NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA KINH SỚ
QUYỂN TRUNG
Tác giả: Đời Đường, Lương Bí soạn thuật
PHẦN 1
PHẨN THỨ HAI: QUÁN NHƯ LAI
Biện minh về quán chiếu Bát-nhã.
Từ đây là phần nói về: Quán chiếu Bát-nhã. Văn chia làm hai phần.
Đây là phần thứ nhất: Vua Ba-tư-nặc hỏi:
Kinh: Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: “Thật tính của các pháp, thanh tịnh bình đẳng, chẳng phải hữu phi vô, trí làm sao chiếu?
Giải thích: Nêu pháp tính ở phần trước để hỏi về trí.
“Thật tính của các pháp” tức là tính của các pháp.
“Thanh tịnh” là chẳng bị nhiễm trần.
“Bình đẳng” là không có cao, thấp.
“Chẳng phải hữu phi vô” là nêu “như” để hỏi về trí.
Pháp nếu là hữu thì lường xét về hữu mà biết. Pháp nếu là vô thì lường xét về vô mà hiểu. Đã nói là chẳng phải hữu phi vô thì làm sao trí chiếu (lường xét)?
Tiếp đến là phần hai: Như Lai chánh đáp, trong đó chia làm ba:
1. Các pháp là không; 2. Các pháp là giả có; 3. Thứ lớp của Thánh trí. Nơi phần một, văn phần làm hai: 1. cảnh chẳng phải hữu, phi vô; 2. Trí chiếu rõ là không. Phần cảnh này văn có hai phần: 1. Tự tính pháp là không; 2. Dùng sinh diệt nêu rõ về không. Trong phần một, Tự tính pháp không, văn lại có ba phần.
Đây là phần một – Đáp trí hữu không.
Kinh: Phật nói: Đại vương! Trí chiếu thật tính, chẳng phải hữu phi vô.
Giải thích: Trí là năng chiếu (chủ thể) lường xét (xứng) cảnh mà quân; cảnh chẳng phải hữu phi vô vi thì trí cũng chẳng phải hữu phi vô. Pháp sư Duệ nói: Vạn vật phi vô, tông là vô tướng. Hư tông chẳng phải hữu, chiếu là vô tâm. Cho nên Thánh nhân dùng chơn trí vô tâm chiếu hư tông vô tướng, trong và ngoài cả hai đều sâu thẳm, cảnh và trí đều tịch lặng, tức là chiếu.
Sau đây là phần hai – Nêu hỏi nguyên do.
Kinh: Nguyên do là sao?
Giải thích: Nguyên do vì sao trí chiếu thật tính chẳng phải hữu phi vô
Tiếp theo là phần ba – giải thích các pháp là không, văn chia làm hai phần:
1. Nêu chung pháp là không.
Kinh: Vì pháp tính “không”.
Giải thích: Pháp là các pháp. Tính là thật tính. Pháp và pháp tính thảy đều là không. Nhưng đối với các pháp thì chấp kiến khác nhau. Phàm phu đối với pháp thì chấp có đúng, sai. Ngoại đạo đối với pháp thì chấp ngã, chấp pháp. Tiểu thừa với pháp thì chấp là sắc tâm thật. Đại thừa với pháp thì đạt vô tự tính. Hiểu pháp tức không, gọi là pháp tính “không”.
Dưới đây là phần hai – Ngay ở pháp làm rõ “không”.
Kinh: Đó tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mười hai xứ, mười tám giới, bảy đại sáu giới, mười hai nhân duyên, hai đế, bốn đế, tất cả đều không.
Giải thích: Nghĩa là: uẩn, xứ, giới, sĩ phu bảy đại, sáu giới, ngoại đạo phàm phu, chấp thật dấy khởi điên đảo, nêu ra để nói về không.
Mười hai nhân duyên là nói về Độc giác quán.
Bốn đế là nói về Thanh văn quán.
Hai đế là nói về Bồ-tát quán.
Đều vô tự tính nên tất cả đều không.
Tiếp đến là phần hai – dùng sinh diệt nói rõ không. Văn chia làm bốn.
Phần một: Nêu sinh diệt không.
Kinh: Các pháp ấy, tức sinh tức diệt, tức có tức không, từng Sátna, Sát-na, cũng lại như vậy.
Giải thích: Trước đã nói về các pháp không có tự tính, nên là không. Đây là nói về các pháp sinh diệt, nên là không, tùy thuận căn cơ của hữu tình, mà phá chấp.
“Các pháp ấy, tức sinh tức diệt, tức có tức không” Nghĩa là: các uẩn trước là các pháp hữu vi, thể không bền giữ, niệm niệm dời đổi, tùy sinh tức diệt, niệm niệm đều không. Dựa theo tướng hữu vi, hoặc có bốn tướng, như Luận Bà-sa nói: Có thể khởi, gọi là sinh. Có thể an gọi là trụ, có thể suy tổn gọi là dị, có thể bị hoại gọi là diệt. Sinh là ở thời vị lai, còn ba tướng kia là ở thời hiện tại. Lại nữa, Luận Duy thức viết: Vốn không nay có, ở phần vị có gọi là sinh. Tạm ngừng ở phần vị sinh gọi là trụ. Trụ thì có trước, sau gọi là dị, tạm thời có lại trở về không, lúc không gọi là diệt. Ba tướng trước là ở thời hiện tại. diệt thì ở thời quá khứ, đó là chính.
Hoặc có thuyết nói là ba tướng: Như luận Câu xá, dẫn chứng theo kinh, nói là ba tướng: 1. Khởi; 2. Trụ, dị; 3. Tận. Trong luận có hai giải thích, như thường phân biệt.
Hoặc nói là hai tướng, như kinh này nói là: tức sinh tức diệt. Luận Du-già cũng nói giống với kinh này. Luận nói: sinh và trụ dị, đều gọi là phẩm sinh, diệt gọi là phẩm diệt. Các chúng đệ tử, phải quán các pháp sinh diệt mà trụ.
Hoặc nói là một tướng, như kệ kinh nói: Các hành vô thường. “Các” là nhiều, hành là dời đổi, trôi chảy, gọi chung là Hữu vi, đều gọi là các hành.
Nói “vô thường” như luận Du-già quyển tám mươi mốt nói: cái “có” khởi rồi tận hết, nên gọi là vô thường. Hợp cả hai sinh và diệt goi chung là vô thường. Quyển năm mươi hai lại nói: Nếu do những tướng đó mà khởi tư duy chán ghét, lìa dục giải thoát, hợp nói sự sinh diệt thành ra là vô thường. Sao gọi là vô thường? Vì có chẳng có mãi, không chẳng không mãi, cả hai đều không có tướng thường, nên gọi là vô thường. Kinh nói “Sinh, diệt” là nói tóm lược.
“Sát-na, Sát-na cũng lại như vâỵ”: Sát-na, là thời gian cực ngắn. Như nói cực vi sắc là cực ít, cực nhỏ. Sinh diệt có hai: 1. Sát-na; 2. một thời kỳ. Đây chẳng phải là một thời kỳ mà là Sát-na.
Sát-na là gì? Duyên pháp hòa hợp, được tự thể hiển. Lại nữa, pháp vận hành chuyển động một cực nhỏ như vậy gọi là một lượng Sátna, lặp lại một từ “Sát-na” là để phá tình chấp. Hữu tình vọng đảo, chấp pháp thường có. nghĩa là: nghe nói các pháp sinh diệt, nên là không, bèn chấp: chỉ có pháp hiện tại là Sát-na sinh diệt, còn quá khứ, vị lai thì thể phải thường trụ. Vì để phá chấp đó mà nói rõ các pháp từ vô thủy đến nay, quá khứ đã diệt, hiện tại nay diệt, vị lai sẽ diệt, niệm niệm dời chảy, đều là Sát-na diệt. Do đây kinh nói: “Sát-na Sát-na cũng lại như vậy”.
Hỏi: Tức diệt là đồng một Sát-na, hay là khác thời?
Đáp: Vì một niệm có nhiều Sát-na, ở một Sát-na có nhiều sinh diệt, lấy nhiều sinh diệt đó hình thành một Sát-na. Tức “thể” làm rõ không, nên là đồng một niệm. Điều đó giống với kệ của Kinh Hoa Nghiêm: Ví như gió mạnh thổi, Mặt trống sinh lay động. Cả hai không biết nhau, các pháp cũng như vậy. Sinh diệt tức là không, không cùng biết nhau.
Sau đây là phần hai – Nêu hỏi nguyên do
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Các pháp hữu vi, Sát-na sinh diệt là vì nguyên do gì?
Tiếp đến là Phần ba, giải thích về nhiều sinh diệt.
Kinh: Trong một niệm có chín mươi Sát-na, một Sát-na trải qua chín trăm sinh diệt.
Giải thích: Từ thô đến tế, chuyển tiếp phân tích để rõ là không. Các hữu vi pháp, trôi đuổi không dừng, quá khứ đã không, vị lai sẽ không, một niệm hiện tại, đừng cho thật có. Tách một niệm này, có chín mươi Sát-na, đừng cho Sát-na là có “thể” thật. Tách một Sát-na có chín trăm sinh diệt. Vì nhiều sinh diệt mà thành một Sát-na, nên Sát-na không có “thể”. Vì nhiều Sát-na hợp thành một niệm, nên niệm cũng không có thể thật, vì vậy mà nói các pháp niệm niệm đều không.
Hỏi: Niệm nhớ cảnh riêng, lấy sự ghi nhớ làm tính. Sao ở đây lại nói niệm sinh diệt là không?
Đáp: Danh từ “niệm” thì giống nhau, nhưng nhân của chúng thì có khác nhau. Niệm (nhớ) cảnh riêng thì lấy sự ghi nhớ làm tính, còn niệm ở đây là trong thời không tương ưng mà giả lập một khoảnh khắc thời gian sinh diệt, giả lập danh gọi là niệm. Niệm không có “thể” thật, đều là không.
Dưới đây là phần bốn – Kết, về các pháp không.
Kinh: Các pháp hữu vi đều là không
Giải thích: Kết về pháp hữu vi sinh diệt, nên là không và hiểu về vô vi tuy là tịch mà thường.
Tiếp theo là phần hai – Nói rõ về trí chiếu không, văn chia làm hai. 1. Nêu về trí chiếu không
Kinh: Dùng Bát-nhã Ba-la-mật đa thâm diệu, chiếu kiến các pháp, tất cả đều không.
Giải thích: Như đã giải thích trong phần tông, tóm lược lại là:
“Bát-nhã thâm diệu” tức là tuệ tịnh.
“Ba-la-mật đa” là đến bờ kia.
“Chiếu kiến”: tức chiếu là thể của trí. Kiến là dụng của trí. Thể của chiếu tức là kiến, gọi là tâm vô tướng. Do tuệ tịnh này mà đạt đến bờ giác.
Nói “các pháp” là cảnh đối tượng được chiếu. Cảnh và trí đều tịch nên bảo là “Tất cả đều không”.
Hỏi: Câu ở trên “Bốn đế… tất cả đều không”. Câu ở đây “các pháp… tất cả đều không”. Hai đoạn văn này khác nhau như thế nào?
Đáp: Đoạn trước là chỉ cảnh không, còn đoạn này thì nêu trí cũng không. Tuy cảnh và trí, đều tự tính không, nhưng để hiển về trí chiếu như, trí tức là vô tướng nên kết hợp nói.
Dưới đây là phần hai – Nêu dẫn pháp để nói rõ về không. Văn có sáu phần.
1. Nói về nội và ngoại không.
Kinh: Nội không, ngoại không, nội ngoại không.
Giải thích: Văn kinh dưới đây là nói về chánh trí.
Tức có (ngay ở có) quán không thì có mười tám không.
Mười tám “không” đó thì văn nói bốn “không” sau cùng khác với kinh đại Bát-nhã. Như Đại Bát-nhã quyển năm mươi mốt: Tôn giả Thiện hiện phát hỏi, đức Thế Tôn đáp. Lược dẫn kinh ấy để giải thích đoạn văn này:
“Nội không”. Nội là nội pháp, tức nhãn nhĩ, thiệt tỷ, thân ý. Ở đây, Nhãn do nhãn không, tỷ, nhĩ, thiệt… cũng như thế. Phi thường phi hoại, bản tính là vậy. Trên nói nhãn tức là nhãn xứ do nhãn không thì nhãn không có tự tánh. Nhãn xứ tức không thì các xứ khác cũng vậy. Như luận Trí độ quyển bốn mươi sáu nói; Nếu chẳng tu tập “không” thì sẽ rơi vào nhị biên. Dùng không phá hữu, cũng không bị vướng mắc ở không. Không có ngã và ngã sở vì bản tính là vậy, đoạn văn sau lý cũng giống như thế, vì e rườm nên lược bớt.
“Ngoại không”: Ngoại là ngoại pháp, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, trong đó, sắc do sắc không nên thanh v.v… cũng vậy.
“Nội ngoại không”: là pháp nội ngoại. Pháp Nội là sáu căn xứ, ngoại là trần xứ. Ở đây, sáu xứ nội do sáu xứ ngoại không, sáu xứ ngoại do sáu xứ nội không. Trước riêng sau chung nên đều là không.
Tiếp đến là phần hai – Nói về các không.
Kinh: Không không, Đại không, Thắng nghĩa không.
Giải thích: “Không không”: nghĩa là tất cả pháp không. Không do không nên không.
“Đại không”: nghĩa là mười phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, bốn hướng, trên dưới, trong đó, phương Đông do phương Đông không, các phương Nam v.v… cũng vậy.
“Thắng nghĩa không”: Thắng nghĩa là Niết-bàn. Thắng nghĩa đó, do thắng nghĩa không.
Tiếp theo là phần ba: Hữu, vô vi không
Kinh: Hữu vi không, vô vi không
Giải thích: “Hữu vi không”: là Dục giới, Sắc giới, vô Sắc giới đều không.
“Vô vi không”: là không sinh, không trụ, không dị, không diệt.
Vô vi này do vô vi không, vì tướng và vô tướng đều không.
Sau đây là phần bốn – Nói về ba đời không.
Kinh: Vô thủy không, tất cánh không
Giải thích: “Vô thủy không”: là thuận theo cách dịch cổ. Tân dịch là vô tế không. nghĩa là: không có đời sơ, trung, hậu tế có thể đạt được và không có đời quá khứ vị lai có thể đạt được. vô tế đó là do không có đời nào có thể đạt được. Cho nên vô tế không.
“Tất cánh không”: nghĩa là các pháp rốt cùng là chẳng thể đạt được. Tất cánh đó là do tất cánh không, vì đời, chẳng phải đời đều không.
Tiếp đến là phần năm – Nói về tính tướng không
Kinh: Tán không, bản tính không, Tự tướng không, Nhất thiết pháp không.
Giải thích: “Tán không”: nghĩa là có thả, có dứt, có bỏ, khả đắc. Tán đó là do Tán không. Kinh kia tiếp đó lại nói “vô biến dị không”. nghĩa là không thả, không dứt, không bỏ khả đắc. Vô biến dị này là do vô biến dị không. Trước là hữu, sau là không. Vì tướng cùng đối với nhau. Kinh này tuy thiếu về vô, nhưng nghĩa đã có ý đối.
“Bản tính không”: nghĩa là, bản tính của tất cả pháp, hoặc tính pháp hữu vi, hoặc tính pháp vô vi, đều chẳng phải là do Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai làm ra, cũng chẳng phải là do kẻ khác làm ra. Bản tính này do bản tính không.
“Tự tướng không”: nghĩa là tự tướng của tất cả pháp, như chất ngại là tự tướng của sắc, lãnh nạp là tự tướng của thọ, giữ lấy hình ảnh là tự tướng của tưởng, tạo tác là tự tướng của hành, hiểu biết phân biệt là tự tướng của thức, những thứ như vậy, hoặc tự tướng của pháp hữu vi, hoặc tự tướng của pháp vô vi, những tự tướng đó đều là không.
“Nhất thiết pháp không”: nghĩa là năm uẩn, mười hai xứ, mười
tám giới, hoặc là pháp hữu sắc hay không sắc, hữu kiến hay không kiến, hữu đối hay vô đối, hữu lậu hay vô lậu, hữu vi hay vô vi, tất cả pháp đó do tất cả pháp không.
Sau đây là phần sáu: Nói về nhân quả không.
Kinh: Bát-nhã Ba-la-mật đa không, nhân không, quả Phật không, không không cho nên không.
Giải thích: “Bát-nhã Ba-la-mật-đa không”: là trí quán chiếu không.
“Nhân không”: là các Bồ-tát, từ bậc đẳng giác trở về trước, tất cả đều không.
“Quả Phật không”: Những lực mà chư Phật có, như vô úy… các pháp bất cộng, thể tịch cho nên không.
“Không không cho nên không”: Luận Trí độ nói: không không, là trước tiên dùng các không để phá các pháp nội, ngoại…. đều không. Lại lấy cái không đó để phá các không trước, đó gọi là không không.
Hỏi: Không không trước và không không này khác nhau ra sao?
Đáp: Trước là phá các không nên nói là không không. Ở đây là phá các không trước mà gọi là không không.
Hỏi: Nếu vậy, do các pháp có phá, nên bảo là không, không đã không phải là pháp, rỗng không bị phá chỗ nào?
Đáp: Phá các pháp rồi, chỉ có ở không. Không cũng phải xả bỏ, cho nên cần phải không không. Như thuốc để chữa bệnh, bệnh lành thì phải bỏ thuốc. Thuốc nếu không xả bỏ, thì thuốc đó lại thành là bệnh. Vì e “không” sẽ thành bệnh, tức lấy không để bỏ không, nên bảo là không không.
Dưới đây là phần hai – Các pháp là có giả, trong đó chia làm hai phần: 1. Nói về các pháp có; 2. Nói về ngã pháp không. Trong phần một các pháp có giả phân ba: phần một: nêu các pháp có.
Kinh: Pháp hữu vi, pháp tập mà có, thọ tập mà có, danh tập mà có.
Giải thích: Trước là nói về chánh trí, đối tượng chiếu đều không. Đây là trí phương tiện, không hoại bỏ các pháp, tức ngay ở nơi không mà quán có.
“Pháp hữu vi”: Câu này là nêu chung về pháp hữu vi của thế gian và xuất thế gian. Sau đó là nói riêng về có.
“Pháp tập mà có”: năm uẩn tích tập, gọi là pháp tập có.
“Thọ tập mà có”: lãnh nạp tác nghiệp, gọi là thọ tập có.
“Danh tập mà có”: danh là biểu thuyên (nêu lên khẳng định), tập cho nên có.
Tuy cả ba tập này, nghĩa thông cả vô lậu, nhưng đoạn văn trên và dưới đây chỉ dựa theo hữu lậu.
Tiếp theo là phần hai – Thế gian có.
Kinh: Nhân tập nên có, quả tập nên có, sáu thú nên có.
Giải thích: “Nhân tập nên có”: là các nghiệp mà thiện nhiễm hữu lậu gây tạo là nhân của ba hữu.
“Tập đế nên có, quả tập nên có” là ở trong ba cõi, nghiệp chung, riêng, cảm quả tịnh, vô ký.
“Khổ đế nên có, sáu thú nên có”. Thú là dị thục nơi sáu thú: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Tu-la, nhân, thiên. Khả năng hướng đến (năn thú) ấy tức là nhân, chổ hướng tới tức là quả. Trước là riêng, sau là chung, nói về ba cõi.
Kế đến là phần ba – Nói về xuất thế gian có.
Kinh: Thập địa nên có , quả Phật nên có , tất cả đều có
Giải thích: “Địa thứ mười nên có”: Văn nói địa thứ mười là gồm cả ba Hiền là nhân có của Bồ-tát.
“Quả Phật nên có” là ba thân, cho nên có. Cũng có thể nói là: Vị Nhân hướng tiến, đạo đế chưa tròn; vị quả phẩm trí, thì đạo đế viên mãn. Cho nên giải thoát, pháp thân, diệt đế đã tròn đủ. Với khổ và tập nêu trước thành là bốn đế.
“Tất cả đều có”: Câu này là tổng kết, thế và xuất thế gian tất cả đều có.
Tiếp theo là phần hai – Ngã pháp không, trong đó chia làm hai: 1. Ngã pháp không; 2. Không khởi kiến. Phần một ngã pháp không lại có ba phần. Đây là phần một: Nêu tướng của ngã pháp.
Kinh: Này thiện nam! Hoặc Bồ-tát chấp trụ ở pháp tướng có tướng ngã, tướng nhân, hữu tình, tri kiến là trụ nơi thế gian tức chẳng phải là Bồ-tát.
Giải thích: Nghĩa là: Bồ-tát tuy quán ở “có” nhưng không nên trụ.
“Trụ ở pháp tướng”: tức hữu vi nêu trước, gọi chung là pháp. Vì mỗi một pháp đều có tướng được giữ lấy theo phép tắc. nghĩa là: Hoặc Bồ-tát tuy quán các thứ là có, nhưng không hoại pháp, thông đạt thật tính, không nên trụ nơi tướng. Nếu trụ tướng thì sẽ sinh ra chấp có.
“Có tướng ngã” là ngã, nhân, tri, kiến bốn thứ như trước đã giải thích.
Ngoại đạo chấp ngã, cũng gọi là hữu tình. Tác nghiệp và thọ quả đều cho là ngã.
“Là trụ nơi thế gian, tức chẳng phải là Bồ-tát”. Trụ nơi tướng ngã pháp tức là phàm ngu, là trụ nơi thế gian, chẳng phải là Bồ-tát. Kế đến là phần hai: Nêu hỏi nguyên do Kinh: Nguyên do là sao?
Giải thích: Vì sao trụ nơi tướng ngã pháp thì chẳng phải là Bồ-tát?
Sau đây là phần ba – Kết về các pháp không
Kinh: Vì tất cả các pháp đều là không.
Giải thích: Không hiểu về các không, tức chẳng phải Bồ-tát. Ngộ tất cả pháp đều không tịch (rỗng lặng) đối với có nhưng không trụ, tức là Bồ-tát.
Dưới đây là phần hai – không khởi kiến, trong đó có ba phần:
1. Nói về không khởi kiến.
Kinh: Nếu đối với các pháp mà đạt được sự chẳng động, bất sinh bất diệt, vô tướng, vô vô tướng tức không nên khởi kiến.
Giải thích: Đây là nói về Bồ-tát ngay nơi pháp mà quán không.
“Nếu đối với các pháp mà đạt được sự chẳng động”: Nếu các Bồtát tuy quán các pháp, nhưng thấu đạt được có tức không. Không cho chẳng động, không, chẳng động nên bất sinh bất diệt.
“Vô tướng”: Tướng là các pháp, vô tướng tức không. Vì ngộ tướng tức không, nên bảo là vô tướng.
“Vô vô tướng”: Chẳng phải cho rằng dứt bỏ tướng mà cho đến, trụ ở vô tướng, vô tướng cũng dứt trừ, cho nên bảo là vô vô tướng.
“Không nên khởi kiến”: “Trụ ở tướng thì kiến sinh ra, không trụ nơi có, không có thì không có kiến chấp”. Cho nên pháp sư Tăng Triệu nói: Môn của Bát-nhã là quán không, môn của phương tiện là đi vào có. Đi vào có nhưng chưa từng mê chấp không. Cho nên ở nơi có mà không bị nhiễm. Không chán bỏ có nhờ quán không, nên quán không nhưng không chứng. Là nghĩa đó.
Dưới đây là phần hai – Nêu hỏi nguyên do
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì sao lại không nên khởi kiến?
Tiếp theo là phần ba – Giải thích pháp đều như.
Kinh: Tất cả pháp đều như – Chư Phật, Pháp, Tăng cũng như.
Giải thích: Trước là nêu pháp sau là nêu Tam bảo. Không luận hơn hay kém, tất cả đều như. Luận Bảo tính nói: Như ba thứ đồ chứa khác nhau, nhưng khoảng không thì không khác. Tất cả chúng sanh, Bồ- tát, chư Phật đều không có sai biệt, đều đồng một như.
Sau đây là phần ba – thứ tự của Thánh trí. Trong đó chia làm bốn phần. Đây là phần một – Thánh trí thứ 1:
Kinh: Thánh trí hiện tiền, một niệm tối sơ, đầy đủ tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật đa, gọi là địa Hoan hỷ.
Giải thích: Trên đã nói về trí chiếu không và hữu, không biện minh vị địa, chỉ là luận chung. Từ đoạn văn này mới nói về địa thứ nhất… và hiểu rõ văn trên hầu hết là dựa theo trí thuộc địa tiền, lìa có, không mà tu, chẳng chấp trụ.
“Thánh trí hiện tiền, một niệm tối sơ, gồm đủ tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật đa”: Nghĩa là đầu tiên của bậc kiến đạo thật sự, hiện đoạn trừ, hai chấp phân biệt, chủng tử từ vô thỉ đến nay vĩnh viễn dứt hết và đầy, đủ các đức. Do vậy mà nói so với ngôi vị ba Hiền, toàn bộ công đức vốn có do tu hành trong cả một kiếp cũng không thể sánh bằng một niệm tối sơ này.
Sao gọi là “Gồm đủ tám vạn bốn ngàn”, do đối trị với Hoặc, mà có số ấy.
“Địa Hoan hỷ” sinh ở nhà Như Lai, trụ ở địa cực hỷ. Phần sau sẽ nêu rõ.
Kế đến là phần hai – Tỏ chung về địa thứ mười.
Kinh: Chướng hết thì giải thoát, vận tải gọi là thừa.
Giải thích: Nêu chung cả địa thứ mười.
“Chướng hết”: Là địa thứ mười phần đoạn dứt hai chướng câu sanh, định Kim cang thì dứt sạch.
“Giải thoát”: Giải là lìa trói buộc thoát là tự tại. Tùy theo địa thứ mười, chướng đoạn dứt, hiển bày như. Sau tâm Kim cang, thì giải thoát viên mãn.
“Vận tải” tức nghĩa là thừa: Vận có đủ bốn nghĩa: Vận chuyển chướng khiến cho tận hết. Vận lý khiến cho hiển rõ. Vận chuyển hành khiến cho đầy đủ. Vận chuyển quả khiến cho viên mãn đến ngôi vị cứu cánh. Đó là giải thích sự vận dụng của thừa. Thể của thừa là giáo lý hành và quả như trên đã giải thích.
Dưới đây là phần ba – Nói về địa Đẳng giác.
Kinh: Khi tướng động diệt, gọi là định Kim cang.
Giải thích: “Khi tướng động diệt”: là định cuối cùng của địa thứ mưới.
“Tướng động”: Là như Luận Khởi Tín nói: Như gió nương nhờ nước mà có tướng của động. vô minh nương theo chơn mà khởi tướng của nghiệp. Nay ở ngôi vị Đẳng giác, như gió đã diệt thì tướng của động cũng diệt theo, nhưng nước thì không diệt. vô minh kia diệt, tướng của nghiệp cũng diệt theo, nhưng chơn thì không diệt. Cho nên, nói ở ngôi vị này tướng động diệt. Gọi là Kim cang định, nghĩa là chư Bồ-tát đến ngôi vị này, những định thù thắng nương vào, giống như Kim cang, đều có thể đoạn trừ được các chướng vi tế.
Tiếp sau là phần bốn – Nói về Địa Như Lai.
Kinh: Thể tướng bình đẳng, gọi là Nhất-thiết-trí. Trí.
Giải thích: “Thể tướng bình đẳng”: Đây có hai loại: 1. Thể bình đẳng; Sở chứng của tất cả chư Phật đều bằng nhau; 2. Tướng bình đẳng: Hằng sa công đức của tất cả chư Phật đều bằng nhau.
“Gọi là trí Nhất-thiết-trí”: Đây có hai trí; 1. Nhất-thiết-trí, tức là trí chứng đắc như; 2. Chữ trí ở sau là Nhất-thiết-chủng-trí: là Hậu đắc trí. Hai trí chân và tục, chư Phật đều bằng bằng. Đây chính là vị nhân quả của quán chiếu Bát-nhã.
Dưới đây là phần ba: Văn tự Bát-nhã. Như Bản ký nói: có bốn thứ vô thượng. 1. Năng thuyết là vô thượng; 2. Tín thọ vô thượng; 3. Sở thuyết là vô thượng; 4. Trí tuệ vô thượng.
Dưới đây là phần một – Người thuyết giảng vô thượng.
Kinh: Đại vương! Văn tự, chương cú của Bát-nhã Ba-la-mật đa này, trăm Phật, ngàn Phật, trăm ngàn vạn ức tất cả chư Phật cùng thuyết giống nhau.
Giải thích: Cái thật tướng sở chứng (thật tướng Bát-nhã) và quán chiếu năng chứng (Quán chiếu Bát-nhã), ắt phải có thể nêu giảng. Thế nhưng năng thuyết (chủ thể) thì các cõi Phật khác nhau. Như kinh Duyma-cật nói: Hoặc dùng cơm thơm, hoặc dùng hào quang, hoặc dùng vườn rừng, hoặc vô ngôn thuyết. Ở thế giới Kham nhẫn (Sa bà) tức dùng âm thanh văn tự Bát-nhã mà làm Phật sự. Cho nên có văn nói ở đây.
“Văn tự” tiếng phạm gọi là Tiện thiện na, tiếng Hoa dịch là văn. Văn tức là tự. Như nói: ô! a! nương theo âm thanh mà hiển bày, là trong bất tương ưng hành uẩn. Tự chẳng phải là chữ viết bằng mực.
“Chương cú”: Tiếng phạm gọi là Bát-đà, chánh dịch là “tích”, dịch theo nghĩa là “cú”. Cú là chương, nêu giảng nghĩa cứu cánh. Tức như kinh nói: các hành vô thường v.v… là chương cú. Chính dịch là “tích”, nghĩa là như vết chân voi. Voi có bốn dấu chân, tìm theo dấu chân thì được voi. một bài kệ có bốn cú, tìm theo cú thì được nghĩa. Văn tự Bát-nhã, thể tức là bốn pháp, nghĩa là danh, cú, văn và với âm thanh. Danh thuyên bày về tự tính, như gọi các sắc,… vì các pháp, sắc, thọ v.v… tự tính khác nhau. Cú thì nêu giảng về sự sai biệt, như nói vô thường, khổ, không, vô ngã, là những pháp sai biệt khác nhau. Văn tức là tự, vì nó hiển bày danh cú. Thanh tức là âm thanh, là những thứ do tai nghe. Theo âm thanh dài, ngắn, gọi là danh, cú, văn. Cả ba thứ đó lìa âm thanh tuy không có thể riêng nhưng giả và thật thì khác nhau. Cũng không phải chính ngay ở âm thanh hợp thành Bát-nhã, mà là nhân của giải thoát. Đừng cho văn tự của kinh này chỉ một mình đức Thế Tôn thuyết giảng mà trăm ngàn vạn ức tất cả chư Phật cùng thuyết giảng.
Tiếp đến là phần hai – Tín thọ vô thượng, trong đó chia làm hai. Đây là phần một: Tài thí là kém.
Kinh: Như có người dùng bảy báu chứa đầy trong hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới, Bố thí cho tất cả hữu tình khắp đại thiên thế giới đều đắc quả A-la-hán.
Giải thích: Nêu dụ để so sánh
“Hằng hà”: Tân dịch là Căng-già-hà. Trong sông nhiều cát, lấy mỗi một hạt cát dụ cho số đại thiên giới, bảy báu đầy trong Tam thiên đại thiên giới nhiều như cát đó, như thường phân biệt.
“Bố thí cho tất cả hữu tình khắp đại thiên thế giới”: Bố thí rộng lớn. Dùng bảy báu quý giá trong các cõi nhiều như cát sông Hằng Bố thí cho hữu tình trong sáu thú bốn loài cả đại thiên giới đều bình đẳng Bố thí cho nên kinh nói chung là tất cả hữu tình.
“Đều đắc quả A-la-hán”: Những người thọ nhận sự Bố thí đó, tất cả hữu tình, phát tâm Thanh văn, tu hạnh tự lợi. Theo kinh cũ nói là: “Đắc bốn quả của bảy Hiền. Còn ở đây là chỉ nêu theo phần thù thắng là quả La hán, hiển bày trong chỗ Bố thí đạt đến quả tối là hơn.
Tiếp đến là phần hai – Tín thọ thắng
Kinh: Không bằng có người đối với kinh này, cho đến khởi một niệm tịnh tín, huống chi là có người có thể thọ trì, đọc tụng, hiểu rõ một câu.
Giải thích: Tín tâm lắng sạch là gốc của các thiện. Nếu người thường tín thì không có cách gì so sánh được. Chỉ một niệm tịnh tín với kinh, còn hơn cả phước trên.
“Huống chi…”: một niềm tin ít ỏi mà phước còn hơn kia, huống nữa là đọc tụng thọ trì, tâm sinh chánh giải, thì chẳng có gì bằng.
“Thọ trì…” Thọ nghĩa là nhận lãnh. Trì: nghĩa là không quên. Như trong luận Biện Trung biên, phần hành thập pháp tụng nói:
Viết, chép để cúng dường
Cho người, nghe, cầm đọc
Thọ trì, chánh khai diễn
Phúng tụng và tư, tu.
Tám thứ trước là văn tuệ.
Hai sau là tư, tu tuệ.
Tức là Tam tuệ.
Ở kinh này nêu bốn thứ: ba thứ thuộc văn tuệ, một thứ thuộc tư tuệ. Chỉ hiểu một ít thôi, thì đã hơn phước kia.
Hỏi: bảy báu đầy Hằng sa giới, rộng thí hữu tình, họ lại tu hành đến quả vô học, đủ cả ba tuệ này là hơn, sao lại kém hơn một niệm tín?
Đáp: bảy báu là tài, do thí trụ nơi tướng, hai thứ kia tuy nhiều nhưng có phân biệt. Quả A-la-hán, tự cầu giải thoát, vì là tiểu thừa, cho nên là kém. Giáo Bát-nhã này, là mẹ của chư Phật, sinh ra chư Phật, rộng lớn thâm diệu, chẳng có gì sánh bằng, chỉ một niệm tín, liền vượt phước trước.
Dưới đây là phần ba – sở thuyết (văn tự) là vô thượng – Trong đó chia làm hai. 1. Trưng hỏi nguyên do.
Kinh: Nguyên do là gì?
Giải thích: Nguyên nhân của tịnh tín trì tụng thắng hơn là gì?
Sau đây là phần hai – Nêu nguyên do thắng hơn.
Kinh: Văn tự tính lìa, không có tướng của văn tự, chẳng phải pháp phi, chẳng phải pháp.
Giải thích: “Văn tự tính lìa, không có tướng văn tự”: là nói về giáo, cái chủ thể thuyên bày (lý lẽ)… biển hiện ra, thuyết bày ra. Vì các pháp không có tự tính, nên bảo là lìa tính. Do vì tính lìa, nên vô tướng.
Vì vậy, kinh Tịnh Danh nói: Văn tự tính lìa, tức là giải thoát.
“Phi pháp” tức văn tự vốn là không.
“Phi phi pháp”: là tuy lìa tướng mà thể của cái được nêu ra (sở thuyên) không phải là không có.
Lại giải thích “chẳng phải pháp” là lý của cái được nêu giảng, trí không phải tướng có “chẳng phải phi pháp” là pháp đã tu chứng thì chẳng giống như sừng thỏ không phải không có pháp. Do giáo và lý đều lìa nhị biên, cho nên là vô thượng.
Tiếp đến là phần bốn – Nêu trí tuệ vô thượng. Trong đó chia làm ba phần.
1. Bát-nhã không.
Kinh: Bát-nhã không, cho nên Bồ-tát cũng không.
Giải thích: “Bát-nhã không”: là cảnh trí không.
“Bồ-tát cũng không”: Tức Bồ-tát, là chủ thể hành chiếu cũng không.
Sau đây là phần hai – Nêu hỏi nguyên do Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì nguyên do gì mà Bồ-tát cũng không?
Kế đến là phần ba: Giải thích về nguyên do không. Trong đó chia làm hai phần. 1. Nhân của Bồ-tát là không.
Kinh: Ở trong địa thứ mười, mỗi địa đều có mới sinh, trụ sinh và chung sinh, ba mươi sinh đó đều là không.
Giải thích: Nêu đối tượng nương dựa là không, để hiển bày chủ thể nương dựa là không.
“Ở trong địa thứ mười”: Là địa Hoan hỷ v.v… nương dựa duy trì sinh trưởng, gọi là địa.
“Mới sinh, v.v…”: là nói về địa thứ mười không. Ở mỗi một địa đều có đủ ba sinh. Như sơ địa; kiến đạo đầu tiên, gọi là mới sinh. Trong sơ địa, khi tu đủ hạnh thù thắng trải qua thời gian lâu dài, gọi là trụ sinh. Sơ địa sắp mãn, tiến cầu địa sau, nơi tâm sau cùng, gọi là chung sinh. Tức nhập, trụ, chung là ba sinh. Địa thứ chín còn lại cũng vậy, tức thành ba mươi sinh. Tuy ba địa sau cùng, không có sự cố gắng nào khác, cứ theo tự nhiên mà gia hạnh, nhưng vẫn có ba sinh.
“Đều là không”: Chung thì địa thứ mười, riêng thì ba mươi sinh, do chủ thể nương dựa và đối tượng được nương dựa của ngôi vị nhân này đều là không.
Tiếp theo là phần hai – Quả Phật không.
Kinh: Nhất-thiết-trí, Trí lại cũng đều không
Giải thích: “Nhất-thiết-trí trí” là toàn bộ hai trí: Căn bản Trí và hậu đắc trí của Phật, không chỉ những văn tự, mà theo đến đối tượng được nêu giảng và Bồ-tát đều không, thậm chí quả vị Phật, các tướng vĩnh viễn tịnh lặng, cũng đều là không.
Trên đây là đã giải thích riêng về ba loại Bát-nhã, cả ba đều chung cho nhân và quả. Như văn đã giải thích xong.
Đoạn văn lớn thứ hai, biện minh chung về Bát-nhã, trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu chung về cảnh, trí; 2. Giải thích riêng về cảnh, trí; 3. Tổng kết đều là như. Đây là phần một. Nêu chung về cảnh và trí.
Kinh: Đại vương! Hoặc Bồ-tát thấy cảnh, thấy trí, thấy thuyết giảng, thấy thọ nhận, tức chẳng phải Thánh kiến mà là phàm ngu kiến.
Giải thích: Đoạn văn này là nói chung về Thánh và phàm.
Ở trên đã nói về ba loại Bát-nhã khiến các Bồ-tát tu chứng như vậy. Cảnh và trí tuy giống nhau nhưng do mê và ngộ nên khác nhau. Sau đây là so sánh giữa phàm và Thánh. Cảnh của chư Bồ-tát thấy tức là thật tướng Bát-nhã. Nói thấy trí tức là quán chiếu Bát-nhã. Thấy thuyết, thấy thọ tức là văn tự Bát-nhã. nghĩa là với ba thứ Bát-nhã trên, dùng tâm vô tướng thường chứng tu thuyết. Không hoại ở tướng, đạt đến không chấp trụ mới là chơn Bồ-tát chân thật. Nếu tâm chấp giữ nơi tướng thì những cảnh thấy được đều là sáu trần.
