KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 6: QUÁN THIÊN

TAM THẬP TAM THIÊN

(Từ quyển 25 – quyển 35)

 

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Quan sát người trì giới, nếu xa lìa giới tuệ thì không được sinh lên trời. Dùng văn tuệ biết người trì giới sinh lên cõi trời, hưởng diệu lạc cõi trời là do có trí tuệ. Khi thoái đọa không bị đọa vào đường ác. Do giới gì? Có mấy loại giới được sinh lên cõi trời? Sinh do những tướng gì? Biết người hành bảy chi giới được sinh lên cõi trời thượng, trung, hạ. Người hành giới không sát sinh được sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương; hành các giới không sát sinh, trộm cướp được sinh lên cõi trời Tam thập tam; hành các giới không sát sinh, trộm cướp, tà dâm được sinh lên cõi trời Dạ-ma; hành các giới không sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt được sinh lên cõi trời Đâu-suất; giữ luật thế gian, tin phụng giới Phật, không sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt được sinh lên cõi trời Hóa lạc; cõi trời Tha hóa tự tại cũng thế.

Tỳ-kheo quan sát giới nghiệp ràng buộc chúng sinh, sinh lên cõi trời. Giữ giới gì sinh lên cõi nào? Dùng văn tuệ biết chúng sinh giữ giới không sát sinh được sinh lên cõi Tứ Thiên vương, thân thể, sắc lực của cải, tuổi thọ đều thù thắng; ai giữ các giới không sát sinh, trộm cướp được sinh lên cõi trời Tam thập tam, thân thể, sắc lực, của cải, tuổi thọ hơn trước; nếu thọ trì, tu tập các giới không sát sinh, trộm cướp, tà dâm được sinh lên cõi trời Dạ-ma, thân thể, sắc lực, của cải, tuổi thọ hơn trước; vì lòng tin và trí tuệ thù thắng nên được sinh lên cõi trời Đâu-suất-đà, thân thể, sắc lực, của cải, tuổi thọ hơn trước; nếu giữ các giới không sát sinh, trộm cướp, tà dâm,

nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt được sinh lên cõi trời Hóa lạc, thân thể, sắc lực, an lạc, của cải, tuổi thọ hơn trước; nếu giữ các giới không sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt được sinh lên cõi trời Tha hóa tự tại, thân thể, sắc lực, của cải, tuổi thọ vượt hơn các cõi trời khác, không để ma Ba-tuần mặc sức điều khiển, cũng không sai khiến ma.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, quan sát nhân vi tế được sinh lên cõi trời, suy xét biết được vì nhân của giới thù thắng. Do giới có thượng, trung, hạ nên sinh lên cõi Lục dục thiên, tâm và nghiệp thù thắng được sinh lên cõi Lục dục thiên. Vì tâm thù thắng nên cảnh giới cũng thù thắng.

Lại nữa này các Tỳ-kheo! Quan sát giới có bao nhiêu loại?

Biết thế gian có hai loại giới?

  1. Tự sinh: Tự bản tánh giữ gìn được.
  2. Tùng tha: Tùy thuộc cái khác sinh ra.

Lại có hai loại giới:

  1. Xuất gia.
  2. Tại gia.

Giới xuất gia là giới giải thoát.

Giới tại gia là năm giới.

Lại có hai loại giới:

  1. Nhất hành.
  2. Phi nhất hành.

Nhất hành giới là một giới.

Phi nhất hành giới là thọ hai, ba giới…

Lại có hai loại giới:

  1. Lâu dài: Giữ gìn suốt đời.
  2. Không lâu dài: Tùy theo sự thệ nguyện của tâm và theo sức lực mà giữ giới.

Lại có hai loại giới:

  1. Có cấu uế.
  2. Không cấu uế.

Hữu cấu là giới sinh lên cõi trời.

Vô cấu là giới đạt đến Niết-bàn.

Lại có hai loại giới:

  1. Thế gian.
  2. Xuất thế gian.

Thế gian là giới có biến đổi.

Xuất thế gian là giới không biến đổi.

Lại có hai loại giới:

  1. Tự hộ.
  2. Hộ tha.

Người tự giữ giới là tự hộ.

Hộ tha là làm cho người khác trụ vào nhiễm giới thế gian.

Lại có hai loại giới:

  1. Chỉ.
  2. Tác.

Chỉ: Biết nhân, duyên mà không siêng học.

Tác: Tạo tác các nghiệp, lưu chuyển trong sinh tử.

Lại có hai loại giới:

  1. Trí nhiếp.
  2. Thí nhiếp.

Giữ giới gồm có trí tuệ thì đạt Niết-bàn.

Giữ giới gồm cả bố thí thì được an lạc, giàu có.

Lại có hai loại giới:

  1. Nội hành.
  2. Ngoại hành.

Nội hành: Thanh tịnh nơi tâm, miệng, ý.

Ngoại hành: Thanh tịnh nơi thân.

Lại có hai loại giới:

  1. Tu tập.
  2. Bất tập.

Tu tập: Đã tu tập trong vô lượng kiếp đến nay.

Bất tập: Giữ giới trong một đời.

Tỳ-kheo đã quan sát vô lượng hai loại giới.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Quan sát giới vi tế, có mấy loại?

Tỳ-kheo quan sát có ba loại giới:

  1. Thiểu phần.
  2. Đa phần.
  3. Tận thọ.

Thiểu phần là giữ một giới.

Đa phần là giữ hai hoặc ba giới.

Tận thọ là giữ tất cả giới.

Lại có ba loại giới:

  1. Ái.
  2. Bất ái.
  3. Tự tánh ái.

Ái: Vì tài lợi mà thọ giới cấm.

Bất ái: Vì bị bệnh mà thọ giới cấm.

Tự tánh ái: Tự tánh thanh tịnh mà thực hành. Công đức của giới này là thù thắng.

Lại có ba loại giới:

  1. Thiền hành.
  2. Vô thiền.
  3. Ly ác.

Thiền hành: Tu tập thiền thế gian, ngay cả lúc vào xóm làng, thành ấp cũng luôn tu thiền.

Vô thiền: Là giới không lệ thuộc thiền hành.

Ly ác: Sợ gặp các điều ác nên bỏ không làm, như người say rượu làm việc bất thiện, người trí thấy vậy không uống rượu.

Lại có ba loại giới:

  1. Dua nịnh.
  2. Không dua nịnh.
  3. Tánh thiện

Dua nịnh: Giới cấu nhiễm không thanh tịnh, đạt chút quả báo.

Không dua nịnh: Đạt quả báo lớn.

Tánh thiện: Nếu tâm tăng thượng thì đạt quả lớn, còn tâm yếu kém thì đạt quả nhỏ.

Lại có ba loại giới:

  1. Nhân duyên trì.
  2. Phi nhân duyên trì.
  3. Pháp bất ưng tác.

Nhân duyên trì: Có nhân duyên nên hộ trì giới cấm.

Phi nhân duyên: Giới không có nhân duyên mà vẫn giữ.

Bất ưng tác: Sinh vào dòng họ sang cả nên không làm việc đó, là để giữ gìn dòng tộc.

Lại có người giữ giới theo duyên để thành Phật, vì ý thù thắng nên quả báo lớn. Giữ giới không có duyên thì quả báo nhỏ, vì không biết quả báo giữ giới không nên làm, vì cầu danh dự thế gian nên quả báo cũng nhỏ, được sinh vào cõi người.

Lại có ba loại giới:

  1. Sợ thầy.
  2. Không sợ thầy.
  3. Sợ đường ác.

Vì sợ thầy mà giữ giới là giữ giới bậc hạ.

Không phải vì sợ thầy mà giữ giới là giữ giới bậc trung.

Nếu sợ đường ác mà giữ giới là giữ giới bậc thượng.

Lại có ba loại giới:

  1. Tự trì giới mà không dạy người khác.
  2. Tự giữ giới còn dạy người khác.
  3. Mình không giữ giới cũng không dạy người.

Lại có ba loại giới:

  1. Khuyết.
  2. Bất khuyết.
  3. Nhất thiết khuyết.

Khuyết: Ban đầu khéo giữ giới, sau lại phá giới.

Bất khuyết: Khéo giữ gìn trong mọi lúc.

Nhất thiết khuyết: Hội hợp các ngoại đạo thọ trai giới, theo tà kiến, sát sinh.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Hãy quan sát bốn loại giới. Đó là lìa bốn tội lỗi của lời nói:

  1. Nói dối.
  2. Nói hai lưỡi.
  3. Nói lời thô ác.
  4. Nói thêu dệt.

Lại có năm loại giới ngăn chận năm cảnh giới.

Lại có sáu nhân duyên thọ trì giới cấm:

  1. Sợ người khác tìm chỗ dở.
  2. Sợ chém giết.
  3. Kinh sợ.
  4. Nhân duyên.
  5. Không quan sát.
  6. Tự tánh.

Lại có bảy loại giới: Thân có ba, ngữ có bốn.

Tỳ-kheo quan sát vô lượng cách giữ giới. Chúng sinh sợ đường ác, nếu giữ giới sẽ vượt qua. Nói gọn có hai loại giới để giữ:

  1. Thế gian.
  2. Xuất thế gian.

Tỳ-kheo đã quán xét cõi trời Tứ Thiên vương, hãy quan sát trụ xứ và nghiệp hành của cõi trời Tam thập tam. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết rõ về các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Tam Thập Tam trụ xứ đó là:

  1. Trụ Thiện pháp đường.
  2. Trụ phong.
  3. Trụ sơn đỉnh.
  4. Thiện kiến thành.
  5. Bát tư địa.
  6. Trụ Câu-trá.
  7. Tạp điện.
  8. Trụ hoan hỷ viên.
  9. Quang minh.
  10. Ba-lợi-da-đa thọ viên.
  11. Hiểm ngạn.
  12. Trụ tạp hiểm ngạn.
  13. Trụ Ma-ni tạng.
  14. Tuyền hành địa.
  15. Kim điện.
  16. Man ảnh xứ.
  17. Trụ nhu nhuyến địa.
  18. Tạp trang nghiêm.
  19. Như ý địa.
  20. Vi tế hành.
  21. Ca âm hỷ lạc.
  22. Oai đức luân.
  23. Nguyệt hành.
  24. Diêm-ma-sa-la.
  25. Tốc hành.
  26. Ảnh chiếu.
  27. Trí tuệ hành.
  28. Chúng phần.
  29. Trụ luân.
  30. Thượng hành.
  31. Oai đức nhan.
  32. Oai đức diễm luân.
  33. Thanh tịnh.

Tỳ-kheo quan sát nghiệp vi tế ở cõi trời Tam thập tam. Họ giữ giới, tạo nghiệp lành. Tu tập những nghiệp gì được sinh lên đường lành. Do nghiệp nhân thiện được quả báo thiện, sinh ở chỗ an lạc. Dùng văn tuệ nghe pháp của Phật giảng, không phải pháp của ngoại đạo, biết nơi mà chư Thiên sống, vui chơi thọ lạc, thật không thể nói hết.

Thiện pháp đường mà Thiên vương Đế Thích cai trị, sinh sống, ngoại đạo cho là thường trụ bất diệt. Ban đầu là quán các pháp, kế đến phân biệt để quán. Do tu tập toàn thiện giới gì được sinh lên Thiện pháp đường? Với tri kiến, biết người giữ bảy chi giới, giới không thiếu, không bị thất thoát, giữ giới kiên cố không thể chê trách được, tu tâm, bố thí, hợp thời bố thí vào ruộng phước, hoặc thí cho A-la-hán, người bệnh, cha mẹ, A-na-hàm, Tu-đà-hoàn, Tư-đàhàm, người tu diệt định, người đi đường, thực hành tâm Từ bi, vui vẻ ban cho, mang lại sự sống cho người sợ hãi. Sau khi qua đời, vị ấy sinh lên Thiện pháp đường, làm Thích-ca Đề-bà, họ Kiều-thi-ca, tên Năng thiên chủ, có chín mươi chín na-do-tha Thiên nữ làm quyến thuộc, cung kính vây quanh, cung cấp hầu hạ Đế Thích, như người nữ hầu chồng. Các Thiên nữ không có tâm ganh ghét, cung phụng Thiên hậu như Đế Thích, không có tâm đố kỵ. Thiện pháp đường rộng năm trăm do-tuần, lan can bằng châu tỳ-lưu-ly, trụ bằng san hô lại trang trí xa cừ, mã não, vách điện bằng vàng Diêm-phù-đàn sáng rực như màu dung kim. Tòa ngồi được trang trí bằng những vật báu như kim cương, ma-ni, xích liên hoa bảo thanh châu. Hoa sen ở đó, tua bằng kim cương, cọng bằng vàng ròng, có ao hoa trong sạch trang trí. Trong áo lại có đầy các loài chim, cánh bằng lưu ly, mỏ bằng xích liên hoa bảo, thân bằng thanh nhân-đà bảo, bốn mặt ao có hoa bằng ma-ni xanh, mặt đất rải cát bằng ma-ni. Lại có loài chim chân bằng thanh nhân-đà bảo, mỏ bằng xa cừ, mắt bằng san hô. Lại có loài chim toàn thân bằng vàng Diêm-phù-đàn, cánh bằng san hô, mắt bằng ngọc nhân-đà-la. Lại có ao tắm đầy các loài ong màu sắc như lưu ly. Thiện pháp đường có mười ao hoa lớn:

  1. Nan-đà liên hoa.
  2. Ma-ha Nan-đà liên hoa.
  3. Hoan hỷ liên hoa.
  4. Đại hoan hỷ liên hoa.
  5. Du hý liên hoa.
  6. Chánh ức niệm liên hoa.
  7. Nhất thiết nghĩa liên hoa.
  8. Chánh phân biệt liên hoa.
  9. Như ý thọ liên hoa.
  10. Nhân-đà-la phú xứ tự tại đại quang minh liên hoa.

Mười ao hoa sen lớn đó dùng để trang trí Thiện pháp đường.

Lại có ao hoa sen khác, hoa trong sạch, cọng bằng bạch ngân, tua bằng vàng ròng, lá bằng lưu ly, đài bằng kim cương. Lại có hoa sen cọng bằng kim cương, lá có nhiều màu xen lẫn. Tất cả các hoa sen ấy, có hoa sắc như ngọc đỏ, có hoa sắc như lưu ly, xa cừ, hoàng kim. Các hoa sen màu sắc lẫn lộn như thế. Có hoa một trăm cánh, hai trăm cánh… cả ngàn cánh. Các loại hoa màu sắc khác nhau dùng để trang trí Thiện pháp đường của Thiên vương Thích-ca. Trong ao hoa sen có nhiều loại chim như Thường dục, Nhất thiết hành, Thường đề thanh. Khi Đế Thích cùng Thiên nữ vào ao hoa sen vui chơi thọ lạc thì chim chóc cũng vui đùa, họ trổi âm nhạc, chim cũng hót tiếng líu lo. Lại có loài chim tên Dục phóng dật. Khi Đế Thích vui chơi trong ao hoa thì chim chóc cũng vui đùa giống như Thiên nữ. Lại có loài chim tên Du hành, đậu trên bờ ao, miệng ngậm tua hoa, đậu xung quanh bờ ao, bay nhảy vui đùa, hót tiếng líu lo. Thích-ca Thiên vương có các ao hoa thù thắng như vậy.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Quan sát những sự hóa sinh do nghiệp thiện của Đế Thích, thấy trong hoa sen có cá bằng vàng ròng, bạch ngân, lưu ly, vi cá bằng xích liên hoa bảo, mắt bằng xa cừ. Khi chúng tức giận giống như hoa sen đỏ, vảy cá bằng tạp bảo, vi cá bằng bảy báu, vui chơi thọ lạc trong ao sen.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Hãy quan sát ao sen của Đế Thích. Dùng văn tuệ quan sát ao hoa sen, đất bằng gì? Dùng văn tuệ biết ao hoa sen của Đế Thích, mặt đất rải cát bằng chân châu, bạc, vàng, lưu ly, Tỳ-kheo phân biệt biết hết, ao ấy được trang trí bằng các màu sắc lẫn lộn. Đó là do nghiệp thiện của Đế Thích hóa sinh.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Hãy phân biệt quan sát các nơi như vậy. Dùng văn tuệ biết ao hoa Ba-đầu-ma, có lan can bao quanh bằng vàng ròng, hoặc bằng lưu ly, bạch ngân, lưới vàng che bên trên, có các loài chim hót tiếng lảnh lót, vui đùa bên bờ ao.

Lại nữa này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, quan sát ao sen của Thiện pháp đường, có loài ong nhiều màu sắc, phát ra âm thanh vi diệu. Trong hoa sắc vàng có ong màu sắc bằng bạch ngân, cánh ong bằng kim cương, thân mềm mại; trong hoa màu sắc bạch ngân có ong màu sắc bằng vàng, các loài ong vui chơi trong đó. Nhờ nghiệp thiện nên thành tựu các quả báo lành như thế.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã quan sát Thiện pháp đường, dùng văn tuệ quan sát rừng thiện pháp. Cõi của Thiên vương Thíchca có mấy khu rừng? Dùng văn tuệ biết các khu rừng có ở Thiện pháp đường. Quan sát chư Thiên, Thiên vương Đế Thích, các Thiên nữ ở Thiện pháp đường thường vui chơi thọ hưởng năm dục lạc ở rừng nào? Biết có khu rừng tên Thiên nữ du hý, đủ hoa trái cõi trời, đầy các loài chim, cây tên là Như ý. Chư Thiên muốn gì cây liền sinh ra, khi chư Thiên vui chơi trong rừng thì hoa đẹp nở rộ. Các Thiên nữ vào rừng, nếu đứng gần cây thì cành hoa hạ thấp xuống cho họ hái. Khi các Thiên nữ hái hoa xong thì cành hoa nâng lên. Các loài hoa ấy có hình sắc hương thơm khác nhau. Vì theo ý muốn của họ nên gọi là cây Như ý. Nếu họ nghĩ đến âm nhạc thì cũng có các âm nhạc vừa ý. Gió nghiệp thiện thổi các lá cây va chạm vào nhau phát ra tiếng rất hay như âm nhạc cõi trời nên gọi là cây Như ý. Lại có vô lượng cây tùy ý muốn của Thiên nữ, có đủ các thứ trang sức như áo trời, hoa trời, nên gọi là cây Như ý. Lại có cây Như ý sắc lưu ly, thân lá bằng vàng ròng, cành bằng bạch ngân, lá bằng lưu ly, cành bằng san hô, hoặc lá cây bằng bảy báu, lưu xuất những vị ngon. Lại có cây Như ý, nếu các Thiên nữ muốn gặp Đế Thích thì nhờ nghiệp thiện mà họ thấy hóa Đế Thích ngay trong rừng cây này, cùng họ vui chơi. Công đức của rừng này là thấy hóa Đế Thích. Rừng này có chín mươi chín na-do-tha Thiên nữ, mỗi Thiên nữ đều thấy Đế Thích vui chơi với mình, không thấy người nữ khác gặp Thiên chủ. Các Thiên nữ nghĩ là thấy được thân Đế Thích, nên gọi là cây Như ý. Trong rừng ấy có vô lượng dục lạc, họ vui chơi ở đây lần đến núi Hỷ lạc, núi ấy làm bằng bảy báu, được trang trí bằng kim cương, cành cây vàng ròng che phủ khắp nơi như cung điện, có các con hươu bằng vàng, bạc, ngọc xanh và nhiều loại chim hót tiếng rất hay. Núi ấy có cung điện tên Thắng thượng, cung điện này có ngàn cột, các cột được làm bằng bảy báu như vàng, lưu ly, ma-ni xanh, xen lẫn kim cương. Có trăm ngàn cung điện trời nguy nga, lộng lẫy, đặc biệt và có tòa Sư tử mềm mại. Cung điện có ngàn giường nằm trang trí bằng lưu ly. Khi Đế Thích chiến thắng A-tu-la, các Thiên chúng đều hoan hỷ, khen ngợi Đế Thích. Họ cùng các Thiên nữ lên cung điện này vui chơi, ca múa, tùy theo bản nghiệp mà thọ hưởng diệu lạc có thượng, trung, hạ. Đã vui chơi rồi, họ lại vào trong núi vui chơi hưởng lạc, chỉ nghĩ đến dục lạc. Vì sao? Vì Thiên nữ đa dục và dục lạc cõi trời thù thắng hừng hực. Họ lại đến một con sông có đầy thức uống ngon, tùy theo dòng nước mà có màu sắc, mùi vị khác nhau, ai uống vào thì không say. Thức uống đó được gọi là hoan hỷ, vì Thiên nữ uống vào thì lòng rất vui mừng. Lại có thức uống ngon tên là Năng quán, vì khi uống vào thì quan sát thấy tất cả các khu rừng và vô lượng ngọn núi cõi trời. Lại có thức uống cõi trời tên là Chúng vị, vì có rất nhiều thức uống, uống vào sắc lực càng tăng thêm gấp bội. Uống xong Thiên nữ lại vào vùng đất có thức ăn. Vì những nghiệp đã gây có thượng, trung, hạ nên được quả báo cũng như vậy, đầy đủ các thức ăn thơm ngon, sang đẹp. Ăn uống xong họ vào vùng âm nhạc, vui chơi trong núi. Nhạc cụ bằng lưu ly, dây đàn bằng vàng ròng, trống bằng các vật báu, ống tiêu, ống địch bằng mã não, các báu lẫn lộn và có vô lượng âm thanh của các Thiên nữ. Lại có vô lượng, vô số âm nhạc như Càn-thát-bà. Các Thiên nữ trang sức, mang nhạc cụ khắp người, vui chơi hưởng lạc. Có đủ tiếng nhạc cung thương thật hòa nhã, nhạc lời dao hưởng nhau làm tăng thêm dục lạc. Ca hát xong, họ đến vùng có tiếng linh. Ở đó, khi có gió thổi nhẹ những lưới linh phát ra vô lượng trăm ngàn âm thanh tuyệt diệu, làm cho người nghe vui vẻ. Họ ca múa vui chơi, trang sức thân bằng các vật báu đẹp. Sau đó, họ lại đến ao hoa sen có đầy chim chóc. Chim chóc ở đây trang sức bằng vàng, bạc… các vật báu. Các Thiên nữ vào đây vui chơi hưởng lạc. Họ hái hoa vàng để vui đùa, tung hoa cho nhau tâm không ganh ghét. Họ nô đùa bằng đủ cách, lời lẽ rất hay. Họ lại vào trong nước tám công đức vui chơi, đã vui chơi thì càng tăng thêm dục vọng, lòng dục khó thỏa mãn, đắm đuối trong cảnh dục không biết nhàm chán, rồi họ lại đến rừng Kính thọ. Ở đó, họ thấy thân mình trang sức lộng lẫy, đầy đủ công đức. Họ thấy đủ hình sắc trong cây gương càng thêm buông lung. Vì sao? Vì bản tánh của người nữ có ba sự buông lung:

  1. Ỷ vào sắc đẹp của mình mà buông lung.
  2. Ỷ vào chồng mình mà sinh buông lung.
  3. Do kiêu ngạo mà sinh buông lung.

Thấy sắc đẹp của mình mà khinh khi người nữ khác. Bỏ khu rừng này, họ lại đến rừng Nhất thiết thời. Rừng này một ngày có đủ sáu thời liên tục không gián đoạn giống như bánh xe lăn và được trang trí bằng sáu thời đó. Các loài chim tùy theo thời gian của rừng này mà có vô lượng màu sắc khác nhau. Họ vui chơi trong đó không có ganh ghét, tâm luôn vui vẻ. Thấy vậy họ tự ý vào rừng này vui chơi thọ lạc theo thời. Có các loài chim theo thời tập hợp cùng Thiên nữ vui đùa hưởng lạc. Họ ở trong rừng này thọ hưởng năm thứ dục lạc không nghĩ đến khu rừng khác. Khi ấy Đế Thích đến khu rừng này, các Thiên nữ hoan hỷ ca múa, bày trò chơi, cung cấp hầu hạ Đế Thích.

Khu rừng thứ nhất của Đế Thích có đầy đủ các công đức như vậy.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Hãy quan sát khu rừng thứ hai của Đế Thích. Nó có mấy loại? Tên gì? Dùng văn tuệ biết khu rừng của Đế Thích tên Nhất thiết du hý. Rừng ấy có những công đức gì? Vị ấy thấy, nghe, biết được rừng ấy vốn có tên là Nhất Thiết. Trong rừng này, có nhiều Thiên tử cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc, trăm ngàn Thiên nữ mặc tình vui chơi. Ở nơi vui chơi có tám vạn bốn ngàn xe đi, bánh xe bằng báu lưu ly, dây linh bằng vàng Diêm-phù-đàn, lưới bằng bạch ngân che bên trên trang sức bằng bảy báu. Thiên tử thứ nhất, có người cỡi ngựa, có người cỡi thiên nga, người đi trên hư không, người đi trên mặt đất, có người trổi nhạc, có người ca hát, vây quanh Đế Thích, đến chỗ vui chơi. Có tám vạn bốn ngàn voi mạnh, lưới vàng bao thân, trang trí linh báu, phủ nệm êm lên lưng. Khi voi nghĩ đến dục vọng thì má voi nở ra, nước thơm chảy ra. Vị trời thù thắng nhất cỡi con voi mạnh này, chiêm ngưỡng Đế Thích, vây quanh đến chốn vui chơi. Có tám vạn bốn ngàn Thiên nữ trang sức lộng lẫy, chiêm ngưỡng Đế Thích, hoặc ca múa, hoặc trổi nhạc trời, bày các trò chơi, đến chỗ vui chơi. Có tám vạn bốn ngàn Thiên nữ trang sức xinh đẹp, trổi các thứ kỹ nhạc, ca múa, vui chơi cùng Đế Thích, chiêm ngưỡng Đế Thích. Thiên hậu Xá-chi đi xe ngàn căm bằng bảy báu. Xe ấy được trang trí bằng các vật báu như vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, châu thiên thanh, châu đại thanh, có trăm ngàn con thiên nga kéo. Thân thiên nga bằng vàng Diêm-phùđàn, chân bằng san hô, mắt bằng xích bảo, thân bằng xích liên hoa bảo, mỏ bằng san hô, cánh bằng chân châu. Khi Đế Thích nghĩ là có ngay. Đế Thích ngồi trên xe đó, thân thể trang sức các vật báu, oai đức rực rỡ hơn ánh sáng của trăm mặt trời cùng lúc chiếu soi khắp nơi. Đế Thích cùng Thiên hậu Xá-chi, người trang sức lộng lẫy gấp trăm lần các Thiên nữ khác, đến nơi vui chơi, hai vị ngồi chung một tòa. Chư Thiên thọ hưởng dục lạc về sắc, thanh, hương, vị, xúc. Họ cùng thiên chủ cõi trời Tam thập tam đến rừng Nhất thiết lạc. Các Thiên chúng vây quanh Đế Thích và Thiên hậu Xáchi như đã nói ở trước. Họ hưởng vô lượng trăm ngàn hoan lạc, đi xe voi mạnh có các đại thần hầu hạ, trổi nhạc làm vui Đế Thích, đến rừng Nhất thiết lạc vui chơi hưởng lạc. Lúc sắp đến, các Thiên nữ đang ở đó, nghe âm nhạc cõi trời, tay cầm hoa sen, trổi nhạc ra nghênh đón Đế Thích. Thấy vậy, Đế Thích bảo Thiên chúng: Các Thiên nữ ở trong rừng Nhất thiết này, trang sức các vật báu đủ các âm thanh, nay ta cùng họ vui chơi trong rừng. Nghe Đế Thích nói, Thiên chúng thưa:

–Thiên vương! Các Thiên nữ này là những người hầu hạ ngài, thuộc sở hữu của ngài, xem ngài là chủ.

Đế Thích nói:

–Các Thiên nữ không phải là người hầu hạ ta, không thuộc sở hữu ta, không phải do nghiệp lực ta, vì nghiệp lực của họ, theo nghiệp thọ thân, tùy nghiệp lực mà có thân thượng, trung, hạ, vì thế các Thiên nữ có thượng, trung, hạ, không phải do oai lực của ta.

Lúc ấy Đế Thích nói kệ:

Hạ nghiệp được hạ báo
Thành tựu cõi chúng sinh
Trung nghiệp, được trung báo
Thượng nghiệp thành trượng phu.
Người đã tạo ra nghiệp
Theo nghiệp thọ quả báo
Người ấy luôn tạo nghiệp
Thọ báo ngay thân này.
Đi xe đẹp cõi trời
Vui chơi thọ diệu lạc
Người này được quả lành
Vì thắng nghiệp thanh tịnh.
Trượng phu tạo các nghiệp
Hoặc thiện hoặc bất thiện
Đến khi thọ quả báo
Hoặc khổ hoặc an vui.
Quả báo diệu lạc này
Cùng các sự vui chơi
Vốn chẳng phải do ta
Do nghiệp trước của họ.

Nghe Đế Thích nói kệ, các Thiên chúng đều tùy hỷ chắp tay vâng lãnh, đến rừng Nhất thiết lạc, muốn cùng nhau vui chơi. Có trăm ngàn Thiên nữ tay cầm hoa sen, trang sức lộng lẫy. Các Thiên nữ ấy, hình dáng, sắc tướng đều giống nhau, giọng ca cũng vậy. Đó là do nghiệp thiện hóa sinh. Họ chiêm ngưỡng Đế Thích, ca múa vui chơi, đến rừng Du hý. Rừng ấy cây bằng vật báu, lá bằng bạch ngân, mặt đất cũng bằng bạch ngân. Chim chóc sắc bạc đầy cả rừng, ca hót rất hay, Đế Thích đi trước, các Thiên nữ tuần tự đi vào. Ánh sáng của các vật báu xoay tròn trên thân, trên mặt đất, khắp cả hư không. Thấy vậy Đế Thích rất vui mừng, nghe tiếng ca Thiên nữ, tiếng cung thương hòa nhau và âm thanh nhạc trời. Có tám vạn bốn ngàn chiếc xe do voi mạnh kéo, được trang trí dây linh, phát ra tiếng tuyệt diệu, có vô lượng Thiên tử và chín mươi chín ức Thiên nữ ca tụng Đế Thích thọ hưởng năm dục lạc.

Khi ấy, Đế Thích và các Thiên nữ lại đến rừng Nhất thiết lạc, đi xe rồng lớn như đã nói ở trước. Thiên chủ Thích-ca cùng Thiên chúng kế đó vào rừng vàng. Rừng ấy lá và trái bằng vàng, nặng bằng trọng lượng năm người đàn ông, mùi vị ngọt ngon, thơm phức, ăn vào càng tăng thêm dục vọng. Con voi mạnh ăn vào, bước đi trong đắm say dục lạc, nghe âm nhạc cõi trời, nhảy múa tự vui. Thấy vậy, chư Thiên sinh tâm thán phục, ca múa khả ái, cứ ăn rồi lại nhảy múa. Trong rừng ấy lại có vô số tiếng chim, các loại chim sắc bạc, sống trong rừng vàng thật xinh đẹp.

Lúc này, thiên Đế Thích cùng Thiên hậu Xá-chi, chư Thiên khác, Thiên tử, Thiên nữ vui chơi thọ lạc. Các Thiên tử khác đều cùng ca múa vui chơi với các Thiên nữ, vì nghiệp thiện nên không sinh tâm ganh ghét. Sau đó họ lại vào rừng vàng; Rừng ấy có ao Thanh lương. Trong ao có hoa sắc vàng, lưu ly. Họ cùng tập hợp ở Thiện pháp đường, vây quanh Đế Thích, cùng vui đùa thọ lạc. Đế Thích cùng Thiên nữ, tất cả Thiên chúng ở Thiện pháp đường dừng bên ao hoa sen một thời gian lâu, tấu các kỹ nhạc, lại vào rừng Nhất thiết lạc. Rừng ấy cây cối đều bằng lưu ly, đầy trái bằng vàng mùi vị ngon ngọt như trái Ba-na-bà, đủ màu sắc hương thơm. Chư Thiên hái trái đó bổ ra uống, mùi vị của nó ngon hơn vị rượu ma-thâu thượng hạng. Họ uống nhưng không say. Cõi trời có ba sự buông lung hưởng lạc:

  1. Thiên nữ.
  2. Trái cây.
  3. Năm dục.

Nó giống như vị cơm Tô-đà cõi trời mà Thiên chủ Thích-ca ăn. Đó là do nghiệp của mình tạo thành, tất cả Thiên chúng vây quanh, vui chơi thọ lạc trong rừng lưu ly. Rừng ấy có các loài chim, ong, có lưới linh giăng bên trên. Vui chơi xong, họ cùng nhau vào Thiện pháp đường.

Khu rừng thứ ba của cõi ấy tên là Vô tỷ. Năm trăm người con của Thiên vương Thích-ca cùng các Thiên nữ vui chơi trong đó. Rừng ấy rộng lớn, họ hưởng diệu lạc gần như Đế Thích, luôn thực hành theo chánh pháp, chánh kiến không tà vạy. Nhờ chánh kiến mà họ chiến thắng A-tu-la. Họ là người cúng dường cha mẹ, cung kính Sa-môn, Bà-la-môn, hòa thuận không tranh cãi. Họ nghĩ: Nay ta đưa các Thiên nữ vào rừng Vô tỷ. Mỗi Thiên tử có một na-do-tha Thiên nữ xinh đẹp làm quyến thuộc, họ đồng lòng vui chơi thọ lạc. Khi ấy, các Thiên tử đến chỗ Đế Thích thưa:

–Thưa Thiên vương! Chúng con muốn đến rừng Vô tỷ vui chơi, xin cha hãy cho phép chúng con đến đó.

Đế Thích bảo các Thiên tử:

–Ta đã vui chơi, nay muốn hành theo chánh pháp để làm lợi ích cho mình. Hoan lạc do dục sinh ra không thể thỏa mãn, ta sẽ bỏ dục lạc, ta sợ phóng dật, sợ các độc của lỗi phóng dật, nên phải xả bỏ.

Khi ấy Đế Thích nói kệ:

Không buông lung chẳng chết
Buông lung là cõi chết
Không buông lung chẳng chết
Buông lung luôn sống chết.
Không buông lung chẳng chết
Buông lung là đường chết
Vì ta không buông lung
Được thù thắng cõi trời.
Ta tin Như Lai dạy
Người hãy tu tập pháp
Ta không dám làm trái
Giáo pháp của Đức Phật.
Ai trái lời Như Lai
Là kẻ ngu tham dục
Không thoát khỏi các khổ
Luôn chịu những buồn đau.

Nói kệ xong, Thiên vương Đế Thích vào Thiện pháp đường, các Thiên tử, con của Đế Thích rất vui mừng đều trở về cung điện của mình, trang sức vật báu, ca ngợi vui chơi, rồi trở về chỗ ở đánh trống ra lệnh, muốn đến rừng vui chơi hưởng lạc.

Khi ấy, có bảy vạn Thiên tử đi xe báu có ngựa trời kéo, cùng Thiên nữ du ngoạn trong hư không, Thiên chúng vây quanh, có vị vui chơi trong ao sen, trổi nhạc trời, ca múa vui đùa, đến rừng Vô tỷ. Bấy giờ, các người con của Đế Thích trang sức vòng hoa trời, rải hương chiên-đàn, thân sáng rực rỡ như ánh mặt trời, có vị thân sáng như ánh trăng tròn, có vị như các ngôi sao. Đó là do nghiệp lực của họ. Họ đến rừng Vô tỷ sinh tâm ái luyến không thôi. Họ vào đó hưởng bao thứ hoan lạc cõi trời. Rừng ấy xinh đẹp không sao ví dụ được. Khi vào rừng, hương thơm sực nức mà hương ngưu đầu chiênđàn không bằng một phần mười sáu, ngửi hương ấy thì sinh tâm thán phục. Vì tìm diệu lạc, họ lại vào rừng thức uống. Nhờ nghiệp thiện, họ tuần tự đi vào rừng. Rừng ấy, cây bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê với trăm ngàn màu sắc lẫn lộn màu sắc của cây rực rỡ kỳ diệu như tơ lụa năm màu. Các Thiên tử nhìn vào chúng như gương sáng, vô lượng trăm ngàn người từ bốn phía nhìn vào rất vui mừng. Các Thiên nữ vây quanh nghe âm nhạc càng vui mừng hơn. Họ lại đến nơi khác nô đùa vui chơi. Chim chóc trong rừng ấy, cánh bằng vàng ròng, ức bằng lưu ly, chân bằng san hô, lưng bằng bạch ngân, mắt bằng xích chân châu, chúng hót tiếng rất hay. Nghe tiếng chim các Thiên tử bảo nhau: “Lắng nghe! Lắng nghe! Tiếng của các loài chim tạo nên vô lượng âm khúc chẳng khác gì tiếng của Thiên nữ”. Nghe xong, họ lại đến khu rừng khác vui chơi thọ lạc. Họ thấy trong các ao có hoa sen ngàn cánh, sáng rực như mặt trời. Ao ấy được trang trí những thứ như đã nói ở trước. Họ cùng các Thiên nữ vây quanh ao hoa ca múa vui chơi thọ lạc. Lại cùng các Thiên nữ đến khu rừng khác. Trong rừng ấy có sông, suối, trong sông có các loại nước như sữa, nước uống, nước ngọt để các Thiên tử uống; lại có ong, chim, vàng, bạc, san hô, đá quý nhiều màu. Thiên tử, Thiên nữ nô đùa vui chơi trong rừng, hưởng năm dục lạc một thời gian dài. Sau đó họ lại đến rừng cây hoa. Hoa của rừng này không héo, hương thơm xông khắp mười do-tuần, nào là hoa Nguyệt quang minh, hoa Nguyệt sắc, nào là hoa Bạch sắc, hoa Thanh lương mát mẻ như sắc sao. Họ lại đến rừng cây ăn trái. Rừng ấy có các loại trái cây như Mật bát, Tân vị, Nhu nhuyến, Hương man, Lục vị, Như ý, Vô yểm túc. Họ chỉ ngửi hương thơm là no lòng. Trong rừng Vô tỷ có đủ các loại trái này. Đó là do nghiệp thiện sinh ra. Họ vui chơi thọ lạc, ăn uống trong rừng này. Lại đến rừng chim múa. Các loài chim trong rừng ấy nô đùa nhảy múa, hót tiếng rất hay. Nghe tiếng chim, Thiên tử cảm thọ hoan lạc. Lại đến rừng Tạp sắc, rừng ấy có các loại hoa màu sắc khác nhau như đã nói ở trước, chim chóc, sông ao cũng như vậy, nên gọi là Tạp lâm. Họ ở trong rừng này thọ hưởng năm dục, nghe âm nhạc Cànthát-bà. Thọ hưởng hoan lạc một thời gian lâu. Thiên vương Thích-ca suy nghĩ: Các con ta tha hồ thọ hưởng hoan lạc khắp nơi, không biết bị thoái đọa.

Lúc này, các người con biết được tâm niệm của Đế Thích, họ liền đến chỗ Đế Thích. Các Thiên nữ đều trở về cung của mình, vui chơi thọ lạc.

Bấy giờ, Đế Thích thấy các Thiên tử, liền nói kệ:

Tìm cầu các cảnh giới
Tâm ái khó thỏa mãn
Lìa ái là biết đủ
Người này không buồn lo.
Người nào ái cảnh dục
Là không được an vui
Cảnh giới như chất độc
Đời sau chịu khổ đau.
Dù trước, giữa và sau
Hiện tại hay vị lai
Tìm vui chẳng có được
Sau phải chịu khổ đau.
Tất cả pháp thế gian
Tăng trưởng sự sinh tử
Trôi lăn mãi không ngừng
Hòa hợp phải chia ly.
Không ai tránh khỏi được
Vui bị khổ che lấp
Vô lượng sự dối gạt
Chúng sinh bị si lừa.
Vui chơi trong ái dục
Tất cả người si ái
Chưa bao giờ biết đủ
Cảnh giới khó thỏa lòng.
Như thêm củi vào lửa
Chúng sinh bị ái gạt
Cũng thật khó biết đủ
Dù gần kề cõi chết.
Vẫn không biết chán xa
Bị cảnh ái dối gạt
Không tìm tư lương thiện
Thiên đọa, mất uy lực.
Bị tham ái lường gạt
Nay ta răn dạy con
Con bị dục mê hoặc
Hãy làm lợi ích mình.
Pháp là đạo Tối thượng
Ai thực hành giáo pháp
Từ vui được quả vui
Người tu tập như vậy.
Đạt Niết-bàn tịch diệt
Vì thế hãy tu phước
Để tìm vui Niết-bàn
Ai thường xuyên tu phước.
Đạt đến nơi bất diệt
Thiên nghe Đế Thích nói
Tâm tịch tĩnh, điều thuận
Các con của Đế Thích
Vâng lãnh lời cha dạy.

Dạy trách các người con để họ thuận theo chánh đạo tu tập nghiệp thiện, đóng cửa đường ác xong, Đế Thích đến rừng Tạp sắc vui chơi thọ lạc. Đó là do nghiệp thiện sinh ra. Thiên vương Đế Thích có năm trăm cung điện, có các loại báu như pha lê, san hô, vàng bạc, thiên thanh bảo vương, thiên đại thanh bảo. Thấy các rừng cây được trang trí bằng hoa sen đẹp như mặt trời mới mọc, Đế Thích nói kệ:

Tạo phước ở cõi người
Có vô số phương cách
Làm nhiều việc phước đức
Tất cả đều thành tựu.
Không tạo các nghiệp lành
Bị oán tâm dối gạt
Thoái đọa mất quyền lực
Đọa vào nơi cực ác.
Tất cả các cung điện
Đều do nghiệp trang sức
Nhờ nghiệp thiện tăng trưởng
Được quả báo trời, người.

Nói kệ xong, Đế Thích đến cung điện khác. Điện ấy bài trí vô lượng tòa báu mềm mại tốt đẹp. Đó là do nghiệp thiện hóa sinh. Thấy cung điện ấy, Kiều-thi-ca ở lại thọ hưởng mọi diệu lạc. Lại đến cung điện bằng bạc, điện ấy được trang trí vô lượng hoa đẹp, vật báu thật sáng rực. Có vô lượng Thiên nữ vui chơi thọ lạc. Các Thiên nữ lại đến khu rừng khác, mặt đất mềm mịn, được trang trí các loại hoa. Rừng này rộng lớn có nhiều chim vàng hót tiếng rất hay, các loài ong bay quanh cây Như ý. Thiên vương Thích-ca đưa mắt nhìn khắp nơi, Thiên chúng vây quanh vui chơi thọ lạc, thân hình oai nghiêm, sáng hơn mặt trời, mặt trăng. Trong rừng vàng có điện lưu ly, trang trí các trụ báu, các ao sen trang trí bằng báu xanh. Khi ấy thiên Đế Thích nghĩ: “Ta vào điện báu vui chơi, thọ lạc”. Chư Thiên cũng nghĩ: “Thiên vương muốn vào rừng cùng vui chơi thọ lạc với quyến thuộc, Thiên nữ”. Biết được ý nghĩ của chư Thiên, Đế Thích bảo các Thiên tử: “Các con hãy vào rừng vui chơi”. Nghe lời cha dạy, các Thiên tử vào ao hoa cùng vui đùa với các Thiên nữ. Thiên vương vào điện, ngồi trên giường lưu ly sạch. Đó là do nghiệp thiện. Điện ấy trong sạch như gương sáng. Nhìn vào vách tường sạch, họ thấy được tất cả tên gọi, hình tướng, sự thoái đọa của chư Thiên vương ngày xưa. Đó là các vị Thiên vương: Bát-phù-đa, Tự Tại, Vô Ưu, Chánh Tuệ, Nhất Thiết Lạc, Thiện Trụ, Phổ Minh, Nhất Thiết Ái, Thiên Kiến, Oai Đức, Trì Đức, Thanh Sắc, Bất Thoái, Như Huyễn, Trai Giới, Phước Đức, Chư Du Hý, Thi-la, Kiều-thi-ca… nhờ nghiệp thiện, họ thấy được ba mươi ba vị Thiên vương. Các Thiên vương ấy khi nghiệp lành đã hết, bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Sinh vào nơi nào cũng chịu nhiều khổ não. Nhìn trên vách, thấy họ đọa vào địa ngục chịu nhiều khổ não, đọa vào ngạ quỷ chịu khổ đói khát, đốt thân khô gầy chỉ còn da bọc xương, đọa vào súc sinh tàn hại lẫn nhau, chịu khổ não lớn. Sinh vào cõi người chịu khổ theo nghiệp. Thấy các đường sinh tử không có nơi nào đáng vui, trong đường sinh tử đầy dẫy tội lỗi, không bền chắc, bị vô thường biến đổi phá hoại. Các Thiên vương ấy đều bị thoái đọa vì nghiệp quả, họ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cớ sao lại bỏ những hoan lạc như vậy mà chịu những khổ não ấy. Làm sao có thể chịu đựng được! Lạ thay! Sinh tử thật là khổ não lớn. Có thể đưa trời, người đến chỗ kinh sợ. Những vị Thiên vương đứng thứ hai chịu khổ não này. Thiên vương Thích-ca – người thù thắng nhất – thấy những việc ấy rất chán ghét, tự quán sát thân mình, đóng ba đường ác, chết ở cõi trời thì sinh vào cõi người, chết ở cõi người thì sinh lên cõi trời. Nếu sinh vào cõi người thì sinh vào nhà quý tộc, trong làng xóm, đất nước an lạc và nơi thực hành chánh pháp, bỏ tà kiến, kiêu mạn, nịnh nọt. Lại thấy mình sinh trong cõi người làm con của vua, hoặc làm con của đại thần, trong nhà chánh kiến, giàu sang, có quyền lực. Chết ở cõi người thì sinh vào cõi nào nữa? Lại thấy mình sinh lên cõi trời, đầy đủ đại thần thông, sáng suốt nhất, nhưng lại ăn thức ăn tạp với Thiên chúng khác nên lấy làm xấu hổ. Đó là do phước mỏng, tùy theo nghiệp của mình tạo ra mà có thức ăn. Về sau lại sinh vào nơi không có thức ăn ngon. Hổ thẹn quá Đế Thích suy nghĩ: Ta phải chịu quả báo này trong bao nhiêu đời? Nhờ nghiệp thiện Đế Thích nhìn vào vách điện thấy mình bảy lần sinh lên cõi trời, bảy lần sinh trong cõi người. Chỉ qua lại bảy lần thôi, không có thọ sinh lần thứ tám, không sinh trong cõi trời, cõi người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đế Thích nghĩ: Vì sao ta lại không sinh vào nơi nào nữa cả? Ta sinh vào nơi nào sao ta không thấy được? Đế Thích kinh hãi, vì sao ta không thọ sinh lần thứ tám? Suy nghĩ một hồi lâu, Đế Thích tự nhớ: Ngày trước ta nghe Đức Thế Tôn nói rằng: Người chứng quả Tu-đà-hoàn, sau bảy lần thọ sinh sẽ nhập Niết-bàn Vô dư, ta ắt cũng như vậy. Đế Thích liền đảnh lễ Thế Tôn bằng tâm thanh tịnh, phát tâm hoan hỷ, ngồi trên tòa vàng, giường ghế bằng vàng Diêm-phù-đàn, trang trí các vật báu. Đế Thích nhìn trên vách thấy các vị Thiên vương xưa bị thoái đọa, lại nghĩ đến Thiện pháp đường thấy các Thiên chúng tạo lợi ích cho chư Thiên.

Khi ấy, Đế Thích đứng lên, đi đến rừng Tạp sắc, cùng các Thiên tử, Thiên nữ vui chơi, thọ hưởng năm dục lạc. Trong rừng có các loài chim, hoa sen. Thấy vậy chư Thiên trổi nhạc Càn-thát-bà, đến chỗ Đế Thích, đảnh lễ vây quanh Đế Thích. Thiên tử, Thiên nữ vui chơi đủ cách. Chư Thiên ở Thiện pháp đường trang sức lộng lẫy, cùng các Thiên nữ vây quanh Đế Thích, trổi các kỹ nhạc, đến Thiện pháp đường, ai nấy đều hoan hỷ ca múa vui vẻ. Khi ấy chư Thiên ở Thiện pháp đường đi theo cung phụng Đế Thích, trổi các thứ âm nhạc, ca múa rất hay. Chư Thiên ở trụ xứ khác nghe tiếng nhạc này đều đến Thiện pháp đường, cúi đầu đảnh lễ Thiên vương, đi nhiễu quanh. Vô lượng trăm ngàn người đến Thiện pháp đường đều là những người ca múa giỏi, trang sức đẹp. Đó là nhờ nghiệp thiện. Do khéo hộ trì giới cấm nên được sinh lên cõi trời, hưởng quả báo lớn, thành tựu tất cả quả vui của chư Thiên. Thiện pháp đường ấy rộng năm trăm do-tuần, màu sắc sáng đẹp như khối dung kim, trang trí cây lưu ly, các loại hoa báu bao quanh, hương xông khắp năm dotuần, hoa luôn tươi như mới nở, khiến cho lòng người tham ái dục lạc, không biết nhàm chán. Chư Thiên cung phụng Đế Thích như vậy, chín mươi chín na-do-tha Thiên nữ theo Đế Thích vào điện hoan hỷ. Điện ấy trang trí các trụ báu lưu ly, xa cừ, giường ngồi mềm mại, trải bằng tấm y cõi trời. Thiên vương Thích-ca bảo họ an tọa, chư Thiên vâng lời đều an tọa.

Khi ấy, Thiên đế Thích nói với chư Thiên:

–Nhờ nghiệp thiện được sinh lên cõi trời này, nghiệp hết thì bị thoái đọa, do nghiệp quả được sinh lên cõi trời này, ta ở đây cũng sẽ bị thoái đọa, phải tự cố gắng tìm sự an ổn.

Nghe Thiên đế Thích nói vậy, chư Thiên thưa:

–Thưa Thiên vương, chúng ta được ở nơi an vui là do nghiệp thiện nên không dám sống phóng dật. Thưa Thiên vương, nhờ nhân duyên gì ta không bị thoái đọa?

Đế Thích nói với chư Thiên:

–Những nơi thọ sinh trong tám phương, trên, dưới đều là hữu vi, bị vô thường hủy hoại, đừng tham đắm mà cho rằng bảo tồn được, nó là phiền não bất tịnh, sau đưa đến khổ đau, không sinh pháp lạc, không đưa đến trí tuệ, không phải là chánh hạnh. Suy nghĩ như thế sẽ chịu khổ lớn. Các Thiên tử, các ông đã trải qua vô lượng kiếp sinh lên cõi trời này, tuổi thọ hết thì bị thoái đọa, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Lại nhờ nghiệp thiện được sinh lên cõi trời này, thọ quả báo của nghiệp mình, hưởng diệu lạc cõi trời, bị nghiệp huyễn lừa dối, lại đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì thế, các Thiên tử, không nên phóng dật. Những gì ta nói chính là pháp của hằng hà sa chư Phật. Nghe được pháp này sẽ giải thoát khỏi sinh tử. Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi, khổ não. Như vậy là sự tập hợp của các khổ lớn. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, ưu bi, khổ não diệt. Như vậy là sự tiêu diệt các khổ lớn. Cứ thế sinh tử xoay tròn trong cõi trời. Thấy vậy, nên sinh tâm nhàm chán, phiền não chấm dứt, không bị hủy hoại, không sinh, già, chết, không đoạn tận, đó là Niết-bàn. Các Thiên tử! Ai hiểu được như vậy thì thoát khỏi sinh tử. Trong sinh tử không có pháp: Không sinh, thường trụ, không thể phá hoại, không đoạn tận, không hoại diệt. Trong sinh tử chỉ có pháp sinh diệt thoái đọa.

Nghe Thiên đế Thích nói pháp này, các Thiên tử, những người nào đã tu hành trong chánh pháp của chư Phật thời quá khứ thì không phóng dật nữa, tin Phật, Pháp, Tăng, nhất tâm thanh tịnh, gieo nhân Niết-bàn. Còn những Thiên nhân nào không tu tập trong chánh pháp của chư Phật thời quá khứ thì buông lung, tán loạn bị ái lừa dối, thọ hưởng năm dục lạc. Vì ái lừa dối mà chịu vô lượng khổ não theo sinh tử.

Lúc Thiên đế Thích nói pháp ấy, Tứ Thiên vương Hộ thế suy nghĩ:

–Hiện giờ Thiên vương Thích-ca và Thiên chúng ở đâu?

Vừa nghĩ thế, họ thấy Thiên vương ngồi ở cung trời, oai đức rực rỡ, Thiên chúng vây quanh thọ hưởng diệu lạc.

Khi ấy, Tứ Thiên vương đến chỗ Đế Thích trong Thiện pháp đường, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi qua một bên. Một lát sau, họ đứng dậy trước, thưa với Đế Thích:

–Thưa Thiên vương, người cõi Diêm-phù-đề thực hành thập thiện đạo, tùy thuận pháp hành, hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính Samôn, Bà-la-môn, các bậc Kỳ túc trưởng lão. Mong Thiên vương đem đến sự vui vẻ cho họ.

Thiên đế Thích nói với Hộ thế:

–Ta cũng tùy hỷ, Thiên vương Hộ thế làm lợi ích cho thế gian, khiến họ thức hành pháp lành. Nghe vậy, ta rất vui vẻ, ông lại được nghiệp lành, người cõi Diêm-phù-đề tùy thuận pháp hành.

Thiên vương Hộ thế thưa với Đế Thích:

–Người cõi Diêm-phù-đề không tùy thuận pháp hành, không hiếu dưỡng cha mẹ, không cung kính Sa-môn, Bà-la-môn và bậc Kỳ túc trưởng lão thì tăng trưởng quân ma, tổn giảm chánh pháp.

Nghe vậy, Đế Thích bảo chư Thiên cõi trời Tam thập tam và Tứ Thiên vương:

–Hãy mau sửa soạn để chiến đấu với A-tu-la vương, Đề-la Dũng Kiện Bát-ha-sa vương, phi pháp não loạn Long vương ác sống ở dưới biển.

Nghe Đế Thích dạy, Tứ Thiên vương Hộ thế trở về bốn cõi trời, đến núi Nhạo kiến, chuẩn bị khí cụ như đã nói ở trước.

Bấy giờ, Thiên vương Đế Thích, Thiên vương Hộ thế cùng vô lượng Thiên chúng vây quanh, mặc áo, đeo vòng hoa trời, đưa các Thiên nữ đến núi Nhất thiết chủ. Họ vây quanh núi Tu-di giống như các sao bao quanh mặt trăng, như ánh sáng mặt trời ở giữa các sao, như trăm ngàn núi vàng bao quanh núi Tu-di, có các cây báu như vàng, bạc, lưu ly, nhân-đà xanh, xích liên hoa trang trí. Nơi Đế Thích vui chơi có nhiều loài chim hót tiếng rất hay. Voi chúa trắng Y-la-bà-na vui chơi ở ao sen trời. Hoa sen ấy sắc hoàng kim, cọng bằng lưu ly. Con voi ấy cùng các voi cái vui chơi ở đó như trước đã nói.

Tuy là súc sinh nhưng cũng thọ hưởng diệu lạc cõi trời.

Khi ấy, Thiên đế Thích đến chỗ con voi vỗ về nó, vui cười nói:

–Con voi trắng này có thể giúp ta đánh thắng A-tu-la.

Nói xong, Đế Thích lại đến núi Nhất thiết chủ, lên điện Vô ưu, cùng các Thiên tử và chín na-do-tha Thiên nữ vui chơi, thọ hưởng năm dục lạc. Nơi mà các Thiên chúng trổi nhạc vui chơi được trang trí rất đẹp đẽ. Họ thọ hưởng quả báo đến khi nghiệp thiện hết, quả báo vui hết, ở Thiện pháp đường họ qua đời, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác, được sinh trong cõi người, luôn thọ hưởng an lạc, thông minh trí tuệ, cùng sống trong một xóm làng, thành ấp, được làm người đứng đầu, hoặc làm người thân, anh em, bạn bè, luôn được an lạc, là nhờ dư báo. Riêng Thiên vương Đế Thích đã đóng ba đường ác, quán xét sự thoái đọa của chư Thiên, Đế Thích nói kệ:

Vườn rừng, ao hoa sen
Núi non ở cõi này
Đều nguy nga, xinh đẹp
Rộng lớn, nhiều châu báu.
Tất cả ao hoa sen
Trang trí bằng đá quý
Vườn cây có nhiều hoa
Chim chóc cùng tập hợp.
Cây vàng, cây Như ý
Trong sạch như lưu ly
Được trang trí bằng bạc
San hô… các vật báu.
Ong, bướm thật rộn rã
Ở trong ao hoa sen
Lầu báu rất rộng lớn
Nguy nga, lại xinh đẹp.
Trang trí thật kỳ diệu
Chư Thiên được cung phụng
Những vẻ đẹp như vậy
Làm trời, người luân hồi.
Chúng như huyễn, bọt bóng
Như thành Càn-thát-bà
Bị ái, ngũ dục dối
Hoan lạc trời cũng thế.
Ái tổn hại chúng sinh
Trôi trong biển sinh tử
Ái độc như lửa dữ
Hoại diệt các chúng sinh.
Tham dục không nhàm chán
Tìm mãi, chẳng nghỉ dừng
Bị lửa vô thường đốt
Chẳng biết đi về đâu.
Chúng sinh đều như thế
Bị ái độc lừa dối
Ái nhiễm che chúng trời
Chẳng biết khi bị đọa.
Trời, người, A-tu-la
Địa ngục, rồng, Dạ-xoa
Tất cả đều không thoát
Sự thay đổi sát-na.
Chúng sinh trong ba cõi
Bị lưới thời gian phủ
Không biết chẳng thoát được
Sự mê hoặc của ái.

Thấy cõi trời vô thường, có sinh diệt, Đế Thích nghĩ về pháp đệ nhất, nói kệ khen Phật:

Kính lạy Đức Thế Tôn
Lợi ích các chúng sinh
Phân biệt cho chúng biết
Dạy: Ái như độc hại.
Hiểu rõ tất cả pháp
Trí tuệ không ngăn ngại
Lìa hiểu biết của trí
Không có pháp thứ ba.
Vô thường, khổ và không
Cũng chẳng có tạo tác
Như Lai biết chắc thật
Nói cho các chúng sinh.

Với tâm thanh tịnh khen ngợi Đức Phật rõ ràng như dấu ấn vào vật, Đế Thích trở về chỗ ở, thọ hưởng diệu lạc.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai tên là Sơn phong. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh dạy người giữ giới, cho đến trong một ngày một đêm không giết hại chúng sinh, không trộm cướp, không phạm pháp luật của vua, dù là tội nhỏ cũng không cố ý phạm. Sau khi qua đời, vị ấy sinh lên cõi Sơn phong thứ hai. Đất ấy mềm mại, trên ngọn Tu-di, được trang trí bằng các vật báu sáng rực. Ở đây, họ thấy tất cả các chân núi Tu-di được trang trí bằng vật báu như vàng, bạc, lưu ly và có vô lượng áo trời, vòng hoa trời sáng đẹp như ánh sáng khối dung kim. Vị ấy cùng các Thiên nữ vui chơi ở đó, lại đến những dòng sông ăn uống như:

  1. Thiên thiện vị.
  2. Đại sử lưu.
  3. Lưu hành.
  4. Đại lưu.
  5. Khúc lưu.
  6. Tuấn man.
  7. Thiên lưu.
  8. Như ý.

