NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC
BÁT NHàBA LA MẬT ĐA KINH SỚ

QUYỂN HẠ

Tác giả: Đời Đường, Lương Bí soạn thuật

 

PHẦN 1

PHẨM THỨ NĂM: HỘ QUỐC

Giải thích: Đoạn văn lớn thứ hai gồm ba phẩm sau, nói về ngoại Hộ: (Hộ trì bên ngoài) Phẩm Hộ quốc nói về ngoại hộ, phẩm Bất Tư Nghị nói về đức thù thắng, phẩm Phụng Trì nói về Người phụng trì dứt trừ các tai nạn. Trước nói ngoại hộ, các Vua thành tâm, bày pháp khiến tuân, hiện lực khó lường, nương giữ đủ đức, trong sáng ngoài trong, do vậy mà có ba phẩm sau này.

Nói về ý tiếp nối: Theo Bản ký nói: Quốc độ có hai. Một là Thế gian: Cõi nước của Nhị thừa, phàm phu. Hai là xuất thế gian: cõi nước từ Tín cho đến Địa thứ mười. Giặc có hai loại: 1. Giặc cướp ở bên ngoài; 2. Giặc phiền não ở bên trong. Hộ có hai loại: 1. Quỷ thần; 2. Trí Tuệ. Trong và Ngoại đều là Phật, Bồ-tát hộ. Đã nói về Nội Hộ, nay nói về Ngoại Hộ, để thỏa mãn nguyện vọng của các vị vua nên có phẩm này.

Giải thích về tên phẩm: Phần trên đã giải thích tên chung, còn đây là hiệu riêng: Ân tuệ gọi là Nhân, tự tại gọi là vương. Che chở gọi là Hộ. Lãnh thổ gọi là quốc, đã giải thích đầy đủ ở phần trên.

Nghĩa của Hộ lược dùng bốn môn để nêu rõ.

1. Người là chủ thể Hộ: Chư Phật, Bồ-tát xem chúng sinh như con, như tình thương của người mẹ. Kinh Duy-ma nói: Như Bồ-tát nghĩa là không lìa bỏ đại từ, không xả bỏ đại Bi, phát tâm Nhất-thiết-trí sâu xa cầu không hề quên sót, giáo hóa chúng sanh không bao giờ mệt chán. Lại nữa, chư Bồ-tát hiện nhiều loại thân, tùy niệm mà ứng. Như Bồtát Quán âm… tức là Hộ. Lại nữa, chư vương dùng nhân tuệ từ bi nuôi dưỡng muôn dân làm tâm, trăm quan đại thần phụng thừa pháp cũng là hộ. Hỏi: Nếu vậy thì tự Hộ, cần gì kinh này nói. Đáp: Thế gian và xuất thế gian, khác nhau là ở chỗ đó.

2. Pháp là sở hộ: Không có pháp nào hơn Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Tín thọ đọc tụng, y giáo tu hành, thiên, long ngầm hộ vệ, còn đắc được thành Phật huống hồ là bảy nạn, chẳng thể diệt trừ được sao”? Như vương pháp, là đạo thuộc văn và võ, có quyền thưởng phạt, tiến thiện diệt ác. Đây là gốc của việc hóa độ.

Cho nên kinh Kim Quang Minh, quyển thứ tám, kệ viết:

Quốc nhân tạo nghiệp ác

Vua bỏ không cấm chế

Ấy chẳng thuận chánh lý

Trị đuổi phải như pháp.

Nếu thấy ác không ngăn

Phi pháp liền tăng trưởng

Bèn khiến trong vương quốc

Gian trá ngày càng tăng

Bị nước địch xâm chiếm

Phá hoại quốc độ đó.

Do nhờ chánh lịnh của quốc gia, cũng là Hộ pháp.

3. Tâm của chủ thể Hộ: Vô duyên, từ của Phật và bi của Bồ-tát, ứng với niệm như tiếng và vang, không nói ra mà vẫn biết tức là tâm Hộ. Nếu các vua, quan, thường dùng chánh trực, không tham sân si, y văn phụng pháp, cũng là tâm Hộ, nên Luận Chánh lý nói: Do người thời đó tham lam, không bình đẳng, thiên long giận trách, không giáng mưa ngọt, nên bị đói kém. Lại người thời đó, không tâm bình đẳng, phi nhân tạo độc, bệnh dịch khó cứu. Lại người thời đó, không bình đẳng, tham, sân độc tăng thượng, nên có chiến tranh, tàn hại lẫn nhau. Do tham sân si, tích chứa bên trong, ba tai họa bảy diệu, (sao) tai biến ở ngoài. Nội tâm bất bình, muốn cầu ngoại hộ, nước sôi muốn đông thành băng thật khó lắm thay! Không tham sân si, theo hóa như dòng chảy, đó chính là ý nghĩa ngoại hộ ở trong kinh này.

4. Sự của sở hộ: Trang hoàng đạo tràng, nghe thọ, trì đọc, hiếu dưỡng cung kính, vua quan chánh trị… phần sau nói đủ, đến văn sẽ rõ.

Giải thích văn kinh: Văn chia làm ba đoạn: 1. Chính nói hộ quốc; 2. Dẫn việc hộ quốc xưa; 3. Nghe pháp được ích.

Phần nói về hộ quốc, văn có hai:

-Nói pháp hộ quốc.

-Nói trừ tai nạn.

Phần một chia ba:

-Nói pháp hộ quốc.

-Trang hoàng đạo tràng.

-Nói về nói nghe.

Phần nêu pháp hộ quốc văn lại chia ba: 1. Nói về hộ quốc. Nghĩa đó là gì?

Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Vua Ba-tư-nặc…:” Các Đại Quốc vương! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta vì các ông thuyết giảng về pháp hộ quốc.

Giải thích: Đáp điều nguyện trước. Nếu không lắng nghe, nghe rồi quên mất, nên bảo nghe kỹ. Dưới đây là phần hai – Nói về thời Hộ quốc. Nghĩa đó là sao?

Kinh: Tất cả cõi nước, nếu khi sắp loạn, có các tai nạn, giặc đến phá hoại.

Giải thích: “Tất cả cõi nước”: là mười sáu nước, đối với các vua mà nói “tất cả”. Lại không chỉ vậy, các nước lớn nhỏ ở châu thiệm Bộ tùy theo tiếp nhận giáo đủ khắp tức là “tất cả”.

Nêu giáo pháp đủ khắp nên nói là”tất cả”, thì người ba châu, giáo pháp cũng có đến nơi tức cũng gọi là “tất cả”. Thiên cung, long cung, giáo pháp cũng có đến cũng gọi là tất cả. Như thế không mất tâm từ vô hạn, các nơi kia cùng nghe các giáo ắt đủ khắp, hoặc là hiện nay, hoặc là sau này, chỗ giáo pháp hiện đủ khắp đều là tất cả. Nếu không phải vậy, nước lớn Đại Đường chẳng lẽ không hộ?.

“Nếu khi sắp loạn”: là nêu về thời gian hộ. Cảnh nước thanh bình là được thường hộ. Nếu có tai nạn là nêu lúc cầu hộ.

“Có các tai nạn”: Tai là tam tai. Như trên đã dẫn luận Chánh lý nói; Tai họa chiến tranh, dịch bệnh đói khát. Nạn là bảy nạn, đoạn sau sẽ rõ.

“Giặc đến phá hoại”: là tướng của nạn.

Tiếp theo là phần ba, nói về thọ trì kinh. Nghĩa đó là gì?

Kinh: Chư vương các ông, phải nên thọ trì đọc tụng Bát-nhã Bala-mật-đa này.

Giải thích: Bảo các vị vua, chính mình thọ trì hoặc đọc hoặc tụng, là thực hành ba pháp. Nếu thường trì tụng, nạn sẽ không sinh. Nếu có nạn sinh, khuyên bảo trì đọc. Như kinh Niết-bàn quyển hai mươi nói: tâm của cha mẹ, chẳng phải là không bình đẳng, nhưng đối với con bị bệnh, tâm tức lo nhiều. Do đó, khuyên thọ trì kinh để trừ nạn.

Tiếp đến là phần hai: Trang nghiêm đạo tràng văn chia ba: 1.

Trang nghiêm đạo tràng.

Kinh: Trang nghiêm đạo tràng, đặt trăm tượng Phật, trăm tượng Bồ-tát, trăm tòa Sư tử, mời trăm pháp sư, giải nói kinh này.

Giải thích: Câu đầu là nêu chung, các câu tiếp theo như văn đã rõ khiến trong kinh này, hơi giống các lời ở kinh khác. Như kinh Kim Quang Minh, quyển sáu, phẩm Hộ quốc nói: “Lúc ấy, Tứ thiên vương bạch Phật: Thế Tôn! Ở đời vị lai, nếu có vua người vì hộ tự thân, hậu phi, vương tử, ở quốc độ mình khiến không có các sự việc oán địch, ưu não, tai ách. Bạch đức Thế Tôn! Vua người như vậy không nên phóng dật, khiến tâm tán thán lọan, trước phải tạo sự trang nghiêm đẹp đẽ nơi các cung thất chỗ vua yêu trọng. Những chốn ra vào nước thơm rảy đất, rải những danh hoa, đặt pháp tòa Sư tử thù thắng, dùng các thứ châu báu để trang hoàng. Cho đến đoạn sau: Khi ấy vua người, phải mặc áo sạch, thuần khiết, và trang sức bằng những loại anh lạc, tự mang lọng trắng… dùng hương hoa đủ cả sự cung kính, tạo sự an lành.

Với những điều trên, so với ở đây là đủ nghĩa.

Tiếp sau là phần hai – Hương hoa cúng dường.

Kinh: Ở trước các tòa thắp nhiều loại đèn, đốt những loại hương, rải các tạp hoa, cúng dường rộng lớn.

Giải thích: Trước mỗi một tòa, trang sức đầy đủ. Tiếp đến là phần ba – Một trăm lẻ một sự cúng dường.

Kinh: Y phục, thức ăn uống, đồ nằm thuốc thang, phòng xá, giường ghế, tất cả vật dụng cúng dường.

Giải thích: Mỗi một sự cúng dường là biểu thị cho sự kính trọng. Sau đây là phần ba – Nói về việc nói nghe. Văn chia làm ba phần: 1.

Hai thời giải thuyết.

Kinh: Mỗi ngày hai thời, giảng đọc kinh này.

Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần hai – Vua tôi nghe nhận.

Kinh: Nếu vương, đại thần, Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di, nghe nhận đọc tụng.

Giải thích: Quốc vương, đại thần, trên hành dưới hóa, bốn chúng nghe nhận, thảy đều thành thiện, tức là tự hộ. Kinh Kim Quang Minh lại nói: Bấy giờ vua đó, phải tắm sạch sẽ, dùng hương xoa thân, mặc áo sạch mới, ngồi ghế nhỏ thấp, không sinh cao ngạo, xả ngôi tự tại, lìa những kiêu mạn, đoan tâm chánh niệm, nghe Kinh vương này.

Những điều đó so với kinh này, đều là nói về sự kính trọng. Tiếp theo là phần ba: Như thuyết tu hành.

Kinh: Như pháp tu hành, tai nạn liền diệt.

Giải thích: “Như pháp tu hành”: Nương theo lý và sự trên, phải thực hành như lời đã dạy, uống thuốc thì bệnh lành, lý ắt phải vậy. Đến đây tức sự mà kể chuyện: Tháng Tư năm ngoái, nội dịch kinh xong, tôi sau hết lòng nơi đạo, trì đọc nghe văn, kịp đến tháng chín, bày trăm tòa đề xuất giảng kinh, mưa thu tạnh ráo, mây kéo đầy trời, từ giờ mão đến giờ thân, bỗng nhiên vạn biến, có vị dáng dấp như Tướng quốc cùng với trăm quan, lính ngựa tràn cả thành ngoài, chen lấn nhìn xem, có người thì lễ bái, có người thì nhảy nhót vui mừng, nước mắt như mưa. Ngày mùng hai tháng đó, Vua ơn ban sắc: “Sư đã lâu vụn trồng mầm trí, cao treo gương tâm, khai tạng mật của pháp vương, diễn lời huyền của kim khẩu. Ba đời lưu truyền, bốn loài mong nhờ, mà đạo thì hợp với chơn Thánh, lý thì khế với trời, người, mưa dầm lại tạnh, mây lành đầy sắc, lực của cảm thông, trong triều ngoài nội cùng vui, lời vụng tuyên dương, để tăng thành kính.”

Hạ tuần tháng đó, Tây Nhung, Bắc Địch đem quân vây thành, không cần xuất quân chống cự, giặc tự sợ hãi mà tan rã. Nếu chẳng phải minh chúa chí tín, đại thần tận tiết, trên hành dưới hóa, sấm động mây hành, đạo tục tinh thành, thì ai có thể hưng lên ở đây, pháp thiện rõ ràng, chẳng hề hư dối!.

Từ đây là phần hai – Trừ tai nạn. Trong đó chia làm hai: 1. Trừ tai nạn; 2. Xứng với mong cầu.

Trong phần một văn chia làm hai:

-Các tai nạn.

-Tai nạn diệt.

Trong phần nêu các tai nạn văn lại chia làm ba:

-Quỷ thần hộ.

-Nói về chết chóc.

-Liệt kê các tai nạn.

Đây là phần một – Quỷ thần hộ.

Kinh: Đại vương! Trong các cõi nước, các vô lượng quỷ thần, mỗi mỗi quỷ thần lại có vô lượng quyến thuộc. Nếu họ nghe kinh này thì sẽ hộ vệ quốc độ của ông.

