn nhục.

Pháp nhẫn nhục này là pháp đứng đầu. Nhờ tu tập pháp ấy, hiện tại, vị lai thường được an lạc, khi chết sinh lên cõi trời và về sau đạt được Niết-bàn. Vì thế để không phóng dật, khi sinh làm trời, người phải tu tập nhẫn nhục.

Nghiệp lành thứ tư có thể trừ bỏ phóng dật cho Sa-môn, Bà-lamôn và các người khác là siêng năng cầu pháp lành tương ưng với điều thiện tinh tấn thực hành đạo pháp, thời gian và nơi chốn tịch tĩnh, tu tập pháp thế gian và xuất thế gian tịch tĩnh.

Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với pháp thế gian và xuất thế gian đầu đêm, cuối đêm, biết lúc dừng nghỉ, biết thời, biết xứ thì sẽ được yên ổn, sống tinh tấn phá trừ tất cả sự biếng nhác. Để phá trừ phiền não, Sa-môn, Bà-la-môn cần siêng năng tinh tấn. Khi đã sinh tinh tấn thì không tham đắm cảnh giới sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nếu có nhân duyên thì làm bạn với tâm tinh tấn và tâm chánh niệm để an trụ tâm, thâu giữ tâm lìa khỏi tất cả cảnh giới. Nếu có sức bất thiện phát sinh thì tinh tấn sẽ ngăn cản và chánh niệm sẽ trừ bỏ nó. Trong tất cả các pháp, tinh tấn là bậc nhất. Nhờ làm bạn với hai pháp này nên các pháp lành được kiên cố, không hư hoại và được quả báo. Nhờ công đức của chánh niệm và tinh tấn, cuối cùng họ đạt được Niết-bàn. Sa-môn, Bà-la-môn những người nào biết công đức này thì phải siêng năng tinh tấn. Trong thế gian này tinh tấn là hơn hết.

Nhờ siêng năng tu tập mà nghiệp thế gian được chắc chắn, được quả báo, được sống lâu, không bị người khác phá hoại. Người nào tinh tấn thì lúc lâm chung tâm sẽ trong sạch, không khiếp sợ, tán loạn, tuy bị suy não vẫn không ngừng siêng năng tu tập, các căn lành tăng trưởng, kẻ thù không hại được, không ai nói được lỗi lầm của họ, làm việc gì cũng thành tựu đầy đủ. Việc siêng năng tu tập nghiệp lành ở thế gian còn được người trí khen ngợi huống gì là siêng năng tu tập chánh trí xuất thế gian thì làm sao không tốt đẹp. Vì vậy, ai đối với tất cả các pháp, tất cả thời, tất cả xứ, tinh tấn một cách có trí tuệ, biết thời, biết xứ, siêng năng tu tập chánh kiến thì nhờ tinh tấn như vậy sẽ được tất cả thú vui. Nếu sống điên đảo thì sẽ chịu khổ não, buồn lo và các điều bất lợi. Nếu không có trí tuệ thì tuy siêng năng khổ nhọc cũng không gọi là tinh tấn. Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ:

Nhờ thời xứ thích hợp
Làm cho nghiệp tăng trưởng
Ai tinh tấn đúng pháp
Thì được quả báo lành.
Tuy làm việc nơi pháp
Mà lìa bỏ chánh pháp
Việc làm không thành tựu
Là do không tinh tấn.
Ai tinh tấn đúng pháp
Trí tuệ đắc Niết-bàn
Như ném kích trên không
Thì vọt lên trên trời.
Người nào siêng tạo nghiệp
Và tu hành tinh tấn
Việc làm đều hòa hợp
Sẽ được thành tựu lớn.
Đối với nghĩa thế gian
Hoặc nghĩa xuất thế gian
Tất cả được thành tựu
Đều nhờ sức tinh tấn.
Nếu lìa sức tinh tấn
Và lìa bỏ chánh pháp
Người ấy không giàu vui
Như tìm bụi trong trăng.
Nhớ nghĩ và giữ gìn
Con đường tám thánh đạo
Người tinh tấn rất mạnh
Đến được đạo bậc nhất.
Tinh tấn đắc Bồ-đề
Nhờ tinh tấn sinh Thiên
Tất cả các đạo quả
Đều được nhờ tinh tấn.
Đã biết công đức này
Siêng điều phục các căn
Ý siêng năng tinh tấn
Không gì bằng tinh tấn.

Bồ-tát Khổng tước chúa thuyết pháp trước đây đã nghe cho chư Thiên ở trời Đâu-suất-đà và chư Thiên trời Dạ-ma.

Chư Thiên đều ghi nhớ, lìa bỏ phóng dật, các căn được điều phục, chú ý lắng nghe.

Biết chư Thiên rất vui mừng và siêng năng tinh tấn, với tâm thanh tịnh, Khổng tước chúa nói pháp làm cho họ hướng đến Niếtbàn an ổn, tịch diệt, tạo lợi ích cho tất cả chư Thiên. Tất cả Bồ-tát đều dùng pháp làm lợi ích cho chúng sinh.

Lại nữa, pháp thứ năm đem lại lợi ích an lạc cho tất cả hàng trời, người là thuyết pháp, thuyết các pháp bố thí, thuyết các pháp lành. Trong tất cả các điều tôn quý, việc nghe pháp là hơn hết. Nó có thể trừ bỏ tất cả gốc rễ kiêu mạn. Việc thuyết pháp có thể điều phục kiêu mạn. Vì vậy, ta phải thuyết pháp, nghe pháp, kính trọng pháp, nói pháp đáng tin, nói pháp thọ trì, nói pháp tu hành và không ngừng thuyết pháp. Chư Phật đều lấy pháp làm thầy huống gì là Thanh văn, Duyên giác.

Việc thuyết pháp có mười công đức và có nhiều lợi ích.

Mười công đức đó là:

  1. Đầy đủ thời gian.
  2. Nơi chốn phân biệt giải thích.
  3. Tương ưng với pháp.
  4. Không vì lợi dưỡng.
  5. Vì điều phục tâm.
  6. Tùy thuận thuyết pháp.
  7. Thuyết bố thí có quả báo.
  8. Thuyết pháp sinh tử có nhiều chướng ngại.
  9. Nói về việc thoái đọa của chư Thiên.
  10. Nói có nghiệp quả.

Người nào thuyết pháp mà có mười pháp này thì làm cho người nghe pháp được nhiều công đức, được lợi ích an lạc cho đến đạt được Niết-bàn. Người thuyết pháp và người nghe pháp nguyện điều gì cũng được thành tựu, trong tất cả các loại bố thí thì pháp là hơn hết, nó có thể làm cho chúng sinh đạt được Niết-bàn, nhờ công đức nghe pháp ta thành tựu được tâm sâu xa, tín căn trong sạch và hết lòng tin tưởng Tam bảo. Ai đến nơi nghe pháp để nghe chánh pháp thì mỗi bước chân đều được sinh phước thanh tịnh. Ai cúng dường pháp sư thuyết pháp thì được phước giống như cúng dường Đức Thế Tôn trong hiện tại. Nhờ cúng dường pháp sư, người ấy nguyện gì cũng thành tựu và có thể đạt được quả Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì nghe thuyết pháp tâm được điều phục và có thể trừ bỏ bóng tối vô tri. Nếu không nghe pháp thì không gì có thể điều phục được tâm.

Có bốn ân rất khó báo đền. Bốn ân đó là ân mẹ, ân cha, ân Như Lai và ân Pháp sư thuyết pháp. Ai cúng dường bốn bậc này thì được vô lượng phước đức, hiện đời được người khen ngợi, đời sau đắc quả Bồ-đề.

Vì sao? Vì sức mạnh của thuyết pháp làm cho người kiêu mạn được điều phục, người tham lam tin vào việc bố thí, người hung ác, thô lỗ trở nên hiền hòa, dễ dạy, người ngu si có được trí tuệ, sức mạnh của việc nghe pháp làm cho người tà kiến có chánh kiến, người thích tạo nghiệp sát sinh, trộm cướp, tà dâm không còn tạo nghiệp nữa. Nhờ việc thuyết pháp điều phục cuối cùng họ có thể đạt được Niết-bàn. Do đó rất khó báo đền ân đức của pháp sư thuyết pháp. Ân đức của cha mẹ cũng khó báo đáp được bởi vì họ sinh ra thân ta. Ai làm cho cha mẹ được sống trong chánh pháp đó là báo ân được phần nào.

Đức Như Lai là Bậc Tối Thắng trong ba cõi. Như Lai là Bậc Vô Thượng Đại Sư, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử. Ân đức này rất khó báo đáp. Chỉ có một cách báo đáp ân Phật là tin tưởng chắc thật đối với Phật pháp. Đó gọi là báo ân, cúng dường theo cách ấy là tự tạo lợi ích.

Lúc đó, Khổng tước nói kệ:

Do nhân duyên thuyết pháp
Được Niết-bàn yên ổn
Cắt tất cả dây trói
Đạo sư của chúng sinh.
Do thuyết pháp tịch tĩnh
Phá bỏ lưới ngu si
Đạo sư thù thắng này
Chỉ đường cho chúng sinh.
Pháp nào giúp chúng sinh
Vượt khỏi các biển hữu
Pháp đó rất thù thắng
Thế pháp không theo kịp.
Người nào hay cúng dường
Bốn loại phước điền này
Người ấy được quả thiện
Đạo sư nói như vậy.
Đã được đủ các căn
Lại được nghe Phật pháp
Nếu thực hành phi pháp
Sau hối hận không kịp.
Sinh tham đắm khắp nơi
Thường mong cầu dục lạc
Thường tham ái vợ con
Không biết thần chết đến.
Tâm nghĩ nhiều điều ác
Bị lỗi làm rối loạn
Chúng sinh bị tâm trói
Dắt vào ba đường ác.
Ác này khó điều phục
Thường làm hại trời, người
Tâm này không tin được
Giặc dữ của chúng sinh.
Do khéo nghe khéo thấy
Tu tập vô số cách
Dùng pháp điều phục tâm
Như ngựa có dây cương.

Các người nên cúng dường vào ruộng phước sâu dày có đầy đủ công đức đó. Do nguyện lực, Bồ-tát Khổng tước chúa đã sinh vào cõi trời này thuyết pháp đó, thuyết nghiệp đạo, tôn trọng, ngợi khen pháp sư thuyết pháp để làm lợi ích cho chư Thiên.

Sau khi nghe pháp, tâm chư Thiên được thanh tịnh, chú ý nghe lời Bồ-tát dạy rồi nói: “Lời dạy của Khổng tước chúa tương ưng với lời dạy của Thiên vương Tịch Tĩnh trời Đâu-suất-đà không khác”.

Họ tư duy về pháp này, thấy đó là pháp đầu, giữa, cuối đều thiện, trong sạch bậc nhất, pháp lành bậc nhất, an ổn bậc nhất, làm lợi ích cho tất cả hàng trời, người, khiến họ được tịch diệt.

Nghe chư Thiên ở cõi trời Đâu-suất nói, Khổng tước chúa rất hoan hỷ. Với lòng thương xót, Bồ-tát làm cho chư Thiên được an ổn, giải thoát, đạt được Niết-bàn. Bồ-tát lại nói pháp môn thù thắng thứ sáu, có thể dẫn ta vào Niết-bàn. Pháp môn này là pháp an ổn tối thắng bậc nhất, mọi người yêu thích. Đó là lòng Từ bi, thương yêu tất cả mọi người, làm cho họ tin tưởng, vỗ về chúng sinh đang sợ hãi sinh tử, làm cho người không an ổn được an ổn, cứu giúp những người không được ai cứu. Ai có tâm Từ bi người đó cách Niết-bàn không xa. Người ấy có tâm Từ bi nhu hòa, không có tâm lừa dối, hung ác, thô lỗ, có thể trừ bỏ tâm sân hận do từ bi thấm nhuần tâm.

Tâm Từ bi chính là vật trang sức tốt nhất. Nếu phát sinh tâm thương xót chúng sinh trong năm đường thì có thể dẹp trừ sân hận, khổ não.

Làm sao để thương xót chúng sinh ở địa ngục? Vì sao chúng sinh này bị tự nghiệp lừa dối?

Do những việc của giặc tâm gây ra, họ chịu đủ loại khổ lớn không thể ví dụ như là nạn móc mắt, chày sắt, nước đồng sôi thiêu đốt, bị trùng dữ ăn thịt, bị dòng sông lớn chảy xiết nhận chìm và cuốn trôi, bị chim cắt, chim thứu mổ ăn, họ phải vào rừng kiếm và sông tro chịu đủ loại khổ, không thể nói hết. Đó là ở những nơi như địa ngục Hoạt, Hắc thằng, Hợp, Hoán, Đại hoán, Nhiệt, Đại nhiệt, cho đến địa ngục A-tỳ và một trăm ba mươi sáu địa ngục thuộc các địa ngục đó, chúng sinh đọa vào nơi ấy bị xé nát, mổ xẻ, chặt, cắt, thiêu đốt. Họ bị tâm lừa dối, bị lưới nghiệp trói buộc, bị lửa ái thiêu đốt không ai cứu giúp, không nơi nương tựa. Họ chạy khắp nơi để cầu được tha thứ giúp đỡ. Khi nào ta mới vượt được biển khổ não lớn như vậy. Ta phát sinh tâm thương xót đối với chúng sinh này. Ai gieo trồng hạt giống tâm Từ bi như vậy liền làm vua trời hoặc làm Chuyển luân thánh vương được mọi người thương yêu kính trọng.

Người có tâm Từ bi thì ưa thích nghiệp lành, nhờ quan sát chúng sinh trong địa ngục đang chịu nỗi khổ lớn mà tâm Từ bi phát sinh và vô lượng phước lành được tăng thêm.

Lại nữa, Sa-môn, Bà-la-môn và thiện nhân khác làm lợi ích cho chúng sinh, quan sát các ngạ quỷ sẽ phát sinh tâm Từ bi. Vì sao chúng sinh bị đọa làm ngạ quỷ chịu đói khát, tự đốt thân mình như đốt rừng cây, chạy khắp bốn phía, xô lấn lẫn nhau, bị lửa đốt, khắp thân thể bừng cháy, không ai cứu giúp, không nơi nương tựa. Chúng chạy khắp nơi để cầu được cứu giúp nhưng không có ai cứu. Đến lúc nào, các chúng sinh này mới thoát khỏi khổ não, mới hết nỗi khổ đói khát. Đó là quan sát nỗi khổ của ngạ quỷ mà phát sinh tâm thương xót.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn và người khác quan sát súc sinh thì phát sinh tâm Bi. Súc sinh có vô số khổ não. Chúng giết hại lẫn nhau. Súc sinh ở ba nơi là: Trên không, dưới nước và trên đất liền luôn giết hại lẫn nhau, ăn nuốt lẫn nhau. Lúc nào các chúng sinh này mới thoát nỗi khổ đó. Đó là quan sát nỗi khổ của súc sinh mà lòng Bi phát sinh. Ai có thể sinh ra ý nghĩ như vậy thì được sinh lên cõi trời Phạm thiên nhờ đem tâm Bi nhớ nghĩ, thương xót chúng sinh đang chịu khổ não trong ba đường ác.

Sau khi phát khởi tâm Bi đối với nơi chịu quả báo của nghiệp ác rất lớn, ta lại phát sinh lòng thương xót đối với chúng sinh ở sáu cõi trời dục giới. Họ hưởng thú vui cõi trời không thể ví dụ, như hưởng dục lạc ở đủ loại hang núi, ngọn núi, vườn cây, cùng Thiên nữ đi chơi hưởng trăm ngàn thú vui ở rừng hoa sen. Đã hưởng thú vui rồi, khi nghiệp hết bị thoái đọa, họ phải sinh vào nơi khổ, chịu khổ não lớn, bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nơi sinh tử này đùa cợt chúng sinh. Họ bị vòng tham ái trói buộc, chạy khắp Đông Tây. Do mê lầm không biết nên họ chịu khổ não lớn. Đó là quan sát nỗi khổ của chư Thiên mà sinh ra tâm thương xót.

Lại nữa, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn và các người khác quan sát loài người mà phát sinh lòng Bi. Do đủ loại nghiệp, họ sinh làm người, nhận quả khổ vui, gồm các bậc thượng, trung, hạ, tạo đủ loại nghiệp có đủ loại tâm tánh, đủ loại hiểu biết, tin tưởng, có người nghèo khổ sống nhờ người khác, bị ganh ghét làm trở ngại, sợ bị người khác khinh chê, tìm kiếm việc làm sinh sống. Do quan sát người thế gian, họ phát sinh lòng Bi. Lòng Bi là bạch pháp bậc nhất có thể giúp ta đạt được Niết-bàn. Người nào quan sát năm loại khổ của chúng sinh trong năm đường rồi phát sinh tâm Bi thì sẽ được rất an ổn và đạt được Niết-bàn.

Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ mà Đức Phật Ca-cathôn-đà đã dạy:

Người nào tâm nhu hòa
Tâm thương xót trang nghiêm
Được tất cả ủng hộ
Được mọi người khen ngợi.
Tâm dịu dàng như vậy
Các căn thường vui vẻ
Người chánh kiến hiền thiện
Cách Niết-bàn không xa.
Ai có lòng thương xót
Là trời trong loài người
Người nào không thương xót
Thì thường bị nghèo nàn.
Ai có tâm mềm dịu
Điều phục như vàng ròng
Lòng thương xót trong tâm
Là của báu vô tận.
Người nào thường tinh tấn
Siêng tu tập chánh pháp
Tâm trí người ấy sáng
Giống như ngọn đèn lớn.
Người nào suốt ngày đêm
Tâm thường trụ nơi pháp
Suốt ngày đêm người ấy
Không lìa tâm thương xót.
Tâm người ấy thanh tịnh
Lợi ích các chúng sinh
Đã hưởng an lạc rồi
Sau đạt được Niết-bàn.
Thương xót ao nước trong
Được Mâu-ni khen ngợi
Trừ được mọi lỗi lầm
Của thương xót vô tận.
Là công đức thù thắng
Trừ hết các tội lỗi
Phật thấm nhuần thương xót
Nên đến nơi bất diệt.
Ở đâu lòng thương cũng
Như mật hòa với sữa
Sân hận và khổ não
Không có nơi người ấy.
Đã lên bè lòng thương
Tâm thương xót mạnh mẽ
Vượt qua khỏi biển hữu
Chứa đầy nước ba độc.
Chứa đầy ngập công đức
Không bằng tâm thương xót
Được người thiện yêu mến
Nên gọi là tâm Bi.

Bồ-tát Khổng tước nói cho chư Thiên nghe pháp đầu, giữa, cuối đều thiện, tương ưng với tịch diệt, tất cả chư Thiên đều thích tập hợp lại lắng nghe và ghi nhớ.

Đức Phật ấy lại nói pháp thứ bảy. Những pháp gì tương ưng với pháp ấy để được giải thoát, trừ bỏ phóng dật phải nhờ những nghiệp gì? Đó là dùng tâm nhu hòa trừ bỏ lỗi chao động, thâu giữ các công đức. Người nào có thể làm cho tâm nhu hòa, lìa bỏ mọi thứ cấu uế thì quả Niết-bàn giải thoát như ở lòng bàn tay. Người có tâm nhu hòa giống như sáp. Họ tu tập nghiệp lành và được mọi người tin tưởng. Tâm hung ác thô lỗ như đá kim cương, họ thường không quên tâm thù oán, không chịu điều phục, bị mọi người ghét không ưa, không tin. Nếu phát sinh tâm ác thì họ giữ chặt không lìa bỏ, tâm không an lạc, không thích tọa thiền đọc kinh, không gần bạn lành, không sinh pháp lành, như ruộng muối không sinh hạt giống, trong cát không sinh dầu mè, cũng vậy người có tâm hung ác không sinh pháp lành như sữa trong sừng, sự ấm áp của mặt trăng, con của người nữ bằng đá, hoa đốm trên hư không, người có nghiệp ác hung dữ, lừa đảo vô trí, dối mình dối người, bị năm hữu nhận chìm, gần người bất thiện, xả bỏ Tam bảo. Người mù từ lúc mới sinh này không thấy mặt trời trí tuệ sáng suốt, không thấy chánh pháp, rất đáng thương xót. Họ bị sinh, lão, bệnh, tử làm buồn rầu khổ não, là nơi chứa nhóm các khổ. Họ vào đồng trống lớn chịu vô số khổ, lìa bỏ vị cam lồ mềm mại. Người ác này chìm trong biển khổ xa cách Niết-bàn. Vì sao? Vì họ không thực hành nhân của Niết-bàn nên thường không được an vui. Người nào có thể làm tâm dịu dàng thì nhất định sẽ đạt được Niếtbàn. Như tánh của mè là chảy ra dầu, mặt trời thì sáng, mặt trăng thì lạnh, lửa nóng, đất cứng, gió lay chuyển, nước ẩm ướt, mỗi đại đều giữ tự tướng, không đảo lộn. Người có tâm nhu hòa tự điều phục, tin tưởng chánh pháp, tinh tấn không thấy điên đảo, tin vào nhân quả thì Niết-bàn ở trước mặt.