“Thấy trí” là trí vọng phân biệt.
“Thấy thuyết, thọ”: là chấp trước tướng thuyết giảng thọ nhận.
Mê tính mà chấp giữ tướng là chấp của ngu phu.
Hỏi: Cảnh, trí, thuyết, thuộc phàm phu và cảnh, trí, thuyết của Bồtát, thể của cả ba là khác nhau hay giống nhau?
Đáp: Vì trụ tướng, nên chẳng đồng, vì chiếu giải nên chẳng khác. Cho nên không nhất định.
Tiếp theo là phần hai: Nói riêng về cảnh và trí. Trong đó có ba phần: 1. Cảnh trí của phàm; 2. Cảnh trí của Thánh; 3. Nói và nghe.
Trong phần một cảnh trí của phàm. Chia làm ba phần:
– Nêu chung về quả báo.
– Giải thích về nghiệp của ba cõi.
– Kết về nghiệp quả là không.
Đây là phần một- Nêu chung về quả báo.
Kinh: Quả báo ba cõi của hữu tình là hư vọng.
Giải thích: Đây là nói về phần đoạn sinh tử trong ba cõi.
“Hữu tình” là hữu tình thế gian.
“Quả báo”: Nghiệp quả nơi sáu thú.
“Ba cõi” là khí thế gian bên ngoài.
“Hư vọng” nhân và quả đó, cả hai đều không thật. Như kinh Bất Tăng Bất giảm nói: Pháp thân thanh tịnh bị các phiền não làm lay động, nên qua lại nơi sinh tử, gọi là chúng sinh. Nói về các hữu tình, bản tính thanh tịnh, vì bị nghiệp vô minh làm lay động nên ngủ mê trong ba cõi, trôi chuyển trong sáu đường, qua lại sinh tử, giống như diễn viên thay đổi nhiều vai, đều là hư vọng.
Sau đây là phần hai – Giải thích về nghiệp ba cõi, trong đó chia làm ba phần: 1. Nghiệp nơi Dục giới.
Kinh: Dục giới phân biệt đã gây tạo các nghiệp.
Giải thích: “Dục giới” là cảnh giới thuộc về hai loại tham thực và
dục. nghĩa là cả bốn thú thì hoàn toàn, cõi Trời thì một phần và nơi chốn nương dựa đều gọi là Dục giới.
“Phân biệt”: Là hữu tình nơi Dục giới, các thức tán động, thân khác nhau, tưởng khác nhau, nhiều loại khổ vui, khởi vọng phân biệt.
“Đã gây tạo”: nghĩa là thân khẩu ý vọng tưởng tạo tác.
“Các nghiệp”: Thể của nghiệp là Tư. Nghiệp hành phước, phi phúc, như đã giải thích trên.
Kế tiếp là phần hai – Nói về nghiệp của Sắc giới
Kinh: Tạo nghiệp của bốn tĩnh lự định của cõi Sắc.
Giải thích: “Sắc” là Sắc giới.
“Bốn tĩnh lự địa”: như đã giải thích ở trên.
“Định” là tâm một cảnh tính.
“Tạo nghiệp” lược có ba loại: 1. Tầm tứ: nghĩa là sơ tĩnh lự có tầm có tứ. Nếu trung gian thiền thì không có tầm, chỉ có tứ. Ba tĩnh lự tiếp theo thì không có tầm, không có tứ. Cùng với ba loại nầy tương ưng với định tịnh, đó tức là hành chẳng động, có thể sinh ra những nghiệp kia.
Tiếp theo là phần ba – Nêu nghiệp của vô Sắc giới.
Kinh: Những nghiệp khởi do bốn định không ở vô sắc.
Giải thích: Hai chữ “vô sắc” như đã giải thích trên.
“Bốn không” là 1. Không vô biên xứ; 2. Thức vô biên xứ; 3. Vô sở hữu xứ; 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
“Định”: nghĩa như đã nêu trên. Không có tầm, tứ, chỉ có những khởi nghiệp do định thắng tịnh. Như Luận Câu-xá nói: Khi tu gia hạnh, suy tư về vô biên không, lìa đệ tứ thiền, sinh lập không vô biên xứ, nương theo cận phần này mà các đạo vô gián, nhàm chán hữu lậu nơi các cõi dưới. Cả ba thô, khổ, chướng, tùy một hành tướng, các đạo giải thoát, vui nơi căn bản không. Tĩnh, diệu, ly cả ba, tùy một hành tướng, đắc sinh bốn uẩn tạo thành thân. Nương theo mệnh căn nơi chúng đồng phận thọ hai vạn kiếp. Ba xứ như Thức v.v… theo đó mà biết thọ bốn vạn kiếp, sáu vạn, tám vạn kiếp, do định dần dần thù thắng.
Dưới đây là phần ba – Kết về nghiệp quả không, trong đó chia làm hai phần:
1. Nghiệp quả không.
Kinh: Nghiệp quả của ba hữu, tất cả đều không.
Giải thích: “Ba hữu”: là Dục hữu, Sắc hữu, vô sắc hữu.
“Nghiệp quả”: Nghiệp là nghiệp thiện, bất thiện hữu lậu và lực trợ duyên là phiền não chướng. Quả là dị thục của các thú cảm nhận, như thân mệnh dài ngắn, tùy theo lực nhân duyên có hạn định, là quả phần đoạn.
“Tất cả đều không”: Tức những thứ kia đều không có tự tính, đều là không.
Dưới đây là phần hai – Kết về vô minh không.
Kinh: vô minh căn bản nơi ba cõi cũng không.
Giải thích: “Vô minh căn bản”: Như Luận Duy thức nói: Thức thứ bảy đều thường hành tuy vô minh, thường tương tục nhưng chẳng thể phát nghiệp. Thức thứ sáu thì mê lý mà khởi, chỉ chấp giữ lấy có thể phát các hành phước v.v… chính là đứng đầu của duyên sinh, làm căn bản.
Như luận Khởi Tín nói: vô minh có hai loại: 1. Căn bản; 2. Cành ngọn. Tướng ngọn cành thì tế, nghĩa là nghiệp chuyển hiện, dựa nơi hiện thức đó khởi các sự thức. Tức như kinh Lăng Già nói: “Gió cảnh giới lay động, sóng bảy thức lưu chuyển” cùng nhau dẫn phát mà thọ nhận phần đoạn sinh, tức là cành ngọn. “Căn bản” là vì không biết như thật về pháp chơn như, tâm bất giác khởi mà có niệm đó. Niệm không có tự tướng, không lìa bản giác, giống như người mê, dựa vào phương mà mê, nếu lìa phương, thì không có mê. Chúng sinh cũng vậy, vì nương theo giác mà mê, nếu lìa tính giác thì không có gì là không giác, đó là “căn bản”.
“Cũng không”: Há chỉ là nghiệp quả vì không có tự tính nên không, mà ngay cả vô minh căn bản mà những nghiệp quả kia nương vào, cũng không có tự tính, nên cũng không.
Tiếp đến là phần hai – Nêu rõ cảnh trí của bậc Thánh. Trong đó chia làm ba:
1. Nêu Biến dịch không:
Kinh: Các địa của Thánh vị vô lậu sinh diệt, ở trong ba cõi, vô minh tập còn lại quả báo biến dịch, cũng lại đều không.
Giải thích: “Thánh vị”: Đây là nói bậc chứng đắc, chẳng phải hạng phàm phu đạt được.
“Các địa”: theo kinh cũ dịch là “ba địa chín sinh diệt”. Ba địa là địa thứ tám, thứ chín, và mười. Mỗi địa đều có mới, trụ, chung sinh là chín sinh diệt. Kinh Lăng già bản bốn quyển nói: Bồ-tát Ma-ha-tát đắc pháp nhẫn vô sinh, trụ nơi địa thứ tám, chuyển các tâm xả, đắc ý sinh thân.
Lại nữa, quyển bốn nói: Đại Tuệ! Thanh văn, Bích chi Phật, vì chưa chứng pháp vô ngã, chưa đắc lìa biến dịch sinh bất tư nghị. Lại nữa, kinh phu nhân nói: 1. A-la-hán; 2. Độc giác; 3. Bồ-tát đã đắc tự tại, thọ thân biến dịch.
“Tự tại” tức là địa thứ tám đắc tự tại ở tướng và cõi.
Lại nữa, kinh Lăng già quyển ba nói: Có ba loại ý sinh thân: Ý sinh thân do Tam muội lạc chánh thọ ý sinh thân do, giác tính tự tính pháp và Ý sinht hân do, chủng loại câu sinh vô hành tác. Thuộc địa thứ mười: Từ sơ địa đến địa thứ bảy thì đắc thân thứ nhất. Địa thứ tám thì đắc thân thứ hai, từ địa thứ chín đến địa thứ mười thì đắc thân thứ ba. Do đó mà nói: chỉ thẳng hướng đến Bồ-tát. Cả ba đoạn văn trên đều giống nhau. Thanh văn, Độc giác, cả hai kinh đều nói: Hàng Nhị thừa vô học, hồi tâm hướng đại thừa, địa tiền cũng đắc thọ sinh biến dịch huống nữa là chư Bồ-tát đã đạt địa thứ nhất.
Nói “vô lậu” ở đây là nói về nhân. Lậu là phiền não, khởi nhiều lỗi lầm không cùng tận. Trí này không có lậu đó, nên bảo là vô lậu.
“Sinh diệt”: Tuy căn bản trí, tự thể sinh diệt, nhưng chứng bất sinh, cho nên chẳng phải là nhân của biến dịch, chỉ sau khi đắc duyên pháp sinh diệt, có phân biệt, mới làm nhân của biến dịch. Luận Duy thức nói: nghĩa là các nghiệp vô lậu có phân biệt làm nhân. Ở trong ba cõi, các vô minh tập còn sót lại làm duyên. Chướng có hai loại: Bậc đắc biến dịch thì không có phiền não chướng, chỉ có sở tri chướng. Đó là sự sót lại của phiền não trong ba cõi. Sở tri chướng tức là vô minh. Kinh Phu Nhân nói: “vô minh trụ địa”. Ngài Từ Ân thì dịch là “vô minh tập địa, vì từ vô thủy đến nay do vô minh huân tập”. Luận Duy thức quyển tám nói: “Do duyên trợ lực của sở tri chướng nên làm duyên”. vô lậu làm nhân, sở tri chướng làm duyên chiêu cảm quả dị thục thù thắng vi tế.
“Biến dịch”: Đó là tên gọi. Biến: là cải đổi. Dịch là chuyển dịch. Chuyển đổi thân mệnh, gọi là biến dịch. Ở đây có ba tên gọi. Luận Duy thức nói: Do nguyện lực bi, chuyển đổi thân mệnh, không có hãn định, gọi là biến dịch hoặc gọi là ý thành thân, tức do nguyện lực bi, do ý nguyện mà thành. Còn gọi là Biến hóa thân , vì do lực vô lậu chuyển khiến trở nên khác xưa, như biến hóa.
“Quả báo”: Nghĩa là chư Bồ-tát, nương thân cõi Dục Sắc, tùy các giới, địa, khiến thân đó chuyển đổi, với dị thục vô ký vi tế, sáng, diệu, trong sáng nơi tính của năm uẩn. Chỉ vì thân tự loại và các cảnh của Bồtát ở vị sau tốt hơn, chẳng phải là cảnh kém, cho nên đâu cần chiêu cảm quả ác hữu lậu. Để nhằm tự chứng Bồ-đề, tạo lợi lạc cho người khác, nghĩa là: các Bồ-tát đã mãi mãi đoạn trừ, điều phục phiền não chướng, cho nên không chịu thọ nhận thân phần đoạn, sợ bị uổng phí nhiều thời gian tu hạnh Bồ-tát, bèn dùng nhân nguyện lực của định thù thắng vô lậu, như pháp kéo dài thọ mạng, hổ trợ hiện thân, khiến được dài lâu, cùng với quả không dứt. Như vậy, nguyện lực định trợ giúp, luôn luôn cho đến khi chứng đắc Bồ-đề vô thượng, đâu cần tác động của sở tri chướng? Do chưa viên chứng đại bi vô tướng, không chấp Bồ-đề, hữu tình là thật có, thì không do đâu phát khởi bi nguyện mãnh liệt. Lại nữa, vì sở tri chướng làm chướng ngại đại Bồ-đề, vì để đoạn trừ vĩnh viễn, cho nên lưu giữ lại thân mà trụ. Lại nữa, kinh Lăng-già nói: Tùy nhớ nghĩ về cảnh giới của bản nguyện, vì để thành thục cho chúng sanh, đắc tự giác về Thánh trí, do các nguyên nhân như vậy nên tạo mọi chiêu cảm. Dựa theo đó mà xét thì tính của biến dịch sinh tử là thuộc về quả dị thục hữu lậu; đối với nghiệp vô lậu là quả tăng thượng. Nếu có Thánh giáo nói là vì vô lậu xuất ba cõi tức tùy thuộc nhân hỗ trợ mà nói như thế. Như kinh Phật Đại nói: Có Tịnh độ vi diệu vượt ngoài ba cõi, Bồtát địa thứ mười nên sinh ở trong đó. Nói “cũng lại đều không”. Chẳng những phần đoạn sinh tử vì không có tự tính nên không, mà ngay cả sinh tử biến dịch không có tự tính này cũng là không.
Dưới đây là phần hai – Nêu Đẳng giác không
Kinh: Bồ-tát Đẳng giác, đắc định Kim cang, hai thứ nhân quả của sinh tử là không, Nhất-thiết-trí cũng không.
Giải thích: Bồ-tát Đẳng giác: là vị Đẳng giác ở sau Địa thứ mười.
Đắc định Kim cang, là định thú thắng sau cùng.
Hai thứ nhân quả của sinh tử là không: nghĩa là Bồ-tát đó do trị được hai chướng vi tế của hai loại sinh tử là phần đoạn và biến dịch.
Hỏi: Ở ngôi vị này mà có phần đoạn sinh tử sao?
Đáp: Do phiền não chủng làm nhân. Lại nữa, do vô lậu kéo dài phần đoạn uẩn mà thành là biến dịch. Lại nữa, vô minh căn bản từ gốc hướng ngọn, làm nhân.
“Nhất-thiết-trí” là trí của chủ thể đoạn. Chủ thể đoạn và đối tượng được đoạn kia đều không có tự tính, nên bảo là cũng không.
Tiếp theo là phần ba – Nêu Quả đức không.
Kinh: Phật vô thượng giác, chủng trí viên mãn, trạch phi trạch diệt, pháp giới chân tịnh tính tướng bình đẳng, ứng dụng cũng không.
Giải thích: “Phật vô thượng giác”: Tiếng Phạm gọi là Phật đà, nghĩa như trên đã nêu. Thù thắng không gì sánh nên gọi là Vô thượng giác. Đây là nêu chung.
“Chủng trí viên mãn”: Chủng tức là trí sự. Trí là trí lý tức là Trí và đức viên mãn.
“Trạch phi trạch diệt”: Tức là trạch diệt và phi trạch diệt. Trạch tức là Tuệ tịnh, đoạn hoặc hiển bày “như”, gọi là trạch diệt. Duyên khuyết mà hiển bày như không do ở lực trạch diệt, gọi là phi trạch diệt, tức giải thoát viên mãn.
“Pháp giới chơn tịnh”: Chân là chơn như, pháp giới thanh tịnh, nhờ ở pháp thân viên mãn.
“Tính tướng bình đẳng”: Tính là chơn như, tướng là trí, đều đã viên mãn tột cùng tức là bình đẳng.
“Ứng dụng”: là đại bi cảm nhận dẫn đến thân ứng, hóa. Dụng mà thường tịch lặng, nhờ ứng hóa đủ đầy. Tất cả hằng sa công đức nơi ba thân ba đức mà Như Lai hiện có cũng đều là không.
Dưới đây là phần ba – Nói về thuyết giảng và nghe đều không. Trong có hai phần: 1. Thuyết giảng và nghe không
Kinh: Này thiện nam! Nếu có người tu tập Bát-nhã Ba-la-mật đa, người thuyết giảng người nghe, thì ví như người ảo thuật, không có nói, không có nghe, pháp đồng pháp tính, giống như hư không.
Giải thích: “Nếu có người tu tập Bát-nhã…” nghĩa là: nếu nói nghe không có tướng của nói, nghe.
“Ví như…” là nêu dụ nói rõ.
Hai câu dụ cho nhân, hai câu dụ cho pháp.
“Ví như người ảo thuật”: là những người biến hóa giả tạo. Hoặc như người gỗ, chúng tuy là chuyển động, nhưng không có chủ tể. Quán thân như huyễn, tuy có nói nghe nhưng mất tướng nói nghe vì không phân biệt.
“Pháp đồng pháp tính, giống như hư không”: Chữ pháp ở trước là những pháp vốn có tỏ ngộ hiểu rõ lý sự. Đồng pháp tính, tức là chơn như. Ở chỗ ngộ hiểu, tinh tấn tu hành, hiểu rõ tướng tức là tính, giống như hư không.
Kế tiếp là phần hai – Kết về nhân, pháp không
Kinh: Tất cả pháp đều như.
Giải thích: Nếu có phân biệt thì thấy nhân và pháp khác nhau mà trụ. Nếu không phân biệt thì tất cả pháp đều như.
Dưới đây là đoạn văn lớn thứ ba: Tổng kết về phần Hộ trì quả.
Kinh: Đại vương! Bồ-tát Ma-ha-tát hộ trì quả Phật là như vậy.
Giải thích: Như trên đã nói, hỏi đáp chung và riêng, rộng nói về tu hành tướng không phân biệt, hộ trì quả Phật là làm như vậy.
Tóm lại, phần hỏi đáp riêng đã xong.
Tiếp theo là đoạn văn thứ ba – Hỏi thẳng đáp thẳng.
Trong đó chia làm ba phần: 1. Như Lai nêu hỏi; 2. Vua Ba-tư-nặc đáp; 3. Như Lai ấn kết.
Đây là phần một – Như Lai nêu hỏi,
Kinh: Bấy giờ,đức Thế Tôn bảo Vua Ba-tư-nặc, ông dùng tướng gì mà quán Như lai.
Giải thích: Trên đã nói rõ quả đức Bát-nhã. Ý hỏi ở đây Như Lai tức tướng mà quán tính. Lại nữa, lúc ấy, đại chúng tuy nghe thuyết giảng về thắng không, nhưng chưa hiểu về vong tướng, vì vậy Phật nêu hỏi khiến chánh quán.
“Ông dùng tướng gì” Lấy tướng hữu vi hay là lấy tướng vô vi để Quán Như Lai.
Tiếp theo là phần hai – Vua Ba-tư-nặc đáp:
Trong đó chia làm ba phần: 1. Nói thẳng thật tướng; 2. Dựa theo pháp nói chit ếit; 3. Kết về quán Như Lai.
Đây là phần một – Nói thẳng thật tướng.
Kinh: Vua Ba-tư-nặc thưa: Quán thật tướng thân, quán Phật cũng vậy.
Giải thích: Thế Tôn trước tiên là hỏi về quán Như lai. Vua Ba-tưnặc lại đáp về quán thật tướng của thân. Hỏi và đáp khác nhau, vì có bốn nghĩa: 1. Khiến cho người quán tỏ ngộ nhân biết rõ quả, quán thật tướng của mình giống với Như Lai, vì pháp thân cùng một; 2. Khiến cho người quán rõ ngộ quả biết rõ nhân. Pháp thân của Như Lai cùng một thể với chính mình, chỉ cần chứng lý viên mãn thì thành Phật; 3. Khiến người quán tỏ ngộ nhân và quả là đồng. Ở chỗ tự thân có đủ hằng sa công đức của Như Lai tương ứng với chí cầu; 4. Khiến người quán tỏ ngộ, nhân và quả là đồng, tu hai lợi đều không trụ nơi tướng, tức là chứng thật tướng bình đẳng nơi các pháp. Vì đủ các nghĩa ấy nên nêu về tự thân.
“Thật tướng”: là chân thật vô tướng, gọi là thật tướng.
“Quán Phật”: Phật có ba thân: 1. Quán hóa thân, quyền ứng thị hiện; 2. Quán Báo thân, năm uẩn chơn thường; 3. Quán Pháp thân, hiển do hai không. Pháp thân chơn thường là đối tượng quán ở đây, hóa tức là pháp. Nhưng văn kinh này phần sau nói chút ít khác với phẩm Kim cang thân và phẩm Phạm hạnh trong kinh Niết-bàn, văn niệm Phật, tán thán Pháp thân trong Kinh vô lượng nghĩa, Phẩm A-súc Phật trong kinh Duy-ma-cật, phẩm quán như lai trong kinh vô cấu xứng.
“Cũng vậy”: là quán tự thật tướng cũng giống như pháp thân Phật, cho nên bảo là cũng vậy.
Sau đây là phần hai – Dựa theo pháp nói chi tiết riêng. Trong đó có sáu mươi lăm câu, chia làm năm loại: 1. Dựa theo sắc tâm, văn có tám đối; 2. Dựa theo sự tướng, văn có tám đối; 3. Dựa theo cấu tịnh, văn có sáu đối; 4. Dựa theo tri kiến, văn có mười đối; 5. Dựa theo bỏ, nêu, văn có hai đối. Chung và riêng khác nhau có ba mươi ba đối.
Phần một – Dựa theo sắc tướng, gồm tám đối. Đây là phần một – Ba tế đều không.
Kinh: Không có tế trước, không có tế giữa.
Giải thích: Tế là bờ mé biên vực nghĩa là pháp hữu vi bị rơi vào ba đời. Có hai loại ba đời: 1. Ba đời lưu chuyển: Đã qua đi gọi là về trước, như ngày hôm qua, hôm kia. Chưa đến gọi là về sau như ngày mai, ngày mốt; 2. Ba đời pháp hành: chưa đến gọi là trước, phía trước, như nói tiền lộ, con đường phía trước. Đã đi qua gọi là sau, như nói: qua sáu. Pháp thuộc sắc tâm, tướng tự dời đổi, thành ra ba đời, thật tướng vô vi, không có trước, sau, giữa, nên bảo là vô tế.
Tiếp theo là phần hai – Ba tế tức lìa.
Kinh: Chẳng trụ ba tế, chẳng lìa ba tế.
Giải thích: Trên đã nói thể của vô vi không có ba tế. Ở đây nói vô vi không trụ nơi ba tế, tuy pháp vô vi có tự tính trụ, nhưng trong đó có sự khác nhau là trụ và chẳng trụ. nghĩa là: do tính của thật tướng tự nó là rỗng lặng, tịch tĩnh, không thể nói là trụ ở đây hay trụ ở kia, nên bảo là chẳng trụ. Hiện bày khắp tất cả pháp, nên không thể nói là lìa, thể chẳng phải là trụ lìa, mà được gọi là trụ lìa. Nếu nhất định trụ thì lìa tức không thể cùng thời. Các đoạn văn sau cũng theo với lý đó mà hiểu.
Dưới đây là phần ba – Năm uẩn tức lìa.
Kinh: Chẳng trụ năm uẩn, chẳng lìa năm uẩn.
Giải thích: Năm uẩn sắc tâm: nghĩa là tích tụ. Thật tướng chẳng phải tụ nên bảo là chẳng trụ. Hiện bày khắp sắc tâm, cho nên bảo là chẳng lìa.
Kế tiếp là phần bốn – Bốn đại tức lìa.
Kinh: Chẳng trụ bốn đại, chẳng lìa bốn đại.
Giải thích: Bốn đại, là địa, thủy, hỏa, phong. nghĩa là: cứng, ướt v.v… đến phần sau sẽ nêu đủ. Một khi khởi ắt đều có, xứ vô sắc thì không. Thật tướng chẳng phải là những thứ đó, nên bảo là chẳng trụ.
Thể hiện bày khắp cả bốn đại, cho nên bảo là chẳng lìa.
Sau đây là phần 5 – Sáu xứ tức lìa.
Kinh: Chẳng trụ sáu xứ – chẳng lìa sáu xứ
Giải thích: Sáu xứ: là sáu xứ nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Năm xứ
trước là sắc. Như luận Câu xá nói: “Thân căn chín sự, mười sự là các căn khác, ý xứ thứ sáu, là tâm pháp” đều là những môn xứ do tâm, tâm sở sinh ra. Thật tướng chẳng phải là những thứ đó, nên bảo là chẳng trụ.
Thể thì hiện khắp cả sáu xứ, nên bảo là chẳng lìa.
Kế đến là phần sáu: Hợp ba đối nói.
Kinh: Chẳng trụ ba cõi, chẳng lìa ba cõi. Chẳng trụ phương, chẳng lìa phương, minh và vô minh bình đẳng.
Giải thích: Đối thứ sáu là ba cõi tức lìa. Thể của thật tướng chẳng phải là nghiệp quả của sinh tử, nên chẳng trụ. Ba cõi, thể ở khắp những thứ kia, nên bảo là chẳng lìa.
Đối thứ bảy là: mười phương tức lìa. Nói phương là đựa theo sắc mà lập. Mặt trời mọc ở phương Đông, lặn ở phương Tây, đúng ngọ là Nam, nửa đêm là bắc, bốn góc của phương là bốn hướng, trên và dưới, thành ra mười phương. Lại nữa, trên một hạt bụi đều có phương. Nay ở đây nói về trụ và lìa. Có hai giải thích: 1. Môn dứt bỏ tướng: Không có xứ nào có thể trụ, cho nên bảo là chẳng trụ phương. Không có chấp nào có thể xa lìa, nên bảo là chẳng lìa; 2. Môn Hiển đức: Thật tướng thì luôn vượt quá hữu, nên bảo là chẳng trụ phương. Dụng thì hiện bày khắp cả pháp giới, nên bảo là chẳng lìa phương.
Đối thứ tám là: Sáng tối tức lìa. Về minh và vô minh thì có hai Giải thích: 1. Dựa theo sắc mà nói, thì ngày và đêm khác nhau. Lại thể có ánh sáng và thể không có ánh sáng nên sáng và tối khác nhau. Thật tướng thì chẳng sáng chẳng tối; 2. Dựa theo tâm mà nói: tịnh tuệ vô lậu, gọi đó là minh. Hữu lậu mê tối, gọi đó là vô minh. Thật tướng thì chẳng phải là tâm, chẳng phải là sáng tối.
“Đẳng”: là chẳng trụ chẳng lìa.
Dưới đây là phần hai – Dựa theo sự tướng mà nói. Văn có tám đối, trong đó chia làm hai phần. Bốn đối đầu là cùng phủ định để nói rõ.
Kinh: Chẳng phải một chẳng phải khác. Chẳng phải đây, chẳng phải kia. Chẳng phải tịnh, chẳng phải uế. Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi.
Giải thích:
1. Đối nhất, dị (chung một, riêng khác) có hai nghĩa:
a. Môn lìa tướng: không bị hữu câu thúc, nên bảo là chẳng phải một. Thể hiện khắp cả có không đều, nên bảo là chẳng phải khác.
b.Môn hiển đức: Thể đủ vạn đức, cho nên bảo là chẳng phải một. Vạn đức đều như, cho nên bảo là chẳng phải khác. Do vậy mà nói là chẳng phải một chẳng phải khác.
1. Đối thử, bỉ (đây, kia). Nói đây và kia là: Đây là sinh tử, kialà Niết-bàn. Sinh tử và Niết-bàn, là mê và ngộ đối đãi, lìa ngôn tuyệt đãi, xưa nay bình đẳng, thì đâu là đây, kia. Lại vật đây kia là nương nơi sắc xứ mà thuyết. Như chẳng phải tức, lìa, chẳng phải đây, kia.
2. Đối tịnh, uế: Tịnh uế, nghĩa có hai giải thích:
– Dựa theo sắc mà xét. Tịnh độ là chỗ ở của tất cả Thánh chúng. Uế độ là chỗ ở của tất cả phàm ngu. Lại nữa, Thánh và phàm, tịnh và uế, thật tướng không phải sắc, nên không phải tịnh uế.
– Dựa theo tâm mà xét, các tuệ vô lậu, gọi là tịnh. Khách trần phiền não, gọi là uế. Thật tướng thì chẳng phải tâm, cho nên chẳng phải tịnh uế. Do vậy mà bảo là chẳng phải tịnh uế.
4. Đối vi và vô vi: Chẳng phải hữu vi là các pháp hữu vi, niệm niệm dời đổi. Thật tướng thì vắng lặng, cho nên chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi: Nhưng thật tướng đó tức chơn vô vi, vì để ngăn chặn sự chấp giữ nên bảo là “chẳng phải”.
Tiếp đến là phần hai – bốn đối sau, dùng “Cùng không có” để nói rõ.
Kinh: Không có tự tướng, không có tha tướng. Không có danh, không có tướng. Không có mạnh không có yếu, không có chỉi bảo, không có diễn thuyết.
Giải thích:
1. Đối không có tự tha. Nói tự tha là dựa theo sắc tâm mà lập, hình đối đãi nhau. Đối tha nói tự, đối tự nói là tha. Thật tướng thì dứt đối đãi nên không có tự tha.
2. Đối không có danh tướng. Danh là năng thuyên (vật chủ diễn bày) tướng là sở thuyên (vật bị diễn bày), thông cả có không đều. Thật tướng thì chẳng phải là những thứ đó, vì nó không có danh tướng.
3. Đối không có mạnh, yếu: Nói cường nhược (mạnh yếu) là các lực của sắc… dựa theo đối đãi với quán mà nói. Thật tướng chẳng phải những thứ đó, vì nó không có mạnh hay yếu.
4. Đối Không có chỉ bảo, diễn thuyết: Chỉ bảo và diễn thuyết là vì có tướng mới có thể chỉ bày, có danh mới có thể diễn nói. Thật tướng thì không có tướng, nên không thể chỉ bày. không có danh, nên không thể diễn nói.
Dưới đây là phần ba. Dựa theo sự nhơ sạch nói rõ. Văn có sáu đối.
Kinh: Chẳng phải Bố thí, chẳng phải bỏn xẻn. Chẳng phải giới, chẳng phải phạm. Chẳng phải nhẫn, chẳng phải sân. Chẳng phải tinh tấn chẳng phải lười biếng. Chẳng phải định, chẳng phải loạn. Chẳng phải trí chẳng phải ngu.
Giải thích: Đây là dùng hạnh sáu độ, đối lại với sáu tệ cấu. Quán thiện ác đối đãi, có Bố thí và keo xẻn. v.v… Thật tướng thì dứt tuyệt mọi đối đãi, vì chẳng phải là những thứ đó.
Tiếp theo là phần bốn – Dựa theo tri kiến nói rõ. Văn có mười đối, trong đó chia làm hai phần một. Có sáu đôi dựa theo tướng nói rõ.
Kinh: Chẳng phải lai phi khứ, chẳng phải nhập phi xuất, phi phước điền chẳng phải không phước điền, chẳng phải tướng chẳng phải vô tướng, chẳng phải thủ phi xả, chẳng phải đại phi tiểu.
Giải thích:
1. Đối lai và khứ: Các pháp thì có động, có đến có đi. Thật tướng thì chẳng động, vì không có đến, đi.
2. Đối xuất và nhập: Mê thì nhập sinh tử, ngộ thì xuất sinh tử, cho nên có nhập có xuất. Lại nữa, pháp vãng lai (qua lại) có sự nhập xuất. Thật tướng thì tịch nhiên, vì chẳng nhập chẳng xuất.
3. Đối phước điền không hước điền: Điền có bốn loại như luận Bà-sa đã nói: hướng đến, khổ tạo ân đức sinh trưởng phước. Thật tướng thì chẳng phải hữu, cho nên chẳng phải phước điền. Thật tướng chẳng phải không, cho nên chẳng phải không phước điền. Lại nữa, vì tính không nên chẳng phải phước điền, vì đủ các đức, nên chẳng phải không phước điền.
4. Đối chẳng phải tướng, vô tướng: Thật tướng thường tịch , cho nên chẳng phải hữu tướng. Diệu dụng tùy duyên, cho nên chẳng phải vô tướng.
5. Đối chẳng phải thủ xả: Pháp hữu vi có thể thủ, có thể xả. Thật tướng vô vi thì phi thủ xả.
6. Đối chẳng phải đại, tiểu: pháp có hình chất có thể định được lớn nhỏ. Thật tướng của nó không có hình chất nên chẳng phải đại, tiểu.
Tiếp đến phần hai – Dựa theo cảnh nói rõ. Có bốn đối:
Kinh: Chẳng phải thấy, chẳng phải nghe, chẳng phải nhận biết, chẳng phải hiểu biết.
Giải thích: Thật tướng thì chẳng phải sắc, cho nên chẳng phải thấy. Phi thanh cho nên chẳng phải nghe. Phi hương, vị, xúc cho nên chẳng phải nhận biết. Chẳng phải pháp trần, cho nên chẳng phải hiểu biết.
Tiếp theo là phần 5 – Văn có hai đối. Dựa theo nêu, bỏ mà tỏ bày.
Kinh: Tâm hành xứ diệt – Ngôn ngữ đạo đoạn, đồng chơn tế, đẳng pháp tính.
Giải thích: Tâm hành xứ diệt – là tâm duyên lự dứt.
Ngôn ngữ đạo đoạn: là ngôn thuyết chẳng thể diễn bàn.
Đồng chơn tế, đẳng pháp tính: nghĩa là Vua Ba-tư-nặc quán thật tướng thân, thể giống với chơn tế, lượng ngang với pháp tính. Thế nhưng các hữu tình từ vô thủy đến nay vì ngã pháp điên đảo, vì lực huân tập mà tự tha sai biệt, do vì nghiệp lực mà hình hài bị chiêu cảm ở sáu đường khác nhau. Xét về thật tướng thì đồng với chơn tế, ngang với pháp tính.
Dưới đây là Phần ba – Kết về quán Như Lai
Kinh: Con dùng tướng mà quán Như Lai.
Giải thích: Vua Ba-tư-nặc nói: Con dùng những tướng đã nói trên để quán Như Lai.
Phần trên là phần trả lời thẳng, đã xong.
Tiếp đến là phần ba – Như Lai ấn kết. Trong đó chia làm hai. 1. Ấn chứng những lời đã nói.
Kinh: Phật bảo: Này thiện nam! Như ông đã nói, các lực vô úy các pháp bất cộng… hằng hà sa công đức của chư Như Lai đều là như vậy.
Giải thích: Này thiện nam! Như ông đã nói: Tức không chỉ thật tướng mà thật sự chư Phật chứng trí bình đẳng, toàn bộ mười lực, bốn vô úy, hằng hà sa công đức, các pháp bất cộng v.v… như ông nói, đều là như vậy.
Sau đây là phần hai – Biện minh quán chánh tà.
Kinh: Người tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phải quán như vậy, nếu quán khác đây, gọi là quán tà.
Giải thích: Người tu Bát-nhã phải quán như vậy.
“Tha quán”( quán khác): ở đoạn văn trên, chỉ nghiêng lệch giữ lấy một vế tức chẳng phải chánh quán, đều gọi là khác, là quán tà.
Đoạn văn lớn thứ ba nêu nghe pháp được lợi ích.
Kinh: Khi thuyết giảng pháp ấy, vô lượng đại chúng, đắc pháp nhãn thanh tịnh.
Giải thích: Đức Phật trả lời vua, thuyết giảng về hộ trì quả Phật, vô lượng đại chúng nghe pháp đắc pháp nhãn thanh tịnh.
Pháp nhãn tịnh: là tuệ vô lậu. Nếu chứng ngã không, tức là Sơ quả. Người chứng pháp không, tức là Địa thứ nhất.
PHẨM THỨ BA: BỒ-TÁT HẠNH
Giải thích phẩm này, văn chia làm ba: 1. Biện minh ý nối tiếp.
nghĩa là: Hai vấn đề được nêu ở đầu phẩm trước, thì phần một trình bày về quả đức của phẩm trước đã nói xong. Tiếp sẽ biện minh về nhân thù thắng đầy đủ ở đây. Khiến người tu hành, quán quả tu nhân, vui nguyện tiến tu, nên có phẩm này; 2. Giải thích tên phẩm; Bồ-tát là như phẩm Tự đã nói. Hạnh là khởi bi trí, tu hạnh nhị lợi (tự lợi lợi tha) là đạo vô trụ. Cách dịch cũ là “giáo hóa” là căn cứ theo môn lợi tha. Đạt được tâm bi đồng thể, thì lợi tha tức là tự lợi, cũng không nhau gì sai; 3. Chia văn giải thích, trong đó phân làm ba phần:
– Vua Ba-tư-nặc.
– Như Lai chánh đáp.
– Nghe pháp được ích .
Đây là phần một – Vua Ba-tư-nặc hỏi – nghĩa đó là sao?
Kinh: Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Thế Tôn! Hộ trì hạnh thập địa, Bồ-tát Ma-ha-tát phải tu hành như thế nào? Làm sao giáo hóa chúng sanh? Lại dùng tướng gì mà trụ để quán sát?
Giải thích: Hộ hạnh thập địa: là nhắc lại câu hỏi trước.
Bồ-tát Ma-ha-tát: là nói về người năng chủ hộ trì, (chủ thể) cả người chưa tu và người đã tu.
“Phải tu hành…” là chánh nói về ba câu hỏi.
Ý hỏi: người phát khởi tu đại thừa thì tu hành như thế nào? Nếu người tu hành thì làm sao để hóa độ tạo lợi? Hoặc tu hoặc hóa thì làm thế nào quán sát được lìa chướng, đạt đến quả đức viên mãn? Chính là để mong cầu quả đức vô thượng nên từ đầu đến cuối, chủng tánh không bị đoạn, mà nêu ba câu hỏi, không tăng không bớt. Ba câu hỏi này, là ba loại diệu quán của người phát tâm cầu Bồ-đề. Chán lìa hữu vi, vui cầu Bồ-đề, thương xót hữu tình. Ba loại tâm này theo thứ lớp sinh khởi, là đoạn, tu, hóa lợi. Lấy sau làm trước nên cũng được gọi là ba tụ tịnh giới: nhiếp thiện pháp giới, nhiếp chúng sinh giới, nhiếp luật nghi giới. Theo thứ lớp của trị đoạn, thì tu hành hóa lợi, lìa xa các chướng. Thuận theo ba câu hỏi, tức là nhân của ba đức Trí, Ân, Đoạn. Như thứ tự, có thể chứng đắc được quả Báo, hóa, Pháp thân cứu cánh.
Dưới đây là phần hai – Phật đáp riêng từng phần; gồm ba: 1. Đáp về tu hành; 2. Đáp về hóa độ chúng sinh; 3. Đáp về quán sát.
Trong phần một, đáp về tu hành. Văn chia làm hai: 1. Lược nói năm nhẫn; 2. Rộng nói năm nhẫn. Trong phần lược nói, văn lại chia làm ba:
1. Nêu chung về năm nhẫn.
Kinh: Phật nói: Đại vương! Chư Bồ-tát Ma-ha-tát nương vào pháp năm nhẫn để tu hành.
Giải thích: Đó là nêu chung. Dưới đây là phần hai – Liệt về năm nhẫn.
Kinh: Đó là Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, vô sinh nhẫn, mỗi nhẫn đều có thượng, trung, hạ, còn Tịch diệt nhẫn chỉ có thượng và hạ.
