KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 4: HỮU Y HÀNH

(Từ giữa Quyển 5 đến đầu Quyển 7)

Lúc bấy giờ, ở giữa chúng hội Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, bày một vai áo, gối phải sát đất, chắp tay cung kính, nói bài tụng:

Xưa nói phá giới mất thanh tịnh
Chẳng phải Hiền thánh hay đệ tử
Với pháp mà Sa-môn vứt bỏ
Không được ở trong chúng thanh tịnh.
Bị ba cấu uế diệt mất đạo
Không thể tiêu dùng vật cúng dường
Đối với vật cúng bốn phương Tăng
Ta cũng không cho nhận chút phần.
Phạm một trong bốn tội căn bản
Chúng gạt bỏ như thây trong biển
Nay vì sao nói Bí-sô ác
Nên nhẫn, phải thương, chớ trách phạt?
Lại phải siêng cúng dường người đó
Chớ sinh tâm xấu, nên thương xót
Cung kính lắng nghe lời thuyết pháp
Sẽ được phước đức, tuệ đại Bi.
Các kinh nói sáu thông cứu thế
Đại thừa các ông phải nên tin
Đạo Bồ-đề chân chánh vi diệu
Đường giải thoát nên bỏ Nhị thừa.
Nay vì sao lại nói ba thừa
Khuyên lãnh thọ tu cúng dường khắp
Căn lực giác đạo quả Sa-môn
Trong kinh này có gì khác không?
Không gì bằng tám chi Thánh đạo
Ba thừa đều tu theo pháp này
Mong cầu giải thoát siêng tinh tấn
Tùy theo sở nguyện chứng Bồ-đề.
Nên chăm sóc đến chúng hữu tình
Xưa nay dạy bảo không sai trái
Làm cho trời, người, chư Bồ-tát
Hiểu rõ, hoan hỷ, chứng chân thật.
Nghe pháp Đại thừa, ai có ích
Nghe pháp Đại thừa, ai tổn giảm
Mười pháp giải thoát Thanh văn thừa
Nghe pháp ai tổn, ai có ích.
Người nào nghe pháp liền thăng tiến
Người nào nghe pháp lại trầm trệ
Làm sao chán ghét pháp hữu vi
Để mau khô cạn dòng lão tử.
Ngày đêm siêng tu các pháp thiện
Nương diệu lý và pháp thừa nào
Để vượt bốn bộc lưu sâu rộng
Giảng thuyết chánh pháp cứu quần sinh.

Phật bảo Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Lành thay, lanh thay! Thiện nam! Nay ông vì muốn làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình và làm lợi ích lớn cho chư Thiên, Người, A-tố-lạc… mà thưa hỏi Như Lai nghĩa thâm sâu này. Ông nên lắng nghe, suy nghĩ kỹ, ta sẽ phân biệt giải rõ cho.

Bồ-tát Kim Cang Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con rất muốn được nghe.

Phật bảo:

–Này thiện nam! Có mười loại hữu tình luân hồi trong sinh tử, khó được làm người. Mười loại đó là:

  1. Không gieo căn lành.
  2. Chưa tu nghiệp phước lành.
  3. Luôn luôn bị tạp nhiễm.
  4. Làm theo bạn ác.
  5. Không thấy, không sợ quả khổ đời sau.
  6. Tham dục mạnh mẽ.
  7. Sân giận dữ dội.
  8. Ngu si vô cùng.
  9. Tâm mê mờ cuồng loạn.
  10. Chấp tà kiến ác.

Mười điều này làm nhân cho pháp Vô y hành, khiến cho các chúng sinh hủy phạm giới cấm, phạm tội căn bản, đọa các đường ác.

Những gì là mười pháp không nên làm theo?

  1. Người xuất gia trong giáo pháp ta có gia hạnh hoại, ý lạc bất hoại.
  2. Có ý lạc hoại, gia hạnh bất hoại.
  3. Có gia hạnh, ý lạc đều hoại.
  4. Hoặc có giới hoại, kiến bất hoại.
  5. Có kiến hoại, giới bất hoại.
  6. Hoặc giới, kiến đều hoại.
  7. Hoặc đối với gia hạnh, ý lạc, giới, kiến tuy đều bất hoại, nhưng chỉ vì nương theo bạn ác mà làm các pháp Vô y hành.
  8. Hoặc tuy nương theo bạn lành, nhưng vì ngu si cũng như dê câm, nên đối với các sự việc đều không phân biệt, nghe bạn lành nói pháp thiện hay bất thiện đều không thể lãnh tho, ghi nhớ, không thể hiểu rõ nghĩa thiện hay bất thiện, do đó làm các pháp Vô y hành.
  9. Hoặc đối với các loại tài vật quý báu có đầy đủ vẫn không nhàm chán tìm cầu nên tâm mê loạn, làm các pháp không nên làm theo.
  10. Hoặc bị bệnh tật bức bách làm khổ não, liền tìm cầu các pháp cúng tế, chú thuật, do đó làm các pháp không nên làm theo.

Mười loại nhân Vô y hành như vậy khiến cho các chúng sinh phạm tội căn bản. Ở trong pháp này chang phải là bậc Hiền thánh, hủy phạm giới cấm, mới đọa vào các đường ác.

Này thiện nam! Nếu có Bổ-lặc-già-la, người nào gia hạnh hoại, ý lạc bất hoại tùy theo gặp một loại nhân Vô y hành nên làm theo, phạm phải tội căn bản, liền sợ hãi, xấu hổ mà xả bỏ, không thường làm các hạnh ác. Vì lợi ích của họ nên Như Lai giảng thuyết về Samôn ô đạo. Vì sao? Vì những người ấy đã tạo ra các nghiệp ác nặng như vậy rồi, liền phát lồ không dám che giấu, biết xấu hổ mà sám hối. Nhờ sám hối nên tội được tiêu trừ, chấm dứt không gây ra nữa. Tuy đối với tất cả pháp sự của Sa-môn đều nên đuổi khỏi, đều không cho dùng vật dụng riêng tư, nhưng do người ấy ở trong ba thừa thành tựu pháp khí nên Như Lai thương xót thuyết pháp Thanh văn thừa cho họ, hoặc thuyết pháp Duyên giác thừa, hoặc thuyết pháp Vô thượng thừa cho họ. Nhờ đó, người ấy khi sinh qua đời thứ hai, thứ ba sẽ phát nguyện chân chánh, gặp được bạn lành, tất cả nghiệp chướng đều tiêu trừ, hoặc chứng đắc quả Thanh văn thừa, hoặc chứng đắc quả Duyên giác thừa để nhập Niết-bàn, hoặc ngộ nhập lý Vô thượng thừa thâm sâu, rộng lớn.

Như vậy giới hoại, kiến bất hoại nên biết cũng vậy. Như vậy người nào ý lạc hoại, gia hạnh bất hoại, vì lợi ích của họ nên Như Lai vui vẻ thuyết pháp cầu bốn phạm trụ. Vị ấy là bậc Thanh văn thừa, hoặc là bậc Duyên giác thừa. Người nào gia hạnh, ý lạc đều hoại, đối với các thừa đều chẳng phải là bậc Pháp khí, vì lợi ích của họ nên Như Lai vui vẻ thuyết pháp bố thí. Người nào kiến hoại, giới bất hoại, vì lợi ích của họ nên Như Lai thuyết pháp duyên khởi, làm cho họ xả bỏ ác kiến, ngay đời này có thể nhập pháp Thanh văn hoặc pháp Duyên giác, hoặc đời khác mới có thể ngộ nhập. Người nào giới, kiến đều hoại, đối với Thánh pháp cũng không thành tựu, vì lợi ích của họ nên Như Lai vui vẻ thuyết pháp bố thí. Người nào gia hạnh, ý lạc, giới, kiến bất hoại mà lại nương theo việc làm của bạn ác, vì lợi ích của họ nên Như Lai vui vẻ giảng thuyết pháp mười nghiệp đạo thiện. Người nào tuy nương theo việc làm của bạn lành, nhưng lại ngu độn như dê câm, không thể lãnh thọ pháp thiện hay bất thiện, vì lợi ích của họ nên Như Lai vui vẻ thuyết giảng pháp tập tụng. Nếu bị các thứ tham lam, bệnh tật bức bách, hoặc bị các kiến thú làm mê hoặc thì Như Lai vì lợi ích cho chúng hữu tình đều làm như vậy. Đối với người cầu giải thoát thì chỉ dạy làm cho họ ra khỏi đường sinh tử; Đối với Thanh văn thừa thì giảng pháp Tứ Thánh đế; Đối với người luận về đoạn kiến thì giảng pháp duyên khởi, đối với người luận về thường kiến thì thuyết các pháp vô thường để thấy cúng dường trôi lăn khắp các nẻo trong ba cõi, chết nơi này, sinh nơi kia như bàn quay của người thợ gốm, qua lại không dứt.

Này thiện nam! Như Lai không có nói danh tự, không có nói âm thanh, cũng không có nói quả chứng mà tất cả đều vì sự giáo hóa hữu tình. Vì vậy, tất cả lời hủy báng chánh pháp do Như Lai thuyết ra tức là hủy hoại con mắt chánh pháp của các hữu tình. Tội ấy còn hơn các tội vô gián, mắc vô lượng tội nặng như tội vô gián.

Nếu có người ở trong chánh pháp của ta vì muốn làm lợi lạc cho tất cả các hữu tình mà thuyết chánh pháp, nghĩa là nương vào Thanh văn thừa mà thuyết chánh pháp, hoặc nương vào Duyên giác thừa mà thuyết chánh pháp, hoặc nương vào Đại thừa mà thuyết chánh pháp, nhưng lại có người phỉ báng, ngăn chặn, làm chướng ngại cho đến một bài tụng cũng ngăn cản thì nên biết đó là kẻ phỉ báng chánh pháp, cũng gọi là kẻ hủy diệt tám Thánh đạo, cũng gọi là kẻ phá hoại con mắt chánh pháp của tất cả hữu tình. Người như vậy tự mình đã quen làm việc không có lợi ích, cũng làm cho tất cả hữu tình quen làm việc không có lợi ích. Người này dựa theo các vị Tăng không biết hổ thẹn, như vậy là hủy báng chánh pháp của Như Lai.