Khi ấy, Khổng tước chúa nói kệ trong kinh Phật:

Người nào tâm nhu hòa
Giống như là vàng ròng
Người ấy trong ngoài thiện
Mau thoát khỏi các khổ.
Ai tâm khí điều thuận
Tất cả đều nhu hòa
Người ấy sinh giống lành
Giống như ruộng lúa tốt.
Tất cả các chúng sinh
Không làm cạn kho này
Phá bỏ được nghèo nàn
Và nhiều sự dối trá.
Người lợi căn, tịch tĩnh
Thường tu tập thiền định
Không đắm cảnh phóng dật
Lìa xa các khổ não.

Lúc Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ này, chư Thiên trời Dạ-ma và trời Đâu-suất-đà nghe không biết chán. Vì muốn nghe pháp, họ chấp tay cung kính thưa: “Xin bậc đại Thánh thuyết đủ hai mươi hai pháp cho chúng con nghe. Vì muốn tạo lợi ích cho người khác, chúng con sẽ chú ý lắng nghe”.

Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa đã thuyết bảy pháp trong hai mươi hai pháp. Nay Bồ-tát thuyết pháp thứ tám.

Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn và các thiện nhân khác tư duy: Có những pháp gì là pháp điều phục có thể trang điểm cho tất cả pháp? Tất cả sự điều phục tương ưng với giới luật. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn và người khác, tại gia, xuất gia, già hoặc trẻ, tương ưng với điều phục lấy điều phục để trang điểm thì có thể làm họ ngay thẳng. Ai lìa sự điều phục thì giống như cáo, quạ, chim cắt, chim thứu.

Người xuất gia làm cách nào để điều phục? Người xuất gia ban đầu lấy áo ca-sa để tự điều phục. Phải thực hành bảy việc: Nhận y phấn tảo theo phép nước. Khi ở bất cứ nước nào cũng đều đắp y do người tại gia liệng bỏ. Nếu ở gò mả có y của người mới chết bị tử thi đè lên thì không nên lấy. Nếu lượm được y rách ở gò mả thì có thể dùng. Đó là pháp điều phục bằng áo ca-sa.

Lại nữa, sự điều phục thứ nhì là: Nếu vào xóm làng thì phải nhìn xa một tầm về phía trước, nhớ tưởng hình ảnh của Phật, nhất tâm chánh niệm các căn không loạn, đếm hơi thở ra vào, buộc tâm niệm thân, khi vào thôn xóm không ngắm nhìn các thứ mình cần và các loại đồ vật, không ngắm nhìn các màn giăng xinh đẹp, không nói chuyện với người nữ, không ẵm bế trẻ con, không rung đùi, không vung vẩy tay, ngồi vào ghế thì không gãi đầu, không thường sửa y, không vung vẩy áo ca-sa, không xoa bóp tay, không khảy móng tay. Đó là pháp điều phục thứ hai.

Sự điều phục thứ ba là: Vào nhà thí chủ, lúc ăn cơm phải rửa tay, sắp bát, khi ăn không buông xuôi hai tay mà phải đưa tới trước một khủy tay, không ngậm thức ăn đầy miệng, cũng không ngậm quá ít, lúc ăn không đùa cợt, cười giỡn, không tham ăn, làm mất lòng tin trong sạch của người làm cho họ khinh thường, phải quan sát tâm của người khác, vò viên thức ăn không lớn, không nhỏ, không há miệng lớn, không để phát ra tiếng động khi nhai thức ăn, không thở hào hển, chỉ ăn hai phần ba so với nhu cầu của mình và biết vừa đủ, không nhìn bát của người khác sinh tâm tham, nhận thức ăn uống không làm hư hoại tâm người khác, nhìn vào bát mà ăn không ngó hai bên, ăn xong rời khỏi bát và rửa tay súc miệng cho sạch, giữ gìn các căn, chánh tâm nói pháp, xét kỹ tâm niệm, nói pháp không mau, không chậm, không cong, không thẳng, không nói phi thời, không nhiều, không ít, giữ gìn tâm của thí chú, không phá hoại lòng tin của họ. Đó là pháp điều phục thứ ba.

Lại nữa, sự điều phục thứ tư là: Lúc ăn ở xóm làng, thành ấp, không nhớ tưởng thức ăn đã thấy lúc trước, không nói nhiều, không mong cầu được giường nằm, chỉ thọ nhận như pháp, không mong cầu đồ ăn ngon. Đó là pháp điều phục thứ tư.

Pháp điều phục thứ năm là làm mọi việc không ỷ lại, không vướng mắc, không tiếc thân mạng, không tích chứa nhiều dụng cụ, không đi ở nơi biên giới nguy hiểm, không ăn mặc khác lạ, không thích được mời mọc, không ưa tới lui một nhà. Đó là pháp thứ năm.

Pháp điều phục thứ sáu là không chặt cây cỏ, không đào đất, không mang giày da nhiều màu và mặc y áo sặc sỡ, không hủy báng rao truyền người phá giới, không mong cầu thức ăn của vua, không gần những Tỳ-kheo thích đấu tranh. Đó là pháp điều phục thứ sáu.

Pháp điều phục thứ bảy là nếu có Tỳ-kheo cùng một ý nghĩ, cùng tu một pháp thì nên gần gũi, lợi ích để cùng tiến bộ. Muốn bỏ cảnh giới của ma thì phải điều phục, tịch diệt, giữ gìn các căn, Tỳkheo này nên ở nơi hang núi, khe núi, dưới gốc cây, nơi đất trống, thường tu hành pháp không, vô tướng, vô nguyện. Đó là pháp điều phục thứ bảy. Tỳ-kheo nào thực hành như vậy thì có thể xả bỏ tất cả sự trói buộc để được giải thoát. Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ cho chư Thiên nghe.

Tương ưng pháp điều phục
Tu hành cảnh giới trí
Sợ hãi lỗi sinh tử
Thì xuất gia không uổng.
Không hủy phạm học giới
Không nhớ thú vui ác
Thường quan sát các ấm
Sống trong rừng yên tĩnh.
Người tịch diệt, ái ngữ
Hiện đời đạt Niết-bàn
Giữ giới trang điểm thân
Tương ưng với xuất gia.
Ai không bị mê hoặc
Nơi pháp mình và người
Nghiệp báo, phi nghiệp báo
Cũng như đạo, phi đạo.
Không sống theo nghiệp ác
Không lo sợ khổ vui
Giải thoát khỏi gia đình
Các khổ không trói buộc.

Bồ-tát Khổng tước chúa nói vô lượng công đức của pháp điều phục làm cho chư Thiên đều tin hiểu và chú ý lắng nghe. Bồ-tát Khổng tước chúa liên tục nói pháp cho chư Thiên ở trời Dạ-ma và trời Đâu-suất-đà. Biết chư Thiên kính trọng pháp, Bồ-tát nói tiếp pháp trong sạch thứ chín. Pháp đó là: Nếu Sa-môn, Bà-la-môn và những người khác tin nghiệp báo thì sẽ được pháp lớn. Người này có thể biết nghiệp ác của thân, không làm cho nó tăng thêm, không ưa, không thích vì quả báo của nó là cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đối với nghiệp ác của miệng và ý họ không cho nó tăng thêm, không ưa không thích vì quả báo của nó là chịu khổ ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn trước đây đã tạo nghiệp ác rồi hối hận không tái phạm nữa và gần gũi sư trưởng để nghe pháp.

Làm sao để thoát khỏi quả báo của nghiệp ác? Nếu như sư trưởng có trí tuệ điều phục đem nhân duyên, phương tiện nói với họ làm cho họ hối hận thì các nghiệp ác trong quá khứ đều bị diệt hết. Do nhớ nghĩ nghiệp lành, họ không gây nghiệp ác. Họ quan sát xem nghiệp phát sinh từ đâu. Nhờ quan sát như vậy, họ không tạo nghiệp ác, làm cho tất cả các nghiệp bất thiện dần dần bị tiêu diệt hoặc làm cho các nghiệp ác của thân, miệng, ý mới gây trong hiện tại được mỏng bớt. Do tâm nhẹ nhàng, sau khi phạm tội họ liền hối hận không dám làm nữa. Nhờ hối hận như vậy, tất cả các nghiệp ác đã thành tựu đều bị tiêu diệt.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn và những người khác biết nghiệp như vậy và suy nghĩ: “Do đã quen làm ác, ta đang tạo nghiệp bất thiện nơi thân, miệng, ý, lúc quả báo này chín mùi, ta sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh”.

Lúc nghiệp ác chưa sinh, họ dùng phương tiện chân chánh làm cho nó không sinh, nếu Sa-môn, Bà-la-môn tin nghiệp quả quả báo như vậy, giả sử có nghiệp địa ngục thành tựu sẽ phải ở trong địa ngục, chịu khổ trong thời gian dài thì quả báo đó sẽ mỏng bớt hoặc bị tiêu diệt.

Lại nữa, nhờ siêng năng tinh tấn, nếu có nghiệp ác phải đọa vào ngạ quỷ, chịu nỗi khổ đói khát trong thời gian dài thì hoặc chỉ chịu quả báo ấy trong thời gian ngắn, hoặc quả báo ấy bị tiêu diệt hết.

Sa-môn, Bà-la-môn và những người khác siêng năng tinh tấn như vậy thì nếu có nghiệp ác sẽ phải làm súc sinh ăn nuốt lẫn nhau trong thời gian dài thì hoặc chịu quả báo ấy trong thời gian ngắn, hoặc nó bị tiêu diệt hết chỉ trừ nghiệp đã chắc chắn thành tựu, phải đọa vào cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì nhất định phải chịu quả báo.

Lại nữa, tin quả báo của nghiệp, tư duy về những nghiệp quả vi tế khó hiểu, sám hối về ba nghiệp ác đã tạo không còn tái phạm thì do nghiệp bất định sẽ sinh vào súc sinh. Nhờ tư duy như vậy, nếu có nghiệp địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì chỉ mong thân súc sinh vì tâm sám hối trong sạch có thể phá trừ nghiệp nặng. Do tâm lực, nghiệp báo bị tiêu diệt hết hoặc giảm bớt. Nếu có nghiệp ác phải mang thân súc sinh thì nhờ tâm sám hối và nghiệp lành quả báo đó có thể bị tiêu diệt, không còn phải mang thân súc sinh lâu dài, không chịu khổ lớn, hoặc do tâm thù thắng có thể đoạn trừ nghiệp ác. Do đó phải tin nghiệp quả.

Sa-môn, Bà-la-môn và những người khác tin quả báo của nghiệp thì có thể vượt qua bờ kia. Vì sao? Vì tất cả năm đường sinh tử do nghiệp và quả báo thiện, ác mà có vì vậy nên tin ở quả báo của nghiệp. Tất cả chúng sinh đều do nghiệp quả mà có. Vì vậy, người nam, người nữ phải siêng năng tinh tấn ngày đêm suy nghĩ về quả báo của nghiệp, là nhà tù chắc chắn nhất trong đường sinh tử.

Pháp thứ mười mà Sa-môn, Bà-la-môn và người khác nên tư duy là: Sự tai hại do chỗ ở gây ra. Sa-môn, Bà-la-môn và người khác, người ít trí tuệ bị nơi ở làm hại, tâm họ tham đắm, lưu luyến không thể xả bỏ những nơi như Tăng-già-lam, tăng trụ xứ, xóm làng, đất nước, thành ấp và những nơi khác… Họ thường biếng nhác, thích nơi phi xứ, không đến chốn A-lan-nhã yên tĩnh, không đi nơi khác, không thể gọi họ là tại gia hay xuất gia, trọn đời họ sống nơi phi pháp. Do đâu người này xuất gia mà không chịu đến những nơi cần đến như núi rừng, A-lan-nhã mà suốt đời lại ở nơi phi pháp. Để tu thiền họ đi xuất gia vậy mà không chịu vào núi rừng vắng vẻ lại sống ở nơi phi xứ. Sa-môn, Bà-la-môn nào sống ở nơi phi xứ thì bị các thí chủ khinh chê, không thích gần gũi cúng dường, không thích thấy mặt. Nếu ở nơi phi xứ thì tội lỗi hiện rõ, bị các kẻ phàm tục chê cười. Những người ấy nói với nhau: “Sa-môn, Bà-la-môn ấy và những người khác thích ở nơi phi xứ không biết nên gọi họ là tại gia hay xuất gia”.

Họ không thích chốn núi rừng, A-lan-nhã, chỉ thích tích chứa của cải, thích gặp người thế tục, gần người tại gia giống như tôi tớ, bị các cư sĩ khinh chê, vì vậy không thể gọi người này là tại gia hay xuất gia.

Do sống nơi phi xứ, giả sử không có lỗi lầm bị người khác phỉ báng đi nữa thì cũng bị thí chủ khinh chê về việc họ ở nơi phi xứ, họ thường gặp người bạch y, người tại gia, tuy không bị khinh thường thì cũng mắc tai họa khác. Sa-môn, Bà-la-môn nào sống nơi phi pháp thì không được lợi ích.

Vì vậy, Sa-môn, Bà-la-môn không nên sống ở nơi làm hại mình mà phải thường thích trụ xứ, thường thích sống một mình, thích ở bên gốc cây, nơi gò mả, nơi yên tĩnh để tu thiền hoặc suốt đời sống một mình trong hang núi, nên tránh xa phi xứ, xả bỏ tất cả nơi phi pháp để có thể được giải thoát. Người ở nơi phi xứ thì không thể giải thoát.

Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ:

Tỳ-kheo sống phi xứ
Bị xem như đứa ở
Coi khinh như cỏ rác
Mất sự tự lợi ích.
Tỳ-kheo sống phi xứ
Không tại gia, xuất gia
Tâm họ không ưa thích
Việc tọa thiền tụng kinh.
Tỳ-kheo sống phi xứ
Tích chứa nhiều của cải
Tâm tham đắm của báu
Không biết giờ chết đến.
Mạng diệt trong từng niệm
Mà không thể hay biết
Không biết việc mình làm
Lãnh quả báo đời sau.
Tỳ-kheo sống phi xứ
Thường thích gặp người đời
Thường sống nơi phi xứ
Chết liền vào đường ác.
Tâm không chút tham đắm
Không mong cầu thứ gì
Thoát khỏi mọi tham lam
Đó gọi là Sa-môn.
Hoặc ở bên gốc cây
Thường tu tập thiền định
Liền được trí thanh tịnh
Xa lìa mọi lỗi lầm.
Lìa bỏ mọi tham đắm
Không bị cảnh mê hoặc
Liền diệt được phiền não
Như lửa đốt củi khô.
Tỳ-kheo tu một mình
Giữ gìn hết năm căn
Biết như thật thân tướng
Liền đạt được Niết-bàn.
Thường niệm siêng tinh tấn
Xa lìa mọi lỗi lầm
Người ấy đến Niết-bàn
Như đến nơi vui chơi.
Thường mong cầu Niết-bàn
Thường sợ hãi sinh tử
Tâm trong sạch như vậy
Thì không thích phi xứ.

Tỳ-kheo này sống ở nơi phi xứ thì mắc nhiều lỗi lầm. Vì vậy, Tỳ-kheo nên lìa bỏ phi pháp. Nếu có Tỳ-kheo sống ở nơi phi xứ thì không khác người phàm tục. Người tại gia nào sống nơi phi xứ còn mắc vô số điều ác huống gì là Sa-môn. Do gần người tại gia, họ làm trái với tất cả pháp lành. Vì vậy, nên xa lìa tất cả phi xứ.

Lúc ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa lại nói cho chư Thiên ở trời Dạ-ma và trời Đâu-suất-đà nghe mười một pháp mà Đức Phật Ca-cathôn-đà đã nói. Pháp lành này rất đáng yêu có thể giúp ta đạt được Niết-bàn. Pháp đó là: An trụ tâm. Tỳ-kheo nào an trụ tâm thì giữ được pháp lành, được người khác khen ngợi. Pháp trụ tâm giúp ta xa lìa tất cả điều ác. Từ vô thỉ kiếp đến nay lưới kết sử và lỗi lầm của tâm bủa vây khắp nơi, trói buộc rất chặt, không thể dùng chút ít thời gian, chút ít tinh tấn và chút ít định lực mà đoạn trừ được. Tỳ-kheo nào chỉ trụ tâm chút ít thì không thể đoạn trừ cái lưới rất dữ như vậy. Đất nơi tâm địa còn hơn là cái lưới, không có pháp nào khác có thể trừ bỏ sinh tử bằng pháp trụ tâm. Chỉ có người tu hành mới có thể an trụ tâm.

Nếu có pháp ác phát sinh ta thâu giữ điều phục nó, không thích và siêng năng trừ bỏ nghiệp ác, trừ bỏ pháp bất thiện, nếu tham dục phát sinh, ta tu quán bất tịnh là thích hợp. Pháp quán bất tịnh có thể trừ bỏ tâm tham dục xấu xa không còn ưa thích tham đắm nữa. Nếu phát sinh sân hận thì ta thâu giữ tâm quán từ bi, nếu tâm ngu si phát sinh thì ta quán mười hai nhân duyên. Khi ấy Khổng tước chúa nói kệ:

Ai không thích trụ tâm
Tham ái các thú vui
Nếu bị ái trói buộc
Mất lợi ích hai đời.

Bồ-tát Khổng tước chúa nói cho chư Thiên ở trời Dạ-ma và trời Đâu-suất-đà nghe vô số lỗi lầm của việc không an trụ tâm. Chư Thiên nghe không biết chán pháp lợi ích hai đời và thưa:

–Thưa Khổng tước chúa, chưa từng có ai diễn giảng cho chúng con nghe pháp sâu xa đầu, giữa, cuối đều thiện, có thể đạt đến Niếtbàn, làm chúng con nhàm chán đường sinh tử và được rất an ổn. Cúi xin Bồ-tát tiếp tục diễn giảng cho chúng con, chúng con sẽ chú ý lắng nghe và ghi nhớ để làm lợi mình và lợi người.

Nghe chư Thiên nói xong, biết họ đều hoan hỷ thích nghe, Khổng tước chúa vui mừng nói với họ bằng âm thanh rất hay:

–Sa-môn, Bà-la-môn và người khác nhớ nghĩ pháp rồi, lo sợ siêng năng tu tập, sợ tiếng xấu. Tỳ-kheo nào sợ tiếng xấu liền lìa các tội lỗi, như là không đến chỗ những người nữ cười giỡn, không vào quán rượu, không gần gũi nói chuyện với người bán rượu, không gần và nói chuyện với người nghiện rượu, không gần kẻ cướp, người đã làm việc rất ác, người thích đấu tranh, người độc ác, người nhiều lần bỏ đạo, người chơi cờ, người chơi nhạc, trẻ con, người bị nữ sắc trói buộc, người chao động, người không giữ kín miệng, người tham lam, người mua bán lừa đảo, người mua bán xảo trá ngoài đường ngoài chợ, bị người đời khinh ghét, người ngăn lấp sông ao, không gần và cùng đi với huỳnh môn và người nữ cho đến một bước, không gần người dạy voi, người hàng thịt, người dạy ngựa, người theo đoạn kiến, người không có giới luật, Tỳ-kheo không nên gần gũi những người ác này vì gần những người ấy thì mất pháp Tỳ-kheo, người đời sẽ nghĩ rằng: Tỳ-kheo này gần người như vậy chắc là đồng hành với họ. Gần gũi và cùng đi với những hạng người vừa nêu trên sẽ làm cho mọi người nghĩ như vậy. Do đó, Tỳ-kheo nên sợ tiếng xấu, không nên cùng đi với những người có nghiệp bất tịnh cho đến một bước.

Khi ấy, Bồ-tát khổng tước nói kệ Như Lai đã dạy:

Ai ở gần người ác
Liền thành người bất thiện
Nên phải lìa bỏ ác
Đừng gây nghiệp bất thiện.
Hễ gần gũi người nào
Thường xuyên thân cận họ
Do gần gũi, cùng đi
Thiện hoặc là bất thiện.
Hết thảy người cầu thiện
Nên gần gũi người lành
Như vậy sẽ được vui
Thiện không có nhân khổ.
Gần thiện thêm công đức
Gần ác tăng khổ não
Công đức và tướng ác
Ta nói gọn như vậy.
Thường gần gũi bạn lành
Thì được tiếng tốt đẹp
Ai gần kẻ bất thiện
Thì bị người khinh chê.
Thường gần gũi bạn lành
Và xa lìa bạn ác
Do gần gũi bạn lành
Xả bỏ các nghiệp ác.

Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa lại bảo chư Thiên: Nếu Tỳkheo nào có bảy công đức thì không có tiếng xấu. Bảy công đức đó là:

  1. Xa lìa mọi người.
  2. Không thích của cải cúng dường.
  3. Biết đủ.
  4. Thích sống nơi hang núi yên tĩnh, thâu giữ các căn lành.
  5. Ít nói.
  6. Không tới quán rượu khi đi vào thôn xóm.
  7. Không mua bán trao đổi.