Giải thích: Nhẫn nghĩa là chấp nhận nhẫn chịu. Lấy tuệ làm thể, tương ứng với trợ bạn đủ tính năm uẩn.
Phục nhẫn: Phục là chiết phục. Ở ngôi vị Tam hiền, chưa tự mình chứng được lý, nương theo lực thắng giải mà tu chánh quán, cả hai môn phước và trí, tự lợi lợi tha đều chưa mất tướng. Phân biệt hai chướng khiến cho không khởi hiện hành. hai tùy miên Thủ đã điều phục nhưng chưa đoạn dứt, nên gọi là Phục nhẫn. Tức nhẫn của nhẫn, nhẫn có phục ấy. Với ba nghĩa trên mà được tên, tức là Tương tự giác trong luận Khởi Tín nói.
Tín nhẫn: Tín là chứng tín, Sơ địa, hai địa, ba địa gọi là Tín nhẫn.
Thuận là thuận hướng, thuận hướng vô sinh. Địa thứ năm, địa thứ sáu, gọi là Thuận nhẫn.
Vô sinh: gọi là “Như” Địa thứ bảy, địa thứ tám, địa thứ chín tuệ thường chiếu lý, gọi là vô sinh nhẫn.
Tịch diệt tức “Như”. Địa thứ mười, Phật địa, chiếu tịch, tịch chiếu, gọi là tịch diệt nhẫn.
Vì đại quả khó chiêu cảm, nên phải trải qua năm nhẫn, vì vạn hạnh khó đủ nên lần lượt mà tu. Từ nhân đến quả, tổng cộng mười bốn nhẫn.
Nhưng bàn về năm nhẫn này, thì Kinh Luận nói khác nhau:
Như Kinh Bản Nghiệp Anh lạc lược chia làm sáu tính: 1. Tập chủng tính: tức là thập trụ; 2. Tính chủng tính: tức là thập hạnh; 3. Đạo chủng tính tức là mười hồi hướng; 4. Thánh chủng tính tức là địa thứ mười; 5. Đẳng giác tính là tâm Kim cang tâm; . Diệu giác tính là địa Như Lai. Còn gọi là sáu tuệ: văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ, vô tướng tuệ, tịch chiếu tuệ, tuệ tịch chiếu, như theo thứ tự của sáu tính. Với sáu sinh kia đủ nêu rõ bốn mươi hai quả vị Hiền Thánh. Tuy năm nhẫn ở kinh này khác với số kê về sáu tính ở kinh kia, nhưng hai tính sau của kinh kia kết hợp là Tịch diệt nhẫn của kinh này thì nghĩa không gì sai.
Lại nữa, Luận Du-già quyển bốn mươi bảy nói về mười ba trụ:
1. Chủng tính trụ: tức là bản tính trụ chủng tính, chưa nhập tăng kỳ, tức giống với vị thập thiện của kinh này. Luận kia nói: nghĩa là tính của chư Bồ-tát vốn tự nhân hiền, tự thành tựu công đức của Bồ-tát. Bồtát ứng hợp với nhiều pháp thiện, cũng hiển hiện do tính nhân hiền, gấp tạo phương tiện, khiến chuyển ở thiện, chẳng do xét chọn, có chỗ chế ước, có chỗ phòng giữ. Trụ trong trụ này thì trụ giữ tất cả chủng tử Phật pháp. Ở trong tự thể, đã có đầy đủ tất cả Phật pháp, tất cả chủng tử, Không thể hiện khởi phiền não thượng phẩm trói buộc, tạo nghiệp vô gián, hoặc đoạn thiện căn. Nói chi tiết như trong Luận kia.
2. Thắng giải hạnh trụ: Tức giống với ba phẩm của phục nhẫn ở kinh này. Luận ấy nói: chư Bồ-tát từ mới phát tâm cho đến chưa đắc ý lạc thanh tịnh, toàn bộ tất cả các hành Bồ-tát, nên biết đều gọi là Thắng giải hạnh trụ. Ở trong trụ này, hiện bày khắp ở tất cả Bồ-tát trụ còn lại và Như Lai trụ, đều gọi là phát khởi hướng đến (Phát thú). Trong trụ trước, tuy tu các thiện, vì tính nhân hiền, nhưng những điều mình đã làm đều chẳng phải là Bồ-đề, cố ý mà làm, chưa được gọi là phát khởi hướng tới, không nhập tăng kỳ. Còn những thứ tu ở trụ này đều gọi là phát khởi hướng tới. Nhưng trong trụ này, bằng lực tư trạch gia hạnh thực hành mạnh hơn, vì tu tuệ chưa đắc kiên cố, tương tục không thối chuyển. Pháp sư Từ Ân nói: Đó là nói chưa đạt. Tu tuệ vô lậu, không phải nói trụ này không đạt tu tuệ hữu lậu. Hoặc đó là nói về khi mới phát tâm. Bồ-tát mười tín, tám tướng thành đạo, chưa vượt quá năm thứ sợ hãi, những tu tuệ vốn có chưa kiên cố. Lại nữa, ở trong ba xứ quên mất chánh niệm.
– Ở cảnh giới vừa ý hay không vừa ý, sáu cảnh như sắc v.v… tâm bị điên đảo, quên mất chánh niệm.
– Ở trong những thân thọ sinh, đã thọ sinh rồi thì quên mất những chuyện kiếp trước.
– Với các pháp đã thọ trì, quên mất những điều đã làm, đã nói trước đây. Hoặc ở một thời nào đó, đầy đủ trí tuệ minh mẫn, vì người khác mà thuyết pháp, cố gắng mà chuyển, như bắn tên ở trong bóng tối hoặc trúng hoặc không trúng. Hoặc ở một thời, với đại Bồ-đề, tuy đã phát tâm nhưng lại thối bỏ. Hoặc có lúc dứt bỏ những luật nghi tịnh giới mà mình đã thọ học, không thể thọ học. Hoặc có lúc xả bỏ việc làm lợi lạc cho hữu tình sinh ra nhàm chán việc làm lợi ích an lạc chưa được rộng lớn. Ở trong những thứ chư Bồ-tát học, chưa thể học hết. Đối với những tướng của Bồ-tát, đều chưa thành tựu, chưa thể hiện bình đẳng trong những gia hạnh chân chính của hai loại Bồ-tát xuất gia và tại gia. Những tướng trạng của các hành đã nói ở đây, khi hạ nhẫn chuyển sang các hành thượng phẩm, khi trung nhẫn chuyển thì các hành ở trung phẩm, khi thượng phẩm chuyển thì các hành ở hạ phẩm, mà mỏng nhẹ dần. Lúc nhập Sơ địa thì tất cả những tướng này đều không có.
3. Cực hoan hỷ trụ: còn gọi là Tịnh thắng ý lạc trụ, tức là tín nhẫn bậc hạ của kinh này.
4. Tăng thượng giới trụ: Tức là tín nhẫn trung phẩm.
5. Tăng thượng tâm trụ: Tức là tín nhẫn thượng phẩm.
6. Giác phẩm tương ưng tăng thượng tuệ trụ: Tức là thuận nhẫn hạ phẩm.
7. Các đế tương ưng tăng thượng tuệ trụ: Tức là thuận nhẫn trung phẩm.
8. Duyên khởi lưu chuyển chỉ tức tương ưng tăng thượng tuệ trụ:
Tức là thuận nhẫn thượng phẩm.
9. Vô tướng hữu công dụng trụ: Tức là vô sinh nhẫn hạ phẩm.
10 Vô tướng vô công dụng tru: Tức là vô sinh nhẫn trung phẩm.
11. Vô ngại giải trụ: Tức là vô sinh nhẫn thượng phẩm.
12. Tối thượng thành mãn Bồ-tát trụ: Tức là tịch diệt nhẫn hạ phẩm.
13. Tối cực Như Lai trụ: Tức là tịnh diệt nhẫn thượng phẩm.
Tuy mười ba trụ so với mười bốn nhẫn, là thiếu một àm lại rộng. Vì chủng tính trụ thứ nhất, không gồm thâu nhẫn. Giống với tụng sau của kinh này nói vị thập thiện. Nếu lấy vị Thập thiện làm phương tiện nhẫn thì con số của luận kia so với kinh này là tương đương. Luận Nhiếp Đại Thừa thì từ mười Tín cho đến Phật địa gồm có ba mươi bốn nhẫn. Địa tiền có ba nhẫn, trong địa thứ mười, mỗi địa có ba nhẫn thành ba mươi nhẫn, Phật địa có một nhẫn, thành ra là ba mươi bốn nhẫn. Lại nữa, Ngài Chân đế chú thích: năm nhẫn này, mỗi nhẫn trị ba chướng. Luận Du-già quyển bảy mươi chín nói là địa thứ bảy. Luận Duy thức thì nói là: Năm vị tu tập, đều cùng thuộc về năm nhẫn trong kinh này. Người giảng xin nêu ra như vậy.
Hỏi: Kinh liệt kê các nhẫn nói là thượng, trung, hạ. Thuận lý thì phải nói là hạ, trung, thượng, vì sao không theo thứ tự như thế?
Đáp: Căn cứ theo chủ thể hành hạnh thì lý thật phải vậy, nhưng nếu dựa theo chướng để đối trị thì cũng không trái với lý.
Tiếp sau là phần ba. Kết luận, chỉ bày tu hành.
Kinh: Gọi là Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật đa Giải thích: Là phần kết.
Sau đây là phần hai – Nói rộng về năm nhẫn, trong đó chia làm hai: 1. Rộng nói về năm nhẫn; 2. Kết luận, tu các nhẫn.
Nói rộng về năm nhẫn, văn lại chia làm năm:
1. Nói về Phục nhẫn, trong đó chia làm ba phần:
-Tập chủng tính.
-Tính chủng tính.
*Đạo chủng tính.
Trong phần một – Tập chủng tính, chia làm ba:
-Nêu vị – Biện minh tướng.
-Chánh giải tu hành.
-Kết làm Thánh thai.
Đây là phần một – Nêu vị biện minh tướng
Kinh: Này thiện nam! Thứ nhất là vị Phục nhẫn, khởi tập chủng tính, tu hạnh Thập trụ.
Giải thích: “Vị Phục nhẫn”: Trong năm nhẫn, Phục nhẫn xếp thứ nhất. Bên trong phục nhẫn, là vị đầu tiên trong ba phẩm, bắt đầu nhập vào Tăng kỳ, nên gọi là “thứ nhất”. “Phục” nghĩa là chiết phục, “nhẫn” nghĩa như trên. “vị” là ngôi vị, vị thứ. Đây là hạ nhẫn.
“Khởi tập chủng tính”: Khởi là sinh khởi, vượt qua thập thiện trước đó, nhập vào vị nhẫn. Tập là tu tập. “chủng tính” là tương ưng thuận lý, làm nhân thù thắng cho về sau này, nên được gọi là “chủng” do hiện chủng huân tập, tập thành tính.
“Tu hạnh thập trụ”: Kinh này chỉ lược nêu không liệt kê các tên gọi của thập trụ. Như kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập trụ nói; là Phát tâm trụ, Trị địa trụ, Tu hành trụ, Sinh quý trụ, Cụ túc phương tiện trụ, Chánh tâm trụ, Bất thối trụ, Đồng chơn trụ, Vương tử trụ, Quán đảnh trụ. Về hành tướng của trụ thì đến đoạn sau sẽ nêu rõ.
Kế tiếp là phần hai – Chánh giải tu hành, trong đó có bốn:
1. Tướng Phát tâm:
Kinh: Một là Tướng phát tâm, có hằng hà sa chúng sanh thấy Phật Pháp Tăng.
Giải thích: “Một là tướng phát tâm”: Ngài Tam Tạng Trương Nhĩ nói: Thứ nhất là tập chủng tính có ba tướng phát tâm: 1. Phát tưởng giả; 2. Phát tưởng khinh; 3. Tín tưởng phát.
Phát tưởng giả: Nhờ ba loại lực: 1. Thiện hữu lực: là thiện tri thức; 2. Hạnh lực: là thọ luật nghi; 3. Pháp lực: là hai nhân chung và riêng. Chung là Như Lai tạng. Biệt là năm căn như Tín… nhờ ba lực đó, ở Bồ-đề Phật, giả khởi tưởng Bồ-đề, để cầu tự an và an cho các hữu tình.
Giống như các Thanh văn quán các thứ chẳng phải màu xanh, giả khởi tưởng màu xanh nên có thể chế phục được hoặc. Đây cũng vậy nên gọi là phát tưởng giả. Từ đó về sau, những tưởng tiếp theo, tu tập không ngừng, nghĩa còn khó biết, ví như sợi lông nhẹ, không vướng mắc vào đâu, gọi là phát tưởng khinh. Tiếp tục, những tâm sau này, ngọc tín hiển hiện, gọi là tín tưởng phát, đắc nhập mười tín, gọi là Tướng phát tâm.
“Có hằng hà sa chúng sanh”: Đây là nói về số người phát tâm tuy nhiều, nhưng người đạt đến bất thối, nhập vào vị nhẫn thì con số rất ít. Ví như trứng cá và hoa của cây Am La, cả hai thứ đó tuy số rất nhiều nhưng kết thành cá con và trái thì rất ít.
“Thấy Phật Pháp Tăng”: là nói về duyên phát tâm, hoặc lại nghe thuyết về tam bảo nhất thể, tự tính thường trụ, hoặc thấy biệt tướng của trụ trì Tam bảo, do lực chỉ dạy, ở trong Tam bảo, phát khởi vô thượng, tưởng phước điền, tốt đẹp sinh tin chắc, nhập vào mười tín.
Tiếp sau là phần hai – Nói về tâm mười tín:
Kinh: Phát khởi mười tín, là tâm tín, tâm niệm, tâm tinh tiến, tâm tuệ, tâm định, tâm bất thối, tâm giới, tâm nguyện, tâm hộ pháp, tâm hồi hướng, tức đủ mười tâm đó.
Giải thích: Câu đầu là nêu chung:
Tâm Tín: là trong lắng làm tính, khéo thuận Tam bảo, lìa bất tín.
Tâm Niệm: là tính ghi nhớ rõ, khiến cho tâm chẳng đoạn, lìa sự quên niệm.
Tâm Tinh tiến: cả ba nghiệp đều cố gắng, đều khiến bất thối, lìa biếng nhác.
Tâm Tuệ: là lựa chọn làm tính, khiến tâm trị đoạn lìa ác kiến.
Tâm Định: là chuyên chú làm tính, khiến tâm chẳng động, lìa tán loạn.
Năm tâm trên tức là năm căn, sinh ra tất cả các công đức, cũng tức là năm lực, không bị tất cả những chướng ngại mình đối trị làm khuất động.
Tâm Bất thối: khiến cho năm căn lực, có đủ sức chịu đựng, sẽ không bị thối chuyển khởi tà kiến mạnh chặt đức thiện căn làm xiển đề. Vì vậy mà quyển sau nói: “Nếu đạt đến vị nhẫn, nhập chánh định tụ , không tạo năm nghịch, không hủy báng Phật pháp”. Do vậy mà nói đạt đến tâm thứ sáu thì không bị những thứ bất thiện làm cho thối động. Là tín bất thối trong bốn bất thối.
Tâm Giới: ngăn chặn đề phòng thân, ngữ, khiến cho tâm được điều hòa, lìa sự phá giới.
Tâm Nguyện: Về thể thì như trên đã nói, cầu Bồ-đề, nguyện lợi lạc hữu tình, nguyện không bị gián đoạn.
Tâm Hộ Pháp: Là thủ hộ sáu căn, lìa cảnh trần, bảo vệ, giữ gìn chín tâm kia, đừng để bị mất, hoặc với Tam bảo, không tiếc thân mạng, thường bảo vệ.
Tâm Hồi hướng: Là chín tâm đã tu trên và Hạnh thù thắng, hồi hướng thí cho chúng sanh, hồi hướng cầu Bồ-đề, Hồi hướng Niết-bàn, không cầu pháp Thế gian và Nhị Thừa.
Lại nữa, Kinh Anh Lạc nói: Mười tâm hổ trợ nhau, mỗi tâm có mười, tức là tu hành môn trăm pháp sáng tỏ, thường phát vô lượng vô đại nguyện, hữu hành, vô hành, đắc nhập Tập chủng tính.
Đủ mười tâm: Là đối với mười tâm, cần phải tu cho đầy đủ, thiếu một trong những tâm đó thì chẳng phải là ngôi vị này. Mười thứ đó đều gọi là tâm, vì tâm thì lấy duyên lự làm chính. Năm tâm từ tâm tín đến tâm thứ năm là tâm Sở Pháp luôn dựa nơi tâm trụ khởi tất tương ưng. Năm tâm sau từ tâm bất thối là thắng dụng của chúng. tâm tự tại, nên đều gọi là tâm. Đoạn trên kinh này đã nói: “Thứ nhất là vị phục nhẫn, khởi tập chủng tính, tu hạnh thập trụ.” Nay liệt kê ra mười Tín, nói là đủ mười tâm, tức là ý nói người tu đủ cả mười tâm mới nhập Thập trụ. Do đâu mà biết? Kinh Anh Lạc nói: Cả Hiền và Thánh, có mười tâm đó, mới gọi là Thập Trụ.
Trong kinh Hoa Nghiêm vốn nói đủ cả hạnh vị. Địa Tiền có ba mươi, Thập trụ là đầu không khác với thập tín, không ứng hợp thập tín tức cho là ngoại phàm. Tức trái với vị Phục nhẫn ở kinh này. Do đây Thập Thiện, tuy là tu hành, nhưng có tiến có thối giống như lông tơ. Với mười ngàn kiếp, tu tập tăng thắng, đầy đủ không thối chuyển mới gọi là nhập kiếp, xưng là vị Tập nhẫn, tức trong Thập trụ thuộc về Phát tâm trụ.
Dưới đây là phần ba: Lợi sinh sai khác.
Kinh: Mà Nhưng có thể giáo hóa một phần ít các chúng sanh
Giải thích: Nói về lợi tha. Như đoạn sau nói: “Tập chủng Đồng luân, giáo hóa hai thiên hạ. Kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát trụ này khuyên học mười pháp, là siêng cúng dường Phật, thích trú nơi sanh tử, chủ đạo hướng dẫn thế gian, khiến trừ nghiệp ác, dùng pháp thắng diệu thường hành dạy bảo, tán thán pháp vô thượng, học công đức Phật, sinh trước chư phật, thường nhờ thâu nhận, tạo phương tiện diễn thuyết Tam muội tịch tĩnh, tán thán việc xa lìa sinh tử luân hồi, làm chỗ quy y cho những chúng sanh khổ nạn.
Pháp thứ ba – Chủ đạo thế gian, tức là Luân vương này.
Pháp thứ mười: Làm chỗ quy y cho chúng sanh khổ nạn, tức là tám tướng thành Phật.
Kinh này nói: “giáo hóa các chúng sanh”, tức là trong kinh Hoa Nghiêm nói thế, xuất thế giáo hóa.
Hỏi: Sau khi gồm vào bậc đầu, phải biết Thập trụ, Nếu vậy sao lại nói là giáo hóa một phần nhỏ.
Đáp: So với Thập thiện trước thì có thể nói là lớn, nhiều. Nhưng so với những ngôi vị sau thì chỉ nói là một phần nhỏ.
Tiếp theo là bốn phần – Vượt địa Nhị thừa.
Kinh: Vượt quá, tất cả Địa Thiện của Nhị Thừa.
Giải thích: Vượt qua quả Hữu học và vô học của Nhị Thừa.
Tất cả Địa Thiện: Theo kinh Đại Bát-nhã: Cả ba Thừa cùng hành chung địa thứ mười: 1. Càn-tuệ-địa; 2. Tính Địa; 3. Bát Nhân Địa; 4. Kiến Địa; 5. Bạc Địa; 6. Ly Cấu Địa; 7. Dĩ Biện Địa; 8. Độc Giác Địa; 9. Bồ-tát Địa; 10. Như Lai Địa.
Trong địa thứ mười này, Bồ-tát là địa thứ chín. Nay Tập chủng vị ở đây, do phát đại tâm, cùng tu hai lợi, tuy là Hạ nhẫn nhưng vượt cả địa thứ tám trước, nên bảo là vượt quá tất cả địa thiện. Lại nữa, nói theo nghĩa thì Nhị thừa đều dùng Hữu Kiến mà tu vô học, Bồ-tát thì siêu vượt những thứ kia, nên bảo là tất cả.
Sau đây là phần ba – Kết, làm Thánh thai.
Kinh: Đó là Bồ-tát, bắt đầu nuôi dưỡng tâm, là Thánh thai.
Giải thích: Ở Vị ba Hiền, đều gọi là Thánh thai. Nêu ra ở đây là thâu nhiếp gồm luôn ở những ngôi vị khác.
Thai: Tự chủng làm nhân, bạn thiện làm duyên, do Tịnh pháp giới, đẳng lưu của nghe, chánh pháp, tu tập nuôi lớn. kiến đạo của sơ Địa, sinh vào nhà Phật.
Tiếp đây là phần hai – nói về tính chủng tính, trong đó có ba phần: 1. Nêu vị, biện minh tướng; 2. Chánh giải tu hành; 3. Kết, vượt đảo tưởng.
Đây là phần một – Nêu vị, biện minh tướng.
Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Tính chủng tính tu hành mười loại Ba-lamật-đa.
Giải thích: Tính chủng tính: Tính nói ở đây là tính của Tập chủng trước đã tu tập mà thành, nên bảo là Tính. Nói? “chủng tính”: Tập chủng tính trước đã hiện rõ, như nhân đồng loại, dẫn sinh ra chủng tính này. Tức là hạt giống của Tính, tính chất của hạt giống.
Hỏi: Luận Du-già nói: 1. Bản tính trụ chủng tính. 2. chủng tính do tu tập mà thành.
Kinh này lại nói: 1. Tập chủng tính; 2. Tính chủng tính. Vì sao Kinh và Luận nói về hai tính đó thứ tự trước sau lại trái nhau?
Đáp: Ý trong Luận nói là: Trước tiên lấy tính làm gốc, nương theo gốc tu tập, sau đó quen dần thành tính. Ý trong Kinh nói là: Trước tiên là tu tập, tập thành chủng tính, sau đó lấy cái tập thành làm tính chủng tính. Luận thì dựa theo góc tập, chưa tập, đã tập, còn Kinh thì chỉ Tu tập, mới tập, Tập lâu. Mỗi cách nói đều căn cứ theo một nghĩa, cũng không trái nhau .
Nói Bồ-tát: là Bồ-tát Thập hạnh. Như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập hạnh nói là: Hạnh Hoan hỷ, Hạnh nhiêu ích, Hạnh không trái nghịch, Hạnh không quấy nhiễu, Hạnh lìa Si Loạn, Hạnh Thiện Hiện, hạnh không chấp trước, hạnh nan đắc, hạnh thiện pháp, hạnh chơn thật.
Tu hành mười loại Ba-la-mật đa: là thực hành mười độ. Bồ-tát Thập hạnh, mỗi bậc tu một Hạnh, tức là mười độ.
Tu hành những gì? Các hành Bố thí, Trì giới… gọi là Ba-la-mật đa. Luận Duy thức nói: phải được thâu nhận thọ trong bảy tối thắng, mới có thể kiến lập Ba-la-mật-đa. 1. An trụ tối thắng; nghĩa là phải An trụ nơi chủng tánh Bồ-tát; 2. Y chỉ tối thắng; là phải y chỉ nơi tâm Đại Bồđề; 3. Ý Lạc tối thắng: là phải thương xót tất cả Hữu tình; 4. Sự nghiệp tối thắng: là phải thực hành đủ tất cả sự nghiệp; 5. Xảo tiện tối thắng: là phải thuộc về trí vô tướng. . Hồi hướng tối thắng: là phải Hồi hướng đến Bồ-đề vô thượng; 7. thanh tịnh tối thắng là không bị hai chướng xen tạp. Nếu người thọ trì chẳng thuộc về bảy điều trên thì những hạnh mà mình tu chỉ gọi là Bố thí… chẳng phải là đến bờ giác (Ba-la-mật). Bồ-tát ở Ngôi vị này, nương theo tương tự mà tu chứng, những hạnh khi đăng Địa đều đạt đến bờ giác.
Tiếp đến là phần hai – Chánh giải tu hành. Trong đó chia làm ba: 1. Nêu mười đối trị. 2. Chánh giải về đối trị , 3. Lợi sinh sai khác, đây là phần một – Nêu mười đối trị.
Kinh: khởi 10 đối trị:
Giải thích: Khởi: nghĩa là Sinh khởi. 10: là nêu chung.
Đối là đối quán. Trị tức là trị bỏ.
Kế tiếp là phần hai – Chánh giải về đối trị. Văn có ba phần:
1. Đối trị bốn đảo:
Kinh: Nghĩa là quán sát thân, thọ, tâm, pháp là bất tịnh, các khổ, vô thường vô ngã.
Giải thích: Quán sát: Quán: là Đối Quán. Sát: là xem xét, thẩm xét. Thể của quán là Tuệ.
Thân Thọ tâm pháp; là cảnh sở quán. Thân: là sự tương tục. Như trong Trí Luận nói: Thân: là sắc uẩn Thọ: là Thọ uẩn. Tâm là Thức uẩn. Pháp xứ, pháp giới đều gọi là pháp. Bất tịnh v.v… là hành của năng tri. Do lực vọng phân biệt từ vô thủy đến nay, nên đối với Thân, thọ v.v… cho là tịnh. Nhờ quán sát mà biết Thân là bất Tịnh, biết Thọ đều là khổ, biết tâm là vô thường, biết pháp là vô ngã, nên lìa tưởng điên đảo. Lại nữa, hiểu rõ được Thân, Thọ… tự tính của chúng là “không”, thì đều Lìa bỏ tất cả đảo.
Sau đây là phần hai – đối trị ba độc:
Kinh: đối trị ba căn bất thiện: tham, sân, si. khởi ba loại căn thiện: thí, từ, tuệ.
Giải thích: Trị: là nêu chung năng tri và sở tri tham sân si là sở tri.
nghĩa là: Do ý thức đối cảnh vừa ý thì sự tham muốn càng tăng theo, với cảnh không vừa ý thì sân hận tăng theo. Cảnh trung bình thì vô minh tăng theo. Vì ba loại căn bất thiện căn đó mà sinh ra mạn… và tùy phiền não. Nếu cả ba thứ đó đều được điều phục thì các tùy phiền não khác cũng được chế phục.
Khởi thí, từ, Tuệ: là hành của năng trị. Thí là không tham, xả thí tài và pháp. Từ: là không sân, cho người khác niềm vui. Tuệ là do không Si, tức là Chánh Tuệ. Nhờ ba loại căn thiện đó mà sinh ra các công đức của vạn hạnh.
Kế đến là phần ba – Đối trị Tam thế (ba đời).
Kinh: Quán sát ba đời: nhẫn nhân của quá khứ; nhẫn nhân quả của hiện tại, nhẫn quả của vị lai.
Giải thích: Thể của nhẫn tức là Tuệ đã giải thích như trên.
Quán nghiệp quá khứ, khởi nhẫn nhân quá khứ từng làm. Quán sắc tâm hiện tại là quả của nhân quá khứ từng làm, là nhân của quả đương lai mà khởi nhẫn về nhân quả. Quán pháp vị lai khởi nhẫn về quả đương lao.
Quán pháp vị lai, khởi Quả nhẫn sẽ có. Tuy chỉ là hiện tại, Thể của Quá khứ, vị lai không có, nhưng do sự báo trả và sự dẫn khởi mà giả biến thành Quá Khứ, vị lai. Lại nữa, theo pháp duyên sinh là: vô minh hành làm nhân của đời trước. năm chi thức v.v… làm Quả hiện tại. Ái, Thủ, hữu, làm Nhân hiện tại. Sinh, Lão tử làm Quả vị lai. Đó là dựa theo phần vị nơi Nhân quả của ba đời. Vì để phá chấp cho là không có nhân quả và chấp Đoạn Thường, khiến biết Nhân duyên như huyễn ảo, tựa như có quán sát. Bồ-tát ở vị này, quán bốn thứ; Thân, Thọ tâm pháp… để lìa bốn đảo. Quán ba thứ tâm v.v… mà lìa sự trói buộc trong tu hành. Quán pháp ba đời (thời gian) có nhưng không thật. Vì vậy khiến cho quán sát, để tu hạnh tốt hơn.
Dưới đây là phần ba – Phạm vi lợi sinh.
Kinh: Bồ-tát nơi vị này, rộng làm Lợi ích chúng sinh
Giải thích: Tính Chủng làm Ngân Luân vương, hóa độ ba thiên hạ, hơn vị Tập chủng trước, cho nên bảo là rộng làm lợi ích.
Kinh: vượt quá các tưởng Ngã kiến, Nhân kiến, Chúng sanh kiến… không bị các tưởng điên đảo của ngoại đạo hủy hoại.
Giải thích: Ngã, Nhân v.v… là các loại Ngã như Thọ giả, Tác giả, Mệnh giả, Sĩ phu.
Ngoại đạo: là các Sư của Tà Luận
Tưởng đảo: là bốn tưởng đảo, tương ưng với bốn tướng điên đảo.
Không thể hủy hoại: Người năng chấp (tà sư) và pháp sở chấp của họ (tà pháp) không thể hủy hoại, Vì do lực Thắng giải của Bồ-tát đó đều vượt qua các tà sư, tà pháp.
Sau đây là phần ba: Nói về Đạo chủng tính. Văn có ba phần như trên: 1. Nêu vị, biện minh Tướng:
Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Đạo chủng tính tu mười Hồi hướng.
Giải thích: Đạo chủng tính: là địa thứ nhất bình đẳng với Thánh đạo. Đây dẫn khởi cho kia sinh làm hạt giống cho Đạo. Tính của Hạt giống, hạt giống của Đạo, gọi là Đạo chủng tính, cả hai đều nương vào chủ.
Nói Bồ-tát: là nêu người thực hành (chủ thể).
Tu Mười hồi hướng: là Lược nêu. Như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Hồi hướng nói: là Hồi hướng cứu hộ tất cả chúng Sanh, lìa chúng sanh. Hồi hướng Bất Hoại. Hồi hướng đẳng nhất thiết Phật. Hồi hướng đến tất cả xứ. Hồi hướng vô Tận Công Đức Tạng. Hồi hướng tùy thuận kiên cố tất cả Thiện căn. Hồi hướng Cùng Tùy Thuận tất cả chúng Sanh. Hồi hướng chơn thật. Hồi hướng giải thoát không bị vướng mắc, không bị trói buộc. Hồi hướng vô lượng pháp giới bình đẳng. nghĩa của chúng như sau sẽ giải thích.
Tiếp đến là phần hai – Chánh giải tu hành. Trong đó có hai phần:
1. Nêu chung về mười nhẫn:
Kinh: Khởi mười tâm nhẫn
Giải thích: Đây là nêu chung.
Sau đây là phần hai – Chánh biện minh về đối trị. Trong đó có ba:
1. Đối quán năm nhẫn.
Kinh: nghĩa là quán năm uẩn: Sắc , thọ, tưởng, hành, thức, đắc giới nhẫn, định nhẫn, tuệ nhẫn, giải thoát nhẫn, giải thoát tri kiến nhẫn.
Giải thích: Năm uẩn và nhẫn, nghĩa chúng như trên đã giải thích. Đối quán năm uẩn, đắc uẩn giải thoát. nghĩa là, Quán lỗi lầm của tự thân, lời nói, do Lực của tư nguyện, chặn ngừa bảy chi tội về thân ngữ mà đắc giới nhẫn. Tiếp nữa là quán Thọ uẩn, vọng sinh thâu nạp các thọ lay động, do Định Chuyên chú mà đắc Định nhẫn. Tiếp nữa là quán Tưởng uẩn, giữ lấy những hình ảnh yêu, ghét… lý luận phân biệt, khởi lên các danh từ, ngôn ngữ, lời nói, như Họa sĩ, tô màu vẽ cảnh, do Tuệ phân biệt lựa chọn giản trạch mà đắc Tuệ nhẫn, Tiếp nữa là quán hành uẩn, tạo tác nhiều loại nghiệp trong ba cõi, bị sinh tử trói buộc, do Tuệ lìa trói buộc (Ly hệ) mà giải thoát tự tại, đắc Giải thoát nhẫn. Sau là quán Thức uẩn, do vọng tưởng phân biệt, khởi các tri kiến chấp giữ sáu trần. Do Tuệ không phân biệt, (vô phân biệt trí) mà giải thoát thanh tịnh, đắc giải thoát tri kiến nhẫn. Từ đối năm uẩn mà đắc giải thoát uẩn. Đó là dựa theo ngôn thuyết mà kiến lập theo thứ tự. Như theo thật nghĩa thì dùng Tuệ vô phân biệt, quán năm uẩn đều là không, ở trong từng mỗi niệm đều có đủ năm nhẫn.
Kế tiếp là phần hai – Đối quán ba nhẫn
Kinh: Quán nhân quả trong ba cõi đạt được không nhẫn, vô tướng nhẫn, vô nguyện nhẫn.
Giải thích: Ba cõi là Xứ nương tựa để quán.
Nói Nhân quả: Là nghiệp nhân, thức quả tức là chủ thể sinh. Quán năng cảm, sở cảm mà đắc ba nhẫn. nghĩa là đối với ba cõi và nhân quả kia, chấp là có “thể” thật, quán đó là không chỉ do biến kế mà đắc không nhẫn. Không đó hiển rõ ra Chơn Như thanh tịnh, không có mười tướng, cho nên đắc vô tướng nhẫn, Nhân và Quả Hữu Lậu là hư vọng chúng sinh, nương theo đó mà tu hành, đối với nhân quả này không nguyện cầu nên đắc vô nguyện nhẫn
Dưới đây là phần ba – Đối quán hai nhẫn.
Kinh Quán hai đế giả thật, các pháp vô thường, đắc vô thường nhẫn. Tất cả pháp không, đắc vô Sinh nhẫn.
Giải thích: Quán hai đế Giả Thật; Giả tức là Thế Tục. Thật tức là Thắng nghĩa, là nêu hai đế.
Các Pháp vô thường, đắc vô thường nhẫn Hữu Vi thì biến đổi tàn
lụi, sát-na không dừng, đắc vô thường nhẫn. Quán tất cả pháp không có tự tính, Thể rỗng lặng, chẳng sinh diệt, đắc vô sinh nhẫn. Cả hai thứ đó dẫn khởi sinh ra hai loại chánh quán an lập và phi an lập đến phần sau sẽ nêu rõ. Bồ-tát ở vị này quán uẩn lưu chuyển, đắc uẩn giải thoát. Quán nhân quả trong ba cõi, đắc Tam không nhẫn. Quán hai đế thật giả, đắc vô sinh nhẫn, đều là nương theo giải thoát đối trị Đảo, tiến tu dẫn sinh Thánh đạo mà chứng Địa thứ nhất.
Kế đến là phần ba – kết, nói rõ việc hóa độ lợi ích.
Kinh Bồ-tát ở vị này, làm Chuyển Luân vương, có thể rộng hóa độ tạo lợi lạc cho tất cả chúng sinh.
Giải thích: Tức là kim Luân vương, giáo hóa bốn thiên hạ, vượt qua vị trước, nên bảo là “rộng hóa độ”.
Sau đây là phần hai – Nói về vị Tín nhẫn. Văn chia làm ba phần như trên: 1. Nêu nhẫn, biện về vị.
Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Tín nhẫn là Địa Hoan hỷ, Địa Ly cấu, Địa Phát Quang.
Giải thích: Đó là Thánh Vị:
Nói Tín nhẫn: Là chứng Tín. Bồ-tát ở vị này chính mình chứng Chơn như, tam bảo và Giới đều là chứng tịnh, nên ba Địa này cùng gọi là Tín nhẫn. Tuy các Địa sau cũng có bốn thứ này (Tam bảo và giới), nhưng đây là mới bắt đầu hiện chứng được nên gọi là chứng Tịnh, gia hạnh và hậu đắc đa phần là duyên theo đó.
Hoan hỷ: nghĩa là mới bắt đầu đạt được tánh Thánh, chứng đủ cả hai Không, có thể làm ích lợi cho mình và người nên sinh đại hỷ.
Địa: là chỗ nương vào đó mà sinh trưởng, Trí, Như tương ưng. Phần sau sẽ nêu rõ.
Địa Ly cấu: là có đủ tịnh Thi la thanh tịnh, xa lìa các phiền não cấu các thứ hủy phạm giới vi tế.
Địa Phát Quang; là Thành tựu định thù thắng, đại pháp tổng trì, có thể phát vô biên Tuệ Quang vi diệu.
Dưới đây là phần hai: Chánh giải tu hành, trong đó chia làm hai:
1. Đoạn trừ ba chướng.
Kinh: Có thể đoạn trừ ba chướng, phiền não trói buộc của Sắc
Giải thích: Nói ba chướng là: như phần sau của kinh nói: Sơ Địa diệt các Tham trong ba cõi. Địa thứ hai đoạn tập Sân… Địa thứ ba diệt vô minh ám. Ba chướng này đến phần sau sẽ nói rõ. Về chướng bị đoạn như Luận Duy Thức quyển mười nói: Chướng có hai loại:
- Phiền não chướng.
- Sở tri chướng.
Trong Phiền não chướng, loại do Kiến đạo đoạn thì Nhị thừa kiến đạo, đều có thể đoạn dứt hết. Còn loại do Tu đạo đoạn, thì đến định Kim-Cang mới có thể đoạn dứt hết. Hoặc Bồ-tát thì loại do kiến đạo đoạn đến kiến đạo đoạn hết, còn loại do Tu đạo đoạn thì phải đến định Kim cang, trong một lúc tức thì đoạn dứt. Trong Sở tri Chướng loại do kiến đạo đoạn cũng đến kiến Đạo thì đoạn. Còn loại do tu đạo đoạn thì từ sau Sơ Địa cho đến định Kim-cang mỗi Địa đoạn riêng từng phần. Kinh này nói ác chướng ở ba Địa cùng hiện hành với Tham, Sân, Si và loại do tu đạo đoạn.
Khắp sáu thức, có thể phát khởi nghiệp sắc hoặc là duyên với cảnh sắc, gọi là phiền não sắc, Tự tính của phiền não là pháp trói buộc, nên gọi là “trói buộc”. nghĩa là trong cả ba địa mỗi địa đều tu hạnh thù thắng. Tham đều trừ bỏ vĩnh viễn gọi là đoạn.
Sau đây là phần hai: Nói về các hành. Trong đó chia làm hai: 1. Tu các hành; 2. Kết về Hạnh căn bản.
Trong phần một – Tu các hành, lại chia làm bốn:
1. Bốn Nhiếp pháp.
Kinh: hành bốn Nhiếp pháp là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự
Giải thích: Bố thí v.v… là do tương ưng với các Thiện căn không tham mà thâu giữ lấy chúng sanh. nghĩa như ở trên đã giải thích, là phương Tiện giáo hóa.
Tiếp theo là phần hai – Nêu bốn vô lượng tâm
Kinh: Tu bốn vô lượng tâm: Từ vô lượng, Bi vô lượng, Hỷ vô lượng, Xả vô lượng.