Uống nước những con sông này không bị say. Tất cả các thức uống đều từ sông lưu xuất, đủ các mùi vị, màu sắc: Màu sữa, báu đỏ, ngọc báu xanh, lưu ly, hoàng kim hoặc màu sắc lẫn lộn, thoảng hương thơm, lặng trong, tràn đầy. Lại có thức ăn cõi trời đủ mùi vị, hương sắc ngọt ngào, thơm sạch vừa ý. Chư Thiên muốn mùi vị gì là có mùi vị ấy. Có các vườn rừng đầy hoa thơm, chim chóc đủ màu để trang trí. Họ cùng các Thiên tử vui chơi trổi nhạc, ca múa nô đùa ở đó, thật thích ý. Có nhiều vườn rừng như Bà-la, Đại Bà-la, Như ý thọ, Thường hoa hương, Như ý phong. Thân tiếp xúc rất vui vẻ. Cành cây bằng vàng, lưới linh che bên trên, trăm ngàn loài chim hót tiếng rất hay. Họ cùng vui chơi thọ hưởng năm dục lạc, không bệnh buồn, không đói khát, thân không mệt mỏi, không mưu sinh, mặc tình vui chơi trong các khu vườn, ao hoa sen, thấy sắc đẹp, thọ hưởng năm dục. Họ dừng lại trên đỉnh Sơn phong, thân hình sáng rực, lớn nhỏ tùy ý, thần thông tự tại, muốn gì được nấy, được rồi không mất, không ai cướp đoạt được. Họ dừng trên núi hưởng mọi hoan lạc của nghiệp mình. Đến khi nghiệp thiện giữ giới không sát sinh, không trộm cướp hết, vị ấy bị thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người được sống trong hang núi, có nhiều của cải, khôi ngô tuấn tú, vườn rừng tươi tốt, lạnh nóng điều hòa, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, quan sát trụ xứ thứ ba của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ ấy tên là Sơn đảnh. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh giữ hai chi giới, thấy chúng sinh bị trói nhốt, liền cởi trói để họ chạy thoát. Lúc đi trong đồng vắng bị đói khát thiêu đốt nhưng không hái trộm trái cây của người khác, dù có sức mạnh cũng không cướp nước uống thức ăn của người khác. Nhờ nhân không sát sinh lại phóng sinh đó, sau khi qua đời, vị ấy sinh lên trụ xứ Sơn đảnh của cõi trời Tam thập tam, thọ hưởng vô lượng diệu lạc. Ở đó có vô lượng dòng nước, đó là dòng xoáy dục, bờ hy dục, người hoan hỷ nghĩ đến là làn sóng lớn nổi lên. Trong sông ấy có nhiều loài chim, có sắc, hương thơm, vị ngon, các loài giao long tham đắm dục lạc, uyển chuyển qua lại, thuyền bè làm bằng bọt nước, vườn rừng ganh ghét. Hang núi có vô lượng cảnh đẹp. Chư Thiên chìm đắm trong dòng sông ái ấy không thể nào thoát khỏi. Họ lưu chuyển từ vô thỉ, không được giải thoát, trôi mãi không ngừng, tập khí càng sâu, đi trong ba đường, trôi nổi khắp ba cõi: Dục, Sắc, Vô sắc, sinh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não là do thế lực của dòng sông ái ấy. Người đời cũng không vượt qua được dòng sông ái này. Chư Thiên ở Sơn đảnh trôi trong dòng sông ái, cùng các Thiên nữ vui chơi thọ lạc. Ở đó có sáu khu rừng:

  1. Thường hoan hỷ.
  2. Thường du hý.
  3. Bạch vân tụ.
  4. Phổ lạc.
  5. Như nguyệt.
  6. Hằng hà.

Các khu rừng này được trang trí ở Sơn đảnh. Họ vui chơi ở đó, hưởng vô lượng diệu lạc. Sau đó họ lại đến các dòng sông uống như: Chất-đa-la, Thủ xúc chi, Vô yểm túc, Tạp sắc thủy. Hai bên bờ sông có cây bằng vàng, bạc, pha lê, đầy đủ hoa trái thật đáng yêu thích. Đó là nhờ nghiệp thiện. Các dòng sông của chư Thiên ở cõi này lưu xuất các thức ăn uống thơm sạch, hàng ngàn chư Thiên vui chơi thọ lạc, mặc áo trời mịn đến nỗi không thấy sớ vải, thân hình sáng rực, không có xương cốt, đi đứng thư thái, ca múa vui chơi. Đến khi nghiệp thiện hết, những nghiệp thanh tịnh của thân, ngữ, ý hết, nghiệp đưa đến quả báo vui hết, từ cõi trời vị ấy bị thoái đọa, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu được sinh trong cõi người, luôn được an lạc, có nhiều của báu, thích tu trí tuệ, vui chơi ca múa, sinh trong nước có nhiều cao nguyên, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ tư của cõi này tên là Thiện kiến. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh tu hành, giữ giới, cứu người bị chìm để họ thoát nạn nước, đem tiền chuộc người sắp bị giết, hoặc nhảy vào nước cứu người bị chìm. Nếu có kẻ ác bảo trộm cắp thì không làm theo, không trộm cắp. Cho đến khi đi trong đồng vắng bị đói khát thiêu đốt nhưng không trộm trái cây của người khác để ăn, tôn kính giới, lo sợ từng giới vi tế, không dám hủy phạm. Sau khi qua đời, vị ấy sinh lên thành Thiện kiến. Thành ấy rộng mười ngàn do-tuần, có mười ngàn lề đường, mặt đất bằng vàng Diêm-phùđàn. Có mười ngàn cung điện lớn, trang trí bảy báu xen lẫn như lưu ly, vàng Diêm-phù-đàn, bạch ngân, nhân-đà báu xanh… ở các con đường có nhiều lầu gác, điện báu sáng tỏa rực rỡ. Nếu so sánh ánh sáng mặt trời với cung điện cõi trời này thì chẳng khác nào ngọn đèn ở giữa mặt trời. Bốn mặt thành đều có vườn rừng bằng lưu ly bao bọc, lưới chân châu giăng che khắp. Lại có cây bạc, lưới vàng che bên trên, còn có cây bằng bảy báu làm nơi vui chơi. Có cây Như ý, chư Thiên muốn gì cây ấy sinh ra, có cây bằng báu nhân-đà xanh, bằng báu xanh lớn. Các loài chim sắc hoàng kim hót tiếng rất hay. Trong rừng bằng vàng có chim sắc bạc, trong rừng báu xanh có chim bằng hoa xích bảo, trong rừng xích bảo có chim tạp sắc. Các vườn rừng ấy có đủ loại chim trang trí. Tất cả con đường, ngỏ ngách ở thành Thiện kiến đều có cung điện bằng vàng ròng, cột bằng bạch ngân, trang trí cây bằng lưu ly. Lại có điện bằng vàng trụ bằng lưu ly trang trí cây bằng vàng, cung điện bằng tạp bảo trang trí các lề đường. Có các loài chim sắc hoàng kim hót tiếng rất hay vang khắp thành Thiện kiến, thật không sao nói hết. Ở đó có bốn khu rừng lớn trang trí:

  1. Vân man.
  2. Đại thọ.
  3. Quang minh âm.
  4. Nhạo kiến.

Mỗi khu rừng rộng hai ngàn năm trăm do-tuần và có một vạn dòng sông đầy hoa bằng vàng. Hai bên bờ sông được trang trí trông thật thích ý. Có các cây bằng vàng, bạc, pha lê, bảo xanh. Trong rừng có nhiều ong, thân bằng bạch ngân, cánh bằng lưu ly, âm thanh hay gấp mười sáu lần tiếng sinh, địch, tơ, trúc. Cây bằng lưu ly, trái bằng vàng ròng, hương thơm dìu dịu, vị ngọt hơn đường phèn. Hương thơm của trái cây xông khắp một do-tuần. Chim chóc ngửi được hương này càng thêm vui thích. Cây bằng vàng, trái bằng bạc, có đủ hương, vị… cây bằng lưu ly, lá bằng vàng ròng, trái bằng tạp bảo. Có vô số rừng cây bao quanh thành Thiện kiến. Nhờ nghiệp thiện được thành tựu các quả báo như ý giống như hạt giống, thọ hưởng quả báo như nghiệp. Họ sống trong thành Thiện kiến, hưởng vô lượng diệu lạc. Thành này, ai cũng thích nhìn nên gọi là Thiện kiến. Rừng ấy được trang trí bằng xích bảo, san hô, xa cừ, lưới linh trùm khắp. Chư Thiên ở thành Thiện kiến vui chơi ở đó. Cung điện ở thành này có vô lượng trăm ngàn vòng hoa, cờ phướn, lọng báu, gió nhẹ thổi động tạo ra nhiều tiếng nhạc hay. Trong thành Thiện kiến trên đỉnh núi Tu-di có nhiều Thiên tử, Thiên nữ vây quanh. Nhờ nghiệp thiện họ thọ hưởng quả báo thù thắng. Cõi đó có ba mươi sáu ức người mà Thiên vương Đế Thích biết được, họ có thần thông lớn, oai đức sáng rực, tâm luôn hoan hỷ. Vô lượng trăm ngàn Thiên tử, Thiên nữ ra khỏi thành của Thiên vương đến vườn vui chơi, có vô lượng trăm ngàn ức xe được trang trí trăm ngàn ức cờ phướn. Xe ấy có nhiều màu sắc, xe bằng báu nhân-đà xanh, bánh xe bằng xích liên hoa bảo, mọi người đi xe báu ấy. Mặt đất bằng vàng ròng, đường đi bằng lưu ly, dây giăng đường bằng xa cừ, có treo linh báu. Có Thiên tử đi xe báu, có người lên ngồi trên cung báu, nền bằng xa cừ, lưới bằng chân châu che phủ bên trên, vách bằng san hô, trụ bằng bạch ngân. Lại có Thiên tử ngồi lên điện bằng vàng, vách bằng chân châu, nền bằng xích bảo, trụ bằng bạch ngân, trang trí san hô. Tất cả những thứ ấy tạo ra ngàn ánh sáng. Có trăm ngàn cung điện thật không sao nói hết. Các Thiên chúng vây quanh, trang sức lộng lẫy. Các Thiên tử đi xe đến khu rừng. Xe ấy có cờ phướn bằng lưu ly, xích bảo, vàng ròng, xích liên hoa bảo. Có vô lượng cờ phướn rực rỡ che rợp cả hư không. Họ vui vẻ, nô đùa, đi đến bốn khu rừng kia, trổi vô lượng trăm ngàn âm nhạc, đủ các âm thanh nghe thật thích ý. Họ theo nghiệp của mình mà được quả báo thượng, trung, hạ, vui vẻ thọ lạc rồi đến vườn lớn. Mỗi Thiên tử có trăm Thiên nữ, hoặc có ngàn Thiên nữ, hoặc có cả trăm ngàn Thiên nữ ca múa vui chơi, tấu các kỹ nhạc, nghe nhạc Càn-thát-bà, lại đến vườn lớn thọ hưởng năm dục lạc. Các Thiên nữ cùng vui đùa với Thiên tử, tha hồ hưởng lạc, mặc ý tung hoành đến khắp nơi vui chơi, hoặc đi trên hư không màu sắc như mây xanh, lưu ly. Thiên chúng ấy ở trên hư không thân hình trang sức đủ các y phục, lời lẽ hòa nhã, lại đến vườn lớn, hoặc có Thiên chúng đi trên đường bằng vàng, vô lượng trăm ngàn xe báu lăn trên đất vàng, bụi bằng vàng bay đầy cả hư không làm cho hư không âm u nhưng không nhơ uế. Các Thiên tử nào sắp hết thì bụi đó bám vào thân. Các Thiên tử từng thấy chư Thiên nào có tướng như vậy thì chẳng bao lâu sẽ bị thoái đọa, chịu khổ não lớn, nên sinh tâm Từ bi, nói kệ:

Chư Thiên đi đường này
Qua lại trăm ngàn lần
Bị ngọn lửa thời tiết
Thiêu đốt củi cảnh giới.
Thấy người khác bệnh, chết
Mà không tự giác tri
Tướng suy đã đến rồi
Mới biết mình khổ não.
Phóng dật, tâm ô trược
Luôn thích các cảnh giới
Bất chợt thần chết đuổi
Không chúng sinh nào khỏi.
Người nào thích vui chơi
Thích sống trong phóng dật
Khi quân chết sắp đến
Hủy hoại như độc hại.
Chẳng phải sức thuốc, chú
Chư Thiên, A-tu-la
Bị tự nghiệp trói buộc
Không sao cứu thoát được.
Trần cấu che thân, mặt
Vẫn không hề hay biết
Thần chết đã đến nơi
Không lâu bị thoái đọa.
Chúng sinh thường tham dục
Khát ái không nhàm chán
Bất chợt giặc chết đến
Tham lạc chẳng giác tri.
Tướng chết của người hiện
Bị thần chết trói buộc
Bỗng chốc bị thoái đọa
Phải chịu các khổ não.
Chúng sinh ở Sơn đảnh
Nơi có các vườn rừng
Nghiệp buộc không thoát khỏi
Chịu quả báo tự nghiệp.
Vui chơi, sống phóng dật
Thọ lạc không nhàm chán
Kẻ si ái tăng trưởng
Thoái đọa, không vui sướng.
Có khói ắt có lửa
Pháp tướng ấy như vậy
Tướng thoái đọa như thế
Phải chịu khổ chết chóc.

Thấy các tướng như thế, tâm phóng dật của Thiên tử chấm dứt, tu tập căn lành xưa, tự trách mình, các Thiên tử khác cũng vậy. Khi nghe nói thế, các Thiên tử lên xe có lưới báu che trùm, treo các linh báu, trang trí vô lượng thứ, trông rất yêu thích. Họ trang sức vòng hoa và áo trời rực rỡ như màu dung kim. Trên đỉnh núi Tu-di có trăm ngàn vạn người. Thấy các Thiên chúng có người đi xe bằng vàng, có người đi trên đất, có người đi xe thiên nga. Các Thiên nữ nô đùa, ca múa đến rừng Du hý. Rừng ấy có hoa sen trời, sông suối, ao tắm, hoa trái sum suê, được trang trí bằng các thứ báu. Tất cả vườn cảnh đều thật đáng yêu. Đến vườn cảnh, chư Thiên ở thành Thiện kiến đều xuống xe, đi đến cây vàng. Cây ấy tươi tốt, rực rỡ như ánh sáng mặt trời. Chư Thiên đi trên không từ hư không hạ xuống, đến nơi vui chơi. Tất cả Thiên chúng đều tập hợp đông đúc, tấu nhạc, ca hát, vui chơi thọ lạc, không ganh ghét nhau, múa hát, vui đùa, trổi nhạc, hưởng năm dục lạc. Họ cùng các Thiên nữ đi giữa bờ sông ăn uống rồi đến rừng lưu ly. Cây lưu ly ấy có trái bằng vàng ròng đủ hương thơm, sắc đẹp, mùi vị như nước mật. Họ cùng các Thiên nữ xinh đẹp, ăn trái Ma-thâu, thọ hưởng diệu lạc cõi trời một thời gian dài. Các Thiên chúng ấy ca múa vui chơi, thọ hưởng diệu lạc. Chư Thiên khác nghe vậy, đến chỗ Đế Thích, chắp tay đảnh lễ, thưa:

–Thiên vương! Xin biết cho, tất cả Thiên chúng trong thành Thiện kiến đều đến vườn cảnh vui chơi.

Nghe vậy, Đế Thích bảo các Thiên chúng:

–Hãy mau chuẩn bị, ta muốn đến nơi mà chư Thiên thành Thiện kiến vui chơi.

Nghe lệnh Thiên vương, tất cả Thiên chúng ở Thiện pháp đường đều lên xe. Có người lên xe bằng vàng, treo cờ phướn bằng lưu ly, có người lên xe bằng lưu ly, treo cờ phướn bằng vàng ròng, hoặc trang trí các cờ phướn bằng tạp bảo. Có xe bằng chim sắc hoàng kim, chúng hót tiếng rất hay, hoặc có xe bằng ngựa, chúng đi rất nhanh, hoặc có xe bằng thiên nga vàng, chân nó bằng lưu ly, hai cánh bằng xích liên hoa bảo. Các Thiên tử lên các xe ấy, theo Đế Thích đến nơi vui chơi trong thành Thiện kiến. Lại có Thiên tử cỡi chim Khổng tước, thân chim bằng bảy báu. Ở Diêm-phù-đề, chim Khổng tước xinh đẹp hơn các loài chim, huống gì ở cõi trời được trang nghiêm bằng nghiệp thiện, hình tướng, sắc đẹp không gì sánh bằng. Họ cỡi chim Khổng tước này, trổi âm nhạc, ca múa vui chơi, đến chỗ mà chư Thiên thành Thiện kiến nô đùa thọ lạc. Khi ấy Đế Thích đi xe bốn bánh ngàn căm. Xe ấy làm bằng bảy báu:

  1. Báu chúa xanh.
  2. Xích liên hoa bảo.
  3. Xa cừ báu.
  4. Lưu ly sạch.
  5. San hô kim cương.
  6. Pha lê.
  7. Vàng ròng.

Bảy báu được trang trí lẫn lộn nhau, lại gắn ngàn con thiên nga. Thân chúng bằng bảy báu đủ các hình tướng. Âm thanh hay hơn tiếng ca của Thiên nữ. Lại có năm trăm cờ phướn bằng vàng, bạc, lưu ly. Xe ấy được trang trí đủ các màu sắc xanh, vàng, đỏ, tía. Có vô lượng Thiên nữ ở phía trước ca múa, hoặc đi trên hư không, hoặc đi trên mặt đất, tự do không ngăn ngại. Họ tấu nhạc trời, thọ hưởng năm dục lạc, đi đến nơi vui chơi của chư Thiên thành Thiện kiến. Thấy vậy, chư Thiên khác cầm các loại hoa, thân bằng lưu ly, đến chỗ Đế Thích.

Thấy Đế Thích đến, chư Thiên ở thành Thiện kiến không vui chơi nữa, đi ra nghênh đón Đế Thích.

Đế Thích bảo:

–Các ngươi hãy vào trong nước vui chơi.

Nghe lời Đế Thích, Thiên chúng cõi Thiện pháp cúi đầu vâng lệnh, vào ao nước, lấy lá sen, chạy mau đến chỗ chư Thiên thành Thiện kiến. Chư Thiên thành Thiện kiến cũng cầm hoa sen chạy đến chỗ chư Thiên cõi Thiện pháp, nô đùa vui chơi.

Khi ấy, Thiên đế Thích trụ giữa hư không, xem các Thiên chúng nô đùa trong nước một thời gian dài mà không nhàm chán, lại lấy hoa sen để nô đùa, lấy hoa sen, bằng vàng, lưu ly, cọng sen bằng nhiều màu sắc lẫn lộn, để nô đùa. Họ lấy hoa sen nô đùa ở đây một thời gian dài, lại đến rừng cây ăn trái, lấy trái mềm ném nhau. Chơi xong lại đến rừng uống nước, uống nước Ma-thâu, nhờ nghiệp thiện nên không say.

Bấy giờ, Thiên đế Thích bước xuống xe, bước vào rừng.

Thấy Đế Thích đến, chư Thiên đều vui vẻ, cung phụng Đế Thích. Các Thiên tử chắp tay thưa:

–Chúng tôi được cuộc sống tốt, quả báo tốt, được gặp Thiên vương, tạo lợi ích cho chúng tôi hơn là cha mẹ.

Các Thiên tử cung phụng xong, Đế Thích bảo các Thiên tử:

–Các người đều như con ta, như anh em.

An ủi xong, họ vào nơi vui chơi, ở trong vườn rừng nô đùa, thọ lạc. Trong các sông suối ao sen có nhiều loài chim hót tiếng rất hay. Mặt đất có nhiều hoa sen bằng vàng. Đất ấy mềm mịn, bằng phẳng được trang trí bằng cây vàng, lưu ly, pha lê. Sông suối ở đó tạo ra đủ các thức uống, trang trí các loài hoa như mạn-đà-la, hoa sen Cư-xada-xá. Thiên tử, Thiên nữ ca múa vui chơi thọ lạc trong hang núi, nghe năm thứ âm nhạc và tiếng ca của Thiên nữ, thọ hưởng năm dục. Các Thiên tử thành Thiện kiến và các Thiên tử Thiện pháp đường vui chơi thọ lạc trong vườn cảnh một thời gian bằng vô số thời gian ở cõi người, rồi trở về chỗ cũ. Trên đường đi, họ vui chơi thọ nhận hoan lạc khắp nơi. Chư Thiên thành Thiện kiến thọ hưởng diệu lạc cõi trời, đến khi nghiệp thiện hết, từ cõi trời, họ bị thoái đọa, theo nghiệp của mình bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác thì sinh trong cõi người, luôn được an lạc, học hiểu nhiều, thích âm nhạc, ca múa, vui chơi, thích lễ hội, nhiều của cải, không bị bệnh dịch, không lo buồn, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ năm tên là Bát-tư-tha. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người trì giới, dù nghèo khổ phải xin thức ăn uống, tài vật nhưng thấy người nghèo khổ hơn lại chia bớt thức ăn cho họ, giảm bớt phần ăn của vợ con mình để cho họ và kẻ mù lòa, cô độc, nghèo bệnh và làm cho những người phạm tội bị quan bắt nhốt mà vượt ngục, người cai ngục muốn giết kẻ ấy, trong lúc lo sợ mờ mịt như vậy thì cứu thoát họ. Sau khi qua đời, vị ấy được sinh lên trụ xứ Bát-tư-tha của cõi trời Tam thập tam. Người sinh lên cõi này, nhờ nghiệp thiện nên thân hình sáng rực soi khắp mọi nơi giống như ánh sáng mặt trời. Sắc tướng của ánh sáng ấy rực rỡ đủ màu xanh, vàng, đỏ, trắng, lục, tía. Sáng gấp mười lần ánh sáng của chư Thiên khác. Như trong các ngôi sao ở cõi Diêm-phù-đề, ánh sáng mặt trăng sáng nhất, thân hình của các Thiên tử rực rỡ đủ các màu sắc như vậy. Các Thiên tử khác so sánh với chư Thiên ở đây chẳng khác nào ánh sáng đom đóm. Thấy những Thiên tử này, các Thiên nữ đều đi đến.

Vừa sinh ra, Thiên tử đã có đầy đủ đồ trang sức. Trên đỉnh đầu có mão bằng ngọc xanh, ánh sáng của nó chiếu khắp một do-tuần. Những ngọc châu khác bị ánh sáng này che lấp nên không hiển hiện, giống như khi mặt trời mọc, ánh sáng đom đóm không hiện ra. Mão hoa bằng bảy báu, ánh sáng của nó soi khắp trăm do-tuần, có đủ các màu xanh, vàng, đỏ, tía, lục. Trên thân của họ tự nhiên có các bảo châu anh lạc, bảy báu rực rỡ. Ánh sáng ấy chiếu khắp một trăm dotuần. Y phục bằng bảy báu như anh lạc… Ánh sáng ấy chiếu khắp một trăm do-tuần, dây bằng kim cương rủ ở trước ngực, dây đai ở eo như màu sắc cầu vồng, chân mang giày đủ màu sắc, ánh sáng rực rỡ như ánh sáng điện, đi lại không mệt mỏi. Nếu họ muốn đi trên hư không thì do sức của đôi giày mà họ đến được, hoàn toàn không mệt mỏi, y phục của họ mịn đến nỗi không thấy được sớ vải, đủ các vật báu tốt đẹp thật đáng yêu thích.

Lúc chào đời, Thiên tử tự suy nghĩ: “Do nghiệp gì ta được sinh lên cõi này?” Vừa nghĩ như thế, tự biết mình đời trước ở chỗ thiện, bất thiện của Diêm-phù-đề, sau khi chết, sinh lên cõi này. Người ở Diêm-phù-đề, tu hành nghiệp thiện nên được thành tựu quả thiện ở đời này. Ta nhờ tạo nghiệp thiện nên được sinh lên cõi này, do nhân duyên sinh, chẳng phải không do duyên sinh. Một lát sau, có các Thiên nữ tươi trẻ xinh đẹp rực rỡ đến gần gũi Thiên tử mới sinh. Những đồ trang sức của các Thiên nữ phát ra âm thanh giống như năm âm nhạc, hương thơm xông khắp hai do-tuần. Hoa ở đó đẹp hơn các loài hoa khác. Họ trang sức y phục trời xinh đẹp. Đó là do nghiệp thiện và công đức sinh ra. Ví như mặt trời mọc, các loài hoa đều nở, Thiên tử vừa sinh ra, Thiên nữ phô trương sắc đẹp của mình, đến chỗ Thiên tử, bày các trò chơi làm vui lòng Thiên tử, bồng Thiên tử đến vườn rừng trổi nhạc, ca múa vui chơi, chiêm ngưỡng Thiên tử. Họ đến khu rừng tên Liên hoa hóa sinh. Khi các Thiên tử vào vườn này thì dưới chân mỗi người có hoa sen đỡ, cọng sen bằng lưu ly, tua sen bằng kim cương, lá bằng vàng ròng, đài sen mềm mại, ong kêu rộn rã. Khi họ dỡ chân lên, đặt chân xuống là hoa sen nở ra để đỡ chân. Từ đây, họ lại đi vào rừng Ma-thâu. Cây ở đây bằng vàng, tạo ra nước thơm ngon hơn rượu Bồ đào, đầy đủ mùi vị, màu sắc. Chư Thiên và Thiên nữ uống vào nhưng không say. Họ lại đến rừng Giá-đô-la. Rừng cây có ba loại không gì ví dụ được:

  1. Tiếng chim.
  2. Tiếng ong.
  3. Tiếng ca của Thiên nữ.

Các Thiên tử vui chơi trong rừng này, ở mỗi ao hoa đều có tiếng chim nghe rất thích thú, không biết nhàm chán, bị lửa ái thiêu đốt. Đến khi nghiệp thiện hết, từ cõi trời, vị ấy bị thoái đọa. Vì nghiệp trói buộc nên đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh vào cõi người, được xinh đẹp, sinh trong dòng hào phú, đầy đủ công đức, giàu có, đủ quyền lực, tha hồ vui chơi, được an ổn, không bệnh hoạn, sống lâu, sinh vào thời an lạc, hoặc sinh ở thành phố, không sinh ở chỗ biên địa, được làm vua, quan, hoặc làm thương chủ giàu có, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ sáu của cõi này tên là Câu-trá. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người bắt kẻ trộm mà không giết, không gây khổ não, hoặc kẻ giặc bị người khác bắt thì cứu thoát nó, làm lợi ích cho chúng sinh bằng tâm lợi tha, cung phụng cha mẹ, dâng thuốc uống vào mọi thứ cần dùng theo ý muốn, không trộm tài vật của cha mẹ, luôn vui vẻ, lời lẽ hòa nhã, vì lợi ích mà ít nói, luôn dùng hương hoa cúng dường lễ bái, niệm công đức của Phật, cung kính Sư trưởng, thăm hỏi lễ lạy, nói năng hòa ái, không gần gũi bạn ác, không thích việc làm của kẻ ấy, không khen người xấu, không đi chung, ở chung với kẻ giặc và những người bất chính ở đời, gần gũi bậc kỳ túc, tuân phụng cung kính giới cấm của Phật, đầy đủ trí tuệ, giữ giới bằng tâm chân thật, không làm buồn người khác, được mọi người yêu mến, khéo khen ngợi, nói năng nhỏ nhẹ, không gây sợ hãi cho nô tỳ, người làm thuê, biết đủ trong ăn uống, không ăn quá nhiều, không gây tổn hại cho chúng sinh, không thích giận hờn, không mua bán giao dịch với kẻ hà tiện, đồ tể, mua bán chất trực, không lừa dối mọi người, không vào tửu điếm, không bị người nữ chê cười, không mất oai nghi, đi đứng thư thái, nói sao làm vậy, không tìm sự hay dở tốt xấu của người khác, không giữ tính sân hận, không chê bai, không tranh tụng, thấy người có ruộng vườn thì không ganh ghét, thâu thuế đúng pháp không dối gạt vua, không trộm nước tưới của ruộng người, dù ban ngày hay ban đêm cũng không hái trộm trái cây của người khác, không làm mọi điều ác, hoặc bỏ từng việc một, hoặc là hạ chỉ. Thế nào là hạ chỉ? Là tạo tất cả nghiệp. Thế nào là trung chỉ? Là làm rồi sám hối, chê bai không làm nữa. Thế nào là thượng chỉ? Là không tạo nghiệp ác nào, không dạy người khác làm, khuyên người bỏ việc ác, không tùy hỷ với người ác. Với ba người ấy đạt ba quả báo thượng, trung, hạ. Người làm lành bỏ ác ấy sau khi qua đời, sinh lên cõi trời Câu-trá. Những người sinh ở đó thân thể không có xương da, không nhơ uế, thọ hưởng diệu lạc không thể nói hết. Đem diệu lạc của Chuyển luân thánh vương, người có đủ bảy báu, ngàn người con, làm vua khắp bốn cõi, thọ hưởng so với diệu lạc của cõi trời này thì chẳng khác nào thiên lạc so với địa ngục Hoạt. Cõi này rộng ba ngàn do-tuần, được trang trí đủ bảy báu, vườn cây, ao hồ, sông suối. Ở đó có khu rừng Hành lâm, cây bằng vàng, chư Thiên muốn gì thì cây ấy sinh ra, chư Thiên đi đến đâu chúng theo đến đó, giống như bảy báu theo Chuyển luân thánh vương. Nếu chư Thiên muốn dừng thì vườn ấy làm nơi dừng. Ví như chim bay lượn trên hư không khi muốn đậu thì phải đậu trên đất, khu rừng này cũng vậy. Đó là thế lực thứ nhất của chư Thiên ở cõi Câu-trá và là do nghiệp thiện. Lại do nghiệp thiện mà các thế lực khác: Chư Thiên đi đến đâu đều nghe được tiếng chim hót rất hay. Đó là thế lực thứ hai của chư Thiên cõi Câu-trá. Lại do nghiệp thiện nên chư Thiên đi đến đâu đều có ao sen, ong kêu rộn rã và thiên nga, vịt trời, uyên ương làm đẹp. Đó là thế lực thứ ba của chư Thiên cõi Câu-trá. Lại do nghiệp thiện nên được đeo vòng hoa trời, đi trong hư không, tự nhiên có hoa sen ngàn cánh, cọng bằng lưu ly, các Thiên nữ ngồi trong đài hoa cùng nhau vui đùa. Đó là thế lực thứ tư của chư Thiên cõi Câu-trá. Lại do nghiệp thiện nên chư Thiên đi trên hư không tự nhiên trên tay có đồ báu đựng đầy thức ăn cõi trời, cùng các Thiên nữ ăn uống ca múa vui chơi, mặc tình đi lại. Đó là thế lực thứ năm của chư Thiên cõi Câu-trá. Lại nhờ nghiệp lực, chư Thiên muốn gì được nấy. Nếu muốn đến nơi khác thì họ vượt qua ngọn núi. Nơi đó có đủ vườn cây hoa trái, cùng các Thiên nữ đi trong hư không, trổi nhạc trời, tự do đi lại. Chư Thiên ở Thiện pháp đường và thành Thiện kiến thấy Thiên chúng này, liền lên xe cao nhìn xuống hang núi, vui vẻ, giống như sứ giả cõi trời xem xét cõi Diêm-phù-đề. Thấy vậy, chư Thiên ở Thiện pháp đường và thành Thiện kiến nói với nhau: “Chư Thiên cõi Câu-trá tự do đi lại, họ hơn chúng ta, đi khắp mọi nơi không ngăn ngại”. Đó là thế lực thứ sáu của chư Thiên cõi Câu-trá.

Thiên vương Thích-ca cùng Thiên hậu ngồi trên đài sen ngàn cánh đi trên hư không. Do nghiệp thiện mỗi cánh sen hóa năm Thiên nữ, trang sức vòng hoa trời lộng lẫy như màu dung kim, trổi kỹ nhạc trời, chiêm ngưỡng Đế Thích, họ xinh đẹp vô cùng, cùng Đế Thích đến cõi Câu-trá.

Thấy Đế Thích đến Thiên chúng ấy đều vui vẻ, ra đón Đế Thích, cúi đầu kính lạy, khen ngợi bằng lời hay, ngồi quanh Đế Thích. Họ cùng Đế Thích ở trên núi, nơi vui chơi, trên đỉnh núi, trong vườn cây, ao hoa sen, vui chơi một thời gian dài rồi trở về cung của mình, Thiên vương Thích-ca trở về Thiện pháp đường. Chư Thiên ấy thọ hưởng năm dục lạc thượng diệu sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đến khi nghiệp thiện hết, theo nghiệp lưu chuyển, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người, được hưởng an lạc tột đỉnh, không khổ về bệnh, sống ở trong vùng rộng lớn, không sợ oán địch, hoặc được làm vua, quan, luôn được an vui, là nhờ dư báo.

 

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ bảy tên là Tạp điện. Do những nghiệp gì, chúng sinh được sinh lên cõi này? Chúng sinh nào thấy chùa tháp cũ, hoặc vua độc ác, đại thần theo tà kiến cấm đoán những việc ruộng nương của chư Tăng, chúng sinh đó không sợ pháp cấm của vua đem các vật và ruộng nương cúng cho chư Tăng, nói công đức của Phật cho nhà vua ác này nghe, dùng lời hay khen ngợi Phật. Sau khi qua đời, vị ấy sinh lên cõi Tạp điện. Ở đây, vị ấy nghe được năm thứ âm nhạc, vui chơi, ca múa, hưởng các thứ diệu lạc. Lại có những nghiệp khác được sinh lên cõi trời như không giết, không trộm, đem tiền đến đồ tể chuộc mạng chúng sinh, không làm ác, không bảo người làm ác, thấy người làm ác không vui theo. Thế nào là không trộm? Khi làm vua, quan không lạm dụng đoạt thuế, cũng không bào người khác làm, khiến họ sống trong giới luật. Nhờ hai nghiệp này được sinh lên cõi Tạp điện. Cõi ấy có rừng rộng ba ngàn do-tuần, có nhiều cung điện để Thiên tử vui chơi nên gọi là Tạp điện. Mỗi cung điện được trang trí lộng lẫy, có hoa sen sắc hoàng kim thơm phức, ong sắc lưu ly kêu rộn rã. Rừng ấy có đủ loại cây, mỗi ao hoa có đủ loài hoa, hoặc có ao hoa bằng xích liên hoa bảo, hoa bằng tạp lưu ly, hoặc có ao hoa có nhiều hoa sen bằng vàng, lưu ly, hoa bằng vàng lẫn lộn lưu ly. Mỗi hoa sen có nhiều cánh, có cánh bằng vàng, xích bảo, có cánh bằng tạp bảo, cánh bằng lưu ly. Các loài ong sắc hoàng kim vui đùa trong đó. Có ao hoa được trang trí nhiều hoa sen, ong bằng xích bảo.

Lại có ao hoa nhiều hoa sen, cọng bằng lưu ly, hoa bằng vàng ròng; hoặc có ao hoa nhiều hoa sen, cọng bằng vàng ròng, hoa bằng bạch ngân; hoặc có ao hoa nhiều hoa sen, cọng bằng xa cừ, hoa bằng bạch ngân; lại có ao hoa nhiều hoa sen, cọng bằng Ma-la-già-đa, hoa bằng vàng Diêm-phù-đàn, đủ các loài ong kêu rộn rã trong hoa sen, ví như trong hoa của cây thơm ở Diêm-phù-đề có nhiều ong, ao hoa ở cõi Tạp điện cũng vậy. Ví như họa sĩ, học trò của họa sĩ ở cõi Diêmphù-đề theo sự hiểu biết của mình, dùng đủ màu sắc vẽ các hình tượng, rừng cây ở Tạp điện cũng thế. Lại có nhiều loài chim tạp sắc, đầu, chân đủ màu, thân, ngực, bụng của chúng cũng vậy. Hoặc có chim, ức bằng vàng, cánh bằng bạc, lưng bằng xích bảo, mắt bằng xích bảo, hoặc có chim, ức bằng bạch ngân, cánh bằng vàng ròng, hai mắt bằng lưu ly xanh, lưng bằng tạp bảo, con ngươi bằng xích bảo. Có nhiều loài chim màu sắc bảy báu làm đẹp cho khung cảnh.

Trong rừng cõi Tạp điện, lại có núi bằng báu xanh, châu ngọc, xa cừ, lưu ly, xích bảo, vàng ròng, ánh sáng chiếu khắp khu rừng, xen lẫn nhau xoay xung quanh. Rừng này được trang trí rất đẹp trông thật đáng yêu. Trong rừng lại có nhiều cây đan kết lẫn nhau, cọng bằng lưu ly, tua bằng xích bảo quấn quanh và có nhiều trái, cọng bằng bạch ngân, tua bằng báu xanh quấn quanh; cành bằng xa cừ, dây vàng quấn quanh, hai màu ấy xen lẫn nhau. Rừng Tạp điện lại có ba sắc, trên cây treo các tấm trướng, cành bằng lưu ly, dây bằng vàng ròng, xích bảo quấn quanh; cành bằng xích bảo, dây bằng vàng, bạc quấn quanh; cành bằng bạch ngân, dây bằng xa cừ, xích bảo quấn quanh. Mỗi một cành cây là có mỗi dây quấn. Trong rừng Tạp điện lại có tạp hoa, cành bằng vàng ròng, hoa bằng lưu ly; cành bằng bạc, hoa bằng sắc nhân-đà; cành bằng vàng, hoa bằng xích bảo, cành bằng xa cừ, hoa bằng lưu ly, có trái nhiều màu cũng vậy. Do nhiều tâm, tạo tạp nghiệp, vì tạp nhân nên hưởng các tạp quả. Do nghiệp nên hưởng các quả báo ở cõi Tạp điện nhân quả tương xứng nhau, như các hạt giống sinh ra quả tương tợ. Nghiệp lực đó tùy theo sự gây tạo, thời tiết và tâm xen tạp gây ra. Tạo nghiệp nào, được quả nấy như dấu in vào vật, quả vui ở cõi trời đều do nhân sinh, khổ báo địa ngục cũng vậy, không phải mình làm mà người khác chịu quả.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, quan sát rừng Tạp điện, chúng sinh tạo nghiệp gì được sinh lên cõi trời trời Tam thập tam? Chúng sinh ở thế gian làm việc phi pháp, không hiếu dưỡng cha mẹ, không kính Sa-môn, Bà-la-môn và các bậc kỳ túc, không gần bạn tốt, không tin nghiệp quả, làm việc tà kiến. Lúc ấy làm cho ma vương vui sướng. Có bốn đại chúng khi ở thế gian làm việc phi pháp:

  1. Ma sứ tranh đấu.
  2. Ma sứ làm loạn, gây loạn tâm cho người hành pháp, làm cho người nghe pháp mê mờ buồn ngủ.
  3. Ma sứ tham si, làm cho thí chủ sinh tâm tham tiếc, nghĩ: Nếu ta đem vật cúng dường nơi ruộng phước Sa-môn, Bà-la-môn thì vợ con của ta sẽ ra sao, phải tự lo ăn mặc!
  4. Ma sứ lìa chánh niệm, làm cho người xuất gia mất chánh niệm. Đó là ác ban đầu, hoặc người vào thành ấp chợ búa gặp các người nữ, tranh chấp đánh đập nhau trong tửu điếm, rồi nằm mơ thấy phá giới.

Lúc người cõi Diêm-phù-đề làm việc phi pháp tạo nghiệp ác này, bốn loại ma sứ vui mừng, thưa với ma vương:

–Chánh pháp tổn giảm, quân ma tăng trưởng thật vui thích.

Nghe thế ma vương hỏi sứ giả:

–Làm sao pháp của ta được tăng trưởng ở thế gian, chánh pháp tổn giảm?

Sứ giả thưa với ma vương:

–Người cõi Diêm-phù-đề thực hành phi pháp, không hiếu dưỡng cha mẹ, không kính sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn. Người nào nghe chánh pháp, chúng tôi làm cho họ mê mờ, người xuất gia thì hoàn tục, xả bỏ pháp phục. Còn người xuất gia giữ giới có phạm hạnh thì trong lúc ngủ, tôi hiện thân người nữ làm cho họ tán loạn, làm cho những thí chủ tham tiếc tài vật, tham lam keo kiệt che lấp tâm, quyến luyến vợ con, làm cho người xuất gia lo việc buôn bán tranh chấp, đánh đập nhau. Tôi tạo những phương tiện ấy để quân ma tăng trưởng, chánh pháp tổn giảm.

Nghe thế, ma vương sai sứ giả bảo A-tu-la tên La-hầu Dũng Kiện Tỳ-ma-chất-đa-la, rồng ác não loạn Bát-ma-thê:

–Hôm nay các ngươi phải vui mừng, chánh pháp của Phật giờ này đã tổn giảm, quân ma tăng trưởng. Các ma sứ vào trong nước, đến chỗ A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la nói hết những việc trên. Nghe thế A-tu-la vui vẻ, nói với các Long vương ác não loạn. Nghe thế Long vương ác trong thành Phú lạc đều vui mừng, gây não loạn cho người ở thế gian như đã nói ở trước.

Nghe Thiên vương Tỳ-lưu-lạc nói thế, Thiên đế Thích vào rừng Tạp điện bàn việc này với chư Thiên cõi trời Tam thập tam. Thiên vương Hộ thế nói với ta rằng:

–Ma thiên oai lực lớn lại có A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la, rồng ác não loạn. Ngươi hãy bảo chư Thiên chúng tập hợp ở đây, ta sẽ đến núi Bảo trang nghiêm đánh với A-tu-la. Nghe vậy, chư Thiên đều vâng lời, trở về cung mình chuẩn bị, Thiên chúng ở Tạp điện cũng trở về cung mình, trổi nhạc ca múa vui chơi, vào rừng Tạp điện.

Bấy giờ, Thiên đế Thích cùng Thiên chúng rời rừng Tạp điện đến những nơi khác. Thiên tử ở cõi Tạp điện này thọ hưởng diệu lạc, đến khi nghiệp thiện hết, bị thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người thì thọ hưởng an lạc, khôi ngô tuấn tú. Từ khi sinh ra đến lúc chết luôn thích trang sức đủ màu sắc, thích học các ngôn ngữ, được mọi người yêu mến. Nếu xuất gia sẽ làm Pháp sư ngồi tòa Sư tử, thông hiểu các loại ngôn ngữ, làm cho người nghe biết đủ, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ tám của cõi này tên là Hoan hỷ. Do những nghiệp gì, chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh có tâm thiện, thâm tâm, không sát sinh, trộm cướp, không bảo người làm, khuyên người đừng sát sinh trộm cướp. Thấy người sát sinh thì khuyên họ đừng sát sinh, không bảo người làm, thấy người làm không vui. Nếu phạm phải thì sám hối, xa lánh ác tri thức. Thế nào là không sát sinh? Thấy chim bị hại thì cứu nó thoát khỏi, không làm ác, làm thì sám hối, giữ giới không sát sinh, đem tiền chuộc mạng để chúng thoát chết, lại khuyên bảo người khác để họ vui vẻ. Thế nào là không trộm? Tất cả vua quan, người cai quản dân trong nước, ông chủ xóm làng, ông chủ nuôi gia súc hoặc chủ tướng ở biên cương ra lệnh bắt trâu dê, người ấy vì giữ giới nên không chịu bắt. Do nhân duyên này, sau khi qua đời, vị ấy sinh lên cõi trời Hoan hỷ, ở trong vườn Hoan hỷ của cõi trời Tam thập tam. Lại có người nghe pháp, gặp pháp hội, trong sáu ngày trai giới nghe pháp thọ pháp, nhất tâm nghe pháp. Vị chủ pháp hội này sau khi qua đời, được sinh lên cõi trời. Trong các cách bố thí, pháp thí là cao nhất. Do nhân duyên này sinh lên vườn Hoan hỷ của cõi trời Tam thập tam. Ở đó thọ hưởng vô lượng diệu lạc cõi trời không thể nào ví dụ được. Giờ đây sẽ nói một phần nhỏ. Vườn ấy rộng ba ngàn do-tuần, có cây bằng bảy báu trang trí. Chư Thiên cõi Hoan hỷ không đến khu vườn khác nên gọi là vườn Hoan hỷ, đó là do công đức mà đặt tên. Cây ở vườn ấy đều là cây Như ý, chư Thiên muốn gì cây ấy lưu xuất, nếu chư Thiên nghĩ đến cung điện, muốn lên cung điện thì thấy điện bảy báu ngay trong rừng ấy. Cung điện này có một trăm trụ, trụ làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xích bảo, xa cừ. Lại muốn có đường đi êm ái để lên điện này, liền thấy có đường đi. Vào điện rồi, họ nghĩ: Trong điện này nên xây ao hoa sen thì sẽ có được các ao sen, có thiên nga, vịt trời, uyên ương màu sắc bảy báu. Lại nghĩ trong cung điện này phải có Thiên nữ ca múa vui chơi, liền có các Thiên nữ đến, mặc tình ca múa vui chơi, cung phụng; lại nghĩ ta phải nghe được kỹ nhạc trời, liền có ngọn gió thổi, lá cây va chạm nhau phát ra tiếng hay hơn nhạc trời, lại nghĩ: Cung điện này phải có thức ăn, ngay lúc đó, cành cây nứt ra, lưu xuất dòng sông thức uống đầy đủ sắc, hương, vị; lại nghĩ ta phải có thức ăn cam lồ, vừa nghĩ là có thức ăn thượng vị, cam lồ, đầy đủ sắc hương vị. Thiên tử ăn no nê, rồi cùng các thiếu nữ nô đùa vui chơi, vào vườn Hoan hỷ. Thiên tử ở trong vườn Hoan hỷ thọ hưởng hoan lạc thắng diệu như thế. Từ cung điện đi xuống, mặt đất nở hoa sen, cọng bằng lưu ly, cành bằng vàng ròng, cọng sen mềm mại trông rất thích thú, đầy đủ sắc hương. Họ đi từng bước trên hoa sen, thọ hưởng mọi hoan lạc cõi trời, tha hồ thọ hưởng năm dục lạc. Tất cả các căn đều không biết nhàm chán cảnh giới. Nghĩa là mắt luôn tham sắc, xem ngắm đủ loại, yêu thích mãi, làm vui mắt, xem bao nhiêu sắc như vậy vẫn không nhàm chán, tai nghe tiếng hay vẫn không biết chán, mũi ngửi các mùi thơm rồi sinh ái dục không biết chán, lưỡi tham thức ăn ngon không biết chán, cứ thích tiếp xúc mãi không biết chán. Tất cả ý niệm đều là ái niệm, yêu thích thân mình, vui chơi trong vườn thọ hưởng dục lạc không biết chán. Cảnh giới là nền tảng, các căn là cái dùi, gió ức niệm thổi, tự cao là củi, lửa dục hừng hực, tham dục không thỏa mãn. Vì tâm ái dục nên ở trong vườn Hoan hỷ vui chơi thọ lạc. Thiên chủ Thích-ca đánh thắng A-tu-la trên núi Tạp bảo tụ, được ca tụng như trước đã nói. Đế Thích lại vào vườn Hoan hỷ bảo chư Thiên:

–Thiên chúng các ngươi hãy vui vẻ, vào vườn Hoan hỷ thọ hưởng năm thứ dục lạc, nô đùa vui chơi, ta cũng sẽ ở đây vui chơi thọ lạc. Ta đã đánh dẹp quân ma, Tỳ-ma-chất-đa-la và rồng ác. Tất cả chư Thiên và Thiên nữ hãy đến chỗ ta vui chơi, hưởng năm thứ dục lạc, thọ hưởng năm thứ dục lạc suốt bốn tháng mùa hạ.

Nói xong, Đế Thích vui mừng bảo Bạch tượng vương Y-la-bàna:

–Ngươi hãy chuẩn bị, ta muốn cùng ngươi, chư Thiên chúng, các Thiên nữ vui chơi thọ lạc trong vườn Hoan hỷ. Ngươi hãy hóa thân để Thiên chúng ngồi trên đỉnh đầu, trên ngà đến núi rừng, vườn cảnh, ao hoa vui chơi giống như trước đã hóa hiện.

Nghe lời Thiên chủ, bạch tượng Y-la-bà-na hóa thân to lớn, thân có trăm đầu, đầu có mười ngà, mỗi đầu ngà có trăm ao tắm, mỗi ao tắm có ngàn hoa sen, mỗi hoa sen có ngàn cánh bằng bảy báu, đầu mỗi cánh hoa có ngàn con ong bảy báu, giữa mỗi cánh hoa có ngàn Thiên tử. Trên đầu voi có các Thiên nữ không trở ngại nhau, họ trổi nhạc, đi trên hư không đến vườn Hoan hỷ. Hai bên hông voi hóa thành hai khu vườn:

  1. Hỷ lâm.
  2. Lạc lâm.

Trong vườn đó có đủ ao, sông, hoa sen, cây Như ý bằng bảy báu. Các Thiên tử vui chơi trong đó thọ hưởng năm thứ dục lạc. Thiên tử, Thiên nữ đông chật cả vườn.

Khi ấy, bạch tượng Y-la-bà-na giống như núi Tu-di chúa thứ hai, đến vườn Hoan hỷ. Trên lưng voi hóa ra thành lớn bằng phẳng êm ái. Thành ấy có đường đi, cung điện bảy báu và vườn rừng xinh đẹp giống như thành lớn Thiện kiến thứ hai. Hóa điện đó được làm bằng bảy báu, có một trăm trụ, trong điện có ao hoa. Thiên vương Đế Thích cùng các Thiên nữ vui chơi ở đó, tấu kỹ nhạc trời. Thiên vương Kiều-thi-ca ngồi trong xe lớn hướng đến vườn Hoan hỷ, thân không lay động như đỉnh núi Tu-di. Trong tai voi lại có ao hoa rộng mười do-tuần, ao thứ hai rộng mười một do-tuần. Ao thứ nhất tên Thậm thâm, ao thứ hai tên Thanh tịnh. Nước ao có tám công đức, luôn tràn đầy. Trong ao có hoa Ưu-bát-la, cọng bằng lưu ly, hoa bằng xích bảo, có nhiều loài ong, hoa nở đủ hương thơm cõi trời. Thiên tử, Thiên nữ ngồi trên tua hoa Ưu-bát-la vui chơi thọ lạc. Có Thiên tử rảy nước vui chơi, có Thiên tử lấy hoa vui chơi. Họ không biết mình ngồi trên con voi trắng đang đi. Đầu vòi voi hóa ra lầu gác rộng năm do-tuần, có đủ các loài hoa trang trí như hoa Mạn-đà-la… loài ong kêu rộn rã, đem lá ngưu đầu chiên-đàn che trên lầu gác. Lại có cây bằng vàng nở nhiều loại hoa che rợp. Các Thiên nữ ngồi trên tua hoa ca hát rất hay để khen ngợi Thiên vương. Vòi voi hóa ra lầu gác như vậy. Trong hóa sen trên bạch tượng vương lại có hoa sen rộng một do-tuần, có ngàn cánh. Cánh hoa đã rộng lại dài, hương thơm sực nứt xông khắp mười do-tuần. Thiên tử, Thiên nữ vui chơi trên mỗi cánh hoa nhưng không thấy nhau. Họ vui chơi như thế mà không trở ngại nhau. Họ cùng Thiên vương đến vườn Hoan hỷ mà không biết đang ở trên voi đi, giống như ở trên đỉnh núi Tu-di. Trên đầu voi lại hóa ra núi lớn tên là Giới trang nghiêm, vì nó có nhiều cảnh giới: ao sông, cây vườn, hoa sen… để vui chơi hưởng lạc. Đó là ngọn núi lớn mà trên đầu Bạch tượng vương hóa ra. Trên ngà voi hóa ra rừng cây sáng rực như hàng ức mặt trăng, có nhiều hoa, đất màu trắng sạch như màu Tu-đà. Trong đó có nhiều loài ong kêu tiếng câu-sí-la và có vô lượng chim báu như khổng tước, mạng mạng. Vô lượng loài chim đó hóa sinh từ ngà voi. Chư Thiên vây quanh trên thân to lớn của voi, nó khỏe mạnh, bước đi vững vàng, không lay động, hướng đến vườn Hoan hỷ. Hai lỗ mũi voi hóa ra dòng nước như sông Hằng hà, sông Diêm-mâu-na ở Diêm-phù-đề từ đất chảy ra. Nước ấy trong sạch, mát mẻ không nhơ uế, từ trên chảy xuống, dòng nước từ mũi voi chảy ra cũng vậy. Rừng núi cây cỏ lá thuốc ở thế gian trong bốn cõi gặp lúc nắng hạn, lúa gạo vẫn phát triển là do trên lá cây có nước hiện ra, đó là sương. Nước trong mũi voi từ hư không chảy xuống cách mặt đất xa, bị gió thổi tan thành hơi sương nhỏ. Ba cõi gọi đó là sương. Lại nữa, bạch tượng vương cõi trời nhả hơi sương rơi xuống, nó đi trong cõi trời, người đời xem thấy sắc trắng, ngoại đạo nói đó là đường đi của Thiên vương Nhân-đà. Có người nói đường đi của voi trắng vốn như dòng nước, nhờ gió nâng đỡ, ở giữa hư không như dợn nắng, vì cách xa nên không thấy rõ. Đỉnh núi lớn ở đầu voi có cờ phướn báu, bánh xe bằng lưu ly, lọng bằng vàng ròng, sáng rực như ánh sáng mặt trời. Trên cờ phướn cao treo lá phướn dài. Trong phướn đó phóng ra ánh sáng lớn. Các A-tu-la ở trong biển lớn thấy vậy, liền bảo nhau:

–Cờ phướn thù thắng của Thiên vương Đế Thích đã hiện.

Đế Thích cỡi voi trắng đến vườn Hoan hỷ. Thấy vườn cảnh, Đế Thích bảo chư Thiên:

–Các ngươi hãy xem, vườn cảnh này thật là thích thú.

Sau khi đánh thắng A-tu-la, Thiên chủ Thích-ca vui chơi trong vườn này. Cây trong vườn ấy thật đẹp. Đế Thích cùng chư Thiên cõi trời Tam thập tam vui chơi trong vườn ấy suốt bốn tháng mùa hạ.

Các Thiên chúng thưa với Đế Thích:

–Chúng tôi sẽ tuân hành mọi mệnh lệnh của Thiên vương.

Nói xong, họ đã đến vườn Hoan hỷ. Thấy cờ phướn và voi trắng, chư Thiên, đang ở vườn Hoan hỷ thọ hưởng năm thứ dục lạc, đều rất vui mừng, ra nghênh đón Đế Thích, lễ lạy cung phụng, chắp tay để trên đầu, tấu nhạc trời, ca múa vui chơi vào vườn Hoan hỷ. Đế Thích bước xuống, cùng chư Thiên vào vườn Hoan hỷ. Tất cả Thiên chúng đều bước xuống, các Thiên chúng ở trên đầu voi, vòi voi, hai bên hông voi đều bước xuống vào vườn Hoan hỷ vui chơi thọ lạc. Chư Thiên ở trước và Thiên chúng đã cùng Thiên chủ đánh Atu-la, vui chơi thọ lạc suốt bốn tháng mùa hạ. Đế Thích cùng các Thiên chúng vui chơi thọ lạc một thời gian như vậy. Thiên tử nào nghiệp thiện sắp hết thì qua đời, bị thoái đọa, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người luôn được an lạc, thông hiểu tất cả, khôi ngô tuấn tú, được mọi người yêu mến, sống ở nơi có ao hồ, rừng núi đẹp, làm chủ nước lớn, giàu có tự do là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Quan sát đại tượng vương Y-la-bàna, do nghiệp gì được thân to lớn, sức thần thông lớn, đánh A-tu-la, được tiếng tốt? Do nghiệp gì thọ thân súc sinh? Dùng văn tuệ biết chúng sinh sống trong cõi trời đủ bảy vạn tuổi, vào đời quá khứ, trong bộ luận Bất-la-na-tỳ-đà, có một Bà-la-môn tu hành phước đức, thích bố thí cho người khổ não, nghèo cùng, mù đui. Vì tâm thiện thích bố thí, tạo lợi ích cho chúng sinh, bấy giờ có vị vua tên Thiện Kiến vào ngày hội ra khỏi cung điện vui chơi giống như chư Thiên, có tám vạn bốn ngàn Bạch tượng vương lớn, che lưới vàng, treo linh báu giống như Đức Như Lai, trang trí các linh vàng, có tám vạn bốn ngàn thể nữ vây quanh, nghe tám vạn bốn ngàn âm nhạc, đi đến vườn vui chơi. Vua Thiện Kiến ấy oai đức vô thượng, thọ hưởng quả vui lớn.

Khi ấy, Bà-la-môn đủ oai đức đó đến chỗ vui chơi của vua Thiện Kiến. Bà-la-môn ấy tên là Tam-ma-đa. Thấy đại vương này đầy đủ oai đức, vua có voi trắng tên là Vân tụ, trang sức linh báu, đeo anh lạc bằng lưới chân châu. Đó là do vị thợ giỏi làm thành để trang sức cho con bạch tượng. Chúng ca múa vui đùa đến nơi vui chơi xinh đẹp vô cùng. Bà-la-môn Tam-ma-đa tự nghĩ: Voi trắng này hưởng mọi an lạc thù diệu, ta nguyện sẽ làm bạch tượng vương của Thiên đế Thích. Nhờ oai lực bố thí và phát nguyện, sau khi qua đời, vị ấy là con bạch tượng vương của Đế Thích. Quán xét xong, Tỳkheo nói kệ:

Như họa sĩ nghiệp này
Hoạt động khắp mọi nơi
Sức tâm vương rất lớn
Tạo ra các nghiệp báo.
Nhân duyên thù thắng chuyển
Tâm sai khiến khắp chốn
Ở mọi nơi mọi chốn
Đi trong rừng ba cõi.
Nghiệp của các chúng sinh
Tự do sai khiến tâm
Vì thế điều phục tâm
Đến được nơi bất thoái.
Lưu chuyển khó điều phục
Phan duyên khắp mọi nơi
Ai khéo điều phục tâm
Điều phục được an lạc.
Ai điều phục được tâm
Đoạn trừ các tội lỗi
Người dũng lìa tội ác
Không còn chịu các khổ.
Khổ não ở đời này
Hay khổ ở vị lai
Không thể điều phục được
Chính vì tâm khinh suất.
Trời, Rồng, A-tu-la
Địa ngục, quỷ, súc sinh
Tâm là người dẫn đường
Như vua đi ba cõi.
Tâm đưa đến cõi trời
Lại đi trong cõi người
Tâm đưa đến đường ác
Tâm lưu chuyển thế gian.
Tâm lưu chuyển hại người
Bị cảnh giới si dối
Ái nhận chìm chúng sinh
Chịu vô lượng khổ não.
Pháp ấy luôn che đậy
Sức lớn khó điều phục
Gây hại nhưng không thấy
Nhẹ nhàng lưu chuyển nhanh.
Người nào có trí tuệ
Điều phục được tâm này
Người ấy thoát lưới ma
Đạt đến bờ giải thoát.
Niệm quấy lại dua nịnh
Sâu xa rất nhanh lẹ
Chính tâm ác hiểm này
Đưa người đến đường ác.
Lìa tất cả các ác
Không bị căn sai khiến
Không vướng các pháp ác
Đạt đến nơi bất diệt.
Tâm từ nhân duyên sinh
Sở hữu từ tâm được
Duyên chuyển, trôi chảy nhanh
Lưu chuyển như thế đó.
Tạo ra tất cả nghiệp
Chịu mọi thứ quả báo
Tâm lưu chuyển vi tế
Không dừng một phút giây.
Không biết chỗ nó đi
Lại không có hình sắc
Đưa người đến chỗ nào
Đi trên con đường nào.
Đến rồi dừng ở đâu
Thân do nghiệp tạo nên
Thấy nghiệp do tâm tạo
Nhưng không thấy người tạo.
Tâm này khó điều phục
Không thể thấy hình tướng
Hại tất cả chúng sinh
Mù đui tạo các nghiệp.
Tâm tánh này như huyễn
Từ ác chịu quả ác
Tâm tánh này như huyễn
Khó biết chỗ nó đi.
Có khả năng đưa người
Đến vô lượng sinh tử
Dao không thể cắt được
Lửa cũng không đốt được.
Tâm này tuy không mắt
Gây hại hết mọi người
Dây nghiệp rất chắc chắn
Trói khổ não cho người.
Chịu trăm ngàn sinh tử
Dẫn dắt không thấy được
Phút chốc tạo nghiệp thiện
Bất chợt tạo nghiệp ác.
Tâm tạo thiện, bất thiện
Ai điều phục được vui
Sáu căn, duyên cảnh giới
Tham mãi không biết nhàm
Không biết tâm đưa đến
Đường ác chịu khổ đau.

Tỳ-kheo quan sát vị Bà-la-môn đó tạo nghiệp thiện lớn nhưng nguyện ấy nhỏ bé, suy xét mình, tự đề phòng tâm mình. Do niềm tin đó được thân trời, hoặc thoát khỏi sinh tử, bị tâm sai khiến, đọa trong loài súc sinh, đó là do sức từ nguyện lực của tâm.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ chín của cõi này tên là Quang minh. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người giữ giới, khuyên dạy người khác không làm ác, không dạy người làm, thấy ai làm khuyên họ bỏ, tự giữ giới, khuyên người giữ giới, chắc chắn không thiếu, làm cho giới đức thanh tịnh, không sát sinh, không trộm cướp. Thế nào là không sát sinh? Thấy vùng đất nào có nhiều chúng sinh, vì giữ giới nên không đào xới, không bảo người đào, hoặc biết chỗ ở của bò cạp, kiến, ễnh ương, hoàng dứu thì không đào xới tổn hại, khuyên người đừng làm. Thấy người thọ giới hay không thọ giới mà làm ác thì khuyên họ sám hối. Thế nào là không trộm cướp? Không trộm lấy đất của người, chỗ của thợ gốm, chỗ của người khác cho đến bùn đất, không bảo người lấy, làm cho người khác sống trong giới, thấy người trộm thì không vui theo, khuyên người ấy đừng làm. Đó là không sát sinh, không trộm cướp. Sau khi qua đời, người giữ giới này được sinh lên cõi Quang minh, tâm luôn vui vẻ, ca múa vui chơi thọ lạc. Ánh sáng nơi thân luôn chiếu soi các Thiên chúng. Có nhiều người vui chơi trong vườn. Người giữ giới thứ nhất sinh lên cõi trời này. Người làm lành hưởng quả báo vui này. Vườn ấy có lưới vàng che trên, treo linh báu lưu ly phát ra tiếng hay. Đó là do nghiệp thiện tạo thành. Thấy Thiên tử, trong linh báu phát ra tiếng ca tụng:

Hay thay! Thiên tử! Ông đã biết. Người tu thiện nói kệ tịch tĩnh:

Khéo thanh tịnh tâm, giữ giới cấm
Giữ gìn giới cấm giờ được vui
Giữ gìn tất cả các giới cấm
Sau đạt Niết-bàn, được quả vui.
Hoặc lấp đường ác, đến cõi lành
Nên người giữ giới sau được mát
Người giữ giới cấm lúc lâm chung
Tâm tư an ổn không lo sợ.
Ta không lo sợ con đường ác
Nhờ giữ tịnh giới cứu giúp được
Ông nhờ khéo léo giữ giới cấm
Giờ sống cõi trời, chớ buông lung.

Nhờ nghiệp thiện dây linh phát ra tiếng kệ để giác ngộ tâm Thiên tử ấy, làm cho Thiên tử không phóng dật. Có những Thiên tử đã từng giữ giới trong nhiều kiếp đến nay, nghe pháp này thì giữ giới trong một thời gian ngắn, không sống phóng dật, chư Thiên nào không giữ giới trong nhiều đời đến nay thì sống phóng dật, không tự biết, dù nghe chánh pháp vẫn sống phóng dật, xa lánh tiếng giác ngộ của dây linh. Họ lại đến khu rừng khác. Rừng này được trang trí bảy báu, ở trong rừng Quang minh. Chu vi rừng này là ba ngàn do-tuần, trừ bốn nơi và thành Thiện kiến ra, không có rừng nào hơn. Bốn góc rừng có bốn cây Như ý bằng lưu ly trong sạch không vết nhơ. Ánh sáng của nó chiếu khắp một do-tuần sáng rực như mặt trời, chiếu xa đến trăm ngàn do-tuần. Thiên tử, Thiên nữ ngồi trên cành cây vui chơi hưởng lạc. Họ muốn gì thì cây ấy sinh ra. Giữa bốn cây ấy có rừng Quang minh, ao sen bằng vàng, bạc, lưu ly dùng để trang trí cây ấy, rực rỡ như màu dung kim. Mọi nơi đều có vị cam lồ, trong sạch không nhơ, tinh khiết thơm ngon. Nhờ oai lực lớn nên được vị Tu-đà. Lại có nhiều loại chim trông thật đáng yêu, hót tiếng rất hay, đầu bằng vàng ròng, cánh bằng bạch ngân, ngực bằng lưu ly, mỏ bằng xích bảo, mắt bằng liên hoa bảo. Các loài chim ấy dùng để trang trí. Trên cây vàng có chim vàng ròng, trên cây vàng ròng có chim bạch ngân, trên cây lưu ly có chim xích liên hoa, trên cây xích liên hoa có chim ngọc báu xanh. Chim chóc uống nước, ăn trái. Trên cây bảy báu có chim sắc bảy báu vui đùa. Lại có các loài ong giống như hoa xích bảo. Do tạo các nghiệp nên thọ thân ấy. Chúng ở trong hoa sen vui chơi thọ lạc. Trong cây ấy có đủ tất cả các công đức, Thiên tử, Thiên nữ vui chơi trên cây. Khu rừng ấy có đủ các công đức cõi trời.

Lúc A-tu-la đánh nhau, Thiên vương Thích-ca bảo Thiên chúng:

–Hãy mau sửa soạn, quân A-tu-la đang não loạn chư Thiên trên đỉnh núi Nhạo kiến.

Nghe lời ấy, chư Thiên cõi trời Tam thập tam đến rừng Quang minh, tất cả Thiên chúng cùng Thiên đế Thích vào giữa bốn cây ấy. Trong vườn Quang minh, cây lưu ly trong sạch như gương sáng, họ soi thấy tướng mình, tự biết đánh thắng hay không, hoặc thấy thân bị tổn hại. Ngay trong cây ấy, họ thấy thân mình hoặc bị đánh, gây hại, hoặc bị chặt đứt rồi lại sinh ra. Nếu bị chặt đầu hoặc mình thì chết ngay. Ngay trong cây ấy, họ thấy tất cả mọi việc, họ liền thưa với Thiên tử là “Nên tránh tai họa sẽ được đại lợi, A-tu-la gây hại Thiên tử này.” Nghe thế, Thiên đế Thích bảo:

–Đại tiên! Ông chớ đánh nhau, nếu không sẽ bị hại, bị chết oan.

Các Tỳ-kheo! Hãy suy xét, quan sát trong cây cõi trời, thấy được tướng suy đọa. Dùng văn tuệ biết được người có tâm bi thấy đồ tể muốn giết chúng sinh thì làm cho chúng thoát chết. Do quả báo đó, soi trong cây Quang minh thấy được thân tướng.

Chư Thiên lại đến khu rừng Tạp lâm trong rừng Quang minh. Rừng này được trang trí cây Như ý. Vào rừng này ai cũng tự suy xét: Thiên, A-tu-la ai mạnh hơn? Do oai lực gì chư Thiên được thù thắng? Do oai lực gì A-tu-la được thù thắng?