Tỳ-kheo nào có công đức này thì tương ưng với chánh hạnh và không có tiếng xấu, được mọi người kính trọng. Vì vậy việc sợ tiếng xấu là hơn hết. Tỳ-kheo nào không sợ tiếng xấu thì sẽ mắc tội lỗi nhiều hơn bạch y, họ làm việc và nói năng tùy ý không biết hổ thẹn khi phạm giới. Người phá giới này khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục.

Người sợ tiếng xấu thích nơi vắng vẻ không thích ở gần xóm làng, thành ấp. Do biết đủ họ không làm mất tín tâm của người khác và xa lánh tất cả những nơi ồn ào. Họ thường sợ hãi những lỗi lầm nhỏ. Đó là Tỳ-kheo sợ tiếng xấu và đạt được điều lành ở thế gian.

Pháp thứ mười ba có thể tạo nhiều lợi ích là không say đắm. Pháp này thật đáng ưa. Nếu có Tỳ-kheo trong sạch không đắm vướng, thích ở nơi vắng vẻ, giữ mạng trong sạch, không còn buồn rầu và rất an ổn, thâu giữ tâm một chỗ, nếu gặp khổ não nguy hiểm tâm không khiếp sợ, bị người nhục mạ họ không phát sinh sân hận, gặp việc vui họ không vui, không sợ việc đáng sợ, không gần gũi họ hàng vì sợ mất lợi ích, làm việc gì cũng hoàn tất, không ưa thích các nghiệp ác trước đây đã gây ra, không thích xem việc vui chơi ca múa, đi từ xóm này đến xóm khác, từ thành này đến thành khác, từ ấp này đến ấp khác, từ nhà này đến nhà khác với tâm không tham đắm, thức ngủ đều yên ổn. Do không tham đắm nên họ có chánh hạnh trong sạch giống như người già cả đức độ, ma không hại được, họ không tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc, cũng không thích lợi lộc cúng dường, sau khi nhận họ liền xả bỏ. Họ siêng năng trừ bỏ những suy nghĩ bất thiện không cho sinh trở lại. Nếu có điều ác phát sinh họ liền diệt trừ làm cho tâm không bị não loạn. Ngay cả suy nghĩ bất thiện Tỳ-kheo này còn siêng năng diệt trừ huống gì là các lỗi thô ác mà họ không trừ bỏ sao.

Có ba loại pháp nên tu hành. Ba pháp đó là: Pháp bất thiện đã sinh làm ngăn trở tâm Từ bi, để trừ bỏ nó cần phải siêng năng tinh tấn. Đối với các pháp bất thiện chưa sinh để nó không sinh cần phải siêng năng tinh tấn, khi pháp lành đã sinh cần phải siêng năng tinh tấn để làm pháp lành tăng thêm.

Nếu Tỳ-kheo nào không tham đắm, chánh ý thanh tịnh, muốn trừ sạch tham ái, nhàm chán ái dục, cầu sự an lạc thì đừng say đắm.

Tỳ-kheo nào không say đắm thì được thú vui bậc nhất. Bấy giờ, Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ:

Thường tu tập thiền định
Tâm không nơi tham đắm
Do tâm thường thanh tịnh
Tâm ý không tán loạn.
Ai nhớ nghĩ chân chánh
Việc ác không thể nhiễm
Do lìa bỏ các lỗi
Nên đạt được an ổn.
Luôn nhớ nghĩ chân chánh
Suy nghĩ không rối loạn
Do lìa suy nghĩ ác
Đó là khéo an trụ.
Ai có ý tịch tĩnh
Thường ưa thích Niết-bàn
Các căn của người đó
Lìa xa những việc ác.
Nếu có người tu hành
Được thú vui thiền định
Đều do gom tâm niệm
Tu hành mà đạt được.
Ai thích ở một mình
Thú vui sinh trong tâm
So với các thú vui
Thú vui này hơn hết.
Ai gom tâm buộc niệm
Thì tâm sẽ thanh tịnh
Thoát các lưới lỗi lầm
Tâm ý thường tịch diệt.
Thường nhất tâm buộc niệm
Thâu giữ cả năm căn
Người này nước trí tuệ
Diệt lửa độc tham ái.
Người thoát dây tham ái
Thường được vui trong sạch
Hiện tiền được Niết-bàn
Không diệt cũng không hư.
Suy nghĩ làm loạn tâm
Chịu sinh tử nơi nơi
Tương ưng với nhất niệm
Giữ gìn sức Tam-muội.
Con đường thù thắng này
Đến được thành Niết-bàn
Nhờ vào niệm nhất tâm
Có thể phá quân ma.
Trí sáng rỡ chắc chắn
Trói tâm ngựa phóng dật
Đến bờ bậc nhất ấy
Nơi trong sạch không dơ.
Người mạnh mẽ bậc nhất
Tu hành đến bờ kia
Nhờ nhất tâm buộc niệm
Đến được nơi bất hoại.

Bồ-tát Khổng tước chúa đã thuyết cho chư Thiên nghe vô số pháp lợi ích an lạc, nay Bồ-tát lại tiếp tục thuyết pháp cho chư Thiên ở trời Dạ-ma và trời Đâu-suất-đà để họ đạt được Niết-bàn.

Bồ-tát bảo chư Thiên:

–Pháp chân thật nhất trong các pháp là pháp thứ mười bốn: Tỳkheo sống một mình. Tỳ-kheo này thích tạo nghiệp lành, đi ở trong rừng, đi ở nơi vắng vẻ. Tỳ-kheo sống một mình này là người điều phục, tịch tĩnh, không sợ sệt gì, tâm không tham đắm các thú vui ở hang núi, ở bờ cỏ. Tâm họ ngay thẳng. Tỳ-kheo sống một mình có bảy pháp lợi ích là:

  1. Biết đủ, tâm thường an vui.
  2. Tâm thường trong sạch.
  3. Được người đời kính trọng, chư Thiên hộ trì.
  4. Lìa bụi nhơ.
  5. Tăng thêm pháp lành.
  6. Nhất tâm chánh niệm, thân, khẩu, ý trong sạch, giải thoát trong hiện tại.
  7. Lìa các pháp cấu uế, thành tựu pháp sạch. Nhờ sống một mình ta có thể phá trừ vô số oan gia phiền não từ vô thỉ đến nay. Tỳkheo sống một mình nhất tâm chánh hạnh, sợ hãi phiền não, sợ hãi các việc ác nhỏ, thường siêng năng tinh tấn, oai nghi tịch tĩnh.

Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ cho chư Thiên nghe:

Ác kiên cố quấy nhiễu
Sức lớn khó điều phục
Dũng cảm điều phục tâm
Được thú vui bậc nhất.
Ba loại lỗi lầm này
Hủy hoại các thế gian
Nước trí trừ diệt được
Có thú vui bậc nhất.
Người nào không thích pháp
Thì khác chi phi nhân
Không sống với chánh đạo
Không đến thành Niết-bàn.
Đã được thân người rồi
Nơi công đức nương tựa
Vì sao không lên bè
Vượt các dòng biển Hữu.
Mạng sống của chúng sinh
Như mộng, bánh xe lửa
Như thành Càn-thát-bà
Qua mau không tạm dừng.
Thân rã trong từng niệm
Thường sợ nạn già chết
Chóng diệt, không chắc chắn
Dựa đâu sinh kiêu mạn.
Thân là thành chứa bệnh
Là nơi rất buồn rầu
Là đất thiện hoặc ác
Vì vậy gọi là thân.
Ai tự trang điểm thân
Bằng thí, giới và trí
Đó là người tối thắng
Thành tựu quả báo lành.
Ai có bảy điều chánh
Người đó ngang hàng Phật
Thí, giới, trí, tinh tấn
Bi, nhẫn, khéo điều phục.
Người nào trong vô số
Thời kiếp không đếm được
Tu sáu Ba-la-mật
Người ấy chính là Phật.
Ai xả bỏ tham dục
Bậc nhất trong ba cõi
Do xả bỏ tham dục
Thường được rất an lạc.
Ai tham đắm dục lạc
Các khổ thường hiện tiền
Tham dục là nhân khổ
Vì vậy nên lìa bỏ.

Bồ-tát Khổng tước chúa đã nói cho chư Thiên trời Đâu-suấtđà và trời Dạ-ma nghe pháp này. Khi ấy, Bồ-tát lại nói cho chư Thiên nghe pháp lợi ích thứ mười lăm. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn và người nào tâm không tán loạn thì sẽ được lợi ích, nếu tâm tán loạn thì thâu giữ tâm ý làm cho tâm an trụ. Người ấy thích gần gũi người đồng phạm hạnh, thường siêng năng lìa bỏ đường ác để mong cầu an ổn.

Tỳ-kheo nào tâm không tán loạn thì điều phục được sáu căn, không tham đắm cảnh giới, sợ hãi sinh tử, lìa bỏ tất cả pháp bất thiện. Do lìa bỏ tất cả pháp bất thiện nên họ thường được an lạc. Nếu có Tỳ-kheo tâm không tán loạn đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì đó là Tỳ-kheo tâm ý chánh niệm. Do tâm chánh niệm nên pháp lành tăng trưởng, người chánh niệm không thích sinh tử, thường siêng năng tinh tấn, thích tu định, nhờ chánh niệm liền có thể đắc đạo. Đã đắc đạo rồi, họ siêng tu các hạnh. Do siêng tu đạo, các hạnh thiện phát sinh. Do nhớ nghĩ chân chánh, họ đạt được đạo quả. Do thường chánh niệm tu đạo, họ trừ bỏ các kết sử. Những kiết mà họ đoạn trừ là: Tham ái, sân hận, vô minh, ngã mạn, cấu uế, keo kiệt. Những sử mà họ diệt trừ là dục nhiễm, sân hận, hữu nhiễm, vô minh, ngạo mạn, kiến, nghi. Do sức mạnh của các kết sử này nên ta bị lưu chuyển trong các đường, bị trói buộc ở ba cõi. Nếu tâm không tán loạn, nhất tâm tu niệm thì có thể diệt trừ các phiền não đó.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn hoặc người khác muốn được an ổn thì nên biết tâm là gốc rễ của tất cả các pháp thiện, ác, vì vậy ta nên siêng năng tu tập đạo pháp, sợ hãi tai họa của Hữu, thâu giữ tâm chánh niệm, diệt trừ phiền não. Không có pháp nào khác có diệt trừ rừng già phiền não từ vô thỉ đến nay bằng tâm chánh niệm.

Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước nói kệ:

Nhất tâm niệm hiện tiền
Sợ hãi các việc ác
Sinh ra pháp vô lậu
Giống như đám ruộng lúa.
Nhất tâm niệm hiện tiền
Siêng năng tu tập đạo
Trừ bỏ pháp bất thiện
Như mặt trời trừ tối.
Ai nhất tâm hiện tiền
Thường chánh niệm tịch diệt
Thì không sợ lầm lỗi
Như chim cánh vàng chúa.
Tâm tán loạn như vậy
Như gió có sức mạnh
Người trí hay điều phục
Giống như người dạy voi.
Giới Tam-muội trí tuệ
Giống như lửa rất mạnh
Lại hòa hợp với gió
Thiêu cháy các rừng ác.
Vì vậy nên tu trí
Để trừ bỏ ngu si
Lìa khỏi họa già chết
Đạt đến nơi vô thượng.
Nếu ai siêng thâu tâm
Tinh tấn mà tu hành
Do họ thâu tâm nên
Trừ bỏ mọi pháp ác.
Tâm thường duyên cảnh giới
Mạnh mẽ mới giữ được
Các dục không thể phá
Như thuốc độc trong tay.
Siêng tinh tấn như vậy
Điều phục được tâm họ
Ba dòng sông ái lớn
Vượt qua chớ dừng lâu.

Để đem lại lợi ích cho chư Thiên ở trời Dạ-ma và trời Đâusuất-đà, Bồ-tát Khổng tước chúa đã giảng các hạnh lành. Sau khi nghe pháp này, chư Thiên đều sợ hãi sinh tử, lìa bỏ tất cả thú vui cảnh giới.

Biết được tâm của chư Thiên, Bồ-tát Khổng tước chúa lại dạy pháp thứ mười sáu. Bồ-tát bảo chư Thiên:

–Có pháp lành đáng ưa, có chế ngự phóng dật giống như móc sắt, ta nên nhớ nghĩ, tu hành pháp đó. Pháp đó là nhớ nghĩ về cái chết. Nếu ai nghĩ về cái chết thì siêng năng tu tập không ngừng nghỉ. Việc ác không gì lớn bằng này làm não loạn tất cả chúng sinh, làm cho họ không thể lẫn trốn, chắc chắn không ai tránh khỏi bởi vì có sinh thì phải có tử. Nó gây ra tất cả sự ân ái biệt ly, làm con người chết đi sinh ở nơi đáng sợ, hoặc là từ nơi vui sinh đến nơi khổ, bị dây nghiệp trói buộc, lấy nghiệp của mình làm của cải, bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Lúc chết, họ không có bạn bè, chỉ có nghiệp lành và nghiệp dữ làm đồng bạn. Nghiệp lành đã tạo giống như cha mẹ dắt họ đến nơi an vui, nghiệp ác như kẻ thù dắt họ đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do đó, ta nên tu tập nghiệp lành, lìa bỏ nghiệp ác. Nếu có thể tu tập nhớ nghĩ cái chết thì tâm sẽ không vướng mắc nơi cảnh giới, không tham dục, sân hận, ngu si. Do sợ cái chết, họ không gây nghiệp ác vì vợ con, họ hàng. Những người tại gia tu pháp này còn được tịch tĩnh huống gì là người xuất gia. Nếu Sa-môn nào tu tập nhớ nghĩ đến cái chết thì không phạm giới, không thích cảnh giới, không ở nơi ồn ào bởi vì nếu ở nơi ồn ào thì tâm tán loạn, nói nhiều, thường gặp người nữ là nơi sinh ra tất cả tham dục, vì vậy cần phải xả bỏ chỗ ồn ào và tư duy về cái chết. Nếu ở nơi ồn ào, tâm ý sẽ trở nên bất thiện và khi chết sẽ chịu tất cả những việc suy não, không được an lạc, bị gió đao kiếm cắt xẻ không ai cứu giúp, bị dây nghiệp

trói buộc dắt sang đời khác, ngay cả cha mẹ, anh chị em, bà con cũng không thể cứu giúp. Người nào tu tập nhớ nghĩ về cái chết thì người ấy thích trí tuệ giữ giới, tu hành như vậy thì có thể làm cho nghiệp lành tăng thêm, nghiệp ác tiêu trừ. Do nghiệp lành người đó được hưởng thú vui của cõi trời, cõi người và về sau đạt được Niếtbàn.

Biết công đức này, hoặc nam hoặc nữ, hoặc tại gia, xuất gia, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn phải thường nghĩ về cái chết. Do nghĩ về cái chết họ sẽ sợ hãi không làm ác, họ nghĩ rằng tất cả chúng sinh đều sẽ chết, các cảnh giới nơi cõi trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh không nơi nào không chết. Nếu tu tập niệm về cái chết, lo sợ cho đời vị lai thì tâm họ không tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc, thấy cảnh giới này không thường còn, chẳng phải là pháp bất hoại và thường nghĩ đến sự vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu tâm nghĩ đến cái chết thì không bị các điều ác làm não loạn, thường siêng tu quán bất tịnh, làm tăng thêm quán thiện, thường nhớ đến cái chết, tinh tấn tu tập, nhớ nghĩ đến sự vô thường, không có nơi nào là thường còn mà không bị hủy hoại, thay đổi, diệt vong. Trăm ngàn vạn ức các ngọn núi đáng yêu cho đến núi Tu-di đến kiếp hỏa thiêu còn bị diệt hết huống gì là thân trời, người. Biển lớn không bờ là nơi tập trung tất cả sông lớn, là nơi cư trú của tất cả Long vương, rồng và A-tu-la còn bị khô cạn khi bảy mặt trời xuất hiện huống gì là thân ta.

Tóm lại mà nói, tất cả ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới không thường còn, luôn luôn biến động và đều sẽ bị phá hoại huống chi là thân mạng ta lại có thể là pháp thường trụ, bất động, không phá hoại sao? Nếu tâm thường niệm, ý thường quan sát kỹ, thì không thấy nơi nào đáng yêu, đáng tham đắm và không có gì để sân hận. Do hết tham, sân, nên si mê cũng diệt theo. Nhờ lìa ba lỗi đó họ đạt được nơi bậc nhất không già, không chết, không tận diệt. Nếu nhớ nghĩ về cái chết thì không còn nhớ nghĩ về gì khác, vì vậy đối với tất cả sự nhớ nghĩ, việc nghĩ đến cái chết là đứng đầu.

Tu tập niệm về cái chết lại có công đức là: Nếu Sa-môn, Bàla-môn tu hành như vậy, quán kỹ thấy thân này giống như chuồng cọp.

Còn sự khổ ta phải quán làm sao? Thân tâm ta bệnh hoạn, khổ não, bị già làm hư hoại, bị thần chết dắt đi, bị lưới chết trói buộc không làm gì được, không thể tu bố thí, trì giới và tu tập trí tuệ.

Vì vậy lúc cái chết chưa đến ta phải tu bố thí, giữ giới và trí tuệ. Không bao lâu nữa thần chết sẽ đến làm hủy hoại thân mạng của tất cả chúng sinh. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn buộc tâm nhớ nghĩ đầy đủ về cái chết thì sẽ đạt được Niết-bàn.

Lại nữa, nhớ nghĩ về cái chết là nhớ rằng thân này không thường còn, tất cả các hành đều là vô thường, khổ, không, vô ngã, niệm niệm biến đổi mau chóng không dừng, là pháp phá hoại, không có thật, không chắc chắn, như bánh xe lửa xoay, như thành Càn-thátbà, tất cả các hành đều như vậy, thân mạng ta cũng như vậy, không chắc chắn, giống như bọt nước, như thành Càn-thát-bà. Tất cả đều bị pháp chết này chi phối. Nó chắc chắn sẽ đến, rất là đáng sợ. Vì vậy nên tu tập pháp chắc chắn, gìn giữ ba nghiệp lành, xả bỏ ba nghiệp ác và nhớ nghĩ đến cái chết. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào tu tập ý niệm này sẽ được lợi ích lớn.

Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ:

Phá hoại ở thế gian
Già, bệnh, chết không dứt
Là do nơi ba độc.
Giặc lớn năm cảnh giới
Cướp bóc của cải thiện
Giặc đó giả thân thuộc
Đi ở nơi hiểm ác.
Tâm phóng dật bất thiện
Vướng chặt vào cảnh giới
Có thể dắt chúng sinh
Mau đến ba đường ác.
Người nào có thể biết
Bốn thánh đế chân thật
Người ấy mau đến được
Nơi an ổn tịch tĩnh.
Dứt trừ gốc rễ độc
Làm tăng thêm công đức
Lìa bỏ tâm biếng nhác
Đừng gần gũi bạn ác.
Tỳ-kheo nào tinh tấn
Siêng tu quán sự chết
Liền được nơi vô thượng
Lìa hẳn già, bệnh, chết.
Người nào biết căn, trần
Đúng như thật về nó
Nương tựa chánh trí tuệ
Liền vượt được biển hữu.
Niệm sự chết sinh sợ
Lìa kiêu mạn, biếng nhác
Gần gũi người trí tuệ
Không bị ác nhiễm tâm.
Siêng năng, tâm mềm dẻo
Tu tập lìa việc ác
Chánh kiến, tâm không động
Nên gần gũi người này.
Ai gần gũi bạn ác
Thì không được pháp lành
Nếu gần người thù thắng
Thì không sợ tai họa.
Một niệm và khoảnh khắc
Ngày đêm thường không lìa
Người trí thường niệm chết
Không có nơi trốn thoát.
Niệm sự chết hơn hết
Các niệm khác không bằng
Tu hành được tịch diệt
Lìa hẳn bụi cấu nhiễm.
Nếu có niệm sợ chết
Thì không sinh tâm ác
Tâm lìa mọi lỗi lầm
Sẽ được nơi tịch diệt.
Thắng quả không phóng dật
Thế Tôn nói như vậy
Ai thường sợ cái chết
Thì lìa các điều ác.

Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa đã nói pháp này cho chư Thiên. Pháp thứ mười bảy có nhiều lợi ích cho Sa-môn, Bà-la-môn là xa lìa sự ngạo mạn về sắc đẹp, dòng họ và sự giàu có. Người nào kiêu mạn về nhan sắc, dòng họ và sự giàu có là người ngu si, thân, miệng, ý đều gây nghiệp ác. Do nhân duyên đó, khi chết họ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, luân chuyển khắp nơi, chịu vô số lần chết đi sống lại rất khổ não, không thể nói hết. Đã biết tai họa của nó, ta không nên kiêu mạn về sắc đẹp, dòng họ và sự giàu có. Người nào lìa bỏ kiêu mạn này thì không gây nghiệp ác nơi thân, miệng, thấy như thật sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã, không có thật, không chắc chắn, là vật bất tịnh, do tóc, lông, móng, răng, da, thịt hòa hợp với vô số xương, tủy, thịt mỡ, phân, nước tiểu, máu, mủ đầy trong đó. Sắc thân này đầu, giữa, cuối đều bất tịnh, do vô số phiền não sinh ra, vô thường, không chắc chắn, không thật, không có ngã. Lúc ta chết, thân này không làm bạn với ta cho đến một bước. Nó bị đem bỏ ở gò mả hoặc bị lửa thiêu, hoặc bị chim cắt, chim thứu, quạ, diều hâu, chồn, chó ăn thịt. Người nào tư duy nhớ nghĩ như vậy thì sự kiêu ngạo về sắc đẹp sẽ bị tiêu diệt hoặc giảm bớt.