Giải thích: Từ Bi v.v… là do thiện căn không Sân v.v… tương ứng với sự làm lợi vô lượng. nghĩa như trên đã giải thích là sự thương xót hóa độ.
Kế nữa là phần ba – Nêu bốn Nguyện rộng.
Kinh: Đủ bốn Hoằng Nguyện, đoạn các thứ Triền cái thường hóa độ chúng sanh, tu tri kiến Phật, thành vô thượng giác.
Giải thích: Bồ-tát đã tu ắt đủ vạn hạnh, đại nguyện đã phát có bốn thứ ấy.
Đoạn các triền cái: do phiền não nên trói buộc hữu tình, do chỗ nhận biết nên che lấp thắng tuệ không được hiện khởi. Hoặc là mười Triền, năm Cái, kiến hoặc, tu hoặc theo chỗ ứng hợp, như phân biệt thông thường. Đó là nói về Đoạn.
Thường hóa độ chúng sanh: là tất cả bốn loài hữu tình (tứ sanh) ở
trong hai cõi. Đó là nói về thường hóa độ.
Tu tri kiến Phật: là đều tu tập hằng sa diệu hạnh của Chư Phật, Thế Tôn. Đó là nói về thường tu.
Thành vô thượng giác: Nghĩa là Địa thứ nhất này đối với Chánh Giác vô thượng của Chư Như Lai nêu rõ là sẽ chứng đắc. Bốn nguyện rộng này, câu đầu và cuối là tự lợi, hai câu giữa là lợi tha.
Tiếp sau là phần bốn – Nói về ba Giải thoát môn.
Kinh: Trụ nơi ba Giải thoát môn không Giải thoát môn. vô tướng Giải thoát môn, vô nguyện Giải thoát môn.
Giải thích: Nghĩa của ba Giải thoát môn như trên đã giải thích. Nói ba Tam muội thì chung cho cả hữu lậu và vô lậu, nói Giải thoát môn thì vô lậu. Ba Giải thoát môn chung cho cả các Địa.
Dưới đây là phần hai – Kết về Hạnh căn bản.
Kinh: Đó là căn bản của các hành thuộc về Bồ-tát Ma-ha-tát từ sơ phát tâm đến Nhất-thiết-trí.
Giải thích: Đó là các hành như bốn Nhiếp v.v… nghĩa là các Bồtát từ mới phát tâm, tùy lực tu tập, cho đến thành Phật, đều dùng những thứ đó làm căn bản các hành.
Tiếp đến là phần ba: Kết về hóa lợi.
Kinh: Lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh.
Giải thích: Bồ-tát Sơ Địa đi đến trăm cõi Phật. Bồ-tát Địa thứ ba đi đến ngàn cõi Phật. Bồ-tát thứ ba Địa đi đến vạn cõi Phật, tạo lợi ích, an lạc cho các chúng sanh ở đó.
Sau đây là phần ba: Nói về vị Thuận nhẫn. Văn có ba phần như trên: 1. Nêu nhẫn biện minh vị:
Lại nữa, Bồ-tát Thuận nhẫn: là Địa Diệm Tuệ, Địa-nan thắng, Địa Hiện tiền.
Giải thích: Nói Thuận nhẫn là: Chủ thể thuận là Tuệ, đối tượng được Thuận là Như. Do Tuệ tùy thuận, thuận hướng, thuận quán, đến vô sinh ở sau tức là nhẫn của nhẫn, gọi là Thuận nhẫn. Như Luận Thập Địa quyển tám nói: Tùy thuận pháp Chơn Như bình đẳng, Địa thứ tư thứ năm đắc nhẫn hạ phẩm, trung phẩm. Địa thứ sáu đắc nhẫn thượng phẩm thảy đều tùy thuận vô sinh pháp nhẫn. Còn nhẫn này thì chẳng phải là vô sinh nhẫn.
Địa Diệm Tuệ: là an trú nơi pháp Bồ-đề phần tối thắng, đốt củi phiền não, lửa Tuệ thêm sáng.
Địa-nan-thắng: hai trí Chơn và Tục, hạnh và tướng kết hợp nhau, khiến tương ưng với rất khó vượt qua.
Địa Hiện tiền: Trụ nơi trí duyên khởi, dẫn phát Bát-nhã vô phân biệt tối thắng, khiến trí ấy hiện tiền.
Dưới đây là phần hai – Chính nói về đoạn chướng
Kinh: Có thể đoạn trừ ba chướng, phiền não buộc tâm
Giải thích: Có thể đoạn trừ ba chướng: như phần sau kinh nói. Địa thứ tư vĩnh viễn đoạn thân biên kiến vi tế. Địa thứ năm, đoạn tâm ưa thích cầu Niết-bàn. Của Tiểu thừa. Địa thứ sáu đoạn các tướng thô hiện hành của các tập nhân tập nghiệp nơi ba cõi. Phiền não buộc tâm: Ba chướng nêu trên chỉ là ý thức nên đều gọi là tâm. Nói Phiền não: Như nơi Luận Thập địa đã nói rõ. Sau đây là phần thứ ba: Kết nêu rõ về lợi tha.
Kinh: Có thể với một thân, đến khắp ức cõi Phật trong mười phương, hiện bày thần thông không thể nói hết, biến hóa tạo mọi lợi lạc cho chúng sanh.
Giải thích: Bồ-tát địa thứ tư đi đến ức cõi Phật. Bồ-tát địa thứ năm đi đến trăm ức. Bồ-tát địa thứ sáu đi đến ngàn ức.
Không thể nói hết: Là hiển bày về số nhiều.
Tiếp theo là phần bốn: Nêu rõ về vô sanh pháp nhẫn. Văn gồm ba như trước.
Phần một là nêu nhẫn. Biện về Vị.
Kinh: Lại nữa, Bồ-tát vô sanh nhẫn, là Địa Viễn hành, Địa chẳng động, Địa Thiện tuệ.
Giải thích: Nói vô sanh: Tức là lý chân. Trí chứng đắc lý chân, gọi là vô sanh nhẫn. Kinh giải Thâm Mật. Luận Du-già, Luận Duy Thức đều nói ba Tính gọi là vô sanh: Bản tính vô sanh, tự nhiên vô sanh, Hoặc khổ vô sanh. Nếu trí của chủ thể chứng đắc thì gọi là vô sanh nhẫn. Gồm luôn Như của đối tượng được chứng đắc, gọi là vô sanh pháp nhẫn.
Địa Viễn hành là đạt đến vô tướng trụ, biên vực sau cùng của công dụng, ra khỏi đạo Nhị thừa thế gian.
Địa chẳng động: Là vô phân biệt trí tự nhiên hiện hành tương tục, đối với tướng, dụng, phiền não không thể làm cho lay động.
Địa Thiện Tuệ: Là thành tựu bốn vô ngại giải vi diệu, có thể hiện bày khắp mười phương khéo thuyết giảng chánh pháp.
Sau đây là phần thứ hai chính nêu về đoạn chướng.
Kinh: Có thể đoạn trừ tập khí sắc tâm nơi ba chướng.
Giải thích: Có thể đoạn ba chướng: Như phần sau của kinh nói:
Địa thứ bảy đoạn trừ tướng hiện hành vi tế của các nghiệp quả.
Địa thứ tám đoạn trừ các công dụng địa thứ chín đoạn trừ chướng không còn trở ngại, tức là đoạn trừ ba chướng.
Tập khí sắc tâm: Là chung cho chủng tử và hiện hành. nghĩa là đối với Sở tri chướng, Địa thứ sáu trước trong địa thứ mười, mỗi Địa đều đối trị một phần, là hạ phẩm của chướng ấy tức các thứ thô trọng của Sắc tâm, nên ba địa này đều đoạn trừ riêng.
Tiếp sau là phần ba tóm kết về lợi tha.
Kinh: Mà có thể thị hiện thân tướng tùy theo loài không thể nói hết, tạo lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Giải thích: Bồ-tát địa thứ bảy an trụ ở trăm ức cõi Phật. Bồ-tát địa thứ tám trụ nơi trăm vạn ức vi trần số cõi Phật Bố-tát Địa thứ chín trụ nơi trăm vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số cõi Phật, đi đến những cõi kia, hiện thân không thể nói hết, tùy theo loài, tạo lợi ích cho các chúng sanh.
Tiếp sau là phần năm – Nói về Tịch diệt nhẫn. Văn có ba phần như trên.
1. Nêu nhẫn biện vị.
Kinh: Lại nữa, Tịch diệt nhẫn là Phật và Bồ-tát cùng nương theo nhẫn này.
Giải thích: Tịch diệt: tức là Chơn Như. Trí chứng Tịch diệt, gọi là Tịch diệt nhẫn, tức là nhẫn của nhẫn theo hai cách giải thích mà được mang tên. Theo phần sau kinh, nói thì khi nhập vào Địa này thì đoạn dứt mọi chướng của thần thông, đến sau sẽ nêu rõ.
Phật và Bồ-tát: là nêu người năng nhẫn chủ thể. nghĩa là Bồ-tát đó, bắt đầu nhập vào Địa thứ mười, gọi là pháp vân. Ngôi vị sau Địa thứ mười gọi là Đẳng giác.
Cùng nương vào nhẫn này: nghĩa là ở đây so với Phật thì hơn kém khác nhau, nhưng đều cùng một nhẫn.
Tiếp theo là phần hai – Chánh giải tu hành. Trong đó có ba phần:
-Hạ thượng nhẫn.
-Đẳng Diệu giác.
-Tam thân Phật.
Đây là phần một – Nêu Hạ Thượng nhẫn.
Kinh: Định Kim cang Dụ trụ nơi vị Hạ nhẫn gọi là Bồ-tát. Đến nơi Thượng nhẫn gọi là Nhất-thiết-trí.
Giải thích: Định Kim cang dụ là Định thù thắng sau cùng. Định này hiện tiền thì có thể đoạn dứt tất cả các loại chướng vi tế, gọi là định Kim cang. Định này mới bắt đầu khởi ở thân của Bồ-tát gọi là Hạ nhẫn.
Nơi vị sau, tức vị giải thoát thành là Nhất-thiết-trí, gọi là thượng nhẫn.
Kế đến là phần hai – Nêu Đẳng Diệu giác.
Kinh: Quán Thắng nghĩa đế, Đoạn Tướng vô minh, đó là Đẳng Giác, Nhất tướng, vô tướng, bình đẳng không hai, là Địa thứ mười một Địa Nhất-thiết-trí.
Giải thích: Trên nói “Quán”: tức Chánh Trí của chủ thể quán. Chánh trí có hai: Đẳng giác chiếu tịch và Phật quả tịch chiếu. Đó là Trí làm chủ thể quán, dựa theo Nhân và quả mà chia thành hai.
Thắng nghĩa đế: tức là Chơn như, thể của Chơn như cùng sáng tỏ, cùng chứng đắc.
Đoạn tướng vô minh: Là chướng vi tế nơi Địa thứ mười một. Có hai giải thích: Thể của vô minh chung cả hai chướng. Chủng tử vi tế đó đến vị này đều đoạn dứt.
2. Vô minh căn bản thì bất Giác. Trí chiếu Bản giác, nên gọi là đoạn. Phần sau sẽ nói rõ.
Đó là Đẳng giác: là kết về Ngôi vị đoạn .
Nhất tướng vô tướng: là nói về quả Phật. Thể của Như và Trí giống nhau, nên bảo là Nhất tướng. Trí khế hợp ngầm với Chơn lý nên bảo là vô tướng.
Bình Đẳng không hai: Là Đạo của Chư Phật ngang bằng nhau, không hai.
Là Địa thứ mười một: Địa thứ mười là Nhân, Phật Địa là Quả. Vượt qua địa thứ mười trước là Địa thứ mười một.
Địa Nhất-thiết-trí: Là Phật Địa viên mãn đó là đạo giải thoát, tóm kết về quả vị.
Tiếp đến là phần ba – Nói về ba thân của Phật. Có ba phần:
1: Nói về thân Pháp tính:
Kinh: Chẳng phải hữu Phi vô, trong lặng thanh tịnh, không đến, không đi, thường trú bất biến
Giải thích: Chẳng phải hữu Phi vô: là công đức của Tính. Nghĩa là Tính Đức nhiều như hằng hà sa của chư Như Lai khác với vạn tượng, nên bảo là chẳng phải hữu. Khác với sừng thỏ là không hề có, nên nói chẳng phải không.
Trong lặng thanh tịnh: Vĩnh viễn lìa bỏ các tướng nên bảo là trong lặng, không cùng kết với hữu lậu nên bảo là thanh tịnh. Là đức vô vi.
Không đến không đi: là Thân pháp tính. Tính bản giác tịnh, thể thường bất sinh, nên bảo là không đến. Thể thường chẳng diệt, nên bảo là không đi. Không tùy tính mê ngộ mà có động tịnh, nên bảo là thường trú. Không tùy theo tính phàm Thánh mà thay đổi, nên bảo là bất biến, tức là Pháp thân.
Sau đây là phần hai – thân Trí đức
Kinh: Đồng Chơn tế, đẳng Pháp tính.
Giải thích: Chơn nói là Chơn tế, tức là Pháp thân.
Nói đồng: là Trí đồng với Lý. nghĩa là chư Như Lai, trong vị Đẳng giác, chướng vô minh đã hết nên đồng với Chân tế. Trong Vị giải thoát, chứng lý viên mãn tột cùng nên ngang với Pháp tính. Đây với Pháp Thân, chẳng phải tức Pháp thân, chẳng phải lìa pháp thân mà đầu hiện bày khắp pháp giới thường an lạc.
Tiếp theo là phần ba – Nói về Ứng, Hóa thân. Trong đó có hai phần: 1. Thân Ứng hóa; 2. Nêu chủ thể hóa, đối tượng được hóa. Đây là phần một thân Ứng hóa.
Kinh: Vô duyên đại bi, thường hóa độ chúng sanh. Vân hành Nhất-thiết-trí thừa đến giáo hóa ba cõi.
Giải thích: Vô Duyên Đại Bi: Bi có bốn loại: 1. Ngoại đạo, phàm phu, khởi nhận thức yêu thương là Bi; 2. Thanh văn, Độc giác duyên khổ dục sinh khởi tâm bi, gọi là quán hành Bi; 3. Bồ-tát vì lợi lạc chúng sinh, chứng đắc đồng thể Bi; 4. Chư Phật Thế Tôn chứng đắc vô duyên Bi.
Thường hóa độ chúng sanh: là nói Ứng thân. Nghĩa là, Chư Như Lai vốn ở cõi thuần tịnh, vị các chúng Bồ-tát trụ Địa thứ mười, tùy theo loài mà hiện thân, hiện đại thần thông, chuyển chánh pháp luân, khiến cho họ thọ dụng an lạc trong pháp thừa, không có gián đoạn, nên bảo là thường hóa độ.
Vận hành Nhất-thiết-trí thừa đến giáo hóa ba cõi: là nói về hóa thân. Chủ thể thừa (cỡi, vận hành) là Bi, đối tượng được thừa (vận hành) là Trí. nghĩa là từ trí tối thanh tịnh của pháp giới sanh ra Trí, Bi, diễn nói các giáo lý. Đó tức là Trí thuộc về sự. Vận hành nơi lý mà trí sinh, vì dùng Nhất-thiết-trí làm đối tượng vận hành.
Đến giáo hóa ba cõi: là xứ của đối tượng được hóa. Thế giới hư không đều là vô biên, nên nêu về chỗ dựa để nói về nơi chốn đến giáo hóa. Như Kinh Pháp Hoa nói: “Các con ta, trước vì vui chơi, đến vào nhà này”. Trưởng giả sợ “vào” kinh này tức là “đến”. Vì sao cần phải giáo hóa? Như kinh kia lại nói: Ta vốn lập thệ nguyện, muốn khiến cho tất cả chúng sanh ngang bằng như ta không khác. Như ta xưa đã nguyện, nay đã đầy đủ, hóa độ tất cả chúng sanh khiến đều nhập Phật đạo, nên hiện Ứng hóa để giáo hóa chúng sanh.
Dưới đây là phần hai – Nói về chủ thể hóa và đối tượng được hóa.
Trong đó chia làm bốn phần:
1. Cảnh của đối tượng được hóa.
Kinh: Này thiện nam! Các loài chúng sanh, tất cả phiền não nghiệp quả dị thục của hai mươi hai căn, không ra ngoài ba cõi.
Giải thích: Các chúng sanh: là tất cả những loài hàm thức sinh ở các cõi, các thú. Cảnh giáo hóa của chư Phật, Bồ-tát hoặc khác nhau, nhưng chủng loại sinh nơi đối tượng được giáo hóa thì chỉ như thế. Tất cả phiền não: là Lý sự phát nghiệp, sinh ra trợ phát duyên cho tất cả phiền não.
Nghiệp: Là các nghiệp phước và phi phước v.v… nhiễm tịnh, chiêu cảm sinh Nhân.
Quả Dị thục: là Quả vô ký chiêu cảm do thiện nhiễm tác nghiệp nên chiêu cảm quả. Thời gian trước sau chẳng đồng nên gọi là dị. Thục của dị v.v… như thường phân biệt.
Hai mươi hai căn: Như có Tụng nói:
Thủ cảnh tục gia tộc.
Mạng sống quả thọ dụng.
Thế gian, xuất thế Tịnh.
Theo lượng đó lập căn.
Thủ cảnh là sáu căn. Tục gia tộc: Là hai căn Nam, Nữ. Mạng sống tức là Mạng căn. Quả thọ dụng là năm căn: khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Thế gian Tịnh: là năm căn: tín, tấn, niệm, tịnh, tuệ. Xuất thế gian tịnh là ba căn vô lậu: Vị tri đương tri, dĩ tri cụ tri. Về Thể của chúng Tụng kết nói.
Sắc cùng bất tương ưng
Tâm vương và tâm Sở.
Bảy một một chỉ mười.
Ba thể tính tùy ứng.
Hai câu sau là giải thích bốn câu trên. Bảy là bảy sắc căn. một, một là Mạng căn và ý căn. Chỉ mười là mười tâm sở như năm thọ tín v.v… Ba Thể tùy ứng: là ba Thể vô lậu nơi chín căn… Tính tùy ứng: là sắc mạng vô ký, ý năm, thọ ba tín v.v… chỉ là thiện.
Không ra ngoài ba cõi: Là kết về phần đã nói trên, đều nằm trong ba cõi.
Hỏi: Trong hai mươi hai căn, mười chín căn trước là hữu lậu, nên có thể thuộc ở trong giới. Còn ba căn sau cùng thể là vô lậu, sao lại không ra ngoài giới.
Đáp: Đây là nói về đối tượng được giáo hóa nên chỉ xét về tướng chung. Lý thật thì ba căn ấy chẳng hệ thuộc trong giới. Nói “không ra ngoài” là có hai nghĩa: 1. Dựa theo chủng loại, chưa khởi hiện hành, theo thức đã nương nên bảo là không ra ngoài; 2. Xét theo hiện hành: Nhị thừa vô học, và tất cả Bồ-tát, chưa đến vị Đẳng giác tuy vô lậu hiện hành ở thức thứ sáu thứ bảy nhưng chỗ nương vào mà phân định thuộc dị thục hữu lậu, thì cũng không ra ngoài.
Dưới đây là phần hai – nói về Thân của chủ thể giáo hóa.
Kinh: Chư Phật chỉ bày, dẫn dắt, ứng hóa pháp thân, cũng không lìa ba cõi.
Giải thích: Chỉ bày dẫn dắt là khai thị, hướng dẫn.
Ứng hóa: Tức là Tha thọ dụng và biến hóa lớn, nhỏ, gọi chung là ứng hóa, chỗ dựa của ứng hóa là pháp giới thanh tịnh, cùng chủ thể dựa Thể là phi tức phi ly, nên nói Ứng và hóa đều gọi là Pháp thân. Nghĩa là: Chư Như Lai ở khắp pháp giới, ứng hiện nơi ba cõi cũng đồng với đối tượng được giáo hóa, nên nói là không lìa.
Tiếp sau là phần ba – Nêu sự sai trái của ngoại đạo.
Kinh: Như có thuyết nói: ở ngoài ba cõi, còn có riêng một cõi chúng sanh gì tức là nói theo kinh Đại Hữu của ngoại đạo.
Giải thích: Chư Phật đã thuyết giảng ngoài ba cõi không có chúng sanh. Nếu nói ngoài ba cõi có chúng sanh nữa, tức là theo cách nói của Kinh Đại Hữu trong sáu cú nghĩa của ngoại đạo Phệ thế sử ca, chẳng phải là lời Phật dạy.
Hỏi: Nếu vậy, cõi báo của Nhị thừa vô học, Bồ-tát Thập Địa cư trụ, chẳng phải là ngoài giới sao.
Đáp: Căn cứ theo trợ duyên tức ở ngoài ba cõi, nhưng thể là dị thục, nên chẳng phải là ngoài.
Dưới đây là phần bốn – Hiển bày về giáo hóa thành phật
Kinh: Đại vương! Ta thường nói: các chúng sanh chỉ đoạn trừ hết vô minh nơi tức gọi là Phật
Giải thích: Hai chướng trong ba cõi gọi chung là vô minh. Chỉ cần đoạn dứt phiền não, chỉ cần tránh được sự trói buộc của cõi đoạn dứt hết Sở Tri gọi là vô minh hết, tức là Phật.
Đã giải thích xong phần hóa độ. Dưới đây là phần ba – Kết về quả vị viên mãn.
Kinh: Tự tính thanh tịnh, gọi là Tính Bản giác, tức là Nhất-thiếttrí trí của chư phật.
Giải thích: Tự Tính thanh tịnh, gọi là Tính Bản giác: Tức là Chơn
như. Theo Luận Khởi Tín thì: Câu trước là dứt tuyệt đối đãi, câu sau là đối đãi: Đối Bất giác mà nói là Bản giác.
Tức là Nhất-thiết-trí trí của Chư Phật: có hai thuyết giải thích:
1. Chơn như là Pháp thân của Phật, Pháp thân, Trí thân và tính và Tướng bình đẳng. Thể và tướng cùng theo nhau, cũng được gọi là Nhấtthiết-trí trí. Như thật thì chẳng phải Trí.
2. Chơn Như tức “Nhất-thiết-trí”. Tâm quay về với nguồn gốc, ngầm hợp không khác. Tướng và dụng chẳng phải không có một thể riêng biệt, tức là lấy Chơn như làm Nhất-thiết-trí trí.
Dưới đây là đoạn văn lớn thứ hai, kết về tu các nhẫn.
Kinh: Do đây mà được làm căn bản của chúng sanh, cũng là căn bản của hạnh của Chư Phật, Bồ-tát. Tức chính là mười bốn nhẫn trong năm pháp nhẫn của Bồ-tát vốn đã tu hành.
Giải thích: Do đây mà được làm căn bản của chúng sanh: Có hai thuyết nói:
1. Do Bản giác nêu trên. Nghĩa là do Bản giác tùy theo Bất giác mà đánh thức tính sáu cõi luân hồi trong Ba cõi, nên Bản giác này làm căn bản của chúng sanh. Cũng là căn bản hạnh Chư Phật, Bồ-tát: vô minh mỏng nhỏ thì lực của Bản giác tăng. tâm quay về với nguồn. Từ ngọn hướng về gốc, theo thứ tự mà kiến lập năm nhẫn. Đạt đến Tịch diệt nhẫn thì Bản giác như nhiên vắng lặng. Vốn không có lay động nên nay không có tịch lặng. Bản giác này cũng là căn bản của hạnh chư Phật, Bồ-tát.
2. Do năm nhẫn, là gốc tu hành từ đầu đến cuối của người phát khởi Đại Thừa, hướng đến đạo quả vô thượng, cũng là căn bản của hạnh Chư Phật, Bồ-tát. Cũng là căn bản pháp giới đã thành, chưa thành nơi Phật, Bồ-tát.
Dưới đây là phần hai – Trả lời về hóa độ chúng sanh. Trong đó có bốn phần: 1. Mười Ngôi vua; 2. Thuyết kệ tán; 3. Nêu Cảnh trí của nhẫn; 4. Chư Phật đồng tu.
Trong phần Mười Ngôi vua lại có ba:
-Nhắc lại câu hỏi, lược nêu.
-Nói về mười ngôi vua.
-Kết, Nói về Chư phật.
Dưới đây là phần một. Nhắc lại câu hỏi lược nêu.
Kinh: Phật nói: Đại Vương! Ông trước đã hỏi; Bồ-tát làm sao để giáo hóa chúng sanh? Bồ-tát Ma-ha-tát nên như vậy mà giáo hóa. Từ Địa đầu tiên đến Địa cuối cùng, nơi hành xứ của mình đến hành xứ của Phật, tất cả Tri kiến.
Giải thích: Từ “Phật nói v.v…”: là nhắc lại câu hỏi trước.
Từ Địa đầu tiên: là Địa Hoan hỷ đến Địa cuối cùng: là Địa pháp Vân. Nơi hành xứ của mình: là hành xứ của Bồ-tát trong mỗi một Địa.
Hành xứ của Phật: Tức là xứ hóa độ của Phật nơi địa thứ mười. Lại hành xứ của Như Lai, tức Địa thứ mười một.
Tất cả Tri Kiến: là Tri kiến như thật, thực hành hai lợi của Bồ-tát Chư Phật chứng chơn, đạt tục.
Hỏi: một Địa đầu tiên chẳng phải là Tập chủng tính sao?
Đáp: Đây là nói về sự hành hóa tạo lợi ích của mười vua, Tam Hiền đã xong rồi, nên ở đây không xét.
Tiếp theo là phần hai – Nói về mười ngôi vị vương, văn chia làm mười phần. Trong mỗi một Địa đều chia làm năm phần: 1. Quốc độ rộng hẹp; 2. Phối thuộc ngôi vị của vua; 3. Tu pháp nhiều ít; 4. Biện minh tu hạnh thù thắng; 5. Nói về chốn lợi sinh. Trong năm phần thuộc Sơ Địa, dưới đây là phần một – Quốc độ rộng đẹp.
Kinh: Bồ-tát Ma-ha-tát, trú nơi trăm cõi Phật.
Giải thích: Bồ-tát Sơ Địa trụ trăm đại thiên. Vì sao biết được? Một cõi Phật hóa độ tức là một đại thiên một trăm cõi Phật hóa độ là một trăm Đại Thiên.
Hỏi: Quốc độ ở gồm có mấy loại? Lấy gì làm thể? Vì sao địa thứ mười có sự rộng hẹp khác nhau?
Đáp: Theo Luận Phật Địa: Các cõi trú tương đối nhau gồm hai loại: tịnh và uế. Trong tịnh có mười ba cõi cõi: Ba cõi quả và mười cõi nhân. Ba cõi trú quả là: Hoặc cõi pháp tính Chơn như làm thể; hằng sa tính đức nương vào tự tính. Hoặc cõi Báo đắc, cảnh Trí (Đại viên cảnh trí làm thể, các chủng vô lậu nương vào chính cõi trú. Cõi Tha thọ dụng, bình đẳng tính trí làm thể cho cõi này, hiện thân lớn hay nhỏ đều nương vào cõi trụ của mình. Hoặc cõi Biến hóa, Thành sự tác trí sự làm thể cho cõi đó. Hiện thân biến hóa nương vào cõi trụ của mình. Họp cả hai cõi Tha thọ dụng và Thân Biến hóa thành tức cõi trú thứ ba tức cõi trú Ứng hóa.
Mười cõi Nhân: là cõi mà Bồ-tát mười Địa nương vào, lấy bản thức làm Thể, tức thuộc về khổ đế hữu lậu. Hoặc do Hậu đắc trí biến hiện ảnh tượng hơn kém thuộc về đạo vô lậu mà cõi trú rộng hay hẹp khác nhau. Các báu trang nghiêm đều do tự trí biến ra, nên có sự tự thọ dụng thô hay diệu khác nhau. Cõi biến dịch của Nhị Thừa tuy thể đồng với Bồ-tát nhưng thô kém. Tây phương Tịnh độ (cõi trú tịnh) là thuộc
chúng sinh địa tiền (Địa tiền là trước khi vào Sơ Địa, thuộc Tam Hiền, Thất hiền), lấy bản thức làm thể, nhờ lực bản nguyện của và Phật tự hành, nên được vãng sinh, vì không có trí vô lậu làm vốn liếng chiêu cảm nên tự thọ dụng ngôi vị bảy báu.
Trong cõi uế, mọi giới, thú (loài chúng sinh) hơn hay kém là do tự thức biến ra, cứ theo như vậy thì rõ. Sự khác giống giữa cõi trú Tịnh và cõi trú uế là do nghiệp riêng của chúng sinh, như thông thường đã phân biệt.
Tiếp theo là phần hai – Phối thuộc ngôi vị của vua.
Kinh: Làm Chuyển Luân Thánh Vương ở châu Thiệm Bộ.
Giải thích: Như Kinh thập Địa: Sơ Địa làm Vua cõi Diêm-phù-đề. Kinh Anh Lạc nói: Sơ Địa trở lên làm Lưu ly Luân vương. Kinh Hoa Nghiêm nói: Sơ Địa làm vua cõi Diêm-phù-đề. Kinh này nói là Luân vương. Nói “Diêm phù” là nói trú xứ. Nói “Lưu Ly” là nói về chỗ Thắng diệu. Nói “Luân vương” là nêu về Luân Bảo. Cõi cư trú và cảnh giáo hóa không trái nhau.
Hỏi: Thế thì trong kinh này, Bồ-tát Sơ Địa và Đạo chủng tính Luân vương khác nhau thế nào?
Đáp: Như kệ sau nói: “Quyền hóa hữu tình đi trăm nước”. Trăm này là vì Thánh và phàm khác nhau.
Tiếp đến là phần ba: Tu pháp nhiều ít.
Kinh: Tu trăm Pháp minh môn.
Giải thích: Kinh này nêu chung, không phân biệt về danh số.
Kinh Anh Lạc nói: Mười Tín, mỗi một Tín có mười, tức là trăm pháp minh môn. 1. Kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát ở Địa này, nếu hành trì tinh tiến xả bỏ nhà cửa, vợ con, xuất gia học đạo, trong khoảnh khắc một niệm, đắc trăm Tam muội, dùng thiên nhãn tịnh, thấy trăm quốc độ Phật; 2. Thấy trăm Như Lai; 3. Chấn động trăm thế giới. Thân cũng có thể đi đến những thế giới Phật kia, phóng đại quang minh; 4. hóa thành trăm loài, khiến người khác thấy được; 5. Thành thục trăm loài hữu tình được hóa độ; . Nếu muốn lưu lại thân thì trụ được trăm kiếp; 7. Thấy được các việc đời trước đời sau trong trăm kiếp tiền, hậu te; . Trí kiến có thể nhập trăm pháp minh môn; . hóa làm trăm thân; 10. Thân đều có thể hiện ra trăm Bồ-tát Quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thị hiện thì vượt quá số đó, cho đến trăm ngàn ức Na-do-tha kiếp không thể tính biết.
Kinh: Dùng Đàn Ba-la-mật đa trụ nơi tâm bình đẳng.
Giải thích: Trong mười độ, Thí độ viên mãn, đủ bảy điều tối thắng, ba luân thanh tịnh, đạt vô phân biệt, trú tâm bình đẳng. Chuyên tu độ này, tất cả thường xả, các độ còn lại đều được tu theo phần lực.
Sau đây là phần năm – Nói về lợi sinh.
Kinh: Hóa độ tất cả chúng sanh nơi bốn thiên hạ.
Giải thích: Dùng đạo mười thiện, hóa độ tạo lợi cho chúng sanh. Các vương sau này đều dùng mười thiện để hóa, xứ có rộng hẹp, hạnh có hơn kém khác nhau.
Dưới đây là phần hai – Nói về Địa Ly cấu, văn chia làm năm phần.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát trú nơi ngàn cõi Phật làm Đao lợi Thiên vương, tu ngàn pháp minh môn, thuyết giảng đạo mười thiện để hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Cư độ (Cõi trú) rộng dần, làm Thiên đế Thích, mở rộng Sơ Địa trăm minh môn thành ngàn minh môn, tu giới độ viên mãn, dùng mười thiện để hóa độ. Dưới đây là phần ba- nói về Địa phát quang, văn chia làm năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát trú nơi vạn cõi Phật, làm Dạ-ma Thiên Vương tu vạn pháp minh môn, nương theo bốn Thiền Định mà hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Bồ-tát nơi địa này, đắc các định thù thắng, thì từng phần, Thiên vương dần dần rộng lớn. Dưới đây là phần bốn – Nói về Địa Diệm Tuệ, văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát trú nơi ức cõi Phật, làm Thiên vương cõi trời Đỗ Sử Đa, tu ức pháp minh môn, hành pháp Bồ-đề phần, hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Thiên Vương Tri túc, tu các ức môn Bồ-đề phần, dùng Trí để hóa độ chúng sanh. Tiếp theo là phần năm – nói về Địa-nan Thắng, văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát trú nơi trăm ức cõi Phật, làm hóa Lạc Thiên vương, tu trăm ức pháp minh môn, dùng Nhị đế, Tứ đế, hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Sở tu càng lúc càng hơn, trăm ức các môn, quán đủ các đế, để hóa độ chúng sanh. Tiếp đến là phần sáu – nói về Địa Hiện Tiền, văn có năm phần như trên.
Kinh: Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát trú nơi ngàn ức cõi Phật, làm Tha hóa tự Tại Thiên vương, tu ngàn ức pháp minh môn, dùng trí mười hai nhân duyên, để hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Trụ ở đỉnh của Dục giới, làm Thiên vương cõi Trời Tha hóa, những sở tu, sở ngộ thảy đều đã chuyển mạnh hơn. Dùng trí Duyên sinh mà hóa độ tạo lợi ích cho chúng sanh. Từ đây là phần bảy, nói về Địa Viễn hành, văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát, trú nơi vạn ức cõi Phật, làm Sơ Thiền Phạm Vương, tu vạn ức pháp minh môn, dùng trí phương tiện thiện xảo, hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Trú ở Đại Phạm thiên, Cảnh và tu đều thắng diệu, đắc phương tiện trí giáo, hóa, lợi lạc chúng sanh. Tiếp sau là phần tám – nói về Địa chẳng động, Văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát, trú nơi trăm vạn vi trần số cõi Phật, làm đệ Nhị Thiền Phạm vương, tu trăm vạn vi trần số pháp môn, dùng Trí song chiếu Bình đẳng Thần thông Nguyện, hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Trú ở cõi Trời Biến Quang Tịnh, cảnh tu chuyển thắng diệu, song chiếu chân tục hiện đại thần thông, dùng trí đại nguyện để hóa độ lạc, lợi chúng sanh. Sau đây là phần chín: Nói về Địa Thiện Tuệ, văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát, trú nơi trăm vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số cõi Phật, làm Tam Thiền phạm vương, tu trăm vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số Pháp minh môn, dùng Trí bốn vô ngại mà hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Trú ở cõi trời Biến Tịnh, cảnh tu chuyển thắng diệu, Trí dùng bốn vô Ngại, hóa, lợi chúng sanh. Từ đây là phần mười: Nói về Địa Pháp vân. Văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát, trú nơi số cõi Phật không thể nói hết được, làm Đại phạm Thiên Vương đệ tứ Thiền, làm chủ của ba cõi, tu số pháp minh môn không thể nói hết được, đắc hết lý Tam muội, đồng với hành xứ của Phật, tận nguồn của ba cõi, lợi khắp chúng sanh như cảnh giới của Phật.
Giải thích: Bất khả thuyết (không thể nói hết được): Như Kinh Hoa Nghiêm quyển bốn mươi lăm nói: Bất khả thuyết tức là một trăm mười chín con số. Nếu “bất khả thuyết, bất khả thuyết” tức là hơn hai trăm hai mươi con số.
“Trú ở đỉnh của Sắc giới, cung Đại tự tại, làm chủ cả ba cõi, cảnh tu tối thắng; đắc hết lý Tam muội”: là chiếu giải lý tột cùng, nên gọi là hết lý tận. Tam muội thì có thể nhận biết. Đó tức là định Kim-cương sau cùng.
Đồng với hành xứ của Phật: là đồng với nhẫn Tịch diệt.
Tận Nguồn của ba cõi; Theo Bản ký nói: Thức A-lại-da được xem là Bản Nguyên. Như Khởi Tín Luận nói: ở vô minh Căn bản mà khởi Nghiệp Thức. gốc Tập, gốc Khổ là gốc của Ba cõi. Thánh Trí đoạn dứt những thứ đó, nên gọi là Tận.
Lợi khắp chúng sanh…: Nghĩa là trong Địa này lợi cho hữu tình, chứng Chơn đạt Tục, đều là phần tối thắng, giống với cảnh Phật. Cho nên kinh Đại phẩm nói: Bồ-tát Thập Địa nên biết là như Phật. Lại nói: Kiến tánh chưa rõ, tức là nghĩa đó.
Từ đây là phần ba – kết về chư Phật, trong đó chia làm hai phần. Phần một – kết về chư Bồ-tát.
Kinh: Đó là vì Bồ-tát Ma-ha-tát hiện thân các vua để làm việc hóa độ dẫn dắt.
Giải thích: Như văn đã rõ. Từ đây phần hai – Kết về chư Phật
Kinh: Mười phương Như Lai cũng lại như vậy, chứng Vô thượng giác, thường hiện hữu khắp pháp giới, lợi lạc chúng sanh.
Giải thích: Không những Bồ-tát nương theo đó lợi sinh, mà mười phương Như Lai cũng lại như vậy. Thường làm lợi lạc khắp pháp giới.
Từ đây là phần hai: Nêu Thuyết kệ tán. Trong đó có ba phần:
1. Đại chúng cúng dường; 2. Vua thuyết kệ tán; 3. Nghe pháp được ích. Dưới đây là phần một – Đại chúng cúng dường.
Kinh: Bấy giờ, tất cả đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, rải hoa Phạm, hương thơm không thể nói hết, cung kính cúng dường, xưng tán Như Lai.
Giải thích: Được nghe pháp vui mừng, cúng dường xưng tán.
Tiếp theo là phần hai – vua thuyết kệ tán. Trong đó chia làm hai đây là phần một – Nêu vua thuyết kệ.
Kinh: Lúc này, Vua Ba-tư-nặc, liền ở trước Phật dùng kệ tán thán.
Giải thích: Chữ kệ ở đây có ba giải thích: 1. Kệ là hết, tức thâu nhiếp hết các nghĩa; 2. Kệ là nghỉ ngơi, dừng lời nghỉ ngơi; 3. Tiếng Phạm gọi là Già Tha, tiếng Hoa gọi là phúng tụng. Người dịch Kinh xưa, dùng chữ “Kệ Tha”, rồi lược bỏ chữ Tha, chỉ dùng chữ kệ.
Từ đây là phần hai – Chính nói về kệ tán, gồm ba mươi kệ. Chia làm ba phần: 1. Có ba kệ: Tán thán về ba đức của Phật; 2. Có hai mươi sáu kệ rưỡi: tán thán rộng về năm nhẫn; 3. Nửa kệ, kết tán, Kính lễ. Trong phần tán thán về ba đức, chia làm ba phần: 1. Tán thán về đức của ba nghiệp; 2. Tán thán về các thứ vi diệu có đủ; 3. Tán thán về sự sâu xa của pháp đã thuyết.