Giải thích: Vô lượng quỷ thần ở trong các nước, mỗi vị đều có quyến thuộc nghe kinh mà hộ quốc. Như kinh Kim Quang Minh quyển tám nói: Đại tướng Dược xoa tăng thận nhĩ đa cùng với hai mươi tám Bộ chư thần Dược xoa bạch: Thế Tôn! Nếu đời hiện tại và đời vị lai, những chỗ đang được tuyên dương lưu bố, như ở thành ấp, xóm làng đầm rừng rú, hoặc cung điện vua, hoặc chỗ ở của Tăng, chúng con và chư thần đều đến chỗ đó, mỗi tự ẩn hình, tùy xứ ủng hộ Sư thuyết pháp kia, khiến lìa suy não, thường nhận an lạc… ngôn từ nói xong, đầy đủ trang nghiêm, còn khiến tinh khí theo lỗ chân lông nhập vào. Thân lực sung túc, uy quang mạnh mẽ, trí sáng khó lường, đều được thành tựu và người nghe pháp là nam hay nữ, thọ trì cúng dường, chúng con sẽ thâu nhận khiến không bị tai nạn. Cho đến thường gặp chư Phật, mau chóng đạt đạo quả chánh đẳng Bồ-đề vô thượng.

Sau đây là phần hai: Nói về chết chóc. Trong đó có hai phần: 1. Nói về chết chóc.

Kinh: Nếu đất nước sắp loạn, quỷ thần lọan trước, vì quỷ thần loạn thì vạn người loạn, thường có giặc giã nổi lên trăm họ chết chóc.

Giải thích: Do quỷ thần loạn, tiếp theo mới vạn người loạn, trăm họ chết chóc.

Tiếp theo là phần hai – Vua tôi tranh chấp.

Kinh: Quốc vương, Thái tử, vương tử, trăm quan, thị phi với nhau.

Giải thích: Trên bất hòa. Tiếp đến là phần ba – Các tai nạn.

Kinh: Trời đất biến quái. Mặt trời, mặt trăng, các sao mất thời, mất sáng, lửa lớn, nước lớn, gió to…

Giải thích: “Trời đất biến quái”: Các hiện tượng trên trời biến đổi, đất có yêu quái, đó là tỏ chung.

Nói “Mặt trời, mặt trăng”: Như trong phần sau kinh nói tức là nạn thứ nhất.

“Các sao”: tức là nạn thứ hai.

“Mất thời mất sáng”: Tức là hai nạn trên mất thời, mất độ sáng

“Lửa lớn”: là Nạn thứ ba

“Nước lớn”: là nạn thứ tư

“Gió to”: là nạn thứ năm. Nạn thứ sau là kháng dương (phần dương thái quá). Nạn thứ bảy là giặc đến, đến đoạn sau sẽ rõ.

Vì sao các Quỷ thần ấy loạn trước, rồi trăm họ chết chóc, vua tôi bất hòa, bảy nạn đều khởi, như phần sau kinh nói: Do tất cả dân chúng của các nước lớn nhỏ ở châu Thiệm Bộ, bất hiếu với cha mẹ, không kính sư trưởng, Sa môn, Bà-la-môn, Quốc vương đại thần không hành chánh pháp, do các ác kia mà có những nạn ấy dấy khởi. Đó là nhân của Nạn, đến phần sau sẽ rõ.

Sau đây là phần hai – Nói về tai nạn diệt.

Kinh: Các nạn ấy dấy khởi, đều nên thọ trì, giảng nói Bát-nhã Ba-la-mật này.

Giải thích: “Các nạn dấy khởi”: Mỗi một nạn khởi, đều cần phải giảng đọc, như thuyết tu hành, tức là lương dược (thuốc hay).

Dưới đây là phần một – Xứng với điều cầu mong.

Kinh: Nếu ở kinh nầy, thọ trì, đọc tụng, tất cả mọi điều mong:

quan vị, giàu có, con cái, tuệ giải, đi lại, tùy ý, quả báo nơi cõi người, Trời đều được đầy đủ.

Giải thích: “Tất cả mọi điều mong”: là nêu chung. Trong đó có bảy điều: 1. Cầu quan vị thì được ngôi vị vinh hiển; 2. Cầu giàu có thì được phước lợi; 3. Cầu sinh con trai, con gái thì đều được; 4. Cầu Tuệ giải thì đươc tri kiến Thế gian và xuất thế gian thù thắng; 5. Đi lại, là cầu vãng lai, đi bộ hay cỡi ngựa đều được an ổn, bình an; . Quả báo trong cõi Người; 7. Quả báo trong cõi Trời. Những điều trên đều do oai lực của việc thọ trì đọc tụng kinh nên những điều mong nguyện đều được thỏa mãn. Như kinh Bảo Vân nói: Ví như cây thuốc tên là Thiện kiến, nếu có chúng sanh được gốc thân, cành, lá, hoa, quả của nó, hoặc thấy sắc, ngửi mùi thơm, nếm vị, tiếp chạm, trong mười thứ đó, tùy thứ đạt được, bệnh đều trừ lành. Do đó, ở trong mười pháp thực hành của kinh, tùy theo sự trì đọc, những mong nguyện thuộc thế gian và xuất thế gian đều được thỏa mãn.

Tiếp theo là phần hai – Giải thoát ách nạn.

Kinh: Dịch bệnh, ách nạn, liền được trừ yên, gông cùm xiềng xích, trói buộc thân này, đều được giải thoát.

Giải thích: Hai câu trên là nói về ách nạn được trừ, ba câu dưới là nói kẻ bị trói buộc thì được giải thoát.

Tiếp theo là phần ba – Các tội diệt

Kinh: Phá bốn giới trọng, tạo năm tội nghịch và hủy các giới cấm, vô lượng lỗi lầm đều được tiêu diệt.

Giải thích: “Phá bốn giới trọng”: là dâm, trộm, giết, vọng ngữ là giới trọng về tính.

“Tạo năm tội nghịch”: Như luận Câu Xá, quyển 1 nói: là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Trong năm tội đó, bốn thuộc về thân, một thuộc về ngữ.

“Và hủy các giới”: Đó là các giới như Tàn…

Giới Biệt giải thoát thì mỗi giới đều có chi nhân. Luật nghi thì có tám. “Thể” thì chỉ có bốn, theo duyên đủ hay thiếu, nghĩa như thường hiểu nhưng thể của chúng là: Hữu Tông thì vô biểu sắc, Thành thật thì bất tương ưng. Nay Tông Đại Thừa thì theo tư nguyện chủng mà giả lập làm Thể, không tùy tâm giới, bốn tâm ba Tính đều được hiện tiền. Xả duyên khác nhau là: Hữu Tông thì xả năm duyên. Như Luận Câu Xá quyển mười lăm tụng: “Xả Biệt giải điều phục, do cố xả mệnh chung, Và nhị hình cùng sinh, đoạn thiện căn hết đêm.”. Tông Kinh Bộ thì gia thêm phạm trọng. Pháp Mật Tông thì thêm pháp diệt duyên xả khác nhau. Luận Du-già quyển năm mươi ba nói xả có năm duyên: Xả Học xứ phạm căn bản tội, vì nhị hình sinh mà thiện căn đoạn, xả đồng phần, xả Tỳ khưu luật nghi. Nếu chánh pháp hủy hoại, chánh pháp chìm ẩn, tuy không thọ mới nhưng giới cũ không xả, cho nên đắc giới chưa xả. Thân có luật nghi mà gặp duyên hủy phạm, gọi là hủy các giới. Nếu không có duyên sám hối riêng, (biệt sám) chắc chắn bị đọa Địa ngục như đã phân biệt thông thường. Như duyên sám hối, theo Đại thừa giác như kinh tạo tượng thuyết, do tạo kinh tượng, chỉ chịu nghiệp ít ở ba đường ác nhưng mau ra khỏi, mà không chịu khổ. Lại nữa, kinh Quán vô Lượng Thọ nói: Người có năm tội nghịch cũng sinh Tây phương. Lại nữa, kinh Niết-bàn quyển hai mươi nói: Vua A-xà-thế phát tâm Bồ-đề, không vào địa ngục. Chi tiết tán thán rộng về tâm Bồ-đề như kinh đó đã nói. Lại nữa, kinh Đại Phương Đẳng, Đà-la-ni quyển một nói: Nếu phạm hai mươi bốn giới của Bồ-tát, nếu phạm mỗi một giới của Tỳ khưu… nhất tâm sám hối, nếu không sinh trở lại, thì không có việc ấy. Nay ở đây kinh này nói: vô lượng tội lỗi đều được tiêu diệt. Tức do nghe kinh thọ trì đọc tụng, tội đều diệt.

Dưới đây là phần hai – Dẫn chuyện hộ quốc thuở xưa.

Trong đó chia làm hai phần: 1. Dẫn chuyện hộ quốc thời xưa; 2. Kết. Khuyên thọ trì.

Trong phần một: Văn chia làm ba. 1. Chuyện Thiên vương thời xưa; 2. Nhân vương thời xưa; 3. Liệt kê về các vua.

Trong phần Thiên vương, văn lại chia làm ba: 1. Vua Đảnh Sinh.

Kinh: Đại vương! Thời quá khứ xa xưa, Thích Đề Hoàn Nhân bị vua Đảnh sinh thống lãnh bốn quân chúng lên cung trời muốn diệt đế Thích.

Giải thích: “Lãnh bốn quân chúng”: là voi, ngựa, xe, bộ binh. Nhân duyên này như đã thuyết trong phẩm Đảnh vương, kinh Hiền Ngu và quyển mười hai của kinh Niết-bàn.

Tiếp theo là phần hai – Đế Thích phụng pháp.

Kinh: Bấy giờ, Thiên chủ kia y theo giáo pháp của chư Phật thời quá khứ, bày trăm tòa cao, mời trăm pháp sư, giảng đọc kinh Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Nói về y theo pháp. Tiếp đến là phần ba – Thiên chúng an lạc.

Kinh: Vua Đảnh Sinh liền thối lui; Thiên chúng an lạc

Giải thích: Là kết nêu an lạc. Tiếp đến là phần hai. Vua cõi người thời xưa. Trong đó chia làm ba: 1. Vua Ban Túc; 2. Vua Phổ Minh; 3. Nghe pháp được tỏ ngộ.

Phần một: Vua Ban túc, văn chia làm hai: 1. Vua Ban Túc; 2. Được ngàn vua. Văn phần một lại chia làm ba: 1. Vua Ban Túc.

Kinh: Đại vương! Thời xa xưa, vua nước Thiên La có một Thái tử, tên là Ban Túc.

Giải thích: Tiếng Phạm gọi là Đề Bà La, tiếng Hoa gọi là Thiên La.”Ban Túc”: Vì chân có nhiều đốm, nên tên là Ban Túc. Như kinh Hiền Ngu và luận Trí Độ đã kể chuyện đó.

Tiếp sau là phần hai – Tà sư Quán đảnh.

Kinh: Khi lên ngôi vua, có ngoại đạo sư tên là Thiện Thí, hành pháp quán đảnh cho vua.

Giải thích: Như văn dễ hiểu. Dưới đây là phần ba – Thọ giáo tế trời.

Kinh: Bèn bảo Ban Túc lấy ngàn đầu vua, để tế nơi mộ Thiên Thần Ma Ha Ca La Đại Hắc.

Giải thích: Nói “giữa mộ”: là trụ xứ của Thiên thần Đại Hắc, Ma Ha Ca La. Ma Ha: tiếng Hoa dịch là Đại. Ca la là Hắc Thiên, Từ ngữ trước là tiếng Phạm, từ ngữ sau là tiếng Hoa. Thiên Thần Đại Hắc là vị Thần chiến đấu. Nếu lễ bái vị thần đó thì tăng thêm oai đức, do vậy nên cúng tế. Vì sao biết? Trong Tam tạng, dẫn thêm về các sách khác nói; Kinh Khổng Tước Vương nêu rõ: phía Đông đô thành nước Ô Thi ni có một khu rừng tên là Xa-ma-xa-na, tiếng Hoa gọi là Thi Lâm, rừng đó rộng một do tuần, có Thiên Thần Đại Hắc, là thân biến hóa của Ma-hê-thủ-la cùng với vô lượng quyến thuộc của các quỷ thần, thường du hành trong rừng vào ban đêm, có đại thần lực, nhiều đồ quý báu, có thuốc tàng hình, có thuốc sống lâu, du hành bay trên không, trao đổi các thứ thuốc ảo thuật với loài người. Lấy máu thịt người sống, giao ước trước về cân lượng máu để đổi lấy những thứ thuốc. Nếu ai muốn đến lấy thuốc đổi máu thì trước tiên phải dùng Đà-la-ni để gia trì thân mình, sau đó mới đến trao đổi. Nếu không có Đà-la-ni gia trì, những quỷ thần kia sẽ tự tàng hình, trộm quá cân lượng, máu huyết của người đó, càng lấy càng mất nhiều, không đúng với sự giao ước trước, cho đến lúc lấy hết máu của người đó, cân lượng không đúng thì thuốc cũng không lấy được. Nếu có Đà-la-ni gia trì thì đổi được bảo bối và các loại thuốc, làm gì tùy ý đều được thành tựu. Nếu cúng tế cho những thần đó thì dùng máu người, khiến Thần có đại lực gia hộ cho người sự dũng mãnh và các pháp chiến đấu, được thắng. Do đó, Thần Đại Hắc tức chính là thần chiến đấu. Như kinh Hiền Ngu nói là cúng tế La sát. Kinh Phổ Minh Vương nói là lấy trăm vị vua để cúng tế Thọ Thần. Kinh Sư Tử Đoạn Nhục thì nói là để cúng tế Sơn thần.