Khi ấy, Thiên đế Thích bảo chư Thiên: Người thực hành chánh pháp được sinh lên cõi trời. Người cõi Diêm-phù-đề vào lúc kiếp sơ thực hành thập thiện đạo, hoặc dạy cho người khác, hộ trì thân, khẩu giữ bảy chi giới không thất thoát, bền chắc không dối trá. Chúng sinh ấy, sau khi qua đời được sinh lên cõi trời. Giống như túi da đựng đầy cát nhưng không cột miệng túi, có người khỏe mạnh trút cát ra rất nhanh, vào thời kiếp sơ người sinh lên cõi trời cũng vậy, nên thế lực chư Thiên phát triển, còn thế lực của A-tu-la giảm thiểu, chư Thiên sống ở đỉnh núi Nhạo kiến có thể ngăn chận được A-tu-la. Về sau do con người làm việc ác, giới bị thất thoát, không kiên cố, ít làm lành nên người Diêm-phù-đề sau khi qua đời được sinh lên cõi trời giống như quả Am-la lúc sắp chín, có người mạnh khỏe lay động thân cây trái cây rụng ít, người sinh lên trời cũng vậy. Lại vào lúc khác người tạo nghiệp nhơ uế, không giữ giới của thân, ngữ, giới không kiên cố, không thanh tịnh, không tu tập thường xuyên, nên sau khi qua đời ít được sinh lên cõi trời. Giống như trái cây Tỳ-la lúc chưa chín, có người ốm yếu lay động thân cây nhưng cây không rung động, giả sử có lay động thân được thì trái cây ít rụng, trái nào chín mới rụng, trái không chín không rụng. Chúng sinh vào thời kiếp mới sinh lên trời nhiều, còn chúng sinh vào thời sau này sinh lên trời ít cũng như vậy. Đó là vì nghiệp nhơ uế, phá giới cấm. Chư Thiên các ông đừng sống phóng dật. Ai sống phóng dật thì A-tu-la tăng trưởng, chư Thiên tổn giảm. Chúng sinh đời này phần nhiều thực hành phi pháp, không có giới pháp, không giữ bảy chi giới của thân, ngữ, dối gạt người khác làm cho họ buồn giận, không hiếu dưỡng cha mẹ, không kính sư trưởng, không thuận pháp hành, sau khi qua đời đọa vào địa ngục. Giống như túi da đựng đầy cát nhưng không cột miệng túi, có người khỏe mạnh trút cát ra rất nhanh, chúng sinh đời nay tạo nghiệp bất thiện sinh vào Atu-la cũng như vậy. Chúng sinh nào giữ bán phần giới về thân, ngữ thì sau khi qua đời sinh vào loài A-tu-la hoặc được sinh lên cõi trời ví như trái cây am-la, có người khỏe mạnh lay động thân cây, nếu trái chín thì vừa lay là rụng, còn trái chưa chín thì lay động nhưng vẫn không rụng. Chúng sinh tạo tạp nghiệp cũng vậy, hoặc sinh lên trời, hoặc đọa vào địa ngục, hoặc có người sinh vào loài A-tu-la. Nếu chúng sinh nào suốt đời hành bất thiện, không hiếu dưỡng cha mẹ, không thuận pháp hành, không kính sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, không giữ gìn giới của thân, ngữ sau khi qua đời đọa vào địa ngục, hoặc sinh vào loài A-tu-la, thế nên làm cho quân A-tu-la thêm sức mạnh, thế lực chư Thiên giảm thiểu. Tuy là như thế, giờ đây ta có thể chiến thắng A-tu-la, không phải là Thiên chúng khác. Ngươi hãy suy xét thực hành theo chánh pháp, dù đời nay hay đời sau luôn giữ gìn chánh pháp. Trong các oai lực pháp lực là hơn hết, không có gì sánh bằng, ngươi hãy suy xét, nghĩ nhớ chánh pháp, cố gắng đánh dẹp A-tu-la.

Nghe Đế Thích dạy thế, chư Thiên thưa: “Chúng tôi sẽ vâng lời dạy của Thiên vương.

Nói xong, họ đến rừng Giáp Trụ. Trong cây ấy lưu xuất loại áo giáp không gì hại được. Người mặc áo giáp này không ai địch nổi, ánh sáng chiếu rọi như mặt trời mọc. Ánh sáng núi Ưu-đà-diên chiếu soi cũng thế. Họ đến núi Nhạo kiến dàn trận đánh với A-tu-la như trước đã nói. Chư Thiên trụ trong rừng Quang minh cùng nhau vui chơi, thọ hưởng năm dục lạc, tâm ý buông lung. Trong rừng lưu ly, vàng ròng, xích bảo có đủ hoa trái, chim chóc hót tiếng rất hay.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các chim thú của cõi trời Tam thập tam, đủ màu sắc, trang sức đủ loại, thân hình, âm thanh, cánh báu khác nhau, vui chơi thọ lạc trong rừng. Quan sát như thật biết được nhân quả của nghiệp vi tế. Dùng văn tuệ biết chúng sinh làm thợ vẽ, tuy nhận làm thuê nhưng không có tâm dối trá, vẽ tăng phòng giảng đường, tinh xá cho người tu phước, màu sắc tươi sáng. Dùng các màu sắc như xanh, vàng, đỏ, pha lẫn vẽ tháp Phật, tinh xá, cổng, gác, hoặc vẽ núi cây, người, rồng, chim, thú, sư tử, cọp, nai, vườn cây, thành quách, ao tắm, nơi vui chơi, ao hoa sen, xây chỗ ở cho Sa-môn, Bà-la-môn, quân lính để cúng dường Phật, vì để trang trí các hình tượng, người làm thuê hoặc khắc chạm, hoặc dùng bùn cây, vàng, bạc, đồng tạo lập các hình tượng. Sau khi chết, vị ấy được sinh lên cõi trời thọ thân chim. Vì tạo tạp nghiệp nhưng không giữ giới nên thọ thân chim, hoặc làm con nai, ong luôn hưởng hoan lạc. Thọ quả tương xứng với nghiệp đã gây giống như diệu lạc mà chư Thiên thọ hưởng. Kẻ vô trí tạo nghiệp tuy có suy nghĩ nhưng không có trí nên thọ thân ngu si, hưởng diệu lạc vui chơi trong vườn cây cõi trời, trên đỉnh núi, giống như chạm khắc ngà voi, vàng, bạc, theo sự yêu cầu của người, như dấu in vật. Ở trong vườn cây sinh ra vô lượng màu sắc giống như màu sắc trước đã vẽ. Chư Thiên vui chơi, ca múa thọ hưởng diệu lạc ở trong rừng Quang minh. Khi nghiệp thiện hết, vị trời cõi Quang minh bị thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác được sinh vào cõi người, luôn được an lạc, hoặc được làm vua, quan, được mọi người cung phụng, thích du ngoạn, thích lễ hội, tâm luôn vui vẻ, khôi ngô tuấn tú, mặc tình ăn uống vừa ý, luôn được an vui, người khác không xâm đoạt được, đầy đủ giường nệm, đồ nằm, vườn cây, nơi vui chơi, nô tỳ, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ mười của cõi này tên là Ba-lợi-da-đa. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người tịnh tín, vì cha mẹ mà đem những vật, y phục, thức ăn, giường nệm, thuốc thang bố thí, lại khuyên người khác không giết chúng sinh, dù là con trùng, con kiến cũng không sinh tâm giết hại. Nếu thấy trái cây bị trùng ăn thì không ăn trái đó để giữ mạng sống của nó, thấy ai ăn trái đó thì khuyên họ đừng ăn, tự giữ giới, khuyên người giữ giới. Thế nào là không trộm? Không lấy vật sở hữu của người khác dù là rễ cây, trái cây hoặc vật ở trong rừng, trong đất trống, mình không lấy, khuyên người khác không lấy. Người tự lợi, lợi tha này sau khi qua đời được sinh lên trong vườn cây cõi Ba-lợi-da-đa. Cây ở cõi Balợi-da-đa thù thắng nhất. Nhìn trong cây ấy có thể thấy được các hình tướng thiện, bất thiện của người Diêm-phù-đề. Nếu người cõi Diêm-phù-đề tùy thuận pháp hành thì hoa trái của cây ấy có đủ. Vì người Diêm-phù-đề thuận pháp hành nên ánh sáng của hoa chiếu soi trăm do-tuần. Chư Thiên cõi trời Tam thập tam luôn vui vẻ sống xung quanh đó. Hoa trái của cây Ba-lợi-da-đa tươi tốt sum suê là biết người Diêm-phù-đề hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường Sa-môn, Bà-lamôn, các bậc kỳ túc, nên hoa trái cây này tươi tốt. Trong bốn tháng mùa hạ các Thiên chúng vây quanh cây này vui chơi thọ lạc. Nếu hoa của cây Ba-lợi-da-đa chỉ nở một nửa thì chư Thiên ít vui vẻ, biết cõi Diêm-phù-đề ít người giữ giới nên hoa chỉ nở một nửa. Nếu tất cả mọi người đều hành phi pháp thì hoa của cây Ba-lợi-da-đa rụng hết, màu sắc tàn úa, không có ánh sáng cũng không có hương thơm. Ví như vào mùa đông mây, sương che mặt trời, ánh sáng không hiện rõ, nhìn không chói mắt. Ánh sáng cây Tỳ-đa-la Ba-lợi-da-đa rất ít, hương thơm tổn giảm, hình sắc tàn úa. Thấy việc này chư Thiên thưa với Đế Thích:

–Thiên vương! Xin biết cho, ánh sáng nơi cây Ba-lợi-da-đa tổn giảm, hương thơm mất dần, tất cả oai đức đều không như cũ. Nhất định là người cõi Diêm-phù-đề không hiếu dưỡng cha mẹ, không kính Sa-môn, Bà-la-môn và các bậc kỳ túc.

Nghe vậy, Đế Thích cùng Thiên chúng đem tượng báu cung kính, cúng dường, tôn trọng khen ngợi hình tượng Như Lai, niệm công đức của Phật, bảo các Thiên chúng:

Hoa lá của cây Ba-lợi-da-đa cây Tỳ-đa-la rơi rụng, chúng ta hãy đến gốc cây ấy, các ngươi hãy sửa soạn, ta sẽ thỉnh tháp Như Lai, hình tượng Thế Tôn đến đó, dùng hương xoa, hương bột cõi trời để cúng dường Thế Tôn.

Nghe lời dạy của Đế Thích, vô lượng trăm ngàn chư Thiên chúng đến chỗ Đế Thích.

Khi ấy, Đế Thích đặt tượng Như Lai lên thiên quan, đội đi đến vườn Ba-lợi-da-đa. Thấy Thiên chúng đó không ai vui vẻ, vì lá cây Ba-lợi-da-đa rụng, mất hết ánh sáng vốn có nên họ không vui, Đế Thích đặt tượng Như Lai trên tòa lưu ly trong đất bảy báu dưới gốc cây. Tất cả Thiên chúng đều sinh tâm kính ngưỡng, đem các hoa Ma-lô-ca, Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la, Câu-xa-da-xá cõi trời để cúng dường, lấy nước thơm tắm tượng Như Lai. Cúng dường xong, bảo các Thiên chúng:

–Hãy phát tâm kính tin, bỏ tham lam ganh ghét, bỏ phóng dật. Đức Phật Như Lai là Đại sư trong ba cõi và còn có chánh pháp và Thánh chúng của Phật.

Nghe Đế Thích nói, tất cả Thiên chúng đều phát tâm kính tin, đảnh lễ tượng Như Lai, Bậc Thiên Trung Tôn. Đế Thích nói kệ khen ngợi:

Như Lai giải thoát độc tham ái

Thương yêu tất cả các chúng sinh Từ lâu đã vượt biển sinh tử Nam-mô, Nam-mô, Nhất Thiết Trí.

Đế Thích chắp tay cung kính hướng về Như Lai, các Thiên chúng cũng quỳ gối chắp tay, nói kệ khen Phật:

Như Lai dứt hết dục, tham, sân Xa lìa tất cả những ưu não Bậc Thầy Vô Thượng của chúng sinh Nam-mô, Nam-mô, Nhất Thiết Trí.

Nói kệ xong, tất cả Thiên chúng vây quanh cây cung kính Đức Như Lai, phát tín căn rộng lớn. Nhờ tâm thiện thanh tịnh nên chánh pháp tăng trưởng, tất cả Thiên chúng cúng dường tượng Phật, khi ấy cây Ba-lợi-da-đa đâm chồi, lá mới cũng sắp mọc, thấy vậy chư Thiên vui mừng khôn xiết. Chẳng bao lâu hoa, lá của cây dần dần trở lại như xưa, ánh sáng chiếu khắp một trăm do-tuần, hương thơm cũng thế, màu lá như sắc mây, các loài ong vây quanh, sắc tượng tươi đẹp, các Thiên chúng vây quanh ánh sáng rực rỡ như mặt trời thứ hai, thấy được oai đức xưa. Hương hoa xông khắp một trăm dotuần, cành cây che mát một trăm do-tuần, rễ cây cũng thế. Tất cả Thiên chúng đều vui mừng. Ánh sáng, hương thơm của cây trở lại như xưa. Ví như trong sáu vạn ngọn núi, núi Tu-di cao nhất. Trong các cây, ánh sáng của cây Ba-lợi-da-đa sáng nhất. Thấy ánh sáng oai đức sung mãn, thù thắng, rực rỡ, chư Thiên cõi trời Tam thập tam đều vui mừng, nói với nhau: Các Thiên tử có thấy thế lực rộng lớn của Phật không? Ánh sáng, hương, hoa lá của cây thiên thọ vương này đã đầy đủ như xưa. Thấy thế lực, ánh sáng của cây càng thù thắng, chư Thiên cõi trời Tam thập tam cắt đứt lưới nghi. Người Diêm-phù-đề tu hành theo chánh pháp, tâm niệm pháp thù thắng, quân ma tổn giảm, phi pháp, rồng ác, A-tu-la không thể phá hoại. Người thực hành đúng pháp làm cho chánh pháp tăng trưởng, Thiên chúng không tổn giảm không còn yếu kém trong hàng Thiên nữ, quân ma ít dần, Thiên chúng có thế lực lớn. Nhờ tướng của cây mà biết chư Thiên có oai đức lớn.

Đã nói xong mọi việc của cõi trời Tam thập tam. Bấy giờ, Thiên vương Hộ thế từ cõi Diêm-phù-đề đến vườn cây Ba-lợi-da-đa của cõi trời thứ hai, thấy chư Thiên cõi trời Tam thập tam ở dưới cây Ba-lợi-da-đa cúng dường Như Lai bằng tâm thanh tịnh, thân Hộ thế phóng ánh sáng, đến nơi, cúi đầu lạy Đế Thích, thưa:

–Thiên vương! Giờ đây chư Thiên hãy hoan hỷ, tất cả muôn dân cõi Diêm-phù-đề tùy thuận pháp hành, cung phụng cha mẹ, Samôn, Bà-la-môn, cung kính các bậc kỳ túc.

Nghe vậy, chư Thiên đều hoan hỷ cúng dường Hộ thế.

Hộ thế nói:

–Ông đã làm cho ta vui, ông cũng sẽ như vậy, luôn được an vui. Đó là nhờ khuyên người Diêm-phù-đề thuận hành chánh pháp.

Nghe Hộ thế nói vậy, chư Thiên lại thiết lễ cúng dường. Cúng dường xong, thỉnh tượng Như Lai về Thiện pháp đường. Chư Thiên ở cây Thiên thọ vương cùng Đế Thích trở về vườn cây Ba-lợi-da-đa, vui chơi, thọ lạc cõi trời suốt bốn tháng mùa hạ, các Thiên nữ vây quanh vui chơi thọ lạc suốt bốn tháng mùa hạ. Nếu Thiên tử nào qua đời ở đây thì lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác thì được sinh trong cõi người, khôi ngô tuấn tú, ai cũng thích nhìn, tâm luôn vui vẻ, an lạc, không buồn, được mọi người yêu mến, luôn ca múa vui chơi. Tất cả người nữ thấy được đều yêu kính, hoặc được làm vua, quan, là nhờ dư báo.

 

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quán xét các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ mười một của cõi này tên là Ly hiểm ngạn. Do những nghiệp gì, chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người giữ giới, lợi ích cho chúng sinh, huân tập tâm bằng phước đức, hoặc người có công đức giữ giới bằng trí tuệ, hoặc cho người bệnh một bữa ăn. Không sát sinh, hoặc trong bộng cây có trùng, kiến và các loại trùng mọn mạy, hoặc người chăn bò, dê, voi, ngựa, lừa, lạc đà, vào mùa đông băng tuyết sương rơi phóng lửa đốt ở đồng trống thì người thiện lấy nước dập lửa, khuyên đừng làm, mình không cố ý làm, nếu làm thì sửa đổi, không vui theo, nói việc lo sợ để người trụ trong pháp thiện, làm cho chúng sinh trụ trong thiện pháp, không trộm cướp, không khuyên người trộm. Sau khi qua đời, vị ấy sinh lên cõi trời Ly hiểm ngạn. Đất ấy có những tòa nhà bằng vàng, bạc, xích bảo. Do các tạp nghiệp nên có các tạp bảo vàng bạc xen lẫn, được trang trí bằng các cây báu chim muông. Khắp nơi đều có các loại chim muông. Khắp cõi Ly hiểm ngạn đều có vườn rừng, trang trí vô lượng châu báu. Họ rời cõi Ly hiểm ngạn, ở trong rừng này, trang sức vật dụng sáng rực như màu dung kim. Có trăm ngàn Thiên nữ vây quanh thọ hưởng dục lạc. Tùy theo trụ xứ thân họ phóng ánh sáng, ánh sáng của cây cũng như thân trời. Họ vui chơi hưởng lạc trong rừng này, cùng các Thiên nữ đến Hà lâm. Hai bên bờ sông có nhiều cây vàng, lá bằng vàng ròng. Do ánh sáng của cây nên nước sông có màu vàng đều trở thành màu trắng, nhưng nước sông chảy xiết nên không thấy màu trắng. Thiên tử, Thiên nữ vui chơi hưởng lạc trong vườn cây. Họ nghĩ: Cây này nên lưu xuất thức uống ngon. Nhờ nghiệp thiện nên cây lưu xuất các thức uống ngon theo ý muốn của họ. Thức uống đó được đựng trong các vật báu đầy đủ sắc, hương, vị. Họ uống thức uống thượng vị cõi trời, hưởng hoan lạc cõi trời. Thấy các Thiên nữ bị lửa ái thiêu đốt nhưng vì hoan lạc che lấp nên không hay biết, Thiên tử lại nghĩ: Ta muốn nghe các thứ âm thanh. Nhờ nghiệp thiện, ngay lúc đó có gió thổi động rừng cây phát ra âm thanh hay hơn năm thứ âm nhạc. Thiên tử lại nghĩ: Cây này nên lưu xuất thức ăn cam lồ. Nhờ nghiệp thiện, thân cây giống như cái bình tạo ra mùi vị thạch mật không gì sánh bằng. Thiên tử ăn uống, ca hát rất hay, rồi đến đất báu, quan sát chiêm ngưỡng luôn nghĩ đến dục lạc. Họ đến đó hưởng năm dục lạc. Bỏ vùng này họ lại đến Phổ lâm. Trong đó có bảy loại chim, thiên nga bằng vàng ròng và bảy báu, oanh vũ bằng báu nhân-đà xanh, uyên ương có cánh bằng xích bảo, vịt trời bằng lưu ly, khổng tước bằng báu xanh xa cừ, mạng mạng bằng báu xanh, Ca-lăng-tần-già bằng san hô, bạc. Tiếng hót rất hay như tiếng chim bà-cầu, mọi người thích nghe. Chúng bay vút trên không, nô đùa vui chơi, hót tiếng rất hay như giọng ca của Thiên nữ. Trong ao hoa sen có nhiều ong vui chơi, chúng lại bay nhảy vui chơi trên mặt đất. Lại có cây bằng vàng đủ các loại lá sáng rực cả thân chim. Thấy các loài chim chư Thiên phát tâm hoan hỷ, nghe tiếng chúng hót tâm ý vui vẻ. Thiên tử đi trên hư không vui chơi với chim, hoặc vào trong nước vui chơi với chim, hoặc ở trên mặt đất vui chơi với chim. Thiên tử, Thiên nữ vui chơi, từng bầy chim cũng vui chơi thọ lạc. Quán xét các loài chim thọ hưởng diệu lạc cõi trời, Tỳ-kheo nói kệ:

Súc sinh hành dục
Là do ngu si
Chư Thiên nếu thế
Chẳng khác súc sinh.
Người hưởng diệu lạc
Không thích phóng dật
Người trí tuệ này
Khác với kẻ ngu.
Phóng dật từ trời
Cho đến địa ngục
Bậc trí dạy thế
Phóng dật như độc.
Kẻ ngu phóng dật
Đắm vui hiện tại
Quả phóng dật chín
Về sau hối hận.
Quán xét phóng dật
Không chút lợi ích
Ai bỏ phóng dật
Không có ưu não.
Phóng dật khổ lớn
Không phóng dật vui
Xin nói tóm lược
Hãy bỏ phóng dật.
Người khổ vì ái
Là sống phóng dật
Thích hành phóng dật
Không có quả vui.
Không sống phóng dật
Đến chỗ bất thoái
Không sống phóng dật
Không có quả khổ.
Những Thiên chúng này
Vui với loài chim
Chư Thiên, súc sinh
Không hề sai khác.
Cảnh giới, thân, ý
Tất cả đều hoại
Trời, người, phi nhân
Địa ngục, ngạ quỷ.
Ý nghiệp đều khác
Nghiệp khác cõi khác
Các nghiệp đều khác
Cảnh giới cũng vậy.
Tất cả tạp nghiệp
Sinh ở cõi trời
Tham đắm phóng dật
Chẳng biết thoái đọa.
Tướng chết đã đến
Người phải tự biết
Cõi trời thoái đọa
Chịu khổ não lớn.
Bị si gây hại
Phóng dật lừa dối
Chư Thiên khát ái
Đọa vào địa ngục.
Ham chơi tự dối
Đọa vào địa ngục
Hưởng diệu lạc trời
Sau chịu khổ lớn.
Bị tâm mê hoặc
Không chán sinh tử
Bị ái lừa dối
Từ khổ vào khổ.

Tỳ-kheo nói kệ chê trách các Thiên tử phóng dật, tham ái năm dục, không biết nhàm chán như lửa gặp củi. Đến khi nghiệp thiện hết, từ cõi trời vị ấy thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác được sinh trong cõi người, luôn được an lạc, ăn uống đầy đủ, đất nước giàu có an vui, ngũ cốc dồi dào, hoặc được làm vua, quan, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ mười hai của cõi này tên là Cốc nhai ngạn. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người có tâm thiện, tu hành phước đức, cúng dường thức ăn cho người đắc thiền thứ nhất, khuyên người cúng dường thức ăn, cúng xong vui mừng, khuyên người vui mừng, đó là bố thí. Không sát sinh, không trộm cướp, nên khi có người đi đường thì đào giếng, khơi ngòi, cung cấp nước, vật uống nước, cung cấp chi phí đi đường. Lại có người khác bảo trộm lấy để đi qua đồng trống, nếu không sẽ bị khát, người ấy tuy biết việc chết khát, nhưng vì sợ phạm tội nên không nhận lời, không trộm tài vật, cũng không vui theo, khuyên người không lấy, làm cho họ sống trong pháp lành, thậm chí mất mạng cũng không phạm tội trộm cướp. Thế nào là không sát sinh? Mình không sát sinh, khuyên người không sát sinh, khinh chê việc sát sinh. Nếu trên cửa sổ, cửa đi, xà ngang có trùng nhỏ, muốn đốt nhưng sợ tổn thương sinh mạng của chúng, không đóng cửa sở, cửa đi. Đó là không sát sinh. Khuyên người không sát sinh, sống trong pháp lành. Sau khi qua đời, vị ấy sinh lên trụ xứ Cốc nhai ngạn ở cõi trời Tam thập tam, hưởng quả báo của nghiệp thiện. Nơi ấy có rừng cây tên Tùy thời chi. Rừng này có các báu sáng rực như lưu ly xanh… trong sạch không nhơ uế. Các loài chim hót tiếng rất hay, hoa luôn nở, có các sông suối, ao hồ trang trí, hoa sen bằng lưu ly xanh, ngọn núi vàng rực sáng như màu vàng ròng. Các loài chim tạp sắc vui chơi trong đó, hoặc chơi trên đất, trong nước, trên núi, trong hang núi hiểm, hót tiếng lảnh lót. Đó là do nghiệp thiện hóa sinh. Hưởng quả báo của nghiệp thiện, các Thiên nữ vây quanh trang sức vòng hoa, y phục cõi trời, sắc tướng oai đức xinh đẹp khác thường. Họ vui chơi ca múa trong rừng ấy. Nhờ nghiệp thiện, chim chóc trong rừng nói kệ:

Chúng sinh tạo nghiệp lành
Hưởng diệu lạc cõi trời
Ai tạo nghiệp bất thiện
Chịu quả khổ địa ngục.
Đã sinh ở cõi trời
Mà có thể giác ngộ
Từ vui được quả vui
Không bị ái mê hoặc.
Dây nghiệp trói chúng sinh
Ở trong ngục ba cõi
Nghiệp lực tự do chuyển
Như trục quay căm xe.
Lưu chuyển trong ba cõi
Tám phương cùng trên dưới
Gió nghiệp lực thổi động
Như bụi trong hư không.
Do nhân duyên sinh khởi
Như hoa sen xinh đẹp
Sự trang sức cõi trời
Đều do nghiệp thiện sinh.
Ví như nước trong sạch
Như hư không chẳng bụi
Tâm thanh tịnh như thế
Đạt đến nơi an lạc.
Người giải thoát ba buộc
Hộ trì được năm căn
Người xa lìa một pháp
Hưởng diệu lạc cõi trời.
Người không có hổ thẹn
Ác tri thức hung hăng
Như độc, lại như lửa
Người trí nên lánh xa.
Luôn luôn thích gần gũi
Người chân thật hành thí
Thương xót các chúng sinh
Đường này sinh cõi trời.
Trực tâm không dua nịnh
Bố thí, tu thiền định
Nhờ nghiệp nhân của mình
Sinh lên cõi trời này.
Chúng sinh ở thế gian
Đều do pháp, phi pháp
Cứu giúp không gì hơn
Là thực hành chánh pháp.
Người nào bỏ chánh pháp
Thích tạo nghiệp bất thiện
Bị ác nghiệp thiêu đốt
Chịu khổ não vô cùng.
Đã được sinh lên trời
Nếu buông tâm phóng dật
Nghiệp thiện người ấy hết
Khi đọa lạc mới biết.
Cứu cánh lạc thù thắng
Không sinh cũng không chết
Lưới chết nhốt chúng sinh
Không có nơi an lạc.
Tùy theo chỗ thọlạc
Tâm ái càng tăng trưởng
Lửa ái thiêu chúng sinh
Chịu quả khổ địa ngục.
Việc chư Thiên không làm
Là không sống phóng dật
Phóng dật hơn độc hại
Thoái đọa mất cõi trời.

Lúc chim nói pháp này, tâm Thiên tử tán loạn, nhớ đến các Thiên nữ nên không nghe, không thọ lãnh pháp lợi ích này, tâm ý đam mê khát ái năm dục, vui chơi hưởng lạc trong những nơi du ngoạn như ao hoa sen… Họ lại đến núi Nhạo du hý. Có loài chim tên Hý lạc cùng nhau vui chơi ở đó, thấy loài chim ấy, Thiên tử nghĩ: “Lạ thay loài chim này! Có đủ màu sắc, âm thanh hơn các loài chim khác”. Lại nghĩ: Ta nên cỡi chim này vui chơi trong vườn. Chư Thiên vừa nghĩ như thế, thân chim liền biến ra to lớn, Thiên tử đưa tay vỗ về chim, rồi cỡi chim bay lên hư không thọ lạc. Thiên tử lại nghĩ: Trên lưng chim phải hóa ra ngai báu, có đủ ao hoa vườn cảnh, chim chóc. Lại bay lên hư không vui cùng Thiên nữ xinh đẹp, vui chơi khắp nơi, hưởng mọi diệu lạc, nhìn khắp các trụ xứ của chư Thiên. Quan sát xong, tham ái tăng trưởng gấp bội không gì sánh được, lửa ái làm cho sáu dục bùng cháy, không thể nào điều phục được. Lầm cho ái ấy là vui, kỳ thật nó là khổ lớn. Họ cỡi chim bay lên hư không nghe năm thứ âm nhạc, tiếng ca hót rất hay không sao ví dụ được. Họ thấy tất cả các Thiên tử, Thiên nữ đang ở trên núi Tu-di, vườn cảnh, ao hồ, hang núi rừng cây, hoa sen phủ khắp và có nhiều chim chóc, mỗi trụ xứ có vô lượng trăm ngàn chư Thiên ở. Họ nhìn khắp nơi mà không biết chán các căn tham đắm năm dục, hoan hỷ không thỏa mãn, tâm ái tăng trưởng. Cỡi chim vui chơi một thời gian lâu, nhìn thấy sáu vạn ngọn núi của núi Tu-di, các trụ xứ của chư Thiên tạo nghiệp thiện, ánh sáng của vô lượng châu báu rực rỡ trông thật thích thú. Bốn mặt núi Tu-di có bốn màu: lưu ly, bạch ngân, vàng ròng, pha lê. Thiên tử này quan sát khắp núi Tu-di, cỡi chim trở về chỗ ở. Về đến nơi, sắc tướng rực rỡ như ý họ muốn, Thiên tử lại cỡi chim đến ao Ma-thời-đa. Chu vi ao này là năm do-tuần, được trang trí các ao sen sắc lưu ly xanh, chim chóc đến ao này vui chơi thọ hưởng năm dục với các Thiên nữ giống như các loài ong tham vị hoa uống nước Ma-thâu, ăn thức ăn cam lồ, đầy đủ sắc hương vị ngon, mặc áo báu cõi trời. Họ cùng các Thiên nữ vui chơi thọ lạc đến khi nghiệp thiện hết, từ cõi trời, họ qua đời, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác được sinh trong cõi người, luôn được an lạc, có nhiều xe cộ vui chơi, hoặc được làm vua, quan, được mọi người yêu mến, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ mười ba của cõi này tên là Ma-ni tạng. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người thiện làm lợi ích cho chúng sinh, không sát sinh, trộm cướp, không dạy người làm để họ sống trong pháp lành, tự mình không sát sinh, cho đến thấy trong rượu mật có côn trùng thuộc loại thấp sinh, nếu không lọc bỏ thì không cố ý uống, không khuyên người làm, cũng không vui theo, biết nghiệp bất thiện thì không làm, thấy ai làm ác thì lánh xa không gần gũi, khuyên họ tu thiện. Đó là không sát sinh. Thế nào là không trộm cướp? Nếu vào tháp miếu thấy đèn sáng cúng tháp Phật thì không lấy đèn ấy làm việc khác, cũng không lấy tro làm mực viết, sợ tất cả tội lỗi dù nhỏ. Đó là không trộm. Lại có cách không sát sinh, không trộm cướp khác: Không sát sinh nghĩa là thấy con muỗi, con kiến cắn người thì không giết hại, tâm không nghĩ đến việc chết, thấy ai giết thì khuyên họ thả bỏ, nói với họ: Sát sinh là nghiệp bất thiện, chết sẽ đọa vào địa ngục Hoạt. Khuyên họ như thế để họ không làm ác, an trụ trong pháp lành. Người này tự giữ giới, khuyên người giữ giới, đem thức ăn bố thí cho người đi trong đồng trống đói khát, gặp lúc đói khát khốn khổ thì không trộm thức ăn của người khác, giảm bớt phần ăn của mình cho người nghèo cùng đói khát, thiếu lương thực trong đồng trống. Nhờ hai việc phước đức, tâm suy nghĩ và cúng dường phước điền thù thắng, nên được quả báo lớn. Vì sao? Vì bệnh tật lớn nhất không gì hơn đói khát, thế nên bố thí thức ăn được quả báo lớn. Người giữ hai chi giới này tự lợi, lợi tha, tâm lành, hạnh chánh, luôn sợ từng tội nhỏ, đem châu báu cung phụng cha mẹ, hoặc đem anh lạc cúng dường tượng Như Lai, sau khi qua đời, vị ấy sinh lên trụ xứ Ma-ni tạng của cõi trời Tam thập tam. Ở đó, vị ấy thọ hưởng an lạc thù thắng, vui hưởng năm dục. Người tạo nghiệp lành này oai đức sáng rực, chiếu đến năm trăm do-tuần. Ví như mặt trời mọc chiếu khắp các ngọn núi, ánh sáng của vị này chiếu khắp mọi nơi cũng thế. Đất bằng các thứ báu này đã có đầy đủ ánh sáng, nhưng khi ánh sáng của thân Thiên tử chiếu thì nó càng sáng gấp trăm lần. Ánh sáng đó đủ các màu xanh, vàng, đỏ, tía như sắc cầu vồng cõi trời. Thân vị này càng sáng rực, trang sức lộng lẫy là nhờ nghiệp thiện. Thân sáng như ánh điện vượt hơn Thiên chúng khác, ví như trong các ngôi sao, mặt trăng sáng nhất, thân của vị trời này rực rỡ cũng vậy. Quan sát đất báu đó được trang trí bằng các ma-ni xen lẫn nhau rất đều và sáng, khắp nơi sáng rực như trăm mặt trời cùng chiếu, thấy vậy Thiên tử vui mừng. Lại quan sát các nơi khác thấy Thiên nữ xinh đẹp không sao ví dụ được, họ trang sức lộng lẫy, thọ hưởng dục lạc, trổi nhạc đánh đàn, ca hát, lại có tiếng sinh, địch, không hầu… các âm thanh ca hát. Có người đeo vòng hoa trời ca múa hoặc nô đùa vui chơi với chim trong ao hoa, hoặc ăn trái cây cõi trời, lại hái hoa trái của cây Như ý. Âm thanh ca nhạc đó làm cho mọi người vui vẻ. Đến nơi, thấy các Thiên nữ xinh đẹp bị cảnh giới như rắn độc gây hại, Thiên tử quay về phía các Thiên nữ xinh đẹp. Thấy vậy lửa dục càng thiêu đốt tâm, Thiên tử ngắm nhìn Thiên nữ. Thấy chồng mình sắp chết, năm tướng suy hiện ra, các Thiên nữ bỏ chồng cũ, đến chỗ Thiên tử này, giống như các con ong bỏ hoa héo, bay đến hoa mới. Họ trang sức vòng hoa, y phục cõi trời, đem tâm ái dục làm vui lòng Thiên tử. Thiên tử bị thoái đọa ấy do từ vô thỉ đến nay chạy theo ái dục, thấy các Thiên nữ phản bội mình đi đến người khác nên rất buồn khổ, cảm thấy như lửa dữ địa ngục A-tỳ đốt thân. Các Thiên tử thấy Thiên nữ phản bội mình chạy đến người khác nên đau khổ như vậy. Từ cõi trời, vị ấy qua đời, vì tâm ganh ghét nên hại thân mình, quả báo của Hữu sắp hết, duyên Thủ làm nhơ tâm nên không thấy gì khác, bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì sao thấy Thiên nữ phản bội mình lại buồn khổ? Vì đời trước ở cõi người, làm việc tà hạnh, xâm phạm vợ người, nhờ tạo nghiệp lành được sinh lên cõi trời, vì xâm phạm vợ người nên gặp phải nghiệp ác này. Như vậy trong nghiệp thiện, các nghiệp đã chín mùi, cho nên đừng tạo nghiệp ác, dù nhỏ. Người nào vâng giữ bảy chi giới, giới không bị thất thoát thì có quả báo khác, ở cõi trời Dạ-ma bị thoái đọa thì không như vậy. Xin nói lược về quả báo đời vị lai, không cần nói rộng.

Các Thiên nữ trang sức lộng lẫy vội vã chạy đến chỗ Thiên tử sơ sinh, đeo vòng hoa trời cho Thiên tử, hoa ấy đầy đủ sắc hương, không tàn úa. Đeo vòng hoa, Thiên tử sơ sinh vui vẻ cùng gần gũi vui chơi trong vườn cây. Thiên chúng ở đây được nước trong sạch, hoa bằng lưu ly, lá bằng vàng ròng, tua bằng kim cương, loài ong vây quanh. Loài ong ấy cánh bằng vàng ròng, thân bằng lưu ly, cánh bằng bạch ngân, thân bằng vàng ròng, cánh bằng xích bảo, thân bằng tạp bảo, cánh bằng san hô… chúng luôn vui chơi trong hoa sen không héo này, tiếng chúng rất hay như tiếng Thiên nữ. Các loài ong này xinh đẹp như thế, Thiên tử, Thiên nữ vào ao sen ca múa ngâm vịnh, thọ lạc một thời gian lâu, họ lại đến vườn Kim man hai cây che kín. Đến đó, tiếng nhạc rất hay, nhìn thấy núi Tu-di sáng rực như màu dung kim, thấy các Thiên tử cùng các Thiên nữ tấu nhạc vui chơi trên núi, họ trang sức vòng hoa, y phục cõi trời và anh lạc bằng vàng Diêm-phù-đàn, ao hoa sen, ao hoa Ưu-bát-la có đầy đủ hương vị, Thiên tử, Thiên nữ vui chơi hưởng lạc, thiên nga, vịt trời, uyên ương, sư tử sức mạnh đều xếp hàng xung quanh, chư Thiên vui chơi hưởng lạc ở trong đó. Lại thấy Thiên tử, Thiên nữ cùng đi trên hư không sáng rực như đèn sáng, họ ca hát rất hay để vui chơi, rải các hoa hơm, hưởng diệu lạc cõi trời, trổi năm thứ âm nhạc để vui chơi. Lại thấy Thiên chúng uống thức ngon cõi trời nhưng không say, nói lời hòa ái để vui chơi, tâm luôn vui vẻ. Lại thấy Thiên chúng ăn thức ăn cam lồ. Nhờ nghiệp thiện của mình nên được quả báo đủ hương, sắc, vị, xúc. Lại thấy Thiên chúng hái hoa bảy báu trên cây bảy báu để trang sức, lại thấy Thiên chúng hái hoa trái để ăn, hoặc ném đùa nhau để vui chơi. Lại thấy Thiên chúng cỡi chim trời, trang sức bảy báu lẫn lộn, cỡi thiên nga bay trong hư không cùng nhau vui chơi, lại thấy Thiên chúng ca hát ở trước Thiên tử, các Thiên nữ vui vẻ múa hát, lấy hoa sen ném nhau để sinh dục tâm, nói năng hòa nhã, cảnh giới tham ái càng tăng. Thấy các Thiên chúng do nghiệp thiện hóa sinh, Thiên tử mới sinh tự nghĩ: Ta tuy xem được bao nhiêu việc đó, nhưng mắt không thỏa mãn, tai, mũi, lưỡi, thân không thỏa mãn với hương, vị, xúc, thanh, thân thể trang sức y phục đẹp cõi trời cũng không biết thỏa mãn, tâm luôn chạy theo các pháp ái, ta thích dục lạc, hãy hưởng diệu lạc này. Suy xét xong, Thiên tử tham ái dục lạc như năm dục mà chư Thiên thọ hưởng, Thiên tử bị sáu ái che tâm, lửa ái đốt xung quanh. Ví như có người đi trong đồng trống vào lúc mặt trời nóng bức vào mùa hạ, lửa dữ bỗng phát sinh đốt các cỏ khô, cành lá cây cối trong hang núi, khắp nơi đều rực cháy nên kinh sợ bỏ chạy nhưng không biết trốn đâu. Lửa đó hừng hực thiêu cháy bốn bên, cùng một thế lửa, đốt các khu rừng. Người ấy đi đến đâu khói lửa bốc cháy đến đó, bị lửa thiêu đốt không sao tránh khỏi. Tất cả kẻ phàm phu ngu si ở thế gian cũng vậy, lửa ái thiêu đốt cành cây cỏ khô. Giờ lên trời, người tạo nghiệp bị gió ngu si kết sử thổi vào, lửa ái thiêu đốt. Người tu thiền quán đạt thiền thế tục giống như cây khô lá cỏ trong núi, bị lửa ái thiêu đốt. Ngọn lửa hừng hực dụ cho sáu ái. Người chạy khắp nơi dụ cho sáu căn nhiễm đắm cảnh giới. Lửa nghĩ nhớ cảnh giới hừng hực, gió mạnh thổi vào bị lửa ái thiêu đốt, phá hoại trời, người. Lửa đó dụ cho lửa ái. Nhờ nghiệp thiện Thiên tử thọ hưởng vô lượng trăm ngàn hoan lạc. Đến khi nghiệp thiện hết, từ cõi trời, vị ấy bị thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người được sống trong đất báu, trang sức các vật báu, sinh trong nhà giàu, hoặc được làm vua, quan, luôn được an lạc, được mọi người yêu mến, con cháu đông đúc, của cải dư dật, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ mười bốn của cõi này tên là Tuyền hành. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh không sát sinh, không trộm cướp, thấy ai làm thì khuyên họ đừng làm, nói nghiệp bất thiện sẽ chịu quả báo ác. Thế nào là không sát sinh? Nếu trong rau nước mà có côn trùng nhỏ thì không ăn để giữ mạng sống của chúng, nếu không lược nước thì không uống. Không bỏ côn trùng sau khi lược nước trên đất khô, mà thả chúng vào lại nước để chúng an ổn không chết, lại khuyên người khác sống trong pháp lành. Thế nào là không trộm cướp? Không sinh tâm trộm vật của người khác như rau trái, trái am-ba-la, mía, khuyên người không trộm, tự giữ giới, khuyên người giữ giới. Thế nào là giữ giới? Không sát sinh, trộm cướp, cho dù chết cũng không uống nước có trùng, khuyên người đừng làm. Đó là không sát sinh. Thế nào là không trộm? Cho dù là rau cỏ cũng không lấy, luôn bố thí, bố thí thuốc cho người bệnh để được an ổn, không đem thuốc làm bằng trùng chết trị bệnh. Nhờ bố thí hoàn toàn nên cho đến khi đạt Niết-bàn mà phước đức không hết. Sau khi qua đời, vị ấy sinh lên trụ xứ Tuyền hành của cõi trời Tam thập tam. Ở đó, nhờ nghiệp thiện nên các Thiên nữ xinh đẹp đem các vật báu cung phụng. Sau đó lại đến rừng Quang luân tấu các âm nhạc. Trong rừng có nhiều loài chim tên Trang nghiêm thọ. Nhờ thế lực của chim nên Thiên tử muốn đến đâu thì chim bay lên hư không, rừng cây cũng chuyển theo. Nếu Thiên tử ở dưới gốc cây đi theo rừng cây, đến đâu thì nơi đó hóa ra ao sen có đủ các loài hoa, cánh bằng lưu ly, cọng bằng vàng ròng, tua bằng bạch ngân. Trên đài hoa có các Thiên nữ ca hát rất hay. Đó là do nghiệp thiện. Trong hoa sen lưu xuất nước Ma-thâu, các Thiên nữ uống nước ấy, các Thiên tử ngồi trên đài hoa, các Thiên nữ vây quanh, cùng nhau uống nước Ma-thâu. Thọ hưởng hoan lạc một thời gian, họ từ hư không đi xuống, loài chim bay theo, cùng Thiên nữ lên xe Ưu-bátla. Xe ấy rộng hai do-tuần, trong đó có trăm ngàn hoa Ưu-bát-la, mỗi Thiên nữ ngồi trên một cánh hoa ca múa trổi nhạc. Lại có hoa Ưu-bát-la xanh. Do ánh sáng xanh của hoa nên sắc thân các Thiên nữ cũng có sắc xanh, nếu ánh sáng đỏ thì thân Thiên nữ có sắc đỏ. Họ trang sức đẹp. Thiên tử cùng Thiên nữ ngồi trên đài sen. Nhờ nghiệp thiện các Thiên nữ vây quanh ngồi trên tua hoa, tay cầm các phướn báu sặc sỡ, ca múa vui chơi. Hưởng mọi hoan lạc cõi trời một thời gian lâu, họ bước xuống đài hoa, lên xe Kê-bà-la, đến sông Nhạo kiến. Hai bên bờ sông có nhiều cây báu, cành lá sum suê, thân cây mập mạp, có các loài chim xinh đẹp, hót tiếng Bà-cầu trang trí bờ sông. Chư Thiên muốn gì thì dòng sông lưu xuất ra. Dòng sông ấy rất đẹp, Thiên tử ca múa cùng nhau vui chơi thật thích thú. Thiên tử lại đến dòng sông ái đó. Thấy vậy các Thiên nữ rất vui, ca múa nô đùa, trổi nhạc. Lại có Thiên nữ trổi nhạc đến chỗ Thiên tử. Thấy các Thiên nữ xinh đẹp, các Thiên tử càng thêm say đắm, chạy đến chỗ các Thiên nữ. Họ cùng các Thiên nữ vui chơi trên bờ sông. Các Thiên nữ đều tập hợp trổi nhạc rất hay. Tiếng ca ấy vang khắp các núi báu trên núi chúa Tu-di. Các Thiên chúng ở đó nghe tiếng ca đều tập hợp đến, tâm ý tham đắm tiếng ca của Thiên nữ. Thiên tử, Thiên nữ hòa hợp nhau, không ganh ghét, cùng vui chơi ca múa, rồi đến vườn du hý, thọ hưởng vô lượng hoan lạc một thời gian dài, đến khi nghiệp thiện hết, từ cõi trời, vị ấy qua đời, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người luôn được an lạc, thích tắm rửa xoa hương bột, thích hoa sen, hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-mâu-đầu, hoa Câu-ca-na-đà, thông minh chất trực, thích chánh pháp, hoặc được làm vua, quan, trưởng giả, coi giữ thành chính hoặc làm thầy, cuộc sống hạnh phúc, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ mười lăm của cõi này tên là Kim điện. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng Thiên nhãn, trí tuệ quan sát, thấy người giữ các giới không sát sinh, trộm cướp. Thế nào là không sát sinh? Nếu thấy kẻ oán địch đến hại mình, hoặc người khác xâm phạm vợ mình dù bắt được nhưng không đánh đập, không gây hại, thả cho họ chạy thoát, hòa nhã khuyên nhũ, hoặc thấy người hại kẻ oan gia của mình lại đem tiền chuộc mạng để kẻ ấy thoát chết. Hoặc có kẻ xấu ác với mình, bắt được nhưng thả họ đi, không gây hại. Kẻ ác ấy lại đến nhà để xâm hại, dù bắt được nhưng lại thả đi, không gây hại, đó là vì giữ gìn giới đức, sợ nghiệp quả. Thấy kẻ oan gia cầm dao muốn giết người liền bảo vệ người ấy để họ thoát chết. Đó là vì sợ việc phá giới, thà bỏ thân mạng mình chớ không gây hại người, đó là không sát sinh. Thế nào là không trộm cướp? Không trộm cướp có nhiều cách: Người giữ giới này rất lo sợ dù là tội nhỏ, sợ nghiệp quả nên không tạo nghiệp ác, thực hành nghiệp thiện. Có người giữ giới không trộm nên rất sợ tội lỗi dù nhỏ như vi trần; đến những chỗ như chùa, tháp, vườn cảnh, nơi tụng kinh thanh tịnh, nơi kinh hành, bên bờ sông không hề lấy vật của người khác, không cố ý lấy giày dép của người, người ta không cho thì không dùng, đó là vì hộ trì giới cấm. Dù ban ngày hay ban đêm cũng không sinh tâm trộm cướp, đó gọi là không trộm cướp. Thế nào là người giữ giới? Là người bỏ các pháp bất tịnh, không đáng yêu, không vui theo bất thiện, giữ giới thanh tịnh, được người thiện yêu mến, chân thật không hư dối. Người giữ giới này được sinh lên cõi trời, nhất định đạt Niết-bàn, tùy tâm nguyện thành tựu quả Chánh đẳng giác. Người giữ giới này hoặc đi trong đồng trống, hoặc đi một mình, đi với bạn, đi trên đường, ở chỗ hiểm nạn thấy thú ác mang con, nhưng vì cơn đói dằn vặt nên muốn ăn con mình, thấy vậy người này bỏ thân mạng mình cho thú ác ăn để nó không ăn con của nó. Người giữ giới này vì thương yêu chúng sinh, muốn kéo dài mạng sống của chúng nên bỏ thân mạng mình, hiếu dưỡng cha mẹ. Thế nào là bố thí? Người giữ giới dù nghèo cùng khốn khổ tần tảo tìm cái ăn, thuận pháp giữ giới, thấy Sa-môn tu định diệt tận, sau khi xuất định, vị ấy đến nhà khất thực, người ấy giảm bớt phần ăn của vợ con mình, cúng dường cho Tỳ-kheo ấy một ít thức ăn, tự nhịn ăn một bữa. Thấy vị ấy ăn rồi sinh tâm hoan hỷ. Lại dạy người khác không sát sinh, không trộm cướp, sinh trong pháp lành, thấy họ làm được tâm sinh hoan hỷ. Người giữ giới này nhờ tự lợi lợi tha nên sau khi qua đời được sinh lên cõi trời Tam thập tam, giống như hương thơm tỏa ngát trong điện vàng. Sau khi sinh lên cõi trời, người tạo nghiệp lành thọ hưởng an lạc, điện bằng vàng ròng, trang trí các vật báu. Thấy vậy, Đế Thích sinh tâm thán phục, tha hồ thọ lạc, nói kệ:

Nghiệp lành quả lành
Niềm vui thượng diệu
Chư Thiên thọ hưởng
Là do nghiệp trước.
Có xe bốn bánh
Voi ngựa kéo đi
Trí tuệ là móc
Xe sáng như nhật.
Quả lành giữ giới
Được sinh lên trời
Thương yêu chúng sinh
Như mẹ yêu con.
Người có Từ bi
Lên được cõi trời
Người sống Từ bi
Lợi ích chúng sinh.
Luôn được cúng dường
Sau sinh lên trời
Thương yêu, hành hóa
Lợi ích chúng sinh.
Người này như trời
Chư Thiên kính ngưỡng
Người sống Từ bi
Đẹp như mặt trăng.
Che chở chúng sinh
Xa lìa ưu não
Thế nên khuyến khích
Tu tập cầu vui.

Nói kệ xong, Đế Thích vào xe vàng, ngồi tòa êm ái được trang trí nhiều hình sắc, các Thiên chúng cũng ngồi ở đó, các Thiên nữ vây quanh. Họ vui chơi thọ hưởng diệu lạc một thời gian dài, trang sức sắc thân xinh đẹp. Khi ấy Đế Thích bước xuống xe, đến rừng Nhất thiết lạc, trăm ngàn Thiên chúng vây quanh, tấu các kỹ nhạc, âm thanh tuyệt diệu. Bấy giờ Thiên chúng phóng ánh sáng lớn đi theo Đế Thích, họ nhìn thấy có nơi vui chơi cách đó không xa, có vô lượng ánh sáng rực rỡ, cây bằng vàng, lưu ly sáng rực. Nơi ấy được trang trí đủ thứ thật không sao nói hết được, nay chỉ nói một phần nhỏ. Ví như bảy mặt trăng cùng mọc, ánh sáng khu rừng ấy cũng vậy, ánh sáng ấy có các màu sắc xanh, vàng, đỏ, tía. Khu rừng này, ánh sáng rực rỡ dùng để trang trí nơi vui chơi. Thấy vậy, Đế Thích hỏi các Thiên chúng:

–Các ngươi có thấy nơi vui chơi với nhiều hoan lạc, vườn rừng trang trí không?

Đáp:

–Thưa có thấy.

Đế Thích nói với Thiên chúng:

–Trong đời quá khứ, Thiên vương Đảnh sinh cùng Đế Thích ở trong rừng này, ngồi chung một tòa, vui chơi thọ lạc, có vô lượng Thiên nữ vây quanh. Thiên vương là vua trong bốn cõi. Bấy giờ Nhị Thiên vương hưởng vô lượng trăm ngàn vạn ức hoan lạc năm dục vẫn không biết thỏa mãn nên bị thoái đọa. Nhờ nghiệp thiện Đảnh sinh vương được vào rừng này, oai đức sáng rỡ, tuấn tú, tự tại. Giờ đây ta sẽ nói, các ông hãy lắng nghe. Vào đời quá khứ có Đảnh sinh vương làm vua trong bốn cõi, không dùng dao gậy, cũng không dùng hình phạt, dục vọng dẫy đầy, nhờ nghiệp thiện đời trước nên sinh lên cõi trời này. Thân hình vị ấy sáng rực gấp mười lần núi Tu-di, tất cả ánh sáng gặp ánh sáng ấy đều diệt mất không hiển hiện. Thấy Đảnh sinh vương, Tứ Thiên vương ra nghênh đón, thưa: Vi diệu thay! Đại vương, ông đến đây. Tôi xin nghinh tiếp đại vương, cung cấp mọi thứ cần dùng.

Nhận phẩm vật xong, Đảnh sinh vương lên cõi trời Tam thập tam. Đảnh sinh vương ở trong cõi này oai đức rực rỡ như ánh sáng mặt trời tối thắng trong cõi người.

Khi ấy bốn vị trời Hộ thế tự thấy mình, ánh sáng không hiển hiện lấy làm lạ, nói với chư Thiên: Đảnh sinh vương đến cõi trời Tam thập tam này hay là do sức oai đức của thân ông, hay là uy lực của xe, chẳng phải oai lực của vị trời khác, cũng không phải oai lực của người khác, các ngươi đừng lo sợ, người này thuận theo chánh pháp, làm vua Chuyển luân.

Hộ thế vừa nói xong, Đảnh sinh vương đến cõi trời Tam thập tam. Đang vui chơi thọ lạc, thấy Đảnh sinh vương, Đế Thích liền chia nửa tòa, mời vị ấy ngồi. Đảnh sinh vương và Đế Thích ngồi chung một tòa. Hai vua thọ hưởng hoan lạc một thời gian dài, đến khi nghiệp thiện hết, họ bị thoái đọa. Các nơi vui chơi ở cõi trời Tam thập tam không nơi nào sánh bằng rừng Nhất thiết lạc. Rừng ấy xinh đẹp, trang trí vô lượng bảo vật, sáng rỡ như mặt trời.

Nói xong Đế Thích cùng trăm ngàn Thiên nữ vây quanh vào rừng Nhất thiết lạc. Vào rừng rồi, Thiên tử, Thiên nữ vui chơi thọ lạc, ăn thức ăn cam lồ. Ăn uống xong, họ lên bảo điện. Điện ấy sáng rực, nguy nga lộng lẫy như ánh sáng mặt trời. Họ trổi các âm nhạc trở về Thiện pháp đường. Đế Thích đi rồi, chư Thiên ở chốn cũ thọ hưởng năm dục lạc, đến khi nghiệp thiện hết, họ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu được sinh trong cõi người, luôn được gặp thời an ổn, không gặp lúc binh đao, sinh trong nước tốt đẹp, đầy đủ vườn rừng và lúa mía hoa quả, là nơi giàu có, luôn gặp chánh pháp, hoặc được làm vua, quan, được mọi người yêu mến, khôi ngô tuấn tú, đầy đủ các căn, con cháu đông đúc, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ mười sáu của cõi này tên là Man ảnh. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh với tâm thiện thực hành nghiệp thiện, không sát sinh, không trộm cướp. Thế nào là không sát sinh, không trộm cướp? Có mấy loại không sát sinh, trộm cướp? Không sát sinh là tự mình không giết hại sinh mạng, không bắt, không bán các loại cá, rùa, ngọc trai, sò, thấy người giết hại thì khuyên họ giữ giới, thấy người làm không vui theo, khuyên bảo họ để họ sinh trong pháp lành. Đó là không sát sinh. Thế nào là không trộm cướp? Người lành giữ giới bằng tâm thanh tịnh, trực tâm, không có tâm tham lam, không ngửi hương thơm nơi tháp miếu, phòng tăng đốt hương không tìm cách đem hương ấy ướp vào áo, nếu mũi ngửi được hương ấy thì không sinh tâm tham đắm. Đó là sự vi tế của giới không trộm cướp. Thấy người khác làm, khuyên họ đừng làm, để họ sống trong pháp lành. Chúng sinh tự lợi, lợi tha ấy dùng những tâm gì lợi ích cho chúng sinh? Thấy người giết hại sinh mạng, giống như giết con mình, quan sát loài trùng cũng như vậy, còn khuyên dạy người khác để họ sống trong pháp lành. Thế nào là bố thí? Người nghèo khổ dù lam lũ làm việc được tài vật lại đem bố thí, thấy người giữ giới, tu hành, người chứng thiền thứ nhất, liền chia một nửa phần ăn của mình cho họ, còn khuyên người bố thí. Người tự lợi, lợi tha này sau khi qua đời được sinh lên cõi trời Man ảnh. Cõi ấy có cây tên Man ảnh, vòng ánh sáng của nó chiếu khắp vườn rừng.

Hương thơm của cây này xông khắp một do-tuần, thơm hơn hương của các loài hoa khác. Hoa ấy nhỏ dài, chỉ một hoa là làm đủ một vòng hoa trang sức trên đầu, hoa ấy có nhiều màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng lẫn lộn, sum suê tươi tốt. Họ ở trong rừng thọ hưởng năm dục, trổi âm nhạc, đủ các dục lạc, họ muốn gì được nấy, thọ hưởng vô lượng sự khác lạ. Nhờ nghiệp thiện nên có được tất cả. Trong rừng ấy có ao hoa sen tên là Tạp hoa, do sức mạnh mọc ra các hoa sen, hoa luôn luôn nở, có các loài ong màu sắc bảy báu ở trong ao sen kêu tiếng rất hay. Nghe tiếng ong, Thiên tử, Thiên nữ rất vui mừng, nói với nhau: Lạ thay! Loài ong này kêu tiếng hay. Lại có loài thiên nga dùng cánh quạt ao hoa làm cho hoa nở rộ, màu sắc hoàng kim, che khắp mặt ao. Loài vị trời thấy vậy vui vẻ chạy đến kêu tiếng rất hay. Trong ao lại có nhiều loại chim. Vì tâm vui vẻ, Thiên tử, Thiên nữ bỏ các âm nhạc, đến chỗ loài chim vui chơi hưởng lạc. Họ lại đến các dãy cung điện, nơi vui chơi. Trụ cung điện bằng bảy báu, trang trí vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, pha lê. Ở đó, có các Thiên nữ vui chơi hưởng lạc, trang sức vật báu trời, xoa thân bằng hương bột chiên-đàn. Họ cùng nhau vui chơi, không ganh ghét, luôn yêu mến nhau, không có tâm đố kỵ, hưởng quả báo của tự nghiệp. Do những loại nghiệp khác nhau nên sinh ở những nơi khác nhau, chịu quả báo của tự nghiệp, vui chơi thọ lạc, họ lại đến cây Như ý. Cây ấy có sức mạnh mà chư Thiên muốn gì được nấy. Trong rừng này có dòng sông đầy đủ thức ăn thơm ngon, đẹp. Họ vui mừng nô đùa trong sông, ăn thức ăn cam lồ. Ăn uống xong, họ càng vui vẻ, lại đến rừng hoa sen xanh, hoa ấy có đủ sắc, hương, vị. Trong lá hoa lưu xuất ra thức uống ngọt ngon, giống như xác rượu tiết ra rượu, màu sắc trong xanh như Phân-đà-lợi. Phân-đà-lợi vàng lưu xuất ra nước uống sắc vàng, hoa màu lưu ly lưu xuất thức uống sắc lưu ly, hoa màu pha lê lưu xuất thức uống sắc pha lê, hoa màu xa cừ lưu xuất thức uống sắc xa cừ, hoa tạp sắc lưu xuất thức uống tạp sắc. Hoa lá tạp sắc, cọng bằng lưu ly, tua bằng kim cương. Từ hoa lưu xuất đủ các thức uống mùi vị rất thơm ngon, uống xong, chư Thiên lại đến rừng Nhất thiết quán. Đến đây họ sẽ thấy được tất cả các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Rừng Nhất thiết quán trông thật đáng yêu. Trong rừng này có ao sen tên Phổ lưu, rộng ba mươi dặm, nước sông trong lặng tràn đầy như màu lưu ly. Các loài thiên nga, vịt trời, uyên ương vây quanh ở đó. Tất cả các loài chim đều có màu hoàng kim, lưng bằng bảy báu, chân bằng san hô, mắt bằng xích bảo trang trí tạp bảo. Chúng kêu rất hay, vui chơi nhảy múa. Khi ấy các Thiên nữ đến nơi vui chơi. Nơi ấy có chim sắc hoàng kim hót tiếng rất hay, Thiên tử lên xe vàng. Xe ấy sáng rực như màu dung kim, họ nói với nhau: “Chúng ta thấy những nơi vui chơi của chư Thiên, làm cho ánh sáng trên thân của Thiên chúng càng vàng rực gấp bội”. Họ ở đấy vui chơi thọ hưởng năm dục, tham ái cảnh giới không thỏa mãn, như thêm củi vào lửa, lửa càng bốc cao, chư Thiên tham ái sắc, thanh, hương, vị, xúc cũng thế không biết nhàm chán. Họ ở cõi trời thọ hưởng năm dục lạc đến khi nghiệp thiện hết, bị thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác được sinh trong cõi người, luôn thọ hưởng an lạc, trang sức vòng hoa, xoa thân bằng hương bột, tâm luôn hoan hỷ, hoặc được làm vua, quan, có nhiều của báu, được mọi người yêu mến, không có giặc oán, cũng không bệnh lo, là nhờ dư báo.