Sa-môn, Bà-la-môn nào kiêu ngạo về dòng họ thì tự nói dòng họ ta là hơn hết. Nếu quan sát như thật về chân đế thì không có dòng họ, đó chỉ là sự phân biệt hư dối. Do ngu si, họ sinh ra phân biệt dòng họ này thù thắng, dòng họ kia hạ tiện. Nhưng thực tế thì không phải như vậy, bởi vì do có sinh nên mới có dòng họ và nó thay đổi luôn luôn. Người nào thật có công đức trì giới, bố thí, trí tuệ định tâm, điều phục thì người ấy tuy sống trong dòng họ hạ tiện cũng được gọi là dòng họ lớn nhờ họ có công đức thù thắng. Công đức đó chẳng phải công đức do dòng họ sinh ra, chẳng phải do sinh mà có, nếu không có công đức thì không có nhân duyên sinh trong dòng họ lớn. Vì vậy Sa-môn, Bà-la-môn không nên kiêu ngạo về dòng họ.

Lại quan sát sự kiêu ngạo về sắc. Sa-môn, Bà-la-môn và người khác quan sát sắc thân ta lúc mới đẻ tuy có sắc mạo nhưng chỉ nghểnh mặt không động đậy, chẳng phải là sắc thân lúc cử động được, sắc thân lúc cựa quậy được chẳng phải là sắc thân lúc bò lổm ngổm, cho đến sắc thân lúc thiếu niên chẳng phải là sắc thân lúc trung niên, sắc thân lúc trung niên chẳng phải là sắc thân lúc già, sắc thân lúc già chẳng phải là sắc thân lúc chết, sắc thân lúc chết chẳng phải là sắc thân đã chết lâu, tử thi ta bị các con ruồi rúc rỉa, bị giòi bọ đục khoét, bị gió thổi, bị phơi nắng, bị ngâm nước mưa ẩm ướt thối rữa, tất cả bị phá hoại phân tán khắp nơi trong nghĩa địa. Thân này bị phân ra thành vô số phần, các đốt xương rã rời, đầu lâu lìa khỏi thân, cổ, họng, vai, cánh tay, ngón tay, móng tay, xương hông, xương chậu, xương chân, xương mắt cá, xương bàn chân, xương ngón tay, mỗi thứ một nơi. Sau khi quan sát như thật về sắc thân ta sẽ lìa bỏ sự kiêu ngạo về sắc.

Làm sao để quan sát như thật về sự kiêu ngạo do giàu có và sau khi quan sát xong sẽ xa lìa tất cả thế gian?

Ta phải quán thấy như thật tất cả thế gian đều không tự tồn tại, vô số pháp đều không tự tồn tại thì pháp này làm sao tự tồn tại. Tất cả pháp hữu vi đều do nhân duyên trói buộc, không được tự chủ, chúng do nhân duyên sinh. Giống như cái nhà do ván, cây ràng buộc nương tựa lẫn nhau nên gọi là nhà; thân cũng như vậy, do da, thịt, mỡ, gân, tủy, xương hòa hợp gọi là thân chớ không tự tồn tại. Tướng sắc thân này không có người làm ra.

Sau khi Sa-môn, Bà-la-môn quan sát như thật thì sự kiêu ngạo về sắc thân, dòng họ và sự giàu có đều bị tiêu diệt hoặc giảm bớt.

Lại nữa, có người do không quan sát như thật nên phát sinh kiêu ngạo về dòng họ. Nếu người đó quan sát như thật thì thấy dòng họ này chỉ do phân biệt mà có, do người ngu si nhớ nghĩ một cách hư dối. Nếu thực hành bố thí, trì giới, trí tuệ, tịnh hạnh, chánh kiến, hòa hợp thì đó là dòng họ thù thắng, không phải như người ngu si sinh tâm kiêu ngạo khi nghĩ về dòng họ thù thắng một cách hư dối. Samôn, Bà-la-môn và người khác nếu có thể biết như thật về dòng họ thì tất cả sự kiêu ngạo về dòng họ đều bị tiêu diệt hoặc giảm bớt. Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ mà Phật Ca-ca-thôn-đà đã nói:

Ai thường kiêu ngạo về
Sắc, dòng họ, tài sản
Người đó như voi say
Không thấy bờ nguy hiểm.
Tất cả các kiêu mạn
Phóng dật loạn các căn
Hiện đời bị người khinh
Khi chết đọa đường ác.
Người nào sinh kiêu mạn
Bị sắc, giàu làm mù
Người đó không được vui
Khi chết vào đường ác.
Kiêu mạn về sắc, giàu
Chẳng phải thấy như thật
Ngu si không trí tuệ
Không thể vượt biển khổ.
Sắc, dòng họ, của cải
Và đủ các thú vui
Tất cả đều vô thường
Người trí không nên tin.
Ai lìa thí, giới, trí
Thì không có dòng họ
Ai có thí, trí, giới
Là dòng họ tối thắng.
Ngu chẳng phải là giàu
Chẳng họ hàng đường lành
Vì vậy trí là nhân
Vô trí không dòng họ.
Ai giữ gìn tịnh giới
Giống như ao trong mát
Ấy là dòng họ lớn
Là chủng tử thù thắng.
Bố thí, giới và trí
Dũng mãnh thật tinh tấn
Tương ưng những pháp đó
Là dòng họ thù thắng.
Ai lìa bỏ chánh pháp
Chẳng phải dòng xuất gia
Không gọi là Sa-môn
Không gọi bậc phạm hạnh.
Nếu tu tập chánh pháp
Có thí, giới, trí tuệ
Mới gọi là Sa-môn
Mới gọi bậc phạm hạnh.
Già cướp đoạt tuổi trẻ
Chết cắt đứt mạng căn
Của cải ắt tan rã
Tất cả pháp như vậy.
Bệnh hủy hoại sức mạnh
Làm chúng sinh trôi lăn
Người trí tuệ nên lìa
Kiêu mạn sắc, của cải.
Đã biết việc ác này
Còn ai sinh kiêu ngạo
Người trí cần xả bỏ
Kiêu ngạo về sắc của
Do tu tập pháp lành
Nên không có khổ não.

Bồ-tát Khổng tước chúa thuyết pháp như vậy cho chư Thiên.

Sa-môn, Bà-la-môn lại có pháp hành thứ mười chín là phát sinh tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn và những người khác có tâm bình đẳng thì sẽ đạt được thú vui bậc nhất, được tất cả mọi người kính yêu, khi chết sinh vào đường lành là cõi trời.

Làm sao để sinh tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh? Samôn, Bà-la-môn nào xả bỏ tranh luận, không tranh cãi với người khác thì sẽ có được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Vì vậy muốn đạt được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh ta phải xả bỏ tranh luận.

Lại nữa, có pháp làm cho Sa-môn, Bà-la-môn có được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, quán thấy tất cả chúng sinh đều khổ não nên ta xem kẻ thù giống như người thân. Các chúng sinh này bị lệ thuộc vào sinh tử, sống chết không ngừng, do có sinh nên có già, bệnh, chết, buồn rầu, khổ não, bị nóng lạnh đói khát, bị bắt trói, đánh đập, phải gặp gỡ người mình ghét, xa cách người mình thương. Quán thấy chúng sinh bị khổ não lớn như vậy nên ta cần phải giữ tâm bình đẳng đối với kẻ oán, người thân. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn quan sát như vậy sẽ được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.

Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ: “Các chúng sinh này bị khổ sở làm hại như là bệnh tật làm não hại thân, tâm của chúng sinh, do cơn bệnh tàn phá cơ thể nên họ chịu khổ não lớn”.

Do suy nghĩ như vậy đối với kẻ oán, người thân nên tâm được thanh tịnh, do tâm thanh tịnh nên máu trong sạch, do máu trong sạch nên nhan sắc thanh tịnh, tất cả các căn đều thanh tịnh. Việc quan sát như vậy giúp ta có quả báo trong hiện tại và được tất cả chúng sinh kính yêu ngưỡng mộ và thích gặp mặt, sau khi chết được sinh lên trời.

Sa-môn, Bà-la-môn lại dùng pháp khác là quán bà con bè bạn bình đẳng với kẻ thù. Tất cả chúng sinh không ai khỏi chết, không ai lìa được sinh tử và cứ sinh rồi lại chết. Do tự nghiệp, chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Chúng sinh này bị các khổ làm não hại.

Khi suy nghĩ tìm cách làm lợi ích cho tất cả chúng sinh như vậy tâm liền thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh máu được trong sạch, do máu trong sạch nên nhan sắc xinh đẹp không ai bằng. Họ được mọi người yêu thích ngưỡng mộ, được quả báo trong hiện tại. Khi chết, họ sinh vào đường lành là cõi trời. Tỳ-kheo này tu nghiệp lành lớn là phát sinh tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.
Sa-môn, Bà-la-môn và các người khác lại tu tập quan sát sự bình đẳng. Nghiệp và nghiệp tạng là nguyên nhân làm các chúng sinh này lưu chuyển. Nghiệp đã tạo dù thiện hay ác đều sẽ thành tựu, do nghiệp thiện ta sẽ sinh vào hàng trời, người. Do nghiệp ác ta sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn và người khác tu hành như vậy thì tâm liền thanh tịnh, do tâm thanh tịnh nên máu trong sạch, do máu trong sạch nên nhan sắc xinh đẹp, do xinh đẹp nên mọi người đều yêu mến ngưỡng mộ. Khi chết họ sinh lên trời và chắc chắn đạt được Niết-bàn. Họ được như vậy là nhờ dùng tâm thanh tịnh quan sát tất cả chúng sinh và sinh tâm bình đẳng.

Sa-môn, Bà-la-môn lại có pháp khác để tu tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Pháp đó là tất cả chúng sinh đều bị khổ vì xa lìa người thương. Nỗi khổ ái biệt ly này rất ác, tu hành như vậy tâm liền thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh nên máu trong sạch. Do máu trong sạch, nhan sắc thanh tịnh xinh đẹp không ai bằng. Do họ xinh đẹp nên khi thấy họ, mọi người đều sinh tâm thanh tịnh, yêu thích, ngưỡng mộ. Do phát sinh tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh nên họ được quả báo trong hiện tại, khi chết sinh vào cõi trời và về sau đạt được Niết-bàn.
Sa-môn, Bà-la-môn và những người khác lại dùng pháp khác tu tập tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Pháp đó là quán tâm này xoay chuyển mau chóng không ngừng, nếu tâm tham dục phát sinh phải tu quán bất tịnh, nếu tâm sân phát sinh phải tu quán từ bi, nếu tâm si mê phát sinh phải tu quán mười hai nhân duyên. Ba loại tâm này có ba pháp đối trị. Nhờ tu tập pháp này nên ta sinh tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, không phân biệt kẻ oán, người thân. Do tâm ý trong sạch nên đến đâu họ cũng không có lo lắng và được thú vui trong sạch bậc nhất, thức ngủ đều an ổn, được chư Thiên hộ trì, không ai có thể làm hại. Họ có oai đức lớn. Do tâm thanh tịnh nên máu trong sạch, do máu trong sạch nên dung mạo thanh tịnh, xinh đẹp không ai bằng, họ được tất cả chúng sinh yêu thích ngưỡng mộ. Nhờ phát sinh tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, họ có được quả báo hiện tại, khi chết họ sinh vào cõi trời mang thân trời và cuối cùng đạt được Niết-bàn. Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ:

Ai giữ tâm bình đẳng
Với kẻ oán, người thân
Đúng pháp không thiên lệch
Phật gọi là trí tuệ.
Người nào tâm thanh tịnh
Không lầm lỗi nhiễm ô
Sống một mình trong rừng
Phật gọi người không tham.
Tâm không chút mong cầu
Xa lìa mọi cấu nhiễm
Không thích các cảnh giới
Phật gọi người tịch tĩnh.
Mọi thứ đều vô thường
Quan sát kỹ như thật
Biết thế gian sáng tối
Mâu-ni nói dũng mãnh.
Không chán pháp thế gian
Mà tu tập pháp lành
Bình đẳng với khổ vui
Là người lìa xấu xa.
Tâm thường hay biết đủ
Lìa xa các tham dục
Không mong được cúng dường
Mâu-ni nói thanh tịnh.
Không gần gũi bạn ác
Không đi nơi phi xứ
Một mình rèn luyện tâm
Như Lai nói chánh nghiệp.
Xa lìa vui và sợ
Tham ái không phá hoại
Các căn được tịch tĩnh
Là người không mong cầu.
Giữ tâm luôn bình đẳng
Đối với mọi cảnh giới
Bình đẳng với tất cả
Mâu-ni nói trí tuệ.
Biết rõ hết thảy pháp
Nghiệp quả thiện, bất thiện
Xả bỏ thiện và ác
Là điều Mâu-ni dạy.
Siêng năng dứt lầm lỗi
Thường tu quán niệm thân
Biết như thật về thọ
Mâu-ni nói là trí.
Người nào sợ sinh tử
Thời, xứ thường tạo nghiệp
Nói pháp gom các căn
Mâu-ni gọi tịch tĩnh.

Bồ-tát Khổng tước chúa dùng vô lượng phương tiện thuyết pháp cho chư Thiên trời Dạ-ma và trời Đâu-suất-đà. Khi ấy chư Thiên nhất tâm, chánh niệm xả bỏ dục lạc. Do tâm nhu hòa họ thích nghe thuyết pháp.

Biết tâm chư Thiên đã được điều phục, Khổng tước chúa lại nói pháp.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn và người khác muốn niệm pháp thì phải niệm pháp gì? Đó là niệm pháp thứ hai mươi là pháp biết đủ. Ai biết đủ thì được lợi ích an lạc. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào thân tâm biết đủ, làm bạn với sự biết đủ thì sẽ được nó cứu giúp và được an lạc. Ở tất cả mọi nơi, người biết đủ không tìm cầu thứ gì và được an lạc bậc nhất. Mắt họ không tham sắc, không mong cầu và phân biệt đối với vô số màu sắc. Khi thấy sắc tướng, tâm họ không nhớ nghĩ, không tìm cầu sắc đáng yêu trong quá khứ, không ưa, không thích cũng không mong cầu nó, không sinh tâm tham dục, không nhớ nghĩ tham đắm. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào biết đủ như vậy thì thường được an lạc.

Tai nghe âm thanh đáng yêu, họ không ưa, không thích, không nhớ nghĩ, không tham đắm và phân biệt đối với cảnh giới trong quá khứ. Họ quan sát như thật về nó và thấy âm thanh này không thường còn, chẳng có gì vui, chẳng có thật ngã, chỉ do phân biệt làm hại các chúng sinh vậy mà kẻ phàm phu ngu si sinh vọng niệm phân biệt nên khi âm thanh đến lỗ tai thì tâm bị não loạn. Nếu khéo quan sát nó một cách như thật thì ta biết đủ. Phải quan sát như thật về âm thanh này biết nó không thật, không chắc chắn, chỉ do phân biệt mà có. Nhờ quan sát như vậy, họ không tham đắm đối với mọi thứ âm thanh vi diệu đáng ưa và tất cả cảnh giới. Nhờ biết đủ họ đạt được thú vui như vậy.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn và người khác ngửi mùi thơm thì không sinh phân biệt, không phát sinh cảm giác xấu, cũng không tư duy. Sau khi ngửi mùi, ta phải quán như thật về nó để thấy mùi thơm này vô thường, bại hoại, biến đổi, không thật, không tồn tại. Nếu tham đắm mùi thơm này ta sẽ không thể thoát được cảm giác xấu là rối loạn tâm. Đó gọi là biết đủ. Sa-môn, Bà-la-môn nào mũi không ưa thích mùi thơm, quan sát hết các cảnh giới như vậy thì nhờ biết đủ họ được thú vui trong sạch bậc nhất. Nhờ tu tập ngày càng tinh tấn nên họ được thú vui bậc nhất.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn và người khác không tham đắm, phân biệt mùi vị nơi lưỡi, không tư duy, không nhớ nghĩ, mong cầu, không thèm khát đối với mùi vị trong quá khứ, quan sát như thật về mùi vị và thấy mùi vị này vô thường, bại hoại, biến đổi, chỉ do phân biệt mà sinh tham đắm, cho là đáng nắm giữ thì nhờ quan sát như thật họ sẽ không còn ưa thích tham đắm mùi vị. Ai có thể biết đủ đối với mùi vị thì sẽ được an lạc.

Lại nữa, Sa-môn, Bà-la-môn lại quan sát như thật về sự tiếp xúc. Sự tiếp xúc này không có tự tánh, nó là pháp vô thường, biến đổi, hư hoại. Sự tiếp xúc này không có chủ tể, không chắc chắn, không thật, trước không, nay có, có rồi lại trở về không. Ai có thể quan sát như thật về xúc, không nhớ nghĩ, ưa thích đối với sự xúc chạm trong quá khứ, không mong cầu sự xúc chạm, khi có sự xúc chạm đến chạm vào thân thì họ lìa bỏ sự tham dục về xúc thì gọi là biết đủ.

Lại nữa, Sa-môn, Bà-la-môn quan sát ý pháp. Họ quan sát như thật cả pháp đáng yêu lẫn pháp không đáng yêu và thấy các pháp đều vô thường, bại hoại, biến đổi, không có chủ tể, không chắc thật, pháp này vô thường, khổ, không, vô ngã, trước không nay có, có rồi trở lại không, tất cả đều bị tiêu diệt. Ai nhớ nghĩ như vậy về pháp đáng yêu và không đáng yêu liền biết dừng nghĩ, không ghét pháp không đáng ưa, không ưa thích pháp không đáng ưa, không nhớ nghĩ, tham đắm pháp trong quá khứ. Khéo quan sát như vậy đối với các pháp được ý ưa thích thì sẽ không còn nhớ nghĩ tham đắm, ưa thích tất cả các pháp. Do biết đủ Sa-môn, Bà-la-môn được giải thoát khỏi sáu nơi tham ái.

Khi ấy, Khổng tước chúa nói kệ:

Ai quan sát biết đủ
Thoát sáu cảnh giới ái
Không nhớ, không mong cầu
Người ấy thường được vui.
Ai dùng tâm chánh niệm
Quán như thật về sắc
Người ấy sẽ không bị
Sắc ái làm loạn tâm.
Khi mũi ngửi mùi thơm
Nếu không sinh tham đắm
Ý người ấy thanh tịnh
Không bị mũi làm loạn.
Người trí được mùi vị
Chánh quán không tham đắm
Tai họa của mùi vị
Không làm bẩn tâm ấy.
Thân nhận nhiều xúc chạm
Không sinh tâm tham đắm
Do biết lìa xúc chạm
Người ấy thường an vui.
Ý không có tham đắm
Pháp đáng ưa, đáng ghét
Đứng vững như núi lớn
Được người đời khen ngợi.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn thực hành pháp tri túc thì có thể lìa bỏ sáu loại tham ái này và được Đức Phật khen ngợi. Bồ-tát Khổng tước đã nói cho chư Thiên trời Đâu-suất-đà và trời Dạ-ma nghe pháp chân thật đó.

Lại nữa, Sa-môn, Bà-la-môn nên tư duy nhớ nghĩ về pháp gì? Đó là pháp thứ hai mươi mốt: Sợ cảnh giới. Nếu không thấy như thật về cảnh giới xấu xa đáng sợ thì sẽ không được lợi ích. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn quán như thật về cảnh giới sắc như là mắt duyên với sắc nên sinh nhãn thức, ý thức nhận rõ quan sát và phân biệt. Nếu cảnh giới đến làm phát sinh tham dục thì cảnh tham dục này làm não loạn ta cần phải lo sợ nó. Nếu thấy cảnh giới mà ta đoạn trừ tham ái thì không nhìn ngắm phân biệt nó, ý cũng như vậy, khi có tham hoặc sân ta đều biết như thật. Khi phiền não phát sinh ta phải quán như thật để thấy do phiền não này ta không được an lạc, lợi ích ở hiện tại và vị lai. Do phiền não này, tất cả chúng sinh không được lợi ích an lạc. Phiền não này có thể trói buộc tất cả chúng sinh. Sa-môn, Bà-lamôn nào quan sát cảnh giới như vậy thì tất cả tâm tham dục đều bị diệt trừ hoặc giảm bớt. Đó là quán như thật về nhãn sắc.

Lại quán về tai, nhân duyên hòa hợp sinh ra nhĩ thức, dựa vào tai và âm thanh mà ý niệm phát sinh hoặc là khổ thọ hoặc là lạc thọ. Quan sát như vậy ta thấy thức này sinh ra nhiều tham, sân, si hoặc sinh ra thức khác giống như đốt đèn.