Dưới đây là phần một: Tán thán về đức của ba nghiệp.
Kinh:
Thế Tôn đạo sư, thể Kim cang
Tâm hành tịch diệt, chuyển pháp luân
Tám biện viên âm nhằm khai diễn
Thời chúng đắc đạo trăm vạn ức.
Giải thích: Thế Tôn: như đã nói trên
Đạo sư: Thiện xảo đầy đủ như người thuyền trưởng hướng dẫn tìm được châu báu ở biển. Ở đây là hướng dẫn thành Phật.
Thể Kim cang: là kiên cố đầy đủ. Thể là thân. Thân Phật kiên cố giống như Kim cang, là tán thán về đức của thân.
Tâm hành: là Bi Trí đầy đủ, bốn phẩm trí tâm gọi chung là tâm, thường chiếu hai đế, cho nên gọi là hành.
Tịch diệt: là giải thoát. Càng động càng tịch, gọi là tịch diệt. Là tán tán đức của tâm. Như kinh Tịnh Danh nói; “tâm tịnh đã độ các thiền định” là không trái với đây.
Chuyển pháp luân: Là tán thán đức của Ngữ. Chuyển là khởi. Pháp là pháp của giáo lý hành quả nơi ba thừa đã thuyết giảng. Luân là tròn đủ, giống như bánh xe, vì phá bỏ các chướng ngại, có thể vận dụng. nghĩa là Đức Phật đã chuyển diệu pháp vô thượng đến người khác, người khác cứ như vậy mà chuyển cho nhau. nghĩa của Chuyển pháp luân như thường phân biệt.
Tám biện: Tám là tám âm. Biện là bảy biện. Tám âm là như kinh Phạm Ma Dụ nói: 1. Thanh hay nhất; 2. Thanh dễ hiểu; 3. Thanh điều hòa; 4. Thanh mềm mại; 5. Thanh không lầm; 6. Thanh không nữ; 7. Thanh tôn tuệ; 8. Thanh sâu xa.
Bảy Biện là: 1. Biện nhanh: cần nói liền nói không bị trở ngại; 2. Biện chóng: như thác đổ không chậm chạp; 3. Biện đúng: đúng thời, đúng cơ, không tăng giảm; 4. Biện không sai sót: những điều nói ra đều kết hợp với lý, không sai lệch; 5. Biện không dứt hết: Tương tục liên hoàn không bao giờ hết; . Biện nói nghĩa vị phong phú: vì mỗi một câu nói đều hàm chứa nhiều sự ly; 7. Là lời biện giải tối thượng diệu trong tất cả thế gian: đầy đủ sâu xa, như sấm rền.
Viên âm: một âm, viên âm, nghĩa thông suốt nhiều cách hiểu. Có thuyết nói: chư Phật vô hình, vô thanh, vì đối với các căn thích hợp, như hang sâu rỗng, tiếng vang hiện ra vô lượng âm thanh, tùy theo mỗi mỗi căn tính, nhận được một âm, khắp cả mười phương, nên gọi là viên âm.
Có thuyết nói: Chư Phật thật có sắc thanh, âm Phật Viên mãn, không có vận khúc khác lạ. Như Kinh nói: Phật dùng một âm diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy loài đều được hiểu.
Có thuyết nói: Chư Phật thật có nhiều loại âm thanh, nhưng do Phật âm vô chướng, Không ngại, tất cả tức là một nên gọi là một âm. một tức tất cả nên gọi là Viên âm, do đủ các đức rộng vì các loài mở bày diễn nói. Đó là tán thán đức của Ngữ. Đức của ba nghiệp trên, tức là ba Mật môn, tức là ba sự chỉ dẫn trong sự dụng.
Thời chúng đắc đạo trăm vạn ức: là tán thán sự, thuyết giảng đúng với căn tánh.
Tiếp theo là phần hai – tán thán về các thứ vi diệu được nhận.
Kinh:
Trời người đều tu hạnh xuất ly.
Thường tập tất cả đạo Bồ-tát.
Giải thích: Trời và Người đều tu: Hoặc Trời, hoặc Người tuy khác loài nhưng thọ nhận bình đẳng, đều có thể tu tập đạo, Bồ-tát xuất ly của đại thừa. Do đây nói, chủng tính ba Thừa hễ đến hội này thì đều tu Đại Thừa. Những điều nói trên tức là Tam bảo. Tiếp đến là phần ba: tán thán về sự sâu xa của pháp đã thuyết, trong đó chia làm ba: 1. Nói về đức của năm nhẫn.
Kinh:
Công đức năm nhẫn diệu pháp môn.
Mười bốn Bồ-tát thường hiểu rõ.
Giải thích: Năm nhẫn: năm nhẫn như trên đã nói. Công đức: Công đức của vạn hạnh mà Bồ-tát đã tu Diệu pháp môn; là pháp môn thâm diệu từ phàm đến Thánh. Mười bốn Bồ-tát: Ba Hiền, mười địa và Đẳng giác thành là mười bốn. Thường hiểu rõ: Là kiến giải, chứng tu, có thể hiểu rõ.
Từ đây là phần hai – Nói về Nhân quả khác nhau.
Kinh:
Ba Hiền mười Thánh, hành trong nhẫn.
Chỉ một mình Phật mới tận gốc.
Giải thích: Bồ-tát trong nhân nương vào đó hướng đến cầu, nên là hành trong nhẫn, chỉ quả Phật là tròn đủ, Đức và Hạnh đều viên mãn, chỉ một mình Đức Phật mới tận nguồn. Tiếp theo là phần ba: Nói về Tam bảo Tạng.
Kinh:
Phật Pháp Chúng biển tạng Tam bảo
Vô lượng công đức thâu trong đó.
Giải thích: Phật pháp chúng: là nêu tên của Tam bảo. Cùng một thể Chơn như tức là tánh nhẫn. Chủ thể thuyết, đối tượng được thuyết, các người tu hành, tức là tướng riêng.
Nói biển tức tán thán nhẫn sâu rộng, bao hàm cả Tam bảo, tích chứa làm Tạng (kho tàng).
Vô lượng Công đức: tán thán về chỗ nêu giảng hết sức sâu xa. Hằng sa Công đức hữu vi vô vi đều chứa trong nhẫn, nên gọi là thâu nhiếp.
Dưới đây là phần hai – Có hai mươi sáu kệ rưỡi, tán thán rộng về năm nhẫn. Phân hai: 1. Có hai mươi bốn kệ tán thán rộng về năm nhẫn; 2. Có hai kệ rưỡi, tán thán về đức Bi sâu xa của Phật. Trong phần đầu nói về năm nhẫn có hai: Phần đầu có hai mươi ba kệ, nêu rõ rộng về năm nhẫn phần sau có một kệ nêu rõ về nhân quả đối xứng. Hai mươi ba kệ đầu chia làm sáu: 1 – 4 kệ rưỡi: Nói về Phục nhẫn. Trong đó chia làm hai:
-Tán thán chung bốn vua.
-Nói chung về Phục nhẫn.
Phần một – lại có hai phần: 1. Nói về Vị Thập Thiện.
PHẦN 2
Kinh:
Bồ-tát Thập thiện phát đại tâm
Trường biệt Tam khổ giới biến khổ luân
Thiện Phẩm trung hạ Túc tán vương.
Thập Thiện Thượng phẩm Thiết luân vương.
Giải thích: “Thập Thiện”: Như phần sau nói: Vị Thập Thiện này trải qua mười ngàn kiếp mới nhập Phục nhẫn, vì đó là phương tiện của nhẫn.
“Phát Đại tâm”: Các đối tượng hóa độ, đoạn trừ tu tập, hướng đến đều là lớn, nên gọi là phát đại tâm
“Trường biệt Tba cõi”: Trước khi phát đại tâm, gồm có hai loại; một là thẳng đến, hai là hồi tâm. Nếu trước phát tâm tức thì, tất phải kiên, mãnh, tuy chưa đoạn dứt Hoặc nhưng chắc sẽ vượt qua, gọi là thẳng đến. Hồi tâm tức sau đó mới ngộ dần. Quả Hữu học và vô học của Nhị thừa nơi Thánh đạo đoạn trừ chướng, gọi là Trường biệt.
“Biển khổ luân”: Khổ chung cả ba cõi, gọi là ba khổ, vì nương theo khổ, lạc, xả mà lập thành khổ. Tới lúc không ngừng, xoay tròn như bánh xe luân, thăng trầm chìm nổi, sâu lớn như biển.
“Thiện phẩm trung hạ”: Tu thập thiện đã lâu ngày, ngôi vị đầu tiên, giữa. sau cùng, thành là Hạ, Trung, Thượng. Trung phẩm và Hạ phẩm thì làm Túc Tán Vương tức vua nhỏ, nhiều như hạt thóc vụn. Theo thí dụ mà đặt tên gọi. Nếu người đạt Thượng Phẩm thì làm Thiết Luân vương.
Từ đây là phần ba – nói về vị Tam Hiền.
Kinh:
Tập chủng đồng luân hai thiên hạ
Tính chủng tính ngân luân tam thiên,
Đạo Phẩm đức vững, Chuyển luân vương
Bảy báu Kim luân bốn Thiên hạ.
Giải thích: Bồ-tát Thập trụ làm Đồng Luân Vương. Thập hạnh làm Ngân Luân. Mười Hồi hướng vị làm Kim Luân vương. Nhưng bốn Luân vương về cảnh hóa khác nhau: một châu, hai châu, ba châu, bốn châu khác nhau. Cho nên Luận Thuận Chánh Lý nói: Tuổi thọ của những người ở châu này là vô lượng, cho đến tám vạn tuổi có Chuyển Luân vương sinh ra. Khi hết tám vạn, hữu tình vui giàu, thọ lượng bị tổn giảm, các điều ác càng lúc càng nhiều, không còn khí chất đại nhân, cho nên không có Luân vương. Vị vương này do Luân xoay chuyển nên dẫn dắt, oai đức chế phục tất cả, gọi là chuyển Luân vương. Kim, Ngân, Đồng, Thiết Luân nên khác. Nếu Vương sinh ra ở chủng tộc Sát-đế-lợi thì quán Đảnh nối ngôi, thọ trai giới trong mười lăm ngày, lúc ấy mới tắm rửa thân đầu, thọ thắng trai giới thù thắng. Ngồi trên đài cao nơi điện vua có các vị đại thần phụ tá. Phương Đông bỗng có Kim Luân báu hiện ra. Còn các Chuyển Luân vương khác nên biết cũng vậy. Luân vương như Phật không có hai vị cùng sanh. Tất cả Luân vương đều không ai có thể làm tổn thương mà đều khiến cho mọi loài khắt phục dưới mình, an vui mà sống. Đồng thời khuyên bảo hướng dẫn cho mọi người tu thập thiện nghiệp đạo.
“Thất bảo”: là bảo thứ báu: Xe, voi, ngựa, Châu ngọc, nữ nhân, Quan giữ kho tàng và quan chủ việc binh. Ngựa voi v.v… là thuộc về hữu tình. Châu ngọc và xe là thuộc về phi tình. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ lại nói Thất bảo là: Kiếm, da, gường, rừng, cung điện, áo quần, giày dép. Những báu này đều do tu tập thiện căn không sân hận mà chiêu cảm được. Tất cả những oai đức và phong hóa của Vương, đã nói rõ trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ và kinh Khởi Thế.
Dưới đây là phần hai: Nói chung về Phục nhẫn. Trong đó chia làm ba phần: 1. Nói chung về Thánh thai.
Kinh:
Phục nhẫn Thánh thai ba mươi người
Mười trụ, mười hạnh, Mười Hồi hướng
Ba đời chư Phật học trong ấy.
Đều từ Phục Nhẫn này sinh ra.
Giải thích: Người trụ nơi Phục Nhẫn gọi là Thánh thai, vì chư Phật ba đời đều từ đó sinh ra.
Tiếp theo là phần hai – Nói về khó đắc nhập.
Kinh:
Căn bản hạnh tất cả Bồ-tát
Do đó phát tâm tín tâm khó
Nếu đắc tín tâm ắt chẳng thối.
Tiến vào đạo vô sinh Sơ địa.
Giải thích: “Căn bản Hạnh tất cả Bồ-tát…” Đây là nói về gốc hạnh của Bồ-tát nhập kiếp, tức là tâm mười Tín. tâm này rất khó phát, như phần trước Kinh nói: Có hằng hà sa người thấy Phật Pháp Tăng, nhưng số người đắc nhập Tín thì rất ít. Nếu đắc mười tín, đến tâm thứ sáu thì bất thối, là Tín không bị thối lùi, vì chắc chắn sẽ chứng được vô sinh, đạt đến Sơ địa. Tuy trước bảy trụ còn là Nhị thừa, nhưng không lâu chắc chắn sẽ đạt đến.
Lại có giải thích: Nếu người đắc được tâm tín, tức tâm mười tín thì người ấy ắt chẳng thoái chuyển. Ngôi vị thứ bảy trong mười trụ chẳng thoái chuyển, ngôi vị trước đó thì còn bị thoái chuyển. Như Kinh Anh Lạc nói; Tịnh Mục Thiên tử, Pháp Tài Vương tử, Xá lợi phất… muốn nhập ngôi vị thứ bảy, nhưng gặp duyên mà thối lùi.
Tiếp đến là phần ba – Kết danh biện tướng.
Kinh:
Hóa độ lợi mình, người bình đẳng
Gọi là Bồ-tát mới phát tâm.
Giải thích: Hóa độ lợi mình người; là nói về tướng phát tâm. Hoặc lúc ấy Bồ-tát quán người khác như mình, đắc tâm bình đẳng mà tu hai lợi, thì mới gọi là tướng Bồ-tát mới phát tâm, nhập vào trụ thứ nhất.
Phần nói về phục nhẫn đã xong. Sau đây là phần hai – Có năm kệ rưỡi, nói rộng về Tín nhẫn. Trong đó có hai phần: 1. Nói riêng về ba Địa; 2. Tổng kết về đoạn chướng.
Phần một – Nói về ba Địa. Văn chia làm ba:
– Nói về Hạ nhẫn. Văn lại chia làm ba. 1. Hoan hỷ Địa.
Kinh:
Bồ-tát Hoan hỷ Chuyển Luân vương
Sơ chiếu lý hai đế bình đẳng
Quyền hóa hữu tình du trăm cõi
Đàn thí thanh tịnh lợi mọi loài.
Giải thích:”Hoan hỷ…”: Là nêu tên của Trụ Địa, nói về vương vị.
“Sơ chiếu lý hai đế bình đẳng” nghĩa là: đây bắt đầu chứng bình đẳng Chân như đoạn dứt sự phân biệt.
“Quyền hóa hữu tình”: Hoặc là vua là Phật quyền biến ứng hiện hóa thân.
“Đi trăm cõi”: là nói về cảnh hóa độ
“Đàn độ thanh tịnh”: là hạnh lợi sinh thù thắng Tiếp theo là phần hai – Nói về Địa được mang tên.
Kinh:
Nhập lý Bát-nhã gọi là Trụ.
Trụ sinh đức hạnh gọi là Địa.
Giải thích: “Nhập”là chứng. “Bát-nhã” là vô phân biệt Trí chứng lý thật tướng, đều gọi là Bát-nhã. “Trụ”: chẳng động gọi là trụ, nghĩa của sự dựa nương, giữ lấy.
“Trụ sinh đức hạnh gọi là Địa”: Trí ngầm hợp với lý chơn thì có thể sinh hiển thành đức vô vi, công đức hữu vi nhờ vậy mà sinh, công đức vô vi nhân đó mà hiển rõ. Năm tướng hiển phát, hai nghĩa trụ, sinh, nên gọi là Địa, là Đạo Địa thứ mười. Như luận Duy Thức quyển chín nói: Địa thứ mười như vậy, gồm thâu công đức hữu vi, vô vi, lấy đó làm tự tính, làm chỗ nương giữ tốt nhất cho những thứ mình tu hành, khiến được sinh trưởng, gọi đó là Địa.
Kế đến là phần ba – Sơ tâm đủ đức.
Kinh:
Một tâm Sơ trụ đủ các Đức
Ở trong thắng nghĩa nhưng chẳng động.
Giải thích: “Sơ trụ”: là kiến đạo chứng Như, gọi là Sơ trụ.
“Một tâm”: tức là một tâm kiến đạo chân thật.
“Đủ các đức”: Như phần trước kinh nói: đầy đủ tám vạn bốn ngàn đức.
“Ở trong Thắng nghĩa”: là Thanh thứ bảy nói về Cảnh. Nghĩa là Trí chứng chơn tịch nhưng chẳng động. Đây là mới nhập Địa, đến phần sau sẽ rõ. Tiếp sau là phần hai – Nói về nhẫn Trung phẩm. Trong đó có hai phần: 1. Nói về Địa Ly cấu.
Kinh:
Bồ-tát Ly cấu Đao lợi vương
Hiện hình sáu thú ngàn quốc độ
Giới độ thanh tịnh đều viên mãn.
Vĩnh viễn lìa các tội sai phạm.
Giải thích: Nêu tên của Địa, nơi ở của vương, cảnh hóa độ, tu
Hạnh thù thắng. Giới độ viên mãn là nói về lìa xa tội lỗi, vi tế nhỏ nhặt cũng không phạm. Tiếp theo là phần hai – Nói về trí của cảnh tu.
Kinh:
Vô tướng vô duyên chơn thật tính
Vô thể, vô sinh, chiếu (rõ) không hai.
Giải thích: Câu trên là nói về cảnh, vọng chấp Duyên Sinh và Viên Thành là khác nhau. Câu dưới là nói về Trí, thấu đạt cảnh ấy là không có “thể”, không có sinh chứng đắc lý “không hai”. Nói về Trí chiếu, hiểu rõ vô phân biệt, tuy năm nhẫn có sự hơn kém khác nhau, nhưng xét về cảnh và trí đều theo đúng như vậy.
Sau đây là phần ba – Nêu Địa Phát quang.
Kinh:
Bồ-tát Phát Quang Dạ Ma Vương
Ứng hình đến vạn cõi chư Phật
Giỏi thông đạt được Tam ma địa
Ẩn hiển tự tại đủ ba minh.
Giải thích: Nêu về tên Địa, nói về chỗ ở của vương, cảnh của đối tượng được hóa, nói về Bồ-tát đắc định, những đức vốn đủ. “Ẩn Hiển”: là Năm Thông tự tại, có đủ Ba Minh, như đã nói trong phẩm Tựa. Tiếp đến là phần hai – Tổng kết về đoạn chướng.
Kinh:
Hoan hỷ, Ly cấu và phát quang
Diệt được các phiền não sắc buộc
Quán đủ tất cả Thân khẩu nghiệp
Phát tính thanh tịnh, chiếu đều trọn.
Giải thích: Tóm kết ba Địa trên có thể đoạn dứt sắc buộc, nghĩa là tham v.v… như giải thích ở phần trước.
“Quán đủ tất cả Thân khẩu nghiệp”: là hiển bày lìa sắc buộc, Sắc nghiệp tự tại. “Pháp tính” là thật tính của sắc và tâm, tức là Trí chơn như chiếu viên mãn.
Dưới đây là phần ba – Có bốn kệ, nói về Thuận nhẫn. Trong đó chia làm hai phần: 1. Nói riêng về ba Địa; 2. Tổng kết đoạn chướng. Trong phần một – Nói về ba Địa, văn chia làm ba phần: 1. Địa Diệm tuệ.
Kinh:
Bồ-tát diệm tuệ đại tinh tiến
Đổ Sử Thiên vương đi ức cõi
Thật trí tịch diệt trí phương tiện
Đạt lý vô sinh rõ “Hữu không”.
Giải thích: Nêu về tên Địa, tu hạnh thù thắng, chỗ ở của vương.
“Thật trí tịch diệt”: là Trí chứng Như. “Phương tiện Trí”: là Trí duyên sự, “Đạt lý vô Sinh”: tức chính là cảnh của chánh trí Chơn như.
“Rõ Không Hữu”: tức là cảnh của phương tiện lý sự. Tiếp theo là phần hai – Nêu Địa-nan-Thắng.
Kinh:
Bồ-tát Nan thắng đắc bình đẳng
Hóa lạc Thiên vương trăm ức nước
Không không đế quán Không hai
Tướng Hiện hình đều khắp cả sáu đường.
Giải thích: Nêu về tên Địa, tu chánh quán, hai trí Chơn và Tục, hành tướng trái nhau, hợp lại khiến tương ứng nhau, nên gọi là bình đẳng. Nói về chỗ ở của vua.
“Không không đế quán”: là đầu tiên “Không” để hiển bày Như, sau đó “không” để dứt bỏ tướng. Hoặc nói là sắc tâm. Hoặc nói là ngã pháp. nghĩa là trong Địa này, lý và sự hợp chiếu, cho nên gọi là đế quán.
“Không hai tướng”: là có thể hợp cái khó hợp khiến cho tương ứng, không có hai Tướng.
“Hiện hình…”: là nói về cảnh của đối tượng hóa độ.
Sau đây là phần ba – Nêu Địa Hiện tiền.
Kinh:
Bồ-tát Hiện Tiền Tự Tại vương
Thấy rõ tướng duyên sinh tướng không hai
Trí Quang thắng nghĩa thường đầy khắp
Đến ngàn ức cõi độ chúng sanh.
Giải thích: Nêu về tên Địa, nói về chỗ ở của vua.
“Chiếu kiến duyên sinh”: Trí thường chiếu giải tướng mười hai duyên sinh là không hai.
“Trí-quang-thắng-nghĩa”: Trí duyên theo Thắng nghĩa gọi là Trí Thắng nghĩa. Trí có thể chiếu lý, nên gọi là Quang. Thấy hiểu rõ giải Thể viên mãn, nên gọi là đầy khắp. “Đến ngàn ức cõi”: là nói về đối tượng hóa độ. Tiếp đến là phần hai – Tổng kết về đoạn chướng.
Kinh:
Địa Diệm tuệ, nam thắng, hiện tiền
Thường đoạn ba chướng tâm mê hoặc
Tuệ “không” vắng lặng vô duyên quán
Soi lại chiếu tâm Không vô lượng cảnh.
Giải thích: tóm kế ba Địa trên. “Thường đoạn ba chướng tâm mê hoặc”: là ba loại chướng ngại sự thấy biết… vừa nói. Nói “Tuệ Không” là kết về thật trí. Nói “vắng lặng” là kết về Bình Đẳng. “Vô duyên quán” là kết về sự thấy rõ tướng duyên sinh là không hai.”Soi lại tâm không”: là chướng ngại của bản thân đã đọan thấy rõ như của địa mình. Đức của Trí, như lớn, nên gọi là vô lượng.
Dưới đây là phần bốn – có hai kệ rưỡi, nói về Địa Viễn hành, trong đó chia làm ba phần: 1- Nêu Địa Viễn hành.
Kinh:
Bồ-tát Viễn hành, Sơ Thiền vương
Trụ ở vô tướng, vô sinh nhẫn
Phương tiện thiện xảo đều bình đẳng
Thường độ sinh ở vạn ức cõi.
Giải thích: Nêu về tên gọi của Địa. Nói về chỗ ở của vương. “Vô tướng vô sinh nhẫn”: Bồ-tát Địa này thuần là quán vô tướng. Ý nói Trí vô tướng chứng nhẫn vô sinh.
“Phương tiện thiện xảo”: là nói về tu hạnh thù thắng thù thắng, cứu độ làm lợi cho hữu tình thảy đều bình đẳng.
“Thường độ…”: là nói về cảnh của đối tượng giáo hóa Tiếp theo là phần hai – vượt khỏi phần đoạn Kinh:
Tiến vào Địa dòng pháp chẳng động
Vượt qua Hữu, không còn phần đoạn.
Giải thích: Bồ-tát Địa này tất ắt có thể tiến vào dòng pháp Địa chẳng động sau này.
“Không còn phần đoạn”: từ Địa này trở về trước còn có phần đoạn, thọ sinh trong ba cõi. Nay trong Địa này, công dụng phần đoạn đã đến biên hạn rốt cùng.
“Vượt các Hữu”: là Định vô lậu và Nguyên vô lậu trợ giúp cho Thân thù thắng kia, khiến quả báo chiêu cảm, dần dần tăng tưởng, cho đến ngôi vị Đẳng giác, thọ Biến dịch sinh, vượt qua ba hữu.
Tiếp đến là phần ba: Nói về đoạn chướng.
Kinh:
Thường quán Thắng nghĩa, chiếu không hai
Hai mươi mốt sinh, hành không tịch
Thuận Đạo pháp ái vô minh tập
Chỉ Đại sĩ Viễn hành, thường đoạn
Giải thích: “Thường quán”: là quán không gián đoạn. “Thắng nghĩa”: là nói sở chứng của địa. “Chiếu không hai”: là song chiếu chơn và tục, không có hai khác.
“Hai mươi mốt sinh”: là các bậc Thánh kinh sinh. Mỗi Địa có ba sinh. Nay ở đây là Địa thứ bảy, trải qua hai mươi mốt sinh. Trí đều chiếu Như gọi là “hành không tịch”. Lý thật trụ Địa thì có hai mươi sinh, địa này ắt sẽ đạt được lần sinh rốt cùng.
“Thuận đạo pháp ái”: là ái pháp Thiện. Trong Luận Bà-sa gọi là Thiện pháp dục (mong muốn pháp thiện). Luận Trí Độ nói: Đảnh vị chưa điều phục thuận đạo pháp ái, không thể gọi là vị Đoạn.
“Đoạn” nói ở đây, nghĩa là sáu Địa trước có định, tán. Vị tán thì khởi ái. Nay nhập Địa này, tuy có gia hạnh, nhưng nhờ kết chặt vô tướng nên tương tục hiện tiền, nên không có phân tán, vui cầu vĩnh viễn không có ái.
“Vô minh tập”: Như phần sau kinh nói: “Đoạn các nghiệp quả, Tướng hiện hành vi tế”. Các nghiệp quả là phần đoạn sinh; tế hiện hành vi tế là sở tri chướng. Chấp tướng vi tế hiện hành và có sinh diệt làm chướng ngại đạo vô tướng vi diệu của Địa này. Thể của sở tri chướng tức là vô minh, bao gồm ái của các Địa trước, khi nhập Địa này thì đều được đoạn dứt. Cho nên kệ nói: Chỉ “Đại sĩ viễn hành đoạn”. Địa thứ bảy, thứ tám, thứ chín trong phần văn xuôi nêu trước là đều đạt vô sinh nhẫn, hợp thành một văn nói đoạn tập của sắc, tâm, ở đây thì kết riêng: Vĩnh viễn không có pháp ái vượt qua phần sinh, biên hạn rốt cuối của công dụng; pháp ái đủ cả ba nghĩa ấy, nên đó là kết riêng.
Dưới đây là phần năm, có năm kệ, nói về ba Địa sau, trong đó chia làm hai: 1. Nói riêng về ba Địa; 2. Nói chung về đoạn chướng. Phần một – Nói riêng về ba Địa, văn chia làm ba: 1- Địa chẳng động, văn lại chia làm hai: 1. Nói về Địa chẳng động.
Kinh:
Bồ-tát chẳng động Nhị thiền vương
Đắc thân biến dịch thường tự tại
Luôn ở trăm vạn cõi vi trần cõi
Tùy theo hình loại độ chúng sanh.
Giải thích: Nói về Trung nhẫn. Nêu tên của Địa, nói nơi ở của vương và sự được thân thù thắng. “Thường tự tại”: là Hiện tướng và cõi đều tự tại. Cảnh của đối tượng giáo hóa tùy theo loài mà hóa độ.
Tiếp theo là hai: Nói về thường chẳng động.
Kinh:
Biết cả ba đời vô lượng kiếp
Với Đệ nhất nghĩa thường chẳng động.
Giải thích: “Biết cả ba đời”: là nói về trí chiếu. “Vô lượng kiếp”:
là biết vô lượng đời quá khứ và đời vị lai. “Với Đệ nhất nghĩa”: là Bồ-tát nơi địa này tuy thường chứng Như, nhưng song chiếu chơn, tục, thường chẳng động.
Tiếp theo là phần hai: Nói về Địa Thiện Tuệ.
Kinh:
Bồ-tát Thiện tuệ Tam thiền vương
Một lúc hiện ở ngàn hằng cõi Thường hành không tịch tại vô vi
Một niệm hiểu hằng sa Phật tạng.
Giải thích: Nói về Thượng nhẫn. Nêu tên của Địa, nơi ở của vương, cảnh tượng giáo hóa, và tu chỉ quán. Trí thường chứng Như, Chơn và Tục bình đẳng vì đều là không tịch.
“Hằng sa Phật tạng”: là nói về có đủ các đức. Các giáo lý lưu xuất ra từ hằng sa chư Phật. Bồ-tát nơi địa này với bốn vô ngại giải ở trong một niệm đều có thể hiểu rõ.
Tiếp đến là phần ba – Nói về Địa Pháp Vân, trong đó có hai phần:
1. Nêu Địa Pháp Vân.
Kinh:
Bồ-tát Pháp vân Tứ thiền vương
Ở ức hằng cõi động chúng sinh
Mới nhập Kim cang hết thảy rõ
Vĩnh viễn qua hai mươi chín sinh.
Giải thích: Đây là Hạ phẩm trong Tịch diệt nhẫn. Nêu về tên của Địa, chỗ ở của vương, cảnh của đối tượng giáo hóa. “Mới nhập Kim cang”: là Định thù thắng cuối cùng. Mới là bắt đầu. Nhập là chứng. tâm cuối cùng của Địa này khởi định Kim cang. Khởi đầu Đạo vô gián chứng lý, hiện tiền hoặc chướng vĩnh viễn không có. Thấu hiểu tột cùng gọi là hết thảy rõ. Vị Đẳng giác này thu trong Địa Pháp vân.
Sau đây là phần hai – Nói về nhẫn Hạ phẩm.
Kinh:
Nhẫn Quán hạ trong nhẫn
Tịch diệt Nhất Chuyển
Diệu giác vô Đẳng Đẳng.
Giải thích: Nêu tên của nhẫn, quán của hạ nhẫn. Nói “Một chuyển”: là nói về ngôi vị của nhẫn. Ngôi vị vô gián này chuyển thành giải thoát gọi là một chuyển, tức gọi là quả Phật Diệu giác viên mãn. “Vô đẳng đẳng”: Là nếu Sát-na trước dùng Nhân để so với Quả gọi là vô đẳng. Đến ngôi vị giải thoát, đạo bình đẳng với chư Phật thì gọi là Đẳng. Vị Hạ nhẫn này nói rõ đang chuyển. Tiếp theo là phần hai:
Nói chung về đoạn chướng.
Kinh:
Địa chẳng động, Thiện tuệ, Pháp vân
Trừ tất cả vô minh tập trước
Tướng vô minh tập thức đều chuyển
Lý Nhị đế viên mãn trọn hết.
Giải thích: Nêu ba Địa trên.
“Trừ tất cả vô minh tập trước”: là sở tri chướng. Ngoài bảy Địa trước, mỗi Địa đều trị một phần chướng sắc tâm ra, còn lại là chướng tế, ở trong ba Địa, mỗi địa đều đoạn dứt mỗi phần.
“Tướng vô minh tập thức đều chuyển”: nghĩa là loại phiền não chướng do tu đoạn và toàn bộ vô minh có ở Địa thứ bảy, những thứ vi tế đó, khi đạt đến ngôi vị Đẳng giác, do cùng hiện hành với thức, nên gọi là đều chuyển. Như Luận Khởi Tín nói: Vô minh căn bản cùng hiện hành với nghiệp thức, gọi là chuyển xả.
“Lý Nhị đế viên mãn trọn hết”: là nói về ngôi vị Đẳng giác. Hiểu rõ (chiếu giải) về “Thể” viên mãn những thứ cần đoạn cần bỏ không còn gì nữa.
Dưới đây là phần sáu – có một kệ rưỡi, nói về Ngôi vị Chánh giác.
Trong đó chia làm hai phần: 1. Chánh giác viên mãn:
Kinh:
Chánh giác vô tướng khắp pháp giới
Hết ba mươi sinh, trí viên minh.
Giải thích: Tiếng Phạm gọi là Tam Bồ-đề, tiếng Hoa gọi là Chánh giác. “Vô tướng”: Là chủ thể chứng và đối tượng được chứng đều vô tướng.
“Khắp pháp giới”: Hằng sa công đức, mỗi một công đức đều vô biên, cho đến đầu sợi lông cũng đều hiện bày khắp pháp giới.
“Hết ba mươi sinh”: là vượt qua Địa thứ mười, những sinh kia đều đã hết. “Trí Viên Minh”: là Trí viên mãn tột cùng. Tiếp theo là phần hai – Nói về Phật có đủ các đức Kinh:
Tịch chiếu vô vi chân giải thoát
Đại bi ứng hiện không ai bằng
Trong lắng, chẳng động thường an ổn
Quang minh chiếu khắp mà không chiếu.
Giải thích: Nói “Tịch chiếu”: là Trí, đức viên mãn.
“Vô vi chơn giải thoát”: là nói Đoạn đức viên mãn.
“Đại Bi ứng hiện”: là nói về Ân Đức tròn vẹn
“Không ai bằng”: là đức viên mãn không ai sanh bằng.
“Trong lắng chẳng động”: là nói Trí Ân Đức. Do nguyện lực đại bi lợi Tha của Phật mà ứng hiện thân lớn hay nhỏ, nhiều loài. Động mà thường tịch, nên gọi là trong lắng, tuy thị hiện đến và đi nhưng thể thường chẳng động.
Nói “An ổn”: là thị hiện để giáo Hóa Như Đức Phật thị hiện ăn lúa mạch của Ngựa và thị hiện bị chảy máu, nhưng thân tâm chưa từng dao động, vẫn thường an ổn.
“Quang Minh chiếu khắp”: Là thể của Ân đức như hạt châu ma ni trong sạch. Thể hiện hữu khắp cả pháp giới, chiếu nhưng không chiếu.
Tiếp, đoạn văn lớn thứ hai, kết về nhân Quả nêu trước.
Kinh:
Ba Hiền mười Thánh, trụ quả báo
Chỉ một mình Phật ở Tịnh độ
Tất cả hữu tình đều tạm trụ
Lên nguồn Kim cang thường chẳng động.
Giải thích: “Ba Hiền mười Thánh trụ quả báo”: Là dựa theo Người (Nhân) mà nói, dựa theo hai loại sinh tử là phần đoạn và biến dịch, như thân hoặc là độ (cõi), theo nhân mà chiêu cảm quả, trụ nơi quả báo.
“Chỉ một mình Phật ở tịnh độ”: Như Lai còn gọi là Bậc giác ngộ vô Thượng. Thân trụ ở đâu thì ở đó đều là Tịnh độ.
“Tất cả hữu Tình đều tạm trụ”: là nói dựa theo pháp. Chưa đến vị Đẳng giác, thì Hiền hay Thánh đều trụ nơi hữu vi sinh diệt, Sát-na không dừng. Nếu chứng Như cũng là tạm trụ.
“Lên nguồn Kim cang thường chẳng động”: Đây có hai nghĩa: Có thuyết nói: Quả Phật là ngôi vị Chân giải thoát. Trí thường chứng như. Trí như bình đẳng nên gọi là chẳng động. An nhiên tương tục đều đủ, gọi là Thường. Có thuyết nói: Quả Phật sau Định Kim cang, chứng nguồn tịch diệt thì thân trí an nhiên thường chẳng động.
Dưới đây là phần hai, có hai kệ rưỡi, tán thán tâm bi sâu xa của đức Phật. Trong đó có ba phần. Đây là phần một: tán thán chung tâm bi sâu xa.
Kinh:
Ba nghiệp Như Lai đức vô lượng
Tùy thuận chúng sanh thương như nhau.
Giải thích: Tán thán chung đức hạnh nghiệp của Phật thì vô lượng.
“Tùy thuận chúng sanh thương như nhau” tán thán tâm bi sâu xa của Phật. Tâm bi của Phật rộng lớn, thương xót chúng sinh bình đẳng tùy theo chủng tính của các chúng sanh mà chỉ bày vô thượng Thừa.
Thật là tâm bi sâu xa!
Tiếp theo là phần hai – tán thán riêng về ba Nghiệp
Kinh:
Pháp vương vô thượng cây trong người
Che khắp đại chúng sáng vô lượng
Miệng thường thuyết pháp chẳng vô nghĩa
Tâm Trí tịch diệt chiếu vô duyên.
Giải thích: “Cây trong người”: Là nêu dụ để nói rõ, thán thân nghiệp của Phật như bóng mát trừ bỏ mọi phiền não nóng bức, ánh sáng có thể phá tan bóng tối.
“Miệng thường thuyết pháp”: là tán thán ngữ nghiệp, thuyết tức là thanh sâu rền như sấm, có đủ Phạm thanh.
“Chẳng vô nghĩa”: Ngoại đạo, phàm phu thuyết thì có chữ nhưng không có nghĩa. Nhị Thừa thì kém hẹp, Bồ-tát thì chưa được trọn vẹn, chỉ những điều Phật thuyết giảng thì có chữ có nghĩa, đều viên mãn.
“Tâm trí tịch diệt”: là tán thán chánh Trí. Vì trí ngầm hợp với chơn Lý thường tịch diệt.
“Chiếu vô duyên”: là tán về nghiệp dụng, ngầm hợp với chơn trí mà khởi hóa, đều là vô tướng, chiếu mà không chiếu, hóa nhưng không hóa. Tiếp sau là phần ba – tán thán về thuyết giảng sâu xa.
Kinh:
Sư tử trong cõi người diễn thuyết
Câu nghĩa sâu xa chưa từng có
Trần sa cõi nước đều chấn động
Đại chúng hoan hỷ thảy được ích.
Giải thích: “Sư tử trong cõi người”: Sư tử cất tiếng thì trăm thú đều ẩn núp, dụ cho Như lai diễn thuyết thì các mây chướng đều tiêu tan. “Diễn Thuyết”: là tán thán về năm nhẫn.
“Cú nghĩa…”: Nhị thừa không đo lường được, cho nên nói là hết mực sâu xa, chưa từng có vì nhiều kiếp khó nghe được.
“Trần sa…” Nhờ oai lực của pháp mà nghe được những điều chưa được nghe, trầm sa cõi nuớc đều chấn động.
“Đại chúng…” Đại chúng nghe pháp hiểu mà hoan hỷ, phàm và Thánh đều được ích lợi, có đủ các đức đó cho nên tán thán tâm bi thâm diệu.
Sau đây là phần ba: kết tán thán kính lễ.
Kinh.
Thế Tôn khéo thuyết mười bốn vương
Do đó con nay đầu mặt lễ.
Giải thích: Văn dễ hiểu có thể biết được. Đây là kết về phần tán thán.
Dưới đây là phần ba – Nghe pháp được lợi ích.
Kinh: Bấy giờ, trăm vạn ức hằng hà sa đại chúng nghe đức Phật Thế Tôn và vua Ba tư mặc thuyết về vô lượng công đức của mười bốn nhẫn, được đại pháp lợi, nghe pháp ngộ hiểu, đắc vô sinh pháp nhẫn, nhập ở chánh vị.