Lại nữa, thiện nam! Có bốn hạng Tăng:

  1. Tăng thắng nghĩa.
  2. Tăng thế tục.
  3. Tăng như dê câm.
  4. Tăng không biết hổ thẹn.

Thế nào là Tăng thắng nghĩa? Nghĩa là Phật Thế Tôn hoặc chư Đại Bồ-tát có oai đức tôn quý, đối với tất cả pháp đều được tự tại; hoặc Độc giác, hoặc A-la-hán, hoặc Bất hoàn, hoặc Nhất lai, hoặc Dự lưu, bảy bậc này thuộc Tăng thắng nghĩa. Nếu các hữu tình có hình tướng tại gia, không cạo bỏ râu tóc, không mặc áo ca-sa, tuy không được thọ tất cả các giới biệt giải thoát của hàng xuất gia, tất cả các yết-ma, bố tát, tự tứ đều không được dự, nhưng có Thánh pháp, chứng đắc quả Thánh, nên cũng thuộc Tăng thắng nghĩa.

Thế nào là Tăng thế tục? Nghĩa là những vị cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, thọ đầy đủ các giới biệt giải thoát của hàng xuất gia, gọi là Tăng thế tục.

Thế nào gọi là Tăng như dê câm? Nghĩa là những vị không biết rõ các tội căn bản phạm hay không phạm, không biết các tội phạm nặng hay nhẹ, không biết tùy phạm nhỏ, tội lỗi nhỏ, không biết phát lồ sám hối tội đã phạm, ngu si mê muội, không biết không sợ tội lỗi nhỏ, không nương theo bậc Hiền sĩ thông minh, không khi nào đi đến gần gũi các bậc Đa văn thông minh để, phụng sự, cũng không thường cung kính thưa hỏi thế nào là thiện, thế nào là bất thiện, thế nào là có tội, thế nào là vô tội, tu như thế nào là đúng, làm như thế nào là sai? Tất cả những người này thuộc Tăng như dê câm, gọi đó là Tăng như dê câm.

Thế nào là Tăng không biết hổ thẹn? Nghĩa là có hữu tình vì mạng sống mà quy y, cầu xuất gia trong pháp của ta, được xuất gia rồi đối với giới biệt giải thoát đã thọ trì lại hủy phạm, không biết hổ thẹn, không thấy không sợ quả khổ đời sau, trong tâm thối nát như ốc sên hôi nhơ, tiếng nói như loa, việc làm như chó, ưa nói dối, không có một lời chân thật, tham lam keo kiệt, ganh ghét, ngu si, kiêu mạn, xa lìa ba nghiệp tốt, tham đắm vào lợi dưỡng, cung kính hảo danh, đam mê sáu trần, ưa thích dâm dật, ham muốn sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, sự xúc chạm. Tất cả những người như vậy thuộc Tăng không biết hổ thẹn, sẽ huỷ báng chánh pháp, gọi chung là Tăng không biết hổ thẹn.

Này thiện nam! Tăng thắng nghĩa ở đây cũng thuộc Sa-môn thắng đạo. Nói thắng đạo nghĩa là có thể nương theo tám chi Thánh đạo, tự mình giải thoát khỏi tất cả dòng chảy phiền não, cũng làm cho người khác giải thoát. Điều này nghĩa là như thế nào? Nghĩa là Phật Thế Tôn, Độc giác, A-la-hán, ba bậc này đã dứt bỏ tất cả quyến thuộc nên gọi là thắng đạo.

Lại có chúng Đại Bồ-tát không nhờ vào các duyên khác, đối với tất cả pháp đều thấy biết không bị chướng ngại, giáo hóa làm lợi lạc cho tất cả hữu tình cũng thuộc Sa-môn thắng đạo. Tăng thắng nghĩa và Tăng thế tục ở trong hoặc hữu, cũng là thuộc Sa-môn thị đạo. Hoặc có hàng phàm phu chân thiện, thành tựu giới biệt giải thoát cho đến đầy đủ chánh kiến thế gian, do có sự biện tài vô ngại nen chư vị đó có thể giảng thuyết, chỉ dạy các Thánh pháp cho mọi người. Nên biết hạng người này là hạng Sa-môn thị đạo thấp nhất, hạng chứng quả Dự lưu là thứ hai, hạng chứng quả Nhất lai là thứ ba, hạng chứng quả Bất hoàn là thứ tư. Lại có chúng Đại Bồ-tát là thứ năm, nghĩa là trụ Địa thứ nhất đến Địa thứ mười, cho đến an trụ thân sau cùng, tất cả đều thuộc Sa-môn thị đạo.

Hoặc có vị thành tựu giới biệt giải thoát, oai nghi phép tac thanh tịnh, hoàn thiện, đó là thuộc về Sa-môn mạng đạo. Vì sống có đạo đức, phép tắc nên gọi là mạng đạo. Lại có chúng Đại Bồ-tát vì muốn giáo hóa làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, nên tu hành viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, cũng gọi là mạng đạo.

Ba hạng Sa-môn: Thắng đạo, thị đạo, mạng đạo, như vậy được gọi là ruộng phước chân thật của thế gian. Các hạng Sa-môn khác gọi là ô đạo, tuy chẳng phải chân thật cũng được ở trong số bậc Phước điền.

Hoặc có người nương theo các vị Tăng không biết hổ thẹn, ở trong chánh pháp Tỳ-nại-da của ta gọi là tử thi, chúng thanh tịnh nên sẽ tẩn khí chẳng phải là bậc Pháp khí. Ta không phải là Đại sư của người ấy, người ấy cũng chẳng phải là đệ tử của ta.

Hoặc có vị Tăng không biết xấu hổ, không xứng đáng là bậc Pháp khí nhưng xưng ta là thầy, đối với xá-lợi và hình tượng của ta sinh tâm tin kính sâu xa, đối với Thánh giáo, giới pháp của ta cũng sinh tâm tin kính sâu xa, tự mình đã không chấp các tà kiến, cũng không làm cho người khác chấp vào các tà kiến, có thể giảng thuyết chánh pháp của ta cho mọi người, khen ngợi tán thán mà không sinh tâm hủy báng, thường phát nguyện chân chánh tùy theo tội đã phạm mà chừa bỏ, phát lồ sám hối, nên các nghiệp chướng đều có thể tiêu trừ. Nên biết, hạng người này tin kính oai lực giới pháp Tam bảo, vượt hơn chín mươi lăm ngoại đạo đến hàng trăm ngàn lần, nhưng vẫn không thể mau đến thành Niết-bàn. Chuyển luân thánh vương còn không thể sánh bằng, huống chi là các loài hữu tình khác. Do nghĩa này nên Như Lai quán sát tất cả hữu tình, tướng của các nghiệp pháp thọ khác nhau, rồi nói như vầy:

–Những người ở trong giáo pháp của ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, ta hoàn toàn không cho Sát-đế-lợi hủy nhục, quở trách. Nếu ai hủy nhục, trách phạt tất cả người xuất gia thì mắc tội như đã nói rõ ở trên.

Lại có người nương theo giáo pháp của ta, bỏ tục xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, liền được tất cả chư Phật trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại Từ bi hộ niệm. Người có oai nghi, hình tướng pháp phục ca-sa cũng được chư Phật Thế Tôn trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại Từ bi bảo hộ. Vì thế, khinh thường, hủy nhục người xuất gia, người đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, tức là khinh thường, hủy nhục tất cả chư Phật Thế Tôn trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại. Do đó, người có trí tuệ chán sợ các khổ, ưa thích mong cầu Niết-bàn an lạc nhân thiên thì không nên khinh thường, hủy nhục người bỏ tục xuất gia, cạo tóc, mặc ca-sa.

Lại có những vị Tăng không biết xấu hổ, phá hủy giới cấm, không xứng đáng là bậc Pháp khí Hiền thánh của ba thừa, tự mình chấp chặt các tà kiến, lại hay làm cho người khác chấp vào các tà kiến. Nghĩa là: Cho Sát-đế-lợi chân thiện, Tể quan chân thiện, Cư sĩ chân thiện, Trưởng giả chân thiện, Sa-môn chân thiện, Bà-la-môn chân thiện, Phiệt-xá chân thiện, Mậu-đạt-la chân thiện, hoặc nam, hoặc nữ đều nói: Các thế gian không có cha, không có mẹ, cho đến không có nghiệp thiện, nghiệp ác, quả báo, không có khả năng chứng đắc Thánh quả, tất cả các pháp không do nhân mà sinh.

Hoặc chấp rằng: Sắc giới là thường, không biến hoại; hoặc chấp Vô sắc giới là thường, không có biến hoại; hoặc chấp ngoại đạo tu các pháp khổ hạnh được rốt ráo thanh tịnh; hoặc chấp chỉ có Thanh văn thừa được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải Độc giác thừa, cũng chẳng phải Đại thừa. Đối với Thanh văn thừa thì tin kính, khen ngợi, giảng thuyết, chỉ dạy, còn đối với Độc giác thừa và Đại thừa thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che lấp không cho luu thông rộng rãi. Hoặc chấp chỉ có Độc giác thừa được rốt ráo thanh tịnh, chứ Thanh văn thừa, Đại thừa đều không được. Đối với Độc giác thừa thì tin kính, khen ngợi, giảng thuyết, chỉ dạy, còn đối với Thanh văn thừa và Đại thừa thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che lấp, không làm cho lưu thông rộng rãi. Hoặc chấp chỉ có Đại thừa mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ Thanh văn thừa, Độc giác thừa đều không được. Đối với pháp Đại thừa, tự mình tin kính và dạy bảo người khác tin kính, tự mình cung kính và dạy bảo người khác cung kính, tự mình khen ngợi và dạy bảo người khác khen ngợi, tự mình ghi chép và bảo người khác ghi chép, tự mình đọc tụng và dạy bảo người khác đọc tụng, tự mình lắng nghe và dạy bảo người khác lắng nghe, tự mình tư duy và dạy bảo người khác tư duy.