 

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ mười bảy của cõi này tên là Nhu nhuyến. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người giữ các giới không sát sinh, trộm cướp nên được sinh lên cõi này. Thế nào là không sát sinh? Có chúng sinh tham tài lợi, buông lung theo năm dục, giết rắn độc để lấy châu báu nuôi mạng sống, người giữ giới không làm việc này. Đó là không sát sinh, còn dạy người khác không sát sinh, cho dù là chúng sinh nhỏ như muỗi, kiến cũng không cố ý giết. Thế nào là không trộm cắp? Không dùng tâm trộm lấy đất đai của người, cho dù là vật nhỏ cũng không cố ý lấy, ngay những sách vở ghi chép của người cũng không sao chép lén để dùng. Đó là không trộm. Thế nào là bố thí? Người giữ giới dù nghèo khổ thiếu thốn nhưng không có tâm tham lam, giảm tài vật của mình để cúng thức ăn, y phục, đồ nằm, thuốc thang và vật nuôi sống cho người chứng thiền thứ nhất hoặc sửa sang đất chùa cho bằng phẳng để chúng tăng đi lại an ổn không tai nạn. Tự mình làm việc bố thí đó, còn làm cho người khác sống trong pháp lành, khuyên người bỏ nghiệp ác. Người giữ giới không sát sinh, trộm cướp, tự lợi, lợi tha, nhờ thế sau khi qua đời được sinh lên cõi trời Tam thập tam. Ở đây, vị ấy thọ hưởng diệu lạc. Đất ấy được trải lụa mềm mịn trơn láng, chư Thiên bước đi, thảm lụa lên xuống theo từng bước chân. Khi đặt chân xuống thì thảm lụa lún xuống, lúc cất chân lên thì thảm lụa bằng phẳng. Ví như gió lớn thổi, mặt

nước nổi sóng nhấp nhô, cao thấp không chừng mực, gió ngừng thì mặt nước bằng phẳng. Đất ấy mềm mịn cũng thế. Đất ấy sạch sẽ như gương sáng. Nếu có người thợ, hoặc học trò của người thợ giỏi mài gương, mài dũa sáng sạch, soi thấy các tượng, nếu ai đó chẻ sợi lông thành trăm phần thì gương ấy cũng soi thấy hết. Đất ấy soi thấy toàn thân của chư Thiên cũng thế. Gương sáng kia trong sạch không tỳ vết thì đất ấy cũng trong sạch như thế. Đất ấy lại sinh ra những việc hy hữu. Nếu các Thiên nữ muốn vui chơi cùng Thiên tử thì Thiên tử liền thấy chữ viết của họ ở đất ấy, liền cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc. Đất ấy lại có việc hy hữu: Chư Thiên cần gì mặt đất sinh ra. Vị ấy thọ hưởng diệu lạc ở trụ xứ Nhu nhuyến thuộc cõi trời Tam thập tam. Họ lại đến nơi vui chơi. Nơi đó có vườn lớn tên Ma-thâu-ca, treo đầy lưới linh, được trang trí bằng vô lượng cây báu. Trong rừng ấy có các loài chim, đầy đủ hoa trái, trổi năm thứ âm nhạc, vui chơi hưởng lạc, năm căn thọ hưởng quả báo lạc. Cõi đó lại có khu rừng tên Bà-la, khi các Thiên tử vào rừng này vui chơi thì cây cối nhỏ đi, làm cho các Thiên tử hái trái dễ dàng. Rừng ấy được làm bằng bảy báu sáng rực như mặt trời mới mọc, có vô lượng hoa trái sặc sỡ, nhiều loài chim đẹp hót tiếng rất hay. Họ ở trong rừng này thọ hưởng sáu dục lạc, ca múa vui chơi. Bỏ nơi này họ đến ngọn núi vui chơi tên là Cao tụ. Đến đó, họ cùng các Thiên nữ xinh đẹp ca múa vui chơi, lên đỉnh Cao tụ. Núi này rộng mười do-tuần, đỉnh núi có ao hoa lớn tên là Quang minh. Trong ao có đầy các loài hoa bằng bảy báu như hoa Câu-mâu-đà, Câu-la-na-đà, Ưubát-la xanh, nước ao trong sạch, có loài thiên nga, vịt trời, uyên ương kêu tiếng rất hay, thật đáng yêu. Thiên tử, Thiên nữ vây quanh ao hoa ca múa vui chơi, uống nước ngon nhưng không say, họ tha hồ ăn trái sáu vị, nước trái thơm ngon, uống hoài không hết, Thiên tử, Thiên nữ cùng nhau uống nước. Ở nơi khác cũng có các Thiên nữ cùng Thiên tử ca múa vui chơi, tấu nhạc, đánh đàn, thổi ống tiêu, địch, không hầu, mặc tình thọ hưởng dục lạc. Họ vây quanh ao hoa thọ hưởng diệu lạc một thời gian dài. Ở đó lại có ao hoa tên Nhất thiết ý lạc. Họ trang sức vòng hoa trời, xoa thân bằng hương chiên-đàn, rải hương bột, thân phóng ánh sáng. Do sức tạo nghiệp thượng, trung, hạ và tùy tâm yêu thích mà họ có được ba loại quả báo tương xứng với nghiệp. Nhờ tạo nghiệp như vậy thì thọ quả báo như vậy, nhãn thức tiếp xúc với sắc sinh tâm vui mừng. Vì sao? Vì nếu người tạo ra ba nghiệp thì nhìn thấy tất cả cảnh sắc đều là sắc bậc hạ do một duyên mà người ấy thấy sắc bậc hạ. Nếu tạo nghiệp bậc trung thì thấy sắc bậc trung, sinh tâm vui bậc trung. Nếu tạo nghiệp bậc thượng thì thấy được vô lượng sắc đẹp, hình tướng đoan nghiêm. Tất cả thanh, hương, vị, xúc cũng vậy, tất cả sắc trần của cõi trời Dục giới đều như vậy, nếu không thì ba loại quả báo đó không thành tựu. Nên biết có ba loại nghiệp để đạt sắc đẹp, xinh xắn, Thiên nữ xinh đẹp. Các Thiên chúng vui chơi thọ lạc ở rừng Nhất thiết ý lạc, họ tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc không biết nhàm chán, quán xét xong, Tỳ-kheo nói kệ:

Kiếp tận trời nóng
Biển lớn khô cạn
Trăm ngàn ức kiếp
Tham ái không dừng.
Nước mưa rơi xuống
Biển mới tràn đầy
Biển tham dục này
Ái sắc không chán.
Nghĩ nhớ các lạc
Dục không thỏa mãn
Nếu lìa ưu ái
Tâm dục sẽ dừng.
Lạc sinh từ dục
Người trí không thích
Niềm vui lìa dục
Là vui tối thắng.
Hoan lạc tham ái
Như nước lẫn độc
Ai lìa ái dục
Như sữa hòa nước.
Dục đốt kẻ si
Đui mù không biết
Như Ma-la-da
Sâu núi ăn cây.
Ức niệm ái dục
Không thể đếm được
Nghĩ mãi không chán
Bị vua chết buộc.
Không bị dục sai
Không trụ cảnh ái
Là người an vui
Như Lai dạy thế.
Như nằm mộng thấy
Thành Càn-thát-bà
Hư giả không bền
Các dục lừa dối.
Như huyễn, bọt nước
Quả Yêm-ba-la
Dục làm suy tổn
Như lửa đốt người.
Ai biết lỗi dục
Không tham quả say
Thấy được thật đế
Lìa hẳn ái não.
Các dục như độc
Chưa được thì nhớ
Được tự gây khổ
Các ác bừng cháy.
Dục không thỏa mãn
Thiên lạc mất hết
Đọa vào địa ngục
Do dục lừa dối.
Dục như cơn sóng
Như điện, như đèn
Nữ dục như độc
Như cá bơi tròn.
Suy xét thêm nhiều
Như lửa thêm củi
Trước sau không an
Người trí vứt bỏ.
Ai mà gần gũi
Dần dần tăng thêm
Như chạm lửa dữ
Dục chịu quả khổ.
Biết lỗi dục ấy
Người trí xả bỏ
Những người lìa dục
Đạt vui Niết-bàn.
Vô số vô lượng
Ngàn muôn chư Thiên
Tham dục đọa lạc
Chịu khổ địa ngục.
Dục: Lửa, dao, độc
Tìm vui hãy bỏ
Dục nhân địa ngục
Luôn luôn xả bỏ.
Chưa bao giờ thấy
Không sống với dục
Không bị dục sai
Không có khổ não.
Vì thế bỏ dục
Đừng nghĩ nhớ đến
Tất cả các dục
Đều như lửa hừng.

Tỳ-kheo quán xét các Thiên tử bị dục sai khiến, nên nói kệ chê trách. Chư Thiên phóng dật đó lại đến vườn Nhất thiết ý lạc, trổi nhạc, cùng Thiên nữ xinh đẹp vào rừng ca hát tự vui. Rừng ấy có vô số ao hồ, cảnh sắc mọi nơi đều đẹp. Nhãn căn thọ hưởng sắc dục như thế, lại tha hồ nghe những âm thanh hay đáng yêu, mũi ngửi đủ các hương thơm vừa ý, lưỡi nếm đủ các vị ngon lạ, họ muốn gì đều được cả, tùy ý muốn mà tiếp xúc đủ các loại, thân tâm vui vẻ, thọ hưởng các pháp vui theo ý muốn. Các Thiên chúng ấy bị ái dục che lấp, buông lung vui chơi, thọ hưởng năm dục lạc theo ý muốn. Đến khi nghiệp thiện hết, vị ấy qua đời, bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người, luôn được an lạc, lại ham thích vòng hoa, hương xoa, hương bột, có nhiều của cải, tâm ngay thẳng, chân thật, mọi người đều thích nhìn, tin lời nói, ai cũng yêu mến, đầy đủ vợ con, hành đúng lễ nghĩa, không mất nghi thức, vua, giặc, nước, lửa không thể xâm đoạt tài vật của mình, được vua ban thưởng, sinh trong dòng hào phú, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ mười tám của cõi này tên là Tạp trang nghiêm. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết người giữ các giới không sát sinh, trộm cướp, lại dạy cho người khác để họ sống trong pháp lành. Thế nào là không sát sinh? Mình không giết hại, không dạy người giết hại, không vui theo, cũng không gần gũi kẻ giết hại, không hề nói năng giao tiếp với họ; lại còn có cách không sát sinh khác: Nếu có chúng sinh dùng tiếng ca, tiếng đàn, tiếng đàn không hầu, tiêu, địch dối gạt cầm thú làm cho chúng rơi vào lưới bẫy, thì người giữ giới không làm việc đó, còn dạy người khác để họ không giết hại. Nếu thấy ai giết hại thì mua chuộc để chúng thoát chết, tâm không nghĩ việc giết hại. Đó là không sát sinh. Thế nào là không trộm? Có người lừa dối buôn bán để tìm tài vật, làm việc trộm cướp trái pháp. Thế nào là lừa dối? Hoặc đem cát vụn trộn với vật khác rồi cân bán, người giữ giới thấy việc phi pháp đó thì khuyên họ đừng làm, tìm cách khuyên dạy họ đừng vì bạn ác, vợ con, bản thân mà trộm cướp tài vật. Nếu làm việc trộm cướp thì sau khi qua đời, sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Quả báo của trộm cướp là chịu khổ não lớn. Người ấy tự mình không làm ác, còn khuyên người khác để họ bỏ pháp ác. Dù duyên đến cũng bỏ không lấy. Người ấy tự lợi, lợi tha. Thế nào là bố thí? Hoặc vào biển lớn, qua vùng khoáng dã để tìm tài vật, hoặc làm thuê cho người để cầu tài vật mà bố thí, thấy người nghèo khổ thì sinh tâm kính trọng, vui vẻ bố thí, hoặc đem vật này bố thí cho người chứng thiền thứ hai, người nghèo khổ. Đó gọi là bố thí. Thế nào là không sát sinh? Nếu thấy những thợ săn dùng lưới bắt chim, hoặc có người bắt cá thì đem tài vật chuộc mạng để chúng thoát chết, suy nghĩ hoan hỷ vô cùng, còn khuyên người khác chuộc sinh mạng và vui với việc ấy, mình làm nghiệp lành, luôn nguyện tu tập lại còn khuyên người thực hành nghiệp thiện. Người thiện không sát sinh, trộm cướp, tự lợi, lợi tha, giữ hai giới ấy tạo lợi ích cho mình và người, sau khi qua đời, vị ấy sinh lên những tòa nhà ở điện Trang nghiêm của cõi trời Tam thập tam. Sau khi sinh lên cõi trời, vị ấy trang sức đủ các loại ma-ni sáng rực, thân thể sáng rỡ đủ các y phục, các Thiên nữ xinh đẹp đứng hầu ở sau. Thiên tử mới sinh nghĩ: Do những nghiệp gì ta được sinh lên cõi này? Tự nhớ đời trước nhờ tu nghiệp lành nên sinh lên cõi trời này. Tự khen rằng: Hay thay! Nghiệp thiện, ta nhờ tu hành mà được sinh lên cõi này. Thiên tử suy nghĩ biết do nghiệp thiện, mới nghe tiếng nhạc, tiếng ca của Thiên nữ, khắp nơi núi rừng, cung điện đều vang tiếng hay, cầm thú nhảy múa, nghe tiếng hát này, hưởng hoan lạc vô cùng. Vừa nghe tiếng ca tâm sinh tham đắm, đó là nhân duyên thứ nhất sinh ra dục. Đã tham tiếng hay, lại muốn nhìn sắc đẹp, vị ấy đưa mắt nhìn quanh, thấy vô lượng sắc tướng của Thiên nữ xinh đẹp không sao ví dụ được. Vị ấy nghĩ: Đây là Thiên nữ nào, thuộc sở hữu của ai? Nghĩ thế tâm dục sinh khởi khi ấy Thiên nữ nói kệ:

Tất cả nhân duyên dục
Ta là nhân số một
Ta cung phụng Thiên tử
Vui chơi thọ hoan lạc.

Đã nghe tiếng ca, thấy sắc đẹp, Thiên tử liền xoay người lại đi đến bên cạnh Thiên nữ, muốn thọ hưởng hoan lạc của sự tiếp xúc. Đó là nhân duyên thứ hai sinh ra dục. Lại có nhân duyên thứ ba sinh ra dục. Tâm sai khiến các căn tham đắm cảnh giới, tự do duyên theo. Thiên tử tiếp xúc với Thiên nữ bằng tâm dục, Thiên nữ cũng dùng thân gần gũi Thiên tử. Lại có nhân duyên thứ tư sinh ra dục, có vô lượng hương thơm tuyệt diệu không sao ví dụ được. Thiên tử quan sát hương ấy từ đâu bay đến, liền biết hương ấy từ Thiên nữ tỏa ra, với tâm dục Thiên tử bồng Thiên nữ ngửi hương tuyệt diệu đó. Tâm luôn yêu thích bốn cảnh giới này. Khi ấy Thiên nữ cung phụng các thức ăn uống cam lồ cho Thiên tử. Đó là nhân duyên thứ năm sinh ra dục. Cứ thế có vô lượng nhân duyên sinh ra dục không sao ví dụ được. Cảnh giới năm dục đó là hoan lạc ban đầu của cõi trời. Thiên tử thọ nhận lạc báo của cõi trời như thế. Lúc mới sinh Thiên tử đã nhớ được túc mạng, vì tham đắm dục lạc nên đã quên hết. Thiên tử lại đến với Thiên nữ bằng tâm dục, Thiên nữ cùng đến chỗ Thiên tử ca múa vui chơi, lời lẽ êm ái, vui vẻ thọ lạc. Họ lại đến vườn rừng ao hoa, các Thiên nữ trang sức đủ loại, cùng các Thiên tử đến rừng Nhất thiết quán ý lạc và đến nơi vui chơi Nhất thiết kiến lâm, Nhất thiết địa thiên. Cây cối ở rừng ấy có đủ thứ như ý muốn, được trang trí đủ cách, cây vàng, lá bạc, cành xích bảo, trái pha lê đủ sắc, hương, vị. Rừng ấy có vô lượng cây như thế. Lại có rừng khác dùng để trang trí, cây lưu ly, cành vàng ròng, lá xích bảo, trái bạch ngân xen lẫn xa cừ. Lại có loại cây khác cứ một khuỷu tay là có một vật báu trang trí như vàng, bạc, xích bảo, lưu ly, xa cừ. Lại có cây cứ một khuỷu tay làm bằng một loại báu đầy đủ hoa trái, hoa trời xinh đẹp. Hoa ấy có đủ sắc hương, hương xoa xông khắp sáu do-tuần, các loài ong tạp sắc hút mật hoa. Rừng Nhất thiết kiến ý lạc có cây cối trang trí như thế. Do các nghiệp lành mà thọ hưởng quả báo này. Lại có hoa sen đẹp, cọng bằng lưu ly, lá bằng vàng ròng, tua bằng xích bảo, có ong bằng nhân-đà xanh trang trí. Tiếng chúng rất hay, nghe tiếng ấy chư Thiên vui mừng. Rừng ấy có các hàng cây xanh, vàng, đỏ, tía. Như người Diêm-phù-đề xem ánh điện thì rừng này cũng vậy hàng lối xinh đẹp, lại có sông ao trang trí vườn rừng. Thiên tử thấy rừng có đủ các công đức như vậy, tâm rất vui mừng, cùng các Thiên nữ đến rừng ấy. Thấy vậy, chư Thiên khác biết Thiên tử mới sinh đến chỗ của họ nên cùng ra nghênh đón, thăm hỏi nhau, khen ngợi nhau, vui chơi thọ lạc, tấu kỹ nhạc, vui chơi trong các rừng, ao sen. Thọ hưởng năm dục lạc ở rừng Nhất thiết kiến một thời gian lâu, họ rời rừng ấy đến nơi vui chơi khác. Nơi ấy có các lan can bao quanh, luôn lưu xuất ra thức uống ngon, cung điện bằng bảy báu giăng hàng như rừng cây, đất bằng vàng ròng, có các loài chim hót tiếng rất hay, nhảy múa vui chơi, tiếng nước chảy róc rách, dòng sông ăn uống có đủ sắc hương vị. Thiên tử vào đó vui chơi hưởng năm dục lạc, cùng các Thiên nữ xinh đẹp hưởng nghiệp thiện cõi trời, trải qua một thời gian lâu, vì tâm phóng dật nên họ không hay biết. Thiên tử thọ năm dục lạc đến khi nghiệp thiện hết, bị thoái đọa. Vì phóng dật che lấp tâm nên không quan sát sự thoái đọa, bị tâm ái làm mê hoặc, lửa dục đốt thiêu, tâm tham dục lạc vẫn không hay biết. Nếu tướng suy hiện thì lo sợ, thấy được sự vô thường biến đổi, nhất định bị thoái đọa, lúc đó mới hay biết. Thiên tử ấy mãi mê buông lung đến khi nghiệp thiện hết rồi qua đời, bị đọa lạc, lưu chuyển theo nghiệp, bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác được sinh trong cõi người, thọ hưởng hoan lạc thượng diệu, đầy đủ vật báu, ngay thẳng không dua nịnh, sinh vào nơi đô thị, biết việc tà chánh, biết pháp, phi pháp, biết được tất cả nơi người làm lành, thuận theo chánh pháp, biết báo đáp ân đức mà sinh vào, được mọi người thích nhìn, già trẻ đều yêu kính, không bệnh khổ, khôi ngô tuấn tú, có sức mạnh, không lo sợ, an ủi mọi người, đầy đủ vợ con, vua, giặc, nước, lửa không thể xâm đoạt tài vật mình, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ mười chín của cõi này tên là Như ý. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh dùng tâm chánh kiến, tin quả báo của nghiệp, sống vững chải trong chánh kiến, tâm chân thật, không gây khổ chúng sinh, hiếu dưỡng cha mẹ, thuận pháp tu hành, không biếng nhác, cung kính Tam bảo! Phật, Pháp, Tăng, không sát sinh, trộm cướp, không dạy người làm, cũng không tùy hỷ, thấy người khác làm thì khuyên họ đừng làm, nói nghiệp quả cho chúng sinh để họ sống trong pháp lành, không sát sinh, trộm cướp. Nếu ai không giữ giới thì khuyên họ giữ giới, người đã giữ giới thì khuyên họ sống vững trong giới. Người tự lợi, lợi tha này sau khi qua đời sinh lên cõi trời trời Tam thập tam thuộc đường lành. Thế nào là không sát sinh? Có người biết những chúng sinh khác như kiến, muỗi… thì không cố ý giết chúng. Đó là không sát sinh. Có người đặt lưới, bẫy, hầm hố giết hại cù-đà, chuột, con do, thỏ, thì khuyên họ đừng làm. Có người tìm phương cách độc ác như giăng lưới, đặt bẫy săn bắn chim thú và những dụng cụ giết hại khác để giăng bắt chúng sinh làm cho chúng chết thì người giữ giới này khuyên họ thả đi. Đó là không sát sinh, làm cho chúng sinh sống trong pháp lành. Thế nào là không trộm? Cho dù cỏ cây cũng không sinh tâm trộm, thấy người trộm thì khuyên họ đừng làm. Lại có người sống trái pháp, cúng dường âm nhạc nơi tháp Phật, tinh xá, có người lại ca múa vui chơi trong đó, hoặc cùng người nữ ca múa vui đùa, hoặc ở trong chùa Tăng, có người bảo trổi nhạc, đánh đàn… cúng dường tháp Phật, vì tự nuôi sống mà trổi âm nhạc thì đừng để người ấy trổi nhạc cho kẻ khác, đó là không trộm. Lại có cách trộm cướp khác như: Ban đầu hứa trả giá cao hơn cho dâm nữ nhưng sau lại trả giá thấp, đó là trộm. Lại có cách trộm khác như có người bán rượu thịt, đã mua chắc giá nhưng lại không trả đúng giá, đó là trộm. Người giữ giới phải vứt bỏ không làm việc sát sinh, trộm cướp như thế, thấy ai làm thì không vui, tâm không nghĩ đến. Thế nào là bố thí? Dù là người nghèo khổ, ít của cải nhưng vẫn đem tài vật cúng dường người chứng thiền thứ ba, riêng mình cam chịu đói khổ mà cho người khác, bố thí bằng tâm Từ bi như yêu con mình. Thế nào là giữ giới không sát sinh? Nếu gặp người giết chúng sinh trong nhà xí thì khuyên họ đừng làm, đem nước khuyên họ đổ trở lại chỗ bẩn để chúng không chết. Đó là không sát sinh. Người làm lành này sau khi qua đời sinh lên cõi trời, có các Thiên nữ vây quanh hưởng lạc tuyệt diệu. Giờ đây xin nói một ví dụ nhỏ cho vị trời này: Như diệu lạc mà Kim luân vương thọ hưởng thật không bằng một phần mười sáu diệu lạc này. Thân hình không xương thịt, cũng không nhơ uế, không sinh tâm ganh ghét, mắt không nháy, y phục không bụi nhơ, không bị khói sương, cũng không có khổ về đại tiểu tiện, thân thể sáng chói. Chuyển luân thánh vương hoàn toàn không có việc này, không giữ gìn vợ con, không ganh ghét, tự do ăn uống, không ngủ nghỉ cũng chẳng mỏi mệt. Chuyển luân thánh vương hoàn toàn không có việc này. Vì thế mà diệu lạc của Chuyển luân thánh vương không bằng một phần mười sáu. Cho nên xin nói một ví dụ nhỏ trong cõi người. Cứ thế người ấy tuần tự thọ hưởng năm dục lạc. Cõi ấy có một vườn rừng tên Ca-tỳ-la dài mười do-tuần, rộng năm do-tuần, khắp nơi được trang trí bằng chim vàng, vô lượng chim toàn thân bằng vật báu, lại có hoa đẹp sáng rực trang trí vườn rừng, cây bằng bảy báu.

Trong rừng lại có loài chim xinh đẹp đủ màu sắc hơn cả người trang sức lộng lẫy. Lại có Thiên tử ở trong rừng lấy các loài hoa vui chơi, cọng, lá, tua hoa đều bằng lưu ly, đài hoa bằng xích liên hoa bảo, hương hoa xông khắp mười do-tuần thơm hơn tất cả các loài hoa. Chư Thiên ngửi hương ấy càng thêm vui sướng. Lại cùng các Thiên nữ ở vườn Ca-tỳ-la đi đến dòng sông uống tha hồ hưởng, có xe cao lớn, lan can, lầu gác, cửa ngỏ treo các linh báu, vòng hoa báu, lưới chân châu che bên trên, treo cờ phướn báu, vàng, bạc, pha lê, xích bảo trang trí các cột, có các loài chim như thiên nga, chim thứu, bồ câu, mạng mạng, hồng nhan xinh đẹp, xe ấy được trang trí bằng các loài chim như vậy. Chư Thiên đều đi xe ấy, là nhờ nghiệp thiện. Họ lại cùng các Thiên nữ đến rừng lớn Ca-tỳ-la, đến chỗ ăn uống. Đến nơi họ xuống xe, ăn uống thức ngon, ăn uống xong lại vui chơi trong vườn, trổi nhạc, ca múa thọ lạc. Trải qua một thời gian dài, vì tâm tham đắm dục lạc nên họ không biết thời gian. Họ lại đến rừng Nhất thiết kiến, lên đỉnh núi cao. Vì muốn thấy các rừng khác nên cùng Thiên chúng leo lên xe biến hóa ca múa vui chơi đủ cách, cùng nhau thọ lạc. Họ lên đỉnh núi cao của rừng Nhất thiết kiến, thấy một mặt của núi Tu-di chúa có nhiều vườn rừng xinh đẹp, sắc hoa sáng rực như màu vàng ròng, có các sông suối, ao hồ, các dòng sông ăn uống, vô lượng Thiên nữ xinh đẹp vây quanh. Núi Tu-di ở giữa sáu vạn ngọn núi. Núi này cao lớn là chỗ ở của Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Yên-na-la và chư Thiên tạo nghiệp lành. Do nghiệp thiện mà được quả báo có đủ bốn thứ báu, mỗi nơi được trang trí nhiều màu sắc. Họ nhìn thấy tất cả, cùng vui chơi, tâm dục buông lung, khen ngợi nhau cùng nhau vui đùa. Thân họ có thượng, trung, hạ, sự vui chơi ăn uống cũng thế. Thấy vậy, họ nghĩ: Không phải chỉ mình ta thọ hưởng diệu lạc, còn có nhiều chư Thiên và Thiên nữ khác vui chơi thọ lạc, họ còn thấy cây Như ý đủ màu sắc trang trí vườn rừng. Bấy giờ chư Thiên lại nhìn thấy các cõi khác như Cao tụ, Đại cao tụ, có các dòng sông xinh đẹp. Nếu khi mặt trời, mặt trăng đi qua hai đỉnh núi này thì họ sẽ thấy dưới mặt trời có trăm ngàn đỉnh núi giống như La-hầu A-tula lấy tay che ánh sáng mặt trời, như đã nói ở trước. Khi ấy Thiên tử lưu chuyển qua lại trong hư không, quan sát núi chúa, cùng Thiên nữ vui chơi hưởng lạc ca hát khen ngợi ở trong cung điện. Họ nhìn thấy hết các vườn rừng ở núi chúa, rồi trở về chỗ của mình. Về đến nơi họ lại ca múa vui chơi, thọ nhận năm dục lạc ở vườn rừng, vì dục lạc che lấp tâm nên không biết đến thời gian. Họ lại đến núi Bà-la-ma, núi ấy rộng năm do-tuần, cao mười do-tuần. Có người đi bằng xe, có người cỡi chim bay, lên núi ấy, núi ấy được trang trí các trụ báu, có sông hồ bằng bảy báu, cây báu Như ý sáng rực, họ trổi âm nhạc, hoan hỷ vui chơi, hưởng quả báo của tự nghiệp. Vì phóng dật nên họ vui chơi trải qua thời gian lâu mà vẫn không hay biết, bị dục lạc mê hoặc không biết nhàm chán. Họ lại đến rừng Ưu-bát-la. Rừng này có trăm ngàn loài ong vây quanh. Họ vào rừng cùng ăn uống ca múa hưởng lạc không biết nhàm chán. Họ lại đến nơi vui chơi tên là Vô cấu, trổi trăm ngàn âm nhạc cùng nhau vui chơi không biết thỏa mãn. Chư Thiên buông lung thọ hưởng năm dục lạc đến khi nghiệp thiện hết, họ qua đời bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác thì được sinh trong cõi người, nhan sắc tươi đẹp, được vua quý trọng, giàu có, thông minh, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai mươi của cõi này tên là Vi tế hạnh. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh tu hành pháp thiện, tự lợi, lợi tha không dối gạt, não hại chúng sinh, tu hành chất trực, thực hành nghiệp thiện được quả báo vui, tạo nghiệp thanh lương được quả thanh lương, tạo nghiệp lành được quả vui, được tất cả chúng sinh cúng dường, mọi người yêu mến, hiện tại, vị lai đều đạt lợi ích an lạc. Khi bỏ thân này, nghiệp thiện đã tạo vẫn còn như cha mẹ, vì như thật nên thọ hưởng vô lượng hoan lạc, không sát sinh, trộm cướp, còn dạy người khác không sát sinh, trộm cướp, không ở chung, gần gũi, vui chơi, làm việc với kẻ sát sinh, trộm cướp, không ở chung với kẻ ác phá giới, gần gũi làm việc, vui chơi thọ lạc với người lành giữ giới, cùng suy xét pháp và phi pháp. Người này không làm ác, còn dạy người không làm ác, người này tu tập nghiệp thiện, làm cho kẻ ác phá giới sinh trong pháp lành, chỉ rõ chánh pháp để họ vào chánh đạo, gieo trồng nghiệp lành, tâm người ấy trong sạch như vàng ròng, thực hành nghiệp thiện, hiện tại, vị lai an ổn vui vẻ. Đó là không sát sinh. Lại có cách không sát sinh khác như: Nếu có người vì tà kiến mà giết hại rắn, bọ cạp và loài nhiều chân như muỗi, nhặng, thằn lằn để vun bón cây ăn trái trong vườn tươi tốt, người trì giới không làm việc đó để giữ gìn mạng sống chúng. Các loại trái cây nếu nghi có trùng thì không bao giờ cố ý ăn, không bao giờ uống nước mà chưa xem kỹ hay nước để qua đêm, nếu không xem kỹ, không lọc, sợ sinh trùng nhỏ thì không uống, không dùng. Đó là sự vi tế của giới không sát sinh. Thế nào là không trộm? Có mấy cách không trộm như: Có người thường suy nghĩ muốn cho lúa gạo, ngũ cốc, đậu mè của mình được mùa, còn ngũ cốc của mọi người thì mất mùa. Lại vào lúc khác, do chúng sinh bạc phước, nên ruộng lúa không thu hoạch được. Kẻ ác thấy mọi người đói khát lại vui mừng như ý mình, rồi đem bán bằng tâm xảo trá, đong lường lúa thóc dối gạt mọi người, đến khi thành nghiệp, nếu do tâm suy nghĩ gọi là tư nghiệp, còn lúc dối gạt gọi là cuống nghiệp, tạo nghiệp dối gạt xong gọi là cứu cánh nghiệp. Người giữ giới không làm việc ấy, dù nghèo khổ cũng vẫn không làm việc phi pháp dối gạt người khác, thấy người khác làm thì không vui theo. Nếu gặp thời đói khát, vì nuôi mạng sống mà cầu tài vật thì buôn bán đúng pháp, không lường gạt chúng sinh. Đó là không trộm. Thế nào là bố thí? Với tâm lành, thực hành việc lành, tự lợi, lợi tha, bản thân thì nghèo khổ vất vả mới có tiền của hoặc xin người khác để bố thí cho người bệnh tật, khốn khổ thiếu thốn hay người học và chứng thiền thứ ba. Người này thành tựu ba nghiệp bố thí. Nếu tâm suy nghĩ muốn bố thí gọi là quyết định, lúc bố thí là nghiệp, bố thí xong lại còn suy xét gọi là cứu cánh. Người này tạo một ngàn hai trăm nghiệp lành, sau khi qua đời sinh vào cõi Vi tế thuộc đường lành. Người ấy do tạo nghiệp vi tế nên được sinh lên cõi này, tùy ý mà có được thân lớn nhỏ. Vườn rừng ở đó cây cối bằng bảy báu, trong sạch nhất. Người ấy thọ hưởng theo nghiệp của mình. Rừng bảy báu này dài hai mươi do-tuần, rộng mười do-tuần, đầy đủ vườn rừng, ao suối, trong sạch không nhơ giống như gương sáng, ai thấy cũng thích. Cành lá sạch sẽ không nhơ, bằng vàng, bạc, lưu ly và các tạp bảo. Thiên tử vào rừng tự thấy tất cả sắc thân trong cành lá của cây báu. Ở một cây vị ấy tự thấy thân mình, ở trăm ngàn cây cũng tự thấy thân mình như vậy. Sắc tướng của tất cả Thiên tử đều hiện trong các cây, do nghiệp thiện đạt quả tương tợ. Cây ấy lại có những việc kỳ lạ khác, theo nghiệp thượng, trung, hạ của họ đã tạo mà hiển hiện hết trong cành lá của cây ở cõi trời này.

Khi ấy Đế Thích cùng các Thiên nữ trang sức vòng hoa, đi xe sáng rực hơn cả ánh sáng của trăm mặt trời cùng chiếu. Chư Thiên ở Vi tế hạnh trông thấy Đế Thích đều ra nghênh đón. Đến nơi, họ cung kính đảnh lễ Đế Thích, theo Đế Thích trở lại vườn rừng thọ hưởng năm dục lạc. Thiên vương Thích-ca cũng ôn tồn thăm hỏi chư Thiên về thực hành nghiệp thiện lớn. Chim chóc trong rừng ấy hót tiếng rất hay, rừng ấy được trang trí cây vàng ròng. Quan sát nghiệp báo xong, Thiên vương nói kệ:

Nghiệp lành được quả này
Có đủ các vườn rừng
Dù chẳng cần nói năng
Cũng biết được nghiệp báo.
Tất cả các nghiệp báo
Chịu sinh tử khắp nơi
Hoặc thiện hoặc bất thiện
Nên chịu quả báo ấy.
Người nào tu nghiệp thiện
Sẽ được sinh lên trời
Kẻ tạo nghiệp bất thiện
Đọa trong ba đường ác.
Dù làm thiện, bất thiện
Đều do dục si sai
Không biết sẽ thoái đọa
Chắc chắn chịu khổ chết.
Nhờ quả báo nghiệp thiện
Nên cây cối như vậy
Ai không chán bỏ dục
Tâm bị lạc mê hoặc.
Buông lung ham vị dục lạc
Tâm luôn tìm cảnh giới
Luôn bị ái não hại
Lại bị ái trói buộc.
Dục từ nữ nhân sinh
Người nữ rất độc ác
Sinh ra các phiền não
Như lửa đốt chúng sinh.
Phiền não của dục ấy
Còn hơn ngọn lửa dữ
Phiền não của sắc đẹp
Thiêu đốt tâm chúng sinh.
Người nữ hoại thế gian
Đoạn diệt các pháp thiện
Đó là nhân địa ngục
Đại tiên nói như thế.
Miệng khéo nói lời hay
Tâm họ như độc hại
Dối gạt không tạm dừng
Tâm người nữ không thật.
Bất chợt tâm yêu thương
Bất chợt tâm ghen ghét
Tâm họ luôn thay đổi
Như điện không tồn tại.
Kẻ xảo trí dối trá
Gần gũi với tâm tham
Luôn thích thú kẻ khác
Kiêu mạn bằng tình tứ.
Trời, người, Tỳ-xá-già
La-sát, rồng, Dạ-xoa
Đều bị nữ sắc trói
Người nữ như chất độc.
Không nghĩ đến ân huệ
Dòng họ và tài năng
Người nữ tánh như gió
Tâm ý không tạm dừng.
Nếu thấy ai giàu có
Thì sinh tâm yêu thích
Còn thấy tai họa đến
Chán ghét lại bỏ đi.
Nếu người nào gần gũi
Sẽ sinh tâm yêu thích
Thấy họ bị buồn lo
Sẽ xa lánh lập tức.
Như ong thích vờn hoa
Hoa héo sẽ bỏ đi
Người nữ cũng như vậy
Không vui sẽ xả bỏ.
Tâm ác, không thương yêu
Tâm nhiễu loạn bất định
Phá hoại kẻ ngu si
Không ai bằng người nữ.
Dây trói ở cõi trời
Không gì hơn nữ sắc
Người nữ cột chư Thiên
Dắt đến ba đường ác.
Tâm ai tham nữ sắc
Dục ấy thật là lớn
Dục nữ sắc đốt tâm
Sau chịu khổ não lớn.
Những nghiệp đang tạo tác
Tham dục mê hoặc tâm
Tâm si không hiểu biết
Nữ dục làm mê loạn.
Trượng phu đã chánh tín
Bất chợt sẽ bỏ hết
Vô lượng dây tham ái
Như con rắn lột xác.
Tánh người nữ như vậy
Dù phục vụ đủ thứ
Giữ gìn bằng mọi cách
Cũng không thể vừa ý.
Tánh người nữ như thế
Tâm họ không thành thật
Hư dối lại gian xảo
Người trí không tin tưởng.

Nghe Đế Thích thuyết pháp xong, chư Thiên sinh tâm nhàm chán, nói kệ:

Đúng thế, đúng thế! Đại Thiên vương
Nói lời như thật, không hư dối
Tôi vì không trí, không hiểu biết
Bị lưới Thiên nữ buộc tâm mình.

Nghe kệ xong, Đế Thích đến rừng có tiếng chim. Rừng ấy trang trí vô số cung điện, có ao tắm xinh đẹp, ngọn núi sắc vàng như màu dung kim, trổi các thứ kỹ nhạc, ca hát rất hay, có các Thiên nữ làm quyến thuộc. Thiên vương Đế Thích vào rừng thọ hưởng diệu lạc cõi trời, các căn thọ nhận cảnh giới năm dục. Họ lại đến ngọn Càn-đà-tụ trên đỉnh Tu-di. Núi ấy được trang trí bằng bảy báu có dòng nước chảy xinh đẹp kỳ lạ, đỉnh núi bằng chân châu anh lạc, đáy sông rải cát bằng chân châu, hai bên bờ sông có nhiều loài chim hót tiếng rất hay. Ai thấy dòng sông này cũng đều yêu thích. Thiên vương Thíchca cùng các Thiên nữ xinh đẹp vui chơi thọ lạc. Thọ hưởng diệu lạc ở đây xong, lại cùng Thiên tử, Thiên nữ đến nơi vui chơi ở cung điện Chu-la. Đến nơi, chư Thiên ở cõi khác nghe Thiên chủ đến, họ cũng tập hợp lại. Cung điện của núi này trụ ở đỉnh núi Tu-di nguy nga xinh đẹp, ánh sáng của cõi trời Dạ-ma chiếu lên đỉnh núi này. Ánh sáng núi Tu-di sáng rực khắp bốn cõi thì ánh sáng cõi Dạ-ma chiếu lên đỉnh núi này cũng thế. Các cung điện khác càng thù diệu gấp bội. Vui chơi ở đây xong, Thiên tử Thích-ca Đề-bà cùng các Thiên tử, Thiên nữ trở về Thiện pháp đường. Vị trời cõi Vi tế hạnh này thọ hưởng năm dục lạc, đến khi nghiệp thiện hết, vị ấy qua đời, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác thì được sinh trong cõi người, luôn được an lạc, hoặc được làm vua, quan, thông minh đệ nhất, khi thẩm xét được mọi người tuân phụng, không cần nói nhiều, y phục trong sạch không nhơ, vợ con trinh thuận, tâm không tà vạy, thích bố thí, ngay thẳng không dua nịnh, được anh em dòng họ yêu kính, cung kính Sư trưởng yêu thích tôn khách, giữ giới, thích vòng hoa thơm, xa lánh tri thức ác, sinh trong dòng hào phú, khôi ngô tuấn tú, trang sức đủ loại, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai mươi mốt của cõi này tên là Ca âm hỷ lạc. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh với tâm lành thực hành nghiệp thiện, hoàn thiện thân, ngữ, ý, làm lành, tự lợi, lợi tha, lợi ích cho chúng sinh, có tâm Từ bi, tin nghiệp quả, chánh kiến, chánh nghiệp, giữ hai giới, tâm không tán loạn, không mất oai nghi, không gần bạn ác, hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, thực hành cứu cánh ba loại nghiệp thiện, giữ hai loại giới không sát sinh, trộm cướp. Thế nào là không sát sinh? Nếu ngũ cốc lúa thóc có vi trùng nhỏ thì không xay giã, biết có trùng thì giữ gìn mạng sống của chúng, không đem lúa ấy cho người. Lại có cách không sát sinh khác như: vi trùng sinh trong ung nhọt của lừa, lạc đà, trâu, ngựa chuyên chở đồ vật thì khi lấy nước rửa ung nhọt đó, không nên dùng thuốc thoa hại đến sinh mạng của chúng, nên dùng lông chim dũ bắt trùng ấy đem bỏ những chỗ thịt thối để bảo toàn mạng sống của chúng. Giữ gìn sợ hại sinh mạng của trâu, lừa thì cũng giữ gìn mạng sống của loài trùng, cho dù là loài kiến cũng không cố ý giết, ngày đêm không sống phóng dật, tâm không nghĩ đến việc giết. Nếu có tâm tưởng chúng sinh như con rận, con kiến cũng không cố ý giết. Đó là không sát sinh. Thế nào là không trộm? Có mấy cách không trộm: Nếu thấy rắn, ểnh ương, hoàng dứu ăn trùng, hoặc chó, dã can bắt chúng sinh ăn thịt thì đem thức ăn của mình đổi mạng để chúng thoát chết. Người này cứu giúp mạng loài trùng gọi đó là không trộm, mình không trộm cũng không dạy người trộm, khuyên chúng sinh sống trong pháp lành, người chưa giữ giới khuyên họ giữ giới, người đã giữ giới làm cho họ tăng trưởng, nói quả báo của nghiệp để họ giác ngộ. Đó là không sát sinh, không trộm cướp. Lại còn thực hành theo chánh pháp tạo lợi ích cho chúng sinh, thấy người khác muốn giết loài ong mật liền đem vật mua chuộc để chúng thoát chết, bố thí mạng cho chúng sinh gọi là thí mạng. Lại còn có cách bố thí khác như người thực hành chánh pháp ấy dù nghèo khổ thiếu thốn nhưng vẫn cúng dường một bữa ăn cho người chứng Thiền thứ tư, thấy kẻ ác muốn giết người thì đem tiền chuộc mạng để họ thoát chết. Trong các cách bố thí, bố thí mạng và pháp thí là hơn hết. Người thực hành hai cách bố thí, còn dạy người hành hai cách bố thí ấy, thấy ai làm thì làm theo. Người giữ giới này sau khi qua đời được sinh lên trụ xứ Ca âm hỷ lạc của cõi trời Tam thập tam. Nhờ nghiệp thiện, được sự cúng dường thù thắng, nhờ nghiệp thiện vườn rừng ở đó rất xinh đẹp. Các trụ xứ của chư Thiên đều do nghiệp thiện hóa sinh, chư Thiên đều vui chơi thọ lạc, rồi bị thoái đọa là do nghiệp thiện hết. Họ biết được thời gian thoái đọa nhưng vẫn không chán dục, bị dây ái trói buộc lừa dối. Nói xong, Thiên vương Đế Thích cùng Thiên chúng vui chơi thọ lạc trong rừng. Rừng ấy có đủ hoa trái và dòng sông ăn uống đủ các mùi vị. Họ cùng đến bên bờ sông này vui chơi thọ lạc. Lại đến nơi vui chơi Ma-đa-lân ở phía Nam. Thấy rừng cây ấy Thiên đế Thích hỏi chư Thiên:

–Các ngươi có thấy nơi vui chơi này không.

Các Thiên tử đáp:

–Thưa, có thấy.

Lúc này Đế Thích lại nói những việc xưa của mình cho họ nghe. Ta nghe chư Thiên ở chốn cũ ngày xưa kể rằng: Trong đời quá khứ có Đức Phật hiệu là Ca-ca-thôn-đà ở trong rừng này nói pháp cho chư Thiên nghe, pháp ấy trước, giữa, sau đều thiện, văn nghĩa hoàn thiện, hoàn toàn đầy đủ pháp bạch tịnh, tức là cái này có nên cái kia có, cái này diệt nên cái kia diệt. Thế nào là có? Vì có dục nên có tội lỗi, nếu không có dục thì không có tội lỗi. Thiên tử nên biết đó là cái này có nên cái kia có. Vì sao cái này không nên cái kia không? Nếu không có dục thì không có tội lỗi của dục. Vì sao cái này diệt nên cái kia diệt? Vì ái diệt thì dục diệt, dục diệt nên tội lỗi của dục diệt. Thiên tử nên biết cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không. Nếu nghịch quán sẽ biết: Nhân ái là gốc sinh ra dục, nhân dục lại sinh ra dục. Thế nào là dục? Tâm tìm tòi nghĩ nhớ muốn tạo tác, gọi đó là dục. Vì ngu si nên mới tìm tòi, gọi đó là vô minh, vì vô minh nên không nhàm chán cảnh giới, gọi đó là ái. Các Thiên tử không biết đủ nên gọi là dục. Thiên tử! Đó là cái này có nên cái kia có. Thế nào là cái này không nên cái kia không? Nghĩa là vì tham ái nên không biết đủ, nếu ái diệt thì tâm không biết đủ diệt, đó là cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt.

Lại nữa, này các Thiên tử! Cái này có nên cái kia có, nghĩa là hòa hợp tạo nghiệp rồi vì có nghiệp nên có nghiệp báo, nếu không tạo nghiệp thì không có nghiệp báo. Thiên tử! Đó là cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không.
Lại nữa, này các Thiên tử! Thế nào là cái này có nên cái kia có? Nghĩa là trước do nghĩ nhớ, mắt duyên sắc sinh ra thức, nghĩ nhớ là trước hết nên gọi cái này có nên cái kia có. Thế nào là cái này không nên cái kia không? Nếu không có sắc thì không có mắt duyên, nếu không mắt duyên thì không nghĩ nhớ, không có sắc nhãn và không nghĩ nhớ thì nhãn thức cũng không. Này các Thiên tử! Đó là cái này không nên cái kia không.

Lại nữa, này các Thiên tử! Thế nào là cái này có nên cái kia có? Ví như người thợ gốm vì có các thứ như bàn quay, dây, bùn, nước hòa hợp nên có cái bình. Thiên tử! Đó là cái này có nên cái kia có.

Lại nữa, này các Thiên tử! Thế nào là cái này không nên cái kia không? Như người thợ gốm không có các thứ như bàn quay, dây, bùn, nước hòa hợp thì không có cái bình. Đó là cái này không nên cái kia không.

Lại nữa, này các Thiên tử! Thế nào là cái này có nên cái kia có? Như hòa hợp chắc chắn có chia ly. Đó là cái này có nên cái kia có. Thế nào là cái này không nên cái kia không? Như nếu không hòa hợp thì không có chia ly. Thiên tử! Đó là cái này không nên cái kia không.

Lại nữa, này các Thiên tử! Thế nào là cái này có nên cái kia có? Vì có sinh nên phải có chết, nếu không sinh thì không chết. Thiên tử! Đó là cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không. (Chư Thiên không có già nên không nói già, chỉ nói chết)
Lại nữa, này các Thiên tử! Thế nào là cái này có nên cái kia có? Vì có dục nên chắc chắn bị thiêu đốt. Ví như có lửa ắt sẽ có thiêu đốt. Thiên tử! Đó là cái này có nên cái kia có. Thế nào là cái này không nên cái kia không? Vì chán xa dục nên không bị dục thiêu đốt, ví như không có lửa thì không bị thiêu đốt. Thiên tử! Đó là cái này không nên cái kia không.

Lại nữa, này các Thiên tử! Thế nào là cái này có nên cái kia có? Như có tinh huyết của cha mẹ, có nghiệp, có tạng thức, có thân trung ấm, có hương khí nên có thân sinh ra. Thiên tử! Đó là cái này có nên cái kia có. Thế nào là cái này không nên cái kia không? Như không có cha mẹ thì không có tinh huyết, không có nghiệp quyết định, tạng thức thân trung ấm thì không có thân này sinh ra. Thiên tử! Đó là cái này không nên cái kia không.

Lại nữa, này các Thiên tử! Cái này có nên cái kia có, nghĩa là có bờ bên kia thì có bờ bên này. Nếu không có bờ bên kia thì không có bờ bên này. Thiên tử! Đó là cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không. Mỗi cái đều do nhân duyên hòa hợp sinh, tất cả pháp hữu vi đều do nhân duyên. Nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức… cho đến tử cũng vậy.

Thiên tử nên biết! Đó là mười hai nhân duyên mà Đức Thế Tôn đã trải qua năm ngàn năm ở trong cung điện này diễn thuyết cho mọi người. Giờ đây ta xin nói một phần nhỏ. Hằng hà sa Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác trong ba đời đều nói pháp này, là pháp thân chân chánh. Lúc Đức Phật Thế Tôn nói pháp này, bảy ức chư Thiên chấm dứt lậu hoặc, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Bấy giờ Đức Thế Tôn trở về Diêm-phù-đề, với tâm đại Bi, Ngài thuyết pháp cho mọi người. Đó là vô minh duyên hành… sinh duyên lão tử. Lúc ấy, vô lượng vô biên chúng sinh xa lìa trần cấu, đoạn trừ lậu, hoặc, đạt giải thoát trong giáo pháp. Đức Thế Tôn, Bậc Đạo Sư của trời, người, đã thuyết pháp này cho họ.

Đế Thích nói pháp này cho Thiên vương nghe xong, đi đến cung Ma-đa-lân-na. Đến nơi, thấy các loài chim cánh bằng bảy báu xinh đẹp và các ao sen, hoa bằng bảy báu với nhiều màu sắc khác nhau, có nhiều loài ong đẹp. Ánh sáng của hoa rực rỡ như mặt trời mới mọc, cung điện nguy nga, bên cung điện có cây bằng lưu ly. Do ánh sáng của cây phản chiếu lẫn nhau nên cung điện phát ra ánh sáng xanh. Cây lưu ly này có lá bằng vàng ròng. Ánh sáng lá cây phản chiếu nhau tạo thành ánh sáng vàng đỏ và có ánh sáng lớn. Vườn rừng, cung thất được trang trí các vật báu. Các cung báu có vườn cây bảy báu trang trí trông thật đẹp. Thấy vậy, Đế Thích thầm thán phục. Trong điện này có ao hoa lớn bằng bảy báu. Nước ao màu vàng giống như màu của dung kim. Các vật báu xen lẫn nhau và có các loài chim đủ màu. Tất cả Thiên chúng tấu nhạc ca múa, cùng nhau vui chơi, đi đến ao lớn đó. Ao đó tên là Nhất thiết tối thắng.

Thấy các Thiên tử tâm phóng dật, các loài chim trong ao hót kệ:

Ví như chim kên kên
Không ở trong hoa sen
Người ác không được ở
Nơi tịch tĩnh như vậy.
Cớ sao ở rừng vắng
Lại buông lung phóng đãng?
Đảo điên không thuận pháp
Như mặt trời tỏa lạnh.
Ai lìa được ái, lạc
Giải thoát, bỏ các khổ
Hãy lìa hai pháp này
Thiên lạc chẳng phải lạc.
Tu thiền bỏ phóng dật
Ra khỏi lưới dục vọng
Giải thoát mới là vui
Không bị ái lừa dối.
Thế Tôn và Tỳ-kheo
Xưa đã ở nơi này
Người bị dục dắt dẫn
Không được ở rừng này.
Thiên lạc đang thọ hưởng
Vô thường, không tồn tại
Ra khỏi ái dục này
Là hoan lạc đệ nhất.
Những người ở rừng này
Đều vào nơi thanh tịnh
Nếu đạt được tịch diệt
Sẽ đoạn trừ khổ đau.
Tâm ham thích thức ngon
Bị tâm tham lừa dối
Người này không được ở
Trong rừng vắng lặng này.
Ai tu tập tịch tĩnh
Thích thanh tịnh được ở
Tâm chạy theo cảnh dục
Không ở rừng thanh vắng.
Nếu tâm đã tịch tĩnh
Sẽ được ở rừng này
Bị tâm dục mê loạn
Không được ở nơi đây.
Lo sợ năm nhân duyên
Không bị ái thiêu đốt
Người thanh tịnh lìa ái
Không đọa vào đường ác.
Có sinh phải có chết
Mạnh bị bệnh xâm chiếm
Giàu sang có suy não
Già hủy hoại trẻ trung.
Ân ái phải chia lìa
Hòa hợp không tồn lâu
Các pháp đều như thế
Là lời Chánh giác dạy.
Ai không bị mê hoặc
Trong cảnh giới ba cõi
Sẽ đạt được tịch tĩnh
Ở trong rừng vắng lặng.
Ai bị dục dối gạt
Luôn luôn phải lo sợ
Sẽ không được an lạc
Thanh tịnh của rừng này.
Tâm người nào tịch tĩnh
Ở trong rừng tu tập
Sẽ đạt được an lạc
Không phải kẻ hành dục.
Ở rừng tu tập tịnh
Vào xóm tâm không động
Vì thế ở trong rừng
Không nên ở xóm làng.
Người nào vào thành ấp
Bị tâm dục mê loạn
Dua nịnh, không thanh tịnh
Vào rừng sẽ tịch tĩnh.
Vì thế trong rừng núi
Là nơi yên tĩnh nhất
Là nơi hành giả sống
Xa lìa tâm dục vọng.
Các căn, tâm vắng lặng
Tâm hành giả an lạc
Ngàn diệu lạc Đế Thích
Không bằng tâm người này.
Ai được lạc thiền định
Tất cả pháp bạch tịnh
Diệu lạc trời Dạ-ma
Không bằng phần lạc này.
Hoan lạc sinh từ dục
Luôn sẵn có khổ đau
Hoan lạc đoạn phiền não
Vĩnh viễn không hoại được.
Trong vô thỉ sinh tử
Tâm phiền não oán kết
Ai đoạn oán kết này
Dục lạc không tác dụng.
Hoan lạc sinh từ dục
Chịu quả khổ bất tịnh
Ai được lạc giải thoát
Lạc này không gì bằng.
Luôn sống hạnh lìa dục
Đạo cao nhất người tu
Từ ái sinh dục lạc
Không đến được chánh đạo.
Trước, ái như vị ngọt
Chịu quả như lửa độc
Hoan lạc sinh từ dục
Luôn ở chốn địa ngục.
Trước, ái sinh vị thiện
Ái ở giữa cũng vậy
Sau thanh tịnh vắng lặng
Đến được chỗ an lạc.
Trước, giữa hành pháp lành
Trang sức như mẹ hiền
Cớ sao bỏ chánh niệm
Ham cảnh giới dục lạc.
Dục xoay chuyển quay tròn
Giữa, sau luôn chịu khổ
Cớ sao kẻ ngu si
Lại ham thích dục lạc?
Như hoa độc xinh đẹp
Như chạm phải lửa dữ
Dục lạc cũng như vậy
Sau chịu khổ não lớn.
Như thêm củi vào lửa
Lửa ấy không tắt được
Đốt cả mình lẫn người
Dục lạc cũng như vậy.
Như thiêu thân vào lửa
Không biết khổ bị đốt
Dục lạc cũng như vậy
Kẻ si không hiểu biết.
Người nào ham dục lạc
Luôn bị dục thiêu đốt
Như thiêu thân vào lửa
Lửa dục hơn lửa này.
Thế nên bỏ dục vọng
Luôn thích tu trí tuệ
Chớ sống trong phóng dật
Phóng dật đọa đường ác.
Tất cả lạc ái dục
Bị phóng dật lừa dối
Khi quả vui đã hết
Phải chịu khổ địa ngục.
Người ấy nghiệp thiện hết
Bị dục lạc lừa dối
Từ trời xuống, địa ngục
Do dục si lường gạt.
Từ sinh đến lúc chết
Luôn tu chánh tư duy
Tâm nghĩ nhớ giới pháp
Người này được an tịnh.
Dua nịnh, suy nghĩ sai
Ba độc sinh tham đắm
Sông phóng dật rất sâu
Nữ dục là nước sông.
Ca nhạc động tâm họ
Nước ái vượt tảng đá
Rắn cảnh giới che lấp
Sóng tâm nổi nhấp nhô.
Sông ái rất bạo ác
Chảy vào cảnh giới rồng
Kẻ si vào sông này
Bị thiên dục nhận chìm.
Đáng sợ như dòng thác
Kẻ si không biết chìm
Cũng như ong ngu si
Hút mật hoa cây độc.
Độc hại của dục này
Kẻ si thích tham đắm
Ong hút độc bị chết
Ái dục nhận chìm hết.
Từ nước tam độc sinh
Gió phóng dật thổi động
Lửa ái đốt chư Thiên
Mà vẫn không hay biết.
Độc sinh ở cõi trời
Phóng dật là rừng cây
Nơi kẻ si vui thú
Vì ái che tâm mình.
Phóng dật sinh các dục
Duyên dựa không dừng nghỉ
Dục này như mộng huyễn
Người trí không tin tưởng.
Các dục tuy như mộng
Mộng khác nhân địa ngục
Vì thế bỏ các dục
Luôn tu nghiệp thanh tịnh.
Hạnh lành là tối thượng
Không tạo nghiệp bất thiện
Dây nghiệp lành dắt dẫn
Đến những nơi thù thắng.
Chư Thiên tham dục lạc
Không đạt nơi tịch tĩnh
Người trí được tịch tĩnh
Là do không phóng dật.

Những loài chim trời nói kệ này cho các Thiên tử phóng dật nghe xong, Thiên vương Thích-ca từ rừng này đi đến nơi khác. Rừng ấy là nơi những bậc hữu học vô học trang nghiêm bằng công đức nghiệp thiện, là trụ xứ của Đại tiên Thế Tôn Như Lai Ca-ca-thôn-đà.

Khi ấy, Thiên đế Thích cùng vô lượng Thiên chúng trổi nhạc trời đi vào rừng có nhiều cây cối. Vào rừng này, chư Thiên đều có oai đức thù thắng. Ví như núi Tu-di nằm ở giữa sáu vạn núi vàng, Thiên chủ Thích-ca ở giữa chư Thiên cũng như vậy. Trong các vườn rừng của cõi trời Tam thập tam, ánh sáng rừng này hơn hết.

Khi ấy Thiên chủ Thích-ca cùng các Thiên chúng vây quanh đi vào rừng Diêm-phù. Rừng này có cây bằng vàng. Đến đây, Thiên vương Thích-ca hỏi chư Thiên:

–Các ông có thấy rừng Nhất thiết thù thắng này không? Rừng này có đủ vô lượng ao hoa, vườn cảnh.

Thiên chúng đáp:

–Thưa, có thấy.

Đế Thích nói:

–Rừng này có đủ tất cả công đức hiện nay chúng ta đều thấy và thán phục. Thấy rừng này như thấy sắc thân tuyệt diệu của Đức Như Lai Ca-ca-thôn-đà. Nó là trụ xứ của các Đức Như Lai, Bậc Trí Tuệ, Đại Bi.

Nhờ nghe pháp, vô lượng Thiên chúng từ vui được vui. Đức Như Lai – Bậc Trượng Phu Vô Thượng này đã nhập Niết-bàn, chỉ còn lại pháp của Như Lai thôi. Đế Thích lại đến rừng Câu-sất-ca. Ngày xưa, Đức Như Lai Ca-ca-thôn-đà cũng từng vào rừng này. Vào rừng này, Thiên vương Thích-ca thấy trăm ngàn vạn ức cung điện bao quanh trang trí bằng bảy báu: Ngọc xanh, kim cương, xa cừ, lưu ly… các thứ báu trang trí xen lẫn nhau, trang sức các thứ cờ phướn… Trong các điện, Như Lai ngồi điện thù thắng nhất, ánh sáng rực rỡ như tiết trời đầu mùa hạ thu, không có mây che. Trong các tinh tú, mặt trăng, mặt trời là hơn hết, cung điện mà Đức Như Lai ngồi cũng thù thắng như thế. Ánh sáng của nó chói lọi mà ngoài Đế Thích ra, các Thiên chúng khác không thể nhìn lâu, oai đức của điện này như ngày giữa hạ ở cõi Diêm-phù-đề, mọi người không thể nhìn lâu, cung điện của Như Lai cũng thế. Thiên vương Thích-ca hỏi Thiên chúng:

–Các ông có thấy oai đức của điện này không?

Chư Thiên đáp:

–Thưa, chúng tôi có thấy.

Đế Thích nói:

–Điện này là chỗ an cư trong bốn tháng mùa hạ của Đức Như Lai Ca-ca-thôn-đà, Đẳng Chánh Giác, Điều Ngự Trượng Phu, Vô Thượng Đại Sư và trăm ngàn Sa-môn – Những người lìa lưới si, chứng bốn đế, đạt hai giải thoát, đủ sáu thông, bốn như ý túc – vì tạo lợi ích an lạc cho chư Thiên cõi trời Tam thập tam mà diễn thuyết chánh pháp. Pháp đó là: Đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt, đây là chứng đạo sắc diệt, quan sát sự nguy hiểm, sự xuất ly và sự hòa hợp của thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Thiên tử nên biết! Đây là pháp mà Đức Như Lai này đã tuần tự thuyết giảng làm lợi ích cho chư Thiên – những kẻ sống phóng dật, kiêu mạn không biết khổ, vô thường thoái đọa, chỉ tham dục lạc, không biết tự tướng, bình đẳng tướng. Đức Như Lai lại thuyết pháp vi diệu cho những Thiên tử phóng dật nghe và nói kệ quở trách:

Phóng dật: Gốc sinh tử
Nơi chư Thiên sinh sống
Vì say độc phóng dật
Chìm ở trong các hữu.
Ai xa lìa phóng dật
Vượt hẳn biển ba cõi
Si là gốc phóng dật
Che mờ không hiểu biết.
Ánh sáng được phát xuất
Từ ngọn lửa mặt trời
Nhân si sinh phóng dật
Đại Tiên dạy như vậy.
Lửa phóng dật hừng hực
Từ tâm mà sinh ra
Dối gạt kẻ ngu si
Đi đến cõi địa ngục.
Trời, người sống phóng dật
Do nữ sắc sai khiến
Cùng nhau mà vui chơi
Không biết khổ ái biệt.
Khi sắp qua đời khác
Là lúc chịu khổ lớn
Nữ sắc cũng không còn
Hoan lạc đều mất hết.
Hòa hợp phải chia ly
Hoan lạc sẽ chấm dứt
Trẻ khỏe già phải suy
Do nghiệp làm tan mất.
Hết thảy các chúng sinh
Bị nghiệp thiện ác buộc
Cũng như người diễn trò
Qua lại đều sai khác.
Năng lực nghiệp trói buộc
Lưu chuyển trong sinh tử
Nghiệp vô thường biến động
Người trí không nên tin.
Phóng dật như độc hại
Hãy tìm cách lánh xa
Ai xa lìa phóng dật
Qua khỏi biển ba cõi.

Bấy giờ, Đức Như Lai Ca-ca-thôn-đà điều phục chín na-do-tha chư Thiên phóng dật để họ bỏ phóng dật. Đức Như Lai phân biệt diễn thuyết lợi ích cho chư Thiên, rồi cùng các Tỳ-kheo đi đến Diêm-phù-đề.

Nói xong, Đế Thích lên điện báu Câu-sất-ca. Điện ấy được trang trí vô lượng châu báu mà tất cả chư Thiên chưa bao giờ thấy. Thấy được, chư Thiên vui mừng, sinh tâm thán phục. Thấy vậy, Đế Thích hỏi chư Thiên:

–Các ông có thấy điện thù thắng này chăng? Có điện nào được trang trí xinh đẹp như vậy không?

Chư Thiên đáp:

–Thưa Thiên vương, thấy.

Đế Thích nói:

–Cung điện báu này là của Thiên vương Dạ-ma dâng cúng Đức Thế Tôn Ca-ca-thôn-đà bằng tâm tịnh tín. Ánh sáng của điện này không thể nào nhìn được. Như vậy, ánh sáng của cõi trời ấy rất thù thắng. Vì sao? Vì Thiên tử đời trước không sống phóng dật như các ông.

Khi ấy, chư Thiên tự biết mình yếu kém nên bỏ tâm kiêu mạn, tất cả Thiên chúng đều cúi đầu đảnh lễ điện của Như Lai, đều vui vẻ, sinh tâm nhàm chán về phóng dật, tự biết mình ít phước. Có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, có người phát tâm Duyên giác Bồđề, có người phát tâm Thanh văn Bồ-đề, có người đối với Phật đạt tín bất hoại. Tất cả Thiên chúng đều phát tâm tịnh tín, chắp tay cung kính ngồi qua một bên.
Lúc này, Đế Thích vào điện Câu-sất, đến tòa Sư tử – nơi Đức Phật thuyết pháp. Giường ngồi của Đức Như Lai Ca-ca-thôn-đà được làm bằng kim cương, đầy đủ mọi thứ. Đế Thích thanh tịnh tâm ý, cúi đầu đảnh lễ tòa Sư tử, tự nghĩ: “Đây là nơi Đức Như Lai ngồi.” Nhờ nghĩ nhớ bằng tâm kính trọng, nên sau khi đứng lên, thấy trên vách điện có kệ tụng:

Người rớt từ núi cao
Còn có thể không chết
Kẻ sống trong phóng dật
Không ai không chịu khổ.
Người sống trong phóng dật
Tất cả mọi việc làm
Suốt cả ngày lẫn đêm
Đều không có quả vui.
Phóng dật phá hoại được
Hết thảy các pháp lạc
Thế gian, xuất thế gian
Vì thế hãy xả bỏ.
Không phóng dật không chết
Phóng dật là đường chết
Không phóng dật thù thắng
Các Thiên chủ nên biết.
Phóng dật: Gốc sinh tử
Cẩn thận: Đạo thù thắng
Vì thế bỏ phóng dật
Luôn được hưởng thiên lạc
Người nào muốn tìm vui
Lo sợ các khổ não
Hãy bỏ hạnh phóng dật
Phóng dật như lửa độc
Phóng dật mê muội người
Si phóng dật độc hại
Làm những việc bất thiện
Phóng dật là hầm sâu
Không phóng dật tối thắng
Phóng dật là bất thiện
Không phóng dật được vui
Phóng dật luôn chịu khổ
Kệ này nói tổng quát
Về nguồn gốc khổ vui
Đã biết công đức này
Khéo tu tự lợi ích.