Giải thích: “Vô sinh nhẫn”: là tùy theo với những thứ nó ứng hợp,. Đây thuộc về hạng Địa tiền. “Nhập ở chánh vị”: tức là Sơ Địa. Kệ và phần văn xuôi có sai biệt: tu hành các nhẫn thì hạnh tự lợi tăng. Hóa sinh làm vua thì hạnh lợi tha phát triển hơn. Kệ thì gồm chung cả hai điều trên, tức gọi là sai khác.
Tiếp sau là phần ba: Nêu cảnh và trí của vị nhẫn, văn chia làm ba phần: 1. Xác nhận những điều đã nói; 2. Cảnh và trí của vị nhẫn; 3. Tán thán đức sâu rộng của nhẫn. Trong phần một: Xác nhận những điều đã nói chia làm bốn phần. Đây là phần một: Nêu nhân của đời trước.
Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo cho đại chúng: Vua Ba-tư-nặc này đã là Bồ-tát địa thứ tư, ta là Bồ-tát Địa thứ mười trong pháp của Đức Phật Long Quang vương ở thời quá khứ mười ngàn kiếp.
Giải thích: Dẫn trong nhân xưa để nói về đồng sự. Tiếp theo là phần hai – Nói về kệ tán hôm nay.
Kinh: Nay Đại sư tử gầm vang trước mặt ta.
Giải thích: Kệ tán ở trước Phật, đắc được quyết định thuyết.
Kế đến là phần ba – Xác nhận những điều đã nêu.
Kinh: Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói, đắc nghĩa chơn thật, không thể nghĩ bàn.
Giải thích: Lặp lại lời “đúng vậy”, như ông đã nói: Là xác nhận lời văn của chủ thể giảng nói “Đắc nghĩa chơn thật”: là xác nhận nghĩa nơi đối tượng được giảng nói. Do đó mà lặp lại hai lần “Đúng vậy! Đúng vậy!”.
“Không thể nghĩ bàn”: là Đức Phật khen văn nghĩa của vua Ba- tư-nặc, dứt bặt tâm, tư, ngôn ngữ.
Tiếp sau là phần bốn – Duy chỉ Phật mới biết được.
Kinh: Chỉ Phật với Phật mới biết điều ấy.
Giải thích: “Chỉ…” Bồ-tát tu chứng các nhẫn chưa trọn vẹn chỉ có chư Phật chứng hiểu nhẫn đã viên mãn, cho nên biết hết.
Dưới đây là phần hai: Nêu cảnh trí của vị nhẫn, văn chia làm ba phần: 1. Nhẫn khó lường; 2. Trưng hỏi tướng chung; 3. Phân biệt giải thích. Đây là phần một – nhẫn khó lường.
Kinh: Này thiện nam! Mười bốn nhẫn này là Pháp thân của chư Phật, là hạnh của chư Bồ-tát, không thể nghĩ bàn, không thể đo lường.
Giải thích: Trong phần văn xuôi trước, Phật thuyết về mười vua, tiếp đến là ở trong kệ, vua tán thán riêng về nhẫn, cảnh trí của nhẫn, hoặc là nhân hay là quả, ở đây đều nói đủ.
“Mười bốn nhẫn này”: là nhắc lại lời văn trước.
“Pháp thân của chư Phật”: nghĩa là Ứng thân và hóa thân đều là Pháp thân.
“Hạnh của chư Bồ-tát”: là tất cả hạnh trước ngôi vị Đẳng Giác.
“Không thể nghĩ bàn…”: là tâm không thể suy tính, miệng không thể nói bàn, vượt quá cảnh đo lường, gọi là không thể. Ýnói: Phật, Bồtát đều nương theo nhẫn này, tính mọi nghĩ bàn, đo lường tánh tướng của Nhẫn này đều không thể hết. Tiếp nữa là phần hai: Trưng hỏi tướng chung.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì sao chư Phật, Bồ-tát đều nương theo mười bốn nhẫn này là không thể suy lường.
Kế đến là phần ba: phân biệt giải thích, văn chia làm hai phần: 1.
Nói về cảnh trí của Phật; 2. Nói về cảnh trí của Bồ-tát.
Trong phần cảnh trí của Phật, chia làm ba:
-Nêu về Phật sinh hóa diệt.
-Giải thích vô sinh hóa diệt.
-Kết: Như hư không. Đây là phần một: Nêu Phật sinh hóa diệt.
Kinh: Tất cả chư Phật đều sinh ra trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hóa trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, diệt trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Giải thích: Thật tướng Bát-nhã thì không có sinh, hóa, diệt. Chư Phật hóa viên mãn tương ứng mười phương thị hiện sinh, hóa, diệt ở trong Bát-nhã, tức là các sự sinh ra ở trong cung điện vua, chuyển pháp luân để hóa độ và sau cùng nhập diệt ở rừng cây Song Lâm.
Tiếp theo là phần hai: giải thích về vô sinh, hóa, diệt, trong đó lại có hai phần: Đây là phần một – giải thích về vô sinh,…
Kinh: Thật ra chư Phật sinh mà không hề có sinh, hóa không hề có hóa, diệt mà không hề có diệt.
Giải thích: Ý nói Thể của chư Phật rộng khắp là, tướng viên dung, động mà thường tịch, không có sinh, hóa, diệt. Dưới đây là phần hai – Cảnh và trí đều vẳng lặng.
Kinh: Là đệ nhất, không có hai, chẳng phải tướng chẳng phải không tướng, không tự không tha, không đi không đến.
Giải thích: Nói “Đệ Nhất” là hơn hết, không có gì bằng.
Nói “không hai”: là vì Như và Trí không khác
Nói “chẳng phải tướng”: là vì nó không giống với hình sắc.
“Chẳng phải không tướng”: là không giống như sừng thỏ.
“Không tự không tha”: là Ứng thân và hóa thân hiện ra thì có hơn kém khác nhau, nhưng với Thân pháp tính thì không có tự, tha.
“Không đi, không đến”: Vì hóa hiện ứng vật thị hiện nên có đến có đi, nhưng Thể thường chẳng động, nên không có đến, đi.
Kế đến là phần ba: Kết – Như hư không.
Kinh: Vì như hư không.
Giải thích: Tĩnh lặng mà không trái với động, động nhưng thường vẳng lặng, ngay ở động mà tĩnh, như hư không.
Dưới đây là phần hai: Nói về cảnh, trí của Bồ-tát. Văn chia làm hai phần: 1. Ngay ở cảnh quán không; 2. Ngay ở trí quán không.
Nơi phần một: Ngay ở cảnh quán không, Văn có hai:
-Biệt tướng quán không.
-Tổng tướng quán không.
Ở phần Biệt tướng quán không, văn có hai:
-Ngay ở pháp quán không.
-Ngay ở Thọ quán không.
Trong phần một – Ngay ở pháp, văn lại chia làm ba: Đây là phần một: Không sinh diệt.
Kinh: Này người thiện nam! Tất cả chúng sanh, tính không sinh diệt.
Giải thích: Hiển bày theo Chơn. “Tất cả chúng sanh”: là chung cả chủ thể hóa và đối tượng được hóa. Tự tính các uẩn, thể tức chơn như, không có sinh diệt. Tiếp theo là phần hai – Nói về pháp là không thật.
Kinh: Do các pháp tập họp huyễn hóa mà có. Tướng của uẩn xứ giới, không hợp không tán.
Giải thích: Nghĩa là, từ vô thủy đến nay do mê tự chơn tính, bị tướng làm lay động này khiến cho biết đó là huyễn.
“Do các pháp tập họp, huyễn hóa mà có”: là pháp năm uẩn. Năm uẩn hòa hợp, gọi là tập. Đó không có “thể”, do thật huyễn hóa mà có.
“Uẩn, Xứ, giới”: là nói pháp huyễn.
Nói “không hợp”: là uẩn từ duyên mà khởi, tự tính của duyên là không, cho nên không hợp.
Nói “không tán”: các duyên giả tập, tạm có hiển hiện, cho nên không tán.
Tiếp đến là phần ba – nói về pháp tính không.
Kinh: Pháp đồng pháp tính, vẳng lặng rỗng không.
Giải thích: Chữ “pháp” nói trên là pháp của các uẩn… “Đồng pháp tính”: là đồng tính chơn như. Tính và tướng nương giữ nhau, Thể không lìa nhau. Hiểu tướng tức là Tính vẳng lặng rỗng không.
Dưới đây là phần hai – Ngay nơi Thọ quán không. Văn chia làm ba phần: 1. Thể tính thanh tịnh; 2- hành không thật; 3. Tổng kết nói không.
Đây là phần 1- Thể tính thanh tịnh
Kinh: Tất cả chúng sanh, tự tính thanh tịnh.
Giải thích: Đây là nêu lên chân tính của chúng sanh vốn thanh tịnh. Khác với trên là Thể của các uẩn vốn không sanh diệt, còn đây là nói tự tính của tác nghiệp vốn thanh tịnh. Trước nói Quả, sau là nói Nhân. Trước pháp sau là thọ. Trước là khổ, sau là Tập, khác nhau là ở chỗ đó.
Tiếp theo là phần hai – Nói hành không thật. Văn lại chia làm hai phần. Đây là phần một – Nói về hành không thật
Kinh: Các hành vốn tạo tác, không có trói không có mở, chẳng phải Nhân chẳng Quả, chẳng phải không nhân quả.
Giải thích: Nói về tác nghiệp. “Các hành vốn tạo tác”: Các tức là nhiều, Hành là tạo tác, làm ra. Theo thân khẩu ý tạo tác nghiệp thiện nhiễm của sáu cõi, gọi là các hành. “không trói không mở”: là vì vọng chấp lay động cho là phiền não trói buộc, nên mong cầu sự mở trói: do đó có trói và mở. Hiểu rõ Thể tức là chơn, vốn tự nó không có trói thì ai lại mong cầu mở trói, liền không có Trói và mở”. Chẳng phải nhân chẳng phải quả”: Những hành đã làm vì vọng nên thấy là có, tự tính của vọng rõng không, không có cho nên chẳng phải nhân quả. “Chẳng phải không nhân quả”: khi chưa hiểu rõ tự tính thì vọng tưởng trôi đuổi, theo nhân mà cảm quả, như là huyễn có.
Kế đến là phần hai: Nói về thọ không thật.
Kinh: Các hành khổ thọ, phiền não, sở tri, Ngã tướng, nhân tướng, tri kiến, thọ giả.
Giải thích: Nói về vọng thọ. “Các khổ”: Là xét chung trong Ba cõi gồm có ba khổ. Ba khổ khác nhau nên gọi là các. “Hành thọ”: Thọ là thâu nạp, các cảnh thuận nghịch, và không thuận nghịch tướng đó làm tính gọi là hành thọ. Hoặc đối với tạo tác của nghiệp kia là tướng. Nói “phiền não”: Phiền mệt khuấy rầy, các hữu não loạn. “Sở tri”: Chướng ngại trí tuệ không sinh; sở tri là chướng, đó tức là hai chướng. “Ngã Tướng…”: Đã giải thích như trước tức chướng dựa vào chấp mà sinh ra. Chướng thì rộng, chấp thì hẹp, sinh đủ cả hai chướng, nên nói riêng từng chướng.
Kinh: Tất cả đều không.
Giải thích: Nói về các hành cho đã tạo tác đến thọ giả theo vọng tình lưu động cho là có, thì đều không có tự tính, nên tất cả đều không.
Dưới đây là phần hai: Tổng tướng quán không, văn chia làm ba phần: 1. Nêu cảnh giới không; 2. Giải thích về cảnh giới không; 3. Kết.
Như hư không. Đây là phần một: Nêu cảnh giới không.
Kinh: Cảnh giới của các pháp không.
Giải thích: “Cảnh giới của các pháp”: Tức các hành vốn tạo tác của uẩn… trong pháp và thọ. Ba Tính sáu cõi cho đến Tam bảo đều gọi là pháp, đều là không. Tiếp theo là phần ha: Giải thích về cảnh giới không. Văn chia làm ba: 1. Nói về Ba tính không.
Kinh: Không, vô tướng, Vô tác, chẳng thuận điên đảo, chẳng thuận huyễn hóa.
Giải thích: Nói “không” là vọng đảo không. “Vô tướng”: là Chơn như vô tướng. “Vô tác”: là hữu vi vốn không thật không có tự tác. “Chẳng thuận điên đảo”: là Thể của vọng vốn không, không có gì thể thuận. “Chẳng thuận huyễn hóa”: Tướng thì không có tự tính vì thể của nó rỗng không, vẳng lặng.
Kế đến là phần hai: Nói về vô tướng không
Kinh: Không có tướng của sáu cõi. Không có tướng bốn loài, không có tướng Thánh nhân, Không có tướng Tam bảo.
Giải thích: Ba tính của cõi hướng đến loài sinh ra và vô ký, chúng đều không có tự tính, hiểu rõ vốn là “không”. “Không có Thánh nhân”: bậc Thánh Nhị Thừa và Bồ-tát thập địa đều không có tự tính. “không có Tam bảo”: Biệt tướng, Trù trì, hai loại Tam bảo là thân Phật thị hiện, hiểu rõ đều không có tự tính, thấu đạt không có “thể” thật, đều không có tướng.
Tiếp sau là phần ba: Kết: như hư không.
Kinh: Vì như hư không.
Giải thích: Chiếu rõ cảnh rỗng lặng như hư không.
Dưới đây là phần hai: Tức trí quán không. Văn chia làm ba phần: Đây là phần một – nói về Trí chiếu không.
Kinh: Này người thiện nam! Bát-nhã rất sâu xa, không tri, không kiến, chẳng hành, chẳng duyên, chẳng xả, chẳng thọ.
Giải thích: “Bát-nhã rất sâu”: Là Chánh trí. Nói “không Tri”: là không phân biệt. Nói “không kiến”: là vì không tìm cầu. Nói “không hành”: là vì trí ngầm hợp với chơn. Nói “chẳng duyên”: là không có tướng duyên. Nói “chẳng xả”: là không đổi thoát, “Chẳng Thọ”: là không có lãnh nạp. Sáu nghĩa trên đều là chánh trí. Lại giải thích: không gì là không biết, biết nhưng không biết. Không gì là không thấy, thấy mà không thấy… Không gì là không thọ, thọ nhưng không thọ. Sáu nghĩa sau này, chung cả chơn và tục, nhưng trong sáu nghĩa sau thì hành là vạn hạnh, duyên là Lý sự, xả là tài pháp hoặc đại xả, thọ là chơn tục bất biến. Do đã chứng chơn đạt tục, đắc vô trụ.
Tiếp đến là phần hai – nói về Không có tướng của chiếu.
Kinh: Chánh trụ quán sát nhưng không có tướng của chiếu.
Giải thích: Vô phân biệt trí, chánh trụ hiện tiền, chiếu nhưng không có chiếu, vì không trụ tướng. Tiếp sau là phần ba – kết về Trí, nói về Không.
Kinh: Vì người hành đạo ấy như hư không.
Giải thích: “Người hành đạo ấy”: Nghĩa là chư Bồ-tát nương theo đây để tu chứng. Cảnh và Trí đều Tĩnh lặng như hư không. Lại nữa, dùng đoạn văn này để đối những người không biết dứt bỏ tướng sinh ra chánh giải. Vì lập lượng nói: quán chiếu Bát-nhã làm Tông. Lấy pháp Hữu quyết định cho pháp không có tướng của chiếu làm tông. Pháp và pháp Hữu hòa hợp làm tông, vì không biết, không thất… Cả ba thứ hợp lại làm một dùng làm pháp nhân. Do Như hư không, đó là dụ cho pháp.
Sau đây là phần hai: giải thích, Kết về khó lường.
Văn chia làm 2: 1. Giải thích về sự khó lường; 2. Kết về sự khó lường. Trong phần Giải thích văn lại chia làm ba phần.
Đây là phần một – Nêu về Chẳng thể đạt được.
Kinh: Pháp tướng như vậy, Đắc tâm có sở đắc. Tâm không sở đắc đều không thể đạt thuộc chẳng thể đạt được.
Giải thích: “Tướng của pháp như vậy”: là cảnh và Trí đã nói trên.
“Tâm có sở đắc”: là tâm giữ lấy tướng.
“Tâm không sở đắc”: là Vô phân biệt trí
“Đều chẳng thể đạt được”: Trước là tâm chấp có đắc là vọng nên chẳng thể đạt được, sau chấp trí vô đắc là chân nên chẳng thể đạt được. Nếu chẳng phải tự chứng mà, tương tự duyên Như thì cũng chẳng thể đạt được, tức trong bốn câu trên, câu trước là nêu, tiếp là kê riêng, sau là tổng kết.
Tiếp theo là phần hai – giải thích chẳng phải Tức và Lìa.
Kinh: Là vì Bát-nhã, chẳng phải tức năm, chẳng phải lìa năm uẩn, chẳng ở ngay chúng sanh, chẳng lìa chúng sanh, chẳng phải tức cảnh giới, chẳng lìa cảnh giới, chẳng phải tức ở hành giải, chẳng phải lìa hành giải.
Giải thích: Bốn câu văn trên nói Thể đều là Bát-nhã, do tâm mê hay ngộ nên trói hay mở khác nhau.
“Là vì Bát-nhã”: là nêu lên để giải thích pháp.
“Chẳng phải tức năm uẩn”: vì uẩn là huyễn vọng mà có. Bát-nhã chẳng phải là huyễn vọng nên là phi tức (chẳng ở ngay)
“Chẳng lìa năm uẩn”: Thật tướng bình đẳng, Thể hiện bày khắp tất cả nên chẳng lìa. Đây là giải thích câu trên nói, do các pháp tập họp huyễn hóa mà có.
“Chẳng phải tức chúng sanh”: chúng sanh thì vọng đảo, Bát-nhã chẳng vọng đảo, nên chẳng phải tức, “chẳng phải lìa”: giống như trên. Giải thích tiếp theo nói các hành mà chúng sanh đã làm.
“Chẳng phải tức cảnh giới”: các cảnh giới trước đây không hiểu rõ nên là vọng. Thật tướng thì chẳng vọng nên chẳng phải tức. “Chẳng phải lìa”: Giống như trên. Giải thích văn nói cảnh giới ở trên.
“Chẳng phải tức hành giải”: hành giải tức chính là Trí quán chiếu. Hoặc trụ ở tướng, nên bảo là chẳng phải tức. Hoặc vô phân biệt nên bảo là chẳng phải lìa. Đó là giải thích về quán chiếu. Cho nên tri, đoạn, chứng, tu là bốn thứ khác nhau.
Kế đến là phần ba: Giải thích chung về nghĩa khó lường.
Kinh: Các tướng như vậy không thể suy lường.
Giải thích: Như vậy, các tính tướng nơi nhẫn kể trên của chư Phật. Bồ-tát là không thể tư duy, không thể suy lường, có thể biết được đức đó là vượt quá sự suy lường.
Dưới đây là phần hai- kết về khó lường. Văn chia làm ba phần.
Đây là phần một: Kết về Hạnh Bồ-tát.
Kinh: Do đó, tất cả đại Bồ-tát tu các hành chưa đạt đến cứu cánh mà ở hạnh trung.
Giải thích: Đây là kết nêu Hạnh Trung đạo của chư Bồ-tát. Nói “Do đó”: là từ ngữ kết phần nói trên. Nói “Tất cả”: là chư Bồ-tát thuộc Địa tiền và Địa thượng, từ Sơ phát tâm cho đến chưa thành Phật đều ở trong nhẫn mà tu hành. Tuy thể tính của nhẫn, không có Thánh phàm, nhưng nương theo nhẫn nói về tu, cho nên gọi là Bồ-tát.
Tiếp theo là phần hai: Kết về chư Phật hóa.
Kinh: Tất cả chư Phật biết như huyễn hóa, không trụ tướng mà ở trong ấy hóa độ
Giải thích: “Tất cả chư Phật”: Đây là kết, nêu lên Pháp thân của chư Phật.
“Biết Như huyễn hóa”: biết những chúng sinh mà mình hóa độ là Như Huyển không thật. Nếu chẳng có sự che chở của giáo pháp thì không cách gì thoát được sợi dây trói buộc của huyễn. Vì vậy mà khởi hóa độ.
“Đắc vô trụ tướng”: Tất cả phàm phu vui thích trụ trong sinh tử, bậc thánh Nhị thừa thì vui thích trụ trong Niết-bàn, chư Phật Thế Tôn đắc không trụ và đại bi đại trí, do đó không trụ đạo sinh tử, Niết-bàn.
“Mà hóa ở trong”: ấy hóa độ”. Ở trong sự nhẫn chịu cõi, loài Thánh hiền mà hóa độ.
Sau đây là phần ba: Kết – nhẫn khó lường.
Kinh: Cho nên, mười bốn nhẫn chẳng thể suy lường.
Giải thích: Đây là phần kết. Tiếp theo là phần ba: Tán thán đức sâu xa của nhẫn, văn chia làm ba: 1. Lợi ích rộng lớn; 2. Dụ nói nghĩa khó lường; 3. Chư Phật khen ngợi.
Đây là phần một: Lợi ích rộng lớn.
Kinh: Này người thiện nam! Ông nay đã nói kho tàng công đức đó, có lợi ích lớn cho tất cả chúng sanh.
Giải thích: Tán thán những nhẫn đã nói, chính là kho tàng công đức, sinh ra văn, tư… làm lợi lạc rộng lớn. Tiếp theo là phần hai – Dụ nói nghĩa khó lường.
Kinh: Giả sử vô lượng hằng hà sa số Bồ-tát mười Địa nói công đức ấy trăm ngàn ức phần như một giọt nước biển.
Giải thích: Nói rõ đức rộng lớn. “Giả sử vô lượng hằng hà sa”: là số cực nhiều. “Bồ-tát mười Địa”: là tỏ sự hơn thắng. Trong hàng Bồtát, mười Địa hơn hết. “Nói công đức ấy”: là công đức của nhẫn. “Trăm ngàn ức phần…”: là nêu dụ để nói rõ. Nghia là đức nhẫn trọn đủ, lượng đồng với pháp giới, giống như biển lớn. Bồ-tát mười Địa thuyết trăm ngàn ức phần cũng chỉ như một giọt nước mà thôi.
Hỏi: Nếu vậy, vua Ba-tư-nặc chứng đến tột cùng cực cũng chỉ ngang mười Địa, vì sao Bồ-tát mười Địa dù có tán thán cũng kém hơn?.
Đáp: Vua Ba-tư-nặc thuyết về nhẫn đồng với Phật thuyết.
Tiếp theo là phần ba – Chư Phật khen ngợi.
Kinh: Chư Phật ba đời có thể biết như thật, tất cả Hiền Thánh đều xưng tán. Do đó, Ta nay lược kể một phần ít công đức.
Giải thích: Toàn bộ công đức của mười bốn nhẫn này, chư Phật ba đời biết được như thật. Tất cả Bồ-tát, Hiền, Thánh đều xưng tán, đều nương theo nhẫn mà tu hành. “Do đó…”: Nếu Phật nói đủ thì e rằng chúng sinh phạm loạn, vì vậy mà Phật chỉ lược kể một ít phần công đức mà thôi.
Dưới đây là phần bốn: Tán Phật đồng tu. Văn chia làm hai phần: 1. Chư Phật đồng tu; 2. Khởi tịnh tín. Trong phần một chư Phật đồng tu, văn chia làm hai: 1. Ba đời đồng tu; 2. Phải tu tập.
Văn phần một – lại có ba: 1. Quá khứ và hiện nay đồng tu.
Kinh: Này người thiện nam! Mười bốn nhẫn này là sự tu hành của tất cả Bồ-tát ở thời quá khứ và hiện tại trong mười phương thế giới.
Giải thích: Nói về tất cả Bồ-tát cùng tu môn nhẫn này.
Tiếp đến là phần hai – Phật hiển thị.
Kinh: Là sự hiển thị của tất cả chư Phật.
Giải thích: Do cùng thuyết như nhau. Tiếp sau là phần ba – Hợp nói về vị lai.
Kinh: Chư Phật, Bồ-tát Ma-ha-tát thời vị lai cũng lại như vậy
Giải thích: Liệt kê quá khứ, hiện tại. Sau đây là phần hai: Nói về việc phải tu tập. Văn chia làm ba: 1. Phải tu tập.
Kinh: Nếu Phật, Bồ-tát không do môn này mà đắc Nhất-thiết-trí, thì không có chuyện đó.
Giải thích: Nói “không do” nghĩa là nguyên do, nguyên nhân. Nếu Phật, Bồ-tát không nhân ở nhẫn, không nhập vào cửa này mà đắc thành quả Phật Nhất-thiết-trí, thì không bao giờ có việc đó.
Tiếp theo là phần hai – Hỏi về nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì sao người không tu nhẫn thì không thành Phật?
Kế đến là phần ba: Giải thích về nguyên do
Kinh: Vì chư Phật, Bồ-tát không có con đường nào khác
Giải thích: Vì chư Phật, Bồ-tát không tu tập thứ tự theo Môn nhẫn thì không có con đường nào khác để đắc thành Phật.
Sau là phần hai – Khởi tịnh tín. Trong đó chia làm hai phần. 1. Tín thì vượt kiếp.
Kinh: Nếu Người nghe nhẫn Trụ, nhẫn hành, nhẫn Hồi hướng, nhẫn Hoan hỷ, nhẫn Ly cấu, nhẫn Phát Quang, nhẫn Diễm Tuệ, nhẫn Năng Thắng, nhẫn Hiện Tiền, nhẫn Viễn hành, nhẫn chẳng động, nhẫn Thiện Tuệ, nhẫn Pháp Vân, nhẫn Chánh Giác đó, có thể khởi một niệm Tín thanh tịnh, thì người ấy vượt qua tất cả khổ nạn trong trăm kiếp, ngàn kiếp, vô lượng vô biên hằng hà ha kiếp không sinh cõi ác.
Giải thích: Sinh tử nhiều kiếp, do không nghe biết danh. Nếu có người nghe được không sinh nghi báng, sinh tín tịnh sâu, cho đến chỉ một niệm cực ít.
“Thì người ấy vượt qua trăm ngàn…” tức là vượt qua các khổ tám vạn, không sinh cõi ác của hằng hà số kiếp. Huống chi là thọ trì đọc tụng, khởi văn tư tu lâu ngày, mà không vượt qua được sao?
Tiếp theo là phần hai – Đắc Bồ-đề.
Kinh: Không bao lâu, sẽ đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Giải thích: Do từ Tín Tịnh trước, không những là vượt khổ mà còn không bao lâu sẽ đắc Bồ-đề.
Dưới đây là phần ba – Đại chúng tu hành. Văn chia làm ba phần: 1. Người nghe pháp.
Kinh: Lúc ấy, mười ức đại Bồ-tát cùng tên Hư không Tạng, và vô lượng vô số những đại chúng vân tập đến đều vui hớn hở.
Giải thích: Khi nghe nhẫn, Bồ-tát có cùng tên gọi, và các đại chúng tức là những đại chúng đã liệt kê trong phần phẩm Tựa, đều hoan hỷ cùng tột. Tiếp theo là phần hai: Thấy chư Phật.
Kinh: Nương oai thần Phật, thấy khắp mười phương hằng hà sa chư Phật, mỗi một vị đều ở đạo tràng thuyết mười bốn nhẫn, như đức Thế Tôn ta đã thuyết giảng không khác.
Giải thích: Nhờ nghe pháp, cho nên nương oai thần Phật, liền thấy mười phương hằng sa đức Phật.
“Mỗi vị đều ở đạo tràng…”: Nghĩa là mỗi vị đều ở đạo tràng hải hội quốc độ của mình thuyết mười bốn nhẫn. Như nay Thế Tôn đã thuyết không khác. Là biểu thị cho chủ thể thuyết và đối tượng thuyết giống nhau. Nhờ oai lực của pháp mà được Nghe và Thấy giống nhau. Như kinh Hoa Nghiêm: Bồ-tát Pháp Tuệ thuyết Thập trụ, Bồ-tát Công Đức Lâm thuyết Thập hạnh, Bồ-tát Kim cang Tràng thuyết Thập Hồi hướng, Bồ-tát Kim cang Tạng thuyết Thập địa. Cuối mỗi một Hội, trang nghiêm đạo tràng càng trang nghiêm hơn với nhiều loại rực rỡ hơn, vô số cờ phướn báu, lọng báu, khiến cho chúng thời đó thấy khắp mười phương Bồ-tát cùng tên, cùng thuyết tu hành. Nay kinh này đức Thế Tôn tự thuyết, cho nên thấy mười phương hằng hà sa số hải hội chư Phật đều đồng thuyết.
Tiếp đến là phần ba – Như thuyết tu hành.
Kinh: Mỗi mỗi Hoan hỷ, như thuyết tu hành Bát-nhã Ba-la-mật đa.
Giải thích: “Hoan hỷ tu hành”: như văn dễ hiểu. Sau đây là phần ba – Trả lời câu hỏi về quán sát. Văn có ba phần: 1. Nêu chung về câu hỏi trước; 2. Biệt tướng đối trị; 3. Kết: Chánh Quán sát. Trong phần nêu chung về câu hỏi trước, văn có ba: 1. Nêu chung câu hỏi trước.
Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo vua Ba-tư-nặc: Ông trước đã hỏi lại dùng tướng gì mà trụ quán sát.
Giải thích: Nhắc lại câu hỏi trước, đầu tiên là nói về năm nhẫn, hạnh tự lợi tăng thêm, tiếp đó là thuyết về mười vua, hạnh lợi tha tăng thêm. Như tự lợi và lợi tha đều khiến quán sát. Quán là chiếu tuệ, sát là xét kỹ. Quán chiếu xét kỹ, nên bảo là quán xét.
Tiếp theo là phần ba – trụ bình đẳng.
Kinh: Bồ-tát Ma-ha-tát nên quán như vậy, dùng thân huyễn hóa mà thấy huyễn hóa, chánh trụ bình đẳng, không có kia, Ta.
Giải thích: “Nên Quán như vậy”: là nêu bày quán hành. “Dùng thân huyễn hóa”: là quán tự mình như huyễn. “Mà thấy huyễn hóa”: là quán tha (người khác) như Huyễn. “Chánh trụ bình đẳng”: là vô phân biệt trí, chánh trụ hiện tiền, không có tướng mình, người, tức bình đẳng. “Không có kia, ta”: thấu đạt hữu như huyễn. Hai lợi đã tu lâu ngày không gián đoạn thì chấp người, ta dứt mất.
Tiếp sau là phần ba – Kết – Nêu bày tu hành.
Kinh: Quán sát như vậy, hóa lợi chúng sanh.
Giải thích: Nên quán hành như vậy mà hóa độ lợi ích.
Dưới đây là phần hai – Biệt tướng đối trị, văn chia làm hai: 1. Biệt quán các giả; 2. Kết: chỉ bày chánh quán.
Trong phần biệt quán, văn chia làm bảy: 1. Pháp giả; 2. Thọ giả; 3. Danh giả; 4. Tương tục giả; 5. Tương đãi giả; 6. Duyên hành giả; 7. Nhân thành giả.
Trong phần pháp giả, chia làm ba:
-Tâm pháp.
-Sắc pháp.
-Tổng kết đối trị.
Nơi phần tâm pháp, văn chia làm hai:
-Nói riêng về hai chỗ nương tựa.
-Sắc tâm rộng lớn.
Văn phần một lại chia làm hai: 1- Chổ nương của mê và ngộ.
Kinh: Mà những hữu tình ở kiếp lâu xa, Thức Sát-na đầu tiên khác với gỗ đá.
Giải thích: “Mà những hữu tình”: Gồm chung tất cả phàm, Thánh trước ngôi vị Đẳng giác.
“Ở kiếp lâu xa”: là từ vô thủy, nhưng chỉ nói là kiếp lâu xa.
“Thức đầu Sát-na tiên khác với gỗ đá”: Đây có hai nghĩa. Có thuyết nói: Thức đầu tiên tùy ở cõi nào thì tiếp tục trong phần vị sinh Sát-na đầu tiên, là thức thứ tám. Thức thì có duyên lự, khác với gỗ đá không có duyên lự. Có thuyết nói: Thức đầu tiên giống như quyển một trong kinh Lăng già bản bốn quyển, nói: Các Thức có ba loại tướng, là chuyển tướng, nghiệp tướng, chơn tướng. Về chơn tướng pháp sư Hải Đông nói: chơn tâm bản giác không nhờ vào vọng duyên, gọi là Tự chơn tướng. Tiếp đến là nghiệp và chuyển. Lại nữa, Luận Khởi Tín nói là nghiệp chuyển hiện đại thể giống với kinh Lăng Già nhưng tên gọi thì hơi khác. Pháp sư Hải Đông nói: “Nghiệp Tướng” là vô minh căn bản dấy khởi Tĩnh khiến cho động, động thành ra là nghiệp thức, rất vi tế. “Chuyển tướng” là chủ thể kiến đó nương theo Nghiệp tướng trên mà chuyển thành chủ thể duyên, tuy có chủ thể duyên nhưng chưa thể hiển rõ cảnh sở duyên. “Hiện Tướng” tức là cảnh giới nương theo chuyển tướng trên mà hiện ra cảnh, nên kinh Lăng già nói: Ví như gương sáng lưu giữ hình tượng, hiện thức hiển hiện cũng lại như vậy. Tiếp theo kinh lại nói: là bỗng phân biệt biết, tự tâm hiện thân và thân an lập, cảnh giới thọ dụng, tức là căn thân, khi thế giới bên ngoài. Năm cảnh như sắc… tự nhiên hiện ra ở mọi thời. Đó là ba vi Tế, tức là bản thức.
Hỏi: Nếu vậy, kinh gọi là Thức đầu tiên thì cái gì nương theo cái gì để huân tập thành nhân duyên sinh?
Đáp: Nghiệp thức tối sơ tức là Thức đầu tiên, nương theo môn sinh khởi thành là thứ lớp. Lại nữa, từ những kiếp lâu xa đến nay, không có mới bắt đầu. quá khứ vị lai không có thể, huân tập chỉ là tâm vọng niệm là đầu tiên, dấy khởi trái chân. Kinh Lăng già nói: Huân tập bất tư nghị Biến chuyển bất tư nghị, là nhân của Hiện thức. Pháp sư Hải Đông giải thích: vô minh căn bản Huân tập Bản giác, gọi là Huân tập bất tư nghị, Bản giác động theo gọi là Huân. Lại thể của Bản giác kia, Thể tuy bất biến, nhưng do tùy duyên mà nói là Biến. Hoặc Huân hoặc Biến đều bặt dứt, tâm tư, ngôn ngữ, gọi là bất tư nghị. “Nhân của Hiện thức”: thật ra đó là Nhân của Nghiệp Thức. Về Nhân duyên thì bản giác là Nhân, vô minh là duyên mà khởi nghiệp thức.
Dưới đây là phần hai – chổ nương của tịnh nhiễm.
Kinh: Sinh đắc nhiễm, tịnh, mỗi tự có thể làm vô lượng số căn bản của thức nhiễm tịnh.
Giải thích: “Sinh đắc nhiễm, tịnh”: là cùng sinh ra với thân, vừa sinh ra liền đắc. Đây cũng là những thứ được sinh ra từ vô thủy. Nhiễm có hai loại: Hữu phú và bất thiện. Tịnh có hai loại: vô ký và thiện.
Nói “Mỗi tự”: là từ nhiễm sinh ra nhiễm, từ tịnh sinh ra tịnh, như nhân đồng loại dẫn đến quả Đẳng lưu, gọi là “Mỗi tự”.
“Có thể làm vô lượng số”: gồm hai loại vô lượng số: 1. Vô lượng số về thời nhiều kiếp lâu dài; 2. Vô lượng số nhiễm tịnh sinh ra.
“Căn bản của thức nhiễm tịnh”: Do trước sinh đắc mà dẫn khởi tự loại sau. Nên trước là làm căn bản của cái sau gọi là căn bản của thức. Về sự khác nhau của các thức, ở đây có hai nghĩa: Có thuyết nói: Thức thứ tám chỉ tịnh, vô ký là gốc sinh ra các cõi. Thức thứ bảy cũng thường hữu phú và Thiện. Sáu thức trước thì gián đoạn, thông cả ba tính, chỉ thức thứ sáu thì nhiễm và tịnh đều tăng, là thức tối thắng trong tu đoạn sự. Tuy năm thức còn lại cùng nhau huân tập làm nhân để sinh nhưng vốn đều có chủng tử từ xưa dấu khởi, mỗi thứ đều từ chủng tự riêng sinh ra thức nhiễm tịnh làm căn bản cho sự sinh đời sau. Có thuyết nói: Nghiệp thức là lực vô minh làm tâm bất giác động, dựa vào tâm động mà khởi chuyển thức có thể thấy tướng. Dựa vào khả năng thấy mà khởi hiện thực, đó gọi là khả năng hiện tất cả cảnh giới”. Dựa theo Hiện thức mà khởi trí thức, phân biệt nhiễm tịnh khởi Ngã pháp. Dựa vào trí thức mà khởi thức tương tục, trụ giữ những nghiệp thiện ác qua khứ khiến cho không mất, và thành thục các quả báo khổ, lạc của hiện tại và vị lai không hề sai trái. Ba vi tế trước tuy vô minh khởi, nhưng không tương ưng với Tịnh, vô ký. Tịnh và Nhiễm sau, tuy khác nhau về hơn kém, nhưng theo trước mà sinh, lấy nghiệp làm gốc. Có sự sai khác là: Nghiệp từ Bản Giác khởi, Bản giác là gốc của Nghiệp. Nghiệp sinh ra các nhiễm, tịnh khác. Nghiệp là gốc của tịnh, nhiễm. Lấy tướng nghiệp làm gốc của tịnh nhiễm.
Hỏi: Nếu vậy, Thức có mấy loại, làm thế nào mà huân tập thành nhân duyên sinh?
Đáp: Kinh Lăng già nói: Này Đại Tuệ! Lược nói thì có ba loại Thức, Rộng nói thì có tám tướng. ba loại Thức là: Chơn thức, Hiện thức và Phân Biệt sự thức. Ngài Hải Đông giải thích: Chơn thức là Bản Giác, Hiện thức là thức thứ tám, còn bảy thức khác là Thức Phân biệt sự. Tuy Thức thứ bảy không duyên với ngoại trần, vì duyên với Thức thứ tám, nên gọi là Thức phân biệt sự. Về huân tập, theo kinh Lăng già: Hiện thức và phân biệt sự thức, lần lượt cùng làm nhân cho nhau. Chủng thức thứ tám làm nhân sinh ra bảy thức. Bảy Thức trước có thể huân tập sinh ra lại Thức thứ tám, vì từ vô thủy đến nay luôn lần lượt làm Nhân cho nhau, lại nhân duyên: Tự chủng là nhân các cảnh do Hiện thức hiện ra làm duyên, hợp với nhiễm, tịnh mà sinh các Thức. Có người cho Bátnhã không có tám Thức, để bác điều đó mà dẫn văn kinh để chứng minh.