Đối với các hữu tình khác hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí đều vì họ mà giảng thuyết, chỉ dạy, giải thích giáo nghĩa pháp Đại thừa thâm sâu vi diệu. Còn đối với Thanh văn thừa và Độc giác thừa thì phỉ báng, khinh chê làm chướng ngại che lấp, không cho lưu thông rộng rãi, tự mình không sinh lòng tin kính, còn làm chướng ngại người khác sinh lòng tin; tự mình không cung kính, còn làm chướng ngại người khác cung kính; tự mình không khen ngợi, còn làm chướng ngại người khác khen ngợi; tự mình không ghi chép, còn làm chướng ngại người khác ghi chép; tự mình không đọc tụng, lắng nghe, suy nghĩ, còn làm chướng ngại người khác đọc tụng, lắng nghe, suy nghĩ; không ưa giảng thuyết, chỉ dạy, giải thích giáo nghĩa pháp ba thừa. Hoặc chấp chỉ có tu bố thí mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu giới, nhẫn, cho đến chẳng phải tu tuệ mà được. Hoặc chấp chỉ có tu cấm giới mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu bố thí, nhẫn, cho đến chẳng phải tu tuệ mà được. Hoặc chấp chỉ có tu nhẫn nhục mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu bố thí, trì giới, cho đến chẳng phải tu tuệ mà được. Hoặc chấp chỉ có tu tinh tấn mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu bố thí, trì giới, cho đến chẳng phải tu tuệ mà được. Hoặc chấp chỉ có tu tĩnh lự mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu bố thí, trì giới, cho đến chẳng phải tu tuệ mà được. Hoặc chấp chỉ có tu tuệ mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu bố thí, trì giới, cho đến chẳng phải tu định mà được. Hoặc chấp chỉ có trí học tập các nghề nghiệp thế gian mới được rốt ráo thanh tịnh. Hoặc chấp rằng chỉ có tu các hạnh: Gieo mình vào nơi hiểm trở, lăn vào ngọn lửa, nhịn đói mới được rốt ráo thanh tịnh.

Này thiện nam! Bí-sô phá giới làm hạnh ác này chẳng phải là bậc Pháp khí, dùng các thứ làm mê hoặc các hữu tình, mê hoặc các bậc Pháp khí chân thiện, làm cho họ chấp vào tà kiến. Do bị tà kiến điên đảo nên họ phá hoại vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Miệt đạt la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ có lòng tin, giới, văn, xả, tuệ thanh tịnh, chuyển các vị Sát-đế-lợi thành Chiên-trà-la, cho đến Phiệt-xá, Miệt-đạt-la… thành Chiên-trà-la. Bí-sô phá giới và Sát-đế-lợi Chiêntrà-la này chẳng phải là bậc Pháp khí, thầy và đệ tử đều mất căn lành, cho đến sẽ đọa vào địa ngục Vô gián.

Này thiện nam! Như thây chết sình trướng, hôi thối, những người đến gần đều bị mùi hôi ấy xông nhiễm vào, tùy theo chỗ tiếp xúc với tử thi hôi thối mà bị mùi hôi xông nhiễm. Cũng vậy, Sát-đếlợi chân thiện cho đến Miệt-đạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ tùy theo sự thân cận Bí-sô phá giới làm hạnh xấu ác, chẳng phải là bậc Pháp khí, hoặc giao du, hoặc ở chung, hoặc cùng làm việc, tùy theo đó mà bị mùi hôi ác kiến xông nhiễm. Như vậy, làm cho Sát-đế-lợi chân thiện kia, cho đến Miệt-đạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ thoái lui lòng tin, giới, văn, xả, tuệ thanh tịnh thành Chiên-trà-la, thầy và đệ tử đều đoạn mất căn lành, cho đến sẽ đọa vào địa ngục Vô gián.

*********

Này thiện nam! Ông xem các vị Sát-đế-lợi và vô lượng hữu tình này gần gũi những người phá giới, làm việc xấu ác, chẳng phải là bậc Pháp khí, ở trong Tăng sẽ bỏ mất tất cả những pháp lành đã có, cho đến sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. Vì vậy, muốn được sinh cõi trời, chứng quả Niết-bàn an vui thù thắng đều phải gần gũi phụng sự, cúng dường các vị Sa-môn thắng đạo, thưa hỏi, lắng nghe giáo pháp ba thừa, hoặc mong cầu Sa-môn thị đạo, mạng đạo. Nếu không gặp ba hạnh Sa-môn này thì mong cầu Sa-môn ô đạo. Tuy hạng Sa-môn này phá giới nhưng có chánh kiến, đầy đủ ý lạc và gia hạnh nên vẫn có thể đến thân cận, phung sự, cúng dường, thưa hỏi, lắng nghe giáo pháp ba thừa. Không nên thân cận phụng sự, cúng dường người có gia hạnh, ý lạc, kiến hoại. Tuy hạng Sa-môn kia hoại giới nhưng không có tà kiến, đầy đủ ý lạc, gia hạnh, kiến, nên vẫn có thể đến thưa hỏi, lắng nghe pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa mà không nên khinh chê, tùy theo ý thích phát nguyện tinh tấn học một trong ba thừa, không khinh chê các thừa khác. Nếu người nào khinh chê Nhất thừa cho đến một bài tụng trong ba thừa thì không nên thân cận, giao tiếp, hoặc cùng ở chung, cùng làm việc. Nếu thân cận hoặc giao tiếp, cùng ở chung, cùng làm việc nhất định đều sẽ đọa vào địa ngục Vô gián.

Này thiện nam! Vì thế, nếu người nào muốn nương theo một trong ba thừa để mong cầu ra khỏi sinh tử, nhàm chán đau khổ, ưa thích an lạc thì nên nương vào chánh pháp Như Lai giảng thuyết, hoặc nương vào chánh pháp giảng thuyết cua Thanh văn thừa, hoặc

nương vào chánh pháp giảng thuyết của Độc giác thừa, hoặc nương vào chánh pháp giảng thuyết của Đại thừa và phải có lòng tin kính sâu rộng, chớ sinh tâm phỉ báng làm chướng ngại, che mờ dù chỉ một bài tụng, phải thường xuyên cung kính, đọc tụng, lắng nghe giáo pháp và phát nguyện chân chánh, kiên cố để mong cầu chứng đắc. Nếu ai chỉ phỉ báng một pháp nào đó trong ba thừa thì không nên ở chung dù chỉ một đêm, không nên thân cận, thưa hỏi giáo pháp. Các hữu tình nào phỉ báng một trong ba thừa, hoặc là thân cận, thưa hỏi, lãnh thọ người phỉ báng ba thừa, do nhân duyên đó chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, chịu khổ não lớn, khong có thời kỳ ra khỏi. Vì sao? Này thiện nam! Vì ở đời quá khứ, khi ta tinh tấn tu hạnh Bồ-tát, để mong cầu chứng đắc trí Vô thượng; hoặc vì mong cầu mà nương vào chánh pháp giảng thuyết của Thanh văn thừa cho dù một bài tụng mà phải xả bỏ thân mình, tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não; hoặc vì mong cầu mà nương vào chánh pháp giảng thuyết của Độc giác thừa, cho dù một bài tụng mà phải xả bỏ thân mình, tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não; hoặc vì mong cầu mà nương vào chánh pháp giảng thuyết của Đại thừa cho dù một bài tụng mà phải xả bỏ thân mình, tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não.

Ta chịu khổ nhọc như vậy là để mong cầu dù chỉ một bài tụng trong ba thừa rồi sinh tâm hoan hỷ, cung kính, lãnh thọ, gìn giữ, đúng như pháp mà tu hành, không lúc nào tạm bỏ, trải qua vô lượng kiếp tu tập tất cả hạnh khổ khó làm mới chứng được quả thắng trí vô thượng cứu cánh. Cũng vì lợi ích an lạc cho các hữu tình mà giảng thuyết chỉ bày chánh pháp ba thừa, vì nghĩa này nên không được phỉ báng làm chướng ngại, ngăn che, cho dù một bài tụng mà thường phải cung kính, đọc tụng, lắng nghe, phát nguyện chân chánh, kiên cố, mong cầu chứng đắc.

Này thiện nam! Chánh pháp giải thoát của ba thừa như vậy, tất cả hằng hà sa số chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều giảng thuyết, đều dùng đại lực oai thần hộ trì. Vì muốn cứu giúp khổ lớn sinh tử của tất cả hữu tình, vì muốn làm cho hạt giống Tam bảo hưng thịnh, không để đoạn tuyệt nên đối với chánh pháp ba thừa này phải tin kính, chớ hủy báng, chớ làm chướng ngại, ngăn che. Nếu phỉ báng, làm chướng ngại, ngăn che chánh pháp ba thừa này dù chỉ một bài tụng thì nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián.

Lại nữa, này thiện nam! Vào đời vị lai, ở cõi Phật này có hạng Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan Chiên-trà-la, Cư sĩ Chiên-trà-la, Trưởng giả Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Bà-la-môn Chiên-tràla, Phiệt-xá Chiên-trà-la, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, hoặc nam, hoặc nữ chúng dua nịnh, dối trá, ngu si, kiêu mạn, cho mình là thông minh, tánh hung dữ, bạo ngược, không thấy không sợ quả khổ đời sau, ưa thích sát sinh cho đến tà kiến, ganh tỵ, tham lam keo kiệt, oán ghét bạn lành, thân gần bạn ác, chẳng phải là pháp khí của bậc Hiền thánh ba thừa. Hoặc là hạng người ít nghe và tu tập pháp Thanh văn thừa, nên đối với pháp Độc giác thừa, Vô thượng thừa được chư Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi. Hoặc là hạng người ít nghe và tu tập pháp Độc giác thừa, nên đối với pháp Thanh văn thừa, Vô thượng thừa được chư Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi. Hoặc là hạng người ít nghe và tu tập pháp Vô thượng thừa nên đối với pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa được chư Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi. Vì cầu danh lợi mà những hạng người đó nói: “Ta là Đại thừa, là người thuộc về Đại thừa, chỉ thích nghe, tu tập, thọ trì Đại thừa, không thích pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa, không thích thân cận người học hai thừa.” Những người dối xưng là Đại thừa như vậy là do ngu si, kiêu mạn, ỷ thế lực. Như vậy là hủy báng, là chướng ngại, che mờ chánh pháp ba thừa, không làm cho lưu truyền, ganh ghét đố kỵ người tu học giáo pháp ba thừa, phỉ báng hủy nhục, làm cho không có oai lực.