Khi quan sát ý niệm bất thiện ta biết ta đã sinh ra niệm bất thiện, biết rõ niệm bất thiện, biết nó do duyên sinh ra và cần phải diệt trừ. Nếu diệt trừ sự bất thiện thì pháp thiện sẽ đầy đủ. Nếu quán như thật về cảnh giới thì niệm lành sẽ tăng thêm, những ý niệm về ái và hỷ ái, hữu ái cùng sinh với nó đều bị tiêu diệt. Do ý nghĩ ác đã được diệt trừ nên họ được thanh tịnh, lìa sự cấu uế, được mọi thú vui. Vì vậy, Sa-môn, Bà-la-môn nếu vừa quan sát cảnh giới mà tham dục xấu xa phát sinh thì phải lập tức diệt trừ, quan sát pháp lành để diệt trừ pháp ác, do biết rõ như thật về tai và âm thanh nên ý niệm lành phát sinh.

Lại nữa, Sa-môn, Bà-la-môn và những người khác khi mũi ngửi mùi thơm làm sao sinh ra thức. Do hương thơm tiếp xúc với mũi nên tỷ thức phát sinh. Nếu có niệm bất thiện sinh thì biết đó là niệm bất thiện. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng: “Nếu ta sinh ra niệm bất thiện thì không được lợi ích, không được an lạc, nay phải diệt trừ nó, nếu quan sát như thật thì có thể diệt trừ ý niệm bất thiện”.

Nghĩ xong, họ quan sát như thật về mùi hương làm ý niệm thiện phát sinh. Do ý niệm thiện phát sinh nên ta diệt trừ được tham ái sinh chung với sự ưa thích. Sau khi quan sát như vậy, họ không còn tham đắm tất cả hương thơm và được an lạc. Nhờ biết như thật về cảnh giới ta liền đạt được nơi an ổn như thật. Nếu có thể quan sát như thật về hương thơm như vậy thì tuy mũi ngửi mùi hương nhưng không phát sinh ưa thích.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn khi dùng lưỡi nếm mùi vị mà sinh tham dục bất thiện phải suy nghĩ và biết như thật là do lưỡi tiếp xúc với mùi vị mà sinh ra thiệt thức. Lúc nghĩ như vậy, ta sẽ không ưa thích, tham đắm mùi vị và biết như thật về thiệt thức. Nếu biết thiệt thức ưa thích mùi vị ta phải thoát khỏi thức để được thú vui bậc nhất. Cứ như vậy, ta biết như thật về cảnh giới mà được thú vui vô thượng, không bị sự ưa thích phá hoại.

Sau khi quan sát như thật về mùi vị của lưỡi, ta lại quan sát sự xúc chạm của thân. Do thân tiếp xúc với vật bên ngoài nên sinh ra thân thức. Có ba pháp hòa hợp sinh ra từ xúc là thọ tưởng tư.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn quán như thật về xúc thì thấy xúc này vô thường, bại hoại, biến đổi, nếu sinh cảm giác bất thiện thì ta sẽ không được lợi ích, không được an lạc. Biết như thật về xúc, dùng niệm lành để quan sát thì ta không bị sự ưa thích làm não loạn không thích cảnh giới.

Sau khi dùng các phương tiện quán cảm xúc của thân, ta lại quán xem ý pháp nhờ đâu mà sinh. Do ý duyên với pháp mà ý thức phát sinh hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Nếu ý duyên với điều ác sinh ra niệm ác thì ta biết như thật là ta đang duyên với điều ác mà sinh ra ý thức. Nếu ưa thích điều ác đó thì sẽ không được lợi ích, bị não loạn, bất an. Sau khi tư duy quan sát sự sinh diệt của pháp, ta sẽ sống thuận theo pháp. Do sống thuận theo pháp, ta sẽ thấy như thật về tự tướng, đồng tướng của tất cả các pháp, không bị sự khát ái, làm não loạn được giải thoát khỏi sự trói buộc của tham ái. Nhờ giải thoát khỏi tham ái, ta được thú vui bậc nhất và biết tất cả các pháp đều sinh diệt. Do quan sát các cảnh giới như vậy, ta liền sinh chánh trí, có thể diệt trừ tất cả kết sử phiền não. Nhờ hết phiền não, ta đạt được trí vô lậu. Do tương ưng với trí vô lậu ta đạt được nơi bậc nhất. Vì vậy, Sa-môn, Bà-la-môn đừng nên tin cảnh giới. Tất cả cảnh giới đều như kẻ thù, như rắn độc. Ai chưa đạt trí tuệ vô lậu đừng nên tin cảnh giới, cảnh giới xoay chuyển giống như giặc thù giả làm người thân. Cảnh giới này có thể trói buộc tất cả chúng sinh.

Khi ấy, Khổng tước chúa nói kệ:

Ai thật biết cảnh giới
Như giữ bằng móc sắt
Do tán loạn lay động
Tạo các việc bất lợi.
Mong cầu mê cảnh giới
Thích thú tâm phân biệt
Lưới tử thần sắp hết
Chặt đứt mạng chúng sinh.
Bị cảnh giới dắt đi
Làm tâm ta rúng động
Bị ngu si lừa dối
Mà không hề hay biết.
Cảnh giới không chắc thật
Như thành Càn-thát-bà
Làm tăng thêm các khổ
Là nhân duyên địa ngục.
Bị lửa cảnh giới thiêu
Tham dục ngu si lừa
Luân chuyển không dừng nghỉ
Không biết thân bị thiêu.
Do niệm nên dục sinh
Do dục sinh sân hận
Sân hận che lấp tâm
Chết liền vào địa ngục.
Vì vậy người có trí
Lìa dục diệt sân hận
Sớm xa lìa ngu si
Liền đến được Niết-bàn.
Biết cảnh giới như giặc
Ngăn nó, không ưa thích
Người trí ghét cảnh giới
Nhất định đến Niết-bàn.

Đó là bài pháp của Phật dạy được Bồ-tát Khổng tước thuyết cho chư Thiên nghe.

Lại nữa, pháp thứ hai mươi hai giúp ta được lợi ích lớn là: Không được tin tâm. Sa-môn, Bà-la-môn và những người khác trọn đời không nên tin tâm. Tâm này xao động khó thâu giữ, tánh nó cong vẹo không dừng ở một cảnh, thích cảnh khác nhau. Do tâm này mà tất cả phàm phu lưu chuyển trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Không ai có thể làm bạn với tâm này vì nó lăng xăng duyên với cảnh mà mê hoặc tất cả phàm phu ngu si làm họ thường xuyên trôi lăn ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà không biết nhàm chán. Do thói quen ác này, họ ở mãi trong đường sinh tử, chịu khổ não lớn. Vì vậy, nếu ta chưa được thánh ấn ấn chứng, chưa đắc quả Tu-đà-hoàn, đóng cửa đường ác thì không nên tin tâm ác này. Nếu không làm như vậy thì ta sẽ đi khắp các nẻo đường, chịu mọi thứ khổ, bị mọi thứ trói buộc, hòa hợp với kết sử, rất khó điều phục. Vì thế Sa-môn, Bà-lamôn không nên tin tâm.

Khi ấy, Bồ-tát Khổng tước chúa nói kệ:

Rất mau, không ngăn ngại
Biến khắp các chúng sinh
Tâm này giống như vua
Lưu chuyển các thế gian.
Khó thấy rất đáng sợ
Lăng xăng gây nghiệp ác
Ai có thể thâu tâm
Liền đến đệ nhất đạo.
Nó dắt đến đường lành
Cũng dẫn đến đường ác
Ai điều phục, trong sạch
Liền đến được Niết-bàn.
Tâm tạo ra khổ vui
Thế lực tâm lưu chuyển
Tạo nên đủ loại nghiệp
Điều phục liền được vui.
Vì vậy cần giữ tâm
Giữ tâm thì được vui
Ai đối với cảnh giới
Các căn, tâm vắng lặng
Thoát sinh tử sầu bi
Liền đến nơi vô trụ.

Khổng tước chúa đã nói pháp của Như Lai Ca-ca-thôn-đà cho chư Thiên nghe. Khi đó, chư Thiên đều hoan hỷ, vây quanh Bồ-tát với tâm kính trọng và thưa:

–Lành thay! Lành thay! Bậc Đại sĩ thích nói diệu pháp đầu, giữa, cuối đều lành. Bồ-tát đã thuyết pháp để giúp chư Thiên đến được Niết-bàn.

Khi ấy, khổng tước chúa lại bảo chư Thiên:

–Ta đã nghe Đức Như Lai Ca-ca-thôn-đà nói hai mươi hai pháp có ý nghĩa làm lợi ích, an lạc hàng trời, người, giúp họ đạt được Niết-bàn. Vì pháp này làm lợi ích cho chư Thiên nên ta đã nói ra.

Chư Thiên hoan hỷ ca ngợi, chấp tay lễ lạy, cúng dường Bồ-tát Khổng Tước. Sau khi lễ bái, chư Thiên trời Dạ-ma vào trong rừng hoa sen vui chơi, thọ lạc, chư Thiên trời Đâu-suất bay lên hư không trở về trời Đâu-suất.

Lúc ấy, chư Thiên trời Dạ-ma vui chơi thọ lạc ở trong vườn cây cho đến khi hưởng hết nghiệp lành và theo nghiệp đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu có nghiệp lành còn sót lại, họ sinh làm người thuộc dòng họ lớn, thường sống đúng pháp, nhan sắc xinh đẹp, giàu có, làm vua hoặc đại thần ở đất nước tốt đẹp. Đó là nhờ nghiệp còn sót lại.

Biết quả báo của nghiệp, Tỳ-kheo ấy lại quan sát nơi chư Thiên trời Dạ-ma cư trú và thấy có vùng tên Lạc hành. Do nghiệp gì chúng sinh sinh vào nơi này? Vị ấy thấy, người nào có tâm rộng lớn thực hành việc thiện, giữ giới với tâm ngay thẳng, không sát sinh, không trộm cắp như đã nói ở trước, lại xa lìa việc tà dâm, nếu thấy tranh vẽ người nữ xinh đẹp họ không liếc ngó, thấy người khác vẽ bức tranh như vậy họ khuyên người ấy xả bỏ việc đó và giúp người ấy giữ giới, họ thường thuyết pháp cho chúng sinh nghe giúp họ sống trong chánh pháp. Họ còn nói cho chúng sinh nghe về lỗi lầm của việc tà dâm, về quả báo của nghiệp. Người nào tà dâm thì rất thấp hèn, khi chết đọa địa ngục. Do nghiệp báo này, khi chết họ chịu khổ não lớn.

Sau khi quan sát như vậy, ta không nên tà dâm, đừng để về sau phải hối hận. Ai mắc tội tà dâm sẽ chịu quả báo rất khổ. Họ nói cho chúng sinh nghe pháp này để giúp chúng sinh sống chân chánh và khỏi đọa vào đường ác. Người này làm lợi mình, lợi người, giữ giới, y cứ nơi giới, trọn đời giữ giới, không khiếm khuyết, không thất thoát, không có nạn ngoài thật trong hư. Khi chết người này sinh vào vùng Lạc hành ở cõi trời Dạ-ma. Sau khi sinh vào nơi ấy, họ hưởng vô số thú vui. Ở đó có một ao lớn tên Lạc hành ngang dọc năm trăm do-tuần. Ao này rất trong mát, yên tĩnh, lại có cây thức uống ngon ngọt tên Ma-thâu. Khắp nơi đều có cây bằng Tỳ-lưu-ly, lá bằng vàng ròng, cành bằng ngọc báu xanh vây quanh ao này khắp năm trăm dotuần. Có hoa sen phủ kín ao. Hoa sen có lá bằng vàng ròng, thân bằng Tỳ-lưu-ly, tua bằng lưu ly. Lại có hoa sen bằng bảy báu. Các loại hoa sen che khắp ao nước. Trong ao có các con chim bằng bảy báu cất tiếng hót rất hay, có vô số Thiên tử và Thiên nữ vây quanh ao này, mỗi Thiên tử có vô số Thiên nữ làm quyến thuộc và cùng với Thiên tử vui chơi, thọ lạc.

Do nghiệp lành, ở bên bờ ao lại có rừng bảy báu tên Tâm lạc. Rừng này được trang nghiêm bằng đủ loại chim, một trăm dòng suối và vô số châu báu. Ở trong ao hoặc trong rừng này Thiên tử và Thiên nữ hưởng thú vui cảnh giới bằng cả năm căn. Họ sinh đến cõi trời này do nghiệp lành. Bị lôi cuốn bởi tiếng ca nên họ hướng đến ven rừng.

Lúc ấy có các vị Thiên khác vừa thoái đọa khỏi cõi trời này. Các Thiên nữ y áo xinh đẹp thấy các Thiên tử mới sinh liền chạy vội đến để mong cầu sự chu cấp. Các vị Thiên này không sát sinh, trộm cắp, tà dâm nên sinh vào cõi trời này nhờ quả báo của nghiệp lành. Do không tà dâm nên trọn đời họ không bị các Thiên nữ bỏ rơi để đến với vị Thiên khác và chỉ khi họ thoái đọa các Thiên nữ mới bỏ đi.

Trời Tứ thiên và trời Tam thập tam không lìa bỏ tà dâm nên khi chưa thoái đọa đã bị Thiên nữ phản bội bỏ đi như ta bỏ đèn vào ban ngày. Họ đi đến các vị Thiên khác vui chơi ca múa với các vị Thiên mới sinh.

Khi ấy các Thiên tử đó sắp qua đời, thấy các Thiên nữ phản bội đi với người khác họ sinh lòng ghen ghét và chịu nỗi khổ lớn như là nỗi khổ ở địa ngục. Do tâm sân hận, họ bị đọa vào địa ngục. Ở trời Dạ-ma thì không có quả báo này vì họ lìa bỏ tà dâm. Do nhân duyên đó các Thiên nữ của Thiên tử đã thoái đọa đều đến vây quanh Thiên tử mới sinh và đi vào rừng lớn, hướng về phía Thiên chúng để hưởng dục lạc.

Lúc ấy thấy Thiên tử mới sinh, Thiên chúng đều hoan hỷ cùng với vạn ức Thiên nữ đi vào vườn cây. Trong vườn được trang nghiêm bằng cây như ý và vô số loại cây. Khắp ao có vô số ngỗng, vịt, uyên ương. Nơi đó có vô số ao công đức to lớn. Ở ao này, chư Thiên tấu nhạc trời, hưởng năm thứ dục lạc.

Sau một thời gian dài hưởng lạc, họ vẫn không biết nhàm chán đối với cảnh giới và lại cùng chư Thiên mới sinh hướng đến núi Phổ quang minh vui chơi hưởng lạc, ca múa vui cười ở từng ao hoa, dòng suối, ngọn núi, sườn núi, khe núi, bụi cây, rừng hoa, dòng sông, hang núi, rừng như ý, cành cây, cung điện do bóng râm tạo thành. Tất cả chư Thiên nghe năm loại âm nhạc, hưởng năm thứ dục lạc không thể ví dụ. Do nghiệp của chính mình, tất cả đều đến núi Phổ quang minh ca múa vui cười, đùa giỡn với nhau, không biết nhàm chán đối với thú vui cảnh giới. Tất cả đều hoan hỷ hưởng đầy đủ dục lạc và hướng về núi Phổ quang minh.

Khi ấy, trong núi có các vị trời đã đến ở từ trước. Nghe tiếng ca vị này sinh tâm thán phục quan sát Thiên chúng. Chư Thiên liền bay lên núi Phổ quang minh. Các vị trời đã ở đó từ trước đều rất hoan hỷ. Chư Thiên mới đến đều bay lên hư không để chiêm ngưỡng sắc đẹp, oai đức và ánh sáng của nhau. Tất cả chư Thiên thọ hưởng hoan lạc ở ngọn núi đáng yêu, sông suối, ao hoa, vườn cây, cung điện xinh đẹp bằng bảy báu tỏa ra ánh sáng, rừng cây xinh đẹp, các nơi vui chơi… Từ ao hoa, bờ sông, rừng cây, rừng như ý hoặc ở trên hư không họ bay đến nơi khác. Họ ca múa, được vô số các Thiên nữ vây quanh, uống thức uống thượng vị cõi trời, không có tai họa say sưa, rối loạn. Sau khi uống thức uống thượng vị xong, họ càng thêm hoan hỷ và bị lửa cảnh giới thiêu đốt làm tiêu mất hoan hỷ.

Lúc đó, thấy chư Thiên hưởng thú vui phóng dật, chim Thật trí nói kệ:

Năm ngọn lửa cháy khắp
Lại thêm gió ái thổi
Bị dục lạc mê hoặc
Lửa phóng dật thiêu đốt.
Do nghiệp đã sắp hết
Mà không tạo nghiệp mới
Nghiệp hết nên thoái đọa
Chư Thiên đều như vậy.
Ai sắp bị thoái đọa
Khổ não phá hoại tâm
Không người nào cứu được
Chỉ trừ có nghiệp lành.
Ai thích sự giàu sang
Say đắm các Thiên nữ
Bị tự tâm lừa dối
Sẽ đến nơi rất ác.
Bị vô thường phá hoại
Vì sao không hay biết
Đến khi mạng chấm dứt
Phải biệt ly tất cả.
Do tâm tham cảnh giới
Bị tự nghiệp lừa dối
Giảm thọ trong từng niệm
Bị tham ái phá tâm.
Như bức tường bị đổ
Tranh trên đó rã theo
Do họ đã hết nghiệp
Quả báo cũng mất hết.
Năm căn tham cảnh giới
Chưa từng có nhàm chán
Như ném dầu vào lửa
Cháy bùng không biết đủ.

Để trừ bỏ tâm phóng dật của chư Thiên chim Thật trí nói kệ này. Do phóng dật, chư Thiên bị mê muội không ghi nhận bài pháp ấy và cùng chư Thiên nữ bay lên hư không hoặc bay lên núi Phổ quang minh lớn. Sau khi lên núi ấy ánh sáng của thân họ sáng hơn cả trăm ngàn mặt trời. Núi ấy vốn đã có ánh sáng bảy báu nay nhờ ánh sáng của chư Thiên núi càng sáng rực hơn. Trong núi có vô số rừng cây báu, nhờ ánh sáng của chư Thiên, vẻ đẹp của chúng tăng lên gấp mười lần.

Lại có các vị trời khác đang ở vườn cây trong hoa sen, ở cung điện tạo bằng bóng râm của cành cây hoặc nơi được trang nghiêm bằng ánh sáng các loại châu báu, vui chơi ca múa hưởng thú vui cõi trời, thấy ánh sáng này họ rất kinh ngạc vì gặp hiện tượng chưa từng có.

Sau khi đã vui chơi ở trong vườn cây, tất cả Thiên chúng đều hướng về ao Lạc liên hoa để vui chơi, thọ lạc say đắm lẫn nhau, không sinh ghen ghét. Họ bay lên núi ánh sáng bảy báu một cách an lành, ca múa vui cười, không chút lo sợ, dứt bỏ sân hận, buồn rầu, không bị lệ thuộc vào người khác, đi lại tự do theo ý nghĩ, hưởng thú vui bậc nhất. Họ đi chơi ca múa như ý thích, ăn thức ăn tu đà, uống thức uống thượng vị, hoan hỷ vô cùng đùa giỡn với nhau, hưởng thú vui theo nghiệp của chính mình.

Sau một thời gian dài hưởng thú vui cõi trời họ hướng về ao Hỷ kiến. Ao này dài mười do-tuần, rộng năm do-tuần rất đáng yêu, có nhiều loại chim như ngỗng, vịt, uyên ương đầy trong ao, hoa sen vàng che kín mặt ao, đáy ao được lót bằng Tỳ-lưu-ly xanh, châu báu nhân-đà xanh, châu báu chúa rất xanh, châu báu hoa sen đỏ. Khắp bờ ao có nhiều cây thân bằng vàng, cành lá bằng bạc, hoặc cành bằng châu báu xanh, hoa lá bằng hoa sen đỏ, hoặc cây bằng Tỳ-lưuly, cành bằng pha lê, lá bằng vàng ròng, có cây bằng châu báu rất xanh, cành bằng bạc, lá bằng vàng, hoặc là cành bằng châu báu xanh, có cây bằng vàng Tỳ-lưu-ly, cành bằng châu báu rất xanh, lá bằng vàng và xa cừ, có cây bằng vàng, cành lá cũng bằng vàng, rực sáng hơn cả ánh sáng mặt trời, có cây bằng vàng, cành bằng Tỳ-lưuly, lá bằng Tỳ-lưu-ly giống như là đám mây xinh đẹp đáng yêu, hoặc có cây bằng vàng, cành lá bằng vàng giống như đám lửa, có cây bằng bạc, cành lá bằng bạc ánh sáng xinh đẹp như mặt trăng rằm, có cây bằng châu báu chúa rất xanh, cành lá cũng bằng châu báu, chúng màu xanh, màu sắc xinh đẹp như màu khói trầm thủy, hoặc có cây bằng châu báu được trang điểm bằng đủ loại cành như là cành bằng bạc được trang sức bằng châu báu xanh, hoặc có cây bằng châu báu được trang sức bằng bạc, lại có cây bằng châu báu được trang sức bằng vàng, bạc, pha lê, có cây bằng châu báu được trang sức bằng châu báu hoa sen đỏ và bạc, có cây bằng châu báu gồm đủ loại màu và có đủ loại hoa như hoa Mạn-đà-la, hoa Câu-xa-da-xá, lại có cây ăn quả có loại quả chứa chất nước như rượu thượng vị cõi trời không gì sánh bằng, có loại cây hoa tỏa hương thơm bay khắp một trăm do-tuần, có loại cây khi gió nhẹ thổi lay động phát ra âm thanh hay hơn âm thanh của Càn-thát-bà, lại có những cây khi nhìn nó, ta sẽ được vui vẻ, hình dáng của nó xinh đẹp không gì sánh bằng, có cây báu tên Hương yên từ cây ấy phát ra đủ loại khói thơm, sau khi ngửi hương thơm đó, chư Thiên đều rất hoan hỷ, xung quanh ao Hỷ kiến có nhiều loại cây báu như vậy.