Dưới đây là phần hai – Sắc tâm rộng lớn, văn chia làm hai phần: 1. Nêu bày trước sau; 2. Sắc tâm rộng lớn. Đây là phần một – Nêu trần trước sau.
Kinh: Từ Sát-na đầu tiên kiếp không thể nói hết, cho đến một Sát-na cuối cùng của định Kim cang.
Giải thích: Trước là căn cứ theo sinh khởi, từ tế đến thô. Đây là nêu trước và sau làm rõ khoảng giữa nhiều.
“Từ Sát-na đầu tiên”: Tức là sơ, đầu tiên trước.
“Kiếp không thể nói hết”: Là sinh tử lâu dài không thể nói được về con số, nên kinh chỉ nói là “không thể nói hết”.
“Cho đến định Kim cang”: Định rốt sau của Bồ-tát là nói đích cuối cùng. Tuy người Nhị thừa đạt vị vô học mà cũng khởi Định này, bởi chưa đạt tới cứu cánh, nên lược bỏ không nói.
“Một Sát-na cuối cùng”: khi Bồ-tát Đẳng Giác nương theo định Kim cang, đạo vô gián là sau cùng, trong khoảng giữa đó có bao nhiêu sinh diệt? Kinh Lăng già nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát Đại Tuệ bạch Phật: Thế Tôn! Các Thức có mấy loại sinh, trụ, diệt? Phật bảo: Đại Tuệ! Các Thức có hai loại sinh trụ diệt, chẳng thể suy lường biết được, là Lưu chú sinh trụ diệt và Tướng sinh trụ diệt. Ngài Hải Đông giải thích: Lưu chú là Thức thứ tám, ba tướng vi ẩn, chủng, hiện không ngừng, gọi là lưu chú, do vô minh duyên, đầu tiên khởi nghiệp thức nên nói là sinh. Nối tiếp nhiều kiếp nên gọi là Trụ. đến Định Kim cang một niệm Đẳng giác, chặt đứt vô minh căn bản, gọi là lưu chú diệt.
“Tướng sinh trụ diệt” là tâm cảnh thô hiển của bảy Thức còn lại, gọi là Tướng. Tuy thức thứ bảy duyên với thức thứ tám, nhưng so với Thức thứ sáu thì vi tế. Có đủ cả bốn Hoặc nên cũng gọi là thô, dựa vào các cảnh của tự chủng hiện thức, duyên hòa hợp sinh ra bảy Thức gọi là Tướng sinh. Huân Tập Lâu đời lâu kiếp gọi là Tướng Trụ, từ ngọn trở về gốc, lần lần phục và đoạn đến Địa thứ bảy thì mãn gọi là Tướng diệt. Nương theo sinh diệt trước mà lập ra chỗ dựa của Mê Ngộ. Nương theo sinh diệt sau mà lập ra chỗ dựa nhiễm tịnh. Sau thì ngắn trước thì dài. Đoạn văn kinh trên tức là nằm trong tướng sinh trụ diệt thuộc sinh diệt trước.
Dưới đây là phần hai – Sắc tâm rộng lớn. Văn chia làm ba phần:
Đây là phần một – Từ tâm sinh tâm.
Kinh: Có bất khả thuyết bất khả thuyết Thức.
Giải thích: “Bất khả thuyết Thức”: Đây có hai nghĩa. Có thuyết nói: bản thức từ một kỳ thọ mệnh kết sinh ban đầu cho đến Sát-na thức diệt cuối cùng, trong khoảng thời gian giữa hai điểm mốc đó, không Sát-na ngừng nghỉ. Sự sinh diệt của Thức thì không thể nói hết được, như trong khoảng từ cõi Hữu Đảnh đến vô gián từ đầu đến cuối còn không thể nói hết, huống nữa là trường kiếp mà có thể nói hết hay sao? Có thuyết: Nghiệp thức sau khi bắt đầu khởi đến trước khi đoạn dứt, trong khoảng giữa đó, vô thủy sinh diệt tạo nghiệp chịu quả sinh ra trong các cõi giới, theo tâm mà sinh tâm, các thức Nhiễm Tịnh, Sát-na tương tục đều không thể nói. Vì vậy mà kinh lặp lại hai lần “Bất khả thuyết” (không thể nói hết).
Tiếp theo là phần hai – Theo tâm sinh ra sắc.
Kinh: Sinh ra hai pháp sắc và tâm của các hữu tình.
Giải thích: “Sinh hai pháp” Sắc và tâm của các hữu tình: theo Luận Khởi Tín thì sau khi theo chuyển hướng mà khởi hiện tướng, hiện cảnh mới có Sắc Trần, tức là sau khi chuyển Thức mới sinh Sắc. Điều này không phải vậy. Hiện thức, hiện cảnh là nhờ sáu thức trước, huân tập, đâu thể cho hiện cảnh liền theo tâm mà khởi. Chẳng lẽ các hình ảnh ở trong gương lại từ gương mà sinh ra hay sao? Như theo luận Duy Thức thì trong ba loại cảnh, đều như tính cảnh, khi huân tập sắc ở trong Tướng phần. Chủng nhờ tâm huân hiện từ Thức khởi, theo tâm sinh Sắc, có gì sai đâu? Điều đó cũng không đúng. Vì duyên lự và chất ngại hai cái khác nhau. Chủ thể huân tập duy trì chủng đều là tự loại sinh. Há cho huân tập duy trì, thể tức là sắc? Điều đó cũng không đúng. Huân và trì là do tâm, nên bảo là tâm sinh. Nếu không Sinh thì sao lại gọi là Duy Thức? Huống nữa, kinh Lăng già quyển ba nói: Đại chủng vọng tưởng ẩm ướt sinh ra thủy giới nội ngoại. Đại chủng vọng tưởng năng lượng sinh ra hỏa giới nội ngoại. Đại chủng vọng tưởng lay động sinh ra phong giới nội ngoại. Đại Chủng vọng tưởng chặt đứt Sắc sinh ra Địa giới trong ngoài. Kinh kia đã nói: Vọng tưởng chủng sinh ra, thì đây nói tâm sinh Sắc, có sai lầm gì”Nếu chất ngại khác với tư lự, suy tư, thì chắc chắn là có thể riêng thì sao lại tu đoạn mà đắc được vô lậu. Lại nữa, Phật, Bồ-tát từ sợi lông có thể chứa cả biển lớn, hạt cải thâu nạp cả núi Tu di, sắc nếu chắc chắn là ngại thì sao lại không gây trở ngại? Chỉ vì đối vọng tình mà nói là ngại và tư lự khác nhau, nếu đắc được tự tại thì thật ra không có gì là khác nhau. Tướng của tâm ấy, từ tâm mà sinh, lấy Chánh lý của Thánh giáo làm định lượng.
Tiếp đến là phần ba – nghĩa của sắc tâm uẩn.
Kinh: Sắc gọi là Sắc uẩn. Tâm gọi là bốn uẩn, đều mang tính tích tụ, che giấu sự chơn thật.
Giải thích: Trong năm uẩn, uẩn đầu tiên là Sắc uẩn, bốn uẩn sau là tâm uẩn.
“Đều mang tính tích tụ”: Là nói ý nghĩa của uẩn.
“Che giấu chơn thật”: là nói về chướng ngại chơn thật.
Pháp giới thanh tịnh, Thể đó vắng lặng trong sáng, bị uẩn che đậy, nên không hiển hiện.
Tiếp sau là phần hai – Nói riêng về Sắc pháp. Trong đó chia làm bốn phần: 1. Sắc sinh sắc.
Kinh: Đại vương! Một sắc pháp đó, sinh vô lượng sắc.
Giải thích: Đây là nêu chung. Gọi là”Sắc” tức lấy chất ngại làm tính, một Sắc uẩn từ vô thủy đến nay thọ nhận nhiều thân ở các cõi giới, tự loại tương sinh nhau, sinh ra vô lượng.
Kế đến là phần hai – Nói sắc được tạo ra (sở tạo).
Kinh: Mắt nhận được là sắc, tai nhận được là tiếng, mũi nhận được là hương, lưỡi nhận được là vị, thân nhận được là xúc.
Giải thích: Nêu căn lấy trần, không nói về căn, về danh số tự loại năm trần có nhiều ít, như thường giải thích của Đại, Tiểu thừa giáo.
Sau đây là phần ba – Đại là chủ thể tạo.
Kinh: Cứng chắc gọi là đất, ẩm ướt gọi là nước, nóng ấm gọi là lửa, nhẹ động gọi là gió.
Giải thích: Ở trong xúc trần, có bốn đại xúc, “Cứng chắc ẩm ướt…”: Cứng, ướt, nóng, động là Thể riêng của chúng. Đất, nước, gió, lửa là liệt kê bốn tên gọi.
Tiếp sau là phần bốn – Nói về năm sắc căn.
Kinh: Sinh năm Thức xứ, gọi là năm sắc căn.
Giải thích: Tịnh sắc là Thể của năm sắc căn.
Tiếp sau là phần ba: Tổng kết về đối trị.
Kinh: Một sắc một tâm, cứ như vậy mà lần lượt sinh ra vô lượng sắc tâm, không thể diễn nói đều là như huyễn.
Giải thích: “Cứ như vậy mà lần lượt”: Nghĩa là từ vô thủy đến nay cứ nương theo một Sắc tâm mà sinh ra vô lượng sắc tâm không thể diễn nói. Đây là nói số nhiều, khiến sinh ra sự chán ghét, nếu không đối trị để dứt bỏ thì vĩnh viễn kiếp luân hồi.
“Đều là như huyễn”: là bảo quán sắc tâm như huyễn không thật. Lìa các lỗi lầm, tức là đối trị.
Dưới đây là phần hai: Quán thọ giả, văn có ba phần: 1. Tổng nêu thọ giả; 2. Nói về hành tướng của Thọ; 3. Bày cách đối trị. Đây là phần một – Tổng nêu Thọ giả.
Kinh: Này người thiện nam! Thọ của hữu tình, là nương theo thế tục mà lập.
Giải thích: Nói “hữu tình”: là lược bỏ phi tình.
Năm uẩn Thọ nhận, gọi chung là Thọ uẩn. Nếu nói riêng thì có sự lãnh nạp riêng, nên bảo đó là thọ. Thể của thọ là tâm Sở. Là Thọ ở trong biến hành. Pháp giả là năm uẩn. Thọ giả là Thọ uẩn, trước là nói chung, sau là nói riêng.
“Theo thế tục mà lập”: hai chữ thế tục sẽ giải thích sau. Câu này là nói về không thật.
Tiếp theo là phần hai: Hành tướng của thọ. Văn chia làm hai phần:
1. Tác nghiệp của Thọ.
Kinh: Hoặc có hoặc không, hễ sinh ra vọng tưởng nhớ nghĩ của hữu tình tạo nghiệp nhận quả, đều được gọi là Thế đế.
Giải thích: “Hoặc có hoặc không ”: Là thứ Thọ đã lãnh nhận. Lãnh nạp đối với các pháp sắc tâm hiện tiền, nên bảo là “hoặc có”. Duyên với pháp thật ngã, với pháp không có ở quá khứ vị lai, không đối hiện tiền và pháp không có “thể”, nên bảo là “hoặc không”. Cảnh tuy muôn thứ khác nhau nhưng đều bao gồm ở trong Thế đế.
“Chỉ sinh ra vọng tưởng nhớ nghĩ của hữu tình”: Nói rõ thọ nhận là hư vọng, điên đảo, lãnh nạp các cảnh thuận, nghịch, có, không, hoặc không thuận nghịch mà lên nhiều loại vọng tưởng, nhiều loại nhớ nghĩ thuộc ba tính tùy theo ứng hợp. Tuy thể của tưởng và niệm chẳng phải là Thọ nhưng nhân ở Thọ, do thọ lãnh nạp tương ưng.
“Tác nghiệp chịu quả”: Tạo tác các nghiệp phúc, phi phúc, chẳng động… Cho nên bảo là tác nghiệp, có thể chiêu cảm các quả báo thuận đời nay, thuận đời sau và báo bất định, nên bảo là thọ quả. Tuy thể của nghiệp và quả, suy lường, nhưng do những điều mà nó lãnh nhận nên gọi là thọ.
“Đều gọi là Thế đế”: Là nói chúng không thật.
Tiếp đến là phần hai – Chỗ dựa của Thọ.
Kinh: Ba cõi, sáu thú (nẻo), tất cả hữu tình Bà-la-môn, Sát-đế-lợi Tỳ-xá, Thủ-đà.
Giải thích: Nói “Ba cõi”: Là nơi nương tựa của thọ.
“Sáu thú là cõi sinh ra của thọ
“Tất cả hữu tình”: là người của chủ thể khởi thọ “Bà-la-môn…”: là nói vọng phân biệt của thọ.
Bà-la-môn: Tiếng Hoa gọi là Tĩnh Chí. Sát-đế-lợi tiếng Hoa gọi là Vương-chủng. Tỳ-xá: là theo cách dịch cổ, nay dịch là Phệ-xá, tiếng Hoa gọi là Thương gia. Thủ-đà cũng thuận theo cách dịch cổ, nay dịch là Thú-đạt-la, tiếng Hoa gọi là làm nông. Thọ ở bốn đẳng cấp đó, sự lãnh nhận và hiểu biết hơn kém nhau, khiến tác nghiệp khác nhau, đều gọi là Thọ.
Sau đây là phần ba – Hiển bày đối trị vọng.
Kinh: Ngã nhân, tri kiến, sắc pháp, tâm pháp, như cảnh thấy trong mộng.
Giải thích: “Ngã, nhân, tri kiến”: là vọng đảo của thọ.
“Sắc pháp tâm pháp”: là chỗ nương của thọ. Thọ nương theo sắc tâm mà khởi, vì điên đảo Ngã pháp mà lãnh nạp và nhận hiểu nhiều loại pháp hư vọng.
“Như cảnh thấy trong mộng”: là nói chúng là không thật. Khi ở trong mộng thì cho là thật, tỉnh dậy rồi thì đều không có gì cả. Luận Duy thức nói; khi chưa đắc chơn giác, thường ở trong mộng. Chư Phật nói đó là “Đêm dài sinh tử”. Vì vậy mới biết tác nghiệp chiêu cảm quả, đi lại trong các cõi loài đều là như trong mộng, đều không thật. Nếu đắc được chơn giác sẽ tự hiểu rõ.
Tiếp theo là phần ba – Quán danh giả. Văn chia làm bốn phần.
Đây là phần một – Nêu Danh là không thật.
Kinh: Này người thiện nam! Tất cả các danh đều là giả đặt ra.
Giải thích: “Tất cả”: Là pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp Thế, pháp xuất thế, nên bảo là tất cả.
“Các danh”: Danh là tiêu biểu, diễn bày. Tất cả các pháp tùy theo phương cõi mà có muôn tên gọi khác nhau, nên bảo là”các danh?. “Đều là giả bày ra”: Nói rõ chúng là không thật. Danh diễn bày cộng tướng của tự tánh các pháp, là duyên tăng trưởng của ý, không đắc thể pháp, nên bảo là giả. Như luận Duy Thức nói: Danh diễn bày tự tính. Ở đây sao lại nói là không đắc thể pháp? Ví như nói “lửa”, không là thiêu lửa. Nói “ăn” không là no. Nếu nó xứng với thể pháp thì người nghèo khổ nói là “nhiều” thì châu báu đầy kho.
“Giả đặt bày”: là nói rõ không thật.
Tiếp đến là phần hai – Vốn không có Danh.
Kinh: Trước khi Phật chưa xuất thế, Thế đế là pháp huyễn không có danh, không có nghĩa, cũng không có thể tướng, không có tên gọi ba cõi, không có tên gọi quả báo thiện ác của sáu nẻo.
Giải thích: “Pháp huyễn Thế đế”: vì Pháp là giả, Thọ là giả đều là như huyễn, tức không thật.
“Không danh không nghĩa”: Danh là chủ thể diễn bày, nghĩa là đối tượng được diễn bày, ngôn luận của thế tục, theo tình mà bày ra, không xứng với pháp cảnh. Vì những thứ đó đều không thật, nên bảo là “không”. Lại nữa, ngôn luận thế tục của các thế gian là hủy bỏ sự sai lầm của chúng, nên không có danh, nghĩa.
“Cũng không có thể tướng”: huyễn pháp hữu vi nhờ các nhân duyên nên không có tự thể tướng, giống với danh nghĩa trên nên bảo là “cũng không”.
“Không có ba cõi”: Nếu không nhờ Phật nói ra thì không biết sự trên dưới, lớn nhỏ của ba cõi.
“Quả bảo thiện ác”: Tùy theo các nghiệp thiện, ác mà được quả báo hơn kém tốt xấu như thế nào.
“Tên của sáu cõi”: Thọ sinh khác nhau, ở trong sáu cõi đều không có tên gọi, đều không biết.
Sau đây là phần ba – Phật kiến lập.
Kinh: Chư Phật xuất hiện, vì hữu tình mà giảng nói về vô lượng tên gọi Ba cõi, sáu thú (nẻo), nhiễm tịnh.
Giải thích: Chư Phật Thế Tôn sở dĩ xuất hiện: là vì chư hữu tình, khiến cho xuất ly. Nên lập nhiều loại tên gọi, nói ba cõi là vì để chỉ bày sự hơn kém tốt xấu. Nói sáu thú là để chỉ bày chỗ sinh ra. Nói Nhiễm tịnh là chỉ bày làm cho đoạn dứt nhiễm tu tập, tịnh khiến vô lượng danh thuộc thế và xuất Thế.
Dưới đây là phần bốn – Đối trị tướng.
Kinh: Như vậy tất cả như âm vang của tiếng hô gọi.
Giải thích: “Như vậy tất cả”: Là tất cả những ngôn từ thuộc thế
và xuất thế gian.
“Như âm vang của tiếng hô gọi”: Là chính chỉ bày phép đối trị. Vì các ngôn luận của thế gian đều là không thật. Ngôn giáo xuất thế lìa tướng mà tu, đều là như âm vang.
Dưới đây là phần bốn – Tương tục giả. Văn chia làm ba phần. Đây là phần một – Nêu tương tục giả.
Kinh: Chư pháp tương tục, niệm niệm chẳng trụ.
Giải thích: “Các pháp tương tục”: Các uẩn khác nhau, gọi là các pháp sinh diệt dời trôi, nên bảo là tương tục. Như kinh Duy-ma nói: Sinh là tướng tương tục của pháp hư dối. Tử là tướng hủy hoại của pháp hư dối, tương tục với nhau.
“Niệm niệm chẳng trụ”: là chánh nêu rõ giả.
Tiếp theo là phần hai – Nói về nghĩa của tương tục.
Kinh: Sát-na, Sát-na, chẳng phải một chẳng phải thường, chóng khởi chóng diệt, phi đoạn phi thường.
Giải thích: “Sát-na Sát-na, chẳng phải một chẳng phải khác”: Nói lên pháp sinh diệt chẳng nhất định là một hay khác.
“Chóng khởi chóng diệt, chẳng phải đoạn chẳng phải thường”: là giải thích về pháp sinh diệt chẳng nhất định là đoạn hay thường, là một hay khác. Nếu chấp các uẩn thời quá khứ, vị lai là không có thì vì chóng khởi nên chẳng phải đoạn. Nếu chấp thể của các uẩn là thường thì vì chóng diệt, nên phi thường. Do vì phi thường nên chẳng phải nhất định là một. Do chẳng phải đoạn nên chẳng phải nhất định là, khác. Diệu lý thì lìa đảo đoạn thường, nhất dị. Đó gọi là quán sát tương tục giả.
Tiếp đến là phần ba – Kết – chỉ bày đối trị.
Kinh: Các pháp hữu vi như dợn nắng.
Giải thích: “Như lợn nắng”: Là chỉ về sự để nói. Nắng xuân phát sinh, khí động ở vùng hoang dã. Nếu cho là thật có thì càng chuyển đến gần càng không có. Nếu cho là không có nhưng lại có thể dối gạt kẻ khát nước, cho nên thể của pháp hữu vi là chẳng phải có, chẳng phải không, chỉ bày chúng không thật như là dợn nắng (dương diệm).
Tiếp sau là phần năm – Nêu Tương đãi giả. Trong đó chia làm hai phần: 1. Quán đãi giả; 2. Hình đãi giả.
Đây là phần một: Quán đãi giả.
Kinh: Các pháp tương đãi. Gọi là Sắc giới, nhãn giới, Nhãn Thức giới… cho đến pháp giới, ý giới, ý thức giới, giống như ánh chớp.
Giải thích: “Chư pháp tương đãi”: Đó là nêu chung. “Đãi” là nhờ, dựa. Nghĩa là: Uẩn, xứ, giới, các pháp hữu vi thiếu duyên thì không khởi, luôn mượn nhờ nhau.
“Gọi là Sắc giới, nhãn giới, nhãn thức giới”: là nói hành tướng. Căn, cảnh, thức cả ba nếu bất đồng và thiếu một thì thức chắc chắn sẽ không sinh ra. Cảnh đang hiện tiền, căn đang phát khởi, thức đang hiểu cảnh, ắt phải nhờ nhau nới hiểu rõ.
“Giống như ánh chớp”: là kết luận nghĩa không lâu dài, vì giả, không thật ngay đó đã diệt, không có.
Tiếp theo là phần hai – Hình đãi giả
Kinh: Bất định, tương đãi, có không, nhất dị, như mặt trăng thứ hai.
Giải thích: “Bất định tương đãi”: Đó là Sơ nêu. Hình của các pháp đối đãi nhau, đẹp và xấu, cao và thấp, dài với ngắn… Sắc tâm hình đãi đều là không thật.
“Có, không, một khác”: Có không tự nhiên có, vì đối với không nên Có. Không, không tự nhiên không, vì đối đãi với có nên Không. Một và khác cũng vậy cùng nhau hình đãi, không có một định thể chắc chắn. Lại nữa, mượn Hữu để hiện vô, đắc vô thì dứt bỏ hữu. Đãi vô mà quán hữu, lập hữu thì mất vô, lần lượt qua lại đều không có Thể. Một và khác cũng vậy, cho nên kệ Mật Nghiêm nói: Thế gian vọng phân biệt, Thấy như con bò v.v… có sừng, không hiểu sừng không có. Nhân nói sừng thỏ không, Phân tách đến cực vi, Cầu sừng không thật có, phải đãi với pháp có, mà khởi chấp Thấy không .
Hỏi: Có không đó là một pháp trước sau hay là hai pháp cùng một lúc đối đãi với nhau?
Đáp: Có không đều thì cùng một lúc, đối đãi chỉ là một pháp, như đem một trượng mà so với một trượng rưỡi thì một trượng kia có tướng ngắn, nhưng đem so với năm thước thì không có tướng ngắn mà có tướng dài. Thể của cả hai tướng ngắn và dài của một trượng kia đều không có. Trước và sau cùng một pháp; theo ví dụ trên thì rõ.
“Như mặt trăng thứ hai”: là phần kết, không có thể thật, do bị bệnh mắt, nên thấy mặt trăng thứ hai, cùng mở mắt cùng tiếp xúc với một mặt trăng, nhưng thấy một mà cho là hai, nếu mắt không bị bệnh thì không có hai. Do vì bị tâm bệnh nên vọng thấy có không đều, một và khác, đẹp xấu, dài ngắn…
Tiếp nữa là phần sáu – Duyên thành là giả.
Kinh: Chư pháp duyên thành, pháp uẩn xứ giới như bọt trên nước.
Giải thích: “Chư pháp duyên thành”: Là nêu về hữu vi, như hạt lúa nẩy mầm phải nhờ vào nước và đất…
Hỏi: Sao không nói là sinh mà nói là duyên thành?
Đáp: Nhân sinh và duyên thành là hai thứ khác nhau.
“Pháp uẩn xứ giới”: là hiển thị các pháp. Cả ba thứ này thâu nhiếp đủ tất cả hữu vi, chỉ nói riêng sắc tâm cũng đều có đủ trong đó, tuy xứ và giới cũng chung cho cả vô vi, nhưng chỉ lấy hữu vi là nhờ vào duyên mà thành. “Như bọt trên nước”: Bọt thì không có “thể” chân thật, từ duyên mà thành pháp, chẳng lẽ pháp đó lại thật sao?
Sau đây là phần bảy: Nhân thành là giả.
Kinh: Chư pháp nhân thành, tất cả hữu tình nhân quả cùng thời nhân quả khác thời, ba đời thiện ác, như mây bầu trời.
Giải thích: “Chư pháp nhân thành”: Hữu vi phải nhờ nhân mà sinh ra. Thành ở đây là sinh thành. Trước là tăng thượng, đây là nhân duyên, hai thứ đó khác nhau.
“Tất cả hữu tình”: Là biểu thị chúng sinh này có nhân, lược bỏ ngoài phi tình, không có nhân duyên. Cây cỏ v.v… tuy là từ chủng tử mà khởi lên, nhưng đó là tăng thượng duyên, chẳng phải là Nhân duyên.
“Nhân quả cùng thời”: Tất cả chủng tử thuộc ba tính hữu lậu, vạn hạnh vô lâụ đều có đủ ở trong bản thức như hiện trong thân, cùng một Sát-na, từ chủng sinh hiện, hành hiện hành có thể huận tập chủng. Cả ba pháp xẩy ra cùng một lúc, có hai nhân quả. Luận Duy Thức nói: Như bấc đèn sinh ra ngọn lửa, lửa sinh ra cháy bấc đèn, cả ba pháp lần lượt cùng một lúc thay nhau, hai nhân quả cùng thời.
“Nhân quả dị thời”: Là như chủng tử ở trong thức, trước và sau cùng đối chiếu nhau, hoặc trồng ở đời hiện tại, nhưng quả thì ở đời vị lai vì không cùng khởi nên gọi là dị thời.
“Thiện ác ba đời”: Nghiệp chủng, Thức chủng chỉ ở hiện tại, còn tác nghiệp chiêu cảm quả thì có ở cả ba đời.
“Như mây bầu trời”: là chỉ bày đối trị. Như bầu trời trong sáng, không thấy có đám mây nào, gặp đầy đủ duyên, kết thành dày đặc sấm mưa rào rạc. Chủng tử ở trong thức cũng vô hình vô tướng, gặp duyên giới địa thì khổ và lạc hiển hiện rõ ràng. Lại nữa, chủng tử của các uẩn có hay không có cũng như mây, uẩn theo chủng mà sinh, như mây cho nên là giả.
Tóm tắt bảy loại trên là: Quán thể và dụng của uẩn, quán về danh của thể dụng: sinh và diệt nhờ đối đãi. Hiện và nhân. Thật, thường đối trị, tên gọi của lãnh nạp, đoạn thường tự nhiên không, vô nhân.
Tiếp sau là phần hai: kết – Chỉ bày chánh quán. Văn chia làm ba
phần: Đây là phần một – Hạnh Bồ-tát.
Kinh: Này người thiện nam! Bồ-tát Ma-ha-tát trụ không phân biệt, không tướng bỉ thử, không Tướng Tự Tha, thường hành hóa lợi, không tướng hóa lợi.
Giải thích: Nói về chánh quán.
“Trụ không phân biệt”: là định tuệ tương ưng với không phân biệt. “không tướng bỉ thử”: do không phân biệt nên không có đây, kia.
“Không tướng tự tha”: do không có đây, kia, mình và người bình đẳng không có hai tướng.
“Thường hành hóa Lợi, không tướng hóa lợi”: Bồ-tát lợi vật là để thỏa tâm Bi của mình, tuy thường làm lợi cho người khác nhưng không trụ tướng.
Dưới đây là phần hai – Nêu hạnh ngu phu.
Kinh: Do đó nên biết, Ngu phu thức cấu, nhiễm chấp hư vọng, bị tướng trói buộc.
Giải thích: “Ngu phu”: Kinh xưa viết là Ngu si, phàm phu, còn gọi là tiểu nhi phàm phu. Nay kinh mơí này lược bớt chỉ nói là Ngu phu. Ngu là vô trí.
“Thức cấu”: Vô thủy trần cấu vọng phân biệt nên gọi là Thức cấu.
“Nhiễm chấp hư vọng”: Là không thể quán sát uẩn, xứ, giới… như áo bị thấm ướt, bụi nhơ dính vào, nên bảo là nhiễm vướng, không hiểu rõ về chơn thật, cho nên bảo là hư vọng.
“Bị tướng trói buộc”: là bị trói buộc do tướng của pháp hư vọng trói buộc. Như Luận Hiển dương quyển mười chín nói: Sợi dây tướng trói buộc chúng sanh cũng là do trói buộc thô trọng phải tu song song chỉ quán mới đắc câu giải thoát. Do không hiểu cảnh chỉ là tự tâm. kiến bị tướng câu thúc, cho nên bảo là tướng trói buộc.
Tiếp theo là phần ba – kết – chỉ bày chánh quán
Kinh: Bồ-tát chiếu kiến, biết như huyễn sĩ, không có thể tướng, chỉ như không hoa.
Giải thích: “Bồ-tát chiếu kiến…” Chư Bồ-tát trụ vô phân biệt, chiếu kiến hữu vi, đạt như huyễn sĩ, không có thể tướng.
“Chỉ như không hoa”: là nói về không có “Thể”. Mắt bị nhặm thì thấy hoa, không bị nhặm thì thấy không có hoa. Cùng một chỗ, cùng một thời mà thấy và không thấy khác nhau. Chiếu uẩn, xứ, giới, có, không cũng vậy.
Kế đến là phần ba – kết về chánh quán.
Kinh: Đó là Bồ-tát Ma-ha-tát, trụ lợi tự tha như thật quán sát.
Giải thích: Chư Bồ-tát có thể quán như trên là tu hai lợi, chánh quán sát.
Dưới đây là phần ba – Nghe pháp được ích.
Kinh: Khi thuyết giảng pháp ấy, trong hội, vô lượng đại chúng nhân Thiên có người đắc phục nhẫn, Không, Vô sinh nhẫn, Địa thứ nhất, Địa thứ hai cho đến Địa thứ mười. vô lượng Bồ-tát đắc Nhất Sinh bổ xứ.
Giải thích: Do nghe pháp mà mỗi vị đều được thăng tiến, như những vị ngoài kiếp thì đắc phục nhẫn, là ngôi vị Ba Hiền.
“Không, vô sinh nhẫn”: không là ba không và vô sinh nhẫn, Sự chung và riêng của nhẫn này như đã giải thích ở trên.
“Địa thứ nhất”: tức là Sơ Địa, cho đến thắng tiến tới Địa thứ mười.
“Nhất sinh bổ xứ”: Như Luận Du-già nói là Thân bổ xứ tôn quý nơi cõi Trời Tri Túc (Đâu Suất).
PHẨM THỨ TƯ: HAI ĐẾ
Đại ý nối tiếp: hai phẩm trước nói về nhân quả, phẩm này nương theo hai phẩm ấy nói chung về hai đế. Phẩm Quán Như Lai ở trên trong phần nói về thật tướng, đã lược nêu rõ về chơn, tục. Phầm này mở rộng phần văn trên.
Giải thích tên phẩm: Tên của phẩm này là hai đế: 1. Thế đế; 2. Chân đế. Cảnh của hai Trí, vạn hạnh đều là tông, không và có đối nhau cho nên bảo là hai đế.
“Thế đế”: nghĩa là Thể của pháp hữu vi, từ duyên mà sinh, giả mà chẳng thật nên bảo là Thế đế.
“Chân đế”: Thật tướng chơn như, bản tính thanh tịnh, thật mà chẳng giả, nên gọi là Chân đế.
Kinh nói là Thế Tục và Thắng nghĩa.
“Thế tục”: tiếng phạm là Tam-phật-lật-để, tiếng Hoa là nghĩa ẩn hiển. Ngài Hộ Pháp giải thích; Thế, là ẩn núp, nghĩa là có thể bị hủy hoại. Tục, là biển hiện, nghĩa là trôi theo dòng đời. Như nhà ảo thuật thắt gút chiếc khăn tay thành ra là con thỏ. Tướng hiện thì ẩn chơn.
“Thắng nghĩa”: kinh xưa viết là Đệ nhất nghĩa, Thắng là nghĩa Thù Thắng. nghĩa có hai loại: 1. Cảnh giới gọi là nghĩa; 2. Đạo lý gọi là nghĩa. Chơn lý gọi là nghĩa, thắng tức là nghĩa. hai trí, cảnh y tha và viên thành nên nghĩa của thắng trí. Đó là giải thích theo y chủ.
“Đế”: là thật. Sự như thật sự, lý như thật lý. Lý và sự đều không sai trái, gọi là đế. Như Luận Du-già nói: đế có hai nghĩa: 1. Như tướng đã thuyết, không lìa bỏ; 2. Do quán tướng đó nên đạt đến cứu cánh, gọi là đế.
Nói theo nhân thì như kinh Niết-bàn nói: Những điều bậc thượng trí biết gọi là thắng nghĩa. Những điều bậc trung trí biết gọi là thế tục, những điều cả hai Trí biết đều chung cả không và có.
Nói theo pháp thì: Pháp có hơn kém, cùng nhau đối đãi mà thành ra là chơn và tục, tổng nương theo năm pháp mà kiến lập nên bốn lớp: 1. Nhị đế giả thật: Chiếc bình, đoàn quân, rừng cây… giả là thế tục. Uẩn, xứ, giới… thật là thắng nghĩa; 2. Nhị đế lý sự: Sự pháp như các uẩn là thô, là thế tục. Đạo lý của bốn đế là Tế, là thắng nghĩa; 3. Nhị đế cạn sâu: An lập nghĩa bốn đế cạn là thế tục. Chơn như hai không sâu xa là thắng nghĩa. 4. Nhị đế thuyên chỉ: Chơn như hai “không” còn vướng diễn đạt, là thế tục. Nhất chơn pháp giới trừ bỏ diễn đạt là thắng nghĩa.
Một pháp đầu tiên là chỉ là tục, một pháp sau cùng chỉ là chơn, ba pháp ở giữa vừa chơn vừa tục. Luận Duy Thức quyển chín và Luận Hiển dương quyển sáu đều nói rất rõ. Nay ở trong kinh này, dựa theo cảnh và trí mà biện về có không, còn một, hai đến phần văn sẽ nêu đủ.
Phẩm thứ tư: như văn đã nêu.
Giải thích văn kinh: Chia làm ba phần chính: 1. Hỏi đáp phân biệt; 2. Chư Phật đồng thuyết; 3. Nghe pháp được ích. Trong phần một. Hỏi đáp phân biệt chia làm ba: 1. Hỏi đáp cảnh trí; 2. Hỏi đáp tu chứng; 3. Hỏi đáp lý sự. Còn được gọi là Nhị đế bất nhị, Văn tự bất nhị và Pháp môn bất nhị. Nơi phần một: Hỏi đáp cảnh trí, văn chia làm hai: 1. Vua Ba-tư-nặc hỏi; 2. Như lai chánh đáp. Trong phần hỏi lại chia làm ba: Dưới đây là phần một: Hỏi về đế có, không.
Kinh: Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc bạch Phật: “Thế Tôn! Trong Thắng nghĩa đế có thế tục đế không”.
Giải thích: Đây là hỏi về cảnh. Thắng nghĩa chơn thường là chủ, Thế tục sinh diệt như khách trụ, nên hỏi trong Thắng nghĩa có Thế đế không.
Tiếp theo là phần hai – hỏi về trí là một hay hai.
Kinh: Nếu nói không có thì Trí không nên có hai, nếu nói là có thì trí phải không nên là một.
Giải thích: “Nếu nói là không có…” Đây là dạng hỏi song song (có hoặc không).
Nếu nói trong Thắng nghĩa đế không có Tục đế thì Trí phải là không hai, sao lại nói là hai trí chơn và tục. Nếu nói là có thì Trí không phải là một, sao khi chơn trí chứng, hiểu lại không có hai. Theo người mà biện minh phàm phu mê chơn, trí chỉ duyên với tục. Lý sự hai thừa duyên, định tán riêng biệt. Bồ-tát ở vị địa, thật trí chỉ chơn. Địa thứ năm trở về trước thì căn bản chứng chơn, sau đó thì đạt tục, không hiện hành cùng lúc hai Trí của chân đế và Tục đế. Địa thứ tám trở lên mới đạt đến cảnh giới của chư Phật, tuy có hai Trí nhưng đều dung hợp. Tóm lại, đều nương theo nghĩa đó mà ứng đáp cho người hỏi.
Tiếp đến là phần ba: kết luận song song như thế nào.
Kinh: Nghĩa một, hai, sự đó thế nào?
Giải thích: “Nghĩa một hai…”: Là cảnh một trí hai, cảnh hai trí một. Song kết song song cảnh và trí, việc đó như thế nào.
Từ đây là phần hai- Như Lai chánh đáp. Văn chia làm hai. 1. Đáp về Nhị đế; 2. Nói về chánh trí.
Trong phần một văn lại chia làm hai:
-Văn xuôi lược đáp.
-Thuyết kệ diễn rộng.
Trong phần một lại chia làm ba phần: Đây là phần một – Xưa kia đã hỏi.
Kinh: Phật nói: Đại vương! Ông từ thời quá khứ, trong pháp của Phật Long Quang Vương đã hỏi nghĩa này.
Giải thích: Nêu câu hỏi xưa kia. Tiếp theo là phần hai – lược đáp về một hai.
Kinh: Ta nay không nói, ông nay không nghe, không nói không nghe ấy tức gọi là nghĩa một nghĩa hai.
Giải thích: “Ta nay không nói…” Như Bản ký nói: Có nói có nghe tức là không một, không nói không nghe tức là không hai. Không một không hai tức là Đệ-nhất-nghĩa-đế. Xưa Giải thích đoạn văn này có hai cách:
1. Không một tức là Nhị đế Chơn và Tục. Không hai tức là Đệnhất-nghĩa-đế, chẳng phải chân, chẳng phải tục nên là Đệ-nhất-nghĩa đế.
2. Không một tức chính là nghĩa sai biệt của hai đế. Không hai, tức chính là nghĩa không sai biệt của hai đế. Chẳng phải ngoài hai đế còn có đế thứ ba. Nay lại giải thích: Thấy có nói nghe vì là tục, nên không một. Không có Tướng nói nghe, vì là Chơn, nên không hai. Tức là tướng mà không có tướng (tức tướng vô tướng) là nói rõ một hai.
Tiếp đến là phần ba – Bảo hãy lắng nghe.
Kinh: Ông nay lắng nghe, Ta sẽ vì ông thuyết.
Giải thích: Bảo hãy nghe cho kỹ. Sau đây là phần hai – Thuyết kệ rộng tỏ. Trong đó chia làm hai: Đây là phần một – Đức Thế Tôn thuyết kệ.
Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn liền thuyết kệ.
Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần hai. Thuyết kệ diễn rộng. Trong đó có hai phần: 1. Nói riêng hai đế; 2. Kết: khuyên chánh quán.
Nơi phần một chia làm ba:
-Thể của Nhị đế.
-Đối nói cảnh trí.
-Dụ nói Tục đế.
Trong phần một, văn lại chia làm ba: 1. Thể của hai đế.
Kinh:
Thắng nghĩa đế vô tướng,
Thể chẳng tự tha tác
Nhân duyên như huyển có
Cũng chẳng tự tha tác.