Này thiện nam! Tất cả chư Phật Thế Tôn và chư Đại Bồ-tát trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai vì muốn làm lợi lạc cho tất cả hữu tình nên dùng lực đại Bi hộ trì hai việc: Một là: Muốn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo, không để đoạn tuyệt, bỏ tục xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa. Hai là: Giáo pháp ba thừa tương ưng với pháp bốn Thánh đế. Đó là hai việc, chỉ Phật Thế Tôn và chư Đại Bồ-tát khéo léo hộ trì, chẳng phải các Thanh văn, Độc giác, cũng chẳng phải trăm ngàn vô số Đại phạm Thiên vương và Thiên vương Đế Thích, Chuyển luân vương bốn đại châu mà có thể hộ trì được!

Ở đời vị lai, trong cõi Phật này có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la do nương pháp của ta mà được xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, tìm cách dò xét những lỗi lầm sai phạm của người khác, dùng các cách quở trách, hủy nhục hoặc dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc đoạt lấy của cải, hoặc lột áo ca-sa bắt hoàn tục, làm các việc thế tục, hoặc đuổi đi quân dịch, hoặc lạm dụng sai khiến, hoặc không cho ăn uống, hoặc hại thân mạng. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la ấy, do ngu si, kiêu mạn, ỷ thế lực, hủy nhục, trách phạt các vị tu hành, chư Phật, Bồ-tát sẽ dùng sức đại Bi hộ trì các đệ tử của ta. Họ phỉ báng, hủy diệt giáo pháp, chư Phật, Bồ-tát sẽ dùng sức đại Bi hộ trì giáo pháp thâm dieu của ta. Chư Phật, Bồ-tát ba đời cũng sẽ hộ trì chánh pháp ba thừa mà bọn chúng đã làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi.

Có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Phiệt-xá, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, hoặc nam hoặc nữ vì ngu si, kiêu mạn, tự xưng là Đại thừa, những người ấy chẳng phải là pháp khí hai thừa Thanh văn, Độc giác, làm gì có thể là pháp khí Đại thừa Vô thượng. Họ chỉ vì cầu lợi dưỡng, cung kính hảo danh tự mà doi gạt thế gian, ngu si tự nói: “Chúng tôi là người Đại thừa, hủy báng chánh pháp hai thừa của Như Lai.” Những người này do ngu si, lừa gạt, kiêu mạn, ganh ghét, tham lam keo kiệt, phá hủy Pháp nhãn của ta, cố làm cho mau ẩn mất. Những người ấy đối với tất cả chư Phật trong ba đời phạm nhiều tội lỗi lớn, đối với tất cả Bồ-tát trong ba đời cũng phạm nhiều tội lỗi lớn, đối với tất cả Thanh văn trong ba đời cũng phạm nhiều tội lỗi lớn, không bao lâu sẽ thiếu khuyết thân thể, mắc các bệnh nặng.

Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Phiệt-xá, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, hoặc nam hoặc nữ, những người này do tạo nghiệp ác, khởi tà kiến điên đảo nên tổn mất tat cả căn lành đã có. Mặc dù vào đời vị lai sẽ sinh vào ngạ quỷ, súc sinh nhưng vẫn hưởng được phước lạc vì có lúc đã tu tập nhiều phước bố thí. Tuy nhiên, thân ấy sẽ không thể phát sinh căn lành ở cõi Sắc, Vô sắc, dù là chút ít làm gì có thể gieo trồng chủng tử căn lành trí Nhất thiết trí vô công dụng khởi của Thanh văn, Độc giác và Vô thượng thừa! Lại còn làm cho lưỡi của mình bị bệnh trong nhiều ngày, bị tê cứng không nói được, chịu các khổ sở, đau đớn, khó chịu nổi, sau khi chết nhất định sẽ sinh vào đại địa ngục Vô gián. Vì thế, Như Lai Từ bi thương xót tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Mậu-đạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ… làm cho họ luôn luôn được lợi ích an lạc. Như Lai thường xuyên ân cần nhắc nhở, dạy bảo: Các ngươi nên nương theo chánh pháp của ta, đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa thì cẩn thận chớ làm não loạn, trách mắng, quở phạt người xuất gia. Đối với chánh pháp ba thừa ta đã giảng dạy, thận trọng chớ có hủy báng, làm chướng ngại, che lấp. Nếu trái lời ta dạy mà cố ý làm thì sẽ mắc tội báo như đã nói rõ ở trước. Vì sao? Vì người nương theo giáo pháp cua ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa đỏ, có hình tướng xuất gia, chính là người được chư Phật Bồ-tát trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai dùng thần lực đại Bi hộ trì. Hình tướng oai nghi xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa đỏ là tướng giải thoát của các bậc Hiền thánh, cũng là tướng pháp vị giải thoát của tất cả hàng Thanh văn thừa thọ dụng, cũng là tướng pháp vị giải thoát của tất cả hàng Độc giác thừa thọ dụng, cũng là tướng pháp vị giải thoát của tất cả hàng Đại thừa thọ dụng.

Chánh pháp ba thừa do Như Lai giảng thuyết được chư Phật Bồtát trong ba đời dùng thần lực đại Bi hộ trì, là chỗ nương tựa để giải thoát của chư Hiền thánh, cũng là chỗ nương tựa của tất cả Thanh văn thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát, cũng là chỗ nương tựa của tất cả Độc giác thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát, cũng là chỗ nương tựa của tất cả Đại thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát.

Này thiện nam! Do nghĩa này nên người mong cầu giải thoát phải thân cận, cung kính, cúng dường những người nương theo chánh pháp của ta, những người đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa đỏ làm người xuất gia, trước phải tin kính giáo pháp Thanh văn thừa, hoặc tự mình nghe, lãnh thọ, dạy người khác nghe, lãnh thọ; hoặc tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng; hoặc tự mình biên chép, dạy người khác biên chép, hoặc tự mình ban bố, dạy người khác ban bố; hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người khác giảng thuyết, suy nghĩ mà tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp. Cũng vậy, nên tin kính pháp Độc giác thừa, hoặc tự mình nghe, lãnh thọ, dạy người khác nghe, lãnh thọ; hoặc tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng; hoặc tự mình biên chép, dạy người khác biên chép, hoặc tự mình ban bố, dạy người khác ban bố; hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người khác giảng thuyết, suy nghĩ mà tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp. Cũng vậy, nên tin kính pháp Đại thừa, hoặc tự mình nghe, lãnh thọ, dạy người khác nghe, lãnh thọ; hoặc tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng; hoặc tự mình biên chép, dạy người khác biên chép, hoặc tự mình ban bố, dạy người khác ban bố; hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người khác giảng thuyết, suy nghĩ mà tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp.

Nếu chẳng phải bậc Pháp khí thì tự mình không nên nghe, cũng không được dạy người khác nghe, cho đến như đã nói rõ ở trước. Cũng nên xa lìa tất cả pháp ác, phải bỏ bạn ác, gần bạn lành, phải siêng năng tu tập sáu pháp Ba-la-mật, thường sám hối tất cả nghiệp ác, nên tùy theo chỗ thích ứng mà phát hạnh nguyện chân chánh. Nếu có thể được như vậy thì ngay đời này sẽ được thành tựu pháp khí Thanh văn thừa, hoặc không thoái hạt giống Độc giác thừa, hoặc không thoái hạt giống Đại thừa. The nên phải tu tập cả ba thừa không nên kiêu ngạo tự xưng là Đại thừa, phỉ báng pháp Thanh văn, Độc giác thừa. Lúc đầu, ta chỉ vì pháp khí Đại thừa mà kiên chí tu hành, nói lời như vầy: “Chỉ tu theo Đại thừa mới co thể được rốt ráo”. Thế nên Như Lai nói xưa nay không trái nhau.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn giải rõ lại nghĩa này nên nói kệ:

Ở trước các đại chúng
Kim Cang Tạng hỏi ta
Vì sao khuyên cúng dường
Bí-sô ác phá giới.
Mất công đức Đầu-đà
Si mê chấp ác kiến
Ô đạo chẳng pháp khí
Mà không cho trách phạt.
Lại nghe người ấy thuyết
Pháp vi diệu ba thừa
Thuốc lành chân giải thoát
Hướng Niết-bàn tịch tĩnh.
Vì sao kinh khác nói
Chỉ Đại thừa giải thoát
Ngăn học pháp Nhị thừa
Nay lại nói ba thừa.
Thương xót các hữu tình
Làm cho bỏ nghiệp ác
Được lợi ích an lạc
Xin giải nghi cho con.
Vì ích Sát-đế-lợi
Cho đến Mậu-đạt-la
Không não loạn Bí-sô
Sợ họ mắc tội lơn.
Cạo tóc, mặc ca-sa
Là tướng pháp nhà Phật
Chư Phật thường hộ trì
Áo của đạo giải thoát.
Tuy phá các luật nghi
Chẳng phải ngăn giải thoát
Hay xả các ác kiến
Sẽ mau đến Niết-bàn.
Như thuốc tốt bị hư
Còn có thể trị bệnh
Phá luật nghi như vậy
Cũng diệt khổ cho người.
Không cho Bí-sô kia
Cùng bố tát, yết-ma
Được thuyết pháp cho người
Đều được phước không nghi.
Nếu quy kính Tam bảo
Tôn ta làm Đại sư
Hay bỏ các điều ác
Còn hơn các ngoại đạo.
Như vào đảo La-sát
Các thương nhân sợ hãi
Mỗi người cầm sợi lông
Qua biển được khỏi nạn.
Cũng vậy người phá giới
Lìa được các tà kiến
Do lòng tin làm nhân
Thoát La-sát phiền não.
Tướng giải thoát như vậy
Chư Phật đều hộ trì
Không não người phá giới
Hay lìa các ác kiến.
Những người thích phước nhiều
Vui cầu chân giải thoát
Hộ pháp khí, chẳng khí
Chứng giải thoát không khó.
Si mạn xưng Đại thừa
Không có lực trí tuệ
Pháp Nhị thừa còn mê
Huống là hiểu Đại thừa.
Ví như mắt mù lòa
Không thể thấy hình sắc
Cũng vậy mất đức tin
Không thể hiểu Đại thừa.
Không thể uống ao sông
Làm sao uống biển cả?
Không tập pháp Nhị thừa
Làm sao học Đại thừa?
Trước tin pháp Nhị thừa
Sau mới tin Đại thừa
Tụng Đại thừa, không tin
Nói rỗng không, không ích.
Bên trong ôm đoạn kiến
Vọng xưng là Đại thừa
Không giữ gìn ba nghiệp
Làm hoại chánh pháp ta.
Người này sau khi chết
Nhất định đọa Vô gián
Nên quán căn cơ thuyết
Chớ vì kẻ chẳng khí.
Kiêu ngạo không Từ bi
Hung ác, chí thấp kém
Người trí phải nên biết
Người này hoại đoạn kiến.
Không Thanh văn, Duyên giác
Cũng chẳng phải Đại thừa
Lừa dối, phỉ báng Phật
Tất đọa ngục Vô gián.
Trì giới, ưa ồn ào
Bỏn xẻn pháp, sợ khổ
Người trí phải biết rõ
Đó là Thanh văn thừa.
Bố thí quán sinh diệt
Ưa ở nơi thanh vắng
Người trí nên biết rõ
Đó là Độc giác thừa.
Đầy đủ các căn lành
Gìn giữ gốc Từ bi
Ưa giáo hóa lợi sinh
Đó gọi là Đại thừa.
Giữ giới bỏ thân mạng
Không não hại chúng sinh
Tinh tấn cầu pháp không
Nên biết là Đại thừa.
Tâm kham nhẫn các pháp
Nói rõ không che giấu
Thường vui thích các pháp
Nên biết là Đại thừa.
Pháp khí, chẳng pháp khí
Tâm bình đẳng lợi lạc
Không nhiễm pháp thế tục
Nên biết là Đại thừa.
Thế nên người có trí
Cung kính thuyết ba thừa
Không làm não chúng Tăng
Mau thành Vô thượng giác.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện, Tể quan chân thiện, Cư sĩ chân thiện, Trưởng giả chân thiện, Sa-môn chân thiện, Bà-la-môn chân thiện, Phiệt-xá chân thiện, Mau-đạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ nào mà thành tựu mười luân nên làm theo thì ngay trong đời hiện tại có thể mau gieo trồng hạt giống Thanh văn thừa, làm cho không thoái chuyển, hoặc ngay trong đời này thành tựu pháp khí bậc Thánh Thanh văn thừa, chứ chẳng phải pháp khí bậc Thánh Độc giác thừa, Đại thừa. Những gì là mười?

  1. Đầy đủ đức tin thanh tịnh: Nghĩa là tin có nghiệp quả đối với tất cả thiện ác.
  2. Đầy đủ sự hổ thẹn: Nghĩa là xa lìa tất cả bạn ác, ác kiến.
  3. An trụ trong luật nghi: Nghĩa là tránh xa sát sinh cho đến uống rượu.
  4. An trú tâm Từ: Nghĩa là xa lìa tất cả sân giận làm não loạn.
  5. An trú tâm Bi: Nghĩa là cứu giúp tất cả hữu tình yếu đuối.
  6. An trú tâm Hỷ: Nghĩa là xa lìa tất cả bốn nghiệp ác về lời nói.
  7. An trú tâm Xả: Nghĩa là xa lìa tất cả tánh tham lam keo kiệt, ganh ghét.
  8. Quy y chân chánh hoàn thiện: Nghĩa là xa lìa tất cả vọng chấp, tốt xấu, hoàn toàn không quy y tà thần, ngoại đạo.
  9. Đầy đủ đức tinh tấn: Nghĩa là kiên cố, dũng mãnh tu tập các pháp lành.
  10. Thích ưa thiền định: Nghĩa là suy nghĩ tìm cầu nghĩa giáo pháp, vui thích không biết mỏi mệt.

Này thiện nam! Nếu có Sat-đế-lợi chân thiện cho đến Mậu-đạtla chân thiện, hoặc nam hoặc nữ thành tựu được mười loại Hữu y hành này thì ngay trong đời này có thể mau gieo trồng hạt giống Thanh văn thừa, làm cho không lui mất. Hoặc ngay trong đời này, chứng Thánh pháp của Thanh văn thừa, thành tựu pháp khí bậc Thánh Thanh văn thừa, chứ chẳng phải chứng Thánh pháp Độc giác, Đại thừa; chứ chẳng phải thành tựu pháp khí bậc Thánh Độc giác, Đại thừa. Nên biết trong đó, Độc giác và Đại thừa đều như trước đã nói. Này thiện nam! Mười luân Hữu y hành này, tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, chư Phật Như Lai đều cùng có.

Này thiện nam! Lại có mười luân Hữu y hành, không có ở Thanh văn mà chỉ có ở các bậc Độc giác, Bồ-tát, Như Lai.

Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Mậu-đạt-la chân thiện… hoặc nam hoặc nữ nào thành tựu mười luân Hữu y hành này thì ngay trong đời này có thể mau gieo trồng hạt giống Độc giác thừa, khiến cho không lui mất. Hoặc ngay trong đời này chứng Thánh pháp của Độc giác thừa, thành tựu pháp khí bậc Thánh Độc giác thừa. Những gì là mười?

  1. Tu hành thanh tịnh các nghiệp về thân, miệng, ý.
  2. Đầy đủ sự hổ thẹn, nhàm chán thân mình.
  3. Đối với năm thủ uẩn rất lo sợ.
  4. Thấy dòng sông sinh tử rất khó vượt qua.
  5. Thường ưa chỗ vắng vẻ, xa lìa nơi ồn ào.
  6. Ưa thích cảnh chùa chiền không chê lỗi người.
  7. Gìn giữ các căn, tâm thường tịch tĩnh.
  8. Khéo quán sát kỹ về nhân quả duyên khởi.
  9. Thường siêng năng vui vẻ tu tập đẳng trì tĩnh lự.
  10. Đối với pháp tập khởi hay khéo diệt trừ.

Này thiện nam! Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Mậuđạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ nào thành tựu mười luân Hữu y hành này thì ngay trong đời này có thể mau gieo trồng hạt giống Độc giác thừa, khiến cho không lui mất, hoặc ngay trong đời này chứng Thánh pháp của Độc giác thừa, thành tựu pháp khí bậc Thánh Độc giác thừa.

Này thiện nam! Đó gọi là luân Hữu y hành của tất cả Thanh văn, Độc giác. Tất cả Thanh văn và Độc giác nương vào luân này để mau có thể vượt qua biển lớn ba cõi, mau hướng đến thành Niếtbàn.

Này thiện nam! Hữu y hành luân, “Hữu y hành” nghĩa là thế nào? Hữu y: Hữu là có chấp thủ, có ngã sở; Y là có sự thu nhận, có sự ràng buộc; Hành là hành uẩn, hành giới, hành xứ là hành có sự hệ thuộc; Luân là luân giáo thọ, giáo giới, như bánh xe của Chuyển luân vương hoặc thủ hành luân. Tất cả Thanh văn, Độc giác như vậy nương vào luân này để mong cầu đạo Niết-bàn, nên hai hạng này chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Vì sao? Vì hai hạng đó chỉ nương vào hạnh thấp kém nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó tự mình chấp lấy các hành uẩn, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ cho riêng mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó tự mình nương vào các hành giới, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ cho riêng mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó thọ nhận các hành xứ, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ cho riêng mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó lệ thuộc hữu, lệ thuộc hành, đối với các hữu tình không vui vẻ thọ nhận, không có tâm Từ bi, có lệ thuộc nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó thấy người khác chịu đủ các khổ bỏ đi mà không chịu cứu, chỉ mong cầu giải thoát cho bản thân mình nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó chỉ muốn diệt trừ phiền não căn bản cho riêng mình mà không vui thích diệt trừ phiền não cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó không có khả năng cỡi xe Đại thừa hướng đến Bồ-đề, nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó không thể theo bánh xe pháp lớn hướng đến Bồ-đề, nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó thích tu riêng một mình, không có bạn tu hành đồng đến thành Niết-bàn, nên chẳng phải là bac Pháp khí Đại thừa.

Này thiện nam! Các chúng sinh nào đối với pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa chưa lập công khó nhọc, chưa siêng năng tu học thì chúng sinh đó căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn. Nếu họ giảng thuyết chánh pháp Đại thừa thâm sâu vi diệu thì hai bên – người giảng và người nghe đều mắc tội lớn, cũng là trái nghịch với tất cả chư Phật. Vì sao? Vì các chúng sinh ấy đối với pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa chưa lập công khó nhọc, chưa siêng năng tu học, căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn, mà liền được nghe, đã lãnh thọ chánh pháp Đại thừa thâm sâu vi diệu!