Sau đây là phần hai. Bắt được ngàn vị vua. Trong đó chia làm hai: 1. Bắt được những vị vua.

Kinh: Từ khi lên ngôi vua, đã bắt được chín trăm chín mươi chín vua.

Giải thích: Ban Túc lên ngôi vua, nhờ oai lực hiện có nên bắt được các vị vua gần đủ số ấy. Tiếp đến là phần hai – Bắt được vua Phổ Minh.

Kinh: Chỉ thiếu một vua, bèn đi vạn dặm về phương Bắc, bắt được một vua tên là Phổ Minh.

Giải thích: Nói rõ về bắt được vua. Dưới đây là phần hai – Nói về vua Phổ Minh. Trong đó chia làm hai phần: 1. Phần kiến lập bằng văn xuôi; 2. Phần thuyết pháp bằng kệ.

Trong phần văn xuôi lại chia làm bốn: 1. Nguyện của vua Phổ Minh.

Kinh: Vua Phổ Minh thưa với Ban Túc: Nguyện được cho phép một ngày để lễ kính Tam bảo, cúng dường cơm nước cho Sa Môn.

Giải thích: Theo kinh Hiền Ngu thì nguyện được cho bảy ngày, lễ kính Tam bảo, cơm nước cho Sa môn. Dưới đây là phần hai – Ban Túc chấp nhận.

Kinh: Ban Túc nghe xong, liền chấp nhận.

Giải thích: Ban Túc đồng ý chấp nhận. Sau đây là phần ba – Y pháp kiến lập.

Kinh: Vua bèn theo giáo pháp của chư Phật thời quá khứ đã nêu giảng bày trăm tòa cao, mời trăm pháp sư.

Giải thích: Nói về y theo giáo. Sau đây là phần bốn: Thuyết Bátnhã

Kinh: Một ngày hai thời giảng nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa có tám ngàn ức kệ.

Giải thích: Nói về việc tuyên thuyết Bát-nhã. Tiếp theo là phần hai- Dùng kệ thuyết pháp, trong đó chia làm hai: 1. Nói về người thuyết kệ.

Kinh: Lúc này, trong chúng kia, pháp sư thứ nhất, vì vua Phổ Minh, thuyết kệ:

Giải thích: Nêu người thuyết. Tiếp theo là phần hai – Kệ được thuyết.

Trong đó chia làm bốn: 1. Pháp là vô thường; 2. Các pháp là khổ; 3. Các pháp là không; 4. Các pháp là vô ngã. Trong phần vô thường lại chia làm hai phần: 1. Ngoại giới vô thường.

Kinh:

Kiếp hỏa cháy dữ

Đại thiên đều hoại

Tu di biển lớn

Tàn diệt không sót.

Giải thích: “Kiếp hỏa cháy dữ: là Hỏa tai. Luận Du-già quyển hai nói: Ba đại tai là thủy, hỏa, phong, cùng nhau theo thứ tự mà khởi. Trong ba thứ đó, đây là nêu thứ đầu tiên: Hỏa tai.

“Đại thiên đều hoại”: là nói cả một đại thiên cùng bị hủy hoại. Hai câu cuối là: cả chín núi tám biển, mỗi thứ số lên đến cả trăm ức đều bị hủy diệt không còn sót gì cả. Tướng của thành, trụ, hoại, không, theo thứ tự mà khởi. Đây nói về kiếp hoại.

Tiếp đến là phần hai – Hữu tình vô thường.

Kinh:

Phạm thích, thiên, long

Nhiều loại hữu tình

Còn bị tàn diệt

Huống là thân này.

Giải thích: “Phạm Thích, Thiên, long”: Phạm là Phạm vương, chung cả Tứ Thiền, Thích là đế Thích. Chủ cõi trời Đao-lợi. Đây là bao gồm cả Thiên xứ khác, cả hai cõi đó đều tự tại cho nên nêu lên. Thiên, Long là chúng Bát bộ.

“Các hữu tình”: là cõi còn lại ngoài những cõi đã nói trước.

“Còn bị tàn diệt”: là nói về vô thường.

“Huống nữa thân này”: cõi dù lớn hay nhỏ, tình dù hơn hay kém đều bị tàn diệt, huống nữa là thân này, là nêu bày sự vô thường. Dưới đây là phần hai – Các pháp khổ. Trong đó chia làm hai: Đây là phần một – Liệt kê các khổ.

Kinh:

Sinh lão bệnh tử

Ưu bi khổ não

Oán thân bức bách

Trái với nguyện mong.

Giải thích: “Sinh lão bệnh tử”: đó là bốn khổ.

“Ưu bi khổ não”: Là tùy gặp các duyên khổ, nhiều loại ưu buồn ray rức. hai câu sau chữ “não” là nói về bốn khổ: Oán là oán ghét nhau mà gặp nhau là khổ. Thân là yêu nhau mà bị xa lìa là khổ. Bức Bách: là năm ấm mãnh liệt khổ. Nghĩa là thân năm uẩn mang tính sinh diệt dời đổi. “Trái với mong nguyện”: là khổ vì mong cầu không được. Lại nữa, “Năm ấm mãnh liệt khổ” là lưu chuyển khổ, chung cả ba cõi là hành khổ. Oán ghét gặp nhau khổ và yêu nhau xa nhau khổ là trái nghịch khổ, thuộc về Khổ khổ, chỉ là Dục giới cầu không được khổ thuộc về Hoại khổ, cũng chỉ ở Dục giới, dựa theo lạc thọ thì cũng thông cả Sắc giới.

Tiếp theo là phần hai – Nhân quả của khổ.

Kinh:

Ái dục kết sử

Tự thành ung nhọt

Ba cõi không an

Nước có gì vui.

Giải thích: “Ái dục kết sử”: Đó là nói về Nhân. Ái là Nhân thuộc Hữu, làm Thấm Nhuần các Nghiệp. Dục là tham dục ở cảnh, đuổi theo sự mong cầu.

“Kết sử”: Kết là kết buộc, trói buộc. Sử là sai khiến. Nghĩa là…

mười thứ kết như tham v.v… kết buộc hữu tình, sai khiến trong Tam hữu, gọi là kết sử.

Lại nữa, Luận Câu xá nói: Kết có chín loại: 1. Ái kết; 2. Sân kết; 3. Mạn kết; 4. Vô minh kết; 5. Kiến kết là Ba kiến; . Thủ kết. Là hai thủ; 7. Nghi kết; . Tật kết; . Xan kết. Ba loại kết: Sân, Tật, Xan duy chỉ thuộc về Dục giới sáu loại còn lại thì thông cả ba cõi. Vì bị sai khiến do kết, cho nên gọi là Kết sử.

“Tự thành ung nhọt”: là quả khổ thuộc về ba Hữu như là ung nhọt.

“Ba cõi không an”: hoặc là giới hoặc là tình đều là hành khổ, vì bị bức bách do hữu lậu nên gọi là không an.

“Nước có gì vui”: Điều vua Phổ Minh coi trọng là yêu nước yêu thân, trong và ngoài đều bất an, là nói về nỗi khổ.

Kế đến là phần ba – Nói về các pháp không. Trong đó chia làm hai phần: Đây là phần một. Tỏ chung về pháp không.

Kinh:

Hữu vi không thật

Từ nhân duyên khởi

Thịnh suy chuyển chớp

Tạm có liền không.

Giải thích: “Hữu vi không thật”: là y tha hữu vi, là huyễn không thật.

“Từ nhân duyên khởi”: là chính cộng tướng tự chủng sinh ra, thế gian trong ngoài, do Nhân duyên khởi.

“Thịnh suy chuyển chớp”: Nghĩa là, pháp hữu vi đều có thịnh suy, khởi và diệt như chảy, không dừng trụ như tia chớp.

“Tạm có liền không”: Tạm thời như tia chớp, có đó liền không. Tiếp theo là phần hai – Nói về cõi không.

Kinh:

Các cõi thú sinh

Tùy nghiệp duyên hiện

Như bóng, tiếng vang

Tất cả đều không.

Giải thích: “Các cõi thú sinh”: là ba cõi, sáu nẻo và tứ sinh. Đó là nêu chung.

“Tùy nghiệp duyên hiện”: là nói về nhân quả, theo nghiệp của các cõi mà hiện sinh ở đó.

“Như bóng như tiếng vang”: là nêu dụ nói rõ. Do quả làm chất, hiện nghiệp như bóng. Nghiệp như âm thanh, quả như tiếng vang. Đó là nói lên sự không thật.

“Tất cả đều không”: Nói chung cả các giới, tất cả hữu vi đều là không.

Kế đến là phần bốn – Pháp là vô ngã. Trong đó chia làm hai phần: Đây là phần một, Vọng khởi ngã.

Kinh:

Thức do nghiệp trôi

Theo bốn đại khởi

Vô minh ái buộc

Ngã, ngã sở sinh.

Giải thích: “Thức do nghiệp trôi”: Thức là Bản Thức, thường chuyển như dòng chảy, do nghiệp như gió, làm khởi lên sóng Thức. Thức thuận theo nghiệp, nên gọi là Nghiệp trôi. Lại nữa, nghiệp chủng nương theo Thức, nhờ hiện duyên mà khởi, hiện khởi các nghiệp, theo gió cảnh giới, động sóng Bản thức. Kinh Lăng già bản bốn quyển, quyển một kệ nói:

Thí như sóng biển lớn

Là do gió lớn khởi

Sóng lớn vỗ ghềnh sâu

Chẳng có lúc đoạn dứt

Biển Tạng thức thường trụ

Gió cảnh giới làm động

Rất nhiều các sóng thức

Tung tóe mà chuyển sinh.

Nghiệp gió cảnh giới, lay động sinh ra sóng thức, cho nên bảo là trôi.

“Theo bốn đại khởi”: là cõi hữu Sắc cõi. vô Sắc thì chẳng hiển rõ, nên lược bớt không nói. Lại nữa, Thân của Vua tức chính là bốn đại, nêu lên để khiến tỏ ngộ là không thật.

“Vô minh ái buộc”: Vô minh làm gốc, phát nghiệp thành sinh, do ái và vô minh tự trói buộc.

“Ngã, Ngã sở sinh”: Nghĩa là nương theo năm uẩn mà khởi ngã, ngã sở. Lại nữa, chấp năm uẩn làm ngã, chấp quốc gia thành trì mà chấp làm Ngã Sở, đều là do vô minh mà Khởi Kiến ấy.

Dưới đây là phần hai – Nói chung về vô ngã.

Kinh:

Thức tùy nghiệp dời

Thân tức vô chủ

Nên biết quốc độ

Huyễn hóa cũng vậy.

Giải thích: “Thức tùy nghiệp dời”: nghĩa là tổng báo Thức tùy nghiệp sinh. Nghiệp không còn, nghiệp mới sắp thành thục, cho nên dời đổi đến cõi khác.

“Thân tức vô chủ”: Thân nghĩa là sự tương tục, tức là bốn đaị. Thân chấp giữ thọ, thức thì dời đổi, tức là vô chủ. Lại nữa, chủ là chủ tể, tức là Ngã. Thức tùy theo Nghiệp mà đi. Thân thì vô ngã, ngã đã không có, nên ngã sở cũng không có. Vì Thân đã vô chủ, nên hai câu sau nói về không có Ngã Sở. Trước tiên là yêu thân, Thân đã vô Ngã, thì quốc độ, đất đai bên ngoài đều là huyễn hóa cũng vậy, nên biết trong và ngoài đều là vô Ngã. nghĩa là không hiểu được thân này là vô thường, Khổ, không, vô ngã, Ngã sở, thì vọng sinh yêu thương chấp trước tất cả mọi sợ hãi đều sinh ra. Nghe pháp hiểu rõ được không, thì còn có gì đáng để sợ hãi.

Dưới đây là phần ba: Nghe pháp ngộ, hiểu. Trong đó chia làm ba phần:1. Phổ Minh ngộ, hiểu; 2. Các vua Ngộ, hiểu; 3. Ban Túc Ngộ, hiểu.

Trong phần Phổ Minh Ngộ, hiểu, văn chia làm hai: 1. Phổ Minh Ngộ, hiểu; 2. Chuyển dạy các vua.

Trong phần một văn lại chia làm hai: 1. Phổ Minh ngộ, hiểu.

Kinh: Bấy giờ, khi pháp sư thuyết xong kệ đó, vua Phổ Minh nghe pháp ngộ hiểu chứng Tam muội không.

Giải thích: “Chứng Tam muội không”: Nếu chứng sinh không thì đắc sơ Quả. Bài kệ đã nói rõ hành của khổ-đế. Hoặc nghe pháp chứng không tức là Pháp không, theo lý thì đạt đến Sơ Địa.

Tiếp theo là phần hai – Quyến thuộc ngộ Không.

Kinh: Các quyến thuộc của vua, đắc pháp nhãn không.

Giải thích: “Đắc pháp nhãn không”: là như vua đã đắc.

Tiếp đến là phần hai – Chuyển dạy các vua. Trong đó chia làm ba phần: Dưới đây là phần một – Đến nước Thiên La.

Kinh: Cùng đi với vua đến nước Thiên La.

Giải thích: Những điều mong nguyện đã thỏa mãn, nghe pháp chứng không, sợ hãi đã không còn nữa, đi đến đúng theo lời hẹn.

Dưới đây là phần hai – Kết chỉ bày các vua.

Kinh: Ở trong chứng của các vua, nói: “Quý vị là những người sắp chết đến nơi”.

Giải thích: “Sắp chết đến nơi”: Là nêu lên chuyện sợ hãi để khiến họ phát tâm.