Sau khi đã ngắm ao này, chư Thiên đạt được thú vui chưa từng có, họ ăn trái cây, uống nước trái cây, hoặc cùng Thiên nữ lượm hoa để trang sức, có vị vào vườn uống thức uống thượng vị và ca múa vui cười với Thiên nữ, có vị vào rừng hoa sen vui chơi hưởng lạc, có vị trời ăn thức ăn tô-đà, có Thiên tử cùng Thiên nữ bay lên hư không, hoặc bay lên cung điện bảy báu hưởng dục lạc. Chư Thiên ấy hưởng năm thứ dục lạc ở ao sen và không biết nhàm chán đối với cảnh giới. Do tham ái, họ không biết nhàm chán đối với cảnh giới ái dục giống như ném sữa cục vào lửa, như đốt củi khô.

Lúc ấy trong ao sen có nhiều con chim, có một ngỗng chúa tên Thiện Thời là một vị Bồ-tát. Do nguyện lực Bồ-tát sinh vào cõi trời Dạ-ma. Bồ-tát được vô số ngỗng vây quanh như các ngôi sao vây quanh mặt trăng rằm ở cõi Diêm-phù-đề. Để làm lợi ích cho chư Thiên, ngỗng chúa đã nói kệ:

Đến và đi như vậy
Dạo chơi, ca múa cười
Làm việc ác lớn nhất
Không biết sắp bị chết.
Dù đi đến nơi nào
Cũng khó tránh giặc chết
Vậy mà người ngu si
Vẫn không hề hay biết.
Không lựa chọn giàu nghèo
Nhỏ, lớn hay già cả
Hoặc tại gia, xuất gia
Không ai khỏi bị chết.
Người vui và người khổ
Có công đức hay không
Có giới hoặc không giới
Đều bị chết làm hại.
Người trì giới, phá giới
Trí tuệ và ngu si
Vua chúa và thường dân
Đều bị chết phá hoại.
Hoặc trời hoặc địa ngục
Hoặc ngạ quỷ, súc sinh
Phóng dật, không phóng dật
Đều bị chết hủy hoại.
Nếu sinh vào cõi Dục
Sắc giới, Vô sắc giới
Trong ba cõi như vậy
Đều bị chết làm hại.
Già, lưới nghiệp hủy hoại
Bệnh, khổ có sức mạnh
Thần chết như Dạ-xoa
Bắt trói các chúng sinh.
Thần chết rất đáng sợ
Tàn bạo vào bậc nhất
Trời bị tham dục lừa
Đáng khóc mà lại cười.
Ai gần gũi tham dục
Tham dục là nhân khổ
Gần nó bị trói chặt
Như ném dầu vào lửa.
Tham dục phá pháp lành
Trước ngọt sau đắng cay
Dục là nhân các khổ
Về sau bị khổ lớn.
Đầu, giữa, cuối của dục
Đều không được an ổn
Chẳng mong cầu được gì
Không phải nhân vắng lặng.
Các căn đối với cảnh
Mê đắm nên phân biệt
Người ngu ưa dục lạc
Cho nên đọa địa ngục.
Ai ngu si hưởng lạc
Thì sẽ bị khổ não
Kẻ thù giả người thân
Làm hại hết mọi người.

Ngỗng chúa đã thuyết cho chư Thiên phóng dật nghe bài kệ này, vì bị dục lạc làm mê hoặc nên tuy nghe bài pháp nhưng Thiên chúng không ghi nhận. Ở trong vườn cây, trong rừng hoa sen, trong rừng cây ăn trái, trong cung điện tạo bằng bóng râm của cành cây, trong tòa nhà thơm tho sạch sẽ có vô số các con ong, Thiên chúng và Thiên nữ có âm thanh vi diệu cùng nhau ca múa phát ra âm thanh hay không gì sánh bằng. Lại có chư Thiên khác ngồi trên đất báu cõi trời, quan sát ao hoa đáng yêu, hưởng quả báo của tự nghiệp.

Sau khi quan sát tất cả Thiên chúng, Bồ-tát Ngỗng chúa nghĩ: “Phải chăng chư Thiên này không có tâm thức, không biết sau này chắc chắn sẽ phải chịu khổ não lớn và khi sắp bị thoái đọa khỏi cõi trời có năm tướng đáng sợ”.

Năm tướng đó là:

  1. Không còn hòa hợp được với các Thiên nữ rất đáng ưa thích đồng nghiệp với chư Thiên và chịu nỗi khổ lớn là xa cách người mình thương.
  2. Xa cách không còn gặp lại cảnh giới đáng ưa thích của cõi trời.
  3. Lúc thoái đọa, thấy chư Thiên khác vui chơi hưởng lạc, họ tự quan sát thân mình như đèn sắp tắt lại bị gió nghiệp thổi không biết đi về đâu nên chịu khổ não còn hơn ở địa ngục.
  4. Lúc sắp thoái đọa họ biết rõ mình sẽ sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh nên rất sợ hãi, bị lửa hối hận thiêu đốt chịu khổ vô cùng.
  5. Lúc bị thoái đọa họ mới nghĩ như vầy: “Xưa kia ta từng nghe thiện tri thức thuyết pháp nhưng không ghi nhận, không tu hành vì phóng dật, tham đắm cảnh giới”. Họ lại nghĩ: “Do phóng dật, ta tạo pháp ác, không ghi nhận pháp, không giữ giới cấm, không tu tập trí tuệ, từ lúc sinh ra đến nay ta bị phóng dật lừa dối, nay lại bị lửa hối hận thiêu đốt tâm, bị dây nghiệp trói buộc dắt đi”.

Đó là năm loại khổ lớn mà chư Thiên phải chịu lúc sắp thoái đọa. Chư Thiên này không hay biết mình đang bị phóng dật lừa dối, bị tâm tham đắm phá hoại. Ngỗng chúa Thiện Thời nhất tâm suy nghĩ tìm cách thuyết pháp giúp cho chư Thiên có được nghiệp lành.

Sau khi suy nghĩ một hồi lâu, để làm lợi ích cho người khác, Bồ-tát Ngỗng chúa nói kệ:

Thường trì giới bố thí
Thương xót các chúng sinh
Thành tựu hết mọi việc
Vì vậy phải giữ giới.
Hòa hợp với Từ bi
Lìa bỏ mọi mong cầu
Lợi ích các chúng sinh
Thì thành tựu mọi việc.
Dũng mãnh không hư dối
Thường hay bố thí pháp
Lìa keo kiệt ganh ghét
Thì thành tựu mọi việc.
Người giữ giới tịch diệt
Tôn trọng cúng dường thầy
Biết điều nào nên làm
Thì thành tựu mọi việc.
Không nịnh hót ganh ghét
Thường nói lời ái ngữ
Thành thật không hư dối
Thành tựu được mọi việc.
Biết xứ và biết thời
Biết việc nào đáng làm
Biết có lực không lực
Thì thành tựu mọi việc.

Ngỗng chúa này là Pháp sư biết pháp tu hành, dùng pháp để làm lợi ích cho chúng sinh. Bồ-tát suy nghĩ: “Ta phải thuyết pháp làm sao để các vị trời này lìa bỏ phóng dật”. Sau khi tư duy một hồi lâu, Bồ-tát nhớ lại đời trước: “Xưa kia ta đã từng ở Diêm-phù-đề nghe Đức Phật Ca-na-ca Mâu-ni nói pháp, nay ta nên nói lại pháp đó. Lúc ấy, ta sinh làm con một đại trưởng giả ở Diêm-phù-đề và mang tên là Ưu-bát-la Đạt-đa. Vị Phật đó biết sau khi chết ta sẽ theo nguyện lực sinh làm ngỗng chúa ở vùng Lạc hành thuộc trời Dạ-ma để thuyết pháp của Phật cho chư Thiên phóng dật nghe. Nay đã đến lúc phải thuyết pháp ấy. Sau khi đã tư duy, ngỗng chúa làm lợi ích cho chư Thiên với tâm trong sạch. Do tâm Từ bi và mong cầu quả Vô thượng Bồ-đề Bồ-tát đã đến nơi chư Thiên đang hưởng năm dục và sống ở đó với các con ngỗng vây quanh. Bồ-tát thấy chư Thiên đi chơi trong núi rừng, hoặc dạo trong vườn hoa, hoặc đi trong cung điện tạo bằng bóng râm của cành lá, hoặc ngồi trong cung báu ở trên hư không, hoặc có Thiên tử cùng các Thiên nữ ăn thức ăn tu-đà.

Khi ấy, ngỗng chúa suy nghĩ: “Nay đã đến lúc ta phải nói pháp cho các vị trời phóng dật. Ta phải nói kệ bằng âm thanh thật hay lấn át tiếng ca của Thiên tử và Thiên nữ. Thiên tử Thiên nữ phóng dật, say đắm dục lạc, không được nghe pháp, nay nghe âm thanh của ta sẽ thích thú và tìm đến gặp ta”.

Suy nghĩ xong, Bồ-tát phát âm thanh vi diệu, nhớ nghĩ công đức của Phật phát sinh tâm Từ bi và bay lên núi báu với các con ngỗng vây quanh khắp mười do-tuần. Bồ-tát đã nói kệ với âm thanh vi diệu không gì sánh bằng.

Lúc giờ chết chưa đến
Nên tu tập phước đức
Đừng có tiếc thân mạng
Về sau sẽ hối hận.
Nếu ai sống phóng dật
Là đi vào chỗ chết
Nếu không sống phóng dật
Là con đường bất tử.
Còn ai sống phóng dật
Đi đường không tịch diệt
Dựa vào không phóng dật
Người trí đạt Niết-bàn.
Chư Thiên chớ phóng dật
Phóng dật không vắng lặng
Làm việc không vắng lặng
Liền đọa vào địa ngục.
Ai chịu nhiều mất mát
Trong quá khứ, hiện tại
Đều là do phóng dật
Như Lai nói như vậy.
Vì vậy trong mọi lúc
Phải siêng năng tinh tấn
Xa lìa sự phóng dật
Liền được pháp tịch diệt.

Bồ-tát Ngỗng chúa bay lên núi nói kệ bằng âm thanh vi diệu lấn át tiếng ca của Thiên nữ. Nghe âm thanh của Ngỗng chúa, chư Thiên đều ưa thích. Tất cả chư Thiên trên khắp quả núi đều cho đó là tiếng ca vi diệu chưa từng có. Do tâm tham đắm chớ không phải do kính trọng pháp, tất cả đều hướng đến ngọn núi nơi Ngỗng chúa ở. Lúc ấy, Bồ-tát Ngỗng chúa lại nói pháp bằng hình thức đã kể ở trước. Nghe âm thanh đó, chư Thiên, Thiên tử, Thiên nữ đều sinh tâm tùy thuận. Lúc làm người, Ngỗng chúa tên Ưu-bát-la Đạt-đa là con một đại trưởng giả đã nghe Phật Ca-na-ca Mâu-ni thuyết pháp và sinh đến nơi đây. Nay Bồ-tát đã dùng âm thanh vi diệu diễn thuyết pháp thù thắng không gì bằng. Thiên tử, Thiên nữ nhất tâm lắng nghe lời dạy của Ngỗng chúa.

Khi ấy, Ngỗng chúa bảo chư Thiên hãy thường lắng nghe pháp chớ có sống phóng dật, phải thường gần gũi bạn lành là người có thể làm lợi ích cho người khác để nghe chánh pháp. Nhờ lòng kính trọng nên sau khi nghe pháp người ấy dứt hết lậu hoặc và đạt được thú vui Niết-bàn.

Có hai hạng người được phước sinh cõi trời Phạm thiên:

  1. Người khéo quan sát giữ gìn.
  2. Người mong diệt sạch phiền não.

Lại có hai hạng khác:

  1. Thường nói pháp.
  2. Thường nghe pháp.

Pháp sư giống như cha mẹ nói pháp để cứu người khác thoát khỏi sinh tử, đạt đến pháp lành rốt ráo. Người thuyết pháp đem pháp bố thí cho người khác nghe pháp và tâm được thanh tịnh.

Người nghe pháp với lòng kính trọng, ngay thẳng có được ba mươi hai công đức. Ba mươi hai công đức của việc nghe pháp là: Đối với người nghe pháp, Pháp sư giống như cha mẹ hoặc như chiếc cầu bắt qua biển sinh tử. Nhờ Pháp sư giảng nói ta được nghe những điều chưa từng nghe, nghe xong, ta được giác ngộ, hiểu biết rồi lần lượt tư duy, tu hành. Sau khi tu hành, ta được an trụ và giúp người khác an trụ, cùng họ lường xét, nhờ đó nếu ai chịu khổ não thì tâm không lay động, ai chưa trồng căn lành thì có thể trồng căn lành, gia thêm sự suy xét làm các căn thành thục và được giải thoát. Nhờ Pháp sư, tà kiến chuyển thành chánh kiến, các ý nghĩ bất thiện vừa phát sinh liền bị diệt trừ, tâm thiện được tăng trưởng, các nhân duyên bất thiện liền bị cắt đứt. Người ấy không sống phóng dật, gần gũi bạn lành, lìa tham lam keo kiệt dối trá, cúng dường cha mẹ, tin quả báo của nghiệp, tích tụ nghiệp trường thọ, được người đời khen ngợi, được chư Thiên hộ trì, nghĩ gì cũng đều được như ý, được thú vui theo pháp, xa lìa sự biếng nhác, siêng năng tinh tấn, biết ơn, báo ơn, thường nghĩ đến cái chết, lúc chết không hối tiếc, cuối cùng được Niết-bàn. Đó là ba mươi hai công đức của việc nghe pháp.

Pháp sư giống như cha mẹ thuyết pháp làm lợi ích cho người, Pháp sư thuyết pháp với tâm thanh tịnh, không chút cấu uế để làm lợi ích cho chúng sinh, giúp họ thông đạt trí tuệ. Sau khi nghe pháp, họ được lợi ích như thật, được giải thoát khỏi sinh tử.

Người nghe pháp này từ vô thỉ đến nay bị trôi lăn trong đường sinh tử chưa từng được nghe pháp và đây là lần đầu tiên được nghe Pháp sư thuyết pháp nên sinh tâm thán phục.

Như người mù từ lúc mới sinh nay được lương y chữa lành nên được thấy đủ loại hình sắc của thế gian, do thấy đủ loại hình sắc vi diệu xưa kia chưa từng thấy nên người đó rất hoan hỷ, cũng giống như vậy, từ vô thỉ đến nay, chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử, bị si mê làm mù nay được nghe chánh pháp mà trước đó họ chưa từng được nghe là các căn lành và bốn thánh đế đáng yêu ở giác phần địa và được thấy ánh sáng kinh nghĩa nên họ rất hoan hỷ. Như người mù được thấy hình sắc thì hoan hỷ, thấy giác phần địa họ sinh tâm hoan hỷ cũng như vậy. Đó là công đức thứ nhất của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai của việc nghe pháp là: Nhờ nghe pháp nên liền suy nghĩ xem pháp có nghĩa gì. Nếu không hiểu thì thưa hỏi người khác về ý nghĩa của pháp đó. Người nghe pháp, theo người khác nghe pháp rồi lại tự tư duy, nhờ tư duy nên tu tập ngày càng tiến bộ, do nói nghĩa của pháp trước sau tương ưng nên hết lòng thọ trì và thường quan sát nghĩa lý của nó. Do quan sát như vậy nên tâm thường hoan hỷ. Nhờ tư duy, nhớ nghĩ, quan sát nên họ thông đạt ý nghĩa sâu xa. Đó là công đức thứ nhì của việc nghe pháp.

Lại nữa, công đức thứ ba của việc nghe pháp là: Nhờ nghe pháp và tư duy xem pháp ấy muốn nói gì, do nhân duyên gì Phật nói pháp ấy nên họ biết vì muốn điều phục chúng sinh nên Phật nói pháp này. Họ liền cùng những người đồng tâm, đồng hạnh suy xét tư duy trước sau, được lợi ích lớn và cuối cùng đạt được Niết-bàn. Đó là công đức thứ ba của việc nghe pháp.

Công đức thứ tư của việc nghe pháp là: Suy xét về ý nghĩa trước sau của bài thuyết pháp để hiểu rõ rồi mới ghi nhận. Việc hiểu rõ rồi mới ghi nhận có ý nghĩa như sau: Thâu giữ tu hành ba nghiệp thân, miệng, ý, tạo ba nghiệp lành, thúc đẩy việc tu tập, giữ gìn việc thuyết pháp. Do đã thọ trì bằng tâm thanh tịnh, suy xét từng câu, tìm hiểu nhân duyên của nó và nhờ tư duy họ thấy được những nghĩa lý chưa từng có. Do đạt được nghĩa lý nên họ có thể diệt trừ các kết sử phiền não và có thể giữ gìn vô số công đức có được nhờ tu tập bố thí, trì giới và trí tuệ với tâm thù thắng. Đó là công đức thứ tư của việc nghe pháp, cần phải ưa thích tu tập và làm tăng trưởng công đức này.

Công đức thứ năm của việc nghe pháp là: Khéo nghe, khéo giữ ba loại nghiệp, giữ vững việc tu tập, an trụ vào việc nghe pháp. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn hoặc người tại gia nói người thiện nam nào an trụ trong chánh pháp, tu hành đúng pháp thì người tu hành như vậy có thể tự đứng vững và giữ gìn chánh pháp. Do đứng vững như vậy, họ có thể diệt trăm ngàn ức na-do-tha kiếp và trăm ngàn vạn ức ức sinh tử. Đó là công đức lớn của việc nghe pháp.

Gần gũi người thuyết pháp để tu tập sẽ được lợi ích lớn. Người thuyết pháp giống như Đức Phật chỉ bày cho ta con đường Niết-bàn, làm họ đứng vững trong pháp. Đó là công đức thứ năm của việc nghe pháp.

Công đức thứ sáu của việc nghe pháp là: Tự mình an trụ trong pháp và xây dựng người khác làm họ trở thành pháp khí, giúp họ nhàm chán sinh tử, chỉ bày cho họ nơi an ổn, nói cho họ nghe về khổ, tập, diệt làm cho cả mình lẫn người đều sinh phước đức. Do làm lợi ích cho người khác nên họ được công đức lớn và họ tu tập ngày càng tinh tấn theo pháp đã được nghe để diệt trừ phiền não. Do phiền não bị diệt sạch họ đạt được Niết-bàn. Nhờ nghe chánh pháp mà họ đạt được công đức này. Đó là công đức thứ sáu của việc nghe pháp.

Công đức thứ bảy của việc nghe pháp là: Nếu gặp khổ não thì không bị thoái lui. Nhờ nghe giảng về nghiệp báo nên tuy gặp khổ não họ không thoái lui, không tạo nghiệp ác, không nói lời ác, không suy nghĩ ác, không phá hoại sự mạnh mẽ. Đó là công đức thứ bảy của việc nghe pháp.

Công đức thứ tám của việc nghe pháp là: Khi có người khác đến cầu pháp, mong nghe pháp hoặc theo cầu giới, cầu trí tuệ thì lìa bỏ kiêu mạn để giải thích, phân biệt rõ ràng làm cho họ dễ hiểu. Đó là công đức thứ tám của việc nghe pháp.

Công đức thứ chín của việc nghe pháp là: Nghe chánh pháp là gieo hạt thiện căn. Giống như ruộng đất phì nhiêu có bờ ngăn chắc chắn cho nước chảy vào rồi gieo giống xuống thì sẽ nẩy mầm non, cũng vậy khi gặp Pháp sư nghe chánh pháp, đem hạt giống lành gieo vào ruộng tâm vững chắc thì đến lúc nó chín sẽ thâu được nhiều kết quả, cứu ta thoát khỏi sự lo sợ về đói khổ nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do nó cứu ta thoát ba đường ác nên tất cả các khổ đều được diệt sạch. Do sống ở đồng trống, thoát khỏi tất cả các sự lo sợ nên ta đến được nơi tịch diệt không gì bằng. Nhờ thuyết pháp nên ta được nhập Niết-bàn. Người thuyết pháp giống như Thế Tôn. Vì vậy công đức của việc nghe pháp là bậc nhất trong việc ra khỏi sinh tử. Ta phải thường gần gũi Pháp sư, chú ý nghe pháp và tu tập theo. Đó là công đức thứ chín của việc nghe pháp.