Đọc kệ xong, Đế Thích càng cung kính, tâm ý thanh tịnh, cúi đầu đảnh lễ tòa Sư tử, dừng lại đây một thời gian, khen ngợi không phóng dật, khinh chê phóng dật. Đế Thích ra khỏi điện, đi đến chỗ Thiên chúng. Thấy vậy, chư Thiên đều cung kính đến chỗ Đế Thích. Đế Thích đọc bài kệ vừa rồi cho Thiên chúng nghe, rồi bảo họ rằng:

–Bài kệ này vì lợi ích an lạc cho chư Thiên nên viết trên vách điện.

Nghe xong, các Thiên chúng đều đảnh lễ Thế Tôn, nói: Đức Như Lai Thế Tôn là mắt của thế gian, đã thuyết bài kệ này cho chúng con. Sau một thời gian không phóng dật, chư Thiên lại trổi nhạc đi đến trời Vi tế hạnh. Nghe việc này, chư Thiên cõi Vi tế cùng các Thiên nữ trổi nhạc hay, đi đến rừng này để vui chơi với chư Thiên ở đây. Chư Thiên cõi Vi tế đến đây, chư Thiên ở đây lại mất chánh niệm, sống phóng dật, trổi nhạc ca múa vui chơi, đi đến chỗ chư Thiên cõi Vi tế. Họ gặp nhau, ai nấy đều vui vẻ. Rừng này được bao phủ bởi những cành cây báu.

Họ cùng nhau vui chơi đến khi nghiệp thiện hết, từ cõi trời, họ qua đời, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Người nào đã đóng cửa ba đường ác thì sinh vào cõi người, trong nước an lạc, có đủ vườn rừng sông suối, luôn làm lành, có nhiều của cải, hoặc được làm vua, quan, được mọi người yêu mến, thích bố thí, giữ gìn giới cấm, thích làm lành, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát các trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai mươi hai của cõi này tên là Oai đức luân. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh tu hành pháp lành, không phóng dật, lợi ích cho chúng sinh bằng tâm vị tha, tin nghiệp quả, gần bạn tốt, không sát sinh, không trộm cướp. Thấy trên những cây thi-xa-bà, yên-la, táo… có tổ chim, trong tổ lại có chim con, nếu chim lớn hoặc rắn bắt chim con ấy thì cứu chúng thoát chết bằng tâm Từ bi lợi ích cho chúng sinh. Thế nào là không trộm? Không hề trộm một cành cây, một lá cây trong vườn người khác, cũng không dạy người trộm. Dù đi trên đường thấy trái rơi cũng không trộm lấy, thấy ai lấy thì khuyên bỏ. Thế nào là làm lành bố thí? Vào mùa mưa đem thức ăn cúng dường chư Tăng, gặp thời đói khát đem thức ăn cho người bệnh tật, tự giữ giới, dạy người giữ giới, thấy ai giữ giới thì khuyên họ vui mừng, nói quả báo của nghiệp cho chúng sinh nghe, niệm Phật, Pháp, Tăng, thực hành bố thí, đem thuốc thang, ẩm thực dâng cha mẹ, cho Ưu-bà-tắc, người không giữ giới, người bệnh hoạn, nói nghiệp quả cho người khác nghe, không gần gũi, ở chung, trò chuyện với bạn ác, luôn giữ gìn thân, khẩu, ý, tự lợi, lợi tha. Sau khi qua đời người này được sinh lên trụ xứ Oai đức luân của cõi trời Tam thập tam thuộc đường lành. Ở đây, nhờ nghiệp thiện, thân sáng như mặt trăng tròn. Cõi ấy xinh đẹp trông thật đáng yêu, có nhiều vườn rừng bằng bảy báu, dòng suối, ao sen, đủ các loài hoa, cọng bằng lưu ly, lá bằng vàng ròng che trên mặt ao, bờ ao bằng các loại đá vàng xoay chuyển như điệu múa, các loài chim hót tiếng rất hay làm vui lòng mọi người. Cõi ấy có những ngọn núi vàng, lưu ly xinh đẹp, thiên nga, vịt trời, uyên ương kêu tiếng rất hay, Thiên tử, Thiên nữ vui chơi quanh ao sen, dòng nước chảy róc rách. Lại có nhiều rừng hoa sen báu đủ các ánh sáng, loài ong xinh đẹp. Thiên tử, Thiên nữ ngắm ao sen, lấy vật báu trang sức thân, thọ lạc ở cõi trời Quang minh Luân một thời gian dài. Họ lại đến rừng Di-nan-đa vui chơi, thọ lạc, trổi các âm nhạc. Ở đó có rừng sen tên Không hầu du hý. Rừng này dài rộng năm trăm dotuần, có đủ sắc, hương mỹ vị, chư Thiên ăn uống, ca múa, vui chơi. Bấy giờ có chim trên trời chánh hạnh, thấy các Thiên tử phóng dật, nó hót kệ:

Người không biết hổ thẹn
Bạn xấu ác, biếng lười
Đó là nhân địa ngục
Người trí luôn lánh xa.
Kẻ không biết hổ thẹn
Luôn tạo những việc ác
Như người rơi xuống núi
Sau đó mới biết được.
Tham si, không thành thật
Tâm tự chẳng lo sợ
Bị ganh ghét mê hoặc
Không được sinh lên trời.
Uống rượu, nói hư dối
Tâm tham đắm dục lạc
Không tin quả báo nghiệp
Đó là nhân địa ngục.
Giữ chặt tâm độc ác
Tạo nghiệp ác sân hận
Chúng sinh vì nghiệp ác
Đọa trong ba đường ác.
Dũng mãnh tạo nghiệp ác
Luôn bị dục sai khiến
Lại còn thêm nói dối
Kẻ ấy không quả vui.
Người nào phạm giới cấm
Như vân mẫu, báu giả
Kẻ này vì nghiệp ác
Đọa trong ba đường ác.
Người có tâm độc ác
Thật ngu tối vô cùng
Người quy y Tam bảo
Như ánh sáng trong đêm.
Kẻ ngu sống phóng dật
Như kẻ si tự dối
Phóng dật mê cả hai
Lưu chuyển trong địa ngục.
Tất cả các thế gian
Có sinh phải có diệt
Có sống phải có chết
Không ai tránh khỏi được.
Phóng dật tự bao vây
Biển cảnh giới thêm lớn
Bị xiềng ái gông cùm
Vui chơi ở cõi trời.
Chư Thiên lúc sinh ra
Cuộc sống vui mất dần
Phóng dật che lấp tâm
Không biết sự vô thường.
Bị phóng dật mê hoặc
Luôn ham thích cảnh giới
Tham dục không biết đủ
Nên chịu những khổ đau.
Chẳng biết là bao lâu
Bất chợt mất quyền lực
Tham ái khiến chúng sinh
Thọ hưởng diệu lạc trời.
Đất ái rất độc ác
Nhiều giác quán ô nhiễm
Vui chơi trong đất ái
Bị tham dục sai khiến.
Ví như lửa địa ngục
Thiêu đốt những tội nhân
Lửa ái cũng như thế
Thiêu đốt các Thiên chúng.
Lửa đói khát bùng cháy
Thiêu đốt loài quỷ đói
Súc sinh giết hại nhau
Con người khổ tìm cầu
Lửa ái có khắp nơi
Phủ quanh hết mọi loài
Ngọn lửa cháy hừng hực
Thế gian không ai hay.

Chim trời đã nói kệ cho những Thiên tử phóng dật nghe, Thiên tử nào đã tạo thành nghiệp lành từ trước thì nghe pháp này, bỏ bớt phóng dật, không uống rượu cõi trời, lánh xa sắc, hương, vị, xúc… năm dục lạc phóng dật. Sau đó lại vào rừng trổi nhạc vui chơi, mặc tình thọ hưởng hoan lạc. Rừng ấy có các ngọn núi báu lưu ly xanh, xa cừ, sông suối, ao sen xinh đẹp và các loài ong đủ màu sắc tập hợp ở đó. Rừng sen ấy, lá bằng lưu ly, cọng bằng pha lê, có nhiều loài ong, không thể ví dụ được. Trăm ngàn Thiên nữ cùng Thiên tử vui chơi. Nhờ nghiệp thiện có đủ các cảnh giới, Thiên nữ chìm trong sông ái không hề hay biết. Họ vui chơi như thế, đến khi nghiệp thiện hết, từ cõi trời họ qua đời, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh vào con người, ở nơi an lạc, có nhiều của cải, tâm phóng khoáng, thích tu chánh pháp, thích trí tuệ, làm Sa-môn, Bà-la-môn, được sống lâu, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai mươi ba của cõi này tên là Nguyệt hành. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh với tâm thanh tịnh, tu hành nghiệp thiện, khéo giữ tâm mình, tạo hình tượng Phật để cúng dường, hoặc tắm rửa tượng Phật cho sạch sẽ, hoặc thấy tượng Phật làm bằng vàng bạc thì vui vẻ, suy nghĩ kính trọng công đức ruộng phước, huân tập tâm bằng công đức, thực hành nghiệp thiện, tâm vui vẻ, không sát sinh, không trộm cướp. Thế nào là không sát sinh? Người ấy không nghĩ đến việc giết hại, không dạy người khác, thấy người giết không vui theo, khuyên họ đừng làm để họ sống trong pháp lành, tự lợi, lợi tha. Lại có cách không sát sinh khác như: Không nghĩ đến việc giết, không hề nghĩ đến việc giết hại loài trùng trong giường nệm, đồ nằm do ẩm ướt sinh ra, dù là những con trùng nhỏ như kiến… cũng không cố ý giết. Đó là không sát sinh. Thế nào là không trộm cướp? Người này làm việc lành không chán nản, không hề trộm cướp ở bất cứ nơi nào, cho dù là cỏ cây bùn đất cũng không lấy, không dạy người trộm. Giả sử nóng bức cũng không chiếm đoạt bóng mát của người khác, không để người khác ở ngoài nắng mà mình ở trong mát. Dù có sức mạnh cũng không chiếm đoạt của người, không dạy người trộm, thấy ai làm thì khuyên họ đừng làm, dù là chỗ mát cũng không chiếm đoạt, mọi thứ nhỏ nhặt đều không trộm lấy. Đó là không trộm. Sau khi qua đời, người này được sinh lên trụ xứ cõi trời Nguyệt hành. Ở đó, nhờ nghiệp thiện, vị ấy được quả vui, ánh sáng rực rỡ, như mười mặt trăng cùng chiếu, thân tướng của chư Thiên sáng rực trong sạch không nhơ cũng giống như vậy. Nhưng khi Thiên tử sinh ra thì thân thể của Thiên chúng càng sáng gấp trăm lần, lạnh nóng điều hòa, chư Thiên khác thấy được đều yêu thích. Ánh sáng ấy sáng hơn ánh sáng của chư Thiên khác, chiếu khắp mười do-tuần, hơn cả ánh sáng của các loại châu báu. Đó là nhờ nghiệp thiện. Thiên tử này có vô lượng quyến thuộc vây quanh, trổi nhạc, đi đến nơi vui chơi tên Ngũ nhạc. Trong cõi trời Tam thập tam, rừng này thù thắng nhất, cây cối xinh đẹp, trái cây ngon, có chim rất khôn, hoa Bát-đầu-ma-già, ao sen dòng suối, trong hư không có gió thơm thổi vào linh báu phát ra vô số âm thanh hay. Khiến Thiên tử cùng Thiên chúng, Thiên nữ xinh đẹp tấu nhạc đến rừng Ngũ nhạc ca múa vui chơi, Thiên nữ ca hát đủ năm âm nhạc, thọ diệu lạc tối thượng. Nhờ tạo nghiệp lành trong ruộng phước mà được hương thơm thù diệu này. Hương ấy xông khắp năm do-tuần, trái cây lơ lửng giữa hư không giống như các ngôi sao. Cây ấy xinh đẹp nhất trong cõi trời, sáng như mặt trời nhưng không lạnh nóng. Trái cây đủ sắc, hương, vị. Hương thơm hơn tất cả các loài hoa, xông khắp năm do-tuần, lơ lững giữa hư không như ngôi sao. Trái cây thường tiết ra nước thơm, chư Thiên uống vào mà không say. Họ muốn mùi vị gì thì được nấy, thọ hưởng công đức như vậy. Khi ấy có chim trời tên Giáo phóng dật, nói kệ cho Thiên tử phóng dật nghe:

Nghiệp thiện sẽ hết
Bỏ phí một đời
Hãy mau tu tập
Đừng sống phóng dật.
Tuổi trẻ dễ qua
Thọ mạng cũng vậy
Sẽ mất tất cả
Đừng sống phóng dật.
Trời: pháp vô thường
Chẳng phải đầy đủ
Trong lúc chưa chết
Hãy tu phước đức.
Thực hành nghiệp thiện
Luôn giữ tâm mình
Chưa thấy nơi nào
Không có tội lỗi.
Nếu tâm tán loạn
Thực hành phi pháp
Lạc này giả dối
Đi không trở lại.
Giữ giới tìm vui
Sinh ở cõi trời
Ai sinh lên trời
Thọ năm dục lạc.
Do giới thanh tịnh
Nên được quả lớn
Chư Thiên tham dục
Phóng dật si độc.
Không biết vô thường
Hủy hoại thân mình
Vô lượng vô số
Trăm ngàn chư Thiên.
Đều bị phóng dật
Lửa dục thiêu đốt
Phóng dật che mờ
Tất cả chúng sinh.
Sau chịu suy não
Mới biết tội nó
Tâm luôn giong ruổi
Không ngừng phút giây.
Ngu si chẳng biết
Sau thành ác lớn
Tâm tham cảnh dục
Không biết buồn lo.
Tai họa đã đến
Lại sinh hối hận
Phiền não kết sử
Từ ức niệm sinh.
Kết sử, tâm vương
Thường đi với nhau
Giong ruổi theo tâm
Có mặt khắp nơi.
Luôn bị mê muội
Trôi trong biển hữu
Ai biết chân đế
Thấy pháp thế gian.
Khổ, không, vô thường
Dứt hẳn buồn lo
Bị sắc sai khiến
Luôn tìm dục lạc.
Người này đời sau
Không được thiên lạc
Rừng san hô này
Trang trí các báu.
Khắp mọi cành cây
Đều có hoa sen
Lại có dòng nước
Làm đẹp con sông.
Nghiệp nhân đã tạo
Đầy cả hư không
Kiếp tận lửa sinh
Cháy cả Tu-di.
Huống gì thân trời
Chẳng khác bọt nước
Vừa sinh là diệt
Phóng dật tự dối.

Khi ấy, các Thiên tử nào đã từng tu tập nghiệp thiện thì nghe chim thuyết pháp này liền thấu đạt. Giống như những gì chim hót, tất cả đều vô thường, nghĩ nhớ trong chốc lát, xả bỏ phóng dật, nhưng lại bị cảnh giới sắc, hương, vị, xúc mê hoặc nên quên hết pháp này như qua đời khác. Những gì nên làm, những gì không nên làm họ đều quên hết, thọ hưởng dục lạc hiện tại, không xét đến vị lai, không nhớ những gì chim thuyết, say sưa với năm dục, vui chơi hưởng lạc, không nhớ khổ lớn của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, không nghĩ thân trời khó được, không nghĩ đến sự khổ lưu chuyển trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh từ vô thỉ, các khổ chắc chắn khó điều phục được, chỉ trừ Thiên tử có tâm thù thắng đã nhiều kiếp tu tập căn lành.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Hãy quan sát con chim này, do những nghiệp gì mà nói pháp thanh tịnh không nhơ và chân thật để dạy những Thiên tử phóng dật? Với tri kiến biết được có người sống phóng dật, người vui chơi hoặc lực sĩ, những người diễn kịch, thân mặc ca-sa vui chơi ca múa, khen công đức của Phật nên được tài vật. Khi được tài vật như y phục, thức ăn liền đem cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn hoặc tự dùng. Do nhân mặc ca-sa nên sau khi qua đời được sinh lên cõi trời thọ thân chim, hưởng an lạc thượng diệu. Đó là do những nghiệp như vậy.

Lại nữa, các Thiên chúng vui chơi thọ lạc dưới cây lưu ly, lá cây bằng vàng, cành bằng pha lê rợp tỏa khắp nơi. Lại có cây báu được trang trí bằng các thứ san hô quý, có trăm ngàn loài ong xinh đẹp, cành cây bằng vàng ròng chân châu. Lại có các ngọn núi được trang trí bằng bảy báu sáng rực. Lại có hoa sen bằng vàng ròng, pha lê, lưu ly. Họ vui chơi hưởng lạc trong những hoa này. Lại có cõi trời khác đầy đủ cung điện, lầu gác báu. Chư Thiên cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc ở đây, không ganh ghét nhau, không sợ hãi, yêu mến nhau, kính trọng nhau, thọ an lạc thượng diệu. Lại cùng chư Thiên vui chơi ca múa vào rừng Như ý. Vào rừng này, họ muốn gì được nấy nên gọi là rừng Như ý. Họ ở đây thọ hưởng diệu lạc một thời gian lâu, lại đi đến núi vàng Tu-di. Trong núi, có sông suối, ao hồ rất đẹp. Họ cùng Thiên nữ vui chơi ca múa trổi nhạc trời, âm thanh rất hay làm vui lòng người nghe. Họ nhìn ngắm các cảnh sắc xinh đẹp do nghiệp lực hóa sinh mà thọ hưởng diệu lạc. Các Thiên nữ vây quanh, thấy trên núi Tu-di có ao sen nhiều hoa, lại có vườn sen, mùi hương thơm diệu, ngửi vào được vui vẻ, thân tiếp xúc với vật thượng diệu nhất giống như tiếp xúc mùi hương thơm diệu sáng rực không nhơ ở biển Ca-chiên-lân-đề (chim trong biển Ca-chiên-lân-đề tiếp xúc hương này thì vui vẻ, khi Luân vương thả chúng ra thì hiện mùi thơm ấy). Ai trông thấy được thì rất vui thích. Họ vui chơi trong núi này, muốn gì được nấy, đầy đủ vô lượng công đức, thanh tịnh không nhơ, tự do thọ hưởng người khác không chiếm đoạt được. Họ ở đây vui chơi thọ các thứ hoan lạc cõi trời, thân thể sáng rực, vô lượng Thiên nữ vây quanh. Thọ năm dục lạc cõi trời đến khi nghiệp thiện hết, họ qua đời, bị thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người thì từ khi sinh đến lúc chết luôn hưởng an lạc, khôi ngô tuấn tú, hoặc được làm vua, quan, đất nước mình sống luôn có pháp lành, sinh vào nơi chúng sinh có chánh kiến, xa lánh bạn ác, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai mươi bốn của cõi này tên là Diêm-ma-ta-la. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh phụng trì giới cấm, lợi ích cho chúng sinh bằng tâm chánh kiến, thanh tịnh thân, ngữ, ý. Nếu có người bị rơi trong chỗ nguy hiểm, ở trong đồng vắng hay chìm trong sông thì cứu họ thoát chết. Người đi trong đồng vắng bị đói khát dằn vặt thì đem nước cho họ, nếu người đi trong chỗ nguy hiểm bị lạc đường thì chỉ đường cho họ. Không cầu báo ân, lợi ích cho chúng sinh, vì cứu giúp chúng sinh mà hy sinh thân mình. Thế nào là không sát sinh, không trộm cướp? Người này hoặc người khác thực hành nghiệp thiện không sát sinh. Trong nhà có những chúng sinh thai sinh, thấp sinh lớn nhỏ phá hoại vật dụng của người, hoặc trên sườn nhà có chúng sinh làm cho người không an ổn, nhưng với tâm Từ bi không giết hại chúng. Dù bị ễnh ương, trùng độc gây hại cũng không giết chúng. Đó là không sát sinh. Thế nào là không trộm? Có mấy cách không trộm như người thiện đi qua đồng vắng, dù có sức mạnh cũng không lấy nước, muối của khách buôn, tự cam chịu đói khát. Nếu khách buôn cho nước thì mới uống, không cho thì mua uống. Xét kỹ quả báo của nghiệp vi tế, thực hành pháp Phật, niệm công đức của Phật. Vì tu tập tâm mình nên không phút giây gần gũi, trò chuyện, đi chung với bạn ác. Vì sao không đi chung với họ? Vì tất cả nghiệp lành đều do gần bạn ác mà bị ngăn ngại, thế nên không giao tiếp, trò chuyện với họ. Vì sao? Vì bạn ác là nơi tập hợp tham, sân, si, người có trí phải lánh xa như cây độc. Người này thanh tịnh như vàng đã tôi luyện, sau khi qua đời được sinh lên cõi Diêm-ma-ta-la. Ở đó, được mọi người tốt kính trọng, cung phụng, do nghiệp quyết định đó được quả vui, thân hình ngày càng sáng rực. Vì sao? Vì cõi trời không có ban đêm, thân hình người này cứ ngày thêm sáng rực. Các Thiên tử khác thấy vậy đều hổ thẹn với Thiên nữ của mình. Người ấy xinh đẹp hơn chư Thiên cõi trời khác.

Thấy vậy chư Thiên đều đến chỗ Thiên vương Thích-ca hỏi nguyên nhân:

–Thưa Thiên vương, vì sao cõi Diêm-ma-ta-la có một Thiên tử vừa sinh ra thân hình sáng rực hơn tất cả Thiên chúng?

Nghe vậy, Đế Thích nói kệ:

Ánh sáng của Thiên tử
Do trì giới sinh ra
Vòng ánh vàng Tu-di
Không bằng phần mười sáu.
Thân luôn phóng ánh sáng
Giống như khối dung kim
Do người trí tạo nghiệp
Ánh sáng phủ che khắp.
Do nghiệp thượng, trung, hạ
Giữ gìn ba loại giới
Được quả báo cũng vậy
Có thượng, trung và hạ.
Giữ giới bỏ phóng dật
Phát triển không phóng dật
Luôn được hưởng an lạc
Các pháp đều như thế.
Giữ gìn giới thanh tịnh
Nay được thân sáng rực
Ngàn ánh sáng mặt trời
Cùng chiếu cũng không bằng.
Trượng phu thù thắng nào
Giữ gìn bảy chi giới
Người ấy được quả lành
Trước đây Phật dạy thế.
Người nào tạo nghiệp lành
Không mất quả báo vui
Không làm thì không quả
Tạo nghiệp thì không mất.
Kẻ si không nhân vui
Chỉ mong cầu quả vui
Không nhân khó có quả
Như ép cát không dầu.
Người nào tu nghiệp lành
Xả bỏ tâm ganh ghét
Kẻ ngu si độc ác
Luôn sống trong sân hận.

Nghe Đế Thích nói quả báo của nghiệp thiện để dạy các Thiên tử phóng dật, các Thiên tử cúi đầu vâng lãnh, trở về cõi Diêm-mata-la. Về đến nơi, Thiên tử, Thiên nữ vui chơi trổi nhạc thọ lạc cõi trời. Hai cây Bà-la ở cõi này là tối thắng trong các vườn rừng của cõi trời Tam thập tam. Sắc tướng, ánh sáng, hoa trái rất kỳ lạ, âm thanh lưới linh che trên lá cây nghe như tiếng năm thứ âm nhạc. Nghe tiếng đó chư Thiên đều đi đến cây này vui chơi thọ lạc. Đến nơi, họ leo lên cây Bà-la. Trên cây có ao hoa sen tên Hoan hỷ. Trong ao có nhiều thiên nga, vịt trời, uyên ương kêu tiếng rất hay. Ao có vô số hoa sen đẹp, nước ao có tám công đức. Thấy vậy, chư Thiên đều thán phục. Ngoài hai cây này ra chưa có cây nào có ao sen như vậy. Ngoài cây Ba-lê-da-đa-câu-tỳ-đà-la-na không có cây nào sánh bằng cây Bà-la. Nói xong, Thiên tử, Thiên nữ ca múa vui chơi thọ hưởng năm dục lạc. Ở đây hưởng hoan lạc trời một thời gian lâu, họ đi đến rừng Thường du hý, đầu đội mão, cổ đeo vòng hoa, mặc y phục sặc sỡ, thân phóng ra các thứ ánh sáng. Nay xin nói một ví dụ nhỏ. Ví như ánh điện chớp vào mùa hạ có ba màu xanh, vàng, đỏ. Nơi chư Thiên tử vui chơi thọ năm dục lạc như sức nước trên núi đổ xuống, và sức của sóng cuồn cuộn. Họ thọ hưởng các thứ dục lạc cũng thế.

Bấy giờ, Đế Thích và các Thiên chúng vui chơi ở Thiện pháp điện, lại cùng Thiên nữ trổi nhạc ca hát, ra khỏi Thiện pháp đường, đi đến cõi Diêm-ma-ta-la.

Thấy Đế Thích đến, chư Thiên cõi Diêm-ma-ta-la ra nghênh đón, chắp tay đảnh lễ. Thiên vương Thích-ca, chư Thiên ở Thiện pháp đường và chư Thiên cõi Diêm-ma-ta-la cùng nhau ca múa vui chơi, đi đến hai cây ấy. Đến nơi, các Thiên chúng vây quanh cây, uống nước Ma-thâu, Thiên vương Thích-ca hỏi chư Thiên:

–Các ông có thấy cây Diêm-ma-ta-la này không? Trong các cõi trời, ngoài cây Ba-lê-da-đa-cây-tỳ-đà-la ra, tất cả các cây khác không sao sánh bằng.

Chư Thiên đáp:

–Thưa, có thấy.

Đế Thích nói với chư Thiên: Các ông chưa biết công đức của cây Diêm-ma-ta-la, mà chỉ thấy hình sắc của nó, các ông hãy quan sát thế lực của hai cây này.

Khi ấy, Đế Thích xuống xe, cầm chày kim cang đánh vào cây ấy, cánh cửa liền mở ra. Trong cây có vô số vườn rừng, sông suối, ao sen xinh đẹp, có các ngọn núi báu lưu ly, ma-ni, bạch ngân, pha lê trang trí những dòng sông con suối. Lại thấy hoa trời, ao sen bằng bảy báu có trăm ngàn loài ong vây quanh. Lại thấy rừng cây bằng vàng ròng, bạch ngân, lưu ly, báu xanh, có chim cánh bằng bảy báu hót tiếng rất hay. Nghe tiếng ấy, chư Thiên thầm thán phục, vui vẻ thọ lạc.

Khi ấy Thiên đế Thích cùng Thiên chúng vây quanh đi vào các dãy cung điện của cây Diêm-ma-ta-la. Những dãy cung điện ấy, trụ bằng bảy báu: báu xanh, lưu ly, bạch ngân, pha lê, xa cừ… lại có giường nệm trải lụa xung quanh. Bốn chân giường làm bằng các thứ báu: kim cương, báu xanh, pha lê, lưu ly. Lại thấy trên ngọn núi trong cây có nhiều loài chim hót đủ các âm thanh.

Đế Thích hỏi chư Thiên:

–Các ông có thấy những việc kỳ lạ trong hai cây này không?

Chư Thiên đáp:

–Thưa, có thấy.

Đế Thích quan sát Thiên chúng buông lung tham đắm dục lạc liền đưa họ vào cung điện mà chỉ rõ nghiệp quả. Điện ấy trong suốt như gương, ánh sáng của nó chiếu khắp nơi. Đế Thích chỉ cho chư Thiên: Các ông hãy xem nghiệp quả ở trên vách điện báu này, theo nghiệp mình đã tạo mà có quả báo. Nếu ai có tín tâm cúng tài vật vào ruộng phước thì được quả báo như ý, sinh ở đâu cũng hưởng được quả báo, nhìn vào đó sẽ thấy hết quả báo mình được hưởng.

Đế Thích lại dạy Thiên chúng:

–Các ông hãy quan sát người tu hành giữ giới, bảo vệ chúng sinh trong các cõi như cha mẹ, chân thật không hư dối, giống như đất sạch, châu báu tốt. Các Thiên tử! Người nào hộ trì bảy chi giới thì sinh bất cứ nơi nào hoặc cõi trời cõi người đều hưởng quả báo trì giới.

Đế Thích lại chỉ ảnh tượng trong gương nghiệp cho chư Thiên thấy, bảo rằng: Các ông hãy quan sát tất cả nghiệp báo. Nếu người nào tạo nghiệp lành, tu tập trí tuệ chánh kiến thì biết được được trí thượng, trung, hạ mà có quả báo hữu lậu vô lậu.

Đế Thích lại chỉ cho Thiên chúng về chín cách trì giới bố thí bằng trí tuệ. Trong pháp bố thí có thượng, trung, hạ thành tựu quả báo cõi lành, suy xét tu tập, đầy đủ ruộng phước công đức, đầy đủ chín cách đó.

Thiên tử! Không có quyết định thí thì không có tướng tương ưng, gọi là quả nhỏ. Lại có quả nhỏ khác như ngạ quỷ có thần thông, súc sinh hưởng quả vui, đó là bố thí bậc hạ. Thiên tử các ông hãy quan sát ảnh tượng trong gương nghiệp này, quả bố thí ở trong các loại quả, không có tu tư tâm, tâm không đầy đủ thì công đức tài vật cũng không đủ. Bố thí vào ruộng phước lành, đầy đủ công đức, được quả báo bậc trung. Sinh trong nước Phất-đề-bà, Cù-đà-ni ở cõi người, hoặc sinh trong loài súc sinh A-tu-la, Dạ-xoa gọi là quả bậc trung. Họ thấy tất cả tướng như vậy trên vách gương. Đế Thích lại chỉ quả báo của nghiệp cho Thiên chúng, bảo rằng: Thiên tử! Các ông hãy quan sát nghiệp thượng, trung, hạ, không tu tư tâm nhưng đầy đủ ruộng phước. Vì sao không tu tư tâm mà được quả báo? Có thí chủ bố thí đúng thời, khuyên người bố thí, nhưng không có tâm tin vững, không phải tự mình thí, thấy người đến nhận không đứng lên, không cung kính lễ bái, đầy đủ ruộng phước tài vật nhưng không đủ tư tâm và bố thí quyết định nên sinh ở nơi biên địa không có chánh pháp giới luật, không có lễ nghi, hoặc làm thủ lĩnh, quan, không có lễ nghi của con người.

Thiên tử! Các ông hãy quán xét trên vách gương nghiệp này sẽ thấy tất cả.

Đế Thích chỉ cho họ những việc như vậy.

 

Đế Thích lại chỉ cho chư Thiên quả báo bố thí bậc thượng, đầy đủ tư tâm, ruộng phước, tài vật và công đức. Ruộng phước thù thắng là các Đức Như Lai, tài vật đầy đủ là thức ăn uống và của cải, tư tâm đầy đủ là cúng dường bằng tín tâm vững chắc. Bố thí như vậy được quả báo lớn ở cõi người, cõi trời, hoặc được sinh lên trời có oai đức lớn, hoặc sinh vào cõi người làm Chuyển luân vương đầy đủ bảy báu làm vua trong bốn cõi và có bảy thứ báu khác. Vị Chuyển luân vương này thuận hành chánh pháp, đầy đủ tất cả giữ giới, tu tuệ, nhập Niết-bàn, đó là bố thí bậc thượng.

Nhìn trong vách họ thấy được quả báo của các cách bố thí.

Đế Thích lại chỉ quả báo của ba cách bố thí hiện trên vách lưu ly trong suốt. Nếu bố thí tài vật của mình làm ra thì được giàu có như đã nói ở trước. Còn bố thí vô úy thì sinh trong nước lớn, làm thủ lĩnh hoặc vua, không có những tai nạn như binh đao, tật dịch, chết yểu, không sợ oán địch, không bệnh hoạn, được an ổn, không có sợ về nước, lửa, bệnh tật hoặc được làm vua, quan, sống lâu. Đó là quả báo của vô úy thí.

Nhìn trong vách gương thấy những nghiệp như vậy. Lại nhìn thấy cách bố thí thù thắng như bố thí pháp là tối thượng, diệt hẳn hạt giống hữu vi sinh tử. Đó là bố thí vô thượng, tùy tâm thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Lại nhìn thấy nghiệp quả trên vách gương. Nếu như vì tài vật mà thuyết pháp cho người, không vì tâm bi tạo lợi ích cho chúng sinh mà lấy tài vật, đó là pháp thí bậc hạ. Cách thí này không vì tâm thiện thuyết pháp cho người mà chỉ vì tài lợi, bản thân không tu tập như những gì mình diễn thuyết, đó là bố thí bậc hạ. Nếu thuyết pháp mà được tài vật rồi uống rượu hay ăn uống với người nữ, như cách của người ca kịch, buôn bán cầu tài lợi, pháp thí đó đạt quả rất nhỏ. Nhìn trong vách thấy những người bố thí pháp như vậy được sinh lên trời làm chim có trí tuệ, biết nói pháp, đó là pháp thí bậc hạ.

Thế nào là pháp thí bậc trung? Vì muốn được tiếng khen, muốn thắng người khác, muốn thắng đại pháp sư mà thuyết pháp cho người, hoặc thuyết pháp cho người với tâm ganh ghét, pháp thí đó cũng được quả báo nhỏ, sinh lên cõi trời hưởng quả báo bậc trung hoặc được sinh trong cõi người.

Thiên vương Đế Thích đã chỉ hết mọi việc trong gương, đó là pháp thí bậc trung.

Thế nào là pháp thí bậc thượng? Với tâm thanh tịnh muốn tăng trưởng trí tuệ cho chúng sinh mà thuyết pháp, không vì tài lợi, muốn cho chúng sinh không vì tà kiến trụ trong chánh pháp. Pháp thí này tự lợi, lợi tha, là vô thượng tối thắng, đến khi đạt Niết-bàn mà phước đức vẫn không hết, đó là pháp thí bậc thượng. Lại có cách pháp thí khác, Đế Thích chỉ quả báo của cách bố thí khác cho Thiên chúng xem biết: Pháp thí bậc hạ là nói pháp bố thí, không nói đến trí tuệ. Pháp thí bậc trung là nói trì giới. Pháp thí bậc thượng là nói đến trí tuệ giải thoát. Trí tuệ bậc hạ là thuyết pháp mà ít người giác ngộ, chỉ nói bố thí mà không nói pháp khác. Thuyết pháp mà làm cho họ biết giữ giới sau được trí tuệ, họ tin thuận, đắc A-la-hán, chấm dứt các lậu hoặc kiết phược, đạt hai giải thoát, đó là pháp thí bậc hạ. Vì sao? Vì chỉ nói pháp bố thí tương ứng.

Thế nào là pháp thí bậc trung? Thuyết pháp tương ưng trì giới để tu tâm, đó là trí tuệ bậc trung soi trong vách gương thấy các quả báo của nghiệp như thế, thuận với trí tuệ, đắc A-la-hán, mau diệt trừ các lậu hoặc, hoặc đắc quả Duyên giác, đó là pháp thí bậc trung. Nhìn trong vách gương thấy các tướng như vậy đó là pháp thí bậc trung.

Thế nào là pháp thí bậc thượng? Nói công đức trí tuệ để tu tư tâm, không cầu ân huệ, chỉ vì lợi ích người mà thuyết pháp, nói tác hai của dục, vị của dục là trói buộc, xuất ly là an lạc, làm cho người tà kiến sống trong chánh pháp, thuyết pháp thanh tịnh không nhơ.

Pháp thí bậc thượng này đạt quả Bồ-đề, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Vô Thượng Điều Ngự, Thiên Nhân Sư. Chánh pháp vô thượng là pháp điều phục, trước giữa sau đều thiện, thành tựu vô thượng Nhất thiết chủng trí, nói pháp giải thoát cho chúng sinh đó là pháp thí bậc thượng.

Thích-ca Đề-bà lại quan sát nghiệp quả trong gương để chỉ cho chư Thiên, thấy vậy, ai cũng hổ thẹn. Đế Thích nói với chư Thiên: Thiên tử! Các ông đừng sống phóng dật. Vì sao? Vì tạo nhân đó thì sinh nơi nào cũng chịu quả tương tợ. Thiên tử! Các ông hãy đến chỗ ta mà xem quả báo của nghiệp mình. Các ông hãy quan sát quả báo của nghiệp thượng, trung, hạ thì nên tu hạnh không phóng dật. Thấy như việc nghiệp báo hy hữu như vậy, chư Thiên sinh tâm chán ghét sinh tử, nói kệ:

Dục lạc giả dối
Bản tánh yếu suy
Mê vì dục lạc
Không biết lo sợ.
Ai tin tình dục
Không có lợi ích
Nghiệp thiện đã hết
Sắp chết mới biết.
Thắng lạc tràn đầy
Ắt phải suy giảm
Tham đắm dục lạc
Mất thì thêm khổ.
Từ trong cõi trời
Đọa vào địa ngục
Thân tâm chịu khổ
Đủ thứ dằn vặt.
Khổ này khó lường
Khổ đau bậc nhất
Là ái biệt ly
Còn hơn thế nữa.
Là sự sinh ly
Chư Thiên luôn gặp
Kẻ ngu không biết
Tâm ái lừa dối.
Ban đầu dối gạt
Bị dục mê hoặc
Trải qua trăm ngàn
Vạn ức triệu năm.
Được dục lại mất
Không thể bảo tồn
Nghiệp thiện là nhân
Được quả báo vui.
Không nhân không quả
Cũng như không cây
Như độc hại mình
Phóng dật cũng thế.
Như lửa thiêu đốt
Như dao, như kích
Trước như bạn thân
Sau thành oán địch.
Như cá nuốt câu
Phóng dật cũng thế
Trời, rồng, quỷ, người
Và A-tu-la.
Đều vì phóng dật
Chịu khổ não lớn
Thiên vương biết cho
Chúng tôi nhờ phước
Được ông ở đây
Chỉ ngục sinh tử.

Nói kệ xong, các Thiên tử thưa:

–Thiên vương! Làm sao ngài biết được? Ai chỉ cho ngài pháp này?

Đế Thích nói với các Thiên tử:

–Các ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói. Lúc ta mới sinh lên cõi này, có một Thiên tử trú ở chốn cũ tên là Tu-ma-la, ông là người bạn thân nhất của ta, ta đã nghe ông ấy kể những việc ấy.

Lúc bấy giờ có Phật Ca-diếp vì muốn điều phục chư Thiên nên đến cõi này. Thấy các Thiên tử cứ mãi phóng dật nên Đức Phật Cadiếp muốn làm lợi ích cho chư Thiên, đã dùng thần thông ghi nhớ mà tạo ra vách gương nghiệp để lại trong cây này. Lúc đó ta cũng buông lung nên Tu-ma-la chỉ cho ta pháp này, các ông không nên phóng dật. Vì sao? Vì là tất cả pháp hữu vi đều là vô thường, biến hoại. Nếu tâm các ông buông lung thì hãy vào cây này mà quan sát sắc thân thượng, trung, hạ thì tự hổ thẹn. Nếu Thiên tử nào tin pháp không phóng dật thì chỉ pháp này cho họ. Vì sao? Vì đó là Đức Như Lai làm lợi ích cho chúng sinh mà chỉ việc này, điều phục chư Thiên để họ nhìn trong gương nghiệp mà sống theo pháp lành, rồi sau đó trở về Diêm-phù-đề.

Ta đã nghe vị trời phước đức đó nói những việc khó thấy này. Lúc ấy, ta nghe xong, muốn bỏ phóng dật nên cùng Thiên chúng đến nơi này để họ đều xấu hổ. Vì thế, hôm nay ta chỉ nghiệp thượng, trung, hạ trên vách gương này cho các ông thấy. Thiên tử! Các ông hãy cẩn thận chớ buông lung.

Đế Thích lại bảo chư Thiên: Ta sẽ cùng các ông đến cây thứ hai quan sát trong gương nghiệp. Ngày xưa Đức Như Lai Ca-diếp đã thị hiện biến hóa trong cây này để làm lợi ích cho tất cả chư Thiên buông lung, để họ quan sát lưới nghiệp sinh tử. Ta sẽ chỉ cho các ông.

Nói xong, Thiên vương Thích-ca cúi đầu đảnh lễ Như Lai, ra khỏi cửa rồi đóng cửa lại. Có những Thiên chúng khác đang vui chơi ca múa thọ lạc, thấy Đế Thích họ đi đến cúi đầu đảnh lễ, ca múa vui chơi, lấy các loài hoa như Bát-đầu-ma… ném cho nhau.

Khi ấy chư Thiên từ trong cây đi ra, đến chỗ chư Thiên phóng dật nói những việc hy hữu đã thấy nhưng họ không nghe, không tin.

Để điều phục chư Thiên phóng dật, Đế Thích cũng cùng họ vui chơi trong ao sen, trổi kỹ nhạc trời đủ các âm thanh, cùng nhau vui đùa, trang sức vòng hoa, y phục cõi trời, vào các vườn rừng vui chơi thọ lạc, đó là do nghiệp thiện.

Bấy giờ, chư Thiên cùng Đế Thích vào gương nghiệp, thấy quả báo của nghiệp, mọi người đều không vui chơi nữa, giống như bậc vô học, những việc làm đã xong, không sống phóng dật, sống ổn định, thấy chư Thiên tham đắm buông lung sinh tâm xót thương, nói:

–Các Thiên tử này cứ mãi buông lung, không biết sẽ bị thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thuận theo nghiệp phiền não, không lánh xa tất cả nghiệp sinh tử, theo nghiệp thiện, ác mà họ đã tạo sẽ chịu quả tương xứng. Thiên tử quan sát chư Thiên phóng dật sinh tâm thương xót.

Khi ấy, chư Thiên ở điện Thiện pháp thưa với Đế Thích:

–Nhờ ân đức của Thiên vương mà chúng tôi thọ nhận năm dục lạc. Chư Thiên vui chơi trong các vườn rừng, thọ hưởng diệu lạc.

Thiên vương! Cớ sao không giúp đỡ chúng tôi?

Đế Thích nói kệ cho chư Thiên:

Thiên tử! Ông ham vui
Phần nhiều sống phóng dật
Vì tham ái phóng dật
Không thấy được chân đế.
Tâm ai luôn phóng dật
Sẽ không có quả lành
Người xa lìa nghiệp thiện
Sẽ đọa trong địa ngục.
Tất cả những tham ái
Đều phải có chia ly
Các ông không hay biết
Bất chợt bị đọa lạc.
Lúc thọ mạng sắp hết
Các căn đều hoại diệt
Khi đó mới biết khổ
Phút chốc không tránh khỏi.
Ví như vòng lửa xoay
Như thành Càn-thát-bà
Ba cõi đều vô thường
Cũng như bọt bóng nước.
Ví như bọt nước tụ
Kẻ ngu nhờ vào đó
Ở trong pháp vô thường
Lại sinh tâm vui vẻ.
Dù cho trời hay người
Dạ-xoa, rồng, quỷ thần
Khi chết nghiệp trói buộc
Không có ai cứu được.
Nghĩ chết khi chưa đến
Mà tu tập nghiệp thiện
Thần chết rất bạo ác
Đừng để sau hối hận.
Ta nay dạy các ông
Cẩn thận chớ phóng dật
Các ông bị ái che
Chạy đuổi theo cảnh giới.
Cảnh giới buộc các ông
Đó là nhân địa ngục
Vì thế hãy lìa bỏ
Để tìm nơi an ổn.

Khi Đế Thích nói pháp này cho chư Thiên, chư Thiên phóng dật không ngừng nghỉ, chỉ trừ những người đã thấy gương nghiệp thì sinh tâm nhàm chán, thưa Đế Thích:

–Xin Thiên chủ hãy vào cây ta-la thứ hai.

Cây này do Đức Ca-diếp tạo lợi ích cho chư Thiên phóng dật mà biến hóa ra lưới nghiệp, hiện ra vách gương chỉ nghiệp báo sinh tử cho chư Thiên.

Đế Thích biết chư Thiên phóng dật thích vui chơi nên đưa họ đến chỗ khác, cùng chư Thiên không phóng dật đi đến cây thứ hai. Đến nơi, Thiên chủ lấy chày kim cang đánh vào cây lớn, cánh cửa mở ra. Thiên chủ Thích-ca và Thiên chúng vui vẻ cùng nhau đi vào trong cây. Vào đó, Thiên chúng thấy vườn rừng trông thật đáng yêu mà họ chưa bao giờ thấy. Ở đó có mọi thứ cần dùng, có nhiều loài chim, ao sen đầy hoa xinh đẹp, vô lượng cây vàng trông thật đẹp, gió nhẹ thổi đến làm mọi người vui vẻ, có núi bảy báu lớn, chim chóc hót rất hay, cây Như ý sáng rực như mặt trời. Cây ta-la này lại có những dòng sông đầy thức ăn uống, hương vị lưu xuất ra rất tuyệt diệu đủ các hương thơm, năm căn thọ hưởng diệu lạc nơi năm cảnh thích thú. Những chư Thiên có phước đức ngửi mùi hương này còn tham đắm huống chi chư Thiên khác. Đế Thích đã chỉ cho chư Thiên thấy những vườn rừng… kỳ lạ mà vườn rừng, ao hoa ở ngoài không bằng một phần mười sáu. Đế Thích cùng chư Thiên lên núi lưu ly, núi này trong sạch không gì bằng. Trên đỉnh núi có điện ngàn trụ bằng lưu ly, lan can bằng xích liên hoa bảo, mặt đất bằng vàng ròng. Cung điện lưu ly ấy dài năm do-tuần, rộng ba do-tuần, đó là do Đức Ca-diếp hóa ra. Đế Thích cùng Thiên chúng đi trên thềm bảy báu lên điện lưu ly, nhìn thấy cảnh tượng của Phật Ca-diếp giống như lúc Phật còn thuyết pháp trong điện. Đế Thích cùng chư Thiên đảnh lễ tượng Phật, sinh tâm kính tin. Lạy xong, nói kệ khen Phật:

Như Lai tối thượng của thế gian
Đạt chân giải thoát, thấy như thật
Ảnh tượng tịch tĩnh không gì sánh
Mở đạo giải thoát thật cao siêu.
Người nào thường lễ Đức Như Lai
Tâm tịch, tịnh tín không tỳ vết
Người này thoát hẳn cõi lo sợ
Luôn được ở nơi an ổn, vui.
Giáo pháp thanh tịnh kỳ diệu ấy
Diễn thuyết ở nơi thật tịch tĩnh
Giáo pháp mà Phật đã thuyết giảng
Chỉ đạo Niết-bàn cho chúng sinh.
Chúng sinh nào nhớ giáo pháp này
Là người vô úy thật dũng mãnh
Chắc chắn đạt được quả vô thượng
Tâm vui an ổn, không lo sợ.
Chúng sinh nào nhớ đến chân đế
Như người qua sông lên thuyền bè
Người ấy sẽ vượt biển ba cõi
Độc ác, nguy hiểm như dòng xoáy.
Như Lai chánh giác, mắt thế gian
Quán xét các pháp khắp mọi nơi
Ánh sáng của Phật không gì sánh
Tất cả ánh sáng không bằng được.
Chúng sinh nghĩ nhớ, tâm ô trược
Ngu si, sân hận, tham dục lạc
Dòng nước trí tuệ lớn, thanh tịnh
Rửa sạch nhơ uế của chúng sinh.
Tất cả chúng sinh không thấy được
Ngoại đạo kiêu mạn chẳng ai hay
Pháp này thanh tịnh lìa trần cấu
Thế Tôn chỉ rõ cho muôn loài.
Kẻ ham phóng dật không ai cứu
Chỉ có đạo sư cứu chúng sinh
Vượt qua sinh tử đến bờ giác
Cứu độ chúng sinh không người cứu.
Lợi ích cho tất cả thế gian
Chỉ có Như Lai, Bậc Vô Thượng
Vì tạo lợi ích cho chúng sinh
Thế nên Như Lai thù thắng nhất.

Đế Thích tán thán ảnh tượng của Như Lai bằng tâm thanh tịnh, cùng chư Thiên cúi đầu chắp tay đảnh lễ ảnh tượng của Như Lai, lại cùng chư Thiên cúi đầu chắp tay đảnh lễ tấm thiên y do Phật biến hóa, tấm y này được tồn tại do thần lực của Như Lai. Thấy ảnh tượng Như Lai, chư Thiên đều bỏ kiêu mạn, phóng dật, sắc tướng của ảnh tượng Như Lai hóa ra đoan nghiêm thù diệu, ngàn Đế Thích cũng không sánh được, huống gì là chư Thiên khác.

Đế Thích thấy ảnh tượng Như Lai do thần lực hóa ra để dạy chư Thiên kiêu mạn phóng dật, làm cho họ bỏ tâm kiêu mạn buông lung.

Bấy giờ, các Thiên tử thưa Thiên vương:

–Thưa Kiều-thi-ca! Vì sao Đức Phật Ca-diếp lại hóa ra lưới nghiệp sinh tử này ở trong cây Diêm-ma-ta-la để chỉ bày sự biến đổi của lưới nghiệp sinh tử? Vì sao không biến hóa ở ngoài cây?

Đế Thích bảo Thiên chúng:

–Ta cũng thế, từ trước đã nghi việc này, nhưng vị trời ấy chỉ cho ta để xa lìa tâm kiêu mạn, ngày xưa ta cũng hỏi như vậy.

Thiên tử ấy trả lời:

–Pháp hy hữu không thể thường thấy được, vì không thường thấy nên khi thấy được thì rất tin. Vì thế Như Lai không biến hóa ở ngoài cây, không phải mọi người ai cũng thấy được. Nếu biến hóa ở ngoài cây chư Thiên thấy vậy lại xem thường, còn có thể sinh ra tội lỗi, thế nên Phật biến hóa ảnh tượng này trong cây Diêm-ma-ta-la. Trong hai cây này, do thần lực hy hữu biến hóa, sự biến hóa trong cây là việc hy hữu nhất, là việc mà tất cả chư Thiên không thể thấy được, vì thế Đức Phật Ca-diếp đã biến hóa ảnh tượng và gương vách ở trong cây để chỉ dạy nghiệp sinh tử.

Nghe Đế Thích nói, chư Thiên đều không còn nghi ngờ.

Đế Thích lại chỉ trên vách của cung điện rộng năm do-tuần này cho chư Thiên quan sát mười sáu chỗ trong địa ngục Hoạt. Người sát sinh đọa vào ngục này chịu đủ vô lượng khổ não như trước đã nói. Ra khỏi địa ngục, sinh vào loài ngạ quỷ, luôn sân hận, tâm ganh ghét càng nhiều, cầm dao hại nhau. Do lưới nghiệp buộc trói nên sinh vào loài súc sinh, tàn hại lẫn nhau, làm thức ăn cho người, vì thịt mà hại mạng mình, hoặc làm con hổ, beo, thú dữ, nhiều sân hận, bị người giết chết. Bỏ thân súc sinh, sinh vào cõi người lại thích tranh cãi, tâm tư độc ác thô lỗ, bị chết vì binh đao, không sống lâu. Nếu còn nghiệp thiện khác được sinh lên trời, oai đức sắc tướng yếu kém không như người khác, tuổi thọ lại ngắn. Khi chư Thiên đánh với Atu-la thì bản thân bị thương rồi chết. Họ nhìn trên vách thấy những việc như vậy.

Mười sáu chỗ của địa ngục Hắc thằng cũng vậy, như đã nói ở trước. Do thế lực sát sinh trộm cướp nên đọa vào địa ngục này chịu đủ vô lượng khổ não. Hết tội, ra khỏi địa ngục, sinh vào loài ngạ quỷ, cầm dao gậy giết hại nhau như đã nói ở trước, hoặc ăn những đồ bất tịnh như phân tiểu, lại khó có được những thứ ấy, có ngạ quỷ khác xé xác nhau, hại nhau làm thân thể tan rã. Bỏ thân ngạ quỷ, sinh vào loài súc sinh nơi hoang dã, thọ thân chim đói Già-sất-ca, đói khát đốt thân. Bỏ thân súc sinh, sinh vào cõi người, trong nơi đao binh, đất nước tệ ác, hoặc bị binh đao, đói khát mà chết, tần tảo tìm cái ăn nhưng bị người khác chiếm đoạt, giả sử có ăn được thì thức ăn không tiêu. Bỏ thân người, nếu còn nghiệp thiện khác được sinh lên cõi trời, sắc tướng dung mạo thô xấu kém cõi, thức ăn không giống chư Thiên khác, gặp chư Thiên khác thì xấu hổ, âm nhạc không hay như họ, tuổi thọ lại ngắn.

Họ nhìn trên vách thấy hết mọi nghiệp quả như vậy.

Đế Thích lại nhìn trên vách thấy mười sáu chỗ của địa ngục Chúng hợp như đã nói ở trước. Người sát sinh, trộm cướp, tà dâm đọa vào địa ngục này chịu đủ vô lượng khổ não. Chịu khổ xong, ra khỏi địa ngục, sinh vào loài ngạ quỷ, thọ thân quỷ ăn đồ ói mửa, sống lâu, nếu được thức ăn thì bị quỷ khác cướp đoạt, có bà con cũng bị quỷ khác cướp đoạt, lại có quỷ khác cầm dao giết, chịu khổ não lớn, đau đớn đến chết. Bỏ thân ngạ quỷ, sinh trưởng loài súc sinh, thọ thân trâu, bò, ngựa, sống lâu, dù được thức ăn nhưng bị loài khác chiếm đoạt. Bỏ thân súc sinh, sinh vào cõi người, tuổi thọ ngắn ngủi, nghèo cùng hèn hạ, vợ không trinh thuận.

Họ nhìn trên vách điện thấy hết mọi việc như thế.

Đế Thích lại quan sát nghiệp quả trên vách, thấy mười sáu chỗ của địa ngục Khiếu hoán như đã nói ở trước. Người sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ đọa vào địa ngục này, chịu đủ mọi điều cay đắng khổ sầu. Ra khỏi địa ngục, sinh vào loài ngạ quỷ, sống lâu, thọ thân ngạ quỷ thân như cái dùi, hoặc thân ngạ quỷ cổ như cây kim, theo nghiệp lực luôn chịu đói khát khốn khổ, nếu có bà con thì bị người khác chiếm đoạt, hoặc sinh trong loài ngạ quỷ ăn đồ độc, bị lửa dữ thiêu đốt. Bỏ thân ngạ quỷ, sinh trong loài súc sinh, ở trong đồng hoang tàn hại lẫn nhau, ăn nuốt lẫn nhau. Bỏ thân súc sinh, sinh trong cõi người thân hình tiều tụy không có oai đức. Nếu còn nghiệp thiện khác được sinh lên trời, thân hình kém cõi, ánh sáng của châu báu ít rực rỡ, không được Thiên nữ yêu kính, Thiên nữ phản bội đi đến với chư Thiên khác, thức ăn dở, trí tuệ kém, tâm không chân chánh, bị các Thiên tử khác chê cười. Khi cùng A-tu-la đánh nhau thì bản thân bị giết, là do dư báo.

Đế Thích cùng Thiên chúng nhìn trên vách lại thấy mười sáu chỗ của địa ngục Đại khiếu hoán. Chúng sinh ở đấy chịu đủ thứ khổ não như đã nói ở trước. Chúng sinh nào sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu say loạn thì đọa vào địa ngục này chịu mọi sự đau khổ. Chịu khổ xong, ra khỏi địa ngục, sinh vào loài ngạ quỷ trốn chạy khắp nơi, có quỷ ác lớn kéo đứt lưỡi ra rồi mọc lại. Bỏ thân ngạ quỷ, sinh trong loài súc sinh, thọ thân chim Ca-tần-ám-la-trĩ, do tiếng hót mà hại mạng mình, đó là do nghiệp duyên vọng ngữ… Bỏ thân súc sinh, sinh trong cõi người chịu quả báo của nghiệp như đã nói ở trước. Nói năng không được người tin tưởng. Nếu còn nghiệp thiện khác được sinh trong cõi trời, tiếng nói cộc cằn đáng ghét, thô lỗ, không biết ca hát, chư Thiên không tin lời nói không thể nói lời diệu dàng chân chánh như chư Thiên khác là do nghiệp vọng ngữ… từ trước.

Đế Thích lại nhìn trên vách thấy mười sáu chỗ của địa ngục Tiêu nhiệt. Chúng sinh ở đây chịu đủ mọi đắng cay khổ sầu. Đó là quả báo của nghiệp như đã nói ở trước. Chịu tội hết, ra khỏi địa ngục, sinh trong loài ngạ quỷ, thọ thân quỷ ăn đồ bất tịnh, chịu khổ não gấp năm lần trước. Bỏ thân ngạ quỷ sinh trong loài súc sinh, thọ thân cá ma-kiệt ở biển lớn. Bỏ thân súc sinh, sinh trong cõi người, dung mạo xấu xí, môi miệng thô xấu, bị người ghét. Bỏ thân người, nếu còn nghiệp thiện khác được sinh trong cõi trời, thân thể ít sáng như đã nói ở trước, bị chư Thiên khinh thường.

Quả báo của hai địa ngục Đại tiêu nhiệt và A-tỳ không hóa hiện ra. Vì sao? Vì sợ chư Thiên yếu vía, thấy sẽ mất mạng. Nếu thấy hai địa ngục này họ sẽ kinh sợ, nên không hóa ra quả báo sinh tử nơi hai ngục này. Quan sát xong, Đế Thích nói kệ:

Giống như những hạt bụi
Lăng xăng trong hư không
Bị gió thổi xoay tròn
Các nghiệp cũng như vậy.
Hòa hợp có chia ly
Khổ và vui cũng thế
Do nghiệp nhân dẫn dắt
Chẳng phải không nhân duyên.
Nơi nghiệp ấy biến hóa
Mâu-ni biết như thật
Hóa vô lượng lưới nghiệp
Chủng tử của tâm mình.
Tâm tạo nghiệp khó biết
Chỉ Như Lai biết được
Những dây nghiệp trói buộc
Lưu chuyển ở thế gian.
Lưới nghiệp có sức mạnh
Chịu trăm ngàn vạn ức
Vô lượng vô số kiếp
Sự sinh tử luân hồi.
Ví như dây buộc chim
Dù xa cũng kéo về
Dây nghiệp buộc chúng sinh
Việc ấy cũng như thế.

Đế Thích chỉ cho chư Thiên những việc hy hữu về vô lượng định nghiệp, bất định nghiệp, hiện báo, sinh báo, dư báo của chúng sinh lãnh chịu. Lại có ba loại nghiệp thiện, bất thiện, vô ký. Chỉ rõ vô lượng lưới nghiệp như vậy, Đế Thích cùng chư Thiên đảnh lễ ảnh tượng biến hóa của Phật Ca-diếp xong, ra khỏi cây Diêm-ma-ta-la. Chư Thiên ra rồi, Đế Thích đóng cửa cây lại.

Vừa ra khỏi, Đế Thích lại thấy chư Thiên khác buông lung vui chơi thọ lạc, thương xót họ, Thiên vương nói kệ:

Chúng sinh nhiều hình dạng
Do phóng dật dối gạt
Ăn uống tham ái dục
Tâm tham luôn yêu thích.
Những nghiệp thiện từ xưa
Phước báo trời đã hết
Kẻ phóng dật như vậy
Chết đi về đâu nữa.
Giặc phóng dật tự hại
Bị gió nghiệp thổi tạt
Giống như cây nghiêng ngả
Đọa vào các đường ác.
Trăm ngàn vô số kiếp
Chịu sinh tử cõi trời
Mà chẳng thấy nhàm chán
Không sinh tâm lo sợ.

Nói xong, Đế Thích đi đến chỗ chư Thiên phóng dật đó, các Thiên tử sinh tâm kính trọng, tôn kính cúng dường. Để thu phục tâm họ, Đế Thích cùng các Thiên tử vui chơi hưởng lạc trong các vườn rừng, không vào cây Diêm-ma-ta-la.

Đế Thích cùng chư Thiên quyến thuộc trở về Thiện pháp đường. Chư Thiên trụ ở Diêm-ma-ta-la vui chơi thọ lạc, đến khi nghiệp thiện hết, họ qua đời, bị thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người thọ hưởng an lạc thượng diệu, làm chủ rừng lớn, luôn an vui, sinh trong nước Ma-la-da làm chủ rừng chiên-đàn, có nhiều của cải, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai mươi lăm của cõi này tên là Tốc hành. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh thực hành nghiệp thiện, tâm chân thật, không dua nịnh, không não hại chúng sinh, tin nghiệp quả, thực hành chánh kiến, tu bố thí rộng lớn, có nhiều của cải. Thấy người vào biển tìm tài vật thì cho thuyền lớn. Do có thuyền lớn nên những nhà buôn này được nhiều tài vật, đem ra bố thí làm phước. Người này cho thuyền mà không cần ân huệ, không nhận sự báo ân. Thế nào là không trộm? Thấy quân giặc phá hoại làng xóm, hay vì sợ quân triều đình mà chạy trốn khỏi làng, người này đi vào làng nhưng không hề trộm lúa thóc, cỏ cây, tin nghiệp quả nên rất lo sợ, không phải vì sợ pháp vua, đó là không trộm. Thế nào là không sát sinh? Ngay cả loài thấp sinh như con sên cũng không cố ý giết, tâm không nghĩ đến việc giết. Nếu có người làm lưới bẫy hầm hố để giết cầm thú như cọp, sói… thì đem tài vật chuộc mạng để chúng thoát chết, lòng không hối tiếc, lại dạy người khác để họ sống trong pháp lành. Người giữ giới này làm các việc thiện không sát sinh, không trộm, nghĩ nhớ việc lành, thành tựu mọi việc, chư Thiên cùng nhau khen ngợi những việc làm ấy, dung mạo xinh đẹp, được chư Thiên cúng dường. Đó là quả báo của nghiệp hiện có. Sau khi qua đời, người này sinh lên trụ xứ Tốc hành của cõi trời Tam thập tam. Ở đó nhờ nghiệp thiện nên có những thứ trang sức thù thắng, chư Thiên khác không thể phân biệt được sự khả ái của cõi này. Vừa sinh ra, thân thể sáng rực, thọ an lạc thù diệu, thân không xương thịt, cũng không nhơ uế, không có mồ hôi, không có oán giặc, cũng chẳng lo sợ, tìm cầu, ganh ghét, ai cũng yêu thích, không sợ bệnh chỉ trừ lúc bị thoái đọa, không sợ vua, tâm luôn phóng dật, cõi đó trông thật đáng yêu. Vị ấy vui với năm dục, vui chơi khắp nơi thọ hưởng hoan lạc. Cõi đó có lầu bằng lưu ly, lan can bằng vàng ròng, các vườn rừng, ao sen được làm bằng bảy báu, thiên nga, vịt trời, uyên ương xinh đẹp, kêu tiếng rất hay. Trong hang có nhiều chim, núi Tu-di có bảy báu xinh đẹp, đáy ao sen được rải cát vàng, bạc, chân châu, có các cây báu sáng rực như mặt trời, cành bằng vàng, lưu ly, có nhiều hoa đẹp và nhiều loài ong. Hang núi Tudi được trang trí bằng các báu đẹp nhất, mặt đất mềm mại, núi cao bằng bảy báu. Trong núi có các loại hoa thơm tùy ý của Thiên tử mà mọc ra. Ở những chỗ khác có cây sáng như đèn, cây Như ý sáng rực kỳ lạ. Trăm ngàn Thiên nữ vây quanh ca hát, cùng nhau vui chơi. Thiên chúng tiếp xúc gì, thấy gì đều vui hưởng hoan lạc, tai nghe tiếng yêu thích, mũi ngửi các hương thơm đầy đủ vô lượng công đức, thân tiếp xúc vật yêu thích, muốn gì được nấy, không ai có thể cướp đoạt diệu lạc của họ. Thiên tử này, cùng trăm ngàn Thiên nữ, các Thiên chúng khác đi đến núi Nhất thiết thế lực. Rừng cây đều là cây Như ý, có sông suối, ao hồ, có nhiều ao sen xinh đẹp, vô lượng trăm ngàn Thiên chúng vây quanh, cành cây bằng báu lưu ly che khắp bên trên, có trăm ngàn lầu gác đẹp, vô lượng loài chim hót tiếng rất hay. Đó là do nghiệp thiện. Trong núi này có đủ các hoan lạc như vậy. Đó là do gốc nghiệp thiện, chẳng phải không nhân, cũng không do người khác làm ra. Quả báo người này thọ hưởng chẳng phải trời Tự tại cố ý ban cho.