Tiếp theo là phần ba – Chuyển dạy Bát-nhã.

Kinh: Phải nên trì tụng kệ Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Chư Phật thời quá khứ đã thuyết giảng.

Giải thích: Tức lấy bài kệ trên, bảo họ tụng trì.

Kế đến là phần hai – các vua ngộ hiểu.

Kinh: Các vua nghe xong, cũng đều ngộ hiểu, đắc Tam muội không, mọi người đều trì tụng.

Giải thích: Các vị vua đó, vì sợ hãi mà phát tâm, Nhân duyên đều tốt, Nghe pháp ngộ hiểu, như vua Phổ Minh. Cho nên lại bảo “Cũng đắc Tam muội không”, mỗi vị đều tụng trì.

Tiếp sau là phần ba – Ban Túc ngộ hiểu: Trong đó chia làm ba phần: 1. Vua Ban Túc hỏi; 2. Vua Phổ Minh đáp; 3. Ban Túc ngộ hiểu.

Dưới đây là phần một – Vua Ban Túc hỏi.

Kinh: Bấy giờ vua Ban Túc hỏi các vua: Các ngươi ở đây đang tụng pháp gì?

Giải thích: Duyên của Ban Túc đã chín muồi, cho nên phát hỏi.

Dưới đây là phần hai – Vua Phổ minh đáp.

Kinh: Khi ấy vua Phổ Minh liền dùng kệ trên, đáp vua Ban Túc.

Giải thích: Như văn đã rõ. Tiếp theo là phần ba – Ban Túc Ngộ hiểu. Trong đó lại chia làm bốn phần: 1-Ban Túc ngộ hiểu.

Kinh: Vua nghe pháp ấy, cũng chứng định không.

Giải thích: Nghe pháp chứng hiểu, như các vua trên, nên bảo là “cũng”.

Tiếp theo là phần hai – Tỏ hối hận về tà sư.

Kinh: Hoan hỷ tột cùng bảo các vua: Ta vì bị lầm, ngoại đạo tà sư, chẳng phải lỗi các ông.

Giải thích: Vui mừng chứng hiểu, hối hận lỗi trước.

Tiếp đến là phần ba – Bảo mọi người đều phụng trì.

Kinh: Các ông về nước, phải mời pháp sư, giải thuyết Ba-la-mật đa.

Giải thích: Bảo lưu bố rộng. Sau đây là phần bốn – Xuất gia đắc nhẫn.

Kinh: Bấy giờ vua Ban Túc trao nước cho em, xuất gia vì đạo, vô Sinh Pháp nhẫn.

Giải thích: “Vô Sinh Pháp nhẫn”: Tức là nhẫn thứ tư trong năm nhẫn.

Bồ-tát hóa tích: Nghịch thuận thật khó lường được, hoặc vì hướng dẫn quần mê mà hiện việc này. Sau đây là phần ba – Nêu rõ các vua.

Kinh: Đại vương! Quá khứ lại có năm ngàn Quốc vương, thường tụng kinh này, hiện đời được báo.

Giải thích: Thuyết quá khứ trước, thường tụng kinh ấy, đời này được báo. Tiếp theo là phần hai – Kết khuyên thọ trì. Trong đó chia làm hai phần: 1. Khuyên bảo thọ trì.

Kinh: Các ông, mười sáu vị vua nước lớn, tu pháp hộ quốc, sẽ phải như vậy, thọ trì đọc tụng, giải nói kinh này.

Giải thích: Trước đã dẫn các chuyện xưa, đây thì khuyên bảo tu pháp hộ quốc. Như trên đã rõ. Tiếp sau là phần hai – Khuyên đời sau thọ trì.

Kinh: Nếu đời vị lai, những vị Quốc vương, người muốn hộ quốc hay hộ thân mình, cũng nên như vậy, thọ trì, đọc tụng giải nói kinh này.

Giải thích: Răn bảo đời sau, hộ quốc cũng vậy. Sau đây là phần ba. Nghe pháp được ích.

Kinh: Khi thuyết giảng pháp ấy, vô lượng chúng cõi người đắc Bất thối chuyển, các A-tu-la được sinh lên Trời, vô lượng vô số chư thiên cõi trời thuộc Dục giới đắc vô sinh nhẫn.

Giải thích: “Đắc Bất thối”: Bất thối có bốn loại: Tín vị chứng hành, từ cạn đến sâu, tức là loại thứ nhất và thứ hai. A-tu-la và bảy bộ còn lại, được sinh lên cõi Trời, chư Thiên cõi Dục và cõi sắc, đắc vô sinh nhẫn. Tổ Thiên thai chú giải: Tức là Thập hạnh hoặc tức là Sơ Địa. Như kinh Đại phẩm nói: Bồ-tát Sơ Địa đắc vô sinh nhẫn.

 

PHẨM THỨ SÁU: BẤT TƯ NGHỊ

Chú giải phẩm này, nói về ý nối tiếp: pháp để Hộ quốc, chỉ có Bát-nhã, Nội hộ chứng tu, cũng chỉ Bát-nhã. Oai đức Bát-nhã, khó mà lường xét, nhờ sự nói rõ, càng thêm kính sâu, vì vậy mà nhân ở rải hoa, gặp Phật nghe pháp, được thấy thần biến, hiếm có khó lường, dùng sự để biểu tỏ kinh, tức là ý nối tiếp.

Sau đây là giải thích tên phẩm: “Bất Tư Nghị”: Công đức thần biến, diệu dụng của chư Phật, tâm và lời không thể lường được, nên bảo là Bất Tư Nghị. Vì vậy kinh pháp Hoa nói:

“Miệng chẳng thể tuyên nói, tâm chẳng thể lường xét”. Luận Trí độ nói: “Xứ tâm hành diệt, nẻo ngôn ngữ dứt”: Kinh Đại Bát-nhã nói:”Tuyệt nẻo tâm ngôn”. Những câu đó đều là giải thích chữ “Bất Tư Nghị”. Xưa thì dùng từ ngữ “tán hoa” để đặt tên của phẩm. Ở đây dùng thấy sự thần biến, đặt tên phẩm là Bất Tư Nghị, mỗi phần đều nương theo một nghĩa, cũng không trái nhau.

Giải thích bản văn: Văn chia làm ba đoạn: 1. Đại chúng rải hoa; 2. Phật hiện thần biến; 3. Nghe pháp được ích. Trong phần rải hoa, văn chia làm ba: 1. Đại chúng hoan hỷ; 2. Rải hoa cúng dường; 3. Các vua phát nguyện. Dưới đây là phần một – Đại chúng hoan hỷ. nghĩa đó là gì?

Kinh: Bấy giờ, mười sáu vị Quốc vương và chư đại chúng, nghe Phật thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa, câu nghĩa, thâm diệu vô cùng hoan hỷ.

Giải thích: Vì các vua đã nghe ý nghĩa sâu xa về pháp hộ quốc cho nên vui mừng. Tiếp là phần hai – Rải hoa cúng dường. Trong đó chia làm ba phần: 1. Rải hoa sen báu; 2. Hoa phân Đà Lợi; 3. Hoa Mạn thù sa. Trong phần rải hoa sen báu, văn lại chia làm bốn: Đây là phần một.

Nêu hoa đã rải.

Kinh: Rải trăm vạn ức những hoa sen báu.

Giải thích: “Hoa sen báu”. Hoặc là những châu báu làm thành hoa, hoặc là hoa như những châu báu, nên gọi là Hoa báu. Xưa thì gọi là hành hoa. Thiên Thai chú thích: là biểu thị cho hành nơi vô lượng phước Tuệ ngôi vị Tam Hiền đã tu. Nay ở đây nói là Hoa sen là biểu thị cho hành không bị nhiễm. Lại còn biểu thị cho chủ thể diễn bày (năng thuyên) tức văn tự Bát-nhã, câu và kệ vô lượng, đều là không nhiễm.

Kế đến là phần hai – Hoa thành tòa báu.

Kinh: Ở trong hư không, thành tòa hoa báu.

Giải thích: Hoa thành tòa báu, là chỗ nương của chư Phật, là chỗ ở đầu tiên của ngôi vị Hiền, là gốc của Thánh, lại còn hiển bày về văn tự là chỗ nương của tu chứng.

Tiếp sau là phần ba – Chư Phật diễn thuyết.

Kinh: Chư Phật ở mười phương, vô lượng đại chúng cùng ngồi nơi tòa đó, thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Giải thích: Nói các Phật đồng thuyết như nhau. Dưới đây là phần bốn – Hóa chúng rải hoa.

Kinh: Các đại chúng ấy, cầm mười ngàn hoa sen vàng tung rải lên Phật Thích ca Mâu Ni, hợp thành lọng hoa lớn, che các đại chúng.

Giải thích: “Cầm mười ngàn”: kinh cũ viết là “Vạn vòng lọng hoa”

“Thích ca”: Là họ. “Mâu ni” tiếng Hoa gọi là Tịch Mặc. Phiền não tranh luận hoàn toàn tịch lặng.

“Che Phật và chúng”: Người đã tu hay chưa tu, hành ắt đều giống nhau, Phật này hay Phật khác đều thuyết không khác nhau.

Tiếp theo là phần hai – Rải hoa Phân-đà-lợi. Trong đó chia làm bốn phần:1. Nêu về rải.

Kinh: Lại rải tám vạn bốn ngàn hoa Phân-đà-lợi.

Giải thích: Các vua… Rải thêm lần nữa, bảo là “lại”.

“Tám vạn bốn ngàn”: là biểu thị cho Đăng Địa. Như phần trên của kinh đã nói: “Một niệm đầu tiên, đã gồm đủ tám vạn bốn ngàn Bala-mật-đa”, tức là Sơ Địa. Kinh cũ viết là: “Rải hoa Bát-nhã Ba-la-mật đa”: từ nơi tâm của chủ thể tán hoa để đặt tên Hoa. Ở đây thì viết là “Hoa Phân-đà-lợi” là hoa sen trắng, tức là từ nơi hao rải nêu tên. Chánh trí vô lậu, chủ thể biểu thị và đối tượng được biểu thị giống nhau, quán chiếu ở Sơ địa cho đến Địa cuối cùng cũng đều cùng là một.

Tiếp theo là phần hai – Hoa thành đài mây.

Kinh: Ở trong không trung, thành đài mây trắng.

Giải thích: Như phần sau kinh nói: “Thí như có người, lên đài cao lớn” là vị Đẳng giác tiêu biểu chung cả địa thứ mười, cho nên hiện đài. Tiếp sau là phần ba nói Phật diễn thuyết.

Kinh: Trong đài, Phật Quang Minh vương cùng chư Phật mười phương, vô lượng đại chúng, diễn nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Giải thích: Nêu Phật, liệt kê chúng, nói rõ đồng thuyết. Dưới đây là phần bốn – Hóa chúng rải hoa.

Kinh: Các đại chúng đó, cầm hoa Mạn-đà-la rải lên Phật Thích ca Mâu ni và các chúng hội.

Giải thích: “Mạn-đà-la”: tiếng Hoa gọi là hoa Thích Ý, người thấy nó thì tâm vui vẻ, tức là Thiên hoa. Tiếp theo là phần ba – Rải hoa Mạn Thù Sa. Trong đó chia làm bốn phần: Tiếp theo là phần một – Nêu hoa được rải.

Kinh: Lại rải hoa Mạn-thù-sa.

Giải thích: Là đại chúng rải. nghĩa lại như trên. Kinh cũ viết là Diệu giác là nói về quả đức viên, kinh mới viết là Mạn-thù-sa, tiếng Hoa gọi là mềm mại, làm cho người thấy nó lìa sự thô cứng, tức là Thiên hoa, người và trời đồng một hội, tùy theo chỗ rải.

Kế đến là phần hai – Biến làm thành báu.

Kinh: Ở trong hư không, biến làm thành báu Kim cang.

Giải thích: “Thành báu Kim cang”: là biểu thị cho thật tướng, tức là thành Niết-bàn. Giống như Kim cang, Thể không bị hư hoại.

Tiếp sau là phần ba – Phật diễn thuyết.

Kinh: Trong thành, Phật Sư Tử Phấn Tấn Vương cùng chư Phật, chúng Đại Bồ-tát ở mười phương chứng diễn thuyết Thắng nghĩa Bátnhã Ba-la-mật-đa.

Giải thích: Thắng nghĩa: Tức là thật tướng. Ở trên đã hiện tòa hoa, đài, thành là nói về ba Bát-nhã: Văn tự Bát-nhã Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã. Tam Hiền, Thập Thánh, quả đã viên mãn, như phải hiển thị về Bất tư nghị.

Tiếp nữa là phần bốn – Hóa chúng rải hoa, văn lại chia làm ba phần: 1. Rải hoa thành lọng.

Kinh: Lại rải vô lượng các loại hoa diệu cõi Trời, ở trong hư không thành lọng mây báu.

Giải thích: Những Thiên hoa đã rải như lọng hoa báu. Hiện Bất tư nghị tuy khác với hiện trong phẩm Như Lai, nhưng nghĩa thì như nhau.

Dưới đây là phần hai – Che phủ rộng lớn.

Kinh: Che khắp Tam thiên đại thiên thế giới.

Giải thích: Nói về sự rộng lớn, đầy cả tam Thiên.

Hỏi: Kinh cũ thì viết là rải hoa hành… kinh này lại nói là hoa sen báu… Đó là vì Hoa trên cạn dưới nước ở các mùa phải không?.