Công đức thứ mười của việc nghe pháp là: Sau khi đã gieo hạt giống Phật pháp rồi, phải khéo giữ gìn cho nó được kết quả. Người nào nghe pháp là đã có hạt giống thiện căn lại thường xuyên tu tập thì sẽ đạt được kết quả.

Như theo thời vụ gieo giống vào ruộng lúa, do mặt trời chiếu nên đến thời thì có kết quả, cũng như vậy, người nghe pháp gieo các căn lành nhờ mặt trời trí tuệ làm cho thành tựu. Do đó thường phải đến nơi thuyết pháp, ghi nhận chánh pháp. Đó là công đức nghe pháp thứ mười.

Công đức thứ mười một của việc nghe pháp là: Do căn lành, họ thường đến pháp hội để nghe pháp. Sau khi nghe xong họ thọ trì, tư duy, gìn giữ. Nhờ đó, tâm họ được điều phục có thể diệt trừ phiền não. Do phiền não bị diệt sạch nên họ được giải thoát và nhàm chán hữu vi. Họ nghĩ như vầy: Ta không còn sinh tử, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, không còn nhận thân sau. Tất cả là nhờ công đức nghe pháp. Vì vậy chúng ta phải thường nghe chánh pháp. Đó là công đức thứ mười một của việc nghe pháp.

Công đức thứ mười hai của việc nghe pháp là: Nhờ nghe pháp ta có phương tiện để giải thoát, làm cho người tà kiến có được chánh kiến, từ vô thỉ đến nay họ trôi lăn trong đường sinh tử, nghe pháp ác, chấp chặt tà kiến và do tà kiến nên bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu họ nghe chánh pháp, ưa thích gần gũi Pháp sư, tu tập ngày càng tiến bộ thì có thể xả bỏ tà kiến, tu tập chánh pháp, phát triển trí tuệ, đạt được thú vui bậc nhất, thú vui không có sự lừa dối. Tất cả là do nghe pháp và tu tập. Đó là công đức thứ mười hai của việc nghe pháp.

Công đức thứ mười ba của việc nghe pháp là: Làm tăng trưởng việc tu tập. Đó là nếu sinh chút ít tâm niệm bất thiện thì họ liền trừ diệt. Nếu ý nghĩ tham dục phát sinh thì họ dùng pháp quán bất tịnh để diệt trừ, nếu sân hận phát sinh thì tu tập quán từ bi để đoạn trừ, nếu ngu si phát sinh thì quán mười hai nhân duyên để diệt trừ. Nhờ nghe pháp, họ có thể diệt trừ ba pháp bất thiện này và những suy nghĩ vi tế huống gì là tùy phiền não. Vì vậy việc nghe pháp có công đức rất lớn. Đó là công đức thứ mười ba của việc nghe pháp.

Công đức thứ mười bốn của việc nghe pháp là: Do nghe pháp họ diệt trừ tất cả các suy nghĩ bất thiện. Giống như ánh sáng mặt trời diệt trừ tối tăm, cũng vậy trí tuệ có thể diệt trừ tất cả bóng tối bất thiện, làm chánh pháp tăng thêm, giảm bớt phiền não, nếu không nghe chánh pháp thì không thể diệt trừ phiền não. Đó là công đức thứ mười bốn của việc nghe pháp.

Công đức thứ mười lăm của việc nghe pháp là: Làm tăng trưởng tâm thiện, nhờ công đức của việc nghe pháp, họ không chỉ diệt trừ sự suy nghĩ bất thiện mà còn làm tăng những ý nghĩ thiện. Do tăng thêm suy nghĩ thiện nên họ liền có trí tuệ. Như bỏ ít lửa vào củi và có gió thổi, lửa liền bùng cháy, cũng vậy nhờ trí tuệ nên căn lành được tăng thêm. Nếu nghe pháp và ghi nhận ý nghĩa của nó và sinh một ý niệm lành thì có thể diệt vô số kiếp sinh tử không phải sinh trở lại. Đã biết công đức của việc nghe pháp ta phải siêng năng nghe pháp. Không có pháp nào khác có thể giúp đỡ ta như vậy. Nhờ nghe chánh pháp, ta làm đại thí chủ, thực hành bố thí, xả bỏ phi pháp, đạt được trí tuệ. Sau khi quan sát công đức của việc nghe pháp ta có thể ra khỏi sinh tử. Vì vậy, trọn đời ta phải siêng năng nghe chánh pháp. Việc nghe pháp là sự cứu giúp bậc nhất, là chỗ nương tựa bậc nhất giúp ta ra khỏi biên vực sinh tử. Đó là công đức thứ mười lăm của việc nghe pháp.

Công đức thứ mười sáu của việc nghe pháp là: Có thể tránh nhân duyên bất thiện. Nếu nhân duyên bất thiện phát sinh thì người trí tuệ sẽ quan sát nỗi sợ trong đường dữ. Quan sát xong họ sẽ xả bỏ nhân duyên ấy vì sợ hãi đường sinh tử. Nếu nhân duyên bất thiện phát sinh thì họ tránh không thực hành. Để nhân duyên bất thiện không phát sinh, họ siêng năng tinh tấn giữ giới, tu tập trí tuệ, nếu sinh tâm tham cầu ta cần phải thực hành bố thí, nếu tâm keo kiệt phát sinh thì dùng tâm không tham lam để diệt trừ, dùng trí tuệ để phá ngu si, dùng thấy biết như thật để diệt trừ sự suy nghĩ bất thiện, dùng chánh kiến để trừ bỏ tà kiến, dùng suy nghĩ chân chánh để diệt trừ vọng tưởng phân biệt, nếu cảm giác vui thú phát sinh thì phải quan sát các nỗi khổ, nếu có cảm giác mọi vật đều thật có thì phải quán tất cả là không, nếu chấp ngã thì phải quán vô ngã. Đó là cách đối trị bằng suy nghĩ như thật. Nếu có nhân duyên bất thiện phát sinh, ta phải lìa xa nó. Các nhân duyên đó dù là tế hoặc thô hoặc vừa ta đều phải diệt trừ chúng. Nhờ nghe chánh pháp ta có thể lìa bỏ tất cả nhân duyên bất thiện. Nếu không nghe chánh pháp thì ta không thể tránh chúng. Việc nghe pháp giống như kho tàng yên ổn. Đó là công đức thứ mười sáu của việc nghe pháp.

Công đức thứ mười bảy của việc nghe pháp là: Nhờ nghe pháp, người sống phóng dật không còn suy nghĩ ác và không sống phóng dật nữa. Người không phóng dật thì có thể thâu giữ các căn, tất cả pháp lành đều tăng thêm, tất cả pháp bất thiện đều được trừ bỏ, người ấy cách Niết-bàn không xa và được mọi thứ an lạc. Được như vậy là nhờ trừ bỏ phóng dật và nghe chánh pháp. Nhờ nghe chánh pháp biết tai họa của sự phóng dật nên họ tránh xa nó. Nhờ nghe chánh pháp ta có thể điều phục các căn. Do các căn được điều phục nên ta có thể thâu giữ tâm, làm tăng thêm ý nghĩ lành, diệt trừ suy nghĩ ác. Do suy nghĩ thiện ta được thú vui bậc nhất. Phóng dật là gốc của tất cả phiền não và không phóng dật là gốc của tất cả pháp lành. Nhờ nghe chánh pháp ta trừ bỏ được phóng dật. Vì vậy chúng ta phải thường hết lòng lắng nghe chánh pháp và tu tập theo ngày càng tinh tấn. Đó là công đức thứ mười bảy của việc nghe pháp.

Công đức thứ mười tám của việc nghe pháp là: Nhờ nghe chánh pháp nên ta gần gũi bạn lành, cung kính cúng dường các bậc thiện nhân, biết tư duy lường xét. Nhờ gần bạn lành, họ được công đức lớn. Nếu gần bạn ác thì họ rước lấy nhiều lầm lỗi. Không có pháp nào làm ta gần gũi bạn lành như việc nghe chánh pháp. Nhờ nghe chánh pháp ta được gần bạn lành. Vì vậy phạm hạnh bậc nhất là thân cận bạn lành. Đó là công đức thứ mười tám của việc nghe pháp.

Công đức thứ mười chín của việc nghe pháp là: Nhờ nghe pháp ta có thể trừ bỏ tâm gian xảo, dối trá, keo kiệt, ganh ghét. Nếu gần gũi bạn lành sẽ được công đức gì? Nhờ gần bạn lành ta sẽ được công đức thù thắng, không còn gian xảo, dối trá, keo kiệt, ganh tỵ, nhờ nghe pháp ta có thể thật sự tin tưởng về nghiệp và quả báo. Nếu chúng sinh nào gian xảo, dối trá, keo kiệt, ganh tị thì khi chết sẽ đọa vào đường ác là ngạ quỷ hoặc địa ngục. Người nào trước kia đã từng thường xuyên gian xảo, dối trá, keo kiệt, ganh ghét thì nhờ nghe chánh pháp liền có thể xả bỏ không tái phạm, nhàm chán và hối hận về những việc trước đây đã làm, khi thấy có ai gian xảo, dối trá thì họ khuyên bảo người ấy đừng làm vậy nữa. Họ giúp người kia nhàm chán ăn năn những việc trước đây đã làm và sống trong đường lành. Nhờ nghe pháp ta được công đức này. Pháp chắc chắn nhất ở trong cõi trời, người là việc nghe chánh pháp. Đó là công đức thứ mười chín của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai mươi của việc nghe pháp là: Sau khi được nghe chánh pháp, ta cúng dường cha mẹ, biết nghiệp và quả báo, biết ruộng phước. Đó là công đức hơn hết. Ruộng phước bậc nhất là cha mẹ. Do biết nghiệp và quả báo này ta có thể cúng dường cha mẹ đủ thứ như giường nằm, thuốc trị bệnh và các vật cần dùng khác. Việc cúng dường cha mẹ có thể tạo phước sinh cõi trời Phạm thiên.

Do phước đức này, về sau ta đạt được Niết-bàn.

Lại nữa, do nghe pháp, cúng dường cha mẹ ta được mọi người yêu thích, hiện đời được mọi người khen ngợi, sau khi chết được sinh vào đường lành làm trời, người. Nhờ nghe pháp, cuối cùng ta sẽ đạt được Niết-bàn. Vì biết công đức này, suốt đời người trí cúng dường vào ruộng phước của cha mẹ, làm việc và suy nghĩ chân chánh, hết lòng kính trọng cha mẹ. Đó là công đức thứ hai mươi của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai mươi mốt của việc nghe pháp là: Biết quả báo của nghiệp. Do biết quả báo của nghiệp họ không thích pháp khác. Nhờ nghe chánh pháp họ có thể biết quả báo của nghiệp. Nếu có ý niệm bất thiện phát sinh thì biết có ý niệm bất thiện, nếu tâm nghĩ điều thiện thì biết tâm nghĩ điều thiện. Họ biết như thật về quả báo của nghiệp. Nếu tâm suy nghĩ về pháp bất thiện thì họ biết rằng: Suy nghĩ bất thiện này sẽ đưa đến quả báo xấu, không đáng ưa là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do biết như vậy nên họ không sinh tâm bất thiện nữa. Việc bất thiện này chắc chắn sẽ đem lại quả báo không đáng ưa là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nếu tạo nghiệp ác này chắc ta sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nhờ nghe chánh pháp nên ta biết rõ ba loại nghiệp ấy, nếu không nghe pháp thì không thể biết việc ấy. Vì thế trọn đời người trí thường nghe pháp. Nếu thường nghe pháp tu tập nghiệp lành thì không tạo nghiệp bất thiện. Đó là công đức thứ hai mươi mốt của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai mươi hai của việc nghe pháp là: Có thể tích tụ và làm tăng thêm nghiệp sống lâu. Nhờ nghe pháp, tin nghiệp báo, họ không sát sinh, trộm cắp… và siêng năng tu tập các nghiệp lành để được sinh vào hàng trời, người, có tuổi thọ cao. Nhờ nghe pháp siêng năng tu tập nên họ có được công đức là tuổi thọ rất cao. Nhờ nghe pháp họ được sinh làm trời, người. Nếu được sinh lên trời thì có tuổi thọ rất cao so với các vị trời khác. Họ ăn uống vui chơi hưởng thú vui bậc nhất, nếu sinh làm người thì họ có sắc đẹp mạnh khỏe, giàu có, sống lâu, sinh ở nước giàu mạnh, văn minh, nhờ nghe chánh pháp họ thường siêng năng tu tập chánh kiến được thoát các khổ não. Ai có thể nghe pháp với tâm thiện thì người đó được phước đức bậc nhất. Nếu ai bước một bước để đi nghe pháp thì đều có phước sinh lên cõi trời. Người nghe pháp thường thực hành theo pháp thì được nghiệp lành của thân, nghe xong đọc tụng thì được nghiệp lành của miệng, nghe xong tâm trong sạch thì được nghiệp lành của ý. Do ba nghiệp lành người nghe pháp được sinh làm trời, người, được sự giàu có vui sướng bậc nhất, có tuổi thọ cao và cuối cùng đạt được Niết-bàn. Tất cả công đức lớn đều nhờ nghe pháp mà được. Vì vậy, nghe pháp là việc an ổn bậc nhất. Đó là công đức thứ hai mươi hai của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai mươi ba của việc nghe pháp là: Người nghe pháp được mọi người khen ngợi. Họ có công đức trì giới. Do thường nghe pháp nên họ có trí tuệ điều phục. Mọi người đều cung kính, lễ bái, thăm hỏi họ. Họ nói với mọi người bằng lời nói êm dịu, hòa nhã và thẳng thắng. Người này tương ưng với công đức. Họ thường sợ những tội ác nhỏ. Tất cả bạn bè đều ca ngợi và cứu giúp khi họ bị hoạn nạn. Người nghe pháp được người đời khen ngợi. Đó là công đức thứ hai mươi ba của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai mươi bốn của việc nghe pháp là: Được chư Thiên ủng hộ. Người nghe pháp tương ưng với nghiệp lành, thân, miệng, ý đều thực hành nghiệp lành do đó họ được chư Thiên hộ trì. Nhờ họ mọi người đều an ổn. Nếu họ chết vô số người sẽ không được lợi ích, bảo vệ họ thì quân ma bị hao hụt, chánh pháp được tăng thêm. Vì thấy điều đó, ngày đêm chư Thiên thường đi theo hộ vệ họ. Nhờ chư Thiên giúp, họ làm việc gì cũng thành tựu. Do nghiệp lành làm nhân lẫn nhau, các việc mà họ làm đã được thành tựu ngày càng phát triển thêm, tất cả nghiệp lành đều thành tựu. Lần lượt như vậy họ làm lợi ích cho hai đời. Do đó, công đức nghe pháp là kho an ổn bậc nhất. Đó là công đức thứ hai mươi bốn của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai mươi lăm của việc nghe pháp là: Nhớ nghĩ việc gì cũng đều thành tựu. Đó là người trí tuệ sống thuận theo pháp, trì giới, bố thí được nghiệp báo hiện tiền, suy nghĩ và làm việc gì cũng đều được thành tựu, không ai có thể cướp đoạt, việc làm dễ được thành tựu, thọ nhận như pháp, không mắc năm nạn, sinh sống bằng nghề chân chánh, thanh tịnh không bị lệ thuộc vào người khác, khi chết sinh vào đường lành mang thân trời. Đó là công đức thứ hai mươi lăm của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai mươi sáu của việc nghe pháp là: Giàu có như pháp, những người cùng trì giới, giàu có hào hiệp đều gần gũi họ. Do cùng giữ giới nên họ trao đổi kinh nghiệm với nhau. Tài sản của họ không phải do làm hại hay cưỡng ép người khác mà là thuận theo pháp mà có. Người thực hành pháp bố thí có công đức ngày càng tăng làm lợi ích an lạc cho hai đời. Do nghe pháp ta được công đức này. Đó là công đức thứ hai mươi sáu của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai mươi bảy của việc nghe pháp là: Có trí tuệ, xa lìa sự biếng nhác. Do nghe pháp, biết lầm lỗi của sự biếng nhác là nếu biếng nhác thì không thành tựu được các pháp thế gian và xuất thế gian. Nhờ nghe pháp, họ lìa bỏ sự biếng nhác, siêng năng làm tất cả mọi việc, chánh niệm không rối loạn, lìa bỏ người biếng nhác, tìm cách làm xong mọi việc một cách mau chóng, làm đúng thời, đúng pháp nên thành tựu tất cả, lợi ích cho hai đời. Nếu lìa bỏ sự biếng nhác siêng năng tinh tấn thì mọi việc đều được hoàn tất, mọi sự phát tâm đều thành tựu. Ai vốn biếng nhác thì nhờ nghe pháp, biết tai hại của sự biếng nhác nên liền lìa bỏ nó mau chóng như vứt bỏ dao vào lửa. Do nghe tai họa của biếng nhác là phá hoại tất cả việc làm của thế gian nên họ thành tựu tất cả mọi việc lợi ích. Đó là công đức thứ hai mươi bảy của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai mươi tám của việc nghe pháp là: Lần lượt phát sinh tâm báo ân, biết ơn người khác. Do nghe pháp nói về việc báo ân nên họ tìm cách báo ân. Do họ biết báo ân nên tất cả bạn bè đều gắn bó keo sơn với họ. Do công đức đó, tất cả kẻ thù đều giống như bạn bè. Nếu chịu chút ít ơn nghĩa của ai họ thường nhớ nghĩ không quên. Biết ơn, báo ơn sẽ được công đức lớn. Đó là công đức thứ hai mươi tám của việc nghe pháp.

Công đức thứ hai mươi chín của việc nghe pháp là: Nghĩ về cái chết. Sự nhớ nghĩ thù thắng nhất là nhớ nghĩ về cái chết. Do thường nghĩ về cái chết nên thường lo sợ. Do lo sợ nên không tạo nghiệp ác, giả sử thấy sắc đẹp cũng không sinh phân biệt, nghe âm thanh vui thú cũng không ghi nhớ, khi mũi ngửi các hương thơm, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý tư duy pháp đều không sinh tâm tham đắm nhớ nghĩ. Họ chặt đứt và lìa bỏ tất cả lưới hữu. Do sợ chết họ quan sát và thấy các thế gian đều không chắc chắn, tất cả đều khổ, vô ngã, không thật. Người có cái thấy như thật thì không có tâm dính mắc nơi cõi trời, cõi người huống gì là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Người này dứt bỏ sự hy vọng nơi năm đường và được giải thoát. Họ sợ hãi nhàm chán nỗi khổ trong đường sinh tử. Do sự nhàm chán đó, họ được giải thoát và có trí tuệ giải thoát, sinh tử đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau. Nếu không nghe pháp thì không có công đức nhàm chán và lập phạm hạnh như vậy. Vì vậy, ta phải siêng năng nghe và ghi nhớ chánh pháp gần gũi sư trưởng để cúng dường và nghe pháp làm lợi ích cho hai đời hiện tại và vị lai. Gần gũi Thiện tri thức và nghe chánh pháp làm cho ta được yên ổn. Đó là công đức thứ hai mươi chín của việc nghe pháp.

Công đức thứ ba mươi của việc nghe pháp là: Nhờ nghe pháp nên khi chết ta không hối hận. Người thường nhớ nghĩ về cái chết nếu có lỗi lầm phát sinh thì liền mau chóng diệt trừ. Nhờ nhớ nghĩ về cái chết, nếu ba loại bụi tham, sân, si là nhân của sinh tử phát sinh ta liền có thể đoạn trừ. Do trừ ba loại cấu uế đó, ta không còn sinh tử, không bị thoái lui. Không có pháp nào khác có thể diệt trừ ba thứ bụi dơ đó. Nhờ công đức nghe pháp nên ta được pháp như vậy. Trong tất cả công đức an ổn, công đức nghe pháp là an ổn bậc nhất. Khi ấy Bồ-tát Ngỗng chúa nói cho chư Thiên nghe pháp tương ưng với chánh pháp mà Phật Ca-na-ca Mâu-ni đã nói. Đó là công đức thứ ba mươi của việc nghe pháp.