Các chúng sinh như vậy, thật là ngu si mà tự cho mình là thông suốt, tưởng đã phá tan, diệt trừ các điên đảo, vọng chấp là không có nhân, đối với các nghiệp quả phát sinh tưởng đã đoạn diệt, bác bỏ tất cả, cho là không có điều thiện để làm, điều ác để tạo nghiệp, nói bậy về Đại thừa, phá hoại, làm rối loạn chánh pháp của ta, phi pháp nói là chánh pháp, chánh pháp nói là phi pháp, thật chẳng phải Sa-môn nói là Sa-môn, thật là Sa-môn nói chẳng phải Sa-môn; thật chẳng phải Tỳ-nai-da nói là Tỳ-nại-da, thật là Tỳ-nại-da nói là chẳng phải Tỳ-nại-da. Do tâm họ ngu si, điên đảo, cao ngạo, ngã mạn, ganh ghét bạn bè, nên đối với pháp Đại thừa thì ủng hộ, khen ngợi, làm cho lưu truyền rộng rãi, còn đối với pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa thì phỉ báng, làm chướng ngại, không lưu truyền rộng rãi. Không thể nương vào Thanh văn thừa, hoặc Độc giác thừa, hoặc Vô thượng thừa như thật mà bỏ thế tục xuất gia, thọ giới Cụ túc, thành tựu tánh Bí-sô, cũng không thể như thật mà tu tập tất cả nhân duyên pháp thiện. Đối với đệ tử của ta, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí, nghĩa là người siêng năng tu hành hạnh Hữu học, hạnh Vô học, cho đến chứng đắc quả sau cùng, hoặc là phàm phu chân thiện trì giới, phá giới, không có giới thì họ cũng dùng đủ cách mắng nhiếc, quở trách, làm não loạn, hoặc đoạt lấy y bát của người khác, không cho thọ dùng các vật dụng, trói buộc, giam nhốt như vậy mà nói đoạn diệt, bác bỏ tất cả, không cho là có nhân quả. Tuy hiện tại họ ở trong loài người nhưng thật là La-sát, vào đời vị lai dù vô số đại kiếp cũng khó được trở lại thân người. Thà ở trong địa ngục chịu vô lượng khổ chứ không làm người sinh đoạn kiến. Người ngu si này, không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng, không thể nói được, chịu các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời, nhất định đọa vào ngục Vô gián. Ở trong các đường ác xoay vần qua lại, thọ lấy các khổ, khó có thể cứu vớt, hàng trăm ngàn kiếp khó trở lại thân người. Tuy đã trải qua vô lượng, vô số kiếp, rồi có thể trở lại được làm người nhưng sinh trong đời năm trược, vào thời kỳ không có Phật, sinh ra bị mù, điếc, câm, ngọng, không có lưỡi, các thứ bệnh nặng luôn làm đau khổ bức bách, hoặc thân hôi nhơ, người không muốn nhìn đến, lời nói chậm chạp, vụng về, khó nghe, tâm thường mê loạn, không hiểu gì hết, sinh vào nhà nghèo cùng, thiếu thốn, không gặp bạn lành, làm theo bạn ác, thích tạo nghiệp ác, ưa chấp ác kiến, tao tội vô gián để trở lại đọa vào ngục vô gián, luân hồi trong đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi. Người ngu si chấp đoạn diệt như vậy sẽ, làm hư hoại, hủy diệt chánh pháp của ta, làm bức bách, xúc não, trách phạt các đệ tử trì giới, phá giới, không có giới của ta, làm cho họ không an tâm tu hành các điều thiện. Do nhân duyên này mà hàng trăm ngàn kiếp cứ chìm đắm trong các đường ác, từ chỗ đen tối này đến chỗ đen tối khác, khó co thời kỳ ra khỏi.

Những chúng sinh mắc tội báo như vậy là vì chưa mong cầu nghe, tu tập pháp Thanh văn, Độc giác thừa, mà trước hết lại mong cầu nghe, tu tập chánh pháp Đại thừa thâm sâu vi diệu. Người ngu si chấp đoạn như vậy sinh làm người thấp kém còn khó được, huống chi là thành bậc Pháp khí Hiền thánh, còn không thể chứng được Niếtbàn của Thanh văn, Độc giác, huống là được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thâm sâu rộng lớn. Những chúng sinh mắc lỗi lầm như vậy đều do chưa học pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa mà trước đã học Đại thừa.

Này thiện nam! Ví như cái bình sành bị nhiều lằn nứt, nên đựng

các thứ dầu, sữa đều bị rỉ chảy. Hai thứ: Bình đựng và chất chứa trong đó đều bị hoại mất. Vì sao? Vì bình đựng đã bị hư hoại. Chúng sinh này đối với pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa chưa chịu khó nhọc và siêng năng tu học, căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn. Nếu thuyết giảng chánh pháp Đại thừa thâm sâu vi diệu thì người giảng thuyết, người nghe đều mắc tội lớn, cũng là việc làm trái nghịch tất cả chư Phật, mắc tội lỗi như đã nói rộng ở trước.

Ví như kho tích chứa tài sản của báu ở đời bị sụp lở, tất cả đều tan mất. Những chúng sinh như vậy đối với pháp Nhị thừa phỉ báng không tin, không chịu tu học mà lại giảng thuyết Đại thừa cho họ, nên hiểu biết sẽ không đúng như thật, do đó tạo tội xoay vần không dứt.

Ví như ghe thuyền lủng rỉ nhiều chỗ, không thể chuyên chở qua biển lớn được. Chúng sinh như vậy phần nhiều tham lam, ganh ghét, đối với pháp Nhị thừa chưa từng tu học, vọng xưng là Đại thừa, ôm chấp đoạn kiến, kiêu mạn, dua nịnh, thành thân rỉ lậu, không thể nương cậy để vào biển Nhất thiết trí.

Ví như người mù mắt, không thể thấy rõ các thứ trân bảo. Chúng sinh này cũng vậy, kiêu mạn, buông lung, chấp trước kiến không, không học Nhị thừa, mù mờ không có mắt trí tuệ, nên không thể thấy rõ trân bảo công đức Đại thừa vô thượng.

Ví như có người thân bị hôi nhơ, tuy dùng các thứ hương thơm tốt nhất để thoa nhưng hoàn toàn không thể làm cho thân thể sạch thơm được. Chúng sinh này cũng vậy, ngu si, kiêu mạn, đối với pháp Nhị thừa không siêng năng tu tập, không bỏ sát sinh cho đến tà kiến. Tuy siêng năng nghe, lãnh thọ Đại thừa vô thượng nhưng hoàn toàn không hiểu được chánh pháp thâm sâu.

Ví như ruộng đá, tuy gieo trồng giống tốt, gia công đầu tư vào ruộng, nhưng hoàn toàn không thu hoạch được. Cũng vậy, chúng sinh đối với pháp Nhị thừa kiêu mạn, biếng nhác, khong siêng năng tu tập, chỉ tham cầu năm món dục lạc không biết mỏi mệt nhàm chán, tuy đối với bản thân có gieo hạt giống Đại thừa, siêng năng tinh tấn chịu khổ, nhưng hoàn toàn không thể thành tựu.

Ví như cái hũ, trước đã đựng thuốc độc, sau bỏ vào ít đường phèn, đường ấy không thể ăn được. Cũng vậy, chúng sinh này đối với pháp Nhị thừa không chịu tu học, chấp cho là không có nhân, nếu để họ thuyết giảng Đại thừa thì hoàn toàn không thể thành tựu lợi ích cho mình và cho người.

Ví như cái hũ, trước đây đựng đường phèn, sau bỏ ít thuốc độc, cũng không thể dùng được. Cũng vậy, chúng sinh tinh tấn tu học chánh pháp Nhị thừa, chưa được thành tựu, nếu phải thuyết giảng Đại thừa cho họ thì cả hai đều mất.

Ví như người ngu si, tâm cuồng loạn mà trổi các âm nhạc cho họ nghe thì họ không thể hiểu biết được. Cũng vậy, chúng sinh đối với chánh pháp Nhị thừa chưa từng tu học, bị phiền não, tham, sân, si mạnh mẽ khuấy rối, chấp trước cho là không có nhân và chấp đoạn diệt, căn cơ chưa thuần thục mà thuyết giảng Đại thừa cho họ nghe, dù trải qua nhiều thời gian nhưng cũng không thể hiểu rõ được.

Ví như có người không mặc áo giáp, đội mũ giáp, không cầm dao gậy mà xông ngay vào chiến trận, ắt sẽ bị thương, chịu các đau khổ. Cũng vậy, chúng sinh này đối với chánh pháp Nhị thừa chưa từng tu học, trí tuệ thấp kém, căn khí chưa thành thục mà thuyết giảng Đại thừa cho họ nghe, ắt sẽ sinh tâm vọng chấp, do đó, dần dần tạo các nghiệp ác không dứt. Người ngu si này không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, nhiều ngày lưỡi sẽ khô cứng không nói được, chịu các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, lưu chuyển qua lại trong các đường ác. Nên biết nói rộng ra theo thứ tự cũng như trước.

Này thiện nam! Thế cho nên người trí trước phải quán sát hết thảy tâm của chúng sinh, rồi sau đó mới giảng thuyết chánh pháp. Trước phải phát sinh tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm làm lợi ích, tâm không biếng nhác, tâm nhẫn nhục, tâm không kiêu mạn, tâm không ganh ghét, tâm không tham lam keo kiệt, tâm thiền định, sau đó mới giảng thuyết chánh pháp cho họ nghe, hoàn toàn không làm cho các chúng sinh do nghe giáo pháp mà lưu chuyển trong sinh tử, đọa vào đường hiểm nạn lớn. Thế nên, Như Lai hiểu biết rõ tâm tướng của tất cả chúng sinh, dùng hành luân vô trần cấu, hành luân vô thủ mà thuyết chánh pháp cho họ. Tất cả chúng Đại Bồ-tát với đầy đủ giáp trụ giảng thuyết chánh pháp cho chúng sinh cũng như vậy, thương xót, làm cho họ diệt trừ các phiền não, làm cho họ vượt ra khỏi biển ba cõi, làm cho tất cả chúng sinh tùy theo tâm ưa thích mà hướng đến Nhất thừa trong ba thừa và mau được viên mãn. Giảng thuyết chánh pháp cho họ nghe, hoàn toàn không làm cho họ lưu chuyển trong sinh tử, đọa vào hiểm nạn lớn.

Thế nào gọi là hành luân vô trần cấu?

Vô trần cấu nghĩa là lúc thuyết pháp, không vì có uẩn, không vì có xư, không vì có giới, không vì có Dục giới, không vì có Sắc giới, không vì có Vô sắc giới, không vì có đời này, không vì có đời khác, không vì có các hành, không vì có thọ, không vì có tưởng, không vì có tư, không vì có xúc, không vì có tác ý, không vì có vô minh cho đến không vì có lão tử, không vì có hành và bất hành mà giảng thuyết chánh pháp cho các chúng sinh. Chỉ vì tất cả uẩn, xứ, giới nói rộng cho đến hành và bất hành đều vắng lặng mà giảng thuyết chánh pháp cho các chúng sinh, do nghĩa này nên gọi là vô trần cấu. Hành nghĩa là vì có thể đoạn hẳn chết ở đây sinh ở kia, mà giảng thuyết chánh pháp cho các chúng sinh, vì có thể đoạn hẳn các uẩn, xứ, giới, nói rộng cho đến đoạn hẳn hành và bất hành mà giảng thuyết chánh pháp cho chúng sinh, đó gọi là hành.