Đáp: Như kinh Đại Bát-nhã quyển tám mươi bốn, phẩm Tán Hoa nói: “Bấy giờ, Thiên đế Thích và tất cả Tứ Đại vương chúng thiên trong tam thiên đại thiên thế giới, cho đến cõi trời Sắc Cứu cánh đều nghĩ như thế này: Tôn giả Thiện Hiện, thừa thần lực Phật, vì tất cả Hữu tình mà mưa cơn mưa pháp lớn. Chúng ta nay nên hóa các hoa diệu cõi Trời, phụng rải Như Lai Thích Ca và Bồ-tát Ma-ha-tát, cùng Tỳ khưu Tăng.

Tôn giả Thiện Hiện cũng rải Bát-nhã Ba-la-mật đa thâm diệu đã thuyết giảng để cúng dường. Khiến chư Thiên chúng nghĩ như vậy rồi, mỗi vị đều hóa nhiều loại Hoa Hương vi diệu phụng rải Như Lai, chư Bồ-tát… Lúc đó, ở Thế giới của chư Phật trong tam thiên đại thiên, hoa đều tràn đầy, nhờ thần lực Phật ở trong Hư không hợp thành đài hoa, trang nghiêm thù diệu, che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Thiện Hiện thấy vậy nghĩ: Hoa rải ở đây so với các cõi Trời là chưa từng thấy có. Hoa ấy thù diệu, chắc chắn chẳng phải cỏ cây trên cạn dưới nước sinh ra, phải là chư Thiên vì cúng dường mà từ tâm hóa ra. Lúc đó, Thiên đế Thích biết tâm Thiên Hiện, bèn nói với Thiện Hiện: Sự rải hoa này thật ra chẳng phải cỏ cây đất nước sinh ra, cũng không từ tâm thật hóa xuất, chỉ là biến hiện mà thôi. Cụ Thọ Thiện Hiện nói với đế Thích; hoa ấy không sinh thì chẳng phải là hoa. Đế Thích hỏi: là chỉ Hoa ấy không sinh hay là các pháp khác cũng không sinh? Thiện Hiện đáp: chẳng những Hoa ấy không sinh, các pháp khác cũng vậy. Tất cả uẩn, xứ, giới, bốn đế, mười hai Nhân duyên, sáu độ, bốn nhiếp, các pháp công đức đều là chẳng sinh, giống với hoa này.

Trên đây là nói hoa rải, hoặc là cõi người hoặc là cõi trời, lý Bátnhã giống nhau. Theo trong kinh cũ, nghĩa giống với đó.

Tiếp theo là phần ba – Mưa hoa cúng dường.

Kinh: Trong lọng hoa ấy, mưa Hằng hà sa hoa, từ trên không tuôn xuống.

Giải thích: Từ lọng mưa hoa, là điềm hiếm có. Tiếp đến là phần ba. Các vua phát nguyện. Trong đó chia làm hai phần: 1. Các vua phát nguyện; 2. Như Lai ấn thuật. Trong phần một lại chia làm ba: Đây là phần một – Các vua xưng tán.

Kinh: Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc và các đại chúng, thấy việc ấy rồi, khen ngợi là chưa từng có.

Giải thích: Cùng nhau khen là hiếm có. Dưới đây là phần hai – Nguyện Phật sẽ thuyết.

Kinh: Chấp tay hướng Phật, mà nói: Nguyện chư Phật quá khứ hiện tại vị lai thường thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật đa.

Giải thích: “Thường thuyết…”: là Bồ-tát Địa thượng (đã lên ngôi Địa) thấy Phật thuyết. Còn Bồ-tát Đại tiền (chưa lên ngôi Địa) ở trong hội lúc có, lúc không có thuyết. Vua và Đại chúng mơí phát nguyện.

Sau đây là phần ba – Nguyện chúng thường thấy.

Kinh: Nguyện các chúng sanh, thường được thấy nghe, như ta ngày nay, ngang bằng không khác.

Giải thích: “Nguyện các chúng sanh”: Là trừ trong hội này ra, các cõi khác và đời vị lai, nguyện thường thấy Phật thường nghe Bát-nhã, như nay không khác.

Dưới đây là phần hai – Như Lai ấn thuận thuật lại. Trong đó chia làm ba phần: Dưới đây là phần một. Như Lai ấn thuận thuật lại.

Kinh: Phật nói: Đại vương! Như ông đã thuyết.

Giải thích: “Như ông đã thuyết”: như Luật Tứ phần, không cho mong nguyện điều lỗi, nguyện thanh tịnh thì được, nguyện thấy nghe này không trái với luật kia cho nên Phật cháp nhận: “Như ông đã nói”.

Tiếp theo là phần hai – tán thán thán pháp xuất sinh.

Kinh: Bát-nhã Ba-la-mật đa này là mẹ của chư Phật, là mẹ của chư Bồ-tát, nơi công đức bất cộng thần thông xứ sinh.

Giải thích: Câu đầu chỉ cho pháp, câu tiếp là chỉ về xuất sinh. Sinh ra chư Phật, Bồ-tát… mà thành ra là mẹ. Vì vậy Phật và pháp thì ai trước ai sau. Nói: Pháp Bát-nhã sinh ra Phật, Bồ-tát. Phật nhờ pháp mà thành, pháp trước, Phật sau. Như kinh Niết-bàn quyển bốn nói: “Pháp là Thầy của chư Phật”. Vì pháp là thường nên chư Phật cũng là Thường. Từ Bátnhã sinh pháp là chính, vì vậy nếu thành chánh giác, nhờ pháp bi sâu mà thuyết pháp Bát-nhã. Phật từ đầu kinh đến cuối kinh, khuyên bảo chỉ bày đạo, khiến cho xuất ly mà Phật và pháp tương quan với nhau. Nay ở đây là nói chư Phật, Bồ-tát nhân ở Bát-nhã sinh ra, nên nói Bátnhã là mẹ của chư Phật, Bồ-tát.

“Công đức Bất cộng”: là nói về pháp, tức là mười tám pháp Bất cộng của Đại Thừa và Tiểu Thừa. Lại nữa, Luận Du-già nói; một trăm bốn mươi công đức Bất cộng.

“Nơi thần thông sinh”: là mười thân tướng tác Niết-bàn trong kinh Hoa Nghiêm, nghĩa của tám tự tại trong kinh Niết-bàn, đều Nhân ở Bátnhã Ba-la-mật đa làm nơi sinh ra.

Kế đến là phần ba – kết khuyên thọ học

Kinh: Chư Phật đồng thuyết được nhiều lợi ích, vì vậy các ông thường nên thọ trì.

Giải thích: Chư Phật đồng thuyết, khuyên thọ trì. Dưới đây là phần hai- Phật hiện thần biến. Trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu bày thần Biến; 2. Hiện thần Biến; 3. Kết. Bất tư nghị. Đây là phần một – Nêu Bày thần biến.

Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn, vì các đại chúng, hiện thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn.

Giải thích: “Bất tư nghị”: Nghĩa như trên đã giải.

“Thần thông”: Là Thần cảnh trí thông của Phật, Thế Tôn.

Đây là tâm chung. “Biến hóa”: Luận Du-già quyển hai mươi bảy nói có hai loại: 1. Biến thông, nghĩa là chuyển đổi; 2. Hóa Thông là hóa hiện. Đây là phần hai- Hiện Thần Biến. Trong đó chia làm bốn phần: 1. một và nhiều dung chứa nhau; 2. Lớn và nhỏ dung chứa nhau; 3. Thánh và phàm dung chứa nhau; 4. Sạch và nhơ dung chứa nhau. Trong phần một – Một và nhiều dung hợp nhau. Văn lại chia ba: 1. Nhiều hoa dung hợp nhau.

Kinh: Một hoa nhập vào vô lượng hoa, vô lượng hoa nhập vào một hoa.

Giải thích: Như một và nhiều nhập vào nhau ở phần rải hoa. Sau đây là phần hai – Cõi Phật độ dung hợp.

Kinh: Một cõi Phật nhập vào vô lượng cõi Phật vô lượng cõi Phật nhập vào một cõi Phật.

Giải thích: Khiến cho chúng đều thấy thế giới nhập vào nhau.

Kế sau là phần ba – Trần sát dung hợp.

Kinh: Một trần sát độ nhập vô lượng trần sát độ. Vô lượng trần sát độ nhập một trần sát độ.

Giải thích: Khiến cho chúng kia, ở trong một hạt bụi mà thấy được cõi nước của Phật là một và nhiều tương nhập vào nhau. Ba thứ trên là rộng hẹp dung hợp nhau. Tức chính là mười ba chốn tạo tác tự tại. Tiếp theo là phần hai – Lớn nhỏ dung hợp nhau.

Kinh: Vô lượng biển lớn nhập vào trong một lỗ chân lông. Vô lượng núi Tu Di nhập vào trong một hạt cải.

Giải thích: Khiến cho đại chúng đều thấy biển nhập vào trong một lỗ chân lông. Hạt cải dung nạp cả núi Tu Di, tức chính là chuyển biến tự tại thứ năm. Kế tiếp là phần ba – Thánh phàm dung hợp nhau.

Kinh: Một thân Phật nhập vô lượng thân chúng sinh. Vô lượng thân chúng sinh nhập vào một thân Phật.

Giải thích: Khiến cho đại chúng đều thấy phàm và Thánh nhập vào nhau, tức chính là hai loại Biến thứ chín và mười là chúng tướng nhập thân và Đồng loại vãng thú. Đó cũng là chủ thể hóa là Thần cảnh Trí Thông, tự tha hơn kém nơi vô số Thân. Dưới đây là phần bốn – Tịnh uế dung hợp nhau.

Kinh: Lớn lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn. Tịnh lại hiện uế, uế lại hiện tịnh.

Giải thích: Phật tự hiện thân, hoặc lớn hoặc nhỏ tức chính là Biến thứ bảy và thứ tám. Biến co, Biến duỗi. Hiện cõi nước ở hoặc tịnh hoặc

uế, tức là Biến thứ mười một và biến thứ mười hai. Biến ẩn và hiển.

Các điều trên đều để phá tình chấp, khiến sự một hay nhiều, khiến tướng lớn hay nhỏ, khiến thân phàm hay Thánh, khiến Phật hơn hay kém, Khiến cõi Tịnh hay uế, để phá sự vọng sinh phân biệt từ vô thủy đến nay của các hữu tình, thấy một nhất định là một, thấy nhiều nhất định là nhiều… cho đến thấy tịnh nhất định là tịnh, thấy uế nhất định là uế. Tức là pháp chấp. Thấy Phật thần biến, ngộ được sự là do ở tâm, hiểu được tướng tức là tính, làm tan biến, dứt bỏ các chấp.

Lại nữa, Bản ký nói: Biến có ba ý: 1. Khắp không. Một hoa nhập vào vô lượng hoa, là để trừ chướng ngại không vui thích Đại Thừa; 2. Chuyển biến. Một cõi Phật nhập vào vô lượng cõi Phật, là để trừ chướng chấp Ngã Sở, nên có chuyển biến; 3. Hiển liễu. một thân Phật nhập vào vô lượng thân của chúng sinh, là để trừ chướng sợ hãi sinh tử, mà hiển hiện rõ ràng.

Hỏi: Núi Tu di và biển lớn nhập vào trong lỗ chân lông và hạt cải, lớn và nhỏ khác nhau, làm sao nhập được?

Đáp: Chư sư ở Tây phương, có ba giải thích: Một là tất cả pháp, lấy Như làm thể. Đối tượng dựa là chơn như, lìa các tướng, nên các pháp là chủ thể dựa không có nhất định là lớn hay nhỏ, vì vậy mà có thể cùng dung chứa với nhau. Hai là: Theo lý của Duy thức tất cả các pháp đều không lìa thức, tùy tâm mà biến hiện, không có tướng nhất định, vì vậy mà dung hợp nhau. Ba là: Tất cả các pháp, theo nhân duyên sinh, Nhân duyên thì như huyễn, không có tướng nhất định vì vậy mà dung hợp được.

Hỏi: Trong sắc có lớn nhỏ, chấp nhận là nhỏ có thể chứa lớn. Trong thời gian thì có dài ngắn, kiếp dài nhập vào kiếp ngắn sao?.

Đáp: Việc này không quá khó, vì Phật đã đạt được, tự tại co duỗi hiếu có. Có thể rút ngắn nhiều kiếp thành một kiếp, kéo dài một kiếp thành nhiều kiếp. Những văn nói như thế để chứng minh, ở trong các kinh không phải ít.

Hỏi: Nếu vậy, một kiếp kéo dài thành ba kiếp, ba kiếp co lại thành một kiếp, một và ba không có lượng nhất định, vậy chẳng đã trái với lời văn của kinh và Phật nói Bồ-tát phải trải qua ba vô số kiếp, tu đủ vạn hạnh chứng Đại Bồ-đề.

Đáp: Câu hỏi này không đúng. Bởi trên đáp là quả đức tự tại chẳng phải cảnh ở nhân tu hành. Luận Hiển Dương và Du-già đều nói như vậy, người đối với Bất Tư Nghị mà gượng ép suy lường thì bị quả báo cuồng loạn.

Dưới đây là phần ba – Kết: luận nghĩa “Bất tư nghị”.

Kinh: Thân Phật chẳng thể nghĩ bàn, thân chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn… cho đến… Thế giới chẳng thể nghĩ bàn.

Giải thích: Thân của chư Phật khắp ở thân của chúng sinh. Thân của chúng sinh khắp thân chư Phật. Thể biến khắp lẫn nhau chẳng thể nghĩ bàn. Dứt hẳn tâm tư, ngôn ngữ thì gọi là “chẳng thể nghĩ bàn”.

Tiếp theo là phần ba – Nghe pháp được ích.