Lên núi này Thiên tử thấy các Thiên tử khác rực rỡ như mình. Ở đây Thiên tử cùng các Thiên tử khác và Thiên nữ trổi nhạc hay vui chơi thọ lạc. Các Thiên tử này sắc thân sáng rực, thọ hưởng hoan lạc. Nhìn kỹ, họ trang sức vòng hoa sen, nghe tiếng ca ai nấy đều vui thích, họ mặc áo trời mịn không thấy sớ vải, thân của chư Thiên đều sáng rực.

Lên núi này, Thiên tử nhìn các nơi đều sai khác, thấy các dòng sông, vòng ánh sáng, đó là do nghiệp thiện, họ ở hai nơi của cõi trời này. Mặt đất trong suốt, đầy đủ hoan lạc như đã nói ở trước. Vì sao cõi này tên là Tốc hành? Vì chư Thiên ở đây có uy lực lớn. Khi chư Thiên đánh với A-tu-la thì trong nháy mắt của cõi người là họ đánh bại A-tu-la rồi họ trở về cõi trời Tam thập tam. Vì thế có tên là Tốc hành. Do nghiệp từ trước mà được quả tương xứng. Vì ngày xưa cho thuyền chạy nhanh để người vượt qua biển lớn, được nhiều châu báu, bố thí tu phước, nên được quả báo mau chóng này. Thiên tử này cầm binh khí rất nhanh lẹ, đó là do nghiệp thiện. Thọ hưởng diệu lạc đến khi nghiệp thiện hết, năm tướng suy hiện ra, thân xuất mồ hôi, ánh sáng giảm dần như đèn hết dầu, các căn cũng thế, năm dục không còn khoái vị nữa, thấy chư Thiên khác thì hổ thẹn, các Thiên nữ đều phản bội. Thấy Thiên nữ phản bội mình, Thiên tử có hai nỗi khổ: ganh ghét và ái biệt ly. Hai khổ này thiêu đốt tâm còn hơn lửa dữ. Nếu kiếp trước tạo nghiệp trộm thì Thiên nữ cướp vật trang sức của mình mà trang sức cho Thiên tử khác. Nếu kiếp trước có nói dối thì các Thiên nữ nghe lời nói của mình lại hiểu sai lầm cho rằng mắng chửi. Nếu đời trước đem rượu cho người giữ giới, hoặc tự uống rượu phá giới cấm, hoặc làm rượu thì khi chết tâm thần mê loạn, mất chánh niệm bị não loạn thiêu đốt gấp hai lần, đọa vào địa ngục. Nếu đời trước có sát sinh thì tuổi thọ lại ngắn ngủi, bị chết yểu. Nếu đời trước có tà dâm thì bị các Thiên nữ bỏ đi đến Thiên tử khác vui chơi. Đó là năm tướng suy ra, vì năm chi giới bị thiếu, lưới nghiệp trói buộc, chịu quả báo như nghiệp. Nếu sống phóng dật bị thần chết lôi kéo. Tất cả các giới đều bị thiếu, bị thất thoát, nhưng vì muốn sinh Thiên nên giữ giới cấm, lại bị vô thường mau hoại diệt, bị lưới nghiệp trói buộc, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Quan sát hoan lạc vô thường của cõi trời như vậy, thấy được ban đầu tuy có yêu thích nhưng tất cả đều hoại diệt vô thường biến đổi như điện không tồn tại, quán xét tất cả tội lỗi của dục, vị ấy nói kệ:

Chư Thiên si mê uống
Loại rượu phóng dật ấy
Đọa vào chốn địa ngục
Lửa dữ vây xung quanh.
Trước vì nhiễm ái dục
Sân hận thiêu đốt tâm
Bị tâm si mê hoặc
Chỉ trống không chẳng thật.
Bị tiếng ca kỹ nhạc
Giả dối làm mê hoặc
Không biết khổ thoái đọa
Rốt cuộc không ai khỏi.
Khi thấy các Thiên nữ
Làm tâm tư chuyển đổi
Cuối cùng sẽ bỏ hết
Đọa lạc vào nơi khác.
Quan sát tánh người nữ
Như hành động người nữ
Giàu có thì gần gũi
Suy tàn lại lánh xa.
Như nai hoang tin vui
Tin dục cũng như vậy
Sau nếu bị biến đổi
Tâm khinh khi lánh xa.
Không nhớ ân nuôi dưỡng
Cũng không nhớ bạn bè
Khi gặp phải suy hoại
Xả bỏ không nghĩ đến.
Giống như các loài ong
Bỏ những hoa tàn héo
Người nữ cũng như thế
Suy hoại thì lánh xa.
Không nghĩ tâm yêu thương
Hời hợt nhớ ái dục
Tánh người nữ cũng vậy
Như mật lẫn chất độc.
Tham dục sinh ngu si
Lời hay càng mê hoặc
Người nữ rất khó tin
Người trí phải lánh xa.
Nữ sắc dối trời, người
Làm cho tâm mê hoặc
Cho đến đời vị lai
Không có chút lợi ích.
Trời, người và Dạ-xoa
Rồng cùng A-tu-la
La-sát, Tỳ-xá-già
Đều bị nữ sắc gạt.
Các dục lạc như vậy
Từ cảnh giới sinh ra
Cho đến lúc lâm chung
Diệu lạc đều mất hết.
Tất cả các Thiên chúng
Có vườn rừng xinh đẹp
Bị dây chết trói buộc
Tham dục lôi kéo đi.
Dục lạc không cứu được
Huống gì những người nữ
Cõi trời phước đức hết
Thần chết sẽ lôi đi.

Tỳ-kheo quan sát sắc tướng thoái đọa của Thiên tử sinh tâm thương xót, chán xa cảnh dục. Các Thiên tử này theo nghiệp lực, dây nghiệp kéo lôi khắp mọi nơi nên không còn phóng dật. Các Thiên tử khác lại buông lung vui chơi hưởng lạc giong ruổi theo cảnh giới như người cỡi ngựa, vui chơi trong tất cả vườn rừng, buông lung thọ lạc, đến khi nghiệp thiện hết, qua đời bị thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người, thường sống nơi an lạc, giàu có nhất, hoặc được làm vua, quan, có nhiều voi ngựa, lừa, lạc đà để cỡi, không đi bộ, không mệt mỏi, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai mươi sáu của cõi này tên là Ảnh chiếu. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Chúng sinh nào giữ gìn bảy chi giới thì được quả tương xứng, nhờ tu tư tâm, tương ưng chánh kiến khéo giữ giới không sát sinh, không trộm cướp. Người này vì tạo nhân vui, giữ luật thế gian, cho đến không trộm vật nhỏ, xa lìa trộm cướp. Nếu ở bên bờ biển thuộc đất của người khác, có những loại như ngọc kha, ngọc trai, cá… do sóng biển đưa lên nhưng không có tâm trộm lấy những vật ấy. Người thiện này tin vị lai, sợ nghiệp quả, không phải vì sợ pháp của vua. Đó là không trộm. Thế nào là không sát sinh? Người này tin vị lai, sợ nghiệp quả, tâm chân thật khéo suy nghĩ, không não loạn chúng sinh, xa lìa bạn ác, không sát hại chúng sinh. Lúc đi trong sông, trong hang núi bị ảnh quỷ bắt thì thà bỏ thân mạng chứ không hại ảnh quỷ, không đem thuốc độc bỏ trong ảnh quỷ, sợ hại mạng nó, dù biết cách cũng không tàn hại. Hoặc biết cách giết quỷ Đơn-na nhưng vì giữ giới nên không làm. Hoặc biết cách viết như soi vào nước, gương, dưới ánh mặt trời nhưng không hại cũng không báo oán, tự bỏ mạng chứ không giết chúng sinh. Người này sau khi qua đời sinh lên trụ xứ Ảnh chiếu của cõi trời Tam thập tam. Ở đó nhờ nghiệp thiện, thân thể sáng rực, nghe năm âm nhạc, thọ hưởng thượng diệu, đầy đủ an lạc, vui chơi trong núi Tu-di, các Thiên nữ vây quanh. Đất ấy bằng vàng Diêm-phù-đàn. Có cây Như ý, họ muốn gì cây ấy sinh ra. Thiên tử cùng quyến thuộc thọ hưởng hoan lạc một thời gian lâu như thế, lại đến rừng Ngoại ảnh, cây cối bằng vàng Diêm-phù-đàn, trang trí vườn cây, cây vàng lá bạc, trái lưu ly xanh, cây bạc, lá vàng, trái lưu ly. Vui chơi ở rừng này xong, họ lại đến nơi khác, tuần tự du ngoạn. Các loài chim khổng tước thân có màu sắc bảy báu xen tạp, thấy vậy, Thiên tử vào rừng vui chơi với chim. Thấy Thiên tử đến, chim khổng tước cất tiếng hót rất hay mà tiếng ca Thiên nữ không bằng một phần mười sáu. Thiên tử nghĩ ta nên cỡi chim khổng tước này cùng các Thiên nữ vui chơi trên núi, du ngoạn khắp nơi. Do nghiệp thiện nên Thiên tử vừa nghĩ thì chim khổng tước đến bên cạnh, hóa ra thân to lớn, có sắc lực lớn, xinh đẹp kỳ lạ. Thiên tử liền cùng Thiên nữ cỡi chim khổng tước quan sát khắp nơi trên núi Tu-di, nhìn ngắm mọi nơi ao hoa, đỉnh núi.

Bấy giờ, Tứ đại Thiên vương – những người bảo vệ thế gian – sắp đến cõi trời Tam thập tam để nói về những việc đúng pháp, phi pháp của cõi Diêm-phù-đề. Thiên tử đang đi trên hư không, thấy Hộ thế, Tứ đại Thiên vương, liền hỏi:

–Các ông từ đâu đến?

Hộ thế đáp:

–Thiên tử! Chúng tôi từ nơi khả ái hành thiện đến, nơi ấy có đủ các ao sen vườn rừng, sông suối. Chúng tôi đến cõi trời Tam thập tam trình bày những việc pháp và phi pháp của cõi Diêm-phù-đề cho Thiên vương Thích-ca. Nghe nói vậy, Thiên tử thầm thán phục, cỡi chim khổng tước –có sức mạnh lớn, thân hình bằng các thứ báu, tùy ý đi lại không gì chướng ngại– từ cõi trời đi xuống Diêm-phù-đề như mặt trời thứ hai. Với tâm thán phục, Thiên tử quán xét khắp nơi cõi Diêm-phù-đề: Vườn rừng, ao hoa, sông suối, xóm làng, thành ấp. Thấy tướng đó các Bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến, thầy bói tướng ở cõi Diêm-phù-đề nói với nhau: Đó là vị trời tám tay cỡi chim chúa cánh vàng Ca-lâu-la từ cõi trời xuống Diêm-phù-đề quan sát thế gian. Họ chỉ nói bằng cách phân biệt hư vọng như vậy. Lại có những Bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến khác nói: Đó là Thiên tử Ma-hê-thủ-la tự tại tên là Đồng tử Cưu-ma-la cỡi chim khổng tước từ cõi trời xuống Diêm-phù-đề ủng Hộ thế gian. Lại có những Bà-la-môn khác nói: Ma-hê-thủ-la cỡi bò trắng tạo ra thế gian và cũng phá hoại thế gian, gọi là tác giả tạo ra thế gian. Do các Bà-la-môn ngoại đạo phân biệt đủ cách tạo ra các luận thuyết, không phải nhận thức như thật. Các Bà-la-môn đó phá hoại chánh pháp, là kẻ ngu si nhất, lại dạy người khác làm cho họ hiểu sai, quan sát xong, Thiên tử trở về trời. Hàng ngoại đạo đó vì ngu si, không nói như thật, không nhận thức như thật. Vào thời kiếp sơ, vị trời này đã xuống đây, ngoại đạo thấy rồi nhưng không nhận thức đúng. Các Bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến đó tự phân biệt rồi đi nói cho người khác, họ là những kẻ không biết như thật.

Thiên tử trở về trời nói những việc này cho Thiên chúng nghe: Ta đến Diêm-phù-đề thấy đất nước đó, đất đai bằng phẳng, có vườn rừng ao hoa xinh đẹp đáng yêu.

Nghe thế các Thiên tử có người cỡi voi trắng, có người cỡi khổng tước… hoặc đi trên hư không quan sát khắp núi Tu-di, tuần tự xuống đến Diêm-phù-đề, dừng ở nơi vắng như ao sông rừng núi, làm cho Bà-la-môn, ngoại đạo cho rằng đất này là nơi phước đức, nên khổ hạnh giữ giới ở đây. Cái mà cho đó là phước đức thì thật là hư vọng, rồi truyền cho nhau làm cho tâm tham đắm, cho là có thật.

Khi Thiên tử mới hạ xuống, có Bà-la-môn thấy được, tự phân biệt nói: Đây là Đại phạm Thiên vương; có người nói: Đây là Mahê-thủ-la; có người nói: Đây là Thiên vương tám tay, là tự tại Thiên tử, là Cưu-ma-la đồng tử cõi trời, rồi phân biệt rằng: Đây là nơi Phạm vương ở, đây là cõi Ma-hê-thủ-la tự tại Thiên vương cai quản, đây là nơi Thiên vương tám tay cai quản, là nơi Cưu-ma-la đồng tử thiên cai quản. Phân biệt xong, lại tạo ra những luận thuyết tà vạy, hoặc khen ngợi, hoặc tự lập tôn chỉ, tự nói nhân, ví dụ… các thứ tà kiến. Tự mình theo tà kiến, còn dạy người về tà kiến, người khác nghe rồi lại dạy cho nhau… tuần tự như thế thật là sự hiểu biết sai lầm.

Lúc ấy, Thiên tử nhớ cung trời nên trở về, các Bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến nói: Những cõi này vị trời… vị trời… cai quản rồi tạo ra những luận thuyết hoặc lời khen ngợi. Những Bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến thấy vậy kính trọng, cúi đầu đảnh lễ, quan sát tướng ấy càng kính tin nhưng không nhận thức như thật đó là cõi trời thứ hai, lại phân biệt nói Thiên tử này đi khắp nơi, thân sáng như ánh lửa, cho rằng người Diêm-phù-đề vào trong lửa, nhờ đó được sinh lên cõi lành, thọ thân trời. Bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến lại làm ra những tà luận, hoặc lập ra những tôn chỉ, nói nguyên nhân, ví dụ, hoặc khen ngợi. Đã hiểu sai còn dạy cho người khác khiến họ thực hành theo, lấy lửa đốt thân để mong sinh lên trời, không hiểu biết như thật, đem nhân quả sai lầm mà nói, không phải nhân quả đúng, sau khi chết đọa vào địa ngục.

Lại nữa, các Bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến ở trong rừng sinh ra những nhận thức sai lầm. Thấy Thiên tử từ trên trời đi xuống Diêmphù-đề, vì nhìn xa nên không thấy rõ, thấy Thiên tử từ ngọn núi đẹp đi xuống Diêm-phù-đề, sau lại trở về trời, các Bà-la-môn đó tự phân biệt nói rằng: Người Diêm-phù-đề nhảy từ núi cao xuống, do đó sinh vào cõi lành, thọ thân trời. Vì thế các Bà-la-môn tà kiến tự nhảy từ núi cao xuống muốn cầu sinh lên trời. Lại nói cho những người khác biết phương pháp này, làm ra tà luận, khen ngợi, nói pháp sai lầm cho là nghiệp quả. Vì tà kiến, nói sai nhân quả nên sau khi qua đời đọa vào địa ngục thuộc đường ác. Đó là tà kiến.

Các Bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến sống trong rừng, thấy Thiên tử từ trên trời đi xuống Diêm-phù-đề, cách chỗ họ hơi xa nên họ không thấy sắc diện, chỉ thấy ánh sáng lớn giống như sắc lửa rồi sinh phân biệt sai lầm, cho rằng: Người Diêm-phù-đề nhờ thờ lửa nên sau khi qua đời được sinh lên đường lành thọ thân trời. Vì sao? Vì lửa là miệng của tất cả chư Thiên, cho nên người thờ lửa sẽ sinh lên trời. Phân biệt sai lầm như vậy, không nhận thức như thật, lại tạo ra luận thuyết sai lầm, hoặc lập tôn chỉ, nói nguyên nhân, ví dụ, tự hiểu sai còn dạy người làm cho họ hiểu sai. Các Bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến này đã không lợi ích cho mình còn làm cho người khác khổ não, nên sau khi qua đời đọa vào địa ngục thuộc đường ác.

Lại có những Bà-la-môn, ngoại đạo tà kiến sống trong rừng, thấy Thiên tử sinh ra phân biệt, thấy Thiên tử không ăn uống, họ lại nghĩ: Người Diêm-phù-đề không ăn uống, nhờ đó, sau khi qua đời được sinh lên cõi lành, thọ thân trời. Ta nay sẽ không ăn uống, lại còn dạy người để họ học pháp này, tạo ra luận thuyết sai lầm, hoặc khen ngợi, nói pháp tà vạy này là nghiệp quả. Vì thế sau khi qua đời đọa vào địa ngục thuộc đường ác. Kẻ ngoại đạo này không biết đúng, mở cửa đường ác.

Thiên tử này chỉ ở một thời gian ngắn hoặc trong chốc lát đã hơn một trăm năm nơi cõi Diêm-phù-đề, nên ngoại đạo tà kiến nói rằng: Thiên tử này thường còn không thay đổi, không hoại diệt, tạo ra thế gian, lại phá hoại thế gian. Thấy vậy ngoại đạo tà kiến tạo ra luận thuyết sai lầm, hoặc khen ngợi, nói nhân tà vạy, do đó sau khi qua đời đọa vào địa ngục thuộc đường ác.

Cứ thế vì vô lượng hiểu biết sai lầm mà tạo ra những luận thuyết tà vạy, tự lừa dối.

Quan sát chúng sinh bị tâm mê hoặc, Tỳ-kheo nói kệ:

Tâm là rắn độc
Độc ái ở khắp
Chích vào thân người
Sông ái biển dối.
Rất là sâu rộng
Bờ bến năm căn
Bờ này rất sợ
Bờ kia an ổn.
Thấy vậy hiểu lầm
Không biết như thật
Kẻ tà kiến này
Đọa vào địa ngục.
Kẻ tà kiến ấy
Không nhân thấy nhân
Đọa vào địa ngục
Vì thấy điên đảo.
Là kẻ ngu si
Không hiểu nhân quả
Địa ngục trói buộc
Chịu mọi khổ đau.
Quả báo của nghiệp
Phải chịu sinh diệt
Nếu biết như thật
Sẽ đến bờ kia.
Kẻ ngu tìm dục
Bị dục mê hoặc
Đọa vào địa ngục
Thiêu thân vào lửa.
Cõi người giữ giới
Tu tập chánh kiến
Được sinh lên trời
Không do khổ hạnh.
Những ngoại đạo này
Sống hạnh tà kiến
Ỷ trí, kiêu mạn
Mê hoặc mọi người.
Vào trong biển lớn
Ngu si đen tối
Cõi người chịu khổ
Là do tà kiến.
Không phải khổ hạnh
Mà được giải thoát
Bậc Trí dạy thế
Điều phục tâm mình.
Đốt núi phiền não
Sẽ được giải thoát
Tu tập chánh kiến
Dứt các phiền não.
Thấy được thật đế
Sẽ được giải thoát
Tất cả ngoại đạo
Mê hoặc thế gian.
Không có tịch diệt
Luôn nói sai lầm
Ngoại đạo thế gian
Ngu dối quá nhiều.
Trăm kiếp tìm cầu
Không hề có thật
Giáo pháp xuất thế
Đều là chân thật.
Luận thuyết thế gian
Trói buộc như độc
Tạo phúc do ái
Được lạc vô thường.
Giáo pháp xuất thế
Được lạc chân thường
Các ác, bất tịnh
Do nhân duyên hợp.
Chỉ có nói suông
Mà không thành thật
Kẻ hư dối này
Nói năng không thật
Đọa vào những chỗ
Lo sợ tối tăm.

Thấy được chân thật, Tỳ-kheo nói kệ này, làm thế nào để chúng sinh thấy biết chân thật không sinh tà kiến? Luận thuyết tà kiến là do không nhận thức như thật, còn làm cho người khác tà kiến, tự mình hành theo luận tà kiến đó, còn diễn nói cho người, tự đọa vào địa ngục còn làm cho người khác đọa vào địa ngục.

Quan sát cõi Diêm-phù-đề xong, chư Thiên cỡi chim trở về cõi trời Tam thập tam. Đến nơi, họ nói những việc này cho chư Thiên khác nghe. Lại vào vườn rừng vui chơi thọ lạc, tấu các âm nhạc, đầy đủ các công đức, vui chơi hưởng lạc ở những nơi trang trí các vật báu, đến khi nghiệp thiện hết, từ cõi trời, họ qua đời, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh vào cõi người luôn được an lạc, không bệnh lo, không suy loạn, sống ở nơi giàu có an lạc, thọ thân trượng phu đầy đủ các căn, hoặc được làm vua, quan là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai mươi bảy của cõi này tên là Trí tuệ hành. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh giữ giới bằng tâm rộng lớn, tu hành nghiệp thiện, biết đúng về quả báo của nghiệp, tâm tin thích luôn làm lành, bỏ ác, tâm ngay thẳng, xa lánh bạn ác, cho đến không đi chung, trò chuyện, ở chung với họ. Người này thực hành mọi nghiệp thiện, giống như luyện vàng, hiện tại được mọi người yêu kính, đó là nhờ tu nghiệp thiện. Nếu có Tỳkheo thường đọc tụng kinh, luật, luận, siêng năng tu tập suốt ngày đêm, tâm không biếng nhác, đêm nào tối quá thì không đọc tụng được, người này vì kính trọng Phật, Pháp, Tăng nên cúng dường đèn sáng cho vị Tỳ-kheo ấy thêm nghiệp thiện tu tập. Khi trời nóng thì cúng quạt để vị ấy không nóng bức. Nghe chư Tỳ-kheo bàn luận Thánh pháp tâm rất vui mừng. Do hai công đức đó người tự lợi, lợi tha này sau khi qua đời sinh lên trụ xứ Trí tuệ hành thuộc cõi trời Tam thập tam. Ở đó nhờ nghiệp thiện, thân hình sáng rực gấp mười lần ánh sáng mặt trời, được chư Thiên cúng dường. Vô lượng trăm ngàn Thiên nữ bao quanh tôn kính cung phụng đều là những bạn thân đời trước của Thiên tử. Họ cùng nhau vui chơi, trang sức lộng lẫy, đầy đủ sắc tướng, oai đức xinh đẹp, không ganh ghét, cùng kính trọng nhau, không rời nhau một phút. Họ vui mừng gần gũi Thiên tử, cầm hoa sen bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, hoặc hoa tạp bảo, hoa bằng vàng, cọng bằng bạch ngân, tua bằng xích bảo, hay hoa bằng lưu ly, cọng bằng vàng ròng, hoặc hoa bằng báu xanh, cọng bằng bạch ngân, hoa bằng xa cừ, cọng bằng ngọc báu xanh, tua bằng xích liên hoa, kim cương, đến chỗ Thiên tử để rải. Ví như mưa to trút xuống vào mùa hạ, các Thiên tử cầm hoa rải trên Thiên tử cũng vậy. Thấy các Thiên nữ, Thiên tử vui mừng, tâm dục nổi lên, dục ác phát sinh, từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ Thiên tử, vui vẻ nhảy múa, cùng nhau vui chơi thọ lạc, làm cho tâm dục của Thiên tử càng tăng trưởng. Thiên tử vây quanh vui chơi ở vườn rừng. Vườn rừng cõi trời được trang trí các vật báu sáng rực, đầy đủ các dục. Họ vui chơi thọ lạc ở dưới cây, các loài chim cất tiếng hót rất hay chẳng khác gì giọng ca của Thiên nữ. Ở đó, có đủ dục vọng, hoa trái sum suê, dòng sông ao sen và có cả trăm ngàn thứ bao quanh vườn ấy. Thiên tử cùng Thiên nữ vui chơi với hoan lạc, thọ vô lượng diệu lạc là nhờ nghiệp thiện.

Thiên tử lại cùng Thiên nữ đi đến khu rừng khác trổi nhạc vui chơi, muốn gì được nấy, thọ hưởng diệu lạc cõi trời, thọ nhận quả báo giữ giới mà Thánh nhân ưa thích. Thiên tử, Thiên nữ lại đến rừng vui chơi tên Ma-ni-chi-la. Thấy Thiên tử, chư Thiên trú ở chốn cũ đều ra nghênh đón, vui mừng giống như gặp anh em thân tộc. An ủi thăm hỏi nhau, họ cùng nhau vào rừng nghe năm âm nhạc, hưởng diệu lạc cõi trời. Thiên tử thọ hưởng các diệu lạc như thế, lại nhìn ngắm vô lượng cảnh sắc ở rừng Ma-ni-chi-la rồi sinh tâm vui vẻ. Vườn rừng ở đây được trang trí bằng bảy báu, cây cối có y báu sắc vàng, mặt đất mềm mại, có vô lượng thức ăn uống từ dòng sông lưu xuất ra. Mắt xem tất cả sắc đẹp trông thật yêu thích. Thiên tử mới sinh cùng các Thiên chúng vui chơi hưởng lạc. Thiên tử lại cùng Thiên nữ đến đất lưu ly lần lượt thấy y báu Ma-ni từ cây sinh ra, màu sắc trong sáng thật đáng yêu, gió nhẹ thổi động, y đó bay lên xuống theo chiều gió, có vô số ong xinh đẹp sáng rực như ánh đèn. Thấy vậy chư Thiên vui mừng thán phục, cùng Thiên nữ đi đến cây này tấu nhạc vui chơi thọ lạc. Chư Thiên thán phục xong, trong hoa của cây lưu xuất ra nước Ma-thâu đầy đủ vị ngon, sắc hương mà tất cả chư Thiên chưa thấy bao giờ. Thấy vậy, họ vui mừng, cùng uống rượu Ma-thâu thượng vị. Uống xong, Thiên tử, Thiên nữ vui chơi thọ lạc, ca hát rất hay, khen ngợi Đế Thích. Vì nhờ oai lực của Đế Thích mà chúng ta vui chơi, thọ nhận năm dục lạc ở rừng Ma-ni-chi-la. Từ hoa lưu xuất ra thức uống đủ hương vị sắc ngon, chúng ta uống rượu này càng hưởng diệu lạc. Thiên tử cùng Thiên nữ lấy bình lưu ly đựng rượu Ma-thâu thượng vị, khuyên nhau uống rượu này. Những Thiên chúng này lúc ở cõi người bố thí trì giới nên được quả báo sắc hương vị thượng diệu. Theo nghiệp của mình họ thọ hưởng quả báo có thượng, trung, hạ rồi sinh tâm xấu hổ. Trên cây có chim Ẩm-mathâu, thấy các Thiên tử xấu hổ, chim liền hót kệ:

Chúng sinh bị si sai
Nên uống rượu Ma-thâu
Hiện tại bị si buộc
Tham đắm vị ngọt ngon.
Ma-thâu là bẫy si
Uống vào sẽ bị chết
Đọa vào trong địa ngục
Và loài rồng cũng thế.
Thấy, nếm, ngửi, xúc chạm
Làm tâm người say loạn
Thế nên các lưới buộc
Người trí đã lánh xa.
Thấy thì sinh tham đắm
Tiếp xúc lại ngửi nếm
Ngửi được, tâm tham vướng
Tham vướng nên suy não.
Trong các sự trói buộc
Không gì hơn tham vị
Hoại tiếng thơm, sắc lực
Là do tham vị ngon.
Tham vị bị hoặc loạn
Luôn luôn sống say mê
Tâm mê đưa đến si
Không biết pháp thiện, ác.
Bị người nữ chê cười
Ngủ nghỉ trên phân nhơ
Mà vẫn không hay biết
Không thể tự hoạt động.
Rượu phá hoại danh tiếng
Còn hơn là sợ chết
Ví như uống thuốc độc
Lại cũng như lưới chết.
Tai họa của uống rượu
Có ba mươi sáu lỗi
Đã biết tội của nó
Hãy mau mau lánh xa.
Người trí tuệ tôn quý
Bị rượu làm ô uế
Mọi người luôn khinh chê
Như cỏ lay theo gió.

Chim này là súc sinh còn biết khen chê Thiên tử, huống gì chư Thiên khác! Các Thiên tử ấy theo hạnh nguyện nghiệp thiện của mình mà uống vị trời thượng, trung, hạ, đầy đủ sắc hương. Uống xong, họ đến rừng cung điện Đà-la. Ở đây họ vui chơi ca hát, trang sức vòng hoa Ưu-bát-la xanh. Thiên tử, Thiên nữ cùng vây quanh vui chơi, tâm luôn nghĩ đến dục, thân thể sắc vàng sáng rực. Ở đây thọ hưởng hoan lạc xong, họ lại đến rừng Di-ca-vân. Ở đó có trăm ngàn xe trang sức vòng hoa trời.

Bấy giờ Thiên chủ Thích-ca Đề-bà cỡi voi trắng Y-la-bà-na, cùng các Thiên tử, Thiên nữ quyến thuộc vây quanh vui vẻ, định làm lợi ích cho chư Thiên phóng dật. Thấy Đế Thích đến, chư Thiên đều ra nghênh đón, cúi đầu đảnh lễ Thiên chủ, vui vẻ ca hát trước mặt Thiên chủ. Thiên chủ an ủi thăm hỏi chư Thiên bằng lời êm dịu ở trên lưng voi, Thiên chủ bảo chư Thiên:

–Các ông nhờ nghiệp của mình mà thọ hưởng diệu lạc cõi trời, ta muốn về rừng Hoan hỷ để trừ dẹp A-tu-la sân hận, kiêu ngạo, ỷ sức mạnh.

Chư Thiên thưa:

–Thưa Thiên vương! Chúng tôi theo ngài đi đánh bọn A-tu-la sân hận kiêu ngạo.

Đế Thích bảo chư Thiên:

–Các ông đừng vội, tự ta có thể đánh được A-tu-la.

Nói xong, Đế Thích vào vườn Hoan hỷ, thấy A-tu-la ở trong vườn Hoan hỷ đông như đám mây dần dần càng nhiều thêm. Chư Thiên mắng nhiếc chê bai, nhưng chúng càng lúc càng to lớn. Thấy chúng càng to lớn, chư Thiên mắng chửi mãi, chúng lại càng to, hình sắc xấu xí.

Thấy vậy, Đế Thích bảo Thiên chúng:

–A-tu-la vì sợ sân hận của người nữ mà thân thể càng lớn, ta sẽ tìm cách làm cho chúng bỏ sân hận kiêu mạn. Khi ấy Đế Thích nói kệ:

Không giận điều phục giận
Nhẫn điều phục tâm ác
Pháp điều phục phi pháp
Ánh sáng phá tối tăm.
Thành thật thắng hư dối
Chánh ngữ bỏ thiêu dệt
Ái ngữ thắng ác khẩu
Và tội của lưỡng thiệt.
Tâm từ đoạn sát hại
Bố thí trừ tham, keo
Chánh niệm thắng tà niệm
Niệm thiện phá niệm ác.
Trí tuệ phá vô minh
Trời sáng trừ u tối
Tháng trắng thắng tháng đen
Cứ thế luôn thắng được.
Trí tuệ biết chân đế
Thắng được dục, tà kiến
Tám con đường hiền thánh
Phá trừ các đường ác.
Bốn vô úy của Phật
Dẹp được mọi lo sợ
Chánh niệm phá tán loạn
Trí tuệ phá ngu si.
Ai sống A-lan-nhã
Phá trừ được các dục
Núi Tu-di cao nhất
Trong các núi rừng khác.
Biển lớn hơn khe suối
Và dòng sông ao hồ
Ánh mặt trời sáng rực
Hơn tất cả ngôi sao.
Pháp thắng không phương pháp
Bố thí bỏ nghèo cùng
Chất trực thắng dua nịnh
Thành thật phá hư dối.
Điềm lành trừ việc dữ
Lửa thiêu đốt củi khô
Nước trừ được bệnh khát
Ăn trừ được bệnh đói.
Tâm sư tử mạnh mẽ
Thắng hơn các loài thú
Biết đủ thắng tìm cầu
Bậc trí dạy như thế.
Bi, từ luôn tăng trưởng
Độc ác phải giảm trừ
Trí tuệ điều phục được
Bậc trí dạy như thế.
Nghiệp tà kiến độc ác
Nói những lời hư dối
Trong các hàng ngoại đạo
Như Lai thù thắng nhất.
Trời thắng A-tu-la
Vì pháp lực hơn hết
Ta sẽ dẹp trừ hết
Huống chi một mình ngươi.
A-tu-la sai ngươi
Ngươi chớ có hy vọng
Chính tòa Sư tử này
Là chỗ của bậc trí.

Nghe Thích-ca Đề-bà nói thế, quân A-tu-la nhỏ lại, sắc lực yếu đi là do nghe lời thật. Thấy chúng yếu kém, có Thiên tử nắm chân chúng lôi xuống khỏi tòa và ngay lập tức đuổi ra khỏi vườn Hoan hỷ.

Khi ấy, Đế Thích vui mừng cỡi voi trắng lớn Y-la-bà-na vọt lên hư không hướng đến rừng Ma-ni-chi-la. Làm xong mọi việc, Đế Thích cùng các Thiên tử, Thiên nữ đến cõi Ma-ni. Thấy Đế Thích, chư Thiên cõi Ma-na đều ra nghênh đón, cúi đầu cung kính đảnh lễ. Sau đó họ lại đến rừng Di-ca-vân. Nơi ấy đầy đủ những dục lạc, đất rộng lại mềm, hoa nở khắp nơi, cung thất được làm bằng cọng sen, khắp nơi trông thật đẹp mắt. Thiên chủ Thích-ca cùng các Thiên tử, Thiên nữ trổi nhạc ca múa vui chơi thọ lạc, Càn-thát-bà vương vây quanh Đế Thích ca hát khen ngợi Thiên vương, tấu năm thứ âm nhạc để vui chơi. Đế Thích ngồi trên voi trắng Y-la-bà-na. Voi ấy to lớn đẹp hơn núi báu, nó bước đi như khối ngọc lay động, thân nó trắng tinh hơn núi Tuyết, giống như ánh nắng cuối mùa xuân chiếu soi trên núi Tuyết. Thiên tử và các Thiên chúng vây quanh Đế Thích vui chơi trong các vườn rừng. Rừng ấy được trang trí bằng các vật báu như lưu ly, bạch ngân, pha lê, nhân-đà xanh, đại nhân-đà, xích liên hoa, vàng ròng, xa cừ. Thiên vương Thích-ca, Thiên tử, Thiên nữ cùng các Thiên chúng vui chơi trong vườn, đóng cửa đường ác, tâm luôn vui vẻ. Tuy được kiến đế, vẫn hưởng diệu lạc, nhưng Đế Thích luôn suy nghĩ đến sự sinh tử của chúng sinh. Suy nghĩ xong, không giận mừng, quan sát dục lạc đều bị vô thường biến đổi ly tan. Biết như vậy, trong tâm lại suy nghĩ rằng chư Thiên mà bị thoái đọa là do nghiệp của mình, rồi sẽ đi về đâu để chịu quả báo của nghiệp mình, gió nghiệp thổi tạc, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trôi lăn chịu khổ không có bạn bè. Tất cả chư Thiên và Thiên nữ đều như vậy, hội họp sẽ chia ly. Nghiệp đó tạo ra nhạc cụ lớn làm vui lòng những kẻ phàm phu ngu si. Suy nghĩ xong, Đế Thích nói kệ:

Như mây trên hư không
Bị ngọn gió thổi tạt
Hợp chốc lát ly tan
Sinh tử cũng như vậy.
Luôn luôn như loài hoa
Thấy người có sinh tử
Tất cả đều tan hoại
Qua lại cũng như thế.
Nghiệp thiện đã thành thục
Thì hưởng lạc cõi trời
Khi nghiệp thiện chấm dứt
Hoan lạc trời cũng mất.
Thời tiết như cây rừng
Lúc sinh rất tươi tốt
Thời tiết đã qua rồi
Tất cả đều rơi rụng.
Chư Thiên như lá cây
Cây như nơi thọ lạc
Thọ lạc sẽ bị đọa
Không có lạc thường còn.
Như cơn mưa mùa hạ
Không dừng ở hư không
Hoan lạc cũng như vậy
Chẳng ngừng nghỉ phút giây.
Ví như chim khổng tước
Hót lúc có gió mây
Gió ngừng tiếng sẽ mất
Diệu lạc trời cũng thế.
Ví như đem củi khô
Bỏ vào trong ngọn lửa
Hoan lạc trời cũng thế
Bị lửa thời gian thiêu.
Sinh sẽ phải hoại diệt
Qua lại trăm ngàn lần
Bị tham ái lừa dối
Mà không tâm nhàm chán.
Lưới si ái bao phủ
Không ai tránh khỏi được
Chư Thiên ham vui chơi
Chịu những nghiệp bất thiện.

Vì thương yêu chư Thiên, Đế Thích nói kệ này rồi cỡi voi trắng Y-la-bà-na, chư Thiên vây quanh trổi nhạc rất hay, trở về Thiện pháp đường. Vì chiến thắng A-tu-la nên họ rất vui mừng, chư Thiên cung kính đến Thiện pháp đường.

Chư Thiên cõi Ma-ni-chi-la thọ nhận năm dục: Sắc, thanh, hương, vị, xúc không biết nhàm chán, đến khi nghiệp thiện hết, từ cõi trời, họ bị thoái đọa, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh vào cõi người thì thuộc hàng hào phú, hưởng an lạc thượng diệu, khôi ngô tuấn tú, sống ở thành thị, nơi có chánh pháp, của cải nhiều, con cháu đông, sống lâu, bà con hòa thuận, có đủ mọi vật trên thế gian, được mọi người yêu mến, hoặc được làm vua, quan, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai mươi tám của cõi này tên là Chúng phần. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh tu hành nghiệp thiện, làm thanh tịnh thân, ngữ, ý, ngay thẳng không dua nịnh, không gây hại chúng sinh, luôn làm lành, luôn ngay thẳng, xa lánh tri thức ác, gần gũi bạn lành, không thân cận, trò chuyện, sống chung, đi chung với bạn ác, tránh xa kẻ xấu, cũng không gần gũi bạn của kẻ xấu, gần gũi bậc hiền thiện, nghe chánh pháp, nghe rồi suy nghĩ, tâm thiện với pháp thiện, bất thiện, vô ký. Nếu có pháp lành thì giữ giới, biết pháp ác thì bỏ. Chánh niệm quan sát, điều phục tâm mình, không tham muốn, giữ bảy chi giới, dù nhỏ cũng không phạm, nếu lỡ phạm tội nhỏ thì luôn lo sợ, thành tựu các nghiệp thiện như luyện vàng thuần nhất không tạp. Người này không sát sinh, trộm cướp, bố thí tu phước, thấy ai bị giết hại thì cứu thoát. Thế nào là cứu chúng sinh bị giết hại? Nếu có người xâm phạm vợ người khác, bị quan bắt, đánh trống rao tiếng xấu, đưa ra khỏi cửa bên phải để giết, không ai cứu giúp, không hy vọng vào đâu, sầu khổ buồn lo, sắp đi đến cõi chết, lúc sắp đến nơi xử trảm, người thiện này chuộc mạng để kẻ ấy thoát chết. Lại bố thí, tu phước. Thế nào là người thiện tu phước? Người này đào giếng, xây hồ ở trụ xứ chư tăng hoặc nơi đồng hoang thiếu nước, khổ vì khát. Nếu ao nước, giếng nước bị hư hoặc có trùng nhiều thì sửa lại cho chư Tăng, đem trùng ấy bỏ vào chỗ nước khác không hề giết hại những vật nhỏ như vậy. Nếu lọc nước thì đem trùng ấy bỏ vào chỗ nước khác. Đó là không sát sinh. Thế nào là không trộm? Không có tâm trộm cướp cỏ cây của người khác. Dù là rau trái ở đồng hoang hay ở làng xóm cũ nhưng nếu nghi là của người khác giữ thì không cố ý lấy. Đó là không trộm. Người này thực hành mọi pháp lành, sau khi qua đời được sinh lên trụ xứ Chúng phần của cõi trời Tam thập tam. Ở trong nhà bên phải, ghế ngồi bằng vàng ròng, lưu ly, bạch ngân, pha lê, xa cừ, xích liên hoa, nhân-đà xanh, đại thanh bảo, chân châu. Tòa ngồi được trang trí các thứ báu như vậy. Ở đó, vị này tự nghĩ: Do nghiệp gì ta được sinh lên cõi này? Suy nghĩ biết được kiếp trước ta tạo nghiệp lành, cúng dường chư tăng. Nghiệp thiện ấy như cha mẹ, như báu thanh lương nên được sinh lên trời hưởng hoan lạc. Nghĩ thế, Thiên tử thấy hết quả báo của nghiệp. Thấy được quả báo Thiên tử khen ngợi nghiệp thiện, chê bai nghiệp ác. Nghĩ nghiệp xưa của mình rồi nghĩ nghiệp của người khác, vô lượng nghiệp thiện như cha mẹ. Nghĩ xong, Thiên tử nói kệ:

Nghiệp thiện được thân người
Được rồi không phóng dật
Tạo ra các nghiệp thiện
Nhờ đó sinh lên trời.
Thân người rất khó được
Được lại sống phóng dật
Bị phóng dật mê hoặc
Chết đọa vào địa ngục.
Tạo ba loại nghiệp thiện
Tu tập bảy chi giới
Giết được ba oan gia
Được thọ thân cõi trời.
Người điều phục phiền não
Chưa đoạn trừ tâm ái
Người này do tham ái
Nên sinh ở cõi trời.
Phá hoại tâm ganh ghét
Và ngôi nhà khổ lớn
Thực hành mọi pháp thí
Người này sinh lên trời.
Xét người khác như mình
Thương yêu cứu chúng sinh
Tâm từ luôn điều phục
Người này sinh lên trời.
Xem vợ người như mẹ
Luôn suy nghĩ chân đế
Bùn dục không làm nhơ
Người này sinh lên trời.
Lửa từ tâm sinh ra
Từ dùi, lửa bốc cháy
Ai rời bỏ vọng ngữ
Sẽ được sinh lên trời.
Ác khẩu phá tâm từ
Người trí phải rời bỏ
Luôn nói lời dịu hay
Sẽ được sinh lên trời.
Xét ỷ ngữ như dao
Xa lánh hết mọi thứ
Luôn nói lời chân chánh
Không nói lời hai lưỡi.
Nói chân đế đúng lúc
Người này sinh lên trời
Người nào giữ gìn được
Bảy chi giới thân, ngữ
Người ấy biết thật giới
Sẽ được sinh lên trời.

Suy nghĩ và nói kệ xong, Thiên tử quan sát những nơi mình thọ sinh từ xưa. Nghĩ xong lại tham đắm cảnh dục như trước đã làm. Nói kệ như vậy, Thiên tử mới sinh đầy đủ oai đức thù thắng. Thấy vậy, Thiên nữ vội chạy đến chỗ Thiên tử, ví như loài ong đuổi theo các loài hoa. Thiên nữ cầm các nhạc cụ như đờn sắt, không hầu trổi nhạc rất hay. Thiên nữ trang sức vòng hoa, rải hương bột, cầm vòng hoa, có Thiên nữ rải hoa cúng dường Thiên tử mới sinh. Thiên nữ cúng dường Thiên tử đủ mọi thứ không sao ví dụ được, hơn các Thiên nữ khác cả trăm ngàn lần. Thấy Thiên tử mới sinh này, họ rất yêu thích, nghĩ đến những Thiên tử mình cung phụng từ trước tướng chết đã hiện, họ bỏ Thiên tử đó chạy đến Thiên tử mới sinh oai đức. Ví như bò khát nước, bỏ ao khô đi đến ao nước sạch. Thiên nữ này cũng thế, bỏ Thiên tử mà mình cung phụng từ xưa để chạy đến Thiên tử mới sinh. Nghe tiếng nhạc của Thiên nữ, tâm dục của Thiên tử này phát sinh, huống gì thấy sắc đẹp, nghe những âm thanh khác. Thấy Thiên nữ, nghe tiếng nhạc, lại được Thiên nữ cung phụng, Thiên tử sinh tâm yêu thích, quên hết những việc xưa giống như cách trăm ngàn đời. Vì sao? Vì cõi trời là nơi phóng dật, bản tánh như vậy. Vì các Thiên nữ dùng những pháp dục, tình tứ đủ cách nên Thiên tử không còn quán xét được, tâm dục tăng trưởng. Thiên nữ lại nói những lời bất tịnh tương ưng với dục, thọ hưởng hoan lạc bất tịnh, Thiên tử, Thiên nữ đuổi bắt nhau. Thiên nữ vây quanh đủ các dục vọng, hoan lạc đó từ xưa chưa bao giờ được, nay được rồi sinh tâm vui mừng, bị dục vọng lôi kéo, tùy thuộc các Thiên nữ, chẳng được tự do. Các Thiên nữ cung phụng Thiên tử, ca múa vui chơi ngâm vịnh nói lời êm ái làm cho tâm ý Thiên tử mê hoặc. Thiên tử đi đâu, Thiên nữ đều theo sau, bị lưới dục bao phủ như chim ở trong lưới, Thiên tử bị ái dục trói buộc cũng thế. Thiên nữ đến đâu, Thiên tử theo đến đó. Cõi đó được trang trí bảy báu mà họ chưa bao giờ thấy. Bây giờ thấy được họ lại yêu thích. Cõi này có vô lượng y phục, vòng hoa trời, thọ hưởng vô lượng hoan lạc, họ đi đến rừng Độ khoáng dã, trổi nhạc trời. Ở đây, họ thấy các loài chim xinh đẹp, tiếng hót rất hay. Họ cùng các bầy chim vui chơi, loài chim cũng chia thành trống, mái đi theo, đến các loài hoa khác cũng vậy, Từng cặp trống, mái bay lên hư không, họ đến đâu, ăn uống trái ngon gì, loài chim cũng theo. Nếu họ vui chơi trong ao sen thì cũng vậy, từng cặp chim song song bay lên ngọn núi. Loài chim trời này cũng bị lưới ái bao phủ. Đến nơi khác, loài ong cũng vậy, từng bầy hươu nai cùng nhau vui chơi cũng bị lưới dục bủa vây, ví như Thiên tử mê sắc đẹp của Thiên nữ, ví như mùa hạ đổ mưa, ao hồ tràn đầy, các Thiên tử bị dục ái của Thiên nữ tràn đầy cũng thế. Ái dục trói buộc tuy có thư thả nhưng rất khó ra khỏi. Quan sát việc này xong, Tỳ-kheo nói kệ:

Lưới dục vọng người nữ
Trói buộc rất chắc chắn
Làm cho các chúng sinh
Trôi lăn trong ngục Hữu.
Dây trói thân mở được
Dây trói tâm khó mở
Tâm đã bị dục trói
Luôn chịu các khổ não.
Lưới thường chặt dứt được
Lưới dục không thể đốt
Theo đuổi khắp mọi nơi
Không khỏi ba đường ác.
Lưới thường trói vừa thân
Lưới ái rất rộng lớn
Dù không phải sắc pháp
Vẫn trói hết mọi người.
Lưới thường trói chúng sinh
Hiện tại ai cũng thấy
Dục ái buộc tâm này
Tìm mãi không thấy được.
Nhiễm rồi sinh tham ái
Tâm tham đắm khó gỡ
Người bị ái trói buộc .
Không thoát khỏi sinh tử.
Nữ sắc là lưới lớn
Phủ sáu căn chúng sinh
Lưới thường trói một thân
Hoặc trói hoặc không trói.
Gông cùm và xiềng xích
Phật nói chẳng bền chắc
Tâm ái trói người si
Bền vững hơn lao ngục.

Tỳ-kheo chê bai ái dục, Thiên tử vì ái Thiên nữ nên bị lưới ái trói buộc, đưa nhau đến các vườn rừng đẹp thật không sao ví dụ được. Thiên tử cùng Thiên nữ đến bờ ao Bạch nga vui chơi thọ nhận năm dục lạc, trổi các âm nhạc hay. Thiên tử cõi Chúng phần lại đi đến núi vàng vui chơi hưởng năm dục lạc. Hưởng lạc xong Thiên tử nghĩ: Ta nên cùng các Thiên chúng đến Thiện pháp đường vui chơi thọ lạc. Nghĩ như vậy, liền cùng Thiên chúng đến Thiện pháp đường có người đi trên hư không, có người cỡi thiên nga, có người cỡi chim khổng tước, có người đi xe… cùng nhau đến Thiện pháp đường. Thấy Đế Thích, họ trổi nhạc ca hát rất hay để đến Thiện pháp đường. Nghe tiếng nhạc, Đế Thích hỏi các Thiên tử:

–Đại tiên! Tiếng nhạc này là nhạc gì? Chư Thiên ở đâu đến đây?

Nghe thế các Thiên tử đều ra xem. Thấy chư Thiên, họ trở về thưa Đế Thích:

–Thưa Thiên vương! Chư Thiên ở cõi Chúng phần đến đây thăm hỏi Thiên chủ:

Đế Thích bảo chư Thiên:

–Các ông hãy vui mừng trổi nhạc ra đón Thiên tử cõi Chúng phần đến đây để vui chơi hưởng lạc.

Nghe vậy, các Thiên tử vâng lời Đế Thích, tuy cầm các nhạc cụ như đờn sắt, không hầu, thân trang sức vòng hoa, phóng ánh sáng trắng chiếu soi rực rỡ, ra đón Thiên tử cõi Chúng phần. Họ gặp nhau, cùng nhau vui chơi, vận thần thông, trổi nhạc rất hay, đi đến Thiện pháp đường.

Bấy giờ, Đế Thích ngồi trên tòa Sư tử đắc thắng trong điện báu có trăm ngàn cột. Thiên vương ngồi trong tư thế an vui hoan lạc, oai đức sáng rực, trăm ngàn Thiên chúng vây quanh, hưởng quả báo của nghiệp thiện, oai đức rực rỡ hơn trăm mặt trời cùng chiếu. Tuy sống trong cung trời nhưng không phóng dật. Thấy Thiên vương, chư Thiên đều vui mừng khôn xiết, cúi đầu đảnh lễ Thích-ca Đề-bà, ca múa vui chơi, nói kệ khen ngợi Thiên vương:

Thiên chủ Kiều-thi-ca
Thường bảo vệ thế gian
Hành pháp luôn tịch tĩnh
Cảnh giới không hại được.
Dùng pháp điều phục đời
Không dạy bằng phi pháp
Thuận pháp luôn an vui
Trái pháp chịu khổ não.
Thực hành pháp được vui
Tu trí tuệ cũng vậy
Không xâm đoạt, dối trá
Luôn được sự an vui.
Công đức của thế gian
Và công đức xuất thế
Thiên vương đã có đủ
Tất cả công đức này.
Chỗ nương cho người sợ
Chỉ đường lành kẻ khổ
Thiên vương bảo vệ đời
Trời, người, A-tu-la.
Thiên vương thù thắng nhất
Xa lìa pháp bất thiện
Tẩy trừ ba cấu ác
Thọ ba pháp quy y.
Biết như thật ba nghiệp
Thực hành tam Bồ-đề
Tuy sống nơi phóng dật
Mà không thích phóng dật
Thiên vương bảo vệ đời
Hành pháp, không oán địch.

Chư Thiên cõi Chúng phần dùng trí tuệ thù thắng khen ngợi Thiên vương. Quan sát Thiên chúng Thích-ca Đề-bà Nhân-đà-la dịu lời an ủi, bảo chư Thiên:

–Các Thiên tử! Chớ sống phóng dật, người sống phóng dật không có lợi ích.

Khen ngợi Đế Thích xong, các Thiên tử cùng Đế Thích bay lên hư không trở về cõi Chúng phần. Đế Thích đi trước, chư Thiên theo sau đến cõi Chúng phần. Đế Thích nghĩ: Các Thiên tử này sống phóng dật, không biết sự khổ thoái đọa, ta nên hóa hiện tướng thoái đọa để họ sinh nhàm chán. Đế Thích liền hóa hiện cõi trung ấm cho chư Thiên phóng dật vui chơi.

Khi ấy, các Thiên tử đang vui chơi trong vườn rừng, núi non, ao hồ, bỗng thấy tất cả tướng xinh đẹp của mình đều hoại mất. Tất cả các thứ tạo an vui cũng mất, họ lo sợ khổ não, thân bị trói buộc nên khóc lóc. Khói lửa vây quanh thân, Diêm-la vương làm cho họ bị đói khát, thiêu đốt, kinh sợ. Lửa đốt thân như đốt rừng. Sứ giả Diêm-la thì thân hình ghê tởm, tay cầm dao gậy, cung tên, giáo mác, dây đen, gậy đỏ và lưới, có người đi lên, có người đi xuống. Những sứ giả đó có mặt khắp núi Tu-di.

Các Thiên tử ấy thấy sứ giả Diêm-la lên trời trói Thiên tử, trừng phạt, mắng nhiếc, đánh đập, khắp thân lửa dữ hừng hực.

Các sứ giả đó tay cầm dao kích, trừng mắt, giận dữ, bảo nhau:

–Các sứ giả Diêm-la! Hãy trói Thiên tử phóng dật, ta sẽ giết chúng, lôi chúng vào địa ngục, để chúng không phóng dật nữa. Họ la hét rồi bay lên hư không đến núi Tu-di, làm cho các cõi đều nghiêng ngã. Trăm ngàn vạn ức na-do-tha sứ giả Diêm-la, quan đoạt mạng, ngục tốt ghê gớm phá hoại khắp nơi và xung quanh núi Tu-di. Họ có mặt khắp hư không, đi lên đi xuống, não hại Thiên tử, hỏi Thiên tử: Năm dục và âm nhạc của các ngươi thọ hưởng bây giờ đâu rồi? Các ngươi sẽ bị sứ giả Diêm-la đem về địa ngục chịu khổ não lớn.

Thiên tử nào sẽ đọa vào địa ngục thì thấy lửa địa ngục thiêu đốt thân. Thiên tử nào còn nghiệp thiện thì thấy địa ngục mà không bị lửa đốt thân, tự thấy cõi Trung ấm, tất cả bị trói buộc.

Khi ấy, ngục tốt, sứ giả Diêm-la nói kệ cho Thiên tử:

Các ngươi tham dục lạc
Mà không tạo nghiệp lành
Nên phải chịu quả khổ
Giờ quả đó thành thục.
Các ngươi thích phóng dật
Nên làm việc phi pháp
Cho đến lúc lâm chung
Mới sinh tâm hối hận.
Hối hận hơn lửa đốt
Và dao gậy mâu kích
Từ năm căn sinh ra
Rồi trở lại đốt mình.
Khổ não cho là vui
Oán giặc gọi bạn thân
Quán phóng dật cũng vậy
Vì thế hãy xả bỏ.
Phóng dật hòa hợp ái
Bị dục lạc trói buộc
Ba loại oan gia lớn
Phá trừ hết an lạc.
Kiêu mạn, gần bạn ác
Biếng nhác lại tham lam
Không chịu giữ giới cấm
Đó là nhân địa ngục.
Giữ giới được mát mẻ
Quả báo mát mẻ hơn
Kẻ ngu không tu hành
Lúc chết lại hối hận.
Thấy vợ, hầu của người
Lại sinh tâm tham đắm
Uống rượu và trộm cướp
Do đó đọa địa ngục.
Ác khẩu gần bạn xấu
Tà kiến, không chánh tín
Tâm nhiễu loạn thô tháo
Do đó mất thân người.
Tham lam, nói thêu dệt
Dối trá, không thành thật
Đời này hay đời sau
Không có chút an lạc.
Xa lánh những bạn tốt
Gần gũi kẻ xấu ác
Là gốc không lợi ích
Không tin quả báo nghiệp.
Không biết nghiệp và quả
Khổ vui của chúng sinh
Kẻ này mê nhân quả
Sắp chết sinh hối hận.
Người nào thường nói dối
Ỷ tài, sinh kiêu mạn
Sau chịu khổ não lớn
Mới biết được nghiệp quả.
Trôi lăn trong thế gian
Chịu đủ các khổ não
Đều do sức vô minh
Đại tiên dạy như vậy.

Hóa hiện ra sứ giả Diêm-la để nói pháp, điều phục, chê trách các Thiên tử xong, Đế Thích lại vì các Thiên tử mà chỉ dạy biến hóa.

Thiên tử nào vì nghiệp đời trước sẽ đọa vào loài súc sinh. Thể hiện vô lượng tướng nghiệp như dấu in vào vật, trong tướng trung ấm, sát hại lẫn nhau, ăn nuốt lẫn nhau rồi lo sợ để các Thiên tử thấy. Thiên tử nào không có nghiệp súc sinh thì chỉ thấy loài súc sinh giết hại lẫn nhau chứ không thấy mình thọ thân súc sinh. Đế Thích lại hóa hiện cõi trung ấm cho các Thiên tử thấy. Thiên tử nào sẽ đọa vào loài ngạ quỷ thì bị đói khát thiêu đốt thân, tóc dài phủ mặt, thân thể xấu xí, rồi lại thấy chim trong hư không bay xuống mổ mắt, tai, mũi, lưỡi. Thấy những tướng ác biến hóa đó, chư Thiên đều kinh sợ, thưa với Đế Thích: Thiên vương Thích-ca! Vì sao ngài lại bỏ chư Thiên mà ngồi yên! Các Thiên tử này đều bị trói buộc, loài A-tu-la, kẻ ác độc sắp đem họ đi. Khắp các nơi của núi Tu-di đều như vậy. Chúng tôi đã từng đánh với A-tu-la nhưng chưa thấy tướng ác này bao giờ. Vả lại A-tu-la và quân lính của chúng chưa đến cõi này bao giờ. Thế gian mất chánh pháp chăng? Không hiếu dưỡng cha mẹ, không kính Sa-môn, Bà-la-môn và các bậc trưởng lão kỳ túc chăng? Thưa Thiên vương! Hiện giờ thế gian không cúng dường Phật, Pháp, Tăng, không biết nhân quả chân đế chăng? Hiện giờ người Diêmphù-đề không tu theo pháp mà Thiên vương Hộ thế thường nói chăng? Hiện giờ chư Thiên đều bị não loạn. Thưa Thiên vương! Cớ sao ngài không chuẩn bị binh khí, cỡi voi trắng Y-la-bà-na, mặc áo giáp, gióng trống trận để chiến đấu? Có những Thiên chúng cùng nghiệp với Thiên vương, nói với Đế Thích những việc như vậy. Có những chư Thiên thấy sự việc hy hữu mà họ chưa từng thấy như thế thì sinh tâm chán ghét, kinh sợ vô cùng, các căn chấn động, liền quy y Đế Thích, nói: Cúi xin đại vương cứu giúp chúng tôi. Những cõi của chư Thiên ở đều bị A-tu-la chiếm đoạt, chúng tôi chưa bao giờ thấy những thân A-tu-la đáng sợ như vậy.

Những chư Thiên lo sợ đều nói với Đế Thích như thế. Có Thiên tử thấy sự biến hóa đó vội chạy về Thiện pháp đường lấy binh khí chiến đấu, có Thiên tử đi đến rừng Tạp điện lấy binh khí đi đánh bắt sứ giả Diêm-la, nhưng không hại được. Ví như những binh sắc trong gương không thể nắm bắt, cũng không thể đánh hại được.

Thiên vương biến hóa ra như thế.

Bấy giờ, Đế Thích biến hóa ra A-tu-la thắng La-hầu, những đám A-tu-la dũng kiện đều bị đánh trói, đâm chém, mắng nhiếc, khóc lóc khổ đau cho các Thiên tử thấy. Thấy A-tu-la chịu khổ do sự biến hóa gấp trăm ngàn vạn lần mình, các Thiên tử đều kinh sợ, đến chỗ Thiên vương Thích-ca thưa:

–Chúng tôi không biết được người nào có sức mạnh như vậy, trói buộc, đánh đập, đâm chém, mắng nhiếc được các A-tu-la vương, La-hầu A-tu-la vương, Dũng kiện A-tu-la vương, cớ sao lại có những việc lạ lùng như thế, làm cho các Thiên tử rợn cả người, tôi cũng sợ phải chịu những khổ não đó. Lẽ nào Thiên vương không biết sao? Chư Thiên và A-tu-la đều bị phá hoại, khắp nơi đều sợ bị hoại diệt. Nếu Thiên chủ biết hãy nói cho chúng tôi nghe. Nếu không biết, thì hãy suy xét kỹ.

Bấy giờ, Thiên chủ Thích-ca Đề-bà bảo các Thiên tử:

–Các Thiên tử này vì sống phóng dật, không hiểu biết như thật, không thực hành chánh pháp, vì họ mà ta thị hiện những sự biến hóa như thế để họ trừ bỏ phóng dật, kiêu mạn. Khi các Thiên tử đó đã nhàm chán, chế ngự tâm ý, ta thuyết giảng chánh pháp thì họ tin nhận được.

Thấy các Thiên tử đã điều phục tâm ý, Thiên đế Thích bảo Thiên chúng:

–Các ông hãy lắng nghe ta sẽ thuyết giảng. Người đàn ông này có sức mạnh, hình dạng thô xấu nhưng hại được người khác, khó ai địch nổi, dù sức chú thuật cũng không điều phục được, tất cả Thiên chúng đều không làm gì được. Dù giỏi hơn chư Thiên cũng không thể ngăn chận được huống gì là các ông –những kẻ yếu kém sắc lực! Người đàn ông ấy chính là sứ giả Diêm-la, là sứ giả lúc chết, dùng nghiệp phiền não trói buộc chúng sinh, dắt đi đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Có tám pháp đủ quyền lực về sự sống chết của chúng sinh:

  1. Tất cả sự sống đều đi đến cái chết.
  2. Không người khỏe mạnh nào không bị bệnh khổ.
  3. Tất cả người trẻ khỏe đều bị già suy.
  4. Giàu sang phải nghèo thiếu.
  5. Tất cả thế gian đều do nghiệp mà có, tùy thuận theo những nghiệp thiện, bất thiện đã tạo ra mà chịu quả báo.
  6. Tất cả sự ân ái đều chia ly, không tồn tại.
  7. Những nghiệp đã tạo phải chịu quả báo, không phải người khác làm mình chịu quả, mình làm người khác chịu quả. Tất cả các pháp chắc chắn như vậy.
  8. Người phóng dật thì không được an ổn, phải chịu quả khổ. Do các pháp đó, chúng sinh lưu chuyển trong sự sống chết và do duyên sinh. Các pháp ấy không thể dùng sức ngăn chận được, không có sức chú thuật nào điều phục được. Sứ giả Diêm-la này không ai địch nổi, sự sống chết đều như thế. Dù là chư Thiên, A-tu-la, loài người, Dạ-xoa, Tỳ-xá-già… mà tạo ác gây khổ não thì sứ giả Diêm-la đều hại được, làm cho chúng đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Bấy giờ các Thiên chúng thưa Đế Thích:

–Thưa Thiên vương! Chúng tôi không thể tránh khỏi sứ giả Diêm-la đó. Cúi xin Thiên vương dùng sức phương tiện để chúng tôi thoát khỏi sứ giả Diêm-la, chúng tôi sẽ vâng lời dạy của ngài.