Luân, nghĩa là như ánh trăng rằm mát dịu chiếu sáng và tỏa khắp không gian, soi tỏ tất cả cảnh vật không bị chướng ngại. Tất cả thần thông, Ký thuyết, dạy bảo ba loại luân thù thắng của Như lai và các Bồ tát cũng vậy, có tác dụng vô ngại, đi khắp các thế giới để giáo hóa và làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, làm cho các chúng sinh cùng quy về một đường. Điều này tất cả chúng sinh ở đời không có được, tất cả Thanh văn, Độc giác cũng không làm được, chỉ có Phật và Bồtát mới có thể làm cho chúng sinh diệt trừ các khổ não sinh tử, chứng đắc quả Niết-bàn an vui, đó gọi là Luân. Như vậy gọi chung là hành luân vô trần cấu của chư Phật Bồ-tát.

Thế nào gọi là hành luân không chấp thủ?

Nghĩa là đối với các pháp không mắc chướng ngại, giống như

ánh sáng mặt trời chiếu khắp tất cả. Các bậc Pháp khí ba thừa tùy theo căn cơ chúng sinh mà giảng thuyết chánh pháp, không có sự chấp trước nào cả. Nghĩa là chư Như Lai chỉ vì các chúng sinh mà giảng thuyết giáo pháp như vậy. Giống như hư không, không có tướng sai khác, dùng vô lượng định trụ trì trang nghiêm hay diệu dụng tự tại, mà giảng thuyết chánh pháp vi diệu cho các chúng sinh, không có sự chấp trước nào cả. Tất cả chúng Đại Bo-tát đầy đủ đại giáp trụ, khi giảng thuyết giáo pháp cho mọi người cũng lại như vậy. Nghĩa là: Lúc giảng thuyết: Các pháp chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải là không của sắc, chẳng phải lìa không của sắc, cho đến chẳng phải là không của thức, chẳng phải lìa không của thức; Chẳng phải là không của nhãn, chẳng phải lìa không của nhãn, cho đến chẳng phải là không của ý, chẳng phải lìa không của ý. Chẳng phải là không của sac, chẳng phải lìa không của sắc, cho đến chẳng phải là không của pháp, chẳng phải lìa không của pháp; chẳng phải là không của nhãn thức, chẳng phải lìa không của nhãn thức; cho đến chẳng phải là không của ý thức, chẳng phải lìa không của ý thức, Chẳng phải là không của Dục giới, chẳng phải lìa không của Dục giới; cho đến chẳng phải là không của hư không vô biên xứ, chẳng phải lìa không của hư không vô biên xứ; Chẳng phải là không của thức vô biên xứ, chẳng phải lìa không của thức vô biên xứ. Chẳng phải là không của vô sở hữu xứ, chẳng phải lìa không của vô sở hữu xứ. Chẳng phải là không của phi tưởng phi phi tưởng xứ, chẳng phải lìa không của phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chẳng phải là không của bốn Niệm trụ, chẳng phải lìa không của bốn Niệm trụ. Cho đến chẳng phải là không của tám chi Thánh đạo, chẳng phải lìa không của tám chi Thánh đạo. Chẳng phải là không của pháp duyên khởi, chẳng phải lìa không của pháp duyên khởi. Chẳng phải là không của ba bất hộ, chẳng phải lìa không của ba bất hộ. Chẳng phải là không của bốn Vô sở úy, chẳng phải lìa không của bốn Vô sở úy. Chẳng phải là không của mười Lực, chẳng phải lìa không của mười Lực. Chẳng phải là không của mười tám pháp Bất cộng, chẳng phải lìa không của mười tám pháp Bất cộng. Chẳng phải là không của đại Từ, đại Bi, đại Hy, đại Xả; chẳng phải lìa không của đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả. Chẳng phải là không của Niết-bàn, chẳng phải lìa không của Niết-bàn. Đó là Như Lai và các Bồ-tát vì các chúng sinh mà ở trong đó giảng thuyết chánh pháp vi diệu.

Này thiện nam! Như vậy, Như Lai vì các chúng sinh dùng hành luân vô trần cấu thuyết pháp như ánh trăng tròn chiếu sáng tỏa diệu khắp không gian, thấu suốt cảnh vật không bị chướng ngại như trên đã nói. Lại dùng hành luân vô thủ giảng thuyết chánh pháp vi diệu, đối với tất cả pháp không bị chướng ngại, giống như mặt trời chiếu soi tất cả.

Bậc Pháp khí trong ba thừa phải tùy theo căn cơ của chúng sinh mà giảng thuyết chánh pháp không có sự chấp trước. Nghĩa là các Đức Như Lai giảng thuyết giáo pháp như vậy chỉ vì các chúng sinh, giống như hư không không có tướng sai khác, dùng vô lượng định trụ trì trang nghiêm diệu dụng tự tại, vì các chúng sinh mà giảng thuyết chánh pháp vi diệu không có sự chấp trước nào, làm cho các chúng sinh tùy sở thích mà hướng đến ba thừa.

Tất cả chúng Đại Bồ-tát đầy đủ đại giáp trụ, khi giảng thuyết giáo pháp cho mọi người cũng lại như vậy, làm cho các chúng sinh nghe giáo pháp thâm sâu thù thắng này rồi, ở trong ba thừa tùy theo sở thích mà hướng đến nhất thừa, các căn lành đều được thành tựu, an trú vào nhất thừa tốt nhất, hoàn toàn không làm cho người đó ở trong sinh tử tăng trưởng nhiều điều ác, bất thiện, còn đối với Niết-bàn thì vững chắc không thoái lui.

Này thiện nam! Đại Bồ-tát vì muốn dứt trừ dòng sinh tử cho vô lượng, vô số chúng sinh mà thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Duyên giác vì muốn dứt trừ dòng sinh tử của mình mà thuyết pháp cho họ.

Đại Bồ-tát vì làm cho vô lượng, vô số chúng sinh vượt qua bốn bộc lưu mà thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Duyên giac chỉ vì muốn làm cho mình vượt qua bốn bộc lưu mà giảng thuyết giáo pháp cho họ.

Đại Bồ-tát vì muốn diệt trừ các bệnh phiền não cho vô lượng, vô số chúng sinh mà giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác vì muốn diệt trừ các bệnh phiền não cho mình mà giảng thuyết giáo pháp cho chúng sinh.

Đại Bồ-tát vì muốn dứt trừ các uẩn, phiền não, tập khí, tương tục của chúng sinh, làm cho đoạn trừ hết, không còn sót lại mà giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác chỉ vì muốn tự mình đoạn trừ các uẩn, phiền não, tập khí, tương tục còn dư lại chưa đoạn hết mà giảng thuyết giáo pháp cho chúng sinh.

Đại Bồ-tát vì muốn thành tựu quả đại Bi đẳng lưu mà đại Bi là nhân nên giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác không vì quả đại Bi nên không có nhân đại Bi mà giảng thuyết giáo pháp cho chúng sinh.

Đại Bồ-tát nhớ nghĩ các chúng sinh nên thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác không nhớ nghĩ đến các chúng sinh mà thuyết pháp cho họ.

Đại Bồ-tát vì muốn làm ngừng khổ đau của tất cả chúng sinh mà giảng thuyết chánh pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác chỉ vì muốn làm ngừng khổ đau cho mình mà giảng thuyết chánh pháp cho chúng sinh.

Đại Bồ-tát vì muốn tất cả chúng sinh được viên mãn pháp vị mà giảng thuyết chánh pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác chỉ vì bản thân mình được viên mãn pháp vị mà giảng thuyết chánh pháp cho chúng sinh.

Đại Bồ-tát vì muốn làm cho các chúng sinh thông suốt thắng pháp mà giảng thuyết chánh pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác chỉ vì muốn mình được thông suốt thắng pháp mà giảng thuyết chánh pháp cho chúng sinh.

Này thiện nam! Nói tóm lại, Đại Bồ-tát có vô lượng luật nghi, vì muốn diệt trừ bóng tối vô minh lớn, sự sợ hãi lớn, tất cả sự suy tổn của chúng sinh, được ánh sáng lớn và tiếng khen lớn, thật sự giác ngộ trí Nhất thiết trí nên thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác có ít luật nghi, chỉ vì diệt trừ bóng tối vô minh cho bản thân, được ánh sáng nhỏ và ít tiếng khen, giác ngộ chút ít phần như thật pháp trí mà thuyết pháp cho chúng sinh.

Này thiện nam! Thanh văn, Độc giác không có tâm thật sự nhớ nghĩ đến chúng sinh, không có thật lòng thương xót chúng sinh, không có tâm thật sự không khinh thường chúng sinh, không có tâm thật sự làm lợi ích cho chúng sinh, không có tâm thật sự cứu giúp chúng sinh, không có tâm thật sự tiến cử người khác, không có tâm thật sự muốn khen ngợi người khác, không có tâm that sự không dua nịnh mà khen ngợi người khác, không có tâm không luyến tiếc thân mình làm cho người khác an vui, không có tâm không khởi sai lầm về ba nghiệp thân, miệng, ý đối với người khác.

Này thiện nam! Người an trú Đại thừa không có tâm thật sự nghĩ nhớ đến bản thân mình, nói rộng cho đến không có tâm phát khởi sai lầm về ba nghiệp thân, miệng, ý đối với người khác.