Kinh: Đang khi Phật hiện thần biến đó, mười ngàn nữ nhân, hiện chuyển thân nữ, đắc thần thông, Tam muội, vô lượng trời người đắc vô sinh pháp nhẫn, vô lượng A-tu-la thành tựu đạo Bồ-tát, hằng hà sa Bồtát hiện thân thành Phật.

Giải thích: Được lợi ích có bốn: 1. Hiện chuyển thân nữ, đắc như huyễn; 2. Trời, người đắc nhẫn, thấy được lý của pháp; 3. Bát Bộ Tu La thành Bồ-tát; 4. Hằng hà Sa Bồ-tát hiện thành Phật.

Hỏi: Trong một thế giới, có nhiều Phật cùng ra đời hay không?.

Đáp: Luân vương còn không có hai vị cùng xuất, huống hồ là bậc Đại giác có hai vị cùng ra đời sao!.

Hỏi: Nếu vậy, sao lại hằng hà sa Bồ-tát hiện thân thành Phật.

Đáp: Không phải vậy, đây là ở các cõi khác, có gì sai đâu? Như Long Nữ trong kinh pháp Hoa.

Hỏi: Hiện thân thành Phật, đó có phải là cứu cánh hay không?

Đáp: Như trong kinh Đại Bát-nhã nói: Thập địa gọi là thập chủng Phật. Lại, chỗ khác cũng nói Địa tiền hiện hóa. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phân biệt công đức nói: Bồ-tát nhiều như số vi trần ở bốn thiên hạ, một đời sẽ đắc Bồ-đề vô thượng. Luận pháp Hoa chú thích: Tức là Sơ Địa. Do vậy mà nói nhờ oai lực của pháp mà nêu là hiện thành, đã nói là hiện thành thì chẳng phải là cứu cánh.

 

PHẨM THỨ 7: PHỤNG TRÌ

Nói về ý nối tiếp: Trên đã nói đủ cả Nội Hộ và Ngoại Hộ do phải phụng trì cả hai, nên có phẩm này.

Giải thích tên gọi của phẩm: Phụng nghĩa là tôn kính tiếp nhận. Trì nghĩa là không quên. Như Luận trí Độ nói: do lực tín nên nghe mà tín phụng, do Niệm lực cho nên không quên là Trì. Nếu nói là Thọ trì, nhận lãnh thì cũng không sai.

Giải thích văn kinh: Phẩm kinh này, chư vị cổ đức: Trắc pháp sư, Huyền Phạm pháp sư ở chùa Tây Minh và Tuệ Tĩnh pháp Sư ở chùa Kỷ Quốc đều cho phẩm này là phần Lưu Thông. Thiên Thai Trí giả, Đạo An pháp sư, An Quốc pháp sư đều cho phẩm này là phần Chánh tông. Tuy các lý lẽ đều có căn cứ, nhưng nay ở đây theo Thiên Thai Trí giả… chia phẩm kinh này thành ba phần lớn: 1. Vua Ba-tư-nặc Hỏi; 2. Như Lai chánh đáp; 3. Nghe pháp được ích. Phần vua Ba-tư-nặc hỏi, văn lại chia làm ba: Dưới đây là phần một – Thấy chư Phật. Nghĩa đó là sao?.

Kinh: Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc, thấy rõ thần biến của Phật, thấy trên ngàn đài hoa có Như Lai Biến Chiếu, trên ngàn cánh hoa có ngàn hóa thân Phật, trong ngàn cánh hoa có vô lượng chư Phật, mỗi mỗi vị đều thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật đa.

Giải thích: “Thấy thần biến của Phật”: là thấy Phật hiện thần biến trong phẩm trước.

“Thấy trên ngàn đài hoa, Như Lai Biến chiếu”: Tiếng phạm gọi là Tỳ Lô giá-na, còn gọi là Vỹ-lô-già-na, cũng gọi là Phệ Lộ Già Na. Tiếng Hoa gọi là Biến Chiếu, cũng gọi là Đại Nhật, đến đoạn san sẽ rõ. Theo kinh Hoa Nghiêm quyển tám: Thế giới ta bà, Tỳ-lô-giá-na Như Lai tức là Báo Thân Phật. Tiếng phạm là Lô-xá-na, hoặc gọi là Lu-thác-na, hoặc gọi là Lu-chiết-la, cũng gọi là Biến Chiếu. Theo kinh Phạm võng là Thân tha thọ dụng. Nhưng cả hai tên gọi đó có người cho rằng Thể thì giống nhau, nhưng vì trước và sau phiên dịch khác nhau hoặc có người cho là hai Báo Thân tự và tha. Như Luận Phật địa: pháp giới thanh tịnh là thân tự tính. Bốn Trí tâm phẩm là Thân tự thọ dụng. Lại nữa, thân tha thọ dụng và Thân biến hóa đều là phương tiện thị hiện để hóa độ chúng sinh, tùy theo sự thị hiện mà có lớn hay nhỏ khác nhau. Theo Luận Phật Địa: Như Lai Biến chiếu tức là thân tha thọ dụng hoặc là Thân ứng hóa vì thân tự thọ Dụng, lượng đồng pháp giới, không thể nói lượng thân đó là lớn hay nhỏ. Còn kinh cũ thì viết là: “Tất cả Phật hóa Thân chủ”. Nếu thân Tha thọ dụng gọi là Thân ứng hóa thì nương theo tự Báo Thân mà khởi Thân Tha Thọ Dụng. Nếu hóa lớn hóa nhỏ gọi là hóa thân thì tha thọ Dụng là hóa chủ. Vì tự, tha, và báo, thể của chúng chẳng phải tức chẳng phải lìa đều không trái với lý.

“Ngàn hóa thân Phật trên ngàn cánh hoa”: Là hóa Phật lớn.

“Vô lượng chư Phật trong Ngàn cánh hoa”: là hóa Phật nhỏ. Do gia hạnh, tư lương, nhị thừa và phàm phu thấy có khác nhau. Giống như kinh Phạm võng: “Ta nay Lô Xá Na, vừa ngồi đài hoa sen, vòng quanh trên ngàn Hoa, Lại hiện ngàn Thích ca, một hoa trăm ức cõi, một cõi một Thích ca, đều ngồi cội Bồ-đề, cùng lúc thành Phật đạo” nghĩa không trái nhau.

Tiếp theo là phần hai – Pháp vô lượng.

Kinh: Bèn bạch Phật; Thế Tôn! Như vậy là vô lượng Bát-nhã Bala-mật đa không thể dùng Thức mà biết, không thể dùng Trí mà biết.

Giải thích: “Như vậy vô lượng”: là nói những điều đã nghe. Nghĩa là vua Ba-tư-nặc như kinh cũ nói: hành hạnh thập địa, tùy tương ưng mỗi địa, thường thấy chư Phật, nay thấy thần biến, thấy thân lớn nhỏ, mỗi mỗi tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa vì dẫn đạo chư đại chúng mà nói là vô lượng.

“Không thể dùng Thức mà biết”: là Thức cạn cợt này không thể biết được.

“Không thể dùng Trí mà biết”: là Trí thấp kém này, không thể biết được.

Đây nói rõ pháp được thuyết là nhiều vô lượng, sâu xa không thể dò, chẳng thể nhận biết được.

Kế đến là phần ba – Chánh hỏi phụng trì.

Kinh: Này các thiện nam! Làm thế nào, đối với kinh này lý giải, lãnh hội hiểu rõ vì người khác mà diễn nói.

Giải thích: “Làm thế nào”: là từ ngữ hỏi chính.

“Chư Này thiện nam”: là những người tu hành.

“Đối với kinh này”: tức là kinh này, những điều thấy được tuy là nhiều nhưng Bát-nhã thì như nhau.

“Minh liễu”: là đối với lý và sự đều hiểu rõ.

“Giác giải”: Giác là hiện chứng, giải là ngộ hiểu. Đối với lý thì chứng ngộ sáng suốt, đối với sự thì hiểu biết rõ ràng. Do đó gọi là Minh liễu, giác giải. Đó là tự lợi. “vì người mà diễn thuyết” là lợi tha.

Dưới đây là phần hai – Như Lai chánh đáp. Chia làm hai phần chính: 1. Mười ba pháp sư phụng trì; 2. Mười sáu Quốc vương phụng trì.

Trong phần pháp sư, văn chia làm hai phần: 1. Lược nêu pháp sư; 2. Nói rộng hạnh vị.

Trong phần một, văn lại chia làm hai phần: 1. Khuyên bảo lắng nghe.

Kinh: Phật bảo “Đại vương! Ông nay hãy lắng nghe!”.

Giải thích: Bảo hãy nghe cho kỹ. Dưới đây là phần hai – Lược bày hạnh vị.

Kinh: Từ Tập nhẫn đầu tiên đến định Kim cang, như pháp tu hành mười ba môn quán đều là pháp sư nương giữ kiến lập.

Giải thích: “Từ Tập nhẫn đầu tiên”: là nêu ngôi vị đầu tiên “Đến Định Kim cang”: là ngôi vị sau cùng.

“Như pháp tu hành mười ba môn quán”: Từ đầu tiên cho đến cuối cùng gồm có mười ba Ngôi vị, mỗi ngôi vị đều nương theo hành vị, như pháp tu hành môn quán của mình.

“Đều là pháp sư”: Đó là tên gọi chung, đều tu hai lợi gọi là pháp sư.

“Nương giữ kiến lập”: Y theo đây tu trì khiến không mất. Mới bắt đầu khởi thì gọi là kiến, cuối cùng thành tựu thì gọi là lập.

Tiếp đến là phần ba – Kết. Khuyên cúng dường.

Kinh: Đại chúng các ông nên xem như Phật mà cúng dường trăm ngàn vạn ức thiên hương hoa vi diệu, cúng dường dâng lên.

Giải thích: Vì pháp thù thắng, ở chỗ nào thì chỗ đó được tôn quý, ở ngưòi nào thì người đó được tôn trọng, đối với những người tu hành thì báo các vua kính họ như Phật.

“Thiên hương hoa vi diệu”: là cúng phụng những điều cực kỳ tốt đẹp.

Dưới đây là phần hai – Nói rộng về hành vị. Chia làm hai phần:1.

Nói riêng về Hạnh vị; 2. Kết luận, thọ trì.

Trong phần một – chia làm mười ba phần như sau sẽ rõ: 1. Tập chủng tính.

Trong đó chia làm ba phần:

-Nêu vị biện Tướng.

-Nói về pháp tu.

-Kết trình bày vị mãn. Đây là phần một – Nêu vị biện tướng.

Kinh: Này người thiện nam! Pháp sư đó là Bồ-tát Tập chủng tính. Nếu Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.

Giải thích: “Pháp sư đó”: Là tên gọi chung. Thông cả mười ba Ngôi vị đều gọi là pháp sư.

“Tập chủng tính”: Như trên đã giải thích.

Hai chúng tỷ khưu, xa lìa năm Tà.

“Sách ca, Tư ca”: là Nam nữ thọ năm giới. Bốn chúng này như đã giải thích trong phẩm Tựa.

Dưới đây là phần hai – Nói về pháp tu. Trong đó chia làm hai phần: 1. Tu Thập trụ; 2. Nội ngoại.

Trong phần một lại chia làm hai phần: 1. Thập trụ; 2. Tu thập hạnh.

Trong phần một lại chia làm hai phần: 1. Tu thập trụ.

Kinh: Tu hạnh thập trụ.

Giải thích: Trong Tam Hiền, ngôi vị này là kém nhất, lấy Thể mà đặt tên, tiếp đến là Thập hạnh, sau cùng là mười Hồi hướng, còn Bồ-tát mười địa thì đã đăng ngôi vị Thánh, đã đắc hiện chứng theo Địa mà đặt tên.

Đầu tiên là giải thích tên gọi của Trụ. Trước là tên chung sau là tên riêng. Thập trụ là: nhập vị bất thối gọi là Trụ. Trụ pháp viên mãn gọi là Thập, gộp chung lại gọi là Thập trụ, mang số đặt tên Giải thích biệt danh thì nói về Thể của trụ. Nếu dựa theo đối tượng duyên thì hai đế làm Thể. Nếu dựa theo Chủ thể duyên thì Bi và Trí làm Thể, hợp cả cảnh và Trí mà làm Thể của Trụ, tương ứng trợ giúp nhau đủ cả năm uẩn. Nếu dựa theo theo Thân thì duy chỉ người ba châu, tức là bốn chúng kể trên, gộp có phàm và Thánh, Đốn và Tiệm.

Tiếp theo là phần hai. Nói về tướng của trụ, văn chia làm mười phần: Dưới đây là phần một – Phát tâm Trụ.

Kinh: Thấy Phật Pháp Tăng, phát tâm Bồ-đề.

Giải thích: Giải thích theo tên của Trụ là: ở đối với Bồ-đề khởi tâm quyết định nhập vào ngôi vị Bất thối gọi là phát tâm trụ.

“Thấy Phật Pháp Tăng”: là duyên phát tâm, Phật là bậc giác, là người có thể khai phát, pháp là các giáo, sinh ra chánh giải Tăng là hòa hợp, là Hiền Thánh ba Thừa, là phước điền tốt. Đầu tiên là nhân ở Tam bảo mà phát tâm vô thượng, đến ngôi vị cứu cánh thì thường hiện tiền.

“Phát tâm Bồ-đề”: là phát tâm vô thượng, khởi ba diệu quán, như Giải thích trước. Nhiếp Luận tụng:

Lực thanh tịnh tăng thượng

Tâm kiên cố thắng tiến

Danh Bồ-tát mới tu

Vô số ba đại kiếp.