Giải thích: Nửa trên nói về chơn. Nửa dưới nói về tục.
“Thắng nghĩa đế vô tướng”: là nói Thể của chân đế. Không có mười tướng kia, nên bảo là vô tướng. Thể thắng trí chứng được tức là Chơn thường, nên bảo là Thắng nghĩa.
“Thể chẳng tự tha tác”: là ngăn chận ngã và ngã sở. Thể chẳng phải là ngã tác, nên chẳng phải tự tác, chẳng phải ngã sở chẳng phải tha tác. Ngã và ngã sở đều không, chẳng phải chúng tạo tác.
“Nhân duyên như huyễn có”: là nói thể của Tục đế. Pháp thuộc sắc tâm, chủng tử làm nhân, hoặc làm duyên tương tự. Hoặc nhân tức duyên, sinh các hữu vi, như là huyễn có.
“Cũng chẳng phải tự tha tác”: Như kinh Đại phẩm nói: Mười hai nhân duyên là ai làm ra? Phật nói: chẳng phải Phật làm, chẳng phải Bồtát làm, cho đến chẳng phải tất cả người làm. Cho nên pháp nhân duyên không có tự tha tác. Lại nữa, như luận đã nói: các pháp hữu vi, không từ tự nó sinh, nên chẳng phải tác, không theo cái khác sinh ra, nên chẳng phải tha tác. Như Thắng nghĩa trên, do đó lược nói là “cũng chẳng phải tha tác”. Nếu nói cho đủ thì phải là: “Cũng không cùng tạo tác, cũng không thể không nhân tạo tác”nghĩa là, pháp hữu vi hiện, chủng huân sinh, không có ngã, ngã sở, như là huyễn có (có giả tạo).
Tiếp theo là phần hai – Nêu thể có không.
Kinh:
Pháp tính vốn vô tính.
Thắng nghĩa đế không như
Các hữu pháp huyễn có
Ba giả tập giả có.
Giải thích: “Pháp tính vốn vô tính”: Tính chơn thật của các pháp hữu vi, thường tự nó tịch diệt, vô tướng làm tính.
“Thắng nghĩa đế Không Như”: Tức là pháp tính đó bất sinh bất diệt, thường không biến đổi, nên bảo là Không, Như.
“Các hữu pháp huyễn có”: Ba hữu, không phải là một, nên gọi là các hữu. Nói về Thể thì Sắc tâm các uẩn gọi là các hữu. Vì không thật, cho nên bảo là huyễn có.
“Ba giả tập giả có”: Do pháp giả, Thọ giả, danh giả, tập hợp mà có, nhưng không thật, gọi là giả có.
Kế đến là phần ba – Kết: nói về không có.
Kinh:
Vô vô đế thật vô
Tịch diệt thắng nghĩa không
Chư pháp nhân duyên có
Nghĩa có không như vậy.
Giải thích: “Vô vô đế thật vô”: Ngã và pháp đều không có, nên bảo là vô vô. Thật tướng thì chơn vô, gọi là đế thật vô.
“Tịch diệt Thắng nghĩa Không”: Tướng hoặc vĩnh viễn diệt nên bảo là tịch diệt, là đế của Thánh trí, kết về không thù thắng.
“Các pháp nhân duyên có”: Các hữu trên có nhân duyên tương tự nên gọi là có.
“Nghĩa có không như vậy”: kết luận không của Thắng nghĩa. “Không” của trí chứng. Kết luận có của thế tục, có của Nghĩa như vậy.
Dưới đây là phần hai – Đối nói cảnh trí. Trong đó chia làm ba: 1. Nói về thể một hai.
Kinh:
Có không vốn tự hai
Thí như hai sừng bò
Chiếu giải thấy “không” hai
Nhị đế thường chẳng tức.
Giải thích: “Có không vốn tự hai”: là nói về Thể của đế. Tục đế là có, chân đế là không, nên bảo là có không. Từ xưa đến nay, Tính và tướng cùng nương giữ nhau, thể chẳng tức là nhau, chẳng rời lìa nhau, nên bảo là vốn tự hai.
“Thí như hai sừng bò”: nghĩa là, Chơn và Tục đế nếu duyên với tục trí thì thấy là hai.
“Hiểu rõ thấy “không” hai”: Chơn trí đó lìa tướng dứt tuyệt đối đãi, chứng không hai.
“Hai đế thường chẳng tức”: nghĩa là do chứng hiểu không có hai tướng. Nếu chơn và Tục có hai thì có thể tức là nhau. Chân đế và Tục đế không hai thì không có gì tức là nhau.
Tiếp theo là phần hai – Dứt bỏ một hai.
Kinh:
Hiểu tâm thấy “không” hai
Cầu hai không thể được.
Chẳng cho hai đế một
Một cũng không thể được.
Giải thích: “Hiểu tâm thấy “không” hai”: là Trí chứng.
“Cầu hai không thể được”: Đó là dứt bỏ hai. Trí hiển hiện chứng Như, cầu hai tướng chân đế và tục đế riêng biệt thì không thể được.
“Chẳng cho hai đế một”: Một cũng không thể được; đó là dứt bỏ một, chẳng phải nói chứng như không hai mà có một, cầu tướng một đó cũng không thể được.
Tiếp đến là phần ba – Kết luận một hai.
Kinh:
Với giải thường tự một
Với đế thường tự hai
Thấu đạt một hai đó
Chơn nhập Thắng nghĩa đế.
Giải thích: Nói rõ cảnh và trí là một hay hai trong câu hỏi trước.
“Với hiểu thường tự một”: Vô phân biệt trí hiểu rõ về tướng và vô tướng là thường một.
“Với đế thường tự hai”: Đối với chân đế và tục đế không cho là hiểu một, tức là không hai.
“Thấu đạt một hai đó”: Thấu đạt Trí đế: vì tục nên không là một. Chơn nên không là hai.
“Thật vào Thắng nghĩa đế”: Chơn, là trí chứng. Thắng nghĩa đế; là liễu đạt trrí đế không nhất nhất định là có một hay hai, tức là thật chứng.
Tiếp sau là phần ba – Dụ tỏ Thế đế, trong đó chia làm hai phần:
1. Dụ tỏ Thế đế.
Kinh:
Thế đế huyễn hóa khởi. Thí như Hoa hư không Như bóng, như sợi lông Nhân duyên mà huyễn có.
Giải thích: “Thế đế huyễn hóa khởi? Nói chung hữu vi huyễn hóa dấu khởi, hai câu tiếp là nêu riêng ba thí dụ.
“Thí như hoa hư không”: Là dụ cho vọng có, là vì tính kế chấp, không có “thể” thật.
“Như bóng”: Bóng trong nước, gương… đều nhờ vật chất mà sinh, dụ cho tính y tha, nghiệp duyên mà hiện.
“Như sợi lông”: Là hợp phần nói trước. Do bị đau mắt mà có khác, nên thấy có sợi lông. Nếu không có bệnh mắt thì cả hai đều không có.
“Nhân duyên mà huyễn có”: kết luận pháp Thế đế do tựa nhân duyên, tương tự, giống như huyễn có.
Dưới đây là phần hai – Nêu huyễn.
Kinh:
Huyễn hóa thấy huyễn hóa
Ngu phu gọi huyễn đế
Huyễn Sư thấy huyễn pháp
Đế, huyễn đều là không.
Giải thích: “Huyễn hóa thấy huyễn hóa”: là nói về chủ thể thấy và đối tượng được thấy của các thế gian đều là không thật, đó là huyễn hóa.
“Ngu phu gọi huyễn thật”: Nghĩa là: phàm phu ngu si không có mắt tuệ, thường ở trong huyễn, gọi là huyễn đế.
“Huyễn sư thấy huyễn pháp”: Nghĩa là các Bồ-tát chứng đắc thân này như huyễn, thấy Thế đế huyễn ảo không thật.
“Đế huyễn đều là không”: Hiểu rõ người và pháp là rỗng không, thảy đều không có.
Dưới đây là phần hai – Kết – khuyên chánh quán.
Kinh:
Nếu hiểu pháp như thế
Tức hiểu nghĩa một hai
Đối với tất cả pháp,
Nên quán sát như vậy.
Giải thích: Hai câu trước là kết luận đoạn văn trên. Hiểu rõ được các Tính, tướng, Cảnh, Trí như trên là hiểu rõ nghĩa một và hai. hai câu dưới là khuyên bảo chánh quán, Tính và tướng, chơn và tục không lìa nhau, nên quán như vậy.
Tiếp theo là phần hai – Nói về chánh trí, trong đó có ba phần:
1. Cảnh Trí không; 2. Mê ngộ không; 3. Nhiễm Tịnh không. Trong phần cảnh Trí, văn có bốn phần: Đây là phần một – Nêu cảnh trí không.
Kinh: Đại vương! Bồ-tát Ma-ha-tát trụ nơi thắng nghĩa đế, hóa độ chư Hữu tình, Phật và hữu tình một mà không hai.
Giải thích: Nói về quán chiếu, đồng với phần văn sau của phẩm Như Lai về thật tướng. Trên là đối hai đế, biện minh Trí một hai. Đây là nói về Thể của Trí hiểu rõ chúng đều là không.
“Bồ-tát Ma-ha-tát”: là Người hành quán.
“Trụ Thắng nghĩa đế”: là Hành Tương ưng với Trí. Đó là tự lợi.
“Hóa độ các hữu Tình”: là hành lợi tha. “Phật và hữu tình, là một mà không hai”: Đây có hai nghĩa: 1. Chơn lý không hai. Vì tính bình đẳng; 2. Sự tướng không hai. Vô phân biệt trí, không giữ lấy hai tướng mà khởi phân biệt hơn kém. Như Kinh Duy-ma nói: Thọ nhận Anh Lạc thí cho người ăn xin thấp nhất, và phụng cúng cho Như Lai Nan Thắng, không có phân biệt… và pháp thí. Giống câu nói một mà không hai ở đây.
Tiếp đến là phần hai – trình hỏi nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì sao Phật và hữu tình là một không hai?.
Sau đây là phần ba – Giải thích cảnh, nói về không.
Kinh: Hữu tình, Bồ-đề, cả hai đều không.
Giải thích: “Hữu tình”: là chúng sinh do tâm bi hóa độ.
“Bồ-đề”: Là giác mà Trí mong cầu. Bồ-đề có hai loại: Tính Tịnh Bồ-đề, tức là Bản giác. Và vô Thượng Bồ-đề là cứu cánh Giác. Hai Bồđề này và chúng sinh được hóa độ, hiểu rõ đều bình đẳng, cả hai đều là không.
Dưới đây là phần bốn – Kết – kết luận cảnh, nói rõ không.
Kinh: Vì hữu tình không, đạt được ở Bồ-đề không. Vì Bồ-đề không đặt được ở hữu tình không.
Giải thích: “Vì hữu Tình không…”: Vì chúng sinh và Bồ-đề không, không có hai. Nghĩa là: Tính Tịnh Bồ-đề, cùng với tự và tha Bình Đẳng. Cả hai đều không là các pháp hữu tình không có tự tánh là “không”. Bồđề thanh tịnh, tính tịnh nên là không. Nói rõ tu hai Lợi, không có tướng của chủ thể và đối tượng nên dùng hai tính đó để nói rõ về không.
Tiếp theo là phần hai – Mê ngộ không. Văn chia làm bốn phần: 1. Nêu chư pháp không; 2. Trưng hỏi nguyên do; 3. Giải thích cảnh trí không; 4. Kết luận cảnh trí không.
Dưới đây là phần một – Nêu các pháp không.
Kinh: Vì tất cả pháp không không, cho nên không.
Giải thích: “Tất cả pháp”: Là Nhị đế, Sinh tử, Niết-bàn đều không.
“Không không cho nên không”: Chủ thể và đối tượng đều không, ngã và pháp đều không, nên bảo là không không. Hiểu rõ giải không tịch, nên bảo là không.
Kế đến là phần hai – Trưng hỏi nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì nguyên do gì những thứ kia đều không?
Tiếp sau là phần ba – Giải thích cảnh trí không.
Kinh: Bát-nhã vô tướng, Nhị đế đều không.
Giải thích: “Bát-nhã vô tướng”: Trí của chủ thể chiếu là không.
“Nhị đế đều không”: là sinh tử và Niết-bàn đều là không.
Sau đây là phần bốn: Kết luận cảnh Trí không. Văn có hai: Trí Nhân quả không.
Kinh: Nghĩa là từ vô minh đến Nhất-thiết-trí, không có tự tướng, không có tha tướng.
Giải thích: Nói về gốc và ngọn đều không. Đây có hai giải thích. Có thuyết nói: Mười hai duyên sinh vô thủy, từ vô minh, hành cho đến ngôi vị Nhất-thiết-trí sau cùng đều không có tướng Nhân, (người) nên gọi là không tự tướng. Không có tướng pháp, nên gọi là không có tha tướng. Lại không có Ngã. Ngã sở, hai thứ đó đều không, nên gọi là không có tự Tha tướng. Có thuyết nói: Từ vô thủy vô minh căn bản, thuận tự mà ngược tha, cho nên ngủ mê trong sinh tử, tỉnh mê trở về nguồn, ngược tự thuận Tha, đạt đến Nhất-thiết-trí. Mê và ngộ, Tự và Tha đều nương theo đối đãi mà lập. Hiểu rõ thì dứt tuyệt đối đãi vì chúng đều là không.
Tiếp theo là phần hai – Cảnh tính tướng không.
Kinh: Đối với thắng nghĩa đế, thấy không có gì là thấy, nếu có tu hành, cũng không chấp trước, Nếu không tu hành, cũng không chấp trước, phi hành chẳng phải không hành cũng không chấp trước, ở tất cả pháp đều không chấp trước.
Giải thích: “Đối với thắng nghĩa đế”: là nêu ra sở chứng.
“Thấy mà không có gì là thấy”: Vô phân biệt trí, soi rõ lý sự đều bình đẳng, tức là thấy mà không có gì là thấy.
“Nếu có tu hành cũng không chấp trước”: Nói về tất cả sự tu hành thuộc ngôi vị Ba Hiền, tuy chưa bỏ tướng, tu không phân biệt nhưng, ở trong các pháp không chấp trước, dấy khởi nhiễm chấp, nghĩa của các chữ “chấp trước”; ở sau cũng như vậy.
“Nếu không tu hành”: Nghĩa là, Trí căn bản ngầm hợp với chơn lý nhưng không có tướng của tu, gọi là không tu hành, chẳng phải là buông lung tản mạn không tu hành.
“Ở trong các pháp cũng không chấp trước”: Theo giải thích trên.
“Chẳng phải hành chẳng phải không hành” Nghĩa là: Hậu đắc Trí do có mang Tướng, chẳng phải là thân chứng Như, gọi là phi hành, hiểu rõ huyễn thì lợi lạc tức là chẳng phải không hành.
“Ở tất cả các pháp đều không chấp trước”: là đối với Lý và sự đều không chấp trước.
Dưới đây là phần ba – Nhiễm tịnh không. Văn chia làm ba phần. 1. Nêu ngôi vị Nhiễm tịnh; 2. Trưng hỏi nguyên do; 3. Giải thích Nhiễm tịnh không.
Đây là phần một – Nêu vị nhiễm tịnh
Kinh: Bồ-tát khi chưa thành Phật, lấy Bồ-đề làm phiền não.
Bồ-tát khi đã thành Phật, lấy phiền não làm Bồ-đề.
Giải thích: “Bồ-tát khi chưa thành Phật…”: Đây có hai nghĩa. Có thuyết nói: Phiền não và Bồ-đề có sự hơn kém nhau, như vị ở phàm thì phiền não hiện tăng, Bồ-đề chủng bị sút kém. Ở vị Thánh thì Bồ-đề hiện tăng, phiền não chủng sút kém. Ở trong ngôi vị trước thì nói là phiền não, ở nơi ngôi vị sau thì nói là Bồ-đề. Với thành và chưa thành, nói thành ra là hai. Có thuyết nói: Phiền não và Bồ-đề, tính của chúng là không hai khác. Ở ngôi vị tùy theo Nhiễm thì Tính Tịnh Bồ-đề động thành ra là phiền não. Ở ngôi vị Tính tịnh thì phiền não vọng diệt, tức là Bồ-đề. Nhiễm Tịnh tuy là khác nhau, nhưng tính của chúng thì không khác.
Tiếp đến là phần hai – Trưng hỏi nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Nhiễm và tịnh trái ngược nhau, sao lại không khác?
Tiếp theo là phần ba – Giải thích nhiễm tịnh không. Văn lại chia làm hai phần: 1. Nhiễm và Tịnh đều không.
Kinh: Đối với Đệ nhất nghĩa nên không có hai.
Giải thích: “Đối với Đệ nhất nghĩa…”: Nghĩa là trí chứng Như, phiền não và Bồ-đề đều chẳng thể đạt được, không có hai thể.
Kế đến là phần hai – Tướng đều không.
Kinh: Chư Phật, Như Lai và tất cả pháp đều là Như.
Giải thích: Do trí chứng lý, lý thì không hai. Do trí đạt sự, sự tướng đều không. Chư Phật và tất cả pháp đều Như.
Tiếp sau là phần hai – Hỏi đáp tu chứng. Văn chia làm hai phần: 1. Vua Ba-tư-nặc hỏi.
Kinh: Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Chư Phật, tất cả Bồ-tát ở mười phương vì sao không lìa văn tự mà hành thật tướng.
Giải thích: Hỏi về văn tự, giống với phần Quán chiếu thuộc phẩm Như Lai.
“Chư Phật mười phương”: là nói vị đã tu.
“Tất cả Bồ-tát”: là nói vị đang tu.
“Vì sao…”: Là hỏi pháp tu.
“Không lìa văn tự”: Sao lại không lìa.
“Mà hành thật tướng”: Tu tập như thế nào mà hành thật tướng.
Dưới đây là phần hai. Như Lai chánh đáp. Văn chia làm hai phần: 1.
Đáp riêng về tu hành; 2. Kết: Hộ trì các quả.
Trong phần một chia làm ba:
-Tướng văn tự.
-Thật tướng Tu.
-Dứt bỏ tướng văn tự.
Văn phần một lại chia làm ba: 1. Tổng nêu văn tự:
Kinh: Phật nói: Đại vương! Văn tự là: Khế kinh, Ứng tụng, ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Duyên khởi, Thí dụ, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Hy hữu, Luận nghị.
Giải thích: “Phật nói…” là nhắc câu hỏi trước.
“Là: khế kinh…” là liệt kê tên. Người là chủ thể thuyết có năm vị, như trước đã nói. Số giáo pháp thì vô số, tựu trung lại chỉ có mười haophần giáo đó. Tên gọi theo tiếng phạm là: Tu-đa-la, Kỳ Dạ, Hòa già-la-na, Già-tha, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, A-ba-đà-na, Y-đế-Việt-đa-già, Xà-đa-già, Tỳ-Phật-lược. A-phù-đà-đạt-ma, Ưu-ba-đề-xá. Phiên dịch lại tiếng Hoa như trên đã kê.
Tiếp theo là phần hai – Đều là Thật tướng.
Kinh: Toàn bộ các thứ tuyên thuyết, âm thanh, ngữ ngôn, văn tự, chương cú, tất cả đều Như, không có gì không phải thật tướng.
Giải thích: Đây là nêu ra Thể. “Toàn bộ tuyên thuyết”: là nêu những điều đã thuyết.
“Âm thanh, ngữ ngôn”: Các thuyết về lời Phật dạy lấy thanh làm thể, là thuộc về Sắc uẩn, tức là câu này.
“Văn tự chương cú”: Các thuyết về lời Phật dạy lấy thanh làm Thể, là hành uẩn thâu nhiếp, tức là câu này.
“Tất cả đều Như, không gì không phải thật tướng” Nghĩa là: khế kinh… năng thuyên, sở thuyên đều gồm thâu sự trở về Như, không gì chẳng phải là thật tướng. Lại nữa, Phật thuyết pháp chính là để hiển Như. Lìa ngoài Như, càng không có một chữ cho nên âm thanh và văn tự thảy đều là Như.
Sau đây là phần ba – Kết luận ngược lại chẳng phải Như.
Kinh: Nếu chấp giữ lấy tướng văn tự, tức chẳng phải thật tướng.
Giải thích: “Nếu chấp giữ lấy tướng văn tự…” là chấp trước. Nghĩa là: không phân biệt thì không chấp trước tướng văn tự, nếu tu thật tướng mà còn chấp giữ lấy tướng văn tự tức chẳng phải Thật tướng.
Dưới đây là phần hai – Tu Thật tướng. Trong đó có hai phần: 1.
Nương theo văn tự mà tu; 2. Nói về Phật mẹ trí. Trong phần một lại chia làm ba: 1. Như văn tự tu.
Kinh: Đại vương! Người tu thật tướng, như tu văn tự.
Giải thích: “Người tu thật tướng”: là nhắc lại người chủ thể tu “Như tu văn tự”: là chỉ rõ pháp sở tu.
Văn tự được thuyết giảng lý và sự đều Như, như văn tự mà tu thì đắc thật tướng.
Tiếp theo là phần hai – Mẹ của trí.
Kinh: Thật tướng tức là mẹ của trí tuệ chư Phật, là mẹ căn bản trí của tất cả hữu tình.
Giải thích: Câu trước là nói về chư Phật đã tu thật tướng.
Câu sau là hữu tình hiện đang tu. nghĩa là văn tự thật tướng trong khế kinh… là nêu giảng về sự và lý. Sự thì có đoạn tu, tu thì có vạn hạnh, vạn hạnh tuy có khác nhau nhưng thật tướng thì đồng một thể cho nên bảo Thật tướng là mẹ trí tuệ của chư Phật.
“Mẹ của trí Hữu tình”: Nghĩa là chư Hữu tình, với thật tướng bình đẳng, nghe danh mà tín hiểu, tức là căn bản là mẹ. Lại nữa, Thật tướng tức là bản giác, do nhờ Bản giác mà phát sanh chánh trí, đạt đến cứu cánh giác, Nhất-thiết-trí tròn đủ Bản giác tức là mẹ trí tuệ của chư Phật mẹ của trí hữu tình là hữu tình do bổn giác làm gốc cho các hành, cho nên lấy Bản giác làm mẹ của trí.
Tiếp đến là phần ba – Kết: Làm Trí Thể.
Kinh: Đó gọi là Thể của Nhất-thiết-trí.
Giải thích: Tức Thật tướng đó làm Thể của trí.
Tiếp sau là phần hai – mẹ trí của Phật. Văn chia làm ba: 1. Nói về Mẹ trí tuệ của Phật.
Kinh: Chư Phật chưa thành Phật và Phật hiện tại là Mẹ trí. Chư Phật đã thành Phật tức là Nhất-thiết-trí, chưa đắc là tính, đã đắc là Trí.
Giải thích: “Chư Phật chưa thành Phật”: là đang ở tại Nhân.
“Và Phật hiện tại làm Mẹ trí”. Nghĩa là: thật tướng trên nói tức chính là Bản giác. Bản giác trong Nhân, bị vô minh che lấp, đối với sau sẽ là quả ắt là chánh trí viên mãn, là nhân trí cho chính Phật hiện tại. Như hạt châu Như ý, tạm thời bị nhơ nhớp, hết nhơ nhớp thì thể tròn đủ, nói cái đầu tiên là mẹ.
“Chư Phật đã thành Phật: tức là Nhất-thiết-trí”: là nói về quả đức viên mãn, Giác ngộ, hiểu rõ viễn mãn, tột cùng tức là Trí.
“Chưa đắc là Tính, đã đắc là Trí”: là nói về nhân và quả. Trong nhân bị chướng che phủ thì làm Phật tính. Khi quả đức hiển hiện thì gọi là Nhất-thiết-trí.
Dưới đây là phần hai – Tính ba thừa.
Kinh: Ba thừa Bát-nhã, chẳng sinh chẳng diệt, tự tính thường trụ.
Giải thích: Nói “Ba thừa”: là Người thuộc ba thừa.
Nói “Bát-nhã”: là Thật tướng…
“Chẳng sinh chẳng diệt”: là nói thể là thường.
“Tự tính thường trụ”: nghĩa là Thật tướng, Thể chẳng sinh chẳng diệt, không biến đổi, tuy nơi ba Thừa chứng hiểu khác nhau, nhưng luận về thể của trí thì không khác.
Tiếp theo là phần ba – Nói chung về tính giác.
Kinh: Đây là tính giác của tất cả hữu tình.
Giải thích: Chẳng riêng chư Phật và ba thừa, mà tất cả hữu tình chẳng kể lớn nhỏ, đều lấy thật tướng bình đẳng làm tính giác.
Tiếp theo là phần ba – Dứt bỏ Tướng văn tự. Văn chia làm ba: 1. Dứt bỏ tướng văn tự.
Kinh: Nếu Bồ-tát không chấp trước văn tự, không lìa bỏ văn tự, không tướng văn tự, chẳng phải không có văn tự.
Giải thích: “Hoặc Bồ-tát”: là nói người tu hành.
“Không chấp trước văn tự”: Dứt Như là chấp.
“Không lìa văn tự”: là không nên bác bỏ là không.
“Không tướng văn tự”: là không nên trụ nơi tướng
“Chẳng phải không có tự”: là lìa phân biệt, như văn tự mà tu mỗi một văn tự đều đắc trí thật tướng giải thoát.
Đầu tiên là lìa chấp có, tiếp đó là lìa bác bỏ không, tiếp nữa là không trụ tướng, sau cùng là thuận giải thoát.
Tiếp đến là phần hai – Dứt bỏ tướng tu hành.
Kinh: Thường tu như vậy, không thấy tướng tu. Đó tức gọi là người tu văn tự mà có thể chứng đắc với chơn Tính Bát-nhã.
Giải thích: Câu đầu là dứt bỏ Tướng tu hành, hai câu tiếp là thuận theo văn mà tu, câu sau là đắc Tính Bát-nhã.
Tiếp sau là phần ba – Kết luận: Tu Bát-nhã.
Kinh: Đó là Bát-nhã Ba-la-mật đa.
Giải thích: Người có thể như trên, trí tùy thuận văn tự mà chứng Thật tướng. Đó tức gọi là đến bờ giác ngộ.
Dưới đây là phần hai – kết về Hộ trì quả…
Kinh: Đại vương! Bồ-tát Ma-ha-tát, Hộ trì quả Phật, Hộ hạnh Thập địa, Hộ hóa hữu tình là như thế.
Giải thích: Đoạn văn này là kết về hai phẩm Quả, Nhân bên trên,
hiển bày cái riêng, nương theo cái chung, làm sáng tỏ thù thắng này, không có tu tập điên đảo tức là hộ quốc.
Tiếp theo là phần ba – Hỏi đáp về lý và sự. Văn chia làm năm phần: 1. Vua Ba-tư-nặc hỏi; 2. Thế Tôn tổng đáp; 3. Trưng hỏi nguyên do; 4. Giải thích về một và nhiều; 5. Kết luận: Chẳng phải một hai. Đây là phần một – Vua Ba-tư-nặc hỏi.
Kinh: Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Chơn Tính là một, hữu Tình phẩm loài căn hành thì vô lượng thì pháp Môn là một hay là vô lượng?
Giải thích: “Chơn tính là một”: nêu cái Lý đã chứng, chơn Như pháp Tính, Thể là một.
Nói “hữu tình”: là chung cả các Thánh, phàm, tất cả Hữu tình.
Nói “phẩm loại”: là Ba Thừa trong Thánh, sáu cõi trong phàm. Vả lại, các loài trong cõi người đã là vô số, huống nữa là trong các cõi giới, thú khác, ai mà lường được.
Nói “căn hành”: có ba loại, căn thì có thượng, trung, hạ, hành thì có đốn, tiệm, lợi, độn khác nhau.
Nói “vô lượng”: là chung cả bốn loại trên: 1. Hữu tình; 2. Phẩm loại; 3. Căn; 4. hành. Từ rộng đến hẹp đều là vô lượng là nêu lên số nhiều.
“Pháp môn là một hay là vô lượng?” Là phát khởi hai câu hỏi. Pháp Bát-nhã mà Như Lai đã thuyết là như pháp môn Chơn Tính như, là một hay là như Hữu pháp môn tình, là vô lượng?.
Tiếp đến là phần hai – Như lai tổng đáp.
Kinh: Phật nói: Đại vương! pháp Môn chẳng phải một, cũng chẳng phải vô lượng.
Giải thích: “Pháp môn chẳng phải một”: Phật đối đúng căn, theo bệnh cho thuốc, chỉ một âm diễn thuyết, tùy theo loài, mỗi loài đều hiểu rõ cho nên chẳng phải một.
“Cũng chẳng phải vô lượng”: Dạy bảo đúng bệnh, tuy nhiều như số trần sa, theo lý đã chứng thì chẳng phải là vô lượng. Lại lý sở chứng căn cứ ở tâm hữu tình, trong mỗi một môn đều đạt giải thoát, cho nên chẳng phải một. Hữu tình cho đến cuối cùng thì không có hạnh gì là không tu, không có chướng gì là không hết, đạt đến vô thượng giác, quả Phật viên mãn nên, chẳng phải vô lượng.
Tiếp đến là phần ba – Nêu hỏi chung về nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì nguyên do gì mà chẳng nhất định là một hay nhiều?.
Dưới đây là phần bốn – Giải thích riêng về một và nhiều. Văn chia làm hai phần: 1. Pháp một, nhiều; 2. Đế một, hai.
Trong phần một lại có hai: 1. Pháp môn nhiều.
Kinh: Do các hữu tình, sắc pháp, tâm pháp, tướng năm thủ uẩn Ngã nhân, tri kiến, nhiều loại căn hành, phẩm loại vô biên nên pháp môn tùy thuận theo căn cũng có vô lượng.
Giải thích: Nêu rõ chẳng phải một.
“Do các hữu tình”: là tổng nêu về loại.
Nói “Sắc pháp”: là có Sắc sai biệt trong Sắc giới. Nói “Tâm pháp”: là tâm khác nhau trong Ba cõi.
“Tướng năm thủ uẩn”: là hợp nói về Sắc và tâm. “Thủ” nghĩa là:
phiền não, chấp trước sinh tử, nên gọi là Thủ. Nói “Thủ uẩn”: Là uẩn từ thủ sinh nên gọi là Thủ uẩn, theo từ nhân mà đặt tên, như gọi lửa, cỏ, lửa trấu. Hoặc là uẩn sinh ra thủ, nên gọi là Thủ uẩn, theo từ Quả mà đặt tên, như cây hoa quả. Hoặc là uẩn thuộc Thủ, nên gọi là Thủ uẩn, theo hệ thuộc mà đặt tên, như quan của đế vương. Sắc tâm thuộc ba cõi đều gọi là thủ uẩn.
“Ngã Nhân tri kiến”: là vọng đảo.
“Nhiều loại căn hành, phẩm loại vô biên”: Như trên đã rõ.
“Pháp môn tùy thuận theo căn cũng có vô lượng”: Cho thuốc ứng với bệnh, các giáo vô số, gọi là tùy căn cũng vô lượng.
Tiếp theo là phần hai – Nêu chẳng phải vô lượng.
Kinh: Tính các pháp đó, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng mà chẳng phải vô lượng.
Giải thích: Nêu rõ là một. “Tính Các pháp đó”: tức là Thật tính.
Nói “chẳng phải tướng”: Là chẳng phải mười tướng.
“Phi vô tướng”: do Trí chứng, cho nên chẳng phải hoàn toàn không có như sừng thỏ.
“Mà chẳng phải vô lượng”: Tùy thuận chứng tuy là nhiều, nhưng lý giải thoát là một Tướng một vị, chẳng phải là vô lượng.
Tiếp nữa là phần hai – đế một hai. Văn lại chia làm ba: 1. Thấy một hai.
Kinh: Hoặc Bồ-tát tùy thuận các hữu tình mà thấy là hai, đó tức là không thấy nghĩa của một, hai.
Giải thích: “Hoặc Bồ-tát…” Nghĩa là: Hoặc Bồ-tát không thể dứt mất tướng, thấy là không có gì thấy, mà khởi phân biệt, thấy Thật tướng là một, thấy hữu tình là nhiều, nên bảo là “hai”.
“Đó tức là không thấy nghĩa của một, hai”: Tức chính là chấp giữ tướng, vọng thấy một, hai không thể hiểu, ngộ được. Chơn không trái với tục, tùy thuận tu chứng nhiều, môn giải thoát nhiều, Tục không trái với chơn, Thể của Thật tướng là một, vạn hạnh quy về một, đó là nghĩa của một, hai của chơn, Tục.
Tiếp theo là phần hai – Giải thích về Thắng nghĩa đế.
Kinh: Mới biết một hai, mà chẳng một chẳng hai, tức là Thắng nghĩa đế.
Giải thích: “Mới biết một hai”: Là hiểu rõ một và hai nói trên.
“Chẳng phải một chẳng phải hai”: Là hiểu rõ về Chơn chẳng phải là một nhất định, hiểu rõ tục chẳng phải là thọ nhận hai. Tỏ ngộ như trên tức là Thắng nghĩa đế không phân biệt.
Sau đây là phần ba – Giải thích Thế tục đế.
Kinh: Chấp giữ một hai, hoặc có hoặc không, tức Thế tục đế.
Giải thích: “Chấp giữ một, hai”: Giữ lấy tướng, chấp trước, thấy một nhất định là một, thấy hai nhất định là hai.
“Hoặc có hoặc không”: Chấp tục nhất định có chấp Thắng nghĩa nhất định là không đây đều là vọng tình thế tục đế.
Dưới đây là phần năm: Kết, chẳng phải một chẳng phải hai.
Kinh: Do đó pháp môn chẳng phải một chẳng hai.
Giải thích: “Do đó,…”: Có thể dùng tâm rỗng lặng mà dung hòa diệu chỉ ấy. Do đó, pháp môn chẳng phải một chẳng phải hai, phá hữu tình chấp từ ba môn Môn trên, cảnh Trí văn tự và pháp Môn, do nương theo nói Nghe, như văn tự mà tu, ngộ tỏ pháp Môn là chẳng một chẳng hai, từ cạn đến sâu, nói về hai đế.
Từ đây là phần hai- Phật đồng thuyết, trong đó chia làm ba phần: 1. Phật đồng thuyết; 2. Công đức nhiều; 3. Thọ trì thù thắng, Nơi phần một. Văn chia làm hai phần: 1. Nêu Phật đồng thuyết.
Kinh: Đại vương! tất cả chư Phật thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa, Ta nay thuyết Bát-nhã Ba-la-mật Đa, không hai không khác.
Giải thích: Là hiển bày sự cùng thuyết như nhau.
Tiếp theo là phần hai- Thọ Trì,…
Kinh: Đại chúng các ông, thọ trì đọc tụng, như thuyết tu hành, tức là thọ trì pháp của chư Phật.
Giải thích:1. Thọ trì; 2. Đọc; 3. Tụng; 4. Thực hành như thuyết. Đó là bốn pháp hành, tức là thọ trì tất cả các pháp của chư Phật đã thuyết giảng chẳng phải là pháp chỉ riêng một mình đức Thế Tôn thuyết.
Từ đây là phần hai – Công đức nhiều. Văn chia làm ba phần. 1. Nêu công đức nhiều; 2. Nhiều Phật cùng thuyết; 3. Ít so với nhiều. Đây là phần một – Nêu công đức nhiều.
Kinh: Đại vương! Bát-nhã Ba-la-mật-đa này công đức vô lượng.
Giải thích: “Bát-nhã…”: Năng thuyên và sở thuyên đều gồm trong cả bộ này, gọi chung là Bát-nhã. Lại không chỉ vậy, vô số giáo pháp đều gọi là Bát-nhã.
“Công đức vô lượng”: Công đức của Bát-nhã giống như hư không, không thể lường được.
Tiếp theo là phần hai – Nhiều Phật cùng thuyết, văn lại chia làm hai: 1. Nhiều chủ thể thuyết.
Kinh: Nếu có chư Phật nhiều như số cát nơi sông Hằng, mỗi một vị Phật ấy giáo hóa vô lượng hữu tình không thể nói hết, mỗi một hữu tình đó điều đắc thành Phật, chư Phật ấy… lại giáo hóa vô lượng hữu tình không thể nói hết, cũng đều thành Phật.
Giải thích: Đoạn văn trên là ba lớp dùng dụ mà nói, toàn bộ số lượng chư Phật thì chỉ có Phật mới biết được, là hiển bày nhiều Chủ thể thuyết giảng.
Tiếp đến là phần hai – Nhiều đối tượng được thuyết.
Kinh: Bát-nhã Ba-la-mật đa do số chư Phật ấy thuyết giảng có vô lượng Na-du-đa ức kệ, không thể tính kể nói không thể nào hết.
Giải thích: “Bát-nhã,…”: mỗi vị Phật đều thuyết Bát-nhã.
“Có vô lượng..” nhiều đối tượng được thuyết.
Kế tiếp là phần ba – Lấy ít so với nhiều.
Kinh: Ở trong những kệ ấy lấy một kệ chia làm ngàn phần, lại từ trong ngàn phần đó mà thuyết một phần câu nghĩa thì công đức đã vô cùng tận, huống nữa là tất cả công đức của vô lượng câu nghĩa như vậy.
Giải thích: “Ở trong…” là lấy một kệ chia làm ngàn phần.
“Lại từ…”: là nói thuyết một phần đã là vô cùng tận.
“Huống nữa là…”: Nhiều Phật thuyết vô lượng câu nghĩa, thì tất cả công đức đó khó mà lường nổi.
Dưới đây là phần ba – Thọ trì thù thắng. Văn chia làm hai phần: 1.
Thọ trì thù thắng; 2. Sẽ đắc Bồ-đề.
Phần một lại chia làm hai: 1. Thọ trì thù thắng.
Kinh: Nếu người có thể khởi một niệm tịnh tín thì người ấy tức siêu vượt trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp sinh tử khổ nạn.
Giải thích: Nêu rõ một Niệm tin đã vượt qua nhiều kiếp khổ.
Tiếp theo là phần hai – Ngang đồng chư Phật.
Kinh: Huống nữa là biên chép, thọ trì, đọc tụng, vì người giải nói, công đức đạt được so với tất cả chư Phật ở mười phương đều ngang bằng không khác.
Giải thích: “Huống nữa…”: Là nói về thọ trì, giải nói là thù Thắng.
Tiếp nữa là phần hai – Sẽ đắc Bồ-đề.
Kinh: Nên biết người đó, được chư Phật hộ niệm, không bao lâu sẽ thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Giải thích: “Chư Phật hộ niệm”: là hiển bày pháp thù thắng, sẽ đắc Bồ-đề pháp lực tu hành.
Dưới đây là phần ba – Nghe pháp được ích.
Kinh: Khi thuyết giảng pháp này, có mười ức người, đắc ba không nhẫn, trăm vạn ức người, đắc đại không nhẫn, vô lượng Bồ-tát, đắc trụ Địa thứ mười.
Giải thích: Theo Bản ký thì một là: Đắc ba không, tức vị ba Hiền, ba giả không. Hai là đắc Đại không, tức là Địa thứ nhất. Ba là đắc Địa thứ mười. Tùy theo Địa tăng tiến, đều được ích lợi.