*********

Lại nữa, này thiện nam! Có các chúng sinh bẩm tánh hung bạo, lời nói hung ác, thật là ngu si, ngã mạn, tự cho là thông minh, không trừ bỏ sát sinh cho đến tà kiến. Đối với người được lợi dưỡng, cung kính, có tiếng khen ở đời thì ganh ghét, thường tự tìm mọi cách để cầu lợi dưỡng, cung kính, tiếng khen ở đời không biết mỏi mệt, thường khen ngợi mình, khinh chê người, không phòng ngừa, giữ gìn ba nghiệp thân, ngữ, ý, ưa làm tất cả điều ác, ôm lòng độc ác, không có lòng Từ bi, không biết hổ thẹn, ưa làm não loạn người khác; đối với các bậc phước điền ưa so lòng hơn thua; đối với các người xuất gia, quy y trong giáo pháp của ta thì ưa tìm vết xấu của họ; vừa được chút ít hình tướng, không chịu xem xét hư thật thế nào mà liền khinh chê, quở mắng, trách phạt. Tâm ấy ương ngạnh, mê loạn, bướng bỉnh, tàn ác, thường ưa làm não loạn các người xuất gia, không xét lỗi của mình mà cứ nghĩ đến việc quở trách lỗi lầm của người khác. Khi được nghe tán thán công đức của Đại thừa, tuy có phát khởi ý chí mong cầu, nhưng tâm ưa làm các việc ác lớn, chưa từng tịch tĩnh, chỉ biết làm me hoặc người khác. Đối với pháp Đại thừa, hiện tại tự mình lắng nghe, dạy người khác lắng nghe; hiện tại tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng, tự đề cao mình lấn hiếp kẻ khác; đối với pháp Đại thừa thì cung kính khen ngợi. Đối với các hạnh, cảnh giới của Đại thừa, tự mình chưa từng tu học, chưa có thể hiểu biết mà tự xưng ta là Đại thừa, khuyên dụ người khác theo mình tu học, mưu cầu danh lợi để tự sinh sống. Ví như vị thầy giữ luật mà lại phá giới, làm ác, tự mình phạm giới, ưa làm việc ác, vì danh lợi nên khuyến dụ người khác siêng năng tu học tạng luật. Dua ninh, lừa dối chúng sinh như vậy, làm thân người hạ tiện còn khó được, làm lui mất đường thiện đi đến Niết-bàn Nhị thừa, huống chi là đắc Đại thừa, hoàn toàn không có việc này, mà sẽ đọa vào đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi. Những người có trí không nên thân cận gần gũi người như vậy.

Người ở giữa đại chúng mà không biết hổ thẹn, tự xưng là Đại thừa như sư tử rống, vì danh lợi nên dụ người ngu si cuồng loạn làm thân với mình, để cùng nhau kết bè đảng. Ví như con lừa đội lốt sư tử, liền tự cho mình là sư tử, có người trông thấy cho là sư tử thật, khi đến gần nghe tiếng kêu mới biết là lừa, họ cùng la lên: “Đây chẳng phải là sư tử, ăn những đồ dơ bẩn, thật là con lừa dơ xấu”, rồi quở mắng đủ thứ và bỏ đi. Ta nói hạng người này thường ưa làm mười nghiệp đạo ác, đốt cháy tất cả hạt giống trời người, pháp Thanh văn, Độc giác thừa còn thoái lui, huống chi là Đại thừa làm sao có thể thành tựu bậc Pháp khí.

Người ngu si, kiêu mạn tự xưng là Đại thừa, dối gạt người khác để chiêu tập lợi dưỡng. Ví như người không có chân tay, bị trở ngại, chậm chạp mà muốn vào trận lớn đánh nhau, dù có cố gắng cũng không thể nào chiến thắng. Người giả xưng Đại thừa cũng như vậy, có tay lòng tin, có chân giữ giới cũng không trọn vẹn, tự mình còn không phòng giữ được các nghiệp mà muốn đánh nhau với giặc phiền não thì dù có cố gắng cũng không thể nào chiến thắng được.

Ta nói những người này không giữ gìn được ba nghiệp, hay làm việc ác, vọng xưng Đại thừa; đối với ba thừa thật chẳng phải là pháp khí mà muốn phá hoại giặc phiền não kiên cố, mạnh mẽ của tất cả chúng sinh, muốn hiển thị tám chi Thánh đạo cho tất cả chúng sinh, làm cho họ được vào thành Niết-bàn không còn sợ hãi thì hoàn toàn không thể được. Vì sao? Này thiện nam! Vì bậc Đại thừa thọ trì luật nghi thanh tịnh bậc nhất, tu hành hạnh thiện vi diệu bậc nhất, đầy đủ sự hổ thẹn kiên cố bậc nhất, thấy rõ nên rất sợ quả khổ đời sau, xa lìa tất cả pháp ác, thường ưa tu hành tất cả pháp thiện, tâm Từ bi ban khắp tất cả hữu tình, thường làm lợi ích an lạc, cứu giúp khắp tất cả chúng sinh vượt qua các đau khổ ách nạn sinh tử, không trông mong cho bản thân mình được an lạc, mà chỉ cầu mong cho tất cả chúng sinh được an lạc. Như vậy mới gọi là người an trụ vào Đại thừa.

Này thiện nam! Những tướng nào gọi là Thanh văn thừa? Đó là các chúng sinh thường siêng năng tinh tấn an trú chánh niệm, ưa định đẳng dẫn, xa lìa các dua nịnh, tin hiểu nghiệp quả báo, không tham đắm năm món dục lạc ở đời, không bị tám pháp thế tục làm nhiễm, tu tập việc thiện mạnh mẽ như cứu lửa đang cháy trên đầu mình, thường quán xét kỹ các uẩn, xứ, giới, thường ưa an trú trong dòng giống Thánh. Người đầy đủ những tướng này gọi là bậc Thanh văn thừa. Những chúng sinh như vậy còn chưa thành tựu pháp khí Độc giác thừa thì làm sao có thể thành tựu pháp khí Đại thừa.

Này thiện nam! Có những tướng nào gọi là Độc giác thừa? Đó là các chúng sinh có đầy đủ tất cả công đức của Thanh văn thừa đã nói ở trên, đối với năm thủ uẩn kia phải thường an trú trong các pháp quán vô thường, phải thường an trú trong các pháp quán sinh diệt, ở trong tất cả pháp duyên sinh nên quán sát kỹ đều là pháp diệt. Người đầy đủ những tướng này gọi là Độc giác thừa. Chúng sinh như vậy chẳng phải là pháp khí Đại thừa.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài tụng:

Nếu bậc Sát-đế-lợi chân thiện
Cho đến Mậu-đạt-la chân thiện
Tu tập tin theo mười y luân
Mau thành pháp khí Thanh văn thừa.
Ba nghiệp thanh tịnh cầu Độc giác
Đầy đủ hổ thẹn sợ các uẩn
Biết lỗi, ưa ở nơi thanh vắng
Gìn giữ các căn, tâm tịch tĩnh
Tu tĩnh lự, quán phap duyên khởi
Khéo quán sát các uẩn, giới, xứ
Đủ mười luân hữu y hành này
Pháp khí Thắng thừa độ biển hữu.
Tu cả Nhị thừa và Tam thừa
Cầu cho mình thoát khổ phiền não
Không độ hữu tình, không bỏ tập
Người này chẳng phải khí Đại thừa.
Ngu si, biếng nhác, căn thấp kém
Đối pháp Nhị thừa không siêng tu
Nhất định không đủ luân Đại thừa N
ên chẳng phải pháp khí Đại thừa.
Ngu si cầu giải thoát riêng mình
Chí thấp kém hành không Từ bi
Ưa chấp đoạn kiến, hướng đường ác.
Xả bỏ chánh pháp, nói phi pháp
Không trì luật, phỉ báng Nhị thừa
Thọ giới Cụ túc, xưng Đại thừa
Mê hoặc chúng sinh phá pháp ta.
Do nhân này, khó được thân người
Não loạn pháp ta và Hiền thánh
Trách phạt người mặc ca-sa đỏ
Quở mắng, ngăn đoạt các y bát.
Lui mất đường trời người lâu dài
Thế nên muốn được lại thân người
Không do bệnh lưỡi mà mất mạng
Thường ưa đích thân gặp chư Phật.
Nên truyền khắp chánh pháp ba thừa
Muốn được tối thượng trong ba thừa
Nên quán sát kỹ pháp ba thừa
Vui vẻ chỉ dạy khắp mọi người.
Quyết định thành Phật không còn nghi
Phá giới, tham, ganh ghét, kiêu mạn
Khen mình, chê người, xưng Đại thừa
Xa người ác đó, nương kẻ trí.
Quyết định thành Phật độ ba cõi
Pháp khí ba thừa tùy căn cơ
Từ bi mà thuyết pháp ba thừa
Tùy nguyện viên mãn, không ganh, tham.
Sẽ được thành Phật, không nghi ngờ
Biết uẩn, xứ, giới đều vắng lặng
Như hư không, không chỗ nương trú
Thuyết pháp giáo hóa các hữu tình.
Sẽ được trí diệu giác vô biên
Phá giới, tâm ưa nghĩ điều ác
Nghe công đức Đại thừa thù thắng
Xưng là Đại thừa vì danh lợi.
Như lưa đội lốt da sư tử
Nay ta bảo tất cả đại chúng
Nếu muốn mau được đạo thù thắng
Nên tu tập tốt mười nghiệp thiện.
Hộ trì pháp ta, chớ phá hoại
Khi xưa ta thuyết các Khế kinh
Cầu Đại giác nên hành Đại thừa
Xa lìa Thanh văn, Độc giác thừa.
Vì thanh tịnh nên nói pháp này
Từng cúng vô lượng câu-chi Phật
Dứt ác, siêng tu, tâm thanh tịnh
Ta vì khuyên chúng sinh tinh tấn.
Nên nói Nhất thừa, không có hai
Nay chúng đầy đủ khí ba thừa
Chỉ có thể trú Thanh văn thừa
Tâm rất lo sợ nhiều sự nghiệp.
Chẳng phải khí Bồ-đề thượng diệu
Kẻ si ưa Độc giác thanh vắng
Chẳng phải khí Bồ-đề thượng diệu
Có thể an trú trí thượng diệu.
Tùy theo sở thích thuyết ba thừa
Đủ công đức tịnh, ưa giải thoát
Nghe nói Đại thừa đọa đường ác
Như bệnh có đàm, bày uống sữa.
Bệnh không lành, tăng thêm độc hại
Vậy chẳng phải khí Thanh văn thừa
Nghe thuyết Đại thừa, tâm mê loạn
Liền sinh đoạn kiến, đọa cõi ác
Thuyết pháp cần xét kỹ căn cơ.