Tâm đại Bồ-đề lấy thiện căn làm thể, lấy đại nguyện làm duyên không thối lùi, không khuất phục làm động lực thúc đẩy, mới có thể khởi. Thiện căn làm Nhân gọi là lực thanh tịnh, nhờ đó có thể hàng phục những gì mình đối trị. Đại nguyện làm duyên gọi là lực Tăng thượng, thường gặp bạn lành khiến cho tăng tiến. tâm kiên cố: là tuy gặp bạn xấu phá hoại nhưng cuối cùng cũng không thối xả tâm Bồ-đề, gọi là kiên cố. Thắng Tiến là: Thiện căn mình tu, lần lần tăng trưởng chuyển thành Thắng tiến. Thập Tín trước đây, tâm người nhập vào Trụ này, do đủ cả mười thứ kia, đối với đại Bồ-đề, kiên cường không thối, đủ cả những thứ đó, gọi là bắt đầu Sơ kiếp. Tức là lấy tâm đó làm gốc cho Thập Trụ, tâm đó lần lần tăng lên thành các Trụ sau. Cho đến quả tột cùng cũng do đó mà đắc. Có thuyết nói: Thập trụ đồng với hạnh Thập Địa.

Tiếp theo là phần hai – Trị địa trụ.

Kinh: Đối với các chúng sanh, lợi lạc thương xót.

Giải thích: Giải thích theo tên của Trụ là: mài dũa tâm đó, lìa sự cấu uế, lắng trong, sàng lọc các nhiễm ô, gọi là Trị địa trụ. “Đối với các chúng sanh, lợi lạc thương xót”: lợi là lợi ích, lạc là an lạc. Thương xót: là hành cứu vớt. Như kinh Hoa Nghiêm nói: Tụng tập đa văn, rỗng vắng tịch tĩnh, gần thiện tri thức, liễu đạt ở nghĩa, như pháp tu hành, An trụ chẳng động. Kế đến là phần ba – Tu hành trụ.

Kinh: Tự quán thân mình, các căn sáu giới, tất cả vô thường, khổ, không, vô ngã.

Giải thích: Giải thích Tên trụ: quán sát tự thân, lìa xa Không và hữu, chánh hành tu tập gọi là Tu hành trụ.

“Tự quán thân mình”: đó là nêu chung.

“Sáu giới”: là sáu giới như đất nước v.v…

“Chư căn”: là các căn như mắt… Như nơi kinh cũ nói mười bốn căn: năm sắc, năm thọ, nam, nữ, ý, mệnh. nghĩa là quán sáu giới và các căn sinh diệt bức bách đều là không vô Ngã. Đối trị những điên đảo hư vọng.

Tiếp sau là phần bốn – Sinh quý trụ.

Kinh: Nhận biết rõ nghiệp hành, sinh tử, Niết-bàn.

Giải thích: Giải thích Tên trụ: sinh tại nhà Phật, dòng họ tôn quý, đó tuy chỉ là nuôi lớn nhưng đã hơn các thừa khác, nên gọi là Sinh quý trụ. “Liễu tri nghiệp hành, sinh tử Niết-bàn”: là hiểu rõ các hành nghiệp thiện và ác của mình và người, hành đó là thuận theo với sinh tử, hành đó là thuận theo với Niết-bàn, như kệ của kinh Hoa Nghiêm bản cũ nói: “Đệ tứ sinh quý chơn Phật tử” từ chánh pháp của chư Hiền Thánh sinh ra. Các pháp thuộc có, không đều đều không hề đắm trước. Xả lìa sinh tử, xuất khỏi ba cõi. Đắm trước có hữu là sinh tử, đắm trước không tức là Niết-bàn. Cả hai đều không đắm trước thì sẽ xuất ly.

Dưới đây là phần năm – Cụ túc phương tiện trụ.

Kinh: Có thể tạo lợi tự tha, lợi ích an lạc.

Giải thích: Giải thích tên trụ: khéo léo không làm ngưng trệ chơn. Khởi tâm thương xót, song tu cả hai hành chơn và tục, gọi đó là Cụ túc phương tiện trụ.

Câu trước là hai lợi, câu sau là lợi tha. Như kinh nói: Tu các thiện căn đều để cứu giúp làm lợi ích an lạc, thương xót độ thoát tất cả chúng sanh khiến lìa tai nạn, xuất ly sinh tử, chứng Niết-bàn. Tiếp theo là phần sáu – Chánh tâm Trụ.

Kinh: Nghe ca tụng Phật, hủy báng Phật, tâm định không động.

Giải thích: Giải thích tên trụ là: quán lý không hai, lần lượt thuần thục nghe ca tụng hay hủy báng Phật tâm không bị lay động gọi là Chánh tâm trụ.

“Nghe ca tụng Phật…”: Nghĩa là Bồ-tát đó khéo quán các pháp không có thể, không có tính, đạt như huyễn mộng. Nghe tán thán hay hủy báng Phật tâm định chẳng động. Như kinh thuyết: Tán thán pháp, hủy báng pháp, tán thán hay hủy báng, Bồ-tát nghe nói chúng sinh có cấu hay không cấu, đễ độ hay khó độ đều định không động.

Kế tiếp là phần bảy – Bất thối trụ.

Kinh: Nghe có Phật, không Phật, tâm định không thối lui.

Giải thích: Giải thích tên trụ: chỉ và quán song tu, duyên không thể làm hư hoại, nghe nói có hay không có, tâm định không thối gọi là Bất thối trụ. Ở đây cũng dựa theo nghĩa trội hơn mà nói: “Có Phật không Phật, tâm định bất thối”: như kinh kia thuyết: pháp và Bồ-tát nghe nói có hay không, tâm định bất thối. Nghĩa là có thể liễu tri vô tướng tức tướng, tướng tức vô tướng. Ở trong Phật pháp, tâm không thối chuyển. Sau đây là phần thứ tám: Đồng Chơn Trụ.

Kinh: Ba nghiệp không lỗi, khởi sáu hòa kính.

Giải thích: Giải thích tên trụ: ba nghiệp sạch, sáng, lìa nhiễm ô, như trẻ thơ, hành tánh thành tựu, vật không thể làm hư hoại, gọi là Đồng chơn trụ.

“Tam nghiệp…”: là thân, khẩu, ý, cả ba lìa sự sai lầm tội lỗi. Như kinh cũ nói; là ba Nghiệp đồng, giới kiến học đồng với lục hòa kính như kinh kia thuyết: thân hành không có sai lầm, ngữ hành không có sai lầm, ý hành không có sai lầm, siêng năng học, tu tập du hành vô số thế giới, lãnh thọ vô số pháp Phật, hiện thân biến hóa, tự tại xuất ra âm thanh rộng lớn đầy khắp trong một Sát-na, thừa sự cúng dường vô số chư Phật. Đó là ba Nghiệp hành.

Dưới đây là phần thứ chín. Pháp vương tử trụ.

Kinh: Phương tiện thiện xảo, điều phục chúng sinh

Giải thích: Giải thích tên trụ: khéo thuyết hợp đúng với căn, nói dõi pháp vương, gọi là pháp vương tử trụ.

“Phương tiện…”: là phương tiện diễn thuyết đều thiện xảo khéo léo, khéo điều phục các chúng sinh.

Tiếp theo là phần thứ mười: Quán đảnh trụ.

Kinh: Khuyên học mười trí, thần thông hóa, lợi.

Giải thích: Giải thích tên trụ: Ngôi vị trụ được đầy đủ, thành tựu thân Trí. Nước Pháp của chư Phật rưới lên đỉnh đầu gọi là Quán đảnh trụ. Phép Quán Đảnh như kinh Kim cang Đảnh bản tiếng Phạm nói: Có năm loại Quán Đảnh: Đó là mão báu ấn khế, dùng nước quang minh và đặt tên hiệu. Ba hiền mười thánh khi sắp thành Chánh giác, trong mỗi một ngôi vị, Phật, Bồ-tát cho quán đảnh.

“Khuyên học mười trí”: Như kinh thuyết: Học tam thế trí, Phật pháp trí, pháp giới vô ngại Trí, Pháp giới vô biên trí, sung mãn nhất thiết thế giới, Trí, phổ chiếu khắp tất cả thế giới Trí, Trụ trì tất cả thế giới Trí, Tri tất cả chúng sanh Trí, Tri nhất thiết pháp Trí, tri vô biên chư Phật Trí. Năm Trí đầu là biết thế giới, theo thứ tự là: tùy tâm chuyển Trí, chánh giác chiếu Trí, chiếu pháp giới Trí, tự tại phổ nhập Trí, đến xứ đều nghiêm Trí. Ba Trí tiếp theo là biết tâm của chúng sinh, đó là Trí biết tất cả tâm, Trí biết tâm cảnh, Trí biết các căn Tính. hai Trí sau là nói đức thành của chúng đó là Trí hợp căn và pháp, Trí khiến diệt các hoặc.

“Thần Thông hóa Lợi”: Như kinh cũ, kệ giải thích Thập trụ nói:

Thanh tịnh diệu Pháp thân

Hiện ứng nhiều loại hình

Giống như Đại huyễn sư

Sở thích đều được hiện

Hoặc ở vì chúng sinh

Cứu cánh Hạnh Bồ-tát

Hoặc lại hiện sơ sinh

Xuất gia hành học đạo

Hoặc ở dưới cây vua

Tự nhiên thành chánh giác

Hoặc ở vì chúng sinh

Thị hiện nhập Niết-bàn.

Đó đều là Thần thông hành hóa lợi. Tụng kết:

Phát tâm trị tu hành

Sinh quý đủ phương tiện

Chánh tâm và Bất thối

Đồng chơn vương Quán đảnh.

Dưới đây là phần ba – hành tu tập.

Kinh: Tu tập Hạ phẩm tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật đa.

Giải thích: “Hạ phẩm”: là bậc đầu tiên của Tam Hiền.

“Tu tập…”: Thời gian ở Ngôi vị này lâu dài tu đủ cả phước, trí, các hành, nguyện.

Tiếp theo là phần hai – Nội Ngoại. Trong đó chia làm hai phần: 1. Nhẫn phương tiện; 2. Chánh Định tụ.

Phần một văn lại chia làm hai: Dưới đây là phần một – Nhẫn tiền phương tiện.

Kinh: Này người thiện nam! Trước hết là Tập nhẫn, trải qua mười ngàn kiếp hành hạnh mười thiện Hạnh có thối có tiến.

Giải thích: “Tập nhẫn” trở về trước là ngoài kiếp.

“Trải qua mười ngàn kiếp”: Là thời gian phải trải qua. Đó là đi đến thẳng, khác với kinh Niết-bàn là tám vạn, sáu vạn, bốn vạn, hai vạn, mười ngàn kiếp… vì ở đây là đốn, kia là tiệm mà có sự sai biệt.

“Hành hạnh mười thiện”: là Thân ba, khẩu bốn, ý ba thành là mười.

“Có thối có tiến? Là không nhất định.

Tiếp nữa là phần hai – Nêu dụ thích thành.

Kinh: Thí như lông nhẹ, theo gió đông tây.

Giải thích: Mười thiện thì có tiến có thối, như lông nhẹ lúc đông lúc Tây. Từ đây là phần hai – Chánh Định tụ. Trong đó chia làm hai phần: Dưới đây là phần một – Chánh Định tụ.

Kinh: Nếu đạt đến vị nhẫn, nhập chánh định tụ, không tạo năm nghịch, không hủy báng chánh pháp.

Giải thích: “Nếu đạt đến vị nhẫn”: là tu Thập thiện. Thượng phẩm thành mãn phát Bồ-đề tâm, bất thối như trên, gọi là đến vị nhẫn.

“Nhập chánh Định tụ”: Nhập là tiến nhập, tức nhẫn vị đó, là chánh Định tụ, khác với Tiểu Thừa. Luận Câu xá nói: Chánh tính ly sinh, gọi là chánh định.

Hai câu sau nói không tạo nghịch tức chẳng phải là Xiển-đề.

Sau đây là phần hai – Nhẫn đối trị.

Kinh: Biết tướng ngã, pháp thảy đều là “không”, an trụ nơi giải thoát.

Giải thích: “Biết tướng ngã, pháp”: là phân biệt hai chấp. Do Tà giáo và Tà sư, tự phân biệt tà cho Ngã là chủ tể, pháp là các uẩn, như đã nói trên. Sáu mươi hai kiến bao gồm hai mươi cú (câu) phân biệt tức uẩn lìa uẩn là chấp Ngã, pháp. Do hai chấp đó mà hai chướng sinh đủ. Đây là chế phục hai chấp và các chướng tương ưng. Chế phục hiện hành kia, thảy đều là không. hai chấp và tùy miên đều chưa diệt.

Hỏi: Nếu vậy, vì sao kinh Hoa Nghiêm quyển mười giải thích mười về thập Trụ nói: Trừ diệt các phiền não, vĩnh viễn không còn sót, vô ngại tịch dịệt Quán, ấy tức Phật chánh pháp. Sao ở đây lại nói là tùy miên chưa diệt.

Đáp: Kia là dựa theo sự phục diệt các ngã chấp, pháp chấp, trợ bạn phiền não, vô minh bất cộng của tà giáo, tà sư, đã dấy khởi nên bảo là vĩnh viễn hết, chẳng phải là tất cả phiền não do tự phân biệt sinh và câu sinh phiền não, vĩnh viễn hết. Vì vậy kinh Duyên khởi nói; Người phàm phu nội pháp không phóng dật, ta không nói là vô minh duyên hành. nghĩa là mọi bất cộng tương ưng vô minh do tà giáo phát khởi đã vĩnh viễn hết. Cho nên không nói là vô minh duyên hành, tuy nhiên phiền não do tự phân biệt và phiền nảo câu sinh hiện hành thì dần dần chế phục, chủng đều chưa dứt hết, khi đạt đến ngôi vị kiến Đạo các chủng tử của hai chướng phân biệt toàn sẽ đoạn dứt tức thì đến đoạn sau sẽ rõ.