Công đức thứ ba mươi mốt của việc nghe pháp là: Lúc chết tâm không hối hận. Nếu được nghe ý nghĩa của chánh pháp thì do thực hành nghiệp lành, lúc chết ta không hối hận. Sau khi đã nghe ý nghĩa của kinh ta nhớ nghĩ tư duy. Tư duy xong, ta sẽ tăng thêm lòng tin trong sạch đối với Phật, Pháp, Tăng. Do tâm trong sạch nên máu cũng trong sạch. Do máu trong sạch nên dung mạo thanh tịnh. Do thân tâm trong sạch nên khi chết ta sẽ thấy đường lành là cõi trời đáng yêu có ánh sáng trắng. Do thấy được nơi sẽ sinh đến nên tâm ta càng thêm trong sạch. Nhờ tin tưởng Phật, Pháp, Tăng với tâm trong sạch, ta được sinh nơi thù thắng hơn. Nhờ lòng tin trong sạch, nếu tạo nghiệp sinh ở cõi trời Tứ Thiên vương thì ta được sinh vào cõi trời thứ nhì, nếu có nghiệp ở cõi trời Tam thập tam thì ta được sinh vào cõi trời Dạ-ma, nếu có nghiệp sinh ở cõi trời Dạ-ma thì ta sẽ được sinh vào cõi trời Đâu-suất-đà, lần lượt như vậy cho đến cõi trời Tha hóa tự tại thứ sáu. Nhờ lòng tin trong sạch nên ta được sinh vào nơi thù thắng hơn. Tất cả đều do nghe pháp, nếu không nghe pháp thì không được như vậy. Nghe chánh pháp là người cứu giúp là nơi nương tựa lúc ta chết. Đó là công đức thứ ba mươi mốt của việc nghe pháp.

Công đức thứ ba mươi hai của việc nghe pháp là: Nhờ nghe pháp cuối cùng ta được Niết-bàn. Công đức nghe pháp là công đức hơn hết nơi mọi công đức vì nó giúp ta đạt được Niết-bàn. Do nghe chánh pháp, tinh tấn tu tập đúng pháp, thành tựu như thật người đó chắc chắn đoạn trừ phiền não, đạt đến Niết-bàn.

Để đoạn trừ phóng dật của chư Thiên ở trời Dạ-ma, Bồ-tát Ngỗng chúa Thiện Thời đã dùng âm thanh không có gì sánh bằng để nói pháp chân chánh. Chư Thiên đều sinh tâm thán phục. Bấy giờ, do nghe Phật pháp, tâm chư Thiên trở nên trong sạch.

Tất cả chư Thiên bạch với Ngỗng chúa:

–Ở trong cõi trời này Bồ-tát là Thiên chủ vì có sức trí tuệ biện tài, còn chư Thiên chúng con giống như súc sinh, do phóng dật nên thường ưa thích cảnh giới, ưa thích dục lạc làm hại tâm mình. Âm thanh của chúng con đều không thể sánh kịp âm thanh của Ngỗng chúa.

Khi ấy, Ngỗng chúa nói kệ tương ưng với chánh pháp:

Nhờ được nghe chánh pháp
Nên dứt bỏ pháp ác
Do lìa bỏ pháp ác
Thường đến nơi an ổn.
Nhờ nghe được chánh pháp
Tâm ta liền thanh tịnh
Không còn bị xao động
Không gây các nghiệp ác.
Nghe pháp được tổng trì
Nghe pháp không tạo ác
Nghe pháp biết nghiệp quả
Về sau được Niết-bàn.
Do nghe pháp biết pháp
Nhờ nghe pháp tin Phật
Người trí nhờ nghe pháp
Thoát khỏi các khổ não.
Nhờ được nghe chánh pháp
Biết được tướng chân pháp
Vì vậy người có trí
Phải siêng nghe chánh pháp.
Nghe Như Lai giảng pháp
Lìa bỏ được sinh tử
Chặt đứt ba loại ái
Đến được nơi vô tận.
Nhờ được nghe chánh pháp
Biết bốn pháp nhân duyên
Và các pháp sinh diệt
Nghe pháp biết tất cả.
Nhờ được nghe chánh pháp
Biết rõ ấm, giới, nhập
Hai loại tướng như vậy
Người trí nên tu hành.
Tai họa mạnh mẽ nhất
Trói tất cả sinh tử
Nhờ được nghe chánh pháp
Biết được hết tất cả.
Sức mạnh của việc ác
Trói tất cả sinh tử
Nhờ được nghe chánh pháp
Nên diệt trừ tất cả.
Tất cả tướng chuyển động
Và các tướng bất động
Nhờ nghe pháp thù thắng
Biết được hết tất cả.
Nếu giờ chết sắp đến
Liền chịu khổ não lớn
Nhớ nghĩ pháp đã nghe
Chết không não loạn tâm.
Nhờ trí tuệ nghe pháp
Thiêu các cây phiền não
Do lửa trí thiêu đốt
Diệt rồi không sinh lại.
Nghe pháp không phóng dật
Liền được mọi thú vui
Nghe pháp được an ổn
Vì vậy nên nghe pháp.
Đã được nghe chánh pháp
Gần người trí, già cả
Đến được nơi vô thượng
Lìa khỏi già bệnh chết.
Nghe pháp không tạo ác
Và sống thuận theo pháp
Nhờ nghe pháp lìa khổ
Nghe pháp là bậc nhất.
Do được nghe chánh pháp
Ba nghiệp liền thanh tịnh
Ai muốn được thanh tịnh
Phải thường nghe chánh pháp.
Dựa vào việc nghe pháp
Vững vàng và siêng năng
Thì mau chóng vượt qua
Biển ba cõi rộng lớn.
Ai giàu sự nghe pháp
Thì đứng đầu thế gian
Giàu mà không biết pháp
Thì là người nghèo hèn.
Xa lìa bậc sư trưởng
Mất tài sản nghe pháp
Sẽ không thu được quả
Bị việc ác phá hoại.
Người phóng dật, biếng nhác
Gần gũi bạn bè ác
Sẽ không thu được quả
Như trồng cây ruộng muối.
Ai lìa thấy nghe pháp
Thì thật là người mù
Ai xa lìa chánh pháp
Và thực hành phi pháp.
Người đó bỏ thuốc hay
Để giữ lấy bệnh tật
Ai gần gũi bạn lành
Tăng thêm vô số pháp.
Giống như trận mưa lớn
Làm sông suối đều dâng
Sống tịch tĩnh theo pháp
Chuyên nhớ nghĩ chánh pháp.
Nhất định được yên ổn
Không bị phóng dật lừa
Biết công đức trí tuệ
Người trí nên tu hành
Chỉ có người trí tuệ
Mới được hưởng an lạc.

Để gieo căn lành cho chư Thiên, Ngỗng chúa Thiện Thời thường nói Phật pháp làm lợi ích cho chư Thiên. Sau khi nghe pháp, chư Thiên sinh tâm kính trọng, hoan hỷ, giảm bớt phóng dật. Các vị trời lại đến nơi khác tương ưng với nghiệp để hưởng thú vui cõi trời. Sau khi giảng đầy đủ kinh Phật Ca-na-ca Mâu-ni đã thuyết có tên: “Kinh Tập Vô Lượng Công Đức Văn Pháp Kiên Cố” cho chư Thiên nghe, Ngỗng chúa Thiện Thời lại đến nơi khác tư duy về chánh pháp.

Chư Thiên ở vùng Lạc hành nghe năm thứ âm nhạc, hưởng năm loại dục lạc cho đến khi hưởng hết nghiệp lành. Do nghiệp ác, họ bị đọa xuống các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu có nghiệp lành còn sót tương ưng với cõi người thì họ sinh làm người rất giàu có, an vui khéo giữ giới cấm, thường thích nghe pháp, sống thuận theo pháp, thông minh, chánh kiến, làm vua hoặc đại thần. Đó là nhờ nghiệp còn sót lại.

Biết quả báo của nghiệp, Tỳ-kheo ấy lại quan sát nơi chư Thiên ở cõi trời Dạ-ma cư trú. Bằng văn tuệ, vị ấy thấy vùng Chủng chủng tạp ở trời Dạ-ma. Do nghiệp gì chúng sinh sinh vào vùng này?

Vị ấy thấy có người tạo nghiệp lành nơi thân, miệng, ý, có chánh kiến, sinh sống bằng nghề chân chánh, chỉ làm việc lành, tâm ngay thẳng, ưa thích sự thật, không sát sinh, trộm cắp, xa lìa tà dâm, lúc ở trong mộng nếu có thấy người nữ thì cũng không sinh ý muốn gần gũi, ban ngày cũng không nhớ nghĩ đến, không có suy nghĩ vẩn đục và quan sát thân người nữ đó cũng như thân mình. Do xả bỏ tà dâm họ được quả báo lành, được sinh lên trời thọ lạc cùng với các Thiên nữ vây quanh. Nếu lìa bỏ người nữ để mong được Thiên nữ thì gọi là phạm hạnh nhiễm ô, ai thích sinh Thiên thì hãy xả bỏ tà dâm và nghĩ rằng: “Trước đây ta đã vui chơi, ca múa cùng người nữ, đó là việc bất thiện sẽ làm ta đọa vào đường ác”. Do đó, họ không còn sinh tham dục đối với thói quen cũ, không nhớ nghĩ đến những thói quen cũ, chỉ ca múa vui cười, nếu tâm phát sinh ý niệm đó thì lập tức xả bỏ. Do nhân duyên đó, khi mạng chung họ sinh vào vùng Chủng chủng tạp.

Sau khi sinh vào nơi này, nghiệp lành kết quả thành năm thứ dục lạc hòa hợp với nhau. Do nghiệp lành, sau khi Thiên tử sinh, ở khắp nơi trên cõi trời ánh sáng của đủ loại châu báu tự nhiên phát sinh như là ánh sáng đủ màu của các ngọn núi kim cương, ánh sáng của Tỳ-lưu-ly, châu báu nhân-đà xanh, châu báu chúa rất xanh, xa cừ, pha lê, châu báu hoa sen đỏ và đủ loại ánh sáng khác chiếu khắp cõi trời. Khi mới nhìn đủ loại ánh sáng này, mắt sinh ưa thích vì trước đây chưa từng thấy. Họ lại nghe đủ loại tiếng ca hát rất vui không gì thí dụ được và ngửi đủ loại hương vi diệu của cõi trời.

Các vị Thiên tử mới sinh bị ba loại cảnh giới không gì sánh bằng này lôi cuốn nên rời khỏi rừng ánh sáng. Các Thiên nữ thấy các Thiên tử mới sinh từ trong rừng đi ra. Rừng ấy có đủ loại ánh sáng xinh đẹp như vậy. Thiên tử mua Thiên nữ bằng giá của nghiệp lành.

Khi ấy các Thiên nữ trang điểm đủ cách rất xinh đẹp, có đủ loại màu sắc vi diệu, ca vịnh đủ cách bằng âm nhạc cõi trời. Vì lòng ái dục từ vô thỉ, Thiên tử bị Thiên nữ lôi cuốn đến gần họ với tâm hoan hỷ, có Thiên nữ cầm nhạc khí tạo ra các âm thanh vi diệu, có Thiên nữ ngửi cánh hoa thơm vi diệu và nhìn Thiên tử với cặp mắt vui vẻ, có Thiên nữ đứng trên đất cầm nhạc khí làm phát ra âm thanh vi diệu, có Thiên nữ cầm hoa đẹp chạy về phía Thiên tử, có Thiên nữ mang đủ loại thức uống thượng vị của cõi trời đầy đủ sắc, hương, vị, không có tai họa say sưa đến chỗ Thiên tử. Họ dùng cánh hoa sen đựng thức uống thượng vị của cõi trời có đầy đủ sắc hương vị để uống làm tăng thêm sự vui sướng gấp mười lần. Thế là tâm bị dính vào cảnh giới thứ tư. Đầu tiên là dính vào sắc đẹp, kế đó là thanh, hương, vị. Lại nữa, thân họ nhận đủ loại xúc chạm vui vẻ tùy theo ý thích, hễ nghĩ đến liền được. Đó là năm loại dục lạc mà Thiên tử mới sinh vướng vào.

Lúc ấy, Thiên tử mới sinh cùng các Thiên nữ đi đến rừng Nhất thiết tùy thuận dục để hưởng năm loại dục lạc. Thiên tử mới sinh được các Thiên nữ vây quanh cùng nhau quan sát Thiên chúng vui chơi đủ cách, có Thiên chúng vui chơi ở trong rừng rậm, có Thiên chúng vui chơi ở ngọn núi, có Thiên chúng vui chơi tạo ra năm loại âm nhạc, có Thiên tử cùng các Thiên nữ trang điểm đủ cách, vui chơi hưởng lạc trong cung điện trên hư không, có Thiên tử vịn cành cây ca múa vui cười phát ra năm loại âm nhạc. Thấy Thiên chúng vui chơi như vậy, Thiên tử mới sinh rất hoan hỷ, cùng với Thiên nữ nhập vào vui chơi với Thiên chúng. Các Thiên tử mới sinh cùng các Thiên nữ vui chơi thọ lạc, nhận lãnh đủ năm loại dục lạc tương ưng với tự nghiệp. Sau một thời gian dài hưởng lạc từ trong rừng đi ra, họ lại bay lên đủ ngọn núi xinh đẹp bằng châu báu để vui vẻ với nhau. Họ đi chơi hưởng lạc ở sông suối, vườn cây, ngọn núi làm bằng đủ loại đá châu báu được trang sức bằng dòng suối mát mẻ và các nơi vui chơi… Khi ấy, tâm chư Thiên rất buông lung. Ở nơi chư Thiên vui chơi có một con chim tên Lưu Thủy Hành nói kệ cho chư Thiên phóng dật nghe:

Do đủ các loại nghiệp
Nên hưởng quả báo vui
Sau khi hưởng quả báo
Hết nghiệp sẽ thoái đọa.
Người ngu đang được vui
Không thấy sự đáng sợ
Về sau khổ não đến
Lúc ấy mới biết nghiệp.
Bị phóng dật trói buộc
Khổ vui đều không khác
Do nghiệp thiện đã hết
Về sau rất hối hận.
Phóng dật như chất độc
Vì vậy cần xả bỏ
Phóng dật hại chư Thiên
Dẫn họ vào địa ngục.
Hòa hợp thì vui mừng
Chia lìa thì rất khổ
Có hợp ắt có tan
Tất cả pháp đều vậy.
Đời không có một pháp
Có sinh mà không diệt
Tất cả pháp sinh diệt
Có và không như vậy.
Chư Thiên theo chỗ thấy
Mà thọ hưởng thiên lạc
Bị độc phóng dật mê
Tất cả đều bị diệt.
Mọi thú vui phóng dật
Ban đầu thì đáng yêu
Về sau khổ não đến
Mới biết đó là giặc.
Phóng dật mê nữ sắc
Chính là tên giặc dữ
Mê sắc tan thân mạng
Tu-la, rồng cũng vậy.
Mê rượu và nữ sắc
Tham đắm các cảnh giới
Tâm biếng nhác dao động
Là gốc của phóng dật.

Chim Lưu Thủy Hành nói kệ như vậy cho chư Thiên phóng dật nghe. Tuy nghe bài kệ ấy nhưng chư Thiên không hay biết vì bị cảnh giới làm hại. Họ ca múa, vui cười, đi vào trong rừng Quang minh. Rừng này đáng yêu cành lá che khắp. Nơi đó có nhiều loại rừng cây sum suê tươi tốt, rất đáng ưa. Chư Thiên cùng các Thiên tử mới sinh nghe năm loại âm nhạc, vui chơi thọ lạc ở các nơi như vườn cây có các cây sắp thành hàng đủ loại dòng nước, ao và rừng hoa sen, đủ loại vùng đất, cung điện do bóng râm của cành cây tạo thành, đủ loại rừng, đủ loại cây như ý, đủ loại hang núi, cung điện thù thắng trang điểm bằng ánh sáng bảy báu trước đây chưa từng thấy. Thấy cung điện đó, chư Thiên còn sinh tâm hoan hỷ huống gì là Thiên tử mới sinh. Họ cùng nhau quan sát khắp nơi, cùng với Thiên nữ đi chơi ở trong rừng và rất say mê cảnh giới, bị lửa dục thiêu đốt phát ra khói phóng dật. Họ được Thiên nữ vây quanh và bị thiêu đốt liên tục. Họ đi khắp nơi trong vườn cây, bị sức tham ái và cảnh giới thiêu đốt. Sau một thời gian cùng với các Thiên nữ vây quanh thọ lạc, họ lại hướng đến ao sen Chủng chủng tạp. Ao sen này đáng yêu không gì bằng. Nó có đủ loại màu sắc như là hoa sen hồng, lá bằng Tỳ-lưuly, cành bằng vàng ròng, đài bằng châu báu hoa sen đỏ, tua bằng bạc và có các con ong bằng châu báu nhân-đà xanh trang điểm ao hoa. Lại có hoa sen có cành bằng bạc, lá bằng châu báu nhân-đà xanh, hoặc cành bằng vàng ròng, lá bằng châu báu nhân-đà xanh, tua bằng châu báu hoa sen đỏ, đài bằng bạc, được trang sức bởi các con ong bằng châu báu hoa sen đỏ. Lại có hoa sen cành, lá, tua, đài đều mang màu đỏ, được trang điểm bằng các con ong cũng màu đỏ. Lại có hoa sen cành, lá, tua, đài và các con ong đều bằng bạc. Có hoa sen tất cả các phần đều mang màu xanh.

Lại có hoa sen mang đủ loại màu sắc, mỗi hoa được làm bằng bảy báu xen lẫn nhau. Nó có đủ loại tướng mạo, đủ loại hương thơm vi diệu, được trang điểm bằng lá có đủ loại màu như là xanh, vàng, đỏ, trắng, cam. Hoa ấy được đủ các loại lá và ong trang điểm.

Đủ loại ao hoa sen như vậy có nước trong mát ngon ngọt rất đáng ưa thích, có nhiều hoa sen rất đẹp, hương thơm vi diệu, đầy đủ các tướng. Thiên tử mới sinh và các Thiên nữ nghe năm loại âm nhạc, thọ hưởng năm thứ dục lạc.

Trên bờ ao sen đủ màu sắc đó có các rừng cây quay quanh ao, được trang điểm bằng cây cối rất xinh đẹp. Cây đó được trang nghiêm bằng đủ thứ hoa. Từ gốc đến ngọn đều có đầy đủ các loại hoa xanh, vàng, đỏ, trắng, xanh biếc. Ao hoa sen phát ra ánh sáng khắp mười do-tuần, có nhiều con chim cất tiếng hót rất hay.

Bờ ao sen lại có rừng cây tên là Cung điện. Do nghiệp lành, chư Thiên có thế lực lớn, nếu họ bay lên cây khởi ý nghĩ muốn có cung điện thì liền có cung điện sinh ra. Do nghiệp lành, cánh hoa bảy báu làm cung điện được trang nghiêm bằng bảy báu. Nơi đó có nhiều sông, ao, vườn cây, núi cao, mỗi nơi đều có cung điện trang sức. Chư Thiên được trang điểm bằng các loại châu báu bay lên cung điện này ca múa vui chơi cùng các Thiên nữ hoặc bay lên hư không tùy ý quan sát khắp các nơi chư Thiên trời Dạ-ma sống và ngắm nhìn các loại hoa đó. Nhờ sức của cây, trên bờ ao sen lại có đủ loại hoa nhiều màu sắc.

Trên bờ ao còn có cây khác tên Ma-ni âm được trang nghiêm bằng các loại chim. Do uy lực của cây, nếu chư Thiên vui chơi trong ao hoa thì có gió nhẹ thổi làm cành lá xúc chạm vào nhau phát ra âm thanh vi diệu. Có hoa châu báu rơi từ trên cây xuống, ánh sáng chiếu khắp hư không, giống ánh sáng mặt trăng, mặt trời cõi Diêm-phù-đề.

Bờ ao sen lại có cây khác tên Thọ ẩm thực. Do nghiệp lành, nếu chư Thiên đi chơi trong ao hoa thì từ trong trái cây sẽ sinh ra thức uống thơm ngon của cõi trời, có đầy đủ sắc hương vị. Uống thức uống đó, Thiên tử tăng thêm vui vẻ gấp mười lần, không bị say sưa loạn trí và cùng các Thiên nữ ca múa, vui chơi.

Lại có rừng cây phát ra thức ăn tu-đà và chư Thiên được hưởng tùy theo nghiệp của mình. Bên bờ ao lại có cây khác tên Diệp-ca âm. Do nghiệp lành, nếu chư Thiên vui chơi ở ao này thì gió nhẹ thổi đến và họ hưởng hoan lạc. Gió thổi lá cây xúc chạm vào nhau phát ra âm thanh vi diệu giống y như âm thanh của Thiên nữ. Tất cả các âm thanh do cây phát ra cũng đều như vậy.

Ở bờ ao sen lại có cây khác tên Điểu lạc. Do thế lực của cây nên có chim ở trên cây. Nếu chư Thiên vào ao vui chơi hưởng lạc phát ra năm loại âm nhạc, vui vẻ với nhau hoặc bay lên cây báu, hoặc cỡi chim trời để quan sát nơi đáng yêu của chư Thiên. Theo ý nghĩ của họ chim ở trước mặt. Lập tức trên lưng chim có cung điện lớn, có nhiều dòng suối, nhiều ao hoa sen và cung điện tạo bằng bóng râm của cành cây.

Lại có chim khác nói kệ cho chư Thiên nghe:

Người trì giới an ổn
Phá giới thì chết yểu
Thà mang thân thấp hèn
Không muốn vào địa ngục.
Người trí theo thứ lớp
Tu tập trong từng niệm
Lọc sạch bụi ngã kiến
Như người thợ luyện vàng.