Thiên vương Thích-ca Đề-bà bảo chư Thiên:

–Có sức phương tiện lớn, nếu ai tu tập được sẽ không bị sứ giả Diêm-la tổn hại. Do phương tiện gì mà được thoát khỏi?

Đó là do đoạn trừ một pháp: Phóng dật và tu tập hai pháp: Chỉ, quán, trừ bỏ ba lỗi tham, sân, si, quan sát bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo; biết năm cảnh giới, sáu căn, bảy chánh trí, thực hành tám Thánh đạo tức là biết về chánh kiến…, biết chín cõi chúng sinh, quả báo mười nghiệp, mười một cách tu, mười hai nhập, mười ba niệm tùy thuận hệ niệm, mười bốn pháp thiền để tu tập tâm, mười lăm pháp, mười sáu hành tướng hơi thở, mười bảy hành pháp lưu chuyển tương tục trong cõi trung ấm, mười tám giới, mười chín cõi mà chúng sinh Dục giới ở, hai mươi cõi và biết được hành nghiệp của chúng sinh thì sẽ thoát khỏi. Chư Thiên, loài người… nếu biết được như vậy, sẽ đoạn trừ được ba đường ác, sinh các pháp lành, thực hành pháp thiện. Nếu chư Thiên, loài người… đoạn trừ đường ác thì khi chết không sợ sứ giả Diêm-la. Vì vậy các ông hãy bỏ phóng dật, phóng dật phá trừ tất cả pháp lành giống như kẻ thù. Người sống phóng dật không có niềm vui ở đời và xuất thế. Phóng dật che mờ con người ngu si như súc sinh, chưa ngủ mà như ngủ, chẳng biết việc nên làm hay không nên làm, việc phước đức phi phước đức, chẳng biết bà con hay người xa lạ, ruộng phước hay không phải ruộng phước, điều không nên nói điều nên nói, không biết lợi ích tổn hại, không biết tội lỗi công đức. Đó là điều ác nhất, là cội gốc của sự suy não, không lợi ích. Hãy trừ bỏ phóng dật. Tất cả chư Thiên sống phóng dật làm sao không bị sứ giả Diêm-la trói buộc. Khi ấy Đế Thích nói kệ:

Nếu trời, người phóng dật
Thích làm việc phi pháp
Đến khi sắp mạng chung
Thấy sứ giả Diêm-la.
Phóng dật như chất độc
Người trí đã lánh xa
Nên đến lúc qua đời
Không bị các khổ não.
Phóng dật chết chịu khổ
Không phóng dật vui nhất
Những ai muốn được vui
Hãy trừ bỏ phóng dật.

Các Thiên tử! Đoạn một pháp là đoạn trừ phóng dật nhưng phóng dật có sáu cách:

1. Mắt thấy sắc sinh tâm phóng dật, không thấy như thật. Thấy sắc đẹp, xấu, vàng, đen, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tròn tất cả người đời không biết như thật là do phóng dật. Vì ý phóng dật nên không biết được pháp xuất thế. Tuy thấy sắc nhưng không biết như thật. Đối với sắc thân không quan sát như thật. Không thích quán chiếu pháp bốn đế. Các sắc không thật lại thấy là thật. Vì tâm phóng dật nên không quán chiếu các pháp thế gian, xuất thế gian.

2. Tai nghe tiếng không biết được thật nghĩa, không biết được tiếng ca, lời nói có thật nghĩa hay không của thế gian. Nghe những pháp như Tu đa-la, Già-đà, Kỳ-dạ, Tỳ-già-na, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, Tỳ-đa-ca, Xà-đa-ca, Tỳ-phật-lược, A-phù-đa-đạt-ma (mười phần giáo) mà không hiểu thật nghĩa. Vì phóng dật nên khi qua đời bị sứ giả Diêm-la trói buộc dắt đi.

3. Vì phóng dật nên khi nghe hương thơm thì tham đắm, không biết được hương của hoa hay trái, không biết được hương của thế gian nên đốt để cúng dường.

4. Lại vì phóng dật nên không biết được sự khác biệt của các vị đã nếm như ngọt, chua, mặn, cay, đắm, nhạt, rít, trơn. Vì phóng dật nên không biết được thức ăn thế gian, xuất thế gian.

5. Cũng vì phóng dật nên không biết được sự xúc chạm của thân, thân không làm việc sửa nhà, làm lành. Trong nhà không có đủ tài vật, chẳng biết được việc không nên làm của thế gian, xuất thế gian, không gần gũi thăm hỏi, cung kính, lễ bái các bậc kỳ túc.

6. Các Thiên tử! Lại vì phóng dật nên không biết được các pháp thiện, bất thiện vô ký của tâm, không biết được lúc chết bị đánh đập, chịu khổ não lớn, bị sứ giả Diêm-la tự do bắt đi.

Vì vậy các Thiên tử! Hãy trừ bỏ phóng dật, tu tập hai pháp chỉ, quán. Hai pháp này chỉ rõ đạo Niết-bàn. Chỉ: Đoạn trừ các pháp đã sinh và chưa sinh để được tịch tĩnh. Quán: Thấy được tâm pháp của thân. Hai pháp này là bạn lành trừ được ba lỗi. Đối với kẻ tham dục thì dạy pháp quán bất tịnh, đối với kẻ sân hận thì dạy pháp quán Từ bi, đối với kẻ ngu si thì dạy pháp trí tuệ. Ba pháp này đối trị ba pháp kia để không còn phóng dật và khi lâm chung không sợ sứ giả Diêmla.

Thế nào là bốn Thánh đế? Bốn Thánh đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ đế có hai: Khổ của thân, khổ của tâm; Tập đế: Ấm, giới, nhập; Diệt đế: Tịch diệt; Đạo đế: Tám Chánh đạo. Năm cảnh giới: Sắc, thanh, hương, vị, xúc. Sáu căn: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Khéo thâu giữ chúng khi chúng tiếp xúc với cảnh giới. Bảy pháp là bảy phần giác, giống như thành phần của thân, khu vực của thành phố, bộ phận của tập thể, vì vậy gọi là Bồ-đề phần. Bảy phần: Niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, ỷ, định, xả. Niệm giác phần có những tướng gì? Niệm về tội lỗi của pháp hữu vi, niệm về thật đế, Niếtbàn. Trạch pháp giác phần có những tướng gì? Dùng trí giản trạch. Thế nào là giản trạch (lựa chọn)? Dùng pháp tướng như thật chọn lựa pháp này, suy nghĩ nghĩa của nó liên tục không ngừng. Đã suy nghĩ thì siêng năng tu tập, đó là tinh tấn giác phần. Suy nghĩ rồi mong muốn, nghĩ về thật nghĩa như vậy mà vui vẻ, đó là hỷ giác phần. Suy nghĩ thật nghĩa rồi điều phục pháp của thân tâm, nhẹ nhàng, an vui, tu tập ổn định, đó là ỷ giác phần. Suy nghĩ thật nghĩa rồi trụ tâm, thâu giữ, điều phục tâm, đó là định giác phần. Bỏ tâm định về những niệm khác là xả giác phần. Các pháp dù là quả, trí, đoạn phiền não đều sai khác, kết quả khác nhau, dần dần tăng lên, đều do duyên từng pháp sinh ra nhưng công dụng lại khác nhau.

Các Thiên tử! Đó là bảy Giác phần, nếu ai nghĩ nhớ được thì đoạn trừ phóng dật.

Các Thiên tử! Tám Thánh đạo là gì mà có thể đoạn trừ phóng dật, lo sợ ở vị lai, để cầu sự an lạc và đạo Niết-bàn? Đó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Thế nào là chánh kiến? Biết đúng tương ưng sự thật. Thế nào là chánh tư duy? Biết như thật về tự tướng, bình đẳng tướng của pháp như thật, nghĩ đến nhân quả của nó. Thế nào là chánh ngữ? Suy nghĩ về bốn nghiệp của miệng, giữ gìn giới cấm. Thế nào là chánh nghiệp? Trừ bỏ ba nghiệp bất thiện của thân, giữ gìn giới cấm. Thế nào là chánh mạng? Cho dù mất mạng vẫn giữ giới cấm. Thế nào là chánh tinh tấn? Suy nghĩ về thật nghĩa rồi siêng năng tu tập? Thế nào là chánh niệm? Suy xét, nhớ kỹ thật nghĩa của pháp đó. Thế nào là chánh định? Dùng tâm niệm như thật chuyên chú ghi nhớ tướng của các pháp. Đó là tám con đường của Hiền thánh, nếu thường nghĩ nhớ thì không sợ sứ giả Diêm-la.

Lại nữa, hãy quan sát chín cõi của chúng sinh. Các Thiên tử!

Hãy quan sát về mười đại địa pháp:

  1. Thọ.
  2. Tưởng.
  3. Tư.
  4. Xúc.
  5. Tác ý.
  6. Dục.
  7. Giải thoát.
  8. Niệm.
  9. Tam-muội.
  10. Tuệ.

Các pháp này đều từ tâm sinh nhưng hình tướng khác nhau. Các ông nên biết chúng có những tướng gì? Các pháp ấy nối tiếp sinh ra giống như ánh sáng mặt trời. Từ tâm sinh ra nhưng có các tướng tăng giảm khác nhau. Thế nào là tưởng? Biết sự tương ưng sai khác. Thế nào là tư? Ý duyên ba pháp thiện, bất thiện, vô ký. Lại có ba loại thân tư, khẩu tư, ý tư. Nó dựa vào tư nhưng không thấy tướng mạo. Thế nào là xúc? Do ba thứ hòa hợp sinh ra. Từ xúc có ba thọ.

Thiên tử nên biết! Ba xúc sinh ra ba thọ gì? Đó là khổ, lạc, xả thọ. Thế nào là tác ý? Nắm bắt tướng các pháp. Thế nào là dục? Nghĩ nhớ những điều đã làm. Thế nào là giải thoát? Có khả năng quyết định. Cũng gọi là tín. Vì có tín nên cũng gọi là lực, có khả năng giữ gìn. Thế nào là niệm? Tâm không mê loạn với những cảnh giới đã duyên. Thế nào là Tam-muội? Tâm duyên một cảnh. Thế nào là tuệ? Phân biệt quan sát các pháp.

Các Thiên tử! Lại có mười đại địa phiền não, nếu ai thực hành theo thì khi chết sẽ bị sứ giả Diêm-la trói buộc. Mười pháp đó là:

  1. Bất tín.
  2. Biếng nhác.
  3. Thất niệm.
  4. Tán loạn.
  5. Ngu si.
  6. Bất thiện quán.
  7. Tà kiến.
  8. Bất điều phục.
  9. Vô minh.
  10. Phóng dật.

Đó là mười pháp đại địa phiền não do nhiễm ô sinh ra, là nguyên nhân bị sứ giả Diêm-la trói buộc. Các Thiên tử! Mười đại địa bất thiện mà ta nói là gì? Thế nào là bất tín? Không tin pháp giải thoát. Thế nào là biếng nhác? Không siêng năng. Thế nào là thất niệm? Không nhớ giáo pháp. Thế nào là tán loạn? Tâm ý không chân chánh. Thế nào là ngu si? Tâm không phương tiện. Thế nào là bất thiện quán? Quan sát sai, suy nghĩ trái pháp, không theo chánh đạo, những thứ bất tịnh lại cho là tịnh. Thế nào là tà kiến? Chấp chặt pháp sai lầm mà không bỏ. Thế nào là bất điều phục? Không tịch tĩnh. Thế nào là vô minh? Không hiểu về ba cõi. Thế nào là phóng dật? Không làm lành. Mười pháp phiền não lớn này rất xấu ác.

Này các Thiên tử! Lại có mười nhiễm địa pháp: Sân, hận, bất hối, kiên, huyễn, dua nịnh, tật đố, keo kiệt, kiêu mạn, đại mạn. Vì sao gọi là nhiễm địa pháp? Vì nó thuộc đại địa pháp nên gọi là nhiễm địa pháp. Thế nào là sân? Tâm ác. Thế nào là hận? Tâm bị ràng buộc thành oán kết. Thế nào là bất hối? Thích làm ác, làm xong lại vui. Thế nào là kiên? Làm ác và chấp thủ. Thế nào là huyễn? Dối gạt mọi người, chính là hoặc nghiệp của mười hai nhập. Các Thiên tử! Thế nào là mười hai nhập? Gồm có nội nhập: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; ngoại nhập: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Hai loại khác biệt nhau.

  1. Tướng.
  2. Tự thể của các đại.

Do bốn đại duyên sinh ra nhãn thức, đó là mắt. Các ông nên biết, tai, mũi, lưỡi, thân, ý khi phân biệt cảnh giới chúng đều có tự tướng. Làm sao biết được tự thể của nó? Tự thể: Không điên đảo, do năm duyên sinh ra nhãn thức. Do có mắt, sắc, ánh sáng, khoảng trống, ý niệm nên có nhãn thức. Tai thì không như vậy, dù trong chỗ tối tăm nhĩ thức vẫn phân biệt, không cần ánh sáng. Mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy. Đối với ý thức thì ánh sáng có lúc có tác dụng nhưng có lúc không có tác dụng. Thế nào là có tác dụng? Khi nhãn thức phân biệt sắc thì ý thức hiểu rõ nên có tác dụng. Khi nào không có tác dụng? Nhãn thức quan sát sắc nhưng nếu không có ánh sáng thì không thấy. Còn những căn khác khi nhận biết thì không cần ánh sáng, đó là thức đại. Các Thiên tử! Lại có bốn đại duyên dựa lẫn nhau. Thế nào là bốn đại duyên dựa lẫn nhau? Hoặc tăng hoặc giảm, như mắt tăng hỏa đại, mũi tăng địa đại, thân tăng phong đại, lưỡi tăng thủy đại, tai tăng không đại. Tai mà có nhiều khoảng trống thì ý nghe được tiếng, thế nên chúng ta biết phải có tăng giảm. Tiếp tục quan sát về nhập. Thế nào là duyên gần duyên xa? Ba căn mũi, lưỡi, thân phải tiếp xúc mới biết, sự hiểu biết của mắt thì không gần không xa, tai nghe tiếng mà xa quá thì không rõ, gần thì nghe rõ, nghe cả tiếng nói của lòng mình, mũi ngửi hương gần mới biết, ngửi cả mùi của người mình nhưng khi mũi bệnh thì nghe mùi hôi, như tiếng gió trong tai cũng tự nghe được. Như vậy phải gồm có nhãn thức… ý thức câu hữu, thức khác cũng thế. Ví như một ngọn lửa, do nhiên liệu mà gọi tên hoặc lửa củi hoặc lửa rơm. Các thức cũng vậy do ý thức mà có sai khác.

Này các Thiên tử! Đã biết các nhập rồi, đừng sống phóng dật.

Không sống phóng dật thì không tham, sân, si. Người thiện như vậy khi chết không sợ sứ giả Diêm-la trói buộc, không thấy những tướng ghê gớm của lính ngục, không thấy cảnh giới xấu của Diêm-la vương, không đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, luôn được an lạc, cho đến đạt được Niết-bàn, thành tựu vô lượng sự an vui đều do không phóng dật.

Lại nữa, này các Thiên tử! Quan sát mười hai nhập là vô thường, khổ, không, vô ngã. Nó do duyên sinh. Quan sát như vậy thì bỏ phóng dật. Quan sát những gì sinh ra nhãn thức đều là pháp huyễn, trống rỗng, không có sở hữu, không chắc thật, là pháp bị hủy hoại. Quan sát nhãn thức rồi, lại quan sát về những gì sinh ra nhĩ thức cũng trống rỗng, không có sở hữu, không chắc thật, bị hư hoại. Như vậy quan sát sáu nội nhập và sáu ngoại nhập dù sinh hay diệt, giành giựt vị ngọt của ái, suy biến vô thường, do duyên sinh. Thấy biết như thật rồi không tham sắc, dù thấy sắc đẹp cũng không tham. Người không phóng dật thì dù là diệu lạc cõi trời cũng không tham, huống gì là dục lạc của thế gian?

Bấy giờ Đế Thích nói kệ:

Không hiểu biết giới, nhập
Trở ngại đạo Niết-bàn
Chính vì phóng dật này
Mất tất cả pháp lành.
Có ba tội lỗi lớn
Là sứ giả đường ác
Si là ác bậc nhất
Phóng dật nên luân hồi.
Ngu si sống phóng dật
Nằm trong tay thần chết
Ai thích sống phóng dật
Phá hoại hết tất cả.
Ai vượt qua một pháp
Suy nghĩ về hai pháp
Biết rõ tướng ba cõi
Người bày được an lạc.
Phước đức trời đã hết
Do phóng dật phá hoại
Vì si nên đọa lạc
Không ai cứu giúp được.
Có một pháp thù thắng
Ai nhẫn nhục tu hành
Luôn luôn sống nhẫn nhục
Từ bi với chúng sinh.
Phóng dật có sức lớn
Lúc chết rất lo sợ
Vì thế bỏ phóng dật
Tinh tấn tu các hạnh.
Hãy trừ bỏ vô minh
Và giữ gìn trí sáng
Nhờ biết minh, vô minh
Phóng dật không hại được.
Người nào bỏ phóng dật
Nhất định được lợi lớn
Người không sống phóng dật
Tự làm lợi cho mình.
Lưới phóng dật trói buộc
Siêng tu sẽ thoát được
Tướng trói, mở như thế
Nay ta nói tổng quát.
Các Thiên tử đã biết
Nếu ai sống phóng dật
Thì đến lúc lâm chung
Sẽ biết quả báo đó.

Thiên đế Thích đã nói rõ tướng mười hai nhập để điều phục chư Thiên phóng dật. Thiên tử nào đã từng trồng căn lành, ít sống phóng dật thì nghe pháp này tự tâm giác ngộ, không sống phóng dật nữa, các căn thuần thục và thực hành chánh pháp. Các Thiên tử chưa thuần thục thì ví như phá vỡ ung nhọt chưa có mủ, dù nặn xong, rửa sạch vẫn không lành.

Lại nữa, Thiên vương Đế Thích đã bắt đầu từ một pháp dần dần nói đến mười hai nhập và tướng của mười hai nhập, đã hiện sức thần thông và những việc hy hữu cho đại chúng cõi trời làm cho họ tuần tự hiểu được, buộc tâm chánh niệm, hiểu tướng nhân duyên, bỏ phóng dật, được lợi ích, thấy sự biến hóa này mà chán ngán dục vọng. Bấy giờ Thiên đế Thích lại dùng phương tiện lợi ích nói rõ diệu pháp cho chư Thiên:

–Này các Thiên tử! Thế nào là dua nịnh? Tâm không ngay thật, chìm đắm trong sinh tử. Thế nào là ganh ghét? Giận ghét người khác. Thế nào là keo kiệt? Sợ tài lợi của mình hết nên tham tiếc. Đó là nhiễm địa pháp của ba cõi, nếu phân biệt thì: Sân, hận, keo kiệt, ganh ghét, huyễn thuộc về Dục giới. Dua nịnh thuộc Dục giới và Phạm thiên. Kiêu mạn, đại mạn ba cõi đều có. Các Thiên tử! Đó là mười đại địa pháp bất thiện. Còn có mười đại địa pháp thiện: Không tham, không si, hổ, thẹn, tín, điều phục, không phóng dật, tinh tấn, xa lìa, không tổn não. Mười pháp này có hình tướng khác nhau. Không tham là nguồn gốc của pháp lành, ví như cột nhà. Căn lành không si cũng vậy. Hổ là tự giữ mình ngay thật. Thẹn là xấu hổ với người. Tín là tâm ý thanh tịnh đối với các pháp. Điều phục là hoàn toàn điều phục thân tâm nhu thuận, bỏ pháp ác, sống theo pháp lành. Không phóng dật là siêng tu các pháp lành. Xả là tâm ý xả bỏ những nhân duyên về việc làm, không làm. Không tổn não là không hại chúng sinh. Nếu ai luôn nghĩ về mười pháp này thì khi chết sẽ không lo sợ, chẳng sợ sứ giả Diêm-la trói buộc. Vì sao? Vì tu thì được pháp lành hộ trì. Đã nói chung về tự tướng các pháp tâm, tâm sở, pháp đại địa thiện, pháp đại địa nhiễm, đó là mười pháp.

Lại nữa, này các Thiên tử! Thế nào là tu mười một pháp? Tỳkheo quan sát thân mình, tự biết thân nên không tham ái, không mê mờ, tâm không tham đắm, đó là bước tu thứ nhất.

Lại nữa, này các Thiên tử! Tỳ-kheo không chê bai, không tham đắm, nghĩ nhớ những dục mà mình đã thọ hưởng thì chán ngán, đó là bước tu thứ hai.

Lại nữa, này các Thiên tử! Tỳ-kheo không phóng dật, không tham đắm cảnh giới, chấm dứt các kết sử, đó là tu hạnh không phóng dật thứ ba.

Lại nữa, này các Thiên tử! Tỳ-kheo nghĩ nhớ, thực hành pháp thiện. Các pháp thiện đó sinh ra quả vui từ nhân vui, duyên vui đưa đến quả vui ta nên thọ hưởng, đoạn trừ pháp bất thiện, đó là bước tu thứ tư.

Lại nữa, này các Thiên tử! Tu hành lực gì, duyên gì, nhân gì mà có được lạc thọ? Lạc thọ đã sinh không bị ngăn ngại. Quan sát đúng về thọ thì nó không chắc thật, là trống rỗng, không sở hữu, đó là bước tu thứ năm.

Lại nữa, này các Thiên tử! Tỳ-kheo tu hành các hạnh. Các hành vô thường, khổ, không, vô ngã, vô sở hữu, do nhiều nhân duyên sinh, không phải do một sức lực sinh. Tu tập như thế nên tâm không yêu thích, đó là bước tu thứ sáu.

Lại nữa, này các Thiên tử! Tỳ-kheo nghĩ rằng: Ta có niệm thiện, niệm thiện này sinh thì niệm khác mất. Những niệm bất thiện sinh diệt đã phá trừ ngăn ngại pháp thiện của ta. Niệm như vậy là bước tu thứ bảy.

Lại nữa, này các Thiên tử! Tỳ-kheo tu tướng pháp hành thứ tám, tướng bình đẳng, trụ về pháp tự tướng, không điên đảo, bản tánh của các pháp không nhơ. Tỳ-kheo lại quan sát: Ta đã sinh thì phải chết. Các pháp hữu vi đều có ba tướng. Tu tập như vậy hiểu các pháp đều vô thường, đó là bước tu thứ tám.

Lại nữa, này các Thiên tử! Bước tu thứ chín là gì? Có ba cách đối trị căn bản phiền não tham, sân, si. Đối với người tham dục, giáo hóa họ tu quán bất tịnh. Đối với người sân hận giáo hóa họ tu quán Từ bi. Đối với người ngu si, giáo hóa họ tu quán nhân duyên. Đó là cách đối trị, tâm phải suy nghĩ tu tập như vậy.

Lại nữa, này các Thiên tử! Bước tu thứ mười là gì? Niệm công đức của Phật đã đem lại an lạc cho thế gian nên tự tu tập tạo lợi ích bản thân.

Lại nữa, này các Thiên tử! Bước tu thứ mười một là gì? Tuần tự học hỏi pháp vô thường, luôn thay đổi, từ lúc vào thai sinh diệt không ngừng, đến lúc là đứa trẻ, thanh niên, người già. Tỳ-kheo tu tập như thế thì lúc chết không sợ sứ giả Diêm-la nắm bắt, không thấy những tướng xấu đáng sợ.

Lại nữa, này các Thiên tử! Mười ba pháp buộc niệm tu thiện, lợi ích an lạc đạt được Niết-bàn là gì? Niệm bất phóng dật, sinh, trụ, diệt, không tán loạn. Nghĩ như thế thì khi thấy sắc đẹp xấu, thấy người nữ thì quán bên trong thân là nơi chứa bất tịnh máu mủ, đại tiểu tiện, niệm như vậy thì tâm không tán loạn. Khi vào thành ấp, xóm làng khất thực, cảnh giới màu sắc, những nơi không nên đến. Nếu không buộc niệm thì tham sắc dục, vì thế phải buộc tâm, không tán loạn. Đó là bước buộc tâm thứ nhất.

Bước buộc tâm thứ hai: Tư duy quan sát cảnh giới bên ngoài, vườn rừng đáng yêu, ao sen, dòng sông những nơi vui chơi đẹp. Đã thấy, nên nghĩ rằng: Vì tâm ngu si nên tham đắm những nơi vui chơi đáng yêu này. Nó sẽ hư hoại, lá cây héo vàng, không xanh tươi, rơi rụng, dáng như khô chết, ít bóng mát. Các pháp hữu vi đều vô thường, trống rỗng, không có sở hữu, có pháp nào đáng yêu. Như vậy là buộc tâm ý. Buộc niệm rồi tâm không tham đắm cảnh giới trong ngoài, ma không nhiễu loạn được.

Bước buộc tâm thứ ba: Lợi ích an lạc, buộc niệm như thế nào? Duyên về những pháp gì? Khi ăn ngủ mà thấy sắc đẹp tâm không phân biệt, tâm không lệ thuộc niệm, nghĩ như vầy: Kẻ phàm phu ngu si các căn tham đắm, không biết chán.

Bước buộc tâm thứ tư: Bất cứ ở nơi nào nếu được vật cúng dường như y phục, giường nệm, đồ nằm, thuốc men thì không thích thú. Vì sao? Vì vật cúng dường như dao bén cắt đến da thịt, gân, cốt, tủy. Cũng vậy do lợi dưỡng mà hủy hoại pháp lành.

Bước buộc tâm thứ năm: Nếu vào thành ấp, xóm làng thì không được ở lại. Nếu có người đến chỗ ở thì không nên nói nhiều, không thích nói nhiều. Vì sao? Vì đi vào thành ấp, xóm làng thì tâm tán loạn không lợi mình. Quan sát như thật về sự buộc tâm như thế.

Bước buộc tâm thứ sáu: Thấy người đi qua tàng cây, nghĩa địa, bụi rậm, khe núi hoặc dừng ở nhà trống thì không nên tham đắm, gần gũi họ. Có như vậy thì pháp lành tăng trưởng, được lợi ích xa lánh mọi người.

Bước buộc tâm thứ bảy: Khi nghe nói về quả báo cõi trời tâm không thích, còn nhàm chán, thích nghe về quả báo khổ đau của địa ngục. Tỳ-kheo này nghe cõi trời không vui, nghe khổ của địa ngục không sợ, luôn suy nghĩ: Cõi trời bị thoái đọa, bị sứ giả Diêm-la bắt đi. Ta không nên gây nghiệp địa ngục nữa, không tùy hỷ, thấy ai làm khuyên họ bỏ đi, không buồn vui, luôn nhớ pháp lành.

Bước buộc tâm thứ tám: Pháp sinh niệm thiện, bỏ pháp bất thiện, bỏ những niệm khác, phát sinh pháp lành, niệm pháp lành, biết niệm bất thiện làm tổn hại niệm thiện. Ta đã đoạn trừ niệm bất thiện không duyên dựa. Suy nghĩ tuần tự như vậy, buộc niệm điều phục tâm, người này có khả năng làm cho những tâm oán giận: tới lui, lên xuống, hung dữ xoay chuyển đều trụ vào một cảnh giới.

Bước buộc tâm thứ chín: Niệm công đức Phật, niệm Pháp cao thượng, niệm Tăng chánh tín, học theo bậc Minh sư, tu hành chân chánh đầy đủ, tạo lợi ích cho chúng sinh, luôn nghĩ đến sự độ thoát, buộc niệm như vật đạt quả chân thật, cho đến quả Niết-bàn.

Bước buộc tâm thứ mười: Tu tập chân chánh nếu gặp phải bốn thứ sợ hãi: Già, yếu, bệnh, chết, hoặc sợ về giặc chết thì không thích nghĩ nhớ, thấy bốn pháp có lưu chuyển vô thường thì cuộc sống an ổn trẻ khỏe sung sức. Nếu lo sợ thì tu tập về vô thường tưởng, không ham năm dục, không bị tâm yêu ghét sai khiến, luôn sống chánh niệm, phá được núi lớn phiền não.

Bước buộc tâm thứ mười một: Không phân biệt người siêng năng kẻ biếng nhác, nếu phân biệt thì tự thương tổn. Không làm buồn người khác, tâm ý thanh tịnh, buộc tâm điều phục, không tổn hại chúng sinh.

Bước buộc tâm thứ mười hai: Luôn nghe chánh pháp, nghe rồi tu tập mãi không quên, biết được pháp thiện, bất thiện. Người này như đèn sáng lớn giữa bóng tối. Hiểu rõ pháp thiện bất thiện trong Phật pháp. Buộc tâm niệm như vậy thì không bị tâm yêu ghét ma chướng sai khiến.

Bước buộc tâm thứ mười ba: Niệm về sự cảm thọ của thân tâm, biết được tự tướng, chánh tâm buộc niệm, không sống phóng dật. Không sống phóng dật thì không bị sứ giả Diêm-la tự do bắt đi. Vì đủ năng lực nên không mất chánh niệm, làm việc đúng thời, không đến những chỗ xấu ác, sai quấy, luôn buộc tâm.

Lại nữa, các Thiên tử! Có mười bốn pháp để khéo tu tập tâm ý, điều phục tâm ý thanh tịnh, trừ bỏ phóng dật. Mười bốn pháp đó là:

  1. Biết đủ.
  2. Siêng năng.
  3. Tịch tĩnh.
  4. Gần gũi thầy giỏi.
  5. Xa lánh bạn ác.
  6. Tu tập pháp Phật.
  7. Khéo quán xét tu tập.
  8. Bỏ kiêu mạn.
  9. Tin nhân quả pháp và phi pháp.
  10. Nghĩ về điều mong muốn tốt.
  11. Không ngắm nữ sắc.
  12. Không gần gũi bà con.
  13. Bất cứ nơi nào luôn sống chân chánh.
  14. Lo sợ sinh tử.

Đó là mười bốn pháp khéo tu tập tâm, nhờ đó mà điều phục được tâm, khi chết không sợ đường ác, lính ngục Diêm-la, không mở cửa đường ác, không đoạn chánh pháp, không bị sứ giả Diêm-la mặc sức trói buộc dắt đi, không tạo nghiệp ác. Người có đầy đủ pháp lành là người khéo buộc tâm, tu tập nghiệp lành, đưa chúng sinh đến cõi trời, người, mở cửa Niết-bàn, sau đạt được Niết-bàn. Vì thế các Thiên tử! Các ông hãy khéo điều phục tâm. Khi tâm đã điều phục thì ngay cả sứ giả Diêm-la còn không thấy huống gì bị bắt đi.

Khi ấy, Đế Thích nói về sự lo sợ của đường ác và sứ giả Diêmla cho các Thiên chúng. Ta đã nói cho các ông về mười bốn pháp, giờ ta sẽ nói về mười lăm pháp. Như những gì xưa kia ta đã nghe Phật nói, giờ đây ta sẽ nói.

Mười lăm pháp đó là gì? Người xuất gia làm Sa-môn mà hủy phá giới luật, dạy người khác hủy phá, thân mặc ca-sa làm cho người tham đắm ca-sa, yêu thích trang sức bằng ca-sa, tiếng nói thô ác như tiếng lừa, đi đứng thong thả, uy nghi yểu điệu vì tâm ái dục nên lo trang sức thân mình, không tinh tấn, thích ngắm người nữ, tự kiêu tự đại, tâm ý thô tháo, buông tâm phóng dật. Thế nên phải biết y phục mà mình mặc chỉ để ngăn lạnh nóng, để che thân, không nên tham đắm, không bị tham ái phóng dật dối gạt, khi chết không sinh tâm hối hận. Đó là pháp thứ nhất.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ hai mà Sa-môn nên biết là gì? Phải biết đủ, biết người xuất gia tu hành những giới gì, hoặc tu về trí tuệ. Đã tự biết mình thì sẽ biết thọ dụng vừa đủ những thứ thuốc men, đồ nằm mà tín thí cúng dường, nhận đúng khả năng, đúng pháp, thọ dụng như vậy sẽ không ngăn ngại pháp Sa-môn.

Này các Thiên tử! Pháp thứ ba mà các Sa-môn nên biết là gì? Không tham đắm đồ nằm, nếu vì y phục, cơm áo mà bỏ nơi thanh tịnh đi về thành ấp, xóm làng, những nơi không có công đức thì trở ngại sự tu tập pháp lành, mất tâm tri túc. Tri túc và không phóng dật là pháp thù thắng nhất trong các pháp của Sa-môn. Người tham đắm, không biết đủ thì bị tham tâm dối gạt, gây hại pháp lành, kẻ ấy chẳng khác nào chó dại tự ăn những đồ mình mửa ra.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ tư mà Sa-môn nên biết là gì? Không nên nói đọc nhiều kinh điển vì sợ thí chủ cúng dường nhiều y phục, cơm áo, đồ nằm, thuốc men, sợ khó tiêu hóa, gây hại pháp xuất gia, không phải việc mình làm, tự biết đủ. Còn có pháp biết đủ nữa. Tỳ-kheo ít muốn biết đủ, không phóng dật trong những trường hợp nào? Sa-môn hoặc được tăng sai, hoặc vì người bệnh mà đến nhà thí chủ xin tài vật. Khi đến nhà thí chủ mà uống một ít nước là trở ngại pháp lành, luống nhọc việc làm, giả dối khổ nhọc không có phước đức. Vì sao? Vì tham mùi vị đến nhà thí chủ làm cho họ xem thường. Tỳ-kheo này không tạo lợi ích cho mình, người bệnh và chúng Tăng. Đó là nguyên nhân khinh mạn thứ nhất. Nghĩa là đến nhà Đàn-việt tham cầu thức ăn, thô tháo, nói năng không đúng. Ba pháp này là điều khinh rẻ của thế gian và xuất thế gian. Cho nên phải biết đủ. Không sống phóng dật để trừ bỏ pháp này.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ năm mà Sa-môn nên biết là gì? Vì ít muốn, biết đủ, sống bằng khất thực, thọ trì pháp xuất gia, chỉ nhận một bữa, không ăn đêm. Nếu ăn đêm thì sinh tâm tham đắm, không thích ngồi thiền tụng kinh. Tham thức ăn là sợ sau này không có được. Như vậy chỉ tham một chút đã trở ngại pháp lành của Sa-môn, huống gì Tỳ-kheo tham của cúng dường nhiều! Nếu làm như vậy sẽ bị lưới ái trói buộc.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ sáu mà Sa-môn nên biết là gì? Sa-môn thuộc dòng quý tộc xuất gia ít muốn biết đủ, đã xuất gia thì không được nói: “Ta là người thuộc dòng quý tộc xuất gia”. Không nói cho đệ tử xuất gia, hay thọ pháp nghe, vì sợ thí chủ cúng dường nhiều y phục, cơm áo, thuốc men. Nếu nhận thì ngăn ngại pháp lành, còn không nhận thì tổn thương tấm lòng của đệ tử, làm cho họ giận và trở ngại pháp lành của họ, không lợi ích cho đời sau. Người này thọ dụng vừa đủ, không tham ái, tâm không tán loạn, chánh niệm đối với chánh pháp, thích ở trong rừng tu học thiền quán. Tuần tự quan sát thân, tâm, thọ, pháp. Tỳ-kheo này sẽ vượt địa ngục hữu vi là vì sống ít ham muốn biết đủ.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ bảy mà Sa-môn nên biết là gì? Ít muốn, biết đủ, lo sợ lợi phẩm lớn, bỏ lợi dưỡng, biết những pháp gì? Tỳ-kheo nào có nhiều bạn, thích nhiều việc, nhiều đệ tử, nhiều vật cúng dường, thích được mời dự tiệc, thường gặp người thân. Những người tu hành không nên gần gũi đi chung với Tỳ-kheo này. Vì sao không được đi chung? Vì sợ phóng dật, Tỳ-kheo thích vật dụng này ai cũng biết vì họ cùng ở chung đi chung. Người này còn được gọi là kẻ tham lam không chán, đó là vì vật cúng dường. Người nào kính trọng kẻ này, cả hai đều bị chướng ngại. Nếu Tỳ-kheo nhiều chuyện ham lợi dưỡng của người khác thì người tu hạnh này không nhận tài vật ấy, làm cho Tỳ-kheo nhiều chuyện sân giận cho rằng Tỳ-kheo này dối trá không thật, gạt cả thí chủ ở xóm làng, Tỳkheo này trong lòng nhơ uế tham lam. Vì vậy làm cho những người thấy được tự thương tổn. Thế nên Tỳ-kheo ít muốn biết đủ không nên ở chung đi chung với Tỳ-kheo nhiều chuyện vì như thế sẽ sinh ra tội lỗi.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ tám mà Sa-môn nên biết là gì? Thấy Tỳ-kheo ít muốn, lo sợ sinh tử, xa lánh lợi dưỡng, luôn buộc tâm. Thế nào là biết pháp? Những nghề nghiệp đã làm lúc ở nhà thì khi xuất gia không được nói, tức là không nói về những kỹ thuật như nghề thuốc, thợ, kiếm. Vì sao? Vì sợ thí chủ biết mình có tài mà đến cúng dường làm trở ngại pháp Sa-môn, hoặc thích học tập những kỹ thuật thế tục đó mà hủy hoại pháp lành, giảm đi việc tự lợi, lợi tha, không lợi ích, điều phục đệ tử nên không được nói về những kỹ thuật.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ chín mà Sa-môn nên biết là gì? Tỳ-kheo ít muốn là người trí tuệ tránh xa lợi dưỡng. Nhìn thấy trong chùa, tháp, trong thành ấp xóm làng hoặc gần xóm làng, trong khuôn viên của xóm làng, gần khuôn viên xóm làng có chùa, trong chùa có nhiều Tỳ-kheo phá giới, tham nhiều không chán, chứa nhiều thức ăn uống, ăn đồ bất tịnh, uống rượu, phóng dật. Vì nuôi sống mà buôn bán những vật bất tịnh, bán ra mua vào, gần kẻ thế tục, xem họ là bạn, không thích ở chùa, thích ở nhà thí chủ. Tỳ-kheo ít muốn này không nên ở chung với Tỳ-kheo tham dục. Những ai muốn tịch tĩnh tâm ý, cắt đứt ràng buộc của ma chướng thì không nên ở những nơi như vậy. Vì sao? Vì sợ những người trong thành ấp, xóm làng biết những Tỳ-kheo đó phá giới làm ác, xem mình là người giữ giới nhất nên cúng dường nhiều vật dụng. Nếu nhận những vật đó thì không còn là người biết đủ, nếu không nhận thì người ta giận tức, bất mãn. Vì sao? Vì đem vật cúng cho một người, không cúng cho nhiều người. Biết tội lỗi ấy rồi, Tỳ-kheo ít muốn không được ở chung với Tỳ-kheo bất tịnh.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ mười mà Sa-môn nên biết là gì? Tỳ-kheo ít muốn đạt được thần thông của thế tục, có thể biến hiện ra những tướng lạ nhưng không được rao nói. Vì sao? Vì sợ người cho rằng mình là A-la-hán mà cúng dường nhiều vật dụng làm trở ngại pháp Sa-môn, hoặc làm mất thần thông hại pháp ít muốn.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ mười một mà Sa-môn nên biết là gì? Tỳ-kheo mang xá-lợi Phật đi từ thành ấp, xóm làng này đến thành ấp, xóm làng kia, dùng thần lực chân thật biến hiện cho mọi người thấy xá-lợi này là ruộng phước lớn, hãy tổ chức cúng dường. Tỳ-kheo ít hiểu biết khen ngợi Tỳ-kheo ít muốn là người học rộng hiểu nhiều, có thể diễn nói chánh pháp cho mọi người. Nghe thế thí chủ kính trọng xá-lợi và Tỳ-kheo học rộng, cúng dường nhiều vật dụng. Nếu nhận sẽ không là pháp ít muốn. Tỳ-kheo ít muốn không được đi chung với Tỳ-kheo du hành này. Vì sao? Vì thí chủ thấy Tỳkheo này không giữ giới cấm, cho rằng người ít muốn cũng phá giới cấm, vì vậy không nên đi, đứng, ngồi, nằm chung với kẻ phá giới là sợ lính ngục, sứ giả Diêm-la trói buộc và sợ phóng dật.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ mười hai mà Sa-môn nên biết là gì? Thọ trì pháp khất thực, tu hạnh đầu đà, đến những nơi không quen biết để khất thực thì không sống phóng dật, không tham đắm vị ngon.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ mười ba mà Sa-môn nên biết là gì? Tỳ-kheo biết đủ mặc y phấn tảo, nhận y đủ dùng, bảo quản y cũ rách, biết đủ khi dùng tài vật.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ mười bốn mà Sa-môn nên biết là gì? Tỳ-kheo biết đủ phá dẹp các loại ma chướng.

Lại nữa, các Thiên tử! Pháp thứ mười năm mà Sa-môn nên biết là gì? Tỳ-kheo ít muốn đi lại một mình không bạn bè, tránh xa bạn ác, xô phá ngọn núi phiền não kiên cố từ vô thỉ. Vị này đạt được niềm vui lớn. Khi chết không bị sứ giả Diêm-la trói buộc, không thấy những tướng xấu đáng sợ, tâm không lo sợ.

Bấy giờ Thiên chủ Thích-ca nói kệ:

Người xuất gia phải hành
Pháp ít muốn biết đủ
Người giữ giới như vậy
Sẽ gần đạo Niết-bàn.
Làm việc không mong cầu
Chỉ cầu đạo Niết-bàn
Không bị ma trói buộc
Không đến cảnh giới ma.
Người nào luôn tu tập
Không sinh tâm mong cầu
Siêng năng mà tu tập
Thì không có khổ đau.
Nghĩ vậy hãy lo sợ
Suy xét ngay hiện tại
Thì biết được vị lai
Sẽ thoát dây phiền não.
Luôn thích không phóng dật
Sợ những pháp bất tín
Tu trí tuệ thanh tịnh
Sẽ gần đạo Niết-bàn.
Chư Thiên hưởng diệu lạc
Vẫn còng sống phóng dật
Huống chi kẻ ngu si
Bị phóng dật sai khiến.
Người nào sống phóng dật
Chính là kẻ đã chết
Ai không sống phóng dật
Là người có trí tuệ.
Siêng năng sẽ trừ được
Tâm phóng dật biếng nhác
Phóng dật gốc khổ đau
Xa như tránh thần chết.

Vì các Thiên tử, Thiên vương Thích-ca hóa hiện sứ giả Diêm-la khủng bố chư Thiên và đã thuyết pháp cho họ. Biết các Thiên tử đã tin hiểu, yêu thích chánh pháp, thấy sứ giả Diêm-la mà dần dần từ bỏ dục vọng. Thấy rồi, họ đến chỗ Thiên vương Thích-ca, cả những Thiên chúng lo sợ trốn trong vườn cây cùng đi đến chỗ Đế Thích. Biết tâm chư Thiên dần dần thanh tịnh, Đế Thích dần dần thâu biến hóa lại.

Nghe Đế Thích nói pháp giải thoát, chư Thiên kính trọng chắp tay thưa:

–Thưa Thiên vương! Chúng tôi đã thấy được uy lực của giáo pháp, Thiên vương đã tùy tâm niệm của chúng tôi mà nói pháp để được tín tâm thanh tịnh, sứ giả Diêm-la cũng dần mất đi. Nhờ nghe pháp lực của Như Lai đã thuyết mà chúng diệt mất huống gì thực hành pháp đó. Nếu ai tu hành thì đến được nơi bất thoái.

Vui mừng, Đế Thích nói:

–Giờ đây những việc cần làm ta đã làm, ta đã đoạn trừ tâm phóng dật của chư Thiên để họ không sống phóng dật và được vui vẻ. Hôm nay ta sẽ nói pháp sâu xa mầu nhiệm cho chư Thiên nghe. Như những pháp giải thoát, pháp cốt yếu, pháp đếm hơi thở mà ta đã từng nghe ở các chư Thiên và Phật, ta sẽ nói cho chư Thiên. Giờ đây ta nói về bốn Thánh đế. Trong mỗi đế có bốn thứ khác nhau. Ta sẽ nói ra để đem lại lợi ích cho chư Thiên, bản thân và lợi ích cho chư Thiên khác. Ta sẽ dùng các phương tiện giảng thuyết để tâm chúng sinh được thuần thục. Ta đã nói về mười lăm pháp, bây giờ ta sẽ nói tiếp về mười sáu pháp thở vào ra, phân biệt bốn Thánh đế, tướng phương tiện của nhau. Thế nào là tuần tự giảng thuyết? Người tu hành quan sát tự thân, cột con khỉ tâm.

Này các Thiên tử! Thế nào là cột con khỉ tâm giác quán? Cột những tâm gì? Tức là cột thức được nhất tâm, tuần tự quan sát tướng của thân, quán toàn thân, quán về nhiễm, bất nhiễm, vô ký. Quán từng thọ, quán các thọ khổ lạc, xả, quán về tự tướng của thọ, tuần tự quán, quán toàn pháp thiện, bất thiện, vô ký, quán như quán tự tướng. Đó là bốn Niệm xứ. Người tu hành đi sâu vào pháp này, nhất tâm quan sát tất cả pháp hữu vi, tự tướng vắng lặng. Quan sát bốn Niệm xứ là tướng của bốn Thánh đế. Pháp này có mặt khắp mọi nơi, là những hành tướng thứ tự thường, vô thường, hòa hợp, tan rã, trống rỗng, không có người làm ra, hoàn toàn vô ngã bị hủy hoại. Quán về khổ, vô thường cũng như vậy. Thấy rõ về bốn Niệm xứ, quan sát tự tướng của bốn Thánh đế. Quan sát như thật thì sinh ra noãn pháp. Noãn pháp sinh ra trí tuệ. Ví như dùi lửa, trước thấy tướng khói sau mới thấy lửa. Như dùi lấy lửa trước phát ra khí nóng sau mới có lửa. Cũng thế, vì tin thức, ở trong tất cả các pháp phiền não vô tri mà được thánh pháp, luật. Dùng mười sáu cách quan sát bốn đế, noãn pháp đó do đâu sinh ra? Làm sao quan sát bốn Thánh đế?

Các Thiên tử! Đây là Khổ thánh đế. Do nhân duyên mà có nên vô thường, hư hoại nên có khổ, phải xa lìa nên trống rỗng, không tự tại nên vô ngã. Phân biệt bốn thứ như vậy là quan sát về Khổ thánh đế. Quan sát Khổ thánh đế xong, hành giả quan sát về Tập thánh đế, cũng có bốn thứ khác nhau. Thế nào là khác nhau? Tức là hành chuyển tương tục, tập thành tương tợ quả lưu chuyển các hữu, do các nhân nơi những tánh lưu chuyển hữu, thế lực khác nhau tương tục duyên hữu. Hành giả lại quan sát Khổ diệt thánh đế, cũng có bốn thứ khác nhau. Các Thiên tử! Hành giả phân biệt tu hành Khổ diệt thánh đế như thế nào? Xả bỏ tất cả phiền não, dập tắt lửa phiền não được pháp tịch diệt vi diệu, pháp thanh tịnh, ra khỏi sinh tử. Hành giả lại quan sát về Đạo thánh đế. Các Thiên tử! Hành giả phải phân biệt quan sát như thế nào? Đạt được chỗ bất thoái, đường không điên đảo là pháp tất cả bậc Thánh thực hành, dùng vô ngại đoạn trừ sinh tử suy não, ra khỏi thế gian. Đó là mười sáu pháp tu hành. Ta đã nói xong, các ông hãy siêng năng tu tập, hiện quán noãn pháp chỉ dạy lẫn nhau. Từ hơi thở ra vào mà có hơi ấm, từ noãn pháp sinh ra đảnh pháp. Vì tin niệm công đức của Tam bảo, sự tích tụ cùng vượt hơn phần quan sát trước. Như vậy hành giả phải quan sát như thế nào? Đảnh giống như đỉnh núi. Nhờ tăng trưởng đảnh pháp mà dần được căn lành pháp nhẫn. Do đạt nhẫn mà trụ ở vị trí thứ ba. Gọi là sinh hiện tiền không phải là hiện pháp nhẫn. Đắc pháp nhẫn hiện tại mới gọi là pháp nhẫn. Nhờ tăng trưởng nhẫn mà gọi là Thế đệ nhất. Trong một niệm có đủ tâm, tâm sở pháp, gọi là Thế đệ nhất, tuần tự được quả Tu-đà-hoàn. Ta đã chứng được pháp này. Ai chứng được pháp này sẽ không thấy sứ giả đáng sợ của Diêm-la, không còn lo sợ.

Các Thiên tử! Vì không phóng dật nên đạt được pháp ấy. Vì thế các ông không nên phóng dật.

Bấy giờ Thiên vương Thích-ca nói kệ:

Ngay hơi thở ra vào
Biết mười sáu hành tướng
Quán thuận nghịch pháp nhẫn
Pháp noãn và tướng đảnh.
Biết được Thế đệ nhất
Tuần tự biết chân đế
Biết thứ tự các pháp
Không làm mất đạo lành.
Giải thoát khỏi ba kết
Phá trừ tám loại hữu
Mạnh mẽ lấp đường ác
Đó là Tu-đà-hoàn.
Pháp hữu lậu, bất thiện
Nhất định đọa đường ác
Người hướng đến Niết-bàn
Là bậc Tu-đà-hoàn.

Nói kệ xong, Đế Thích bảo Thiên chúng: Ta đã nói về mười sáu pháp niệm hơi thở, các ông hãy suy nghĩ: Đạo vắng lặng đi vào thành Niết-bàn, không lo sợ, là điều mà các bậc Thánh thích nghĩ đến. Vì vậy các ông hãy tu tập đạo này. Nếu các ông sợ sứ giả Diêm-la thì nên tuần tự niệm mười sáu cách quán về hơi thở.

Lại nữa, các Thiên tử! Có mười bảy pháp trung ấm. Các ông hãy buộc niệm thực hành đạo tịch diệt. Nếu chư Thiên, loài người nghĩ về đạo này thì khi chết không sợ sứ giả Diêm-la gây hại. Những gì là mười bảy pháp trung ấm? Đó là khi chết thấy sắc tướng. Nếu chết ở cõi người sinh lên cõi trời thì thấy tướng vui. Thấy thân trung ấm như lông trắng mịn rủ xuống như sắp rơi. Thấy vậy vui vẻ sắc mặt tươi tắn. Khi chết lại thấy vườn rừng, sông suối đáng yêu, nghe được tiếng ca múa nô đùa, ngửi được các mùi thơm, tiếp xúc mọi vật đáng yêu. Cứ như vậy dần dần sinh lên cõi trời. Do nghiệp lành được diệu lạc cõi trời. Được diệu lạc rồi mỉm cười vui vẻ, sắc mặt tươi đẹp. Khi ấy bà con anh em kêu khóc thảm thiết, nhưng vì tướng lành nên không hay biết tâm không nghĩ đến họ. Vì nghiệp thiện khi chết thân trung ấm được an lạc lớn, vừa sinh nơi an lạc là giống như chư Thiên. Tướng ấy giống như nơi sinh ra, như dấu ấn, như đi thưởng ngoạn cảnh giới, tiếp xúc màu sắc. Thân trung ấm thấy nơi chư Thiên sống xinh đẹp nên sinh tâm nắm giữ, tham ái cảnh giới nên thọ thân trời. Đó là tướng trung ấm thứ nhất.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ hai là gì? Người cõi Diêm-phù-đề chết, sinh lên cõi Uất-đan-việt thì thấy sắc lông đỏ đáng yêu, thấy những sự ưa thích thì sinh tâm tham, đưa tay nắm lấy như nắm lấy hư không, bà con cho rằng hai tay sờ vào hư không. Lại có gió thổi, nếu người này đang bệnh vào mùa đông thì có gió ấm thổi đến, nếu vào mùa nóng thì có gió mát thổi đến để trừ nóng nực, tâm được vui vẻ. Vì tâm mà không nghe những tiếng khóc la. Nếu nghiệp động thì tâm động, gió nghiệp thổi sinh vào nơi khác. Vì vậy khi chết mà bà con khóc la là gây chướng ngại lớn. Nếu không bị trở ngại thì sinh về cõi Uất-đan-việt. Trong khi đó có những tướng lành xuất hiện, thấy ao sen có đầy chim thiên nga, vịt trời, uyên ương, người này vội chạy đến. Do phát tâm lành ngay lúc đó nên khi chết thấy ao sen xanh, vào đó vui chơi. Ở cõi Uất-đan-việt người ấy muốn vào thai mẹ thì từ hoa sen sinh ra, đi trên mặt đất, thấy cha mẹ giao hợp là do bất tịnh tà kiến, thấy thân cha là chim trống, mẹ là chim mái. Nếu là con trai thọ sinh thì tự thấy mình là chim trống, nếu là con gái thọ sinh thì thấy mình là chim mái. Con trai thì không thích cha, yêu thương mẹ nên sinh ở cõi Uất-đan-việt.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ ba là gì? Người chết ở cõi Diêm-phù-đề nếu được sinh lên cõi Cù-đà-ni thì có tướng hiện ra. Khi sắp chết thấy nhà cửa đều bằng vàng che rợp như mây. Thấy trong hư không có tướng lông vàng liền đưa tay nắm bắt. Bà con anh em cho rằng hai tay người bệnh vỗ vào hư không. Lúc hơi thở sắp dứt, người này thấy thân như con trâu, thấy bầy trâu như trong giấc mộng. Nếu là con trai thọ sinh thì thấy cha mẹ giao hợp, thấy người có nhiều nhà cửa, thấy cha như trâu đực, không cho cha giao hợp với mẹ, người con trai sinh ở cõi Cù-đà-ni có những tướng như vậy. Người con gái sinh ở cõi này thì thấy thân như trâu cái tự nghĩ vì sao trâu đực giao hợp với trâu cái kia mà không giao hợp với mình. Nghĩ như vậy mà thọ thân nữ. Đó là người nữ sinh ở cõi Cù-đà-ni.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ bốn là gì? Người chết ở cõi Diêm-phù-đề nếu được sinh lên cõi Phất-bà-đề thì có những tướng hiện ra. Thấy tướng lông xanh, tất cả đều xanh, thấy nhà cửa như hư không. Vì sợ tướng lông rơi xuống mà lấy tay ngăn lại, bà con anh em cho rằng ngăn hư không. Sau khi chết sinh lên cõi Phấtbà-đề, với thân trung ấm như hình con ngựa. Thấy người cha như ngựa đực, người mẹ như ngựa cái, cha mẹ giao hợp, nếu là con trai thọ sinh thì nghĩ mình sẽ giao hợp với ngựa cái. Nếu là con gái thọ sinh thì nghĩ mình như ngựa cái, vì sao ngựa đực không giao hợp với mình. Nghĩ vậy nên thọ thân người nữ.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ năm là gì? Người chết ở cõi Uất-đan-việt thấy tướng đi lên. Các Thiên tử! Nếu có tâm rộng lớn, có đại nghiệp thì ý nghiệp tự tại, sinh lên cõi trời. Lúc sắp chết đưa tay vỗ vào hư không như trong giấc mộng. Thấy các loại hoa đẹp nên rất vui mừng, lại ngửi được hương thơm vi diệu, đủ các sắc đẹp xanh, vàng, đỏ, trắng thơm dịu trên tay. Thấy hoa người này sinh tâm tham, nghĩ rằng: Mình đã thấy cây này, hãy leo lên. Nghĩ thế khi chết, trong thân trung ấm thấy cây sen xanh, vàng, đỏ, trắng đủ các loại. Tự nghĩ ta leo lên cây. Liền leo lên cây nhưng lại là leo lên núi Tu-di báu. Ở đó thấy các loại hoa trái xinh đẹp của cõi trời. Nghĩ ta sẽ thưởng ngoạn ở nơi này, ta sẽ đến vườn hoa trái này. Đó là người ở Uất-đan-việt thọ sinh cõi bậc hạ.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ sáu là gì? Người ở Uất-đan-việt có nghiệp bậc trung lúc chết, nếu được sinh lên cõi trời thì thấy các tướng hiện ra, lúc sắp chết thấy ao sen rất đẹp đủ các loại ong, hoa thơm, leo lên hoa sen, vụt chốc bay lên hư không ví như trong giấc mộng thấy sinh ở cõi trời, thấy hoa sen đẹp nhất, tự nghĩ ta sẽ đến ao sen đẹp đó để hái hoa. Đó là người ở Uất-đan-việt thọ sinh cõi bậc trung.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ bảy là gì? Người ở Uất-đan-việt nhờ nghiệp thù thắng được sinh lên cõi trời Tam thập tam. Sinh trong ba mươi ba trụ xứ như Thiện pháp đường… Lúc sắp chết ở Uất-đan-việt, thấy cung điện nguy nga xinh đẹp, người này liền lên điện đẹp. Kỳ thật không phải lên điện mà là lên hư không. Đến cõi trời thấy cung điện đó, tùy tâm niệm liền sinh ở đấy làm Thiên tử. Đó là người ở Uất-đan-việt sau khi chết sinh lên cõi trời bậc thượng.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ tám là gì? Người chết ở cõi Uất-đan-việt thấy những tướng hiện ra. Này các Thiên tử! Người ấy thấy nơi vui chơi, cây cối thẳng tắp, mùi thơm thật dễ chịu, ngửi được thì vui vẻ không sầu khổ. Vì không sầu khổ nên tâm không nhơ uế. Nhờ tâm thanh tịnh, bỏ mạng sống, thọ thân trung ấm, thấy cung điện cõi trời, tự nghĩ ta sẽ lên điện này vui chơi. Liền leo lên cung điện, thấy chư Thiên vui chơi giữa hư không, đi lại trên núi, hoặc đi chơi khắp nơi. Ngay thân trung ấm tự thấy mình lên cõi trời như trong giấc mộng. Cõi trời Tam thập tam thật đẹp, có đủ năm dục lạc. Tự nghĩ: Ta hãy đến cõi đó, liền sinh lên cõi trời. Do thủ duyên hữu nên có thượng, trung, hạ. Sau khi sinh lên cõi trời, người này thấy các vườn rừng xinh đẹp ý muốn có được. Chết ở cõi Uất-đanviệt sinh lên cõi trời là như vậy. Tất cả những người ở Uất-đan-việt sinh lên cõi trời đều sinh ý nghiệp khác thích dục lạc, tham cảnh năm dục, ca múa vui chơi, thọ hưởng dục lạc, thích dạo chơi trên núi thọ hưởng nhiều dục lạc, tham ái dục lạc. Vì sao? Vì tập khí đời trước, ái nghiệp tăng trưởng.

Các Thiên tử! Đó là tướng vui chơi và tướng chết mà những người chết ở Uất-đan-việt được sinh lên cõi trời.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ chín là gì? Người chết ở cõi Cù-đà-ni được sinh lên cõi trời do hai nghiệp: Dư nghiệp, sinh nghiệp. Người sinh lên cõi trời thọ thân trung ấm như thế nào? Lúc sắp chết có những tướng hiện ra. Hiện báo sắp chết ngay thân trung ấm có các tướng hiện ra loạn động như mộng.

Này các Thiên tử! Người cõi Cù-đà-ni lúc sắp chết hơi thở không hôi, các mạch không dứt, các căn thanh tịnh là nhờ nghiệp thiện, lúc ấy họ dần dần thấy được ao nước lớn như lưu ly, vào đó thì nước ao thích ý không lạnh, không nóng, trôi chảy từ từ đến bờ bên kia. Cứ thế, dần dần gần đến nơi thọ sinh. Đến nơi thấy các Thiên nữ xinh đẹp vô cùng đang vui chơi ca múa. Người ấy muốn gần gũi và đến trước ôm người nữ. Lập tức người ấy sinh lên cõi trời hưởng diệu lạc, thân trung ấm tích tắc tiêu diệt như giấc mộng, tâm ý tán loạn, thọ sinh mới biết, thấy sắc đẹp, thọ thân thù thắng. Người cõi Cù-đàni sinh lên cõi trời có ba bậc nghiệp thượng, trung, hạ, nhưng cùng một ánh sáng trong thân trung ấm, cùng một hiểu biết, cùng sinh hoạt, tất cả tướng đều gần giống như, không như người ở Uất-đanviệt tướng trạng của ba bậc thọ sinh khác nhau.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ mười là gì? Người sắp chết ở cõi Phất-bà-đề thấy được tướng chết, thấy tướng tự nghiệp, thấy tướng nghiệp của người khác, hoặc thấy cung điện được trang trí cờ phướn, lan can xinh đẹp. Ngay thân trung ấm tâm vui mừng dạo chơi khắp nơi. Lúc sắp thọ sinh thấy những người cùng nghiệp ở ngoài cung điện, thấy các Thiên nữ vui chơi ca múa với chồng, họ trang sức xinh đẹp, ca múa dạo chơi. Ngay thân trung ấm tự nghĩ: Ta sẽ ra khỏi cung điện để gặp người nữ và chồng của họ, cùng nhau ca múa vui chơi. Thế rồi, người ấy đi đến chỗ mọi người vui chơi. Lúc đó, người ấy biết mình đã vào đám đông như tỉnh ngủ, lập tức sinh lên cõi trời. Như vậy những ánh sáng sinh ra trong thân trung ấm ta đã biết kỹ, những người khác không biết được, các ngoại đạo cũng chẳng biết, tuy là pháp thế gian nhưng không ai thấy được.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ mười một là gì? Các loài ngạ quỷ vì nghiệp bất thiện sinh trong loài quỷ đói, khi nghiệp ác hết, thọ hưởng nghiệp thiện còn dư sót. Khi sắp sinh lên cõi trời sẽ có những tướng hiện ra. Vì sao xả thân thì tướng tâm hiện? Các Thiên tử! Chết ở loài ngạ quỷ mà sắp được sinh lên trời, trong loài ngạ quỷ bị đói khát thiêu thân, tâm ganh ghét hại thân, luôn tham ẩm thực, luôn nghĩ đến nước uống, chỉ nghĩ đến ăn uống chẳng nghĩ gì khác. Lúc chết không còn ý niệm gì, các niệm đều dứt, thân không nóng bức được mát mẻ dễ chịu, những lông dài trùng độc trên thân đều rơi hết, sắc mặt sáng sủa, gió mát thổi đến, không còn đói khát, các căn thanh tịnh. Những thú ác diều quạ thường mổ mắt cũng không còn đến gần. Thấy dòng sông thức uống tràn đầy, thọ thân trung ấm là do nghiệp từ trước. Dù thấy thức uống ăn nhưng không ăn uống, chỉ đưa mắt nhìn, như người nằm mơ thấy thức ăn mà không ăn, hoặc nằm mơ thấy ăn, tuy ăn mà không no, nhưng vẫn vui vẻ. Thấy chư Thiên xinh đẹp như lúc thức thấy sắc, người ấy tự nghĩ: Ta muốn đến nơi kia. Nghĩ thế, liền chạy đến, được sinh lên cõi trời.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ mười hai là gì? Những nghiệp lạ vì ngu si nhiều nên thọ thân súc sinh, còn những nghiệp khác thì chịu vô số trăm ngàn thân sinh tử. Vì nghiệp thành thục đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Những nghiệp đã tạo ra từ vô lượng kiếp cứ trôi lăn trong thế gian không bao giờ hết, không thể nghĩ đến được. Do tà kiến từ vô thỉ, không làm việc lợi ích, não hại chúng sinh. Trong loài súc sinh có vô số chủng loại, thức ăn, nơi sống, thân hình, chủng tử khác nhau, tạo vô số nghiệp, hoặc dạy người không tin, làm ác. Khi hết nghiệp như rơi vào biển lớn, làm cho biển khô cạn. Khi hết nghiệp súc sinh, bỏ thân sinh lên cõi trời thứ hai, hoặc sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương, hoặc sinh lên cõi trời Tam thập tam. Khi khổ báo ở đường ác súc sinh sắp hết, sắp thoát thân thì có những tướng hiện ra, duyên với vô lượng tướng không thể nói hết. Bỏ thân súc sinh mà được sinh lên trời thật là ít có, chẳng phải như ngạ quỷ, địa ngục. Vì sao? Vì tâm si, làm nhiều nghiệp ác nên đọa làm súc sinh. Một đời thọ ác, trăm ngàn ức kiếp thọ thân súc sinh vẫn chưa hết, hoặc một kiếp, trăm ngàn kiếp luân chuyển sinh tử. Từ đời này đến đời khác bị lưới nghiệp trói buộc trôi lăn trong đời thọ thân súc sinh. Vì thế thà đọa vào địa ngục, ngạ quỷ chứ đừng thọ thân súc sinh ngu si. Vì vậy bỏ thân súc sinh mà được sinh lên cõi trời là việc khó có, chẳng như địa ngục. Súc sinh sắp chết thấy ánh sáng hiện ra là nhờ nghiệp thiện khác, tâm si mê mỏng dần, trí cũ dần tăng, tâm trí dần dần lanh lợi, nên lúc sắp chết thấy tướng ánh sáng như thấy hang núi, cây cối, sông suối, ẩm thực, hoặc thấy bậc trí thế gian, thấy nơi vui vẻ trong núi rừng, hoặc nghĩ về thức ăn uống. Thấy nơi vui vẻ liền đi đến đó như trong giấc mộng. Cứ thế, gần đến nơi thọ sinh là thọ thân trời. Như tỉnh mộng thấy các sắc tướng, trong trăm ngàn ức nơi thọ sinh chưa từng có nơi nào như vậy. Thấy thế, vui mừng mong mỏi đây là những vật gì? Vì sao có những thứ này? Do đâu mà có? Vì chưa quen bao giờ, các thức ngu độn nên sinh tâm mong mỏi: Ta sẽ đến lấy hết những vật kia. Đó là do nghiệp thiện khác, do đó mà có những tâm ý như vậy, lập tức sinh lên cõi trời. Đó là thân trung ấm thứ mười hai khó hiểu, khó có nhất, là việc đùa bỡn nhất. Nhà huyễn tâm này đi khắp những nơi tạo nghiệp, đi khắp những nơi sinh tử, đùa bỡn chúng sinh. Nghe Đế Thích nói, chư Thiên phát tín tâm sâu xa, nói kệ:

Thiên vương như cha mẹ
Lợi ích cả trời, người
Ngài lợi ích chúng tôi
Ở đời này đời sau.
Nói pháp cho chúng tôi
Đoạn trừ tâm phóng dật
Chúng tôi sẽ đạt được
Niết-bàn dứt các khổ.
Nói cho chúng tôi nghe
Về quả báo nghiệp thiện
Chỉ dạy pháp sinh tử
Để mọi người hiểu rõ.
Thiên vương thấy thật đế
Lợi ích cho chúng tôi
Vì chúng tôi ngu si
Nên chỉ bày trí tuệ.
Tâm tham ái gái đẹp
Luôn mong cầu dục lạc
Thiên vương chỉ chúng tôi
Nhân duyên của sinh tử.
Ngài: thầy dắt kẻ mù
Thuốc hay cho người bệnh
Thiên vương đã nói pháp
Lợi ích cho chúng tôi.
Thiên vương đã nói pháp
Được lợi ích như vậy
Những ngục tốt Diêm-la
Tất cả đều diệt mất.

Chư Thiên nói kệ xong, Đế Thích lại bảo họ:

–Thân trung ấm thứ mười ba là gì? Chúng sinh đọa vào địa ngục khó sinh lên cõi trời. Nhưng nhờ dư báo, nhờ nghiệp thiện trong mát, lợi ích được thành thục, nên sau khi đọa vào địa ngục, nhờ thiện duyên mà thoát khỏi vô lượng khổ não, sinh lên cõi trời thọ hưởng diệu lạc. Những địa ngục mà chúng sinh đọa vào như Địa ngục Hoạt, Hắc thằng, Chúng hợp, Khiếu hoán, Đại khiếu hoán, Tiêu nhiệt và những nơi hệ thuộc, thọ khổ lớn, kinh sợ nhất, lửa dữ đốt cháy xung quanh. Khi hết nghiệp, người ở địa ngục sắp được thoát khỏi, bỏ thân ở địa ngục thì thấy tướng hiện ra. Tướng trung ấm ấy là gì? Nhờ nghiệp thiện được sinh lên trời, hết khổ, hưởng vui.

Này các Thiên tử! Người ở địa ngục, nghiệp ác hết, lúc sắp chết, nếu bị ngục tốt bắt bỏ vào vạc thì giống như bọt nước mất không còn. Nếu chúng dùng gậy đánh thì vừa đánh là chết luôn. Nếu bỏ vào thùng sắt thì bỏ vào là chết hẳn. Nếu dùng roi sắt đánh thì vừa đánh là chết mất. Nếu bị chim sắt, quạ sắt mổ ăn thì chết luôn. Nếu bị sư tử, cọp, sói… các loài thú ác ăn thịt thì chết mất. Khi nghiệp ác hết, bỏ thân ở địa ngục, người đó không còn thấy ngục tốt Diêm-la. Vì sao? Vì ngục tốt không phải là chúng sinh, giống như tim dầu của đèn hết thì không còn đèn sáng. Cũng vậy, khi nghiệp hết thì không còn thấy ngục tốt Diêm-la. Như ở Diêm-phù-đề, mặt trời mọc là không còn bóng tối. Nghiệp ác hết thì ngục tốt Diêm-la cũng mất. Những sắc đáng sợ như mắt ác, miệng ác của chúng sinh cũng mất hết, như phá vỡ bức tường thì bức họa cũng không còn. Vách tường nghiệp ác cũng vậy, không còn thấy sắc ngục tốt Diêmla đáng sợ. Vì Đức Như Lai dạy ngục tốt Diêm-la không phải là chúng sinh nên gọi là địa ngục. Đó là chúng sinh ở địa ngục thoát khỏi địa ngục sinh lên trời.

Bấy giờ Đế Thích nói kệ:

Như người gặp kẻ thù
Thoát khỏi các tai nạn
Gặp được bậc tài trí
Có tất cả lợi ích.
Đã hết các nghiệp ác
Khỏi ngục tốt sức mạnh
Giờ nhờ có nghiệp thiện
Được sinh lên cõi trời.
Người này sinh lên trời
Được thân hình xinh đẹp
Luôn hưởng diệu lạc trời
Đến khi nghiệp thiện hết.
Người này không tự chủ
Nghiệp hết phải thoái đọa
Như dầu tim đã hết
Ánh sáng đèn cũng mất.
Bị gió nghiệp thổi tạt
Từ trên rơi xuống dưới
Do sức gió xoay chuyển
Trôi mãi ở thế gian.
Người nào có trí tuệ
Không bị nghiệp trói buộc
Các nghiệp chẳng buộc ràng
Chẳng lưu chuyển sinh tử.
Như lấy tơ ngó sen
Mà cột núi Tu-di
Người này qua đồng vắng
Không lo sợ suy não
Người trí không trôi lăn
Như núi Tu-di vững chãi.

Nói kệ xong, Đế Thích lại nói những tướng trung ấm ở địa ngục cho chư Thiên nghe. Những gì họ chưa thấy thì lúc đó họ bỗng nhìn trong hư không thấy những tướng ca múa vui chơi, gió thơm thổi đến, hưởng an lạc thù diệu, nghe được những âm thanh hay như tiếng nhạc, ngửi được hương thơm, thấy sắc đẹp: ao hoa, rừng cảnh, tự thấy mình rất đẹp, oai đức rực rỡ, thấy thân thơm sạch trang sức vòng hoa, thấy hết tất cả, thấy hư không trong sạch không nhơ, bầu trời đầy sao, nghe tiếng nước chảy, nghe cả tiếng của những con thiên nga, vịt trời, uyên ương. Ngay thân Trung ấm nghe được những tiếng nhạc nơi mình thọ sinh, tiếng đàn cầm, đàn sắt, đàn không hầu, những tiếng mà vô lượng trăm ngàn ức năm chưa từng nghe. Do vui vẻ mà hiện ra tướng lành. Tự thấy mình đang ở gần với anh em, bà con, bạn bè nên vui vẻ muốn sinh về, hoặc sinh lên cõi trời Tam thập tam, hoặc sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương. Đến nơi, thấy được vườn rừng, ngửi được hương thơm của hoa sen bảy báu. Thiên tử khôi ngô tự nghĩ: Ta nên đến đó. Vừa nghĩ là sinh lên đó. Hữu phần đó là do thủ duyên hữu. Khi nghiệp ác hết chúng sinh đó ra khỏi địa ngục, bỏ thân ở nơi khổ não khôn cùng mà sinh vào nơi vui sướng.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân Trung ấm thứ mười bốn là gì? Làm sao biết được? Nếu bỏ thân người sinh vào cõi người thì có những tướng gì? Làm sao để mong cầu? Người sắp chết nếu được sinh vào cõi người thì thấy những tướng hiện ra rồi mong cầu như thế nào? Con người sắp chết sẽ thấy tướng núi lớn giống như bóng trên không. Lúc ấy người này nghĩ: Núi này có lẽ sẽ rơi trên thân ta, vì thế đưa tay để ngăn lại, bà con, anh em thấy vậy cho rằng người này ngăn hư không. Sau đó người này thấy núi ấy giống như nệm nĩ trắng nên leo lên, rồi thấy lông đỏ, cứ thế, người đó chết dần, lại thấy ánh sáng, vì ít quen, lúc chết mê mờ nên thấy mọi màu sắc như trong giấc mộng. Vì tâm mê mờ, thấy cha mẹ giao hợp nhau mà sinh tâm điên đảo. Nếu người nam thọ sinh thì thấy mình giao hợp với mẹ, cho rằng cha là người cản trở. Nếu là người nữ sinh thì tự thấy thân mình cùng cha giao hợp, cho rằng mẹ là người cản trở. Lúc ấy thân trung ấm mất, thức ấm phát khởi, cứ tuần tự sinh ra giống như dấu ấn, mất ấn thì dấu thành. Đó là bỏ thân người sinh lại làm người.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ mười lăm là gì? Bỏ thân trời sinh vào cõi trời thì không khổ não như các Thiên tử khác, lúc chết bị khổ xa lìa người thương mà đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Thiên tử này không mất những trang sức trên thân cũng không có Thiên tử khác ngồi ở chỗ của mình, không thấy tướng khổ, không có chư Thiên khác sinh ở chỗ mình. Thiên tử này qua đời được sinh lên cõi trời cao hơn. Nếu ở cõi trời Tứ Thiên vương thì sau khi chết sẽ sinh lên cõi trời Tam thập tam có tướng thù thắng đáng yêu hơn, nghe các tiếng hay mà từ trước chưa được nghe. Thấy cảnh năm dục đều xinh đẹp hơn. Thân chết dần, ngay thân trung ấm thấy Thiên nữ xinh đẹp tay cầm hoa sen, nghe âm thanh hay, thấy cảnh sắc đẹp sông núi vườn rừng mà từ trước chưa từng thấy như trong giấc mộng. Thấy những việc như vậy, lúc sắp thọ sinh như người tỉnh ngủ, thấy sắc chính đủ các cảnh giới nơi công năng của năm dục mà từ trước chưa được thấy. Người ấy kêu to: Thật là hiếm có ta chưa từng thấy bao giờ, ta nên đến đó. Lập tức được sinh lên cõi trời.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ mười sáu là gì? Có những tướng gì? Nếu bỏ thân ở tầng trời trên mà sinh xuống tầng trời dưới thì thấy vườn rừng ao sen sông suối đều không bằng, vì khổ đói khát, muốn có được nên sinh vào đó. Như vậy tuy cùng sinh lên cõi trời nhưng có hai thân trung ấm, có hai tướng sinh ra.

Lại nữa, các Thiên tử! Thân trung ấm thứ mười bảy là gì? Nếu người ở cõi Phất-bà-đề mà sinh vào cõi Cù-đà-ni thì có những tướng gì? Người ở cõi Cù-đà-ni sinh vào cõi Phất-bà-đề thì có những tướng gì? Này các Thiên tử! Người ở hai cõi này thọ sinh đều có một tướng. Lúc chết thấy hang tối, trong hang có một luồng ánh sáng đỏ rủ xuống như cờ phướn, lúc trắng lúc đỏ. Thấy vậy người ấy đưa tay nắm lấy. Lúc đó hiện ấm diệt, người ấy đưa tay nắm lá phướn sáng rồi dần dần theo ánh sáng đi vào trong hang, thọ thân trung ấm đến khi sắp thọ sinh thì thấy những pháp thọ sinh như trước, hoặc thấy hai con trâu, hai con ngựa giao hợp nhau mà sinh tâm dục, đã sinh tâm dục thì liền thọ sinh. Các Thiên tử! Các ông đã biết những pháp này rồi đừng sống phóng dật. Vì sao? Vì người sống phóng dật không thoát khỏi sinh già bệnh chết, không tạo lợi ích ở thế gian, không được an vui. Người nào muốn thoát khổ hãy trừ bỏ phóng dật. Dù là trời, là người – những người có trí tuệ nên bỏ phóng dật. Thiên tử các ông hãy trừ bỏ phóng dật. Các ông hãy tư duy quan sát mười bảy thân trung ấm. Nhờ quan sát nên biết đúng như thật. Đã biết đúng hãy siêng năng tu tập.

Lại nữa, các Thiên tử! Trong hai mươi pháp ta đã nói cho các ông nghe từ pháp thứ nhất đến pháp thứ mười bảy – cảnh giới tương tục của thân trung ấm. Giờ ta sẽ nói về mười tám pháp. Chúng sinh thì vô số, sự tin hiểu khác nhau, bản tánh sai biệt, lo sợ ba lỗi, có ba nhóm chúng sinh, ba tự tánh, tin hiểu rất vi tế nên có hành động tánh nghiệp, đạo, khổ lạc, sắc, tăng thượng khác nhau. Hoạt động của tâm, bản tánh của chúng sinh thật rộng, thân thể khác nhau. Tất cả những tâm tánh ấy tóm lược có mười tám điều ác. Do tâm tội lỗi sai khiến và do tâm rộng lớn nên có lưu chuyển nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người. Nói chung gồm có mười tám giới. Theo tâm tánh ở cõi thứ nhất thì dục đứng đầu, trời, người thì dục tăng thượng. Giống cái của loài quỷ, súc sinh, những giống có khả năng biến hóa thì nhiều kiêu mạn, sân hận. Vì sân nhiều nên ít dục. Đó là súc sinh không phải tánh của người ở cõi thứ nhất. Trong loài súc sinh cũng có những loài đa dục như khổng tước, câu-sí-la, tu hú, bồ câu, gà, chim sẻ, thiên nga, vịt trời, uyên ương, cá, ca-lăng-tần-già, vì bản tánh đa dục nên gọi là dục bậc thượng.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ hai là gì? Trong loài súc sinh loài nào được gọi là dục bậc trung? Đó là những loài mèo, chó, heo, trâu, bò, lạc đà, voi, ngựa, lừa, quạ, chim cắt, anh vũ, diều hâu.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ ba là gì? Trong loài súc sinh loaì nào được gọi là dục bậc hạ? Đó là các loài cọp, sư tử, tê giác, sói, beo, gấu, chồn, cáo, các loại cá ma-già-la, câu-xa-gia, cát-lợi-tư-ma-la, thuần-đầu-ma-la. Các loại này hành dục theo mùa, trái mùa không hành dục.

Lại nữa, các Thiên tử! Trong loài súc sinh có vô số giống loại, chỗ ở, tên gọi không thể nào nói hết, cũng không thể nào biết hết.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ tư là gì? Trong loài súc sinh loài nào có nhiều tâm sân nhất, ít tâm dục? Ở cõi này thì loài sư tử, cọp, sói, rắn, tê giác, khỉ, gấu, beo, quạ, diều hâu, con Thất-thâu-ma-la, heo rừng là những chúng sinh nhiều tâm sân nhất.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ năm là gì? Trong loài súc sinh loài nào được gọi là sân bậc trung? Đó là bò, trâu, ngựa, chim ca-lăng-tần-già, chim bà-lâm-đà, ca-lưu-đà, khổng tước, gà, mèo, chuột.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ sáu là gì? Loài có tánh sân bậc hạ là ngỗng, vịt, uyên ương, cá ăn, chim trắng, câu-sí-la, tước-bà-la, lừa, nai, rùa, thỏ, nhím, quạ núi, nhạn, tôm.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ bảy là gì?

Trong loài quỷ thần có thần thông, hành dục như A-tu-la, xếp vào loài súc sinh nhiều dục gọi là dục bậc thượng.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ tám là gì? Loài ngạ quỷ chỉ ăn bằng hương được gọi là dục bậc trung.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ chín là gì? Loài quỷ luôn hy vọng, quỷ ăn đồ bỏ được gọi là dục bậc hạ.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ mười là gì? Chúng sinh ở cõi trời Ca-lưu-túc được gọi là dục bậc hạ. Tâm sân nhiều, thích tranh chấp, luôn đánh với A-tu-la. Vì tâm sân nhiều nên tâm dục ít.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ mười một là gì? Chúng sinh ở cõi trời Man trì thì tâm dục bậc trung, tâm sân bậc trung.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ mười hai là gì? Chúng sinh ở cõi trời Thường tứ ý tánh dục nhiều, tánh sân ít, không thích tranh chấp. Chúng sinh ở cõi Hành sử tánh sân nhiều, tánh dục ít.
Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ mười ba là gì? Chúng sinh ở cõi trời Tam thập tam tánh dục nhiều, tánh sân ít.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ mười bốn là gì? Chúng sinh ở cõi Uất-đan-việt tánh dục nhiều, tánh sân ít.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ mười lăm là gì? Chúng sinh ở cõi Cù-đà-ni tánh sân nhiều, tánh dục cũng nhiều, cả hai tánh đều bằng nhau.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ mười sáu là gì? Chúng sinh ở cõi Phất-bà-đề tánh dục, tánh sân đều có.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ mười bảy là gì? Chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề đủ các tánh, hạnh, tin hiểu.

Lại nữa, các Thiên tử! Tánh của chúng sinh ở cõi thứ mười tám là gì? Những cõi trời khác và địa ngục dù chịu khổ não, thấy người nữ huyễn nghiệp vẫn sinh tâm dục. Đó là do nghiệp. Như vậy chúng sinh ở địa ngục cũng nhiều dục. Cõi trời Tứ Thiên vương thì tâm tánh, cảnh giới, chỗ ở, tin hiểu cũng như vậy. Đó là lược nói về tánh của chúng sinh ở mười tám cõi. Tất cả đều có dục, có sân nên đều có si. Vì có si mà có tham sân, nếu không si thì không tham sân. Vì si mà có tham hoặc có sân. Các Thiên tử! Đó là phân biệt ba tội lỗi, vì có tội lỗi nên có vô lượng sự phân biệt.

Lại nữa, các Thiên tử! Lại có mười tám giới: Nhãn, sắc, nhãn thức giới; nhĩ, thanh, nhĩ thức giới; tỷ, hương, tỷ thức giới; thiệt, vị, thiệt thức giới; thân, xúc, thân thức giới; ý, pháp, ý thức giới. Các Thiên tử! Nếu chư Thiên, loài người tư duy mười tám giới này thì có thể ngăn ngừa sự phóng dật đối với cảnh giới. Đó là nguyên do si mê của tất cả phàm phu ngu si.

Lại nữa, các Thiên tử! Người phóng dật có mười chín nơi thuộc hai thứ: Tứ thiền, trừ cõi trời Tịnh cư có mười sáu nơi, cõi Dục có ba nơi: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Con người mà chịu khổ nhiều thì thuộc địa ngục.

Lại nữa, các Thiên tử! Như trước đã nói về Tứ thiền, mười sáu nơi và địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh đó là hai mươi thứ. Cứ sinh tử như vậy mà không điều phục được, những thứ đó mỗi mỗi khác nhau, có chỗ nói là mười thứ trao đổi.

Nghe Thiên đế Thích nói pháp xong, chư Thiên nói kệ khen ngợi Đế Thích:

Thiên vương nói pháp này
Là pháp tịch diệt nhất
Chúng tôi sẽ lo sợ
Tu tập giáo pháp này.
Người nào nói pháp này
Lợi ích cho chúng sinh
Người ấy như cha mẹ
Chỉ dẫn thành Niết-bàn.
Người nào nói một câu
Pháp lành cho người khác
Chính là đạo sư giỏi
Được chúng sinh tôn kính.
Pháp thiện Thiên vương giảng
Có giá trị vô cùng
Pháp này được tịch tĩnh
Không như vật báu khác.
Vật báu là vô thường
Pháp lành tăng trí tuệ
Vật thế gian hư hoại
Pháp lành luôn bền chắc.
Những ai thuận hành pháp
Trải qua trăm ngàn đời
Còn những thứ vật báu
Không theo đến đời sau.
Những thứ vật báu ấy
Kẻ mạnh cướp đoạt được
Vua, giặc, nước và lửa
Không thể cướp pháp tài.

Khen ngợi xong, các Thiên tử cung kính đứng trước Đế Thích. Khi ấy, Đế Thích muốn điều phục chư Thiên nên thị hiện tất cả diệu lạc là vô thường, hư hoại, vô ngã. Sau đó Đế Thích thâu biến hóa lại, chư Thiên sinh tâm nhàm chán, trở về cung mình thọ hưởng diệu lạc trời. Đến khi nghiệp thiện hết, họ qua đời nhưng không đọa vào đường ác, sinh ở cõi người, là bậc tu hành thuận theo chánh pháp đệ nhất, thích ở chỗ vắng, vì sợ đời vị lai, được nghe pháp, xuất gia tu học, đạt được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Đó là do oai lực nghe pháp từ trước.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ hai mươi chín của cõi này tên là Mạn-đà-la. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ thấy người thuận hành chánh pháp bằng tâm chánh trực, không não hại chúng sinh, hiểu đúng về nhân quả, giữ giới thanh tịnh, thích giữ giới, không dối gạt, trong sạch không nhơ, giống như vàng ròng, tu hành chánh kiến, thọ trì giới lành, sợ đời vị lai, bố thí tu phước. Thấy Tỳ-kheo tu thiền muốn đoạn trừ sự trói buộc của ma, vào lúc mùa hè nóng nực đổ mồ hôi, khát nước liền đem nước ngọt cúng dường hoặc cúng quạt. Người này không giết hại chúng sinh, thấy kẻ săn bắn các loài chim như chim sẻ để nuôi, giết hoặc để chơi, người này sợ kẻ kia sát hại nên chuộc mạng sống trả về chỗ cũ, để chúng được an vui. Đó là không sát sinh, tạo lợi ích cho chúng sinh. Thế nào là không trộm? Lo sợ từng quả báo của nghiệp vi tế, thấy trên bờ sông, hoặc những nơi khác có nhành dương hoặc đường mật, người giữ giới do tâm Từ, dù đói khát vẫn không lấy, không uống để bố thí người đi đường, đó là không trộm. Người này sau khi chết được sinh lên cõi trời Tam thập tam. Ở đó có đủ các dục lạc, âm nhạc vườn rừng, chim chóc hót tiếng rất hay. Trong ao sen có đủ các loài chim hồng, loài ong, cây cối trong rừng được trang trí bằng bảy báu. Trong ao sen sực nức mùi hương, đẹp như lưu ly, vui chơi ở đó. Trên núi, bảy báu sáng rực, hang đá bằng bảy báu vàng, bạc, pha lê, báu nhân-đà xanh, các loài chim cánh bằng bảy báu hót tiếng rất hay nghe rất vui tai. Các Thiên chúng tùy thuận nhau. Trong rừng có đủ các thức ăn uống ngon ai thấy cũng vui mừng khen ngợi. Trong rừng còn có các màu sắc để trang sức thân mình, cùng trăm ngàn ngọc nữ vui chơi thọ nhận diệu lạc cõi trời, thân thể sáng rực. Thiên tử này hưởng quả báo của nghiệp, các Thiên nữ vây quanh vui đùa. Thọ lạc xong, Thiên tử muốn đến rừng bằng báu lưu ly. Ở đó chim hót rất hay, chư Thiên cùng Thiên nữ vui chơi nghe nhạc hưởng lạc. Trong rừng có ao thanh thủy đẹp, chư Thiên vui chơi thọ lạc ở ao sen. Khi ấy, Thiên tử mới sinh cùng Thiên nữ đến rừng kia. Thấy Thiên tử ca múa vui chơi đang từ từ đi đến, chư Thiên liền ra nghênh đón, đến ao thanh thủy vui chơi thọ lạc. Do oai lực của ao, chư Thiên muốn gì được nấy. Nếu muốn sắc đẹp, hương thơm, thì có đủ các loài ong, muốn thức uống có thức uống, muốn có thức ngon đủ sắc muôn vị thì cũng được thức ngon, sắc đẹp như trăng tròn. Nếu nghĩ đến rừng thì có rừng đủ công đức thù thắng, lưới linh che bên trên, gió nhẹ thổi phát ra tiếng hay như nhạc Càn-thát-bà. Chư Thiên lại nghĩ: Ta nên vào ao, lập tức họ vào ao tắm, trong ao được trang trí bằng châu báu, điện bằng tạp bảo, lan can bằng vàng, giường bằng vàng, bạc, lưu ly, báu xanh, pha lê, trải bằng thiên y. Thiên tử, Thiên nữ vui chơi thọ lạc trong ao không biết chán, không ganh ghét, luôn yêu kính nhau. Sau đó họ ra khỏi ao, đến rừng Ni-đơn-ca. Trong đó có đủ chim chóc, ao sen, chim hót rất hay. Rừng này luôn có ánh sáng, đủ các công đức, thân chư Thiên sáng rực đầy đủ công đức, vui chơi thọ lạc khắp nơi. Khoái lạc bậc nhất của phàm phu ngu si là Thiên tử, Thiên nữ vui chơi thọ lạc. Phàm phu ngu si bị lưới nữ nhân trói buộc, trôi lăn trong sinh tử. Vui chơi thọ lạc một thời gian lâu họ đến cung điện núi Ma-đa. Lên ngọn Tu-di, gió nhẹ thổi y phục họ bay theo gió lên đỉnh Ma-đa. Thấy cung điện xinh đẹp, có ao sen, bảy báu sáng rực, có đủ công đức. Núi Ma-đa cao lớn, đẹp đẽ thật không sao ví dụ được. Họ vui chơi thọ lạc ở đây xong, thấy ánh sáng đỉnh núi sáng hơn tướng ánh sáng tự thân, sáng như mặt trời. Lúc ấy lại có ánh sáng khác chiếu lên đỉnh núi sáng gấp trăm ngàn lần, Thiên tử ngạc nhiên, nhắm mắt, cúi đầu. Vì sao? Vì chưa hề thấy ánh sáng này. Chẳng bao lâu, ánh sáng đó liền mất, thấy vậy chư Thiên kinh sợ, giống như người cõi Diêm-phù-đề thấy đóm lửa trên trời rơi xuống mà kinh sợ. Sau đó, họ bình tĩnh cùng nhau bàn luận, vì sao có tướng lạ này, lại làm cho chư Thiên đều kinh sợ, trong chốc lát lại mất? Chư Thiên cùng nhau đến Thiện pháp đường. Thấy Đế Thích, họ đảnh lễ cúng dường, cung kính vây quanh. Lúc ấy, Thiên vương Thích-ca cùng các Thiên chúng đang ca múa vui chơi, còn chư Thiên cõi Mạn-đà-la thì không ca múa vui chơi, không khen ngợi Đế Thích, không thăm hỏi chư Thiên khác. Đế Thích bảo chư Thiên cõi Mạn-đà-la:

–Các Thiên tử! Vì sao không ca múa vui chơi?

Chư Thiên thưa:

–Chúng tôi thấy ở chỗ mình có việc lạ mà trước kia chưa từng thấy.

Đế Thích hỏi:

–Các ông thấy gì?

Chư Thiên thưa:

–Thưa Thiên vương! Chúng tôi vui chơi trên núi Ma-đa, thấy ánh sáng lớn từ trên chiếu xuống làm cho khắp núi sáng rực. Thấy vậy chúng tôi ngạc nhiên chẳng biết vì sao.

Nghe vậy, Đế Thích suy nghĩ vài phút, bảo các Thiên tử:

–Ta có nghe việc ấy. Lúc ấy ta hỏi Đức Thế Tôn: Vì sao có việc này? Đức Thế Tôn bảo: Này Kiều-thi-ca! Ông đã đóng cửa đường ác, đừng lo sợ. Tất cả các pháp hữu vi đều nằm trong sự sinh diệt, đều là vô thường. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ thuyết giảng. Đó là chư Thiên cõi trời Dạ-ma qua đời. Chư Thiên cõi trời Dạ-ma có thân thể, hoan lạc hơn cõi trời Tam thập tam trăm ngàn lần. Vì nghiệp hết nên họ bị thoái đọa. Cách đây khoảng trăm ngàn do-tuần họ từ cõi trời đọa lạc, ánh sáng mờ dần như đèn sắp tắt. Chư Thiên cõi Dạ-ma lúc đọa lạc, ánh sáng mờ mà còn như vậy huống gì ánh sáng lớn nơi cõi Dạ-ma, thật không sao nói hết. Chư Thiên cõi trời Tam thập tam không thể nhìn được ánh sáng cõi Dạ-ma. Vì sao? Vì không phải cảnh giới của họ. Này Kiều-thi-ca! Chư Thiên cõi trời Tam thập tam không thể nhìn được ánh sáng cõi Dạ-ma là vì chư Thiên cõi Dạ-ma có ba nghiệp, chư Thiên cõi trời Tam thập tam chỉ có hai nghiệp.

Ta đã nghe Đức Thế Tôn nói việc giống như những gì hôm nay các ông thấy.

Nghe vậy chư Thiên sinh tâm nhàm chán năm dục. Đó chính là tướng mà chư Thiên cõi Dạ-ma bị thoái đọa, ánh sáng đó cách đây vô số trăm ngàn do-tuần, từ hư không chiếu xuống. Các ông chớ lo sợ. Bấy giờ Thiên vương Thích-ca nói kệ cho chư Thiên:

Theo lạc lớn là vậy
Giàu có cũng như thế
Nhất định phải đọa lạc
Chịu tất cả khổ đau.
Nghiệp có quả tương ưng
Đức Thế Tôn dạy thế
Nhờ nghiệp nhân thù thắng
Nên quả báo cũng vậy.
Pháp tương tục bậc thượng
Là do nghiệp có được
Sự trói buộc càng nhiều
Quả báo cũng như vậy.
Oai đức họ thù thắng
Nên biết nghiệp thù thắng
Nhờ nghiệp nhân thù thắng
Sắc lực được tối thượng.
Tất cả các Thiên chúng
Nghiệp hết, bị thoái đọa
Giống như hạt giống hư
Đem trồng không mọc được.
Xét tâm tánh tương tục
Niệm niệm như ánh đèn
Niệm niệm tâm đã diệt
Các nghiệp cũng không còn.
Do nghiệp nhân vô thường
Chắc chắn bị hủy hoại
Xem hoan lạc là thường
Thì không thể có được.
Hoan lạc nếu thường còn
Không sinh cũng không diệt
Những người có trí tuệ
Không nên ham cảnh giới.
Người xa lìa ái dục
Được diệu lạc lìa ái
Tất cả pháp hữu lậu
Vô thường, khổ, không thật
Chỉ có pháp vô lậu
Mới là lạc bất động.

Nói xong, Đế Thích lại an ủi chư Thiên cõi Mạn-đà-la để họ về bản xứ. Đế Thích lại bảo: “Các ông đừng sống phóng dật”.

Chư Thiên đảnh lễ Đế Thích trở về bản xứ. Ở đó họ thọ hưởng năm dục lạc, nghe năm thứ âm nhạc, trang sức đủ loại. Thọ hưởng diệu lạc đến khi nghiệp thiện hết, họ qua đời, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người, được ở nơi an ổn, hoặc làm đại nhân được mọi người yêu mến, không bệnh khổ, thuộc dòng quý tộc, luôn được vui vẻ cho đến già chết. Đó là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ ba mươi của cõi này tên là Thượng hạnh. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh tu hành theo chánh pháp, tin quả báo của nghiệp, sống bằng chánh kiến, bố thí, tu phước, giữ một giới. Ban đầu giữ nhiều giới, sau giữ tất cả giới, cúng dường giày, bình tắm cho người hành đạo, không sát sinh, không trộm cướp, thấy người ở vùng biên địa bắt người giết thì chuộc mạng để họ thoát chết. Nếu là vua, nơi chiến tranh đồng trống mà được tài vật, sợ phạm giới trộm nên không lấy. Đó là không trộm. Thế nào là không sát sinh? Người giữ giới này, dù là vua, nhưng thấy kẻ ác muốn hại mình vẫn không giết họ. Người ấy sợ quả báo của nghiệp nên sau khi qua đời được sinh lên trụ xứ Thượng hạnh thuộc cõi trời Tam thập tam. Ở đó, nhờ nghiệp thiện nên được ba ngàn Thiên nữ hầu hạ. Các Thiên nữ trang sức xinh đẹp đàn hát ca múa khen ngợi Thiên tử và muốn gần gũi. Thấy vậy, Thiên tử cũng đến chỗ họ, ai nấy đều vui vẻ đến vườn Hoan hỷ. Cây vườn toàn bằng báu lưu ly, vàng, bạc, có đủ các dòng suối ao sen, bên trên có lưới linh báu, các loài chim hót tiếng rất hay. Vườn ấy có các thứ như vậy. Thiên tử, Thiên nữ chiếu sáng lẫn nhau nên càng thêm xinh đẹp. Trong rừng có núi Du hý bằng bảy báu, có vô số nai quý đẹp nhiều màu, hông nai bằng báu xích liên hoa, lưng bằng chân châu, bụng bằng bạch ngân, đầu bằng vàng ròng, chân bằng san hô, sừng bằng pha lê. Có con toàn bằng vàng, có con vừa bằng vàng vừa bằng bạc, có con đủ màu sắc. Những con nai ấy đi theo Thiên tử kêu tiếng hay như tiếng ca Thiên nữ. Hưởng hoan lạc xong, chư Thiên đi đến núi Tu-di. Trên núi có dòng sông lớn tên Sơn cốc, họ cỡi đủ các loại xe báu, trổi năm âm nhạc, đủ các dục lạc, oai đức vui vẻ. Họ vui chơi hưởng lạc ở trên bờ sông, trong ao sen, trong rừng, ca hát vui tai, ai nấy đều vui vẻ, yêu mến nhau. Các Thiên tử, Thiên nữ xoa hương thơm trang sức vòng hoa. Nhờ nghiệp thiện nên thọ nhận diệu lạc cõi trời, nhờ nghiệp lực, dạo chơi khắp nơi, hưởng đủ hoan lạc tùy ý thật không sao nói hết, nay chỉ nói một ít, người thế gian không ai có thể nói hết. Vì sao? Vì không thể ví dụ được, diệu lạc cõi trời không gì sánh bằng. Người nhờ giữ giới mà được các diệu lạc như vậy. Ở đó, thọ hưởng hoan lạc đến khi nghiệp thiện hết, họ qua đời, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu được sinh vào cõi người, được nơi vui vẻ, ở gần núi sông, vườn cảnh, hoặc được làm vua một nước, làm quan, oai đức thù thắng, là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ ba mươi mốt của cõi này tên là Oai đức nhan. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh với tâm thanh tịnh đệ nhất, bố thí tu phước, giữ bảy chi giới, không gần bạn xấu, giữ giới thanh tịnh, luôn siêng năng tu phước, tâm chân thật như luyện vàng ròng, giữ những giới không sát sinh, không trộm. Thế nào là không sát sinh? Như người trong nước hỗn loạn giết hại lẫn nhau, người giữ giới vì sợ phá giới nên thà bỏ thân mạng không hại người khác, không bảo người khác giết đó là không sát sinh. Thế nào là không trộm? Như trong nước hỗn loạn mọi người tranh giành cướp đoạt, người giữ giới vì sợ phá giới nên dù đói khát sắp chết nhưng thà bỏ thân mạng chứ không lấy vật của người khác. Thế nào là bố thí? Bố thí vào ruộng phước nào? Như cúng dường Phật, cúng nơi thuyết pháp, tu tập tâm ý, hiểu đúng, sau khi qua đời được sinh lên cõi Oai đức nhan. Ở đây thân hình có vòng ánh sáng bao quanh, có sắc đẹp thù thắng, hưởng quả báo tương xứng. Nhờ nghiệp thiện nghe được năm thứ âm nhạc vui tai, ngửi hương Mạn-đà-la, hương Câu-xa-da-xá, hương hoa sen xanh, hoa hương bảy báu thích ý, lưỡi nếm đủ vị ngon cõi trời, mắt thấy sắc đẹp núi bảy báu, thân mặc áo đẹp mịn không có sớ vải, xoa thân bằng hương hoa Ưu-bát-la. Nhờ nghiệp thiện, Thiên tử thành tựu quả báo cõi trời, có ngàn Thiên nữ hầu hạ, vườn rừng xinh đẹp đủ màu, treo linh báu trên cành vàng bạc, gió nhẹ thổi động phát tiếng hay vui thích, lại nghe những tiếng ca tụng, hưởng hoan lạc thù thắng, trang sức bằng y phục và vòng hoa cõi trời. Họ vui chơi trên núi thấy đủ sắc đẹp lưu ly, vàng, bạc, báu nhân-đà. Ở trên núi pha lê họ thấy thân mình như soi gương sáng, Thiên tử mới sinh có Thiên nữ vây quanh vào núi báu. Thấy trăm ngàn thân, vui vẻ khôn cùng, các Thiên nữ cũng vui vẻ khen ngợi rằng: Thân ta đoan chánh xinh đẹp, ta luôn được nghe năm âm nhạc, thọ diệu lạc nơi công năng của năm dục cõi trời. Các Thiên nữ vui vẻ dạo chơi thọ lạc từ núi này qua núi khác, từ hang này sang hang kia, bị độc ái làm say mê như người điên, tâm hành không chánh trực. Các Thiên tử bị phóng dật hủy hoại cũng thế. Thiên tử cùng Thiên nữ dạo chơi trên đỉnh núi, có đủ các thức ngon nghe tiếng chim hay trong vườn, họ thọ hưởng hoan lạc yêu mến nhau, cùng vui chơi, cùng nghĩ nhớ nhau. Họ trang sức bằng hoa anh lạc, cùng nhau đến vườn như ý, hoặc đến dòng sông, ao tắm. Trong ao này có nhiều hoa Ưu-bát-la đỏ và có thiên nga, vịt trời, uyên ương, chư Thiên đứng trên bờ ao hút nước hoa, uống thức uống cõi trời, cùng vui chơi với chim, ai cũng vui thích. Khi ấy chư Thiên bị độc ái làm say mê nên uống rượu, lửa ái thêm nhiều thiêu đốt củi năm dục, luôn khao khát ái dục không biết chán. Tất cả đều bị lưới dục trói buộc ví như người phạm pháp vua bị bắt. Các Thiên chúng thấy vô số ái dục lại đến đó vui chơi. Trong ao hoa sen Bát-đầu-ma, hoa Ưubát-la, hoa Câu-vật-đầu có nhiều loài chim vui chơi thọ lạc. Trong ao có loài chim tên Xích thủy, thân cánh bằng bảy báu sáng rực. Thấy Thiên chúng buông lung, chim hót kệ:

Chư Thiên luôn phóng dật
Chim trời cũng như vậy
Chư Thiên và chim trời
Cả hai đều như nhau.
Thích hành động trái pháp
Không tìm vui giải thoát
Chư Thiên và chim trời
Chẳng khác một chút nào.
Nếu ai bỏ phóng dật
Tu hành theo chánh pháp
Là thù thắng thế gian
Nhờ không sống phóng dật.
Chư Thiên thích dạo chơi
Chim chóc cũng như vậy
Chư Thiên và chim trời
Như nhau chẳng khác gì.
Nhờ nghiệp nhân thù thắng
Thọ hưởng quả thù thắng
Nếu tạo các nghiệp ác
Không được sinh cõi lành.
Ai không biết sinh tử
Đều là pháp vô thường
Chư Thiên không hiểu biết
Ngu si như súc sinh.
Khổ sinh, già và chết
Lại cũng giống như thế
Ân ái và chia ly
Tuần tự chịu các khổ.
Người nào có trí tuệ
Biết được pháp thanh tịnh
Là thù thắng thế gian
Chẳng như người phóng dật.
Người nào hiểu khổ não
Phát sinh trí thanh tịnh
Người ấy là chư Thiên
Không phải kẻ phóng dật.
Bà con và anh em
Yêu thương thường chia lìa
Nếu không chán sinh tử
Chẳng khác gì loài chim.
Tội uống rượu tuy nặng
Say rượu còn tỉnh được
Phóng dật không thể tỉnh
Vì vậy phải từ bỏ.
Phóng dật hủy hoại người
Trôi lăn trong năm đường
Vì vậy bỏ phóng dật
Là phương tiện hay nhất.
Rượu chỉ trong một ngày
Làm người say không tỉnh
Phóng dật say mê người
Lưu chuyển trăm ngàn kiếp.
Ai trừ bỏ phóng dật
Đạt được nơi bất diệt
Người nào thích phóng dật
Luôn chịu sự sinh tử.
Những ai tìm lợi ích
Nên trừ bỏ phóng dật
Phóng dật sinh phiền não
Đại Thánh dạy như thế.
Loài chim sống phóng dật
Vì súc sinh ngu si
Vì cớ sao chư Thiên
Không trừ bỏ phóng dật.

Nhờ nghiệp thiện, chim trời giáo hóa tạo lợi ích cho chư Thiên. Chim trời này như cha mẹ, vì lợi ích mà chỉ dạy. Vì tâm phóng dật nên chư Thiên ấy không biết pháp lợi ích mà chim trời đã hót.

Bấy giờ, chư Thiên đến vườn Ma-đa-la trổi nhạc, yêu mến nhau vui chơi hưởng lạc. Cây của rừng này toàn bảy báu, cành lá sum suê có vô số ong bay lượn trên cây, trong hoa báu. Thấy vậy chư Thiên đều vui vẻ, cùng Thiên nữ ca múa vui chơi. Tiếng ca Thiên nữ vang khắp khu rừng, tiếng chim tiếng ong cũng như tiếng ca vang dội khắp núi Tu-di. Núi Tu-di vốn đáng yêu nhưng khi có tiếng ca này dội lại thì càng đáng yêu hơn nữa. Nghe thấy vậy chư Thiên đều thọ hưởng hoan lạc, đủ các dục lạc. Họ cùng các Thiên nữ xinh đẹp vui chơi thọ lạc đến khi nghiệp thiện hết, họ qua đời lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác được sinh trong cõi người hưởng an lạc thù diệu, luôn vui vẻ, thân hình xinh đẹp, được mọi người yêu mến, hoặc được làm vua, quan là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ ba mươi hai của cõi này tên là Oai đức diệm luân. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh tu tập phước đức, không dối gạt, quan sát chánh pháp, lợi ích chúng sinh bằng tâm chánh kiến, tin Phật, Pháp, Tăng. Nếu thấy tháp Phật hoặc chùa bị hư thì sửa lại, nếu bị cháy thì ra sức dập lửa không tiếc thân mạng, hoặc thấy lửa đốt tài vật báu của Phật, Pháp, Tăng thì xả thân chữa cháy, nhảy vào lửa cứu người bị cháy. Vì tâm bi nên làm được những việc phước đức khó làm. Thế nào là không sát sinh, không trộm cướp? Nếu thấy vàng bạc vật báu rơi bên đường thì lấy lên rao hỏi: Đây là vật của ai? Nếu có người nhận thì hỏi hình tướng của vật, nếu đúng thì trả lại, nếu không có người nhận thì rao hỏi đủ bảy ngày không ai nhận thì giao cho vua, quan hoặc người chủ quận huyện. Nếu họ thấy người phước đức mà không nhận thì đem đến cúng dường Phật, Pháp, Tăng. Đó là không trộm. Thế nào là không sát sinh? Khi đi đường nếu thấy những con trùng nhỏ như kiến, sâu, tôm… thì tránh ra chỗ khác, vì tâm Từ bi giữ mạng chúng sinh, tin nghiệp quả, biết tội lỗi sinh tử, quan sát pháp sinh diệt, đó là không sát sinh. Người này sau khi qua đời được sinh lên trụ xứ Oai đức diệm luân của cõi trời Tam thập tam thuộc đường lành. Ở đó nhờ nghiệp thiện hưởng đủ hoan lạc không sao nói hết. Nay chỉ nói một phần nhỏ: toàn thân sáng rực như mặt trời nhưng không chóa mắt. Nhờ nghiệp thiện nên trăm ngàn Thiên nữ vây quanh hưởng lạc. Cung điện bằng vàng, lưu ly, báu nhân-đà xanh. Họ vui chơi ca hát. Lại có vườn hoa luôn nở, nhiều loài chim hót tiếng rất hay, thấy sắc nghe tiếng đều ưa thích. Lại có khu rừng tên Khai hợp. Khắp nơi sáng rực, dù mở mắt nhắm mắt đều thấy ánh sáng. Ở đó họ cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc, đi dạo khắp núi. Do tiếng ca nên có tiếng vang dội lại. Chư Thiên khác đang vui chơi thọ lạc nghe được tiếng vang liền ra khỏi rừng nói:

–Đó là tiếng gì mà giống như tiếng Thiên vương Thích-ca thứ hai?

Nhìn thấy Thiên tử mới sinh ai nấy đều vui vẻ ra nghênh đón, thán phục, bảo rằng:

–Lành thay! Thiên tử đến đây, Thiên tử là người thù thắng nhất trong các Thiên chúng. Ở đây Thiên tử giống như Thiên vương Thích-ca thứ hai.

Lúc ấy, chư Thiên khác cũng vội đến chỗ Thiên tử này, họ vây quanh ca múa vui chơi, cùng đến vườn Hoan hỷ. Các Thiên nữ cũng vây quanh Thiên tử ca múa vui chơi. Bất chợt, Thiên tử quay nhìn thấy chư Thiên theo sau thì rất vui vẻ, hỏi: Các ngươi muốn đến đâu? Chư Thiên đáp:

–Đến vườn Hoan hỷ thọ nhận công năng của năm dục. Vì chưa hề thấy được vườn ấy nên Thiên tử từ từ đi đến. Ánh sáng vườn này rực rỡ như vầng mặt trời.

Thấy vậy, Thiên tử mới sinh vui mừng đi vào rừng. Rừng này có vô số thứ đáng yêu. Trong một khu rừng có đủ bốn oai đức, đủ các âm thanh của loài chim. Có loài thì hót tiếng hay, có loài chào đón: Lành thay! Thiên tử hãy đến đây, có loài thì vui mừng bay nhảy xung quanh. Rừng ấy có các loài chim xinh đẹp như thế. Lại có nơi khác, trong sông núi phát ra tiếng hay, bờ sông bằng vàng ròng. Trong ao có nhiều thiên nga, vịt trời, uyên ương kêu tiếng rất hay. Thiên tử cùng Thiên nữ vui chơi trên bờ ao, nghe năm âm nhạc vui vẻ thọ lạc. Sau đó họ lại đến vườn như ý. Thấy cây vườn sáng rực như mặt trời mặt trăng, Thiên tử mới sinh thọ hưởng năm dục thật không sao nói hết. Thiên tử lại đến ao sen Thiên chúng vây quanh như hầu Đế Thích, ai nấy đều vui vẻ. Sau đó họ lại đến đỉnh núi Cao tụ ca múa vui chơi. Thiên tử, Thiên nữ cùng nhau nô đùa thọ hưởng dục lạc. Trên đỉnh núi có ao sen lớn, chim chóc cùng Thiên chúng thọ hưởng mọi hoan lạc, nhờ nghiệp thiện chúng cũng xinh đẹp, cùng Thiên chúng vào rừng Như ý, Thượng vị vui chơi thọ lạc. Ở trên đỉnh núi có nhiều loại chim xinh đẹp. Thọ lạc một thời gian lâu, Thiên tử quan sát cõi mình. Thiên tử mới sinh khởi tâm hy hữu trăm ngàn Thiên chúng vây quanh, cùng nhau đến Thiện pháp đường yết kiến Đế Thích.

Đến nơi, Thiên tử mới sinh thấy Thiện pháp đường có đủ các vật báu đã nói ở trước.

Thấy Thiên tử mới sinh, Đế Thích vui mừng nói kệ:

Nhờ quả báo nghiệp thiện
Được sinh lên cõi này
Nhưng cũng ở chốn ấy
Chết sẽ phải đọa lạc.
Nghiệp hết bị thoái đọa
Lưu chuyển theo nghiệp lực
Giờ tu tập nghiệp thiện
Sau sẽ không hối hận.
Phóng dật, tham dục lạc
Tiêu diệt hết nghiệp lành
Do nay sống buông lung
Nghiệp hết, đọa đường ác.
Thấy chư Thiên đọa lạc
Cớ sao không nhàm chán
Ta cũng sẽ đọa lạc
Chắc chắn không nghi ngờ.
Những ai sợ đời sau
Hãy thuận hành chánh pháp
Cho đến lúc lâm chung
Không lo sợ đường ác.
Phóng dật không lo sợ
Tâm tạo nghiệp bất thiện
Sau chịu nhiều khổ não
Chết sinh tâm hối hận.
Tất cả các Thiên chúng
Đều phải bị thoái đọa
Đã biết dục vô thường
Không nên sống phóng dật.
Năm dục gạt chúng sinh
Bị dục lạc mê mờ
Lưới dục luôn trói buộc
Đọa vào trong địa ngục.
Đã biết sự suy hại
Hãy làm việc lợi ích
Nhờ điều phục tâm mình
Lâm chung không hối hận.
Bị nọc độc rắn dục
Dục như sóng trên biển
Kẻ ngu tới đường chết
Bị lửa dục thiêu đốt.
Bà con và anh em
Tất cả đều xa lìa
Khi chết chịu khổ não
Thật không sao nói hết.
Lúc thần chết gõ cửa
Như rơi từ núi cao
Sức mạnh không tránh khỏi
Đưa người vào đường ác.
Sức ấy bắt mọi người
Phá hoại cả thế gian
Thiên chúng đã biết rồi
Phải trừ bỏ phóng dật.
Các căn luôn tham đắm
Không hề biết nhàm chán
Tâm ái luôn tăng trưởng
Như thêm dầu vào lửa.
Trong tất cả các cõi
Đều do ái mà có
Trôi lăn trong địa ngục
Ngạ quỷ và súc sinh.
Do sinh tử quấy nhiễu
Khổ não mê hoặc tâm
Đã biết do lìa ái
Đạt được đạo đệ nhất.
Ai mạnh mẽ đoạn ái
Thì không còn khổ não
Sẽ được ngủ an ổn
Là do lìa ân ái.
Người nào luôn siêng năng
Tu tập về trí tuệ
Không bị lưới ân ái
Trói buộc trong sinh tử.
Người nào tâm trống rỗng
Chán ghét lìa ái dục
Bỏ đồng trống ô uế
Đến được bờ giải thoát.
Những ai không chán khổ
Sẽ không mừng được vui
Người nào thoát khổ vui
Là đến thành Niết-bàn.
Những ai chịu tu tập
Luôn khởi tâm Từ bi
Người ấy biết nhân quả
Thoát khỏi lưới khổ đau.
Tâm không còn phân biệt
Trừ lỗi ý phân biệt
Người nào không lỗi lầm
Đạt được đạo vô thượng.
Hòa hợp có chia ly
Sắc đẹp phải suy tàn
Có thân đều phải chết
Tất cả pháp là thế.
Chư Thiên sắp đọa lạc
Tâm dục luôn hoạt động
Hãy biết các pháp này
Không nên sống phóng dật.
Kẻ ngu không hiểu biết
Luôn mong cầu dục lạc
Như tìm dầu trong cát
Thì không thể nào được.
Những ai thích phóng dật
Sẽ không có an vui
Phóng dật chịu khổ lớn
Như rễ cây chắc chắn.
Ta đã nói sự thật
Nghĩa của pháp, phi pháp
Ngươi hãy khéo suy nghĩ
Đừng để sau hối hận.
Nếu những kẻ ngu si
Không nghe lời dạy dỗ
Lúc chết khổ não đến
Lại sinh tâm hối hận.
Trải qua trăm ngàn ức
Na-do-tha triệu năm
Tất cả các Thiên chúng
Đều bị phóng dật dối.
Lửa vô thường đại kiếp
Đốt cháy núi chúa này
Huống gì thân chư Thiên N
hư bọt nước, thân chuối.
Các hành đều thay đổi
Các pháp là vô thường
Thế nên không tìm được
An lạc trong các pháp.

Đế Thích đã tìm cách nói pháp lợi ích cho Thiên tử mới sinh nhưng vì phóng dật nên Thiên tử không ghi nhớ một lời. Biết Thiên tử không ghi nhớ, Đế Thích yên lặng. Đảnh lễ Đế Thích xong, Thiên tử mới sinh cùng Thiên chúng ca múa vui chơi, các Thiên chúng trở về bản xứ vui chơi trong rừng cảnh. Khắp nơi đều có ao hoa, chim chóc hót rất hay, hang núi sáng rực Thiên chúng cùng vui chơi thọ lạc, phóng dật che lấp tâm, tham đắm dục lạc, bị lửa dục thiêu đốt, từ năm căn phát ra năm ngọn lửa bỗng chốc thiêu đốt cả hang tâm, phóng dật che lấp nên xem oán giặc là bạn thân. Tham đắm dục lạc đến khi nghiệp thiện hết, lưu chuyển theo nghiệp, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện được sinh trong cõi người, luôn được an vui, thân hình xinh đẹp, có vô lượng công đức thuộc dòng quý tộc, được mọi người yêu mến, hoặc được làm vua, quan, sống lâu, hưởng lạc đến hết đời là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam. Dùng văn tuệ biết trụ xứ thứ ba mươi ba của cõi này tên là Thanh tịnh. Do những nghiệp gì chúng sinh được sinh lên cõi này? Dùng văn tuệ biết chúng sinh có tâm thiện, tin nhân quả, giữ bảy chi giới, thương yêu tất cả chúng sinh, không gần gũi trò chuyện với kẻ ác, luôn tin Tam bảo, tâm ý thanh tịnh, tâm không chướng ngại, ý không tán loạn, không làm ác, không chơi với kẻ hạ tiện xấu ác, luôn nói lời hòa ái với mọi người, nói đúng thời có lợi ích, cúng dường Pháp sư, luôn nghe chánh pháp, bố thí theo khả năng, lúc đi đường không hề trộm một cọng cỏ của người. Thế nào là không sát sinh? Dù thấy ễnh ương, rắn không hề sinh tâm giết hại. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều yêu quý mạng sống, do vậy mà chuyên tâm nhìn kỹ đi thẳng không tổn hại chúng sinh. Lúc có bệnh, vì sợ chết nên mua thịt để chữa bệnh, lúc trời nắng hay vì lâu quá trong thịt sinh trùng, nếu vứt đi thì sợ trùng chết nên thà chết chứ không lấy trùng ra đó là bảo vệ mạng sống của chúng. Người này sợ mọi tội lỗi dù nhỏ. Thế nào là không trộm cướp? Người này luôn đem lợi ích cho mọi loài, thấy phân bò khô trên ruộng biết là của người thì không cố ý lấy, sợ phạm giới trộm. Người này bỏ tâm trộm, giữ giới thanh tịnh, không nhơ, không tạp nhạp. Sau khi chết người này được sinh lên cõi Thanh tịnh thuộc đường lành. Ở đây Thiên tử thọ hưởng an lạc thượng diệu, thân sáng hơn mặt trời, oai đức rực rỡ, thọ hưởng vô lượng diệu lạc cõi trời. Nhờ nghiệp thiện trăm ngàn Thiên nữ vây quanh trang sức vòng hoa y phục cõi trời, cùng Thiên nữ vui chơi thọ lạc trong vườn bảy báu. Sau đó lại đến rừng Lạc lộc đỉnh, thấy vườn xinh đẹp, Thiên tử vui mừng hỏi chư Thiên: Vì sao vườn này đẹp hơn các vườn khác? Có đủ hoa trái, hang núi, sông suối, chim chóc nhộn nhịp lại có nhiều nai báu. Các Thiên vương từng ở chỗ đó nói với Thiên tử mới sinh:

–Thiên tử! Xin biết cho, xưa tôi đã từng nghe Thiên tử trước đây nói rằng: Có Chuyển luân thánh vương tên Đảnh Sinh làm chủ bốn cõi, thọ hưởng vô lượng trăm ngàn diệu lạc không biết chán, dùng sức tự tại đến cõi trời này. Từ cõi trời Tứ Thiên vương đến đây phải mất vô số trăm ngàn năm nơi cõi người. Ở đây thọ hưởng dục lạc không biết đủ, họ cùng ngồi trò chuyện rồi cùng vui chơi với Đế Thích. Biết vườn này có vô số công đức nên họ đến đây vui chơi thọ lạc, vì thế vườn này đẹp cho đến bây giờ. Khi ấy, Đảnh Sinh vương cùng ở đây với Đế Thích tới lúc nghiệp thiện hết, bị thoái đọa. Ta đã từng nghe chư Thiên ở trước kể lại chứ chưa hề thấy: Vườn này xinh đẹp cho đến bây giờ. Nghe thế, Thiên tử mới sinh vui mừng không còn nghi ngờ, trổi năm âm nhạc, thọ hưởng năm dục lạc. Trong vườn có loài chim tên Hy lạp, nhờ nghiệp thiện chim hót kệ cho Thiên tử nghe:

Chính vì nhân tham ái
Tâm dục không biết đủ
Dục sinh từ tham ái
Tâm ý không thỏa mãn.
Tất cả các chúng sinh
Phần chết luôn xuất hiện
Dù tìm đủ mọi cách
Cũng không thể ngăn được.
Thọ hưởng mọi dục lạc
Nhất định bị thoái đọa
Vì vậy các Thiên tử
Hãy thuận hành chánh pháp.
Chỉ chánh pháp cứu được
Đưa đến con đường lành
Nhờ chánh pháp được sống
Không chánh pháp bị chết.
Người nào thích chánh pháp
Luôn luôn thực hành theo
Từ vui được chốn vui
Không hề thấy khổ não.
Ai không thích chánh pháp
Thích làm việc trái pháp
Sẽ đọa vào địa ngục
Luôn chịu những khổ đau.
Những trụ xứ cõi trời
Ta đã nói rõ hết
Ngoài ra không có được
Những trụ xứ nào khác.
Cõi trời Tam thập tam
Không phải chỗ vi diệu
Làm sao thoát thần chết
Do nghiệp lực vô thường.
Nên biết nhân duyên ấy
Là các pháp vô thường
Pháp Đế Thích đã nói
Mà chư Thiên không hiểu.
Tài trí Kiều-thi-ca
Thân Ngài như kho quý
Yêu thích hoa câu-xa
Lánh xa những kẻ ác.
Là cha mẹ chư Thiên
Giỏi giảng thuyết chánh pháp
Chư Thiên ngu không nghe
Do phóng dật, tâm loạn.

Chim ấy hót kệ xong, nhưng vì phóng dật Thiên tử không biết nhàm chán, vì phóng dật che lấp tâm nên không thọ lãnh lời đó, vẫn cứ tham dục, chỉ nhìn ở hiện tại, không nghĩ đến vị lai. Ở đấy thọ hưởng dục lạc đến khi nghiệp thiện hết, vị ấy qua đời, lưu chuyển theo nghiệp đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu còn nghiệp thiện khác, được sinh trong cõi người, luôn được an vui, thích làm việc lành, thân hình xinh đẹp, được mọi người yêu mến là nhờ dư báo.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Đã biết quả báo của nghiệp, hãy quan sát trụ xứ của cõi trời Tam thập tam, ngoài trụ xứ Tam thập tam ra không còn trụ xứ nào khác. Tự nghĩ chỉ có ba mươi ba trụ xứ này ngoài ra không còn trụ xứ nào khác. Đây là nơi của Thiên vương Thích-ca. Thiên vương có đủ phước đức quyền lực, không ai có được.

Cứ thế quan sát đến Thiên chúng nơi tầng trời thứ hai, nhân quả tương xứng, liên tục sinh khởi, gương nghiệp tương xứng nhau mỗi nơi đều sai khác. Quan sát xong, Tỳ-kheo chán ngán, lo sợ vô số sự sinh tử. Sinh tử là nơi nguy hiểm, có đủ khổ: Ái biệt ly (yêu thương phải xa lìa), oán tắng hội (oán ghét phải gặp nhau), già, bệnh, chết là chốn khổ não thấy vậy Tỳ-kheo chán ngán, than ôi: Thế gian là khổ lớn, cứ chìm trong nơi khổ đau nguy hiểm sinh, già, bệnh, chết mà không hay biết, không mong ra khỏi sự sinh tử ấy, không có chút vui là pháp vô thường, hư hoại, biến đổi, chúng sinh ngu si không hay biết, vì thân làm nhiều việc ác, tuy thân hư hoại nhưng lưới nghiệp vẫn buộc ràng. Quan sát xong Tỳ-kheo nói kệ: Tất cả vật cúng dường

Giường nệm và đồ nằm
Thân này sẽ hư hoại
Không có ai cứu được.
Không nhớ đến ân ái
Được dịp thì hại mình
Người trí biết giặc thân
Không gây tạo việc ác.
Thân là nơi bệnh hoạn
Khổ đau đều tập hợp
Nơi chứa nhóm bất tịnh
Chính là cái thân này.
Người trí quan sát kỹ
Thần chết luôn xuất hiện
Thân mạng không trường tồn
Bỗng chốc sẽ hoại diệt.
Thân này già từng phút
Không thể trẻ lại được
Bị ngu si mê hoặc
Ỷ trẻ nhiều tài sản.
Nên luôn luôn kiêu mạn
Không lợi ích bản thân
Của cải đều mất hết
Nghiệp ác lại đốt thân.
Nếu không chịu bố thí
Sẽ không được quả vui
Của cải sẽ tiêu hết
Vì tham nên cố giữ.
Nếu đem của cải đó
Cúng dường cho sư trưởng
Thì của đó còn mãi
Keo kiệt, của như cỏ.
Sự tịnh tâm bố thí
Như người dắt kẻ mù
Đời này đến đời sau
Bảo vệ kẻ yếu kém.
Phước giữ bảy chi giới
Không hủy hoại giới nào
Giới bảo vệ trượng phu
Được sinh lên cõi trời.
Người có trí thù thắng
Luôn thích dẹp phiền não
Người này thoát dây trói
Được đến nơi bất thoái.
Biển lớn nơi nguy hiểm
Giới là thuyền bền chắc
Nếu được tâm vô cấu
Là đến bờ giải thoát.

Tỳ-kheo quan sát và biết rõ về quả báo bố thí, trì giới, trí tuệ, quan sát ba đế xong, đạt Địa thứ mười tám, chán ngán sinh tử, siêng năng tu hành để cầu Niết-bàn, không ở cảnh giới của ma. Địa hành Dạ-xoa biết việc này nói với Hư không Dạ-xoa, Hư không Dạ-xoa nói với Tứ Hộ thế, Tứ Hộ thế nói với Thiên tử cõi trời Tam thập tam, Thiên tử cõi trời Tam thập tam nói với Thiên tử trời Dạ-ma. Cứ thế cho đến cõi trời Quan âm, như đã nói ở trước.