“Trụ vị giải thoát”; Đây là vị phục nhẫn do có hai tên gọi: đối chiếu quả Bồ-đề, nên gọi là tư lương. Đối chiếu với quả Niết-bàn nên gọi là giải thoát. Thuộc phần giải thoát, nên gọi là vị giải thoát.

Tiếp theo là phần ba- kết. Luận trình bày vị mãn.

Kinh: Ở một A-tăng-kỳ kiếp, tu tập nhẫn này, thì có thể khởi thù thắng.

Giải thích: “Với một A-tăng-kỳ kiếp”: là thời gian trải qua.

A là vô, không có. Tăng kỳ là con số. Kiếp là tiếng phạm, đủ thì phải nói là kiếp Ba: là thời gian, dịch thành tiếng Hoa đời Đường là “Một thời gian vô số”.

“Tu tập nhẫn này”: là kết ngôi vị này.

“Khởi hành thù thắng”: là khởi Tính chủng tính mười hạnh vị.

Về A-tăng-kỳ kiếp này, xin lược phân biệt là: như kinh Hoa Nghiêm bản mới, quyển bốn mươi lăm, phẩm A-tăng-kỳ: có một trăm hai mươi con số, từ Sơ Bách Lạc xoa đầu tiên đến con số thứ một trăm lẻ ba, gọi là A-tăng-kỳ tức là vô số kiếp. Như Du-già quyển bốn mươi sáu sau khi đã nói xong mười ba Trụ, phần sau phân biệt: Tức là ở trong mỗi một trụ đó, trải qua nhiều câu chi trăm ngàn đại kiếp, hoặc vượt quá con số đó mới chứng được một trụ thành mãn, do vậy đã rõ. Nay trong kinh này, trong mười pháp sư trước cứ mỗi một pháp sư tăng một Tăng kỳ. Du-già tiếp đến nói; mà tất cả trụ đều phải trải qua ba vô số đại kiếp mới chứng Bồ-đề vô thượng, viên mãn, nghĩa là phải trải qua vô số đại kiếp thứ nhất mới khởi vượt qua Thắng giải hành Trụ, chứng Hoan hỷ trụ. Đó là người thường dũng mãnh tinh tiến, chứ chẳng phải người không dũng mảnh siêng năng tinh tiến. Lại trải qua vô số đại kiếp thứ hai mới vượt qua cực Hoan hỷ Trụ, cho đến có gia hạnh có công dụng vô tướng Trụ, chứng Đắc Địa thứ tám đến đây tức là quyết định. Do Bồ-tát ấy đắc tịnh ý lạc, quyết định dũng mãnh tinh tiến. Lại trải qua vô số đại kiếp thứ ba mới vượt qua vô cộng dụng trụ, vô ngại giải trụ, chứng đắc trụ tối thượng, thành mã tức là Địa Pháp Vân. Nên biết, trong đó có hai loại vô số đại kiếp: 1. Ngày, đêm, nửa tháng, một tháng, dùng phương tiện tính toán con số thì thời gian vô lượng, còn gọi là vô số đại kiếp; 2. Đại kiếp: phần trước Luận kia nói: dùng không đại kiếp. Gió phương tiện tính toán, vượt qua tất cả các con số tính toán, cũng còn gọi là vô số đại kiếp. Nếu theo vô số đại kiếp nói trên thì phải trải qua vô lượng vô số đại kiếp mới chứng vô Thượng chánh Đẳng Bồ-đề. Nếu so với đoạn văn trên thì vô số A-tăng-kỳ trong kinh này cũng không trái lý.

Hỏi: Luận đã nói: Trải qua ba đại kiếp nhưng một đại kiếp thì thời gian là bao lâu?

Đáp: Như kinh Anh Lạc quyển hạ nói: như có tảng đá lớn vuông vức tám trăm dặm, dùng áo cõi Trời Tịnh cư cứ ba năm, một lần phẩy, thời gian phẩy quét đến hết tảng đá đó gọi là một A-tăng-kỳ kiếp.

Hỏi: Nếu như vậy, Luận Bà-sa nói: Bồ-tát Thích ca, siêu vượt chín kiếp là chín kiếp gì?.

Đáp: Du-già tiếp đó nói: Nếu chánh tu hành tối thượng thượng phẩm, dũng mãnh tinh tiến, hoặc có người có thể chuyển nhiều kiếp, tiểu tam tai kiếp, nên biết không ai chuyển được vô số đại kiếp. Ở đây giống với Luận Bà-sa nói về tu diệu tướng chuyển đại kiếp.

Hỏi: Nếu vậy, thời gian đã lâu dài vậy thì do đâu thành Phật?.

Đáp: Ở trong mộng thì cho là nhiều năm. Khi tỉnh giấc mơ thì chỉ là một khoảnh khắc, thời gian tuy là vô lượng, ngộ thì chỉ là một Sát-na thường tự siêng năng đừng ôm lòng sợ hãi. Do vậy phải nói là ba Atăng-kỳ mài luyện tâm.

Dưới đây là phần hai – Nói về tính chủng tính.

Trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu vị biện tướng; 2. Chánh niệm tu hành; 3. Kết. Mãn vị. Đây là phần một nêu vị biện tướng.

Kinh: Tiếp đến là Bồ-tát tính chủng tính, Trụ vô phân biệt.

Giải thích: “Tính chủng tính”: Như giải thích ở trước.

“Trụ vô phân biệt”: là nêu ở trong ngôi vị này, tu mười hạnh thù thắng, xa lìa chấp tướng phân biệt tự tha. Lại nữa, hiểu rõ ba giả, quán vô phân biệt.

Tiếp theo là phần hai – Chánh biện về tu hành. Trong đó có ba phần: 1. Tu mười Hạnh; 2. Đối tượng đối trị; 3. Đối tượng tu quán. Trong phần một lại có hai phần: 1. Mười tuệ Quán.

Kinh: Tu mười tuệ quán.

Giải thích: Mười tuệ Quán: Tức là thập hạnh. Tuệ tức là tâm của chủ thể quán biệt cảnh. Tu hành mười Hạnh như Thí v.v… mười hạnh là: Thí, giới v.v… tu khởi gọi là hành, hành pháp viên mãn gọi là Thập, gọi chung là mười hạnh, theo số đặt tên tức là Hạnh của các hành. Tự và Tha khác nhau. Về biệt danh thì: nếu nói; Thí, giới… thì theo Thể mà đặt tên nói Hoan hỷ… thì theo dụng mà đặt tên. Nêu thể và biện minh nhân (người) thì như giải thích ở trụ trước.

Kế đến là phần hai – Tỏ riêng về Thập hạnh. Văn chia làm mười phần: 1. Hoan hỷ.

Kinh: Xả bỏ tài sản, mạng sống.

Giải thích: Giải thích về tên của Hạnh: Bố thí làm vui mình, vui người gọi là Hoan hỷ hạnh. Ba nghiệp không tham làm tự tính. “Xả bỏ tiền tài, mạng sống”: xả tức là thí do tâm thường xả bỏ, mà hành sự bố thí. Tài là tiền của, đồ dùng, pháp tài. Mạng là thân xác, và hạnh vô úy, đều có thể xả bỏ.

Tiếp sau là phần hai – Hạnh nhiêu ích.

Kinh: Trì giữ tịnh giới.

Giải thích: Tên hạnh: Hộ trì tam tụ, làm ích lợi cho mình và người, gọi là nhiêu ích hạnh. Thọ trì tịnh giới thì lấy ba nghiệp làm tự tính.

“Trì giữ tịnh giới”: Là thủ hộ luật nghi, ba nghiệp không phạm sai lầm. Kế nữa là phần ba – Hạnh không trái nghịch.

Kinh: Tâm khiêm cung.

Giải thích: Tên hạnh; nhẫn lực trị được sự sân hận của mình và người, gọi là hạnh không trái nghịch. Ba nghiệp không sân làm tự tính. “Tâm khiêm cung”: Nhiều thứ hủy nhục, bức bách não hại, tâm vẫn khiêm cung, đều có thể nhẫn được.

Dưới đây là phần bốn – Hạnh không bị khuất phục, nghiễm loạn.

Kinh: Lợi tự tha.

Giải thích: Tên hạnh; tinh cần siêng năng tu tập, tâm không hối lọan gọi là hạnh không bị khuất phục nhiễu ba nghiệp siêng năng làm tự tính.

“Lợi tự tha”: là nổ lực tinh tấn các căn, tu các Hạnh thù thắng, đều không thối khuất, tinh tấn làm ích tự tha. Dưới đây là phần năm – Hạnh lìa ngu si, loạn động.

Kinh: Không loạn sinh tử.

Giải thích: Tên hạnh; khéo tu Chỉ phẩm, Đẳng thù thắng Trì gọi là Hạnh lìa ngu si loạn động. Lấy định làm tự tính.

“Không loạn Sinh tử”; như kinh thuyết: ở trong thế gian chết ở đây sinh ra ở kia, vào, trụ, ra thai đều không si loạn, là hạnh thiền định.

Tiếp theo là phần sáu – Hạnh thiện Hiện

Kinh: Vô tướng thâm diệu.

Giải thích: Tên hạnh; quán thật tướng của pháp, thấu rõ hiện tiền gọi là hạnh thiên hiện (khéo hiện tiền). Lấy Trạch pháp làm tính.

“Vô tướng Thâm diệu”; như kinh thuyết: Niệm Niệm quán sát, tất cả chúng sanh, lấy vô tính làm tính. Tất cả các pháp lấy vô vi làm tính. Tất cả quốc độ lấy vô tướng làm Tính ngay ở Tướng mà quán tính, gọi là thâm diệu tức tu hạnh Tuệ.

Sau đây là phần bảy – Hạnh không chấp trước.

Kinh: Thấu của đạt có như huyễn.

Giải thích: Tên Hạnh; khéo tu Hạnh thù thắng không bị ngưng trệ ở không và có, gọi là hạnh không chấp trước, lấy Trạch pháp làm Tính.

Thấu suốt “có” Hữu Như huyễn: hiểu rõ hữu vi ra là như huyễn không thật. Như kinh thuyết: Quán các pháp như huyễn, chư Phật như ảnh, Bồ-tát hành như mộng, Phật thuyết pháp như tiếng vang, Thế gian như hóa hiện, do hiểu các điều đó nên không đắm trước không và có; tức là hành phương tiện

Tiếp theo là phần tám – Hạnh khó được.

Kinh: Không cầu quả báo.

Giải thích: Tên Hạnh: Thường lấy đại nguyện để thâu nhiếp các Thiện căn thù thắng nên, gọi là hạnh khó đạt được, dùng ý, dục thắng giải tín, tư, niệm… làm tự tính.

“Không cầu Quả báo”: là tự mình tu Hạnh thù thắng, không mong cầu quả sau này. Làm lợi lạc hữu tình, không mong cầu họ báo đáp lại.

Kế tiếp là phần chín – Hạnh hiện pháp.

Kinh: Đắc vô ngại giải.

Giải thích: Tên Hạnh; Hiểu rõ sâu xa căn khí, khéo dùng pháp hóa độ, gọi là hạnh Thiện Pháp, tư trạch làm tính.

“Đắc vô ngại giải”. Nghĩa là đắc bốn loại: pháp, nghĩa, từ, biện, lực vô ngại giải, tư trạch tu tập hạnh hai Lợi.

Tiếp nữa là phần mười – Hạnh chơn thật.

Kinh: Niệm niệm thị hiện thần lực Phật.

Giải thích: Tên hạnh. Lời nói việc làm tương ưng chân thành, đúng thật gọi là hành chân thật. Trạch pháp làm tính.

“Niệm Niệm thị hiện thần lực Phật”: là như kinh thuyết: Bồ-tát ma ha ha tát đó, thành tựu ngữ chân thật đệ nhất, như nói có thể hành, như hành có thể nói, tùy thuận theo bản thệ nguyện đều đạt sự cứu cánh, niệm niệm khắp đến mười phương thế giới. Niệm Niệm đến thăm khắp các Quốc độ Phật. Niệm Niệm đều thấy chư Phật và Quốc độ trang nghiêm thanh tịnh không thể nói hết. Thị hiện thần lực tự tại của Như Lai khắp cả pháp giới hư không giới. Đại Sư tử hống, đắc vô sở úy, có thể chuyển pháp luân thanh tịnh vô ngại, đến đáy nguồn thật tướng nơi biển pháp Phật. Thực hành hạnh hai Lợi. Tóm kết mười hạnh, tụng sau:

Hoan hỷ, nhiêu ích, không trái nghịch

Không khuất phục, lìa si loạn động

Thiện hiện, không chấp, khó đạt được

Thiện pháp và nói hành chân thật.

Sau đây là phần hai – Đối tượng trị. Trong đó chia làm hai phần: 1. Trị mười đảo.

Kinh: Đối trị bốn đảo, ba căn bất thiện, hoặc nghiệp ba đời, mười điên đảo.

Giải thích: Mười tuệ Quán trên là hành năng trị, mười Đảo dưới đây là chướng Sở trị.

Nói “Đối trị”: đó là nêu chung. “Bốn Đảo”: là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Trong Tập chủng tính trước, tu hành trụ thứ ba đã nói về đối trị, còn ở đây là vĩnh viễn diệt trừ. “Ba căn bất thiện”: là Tham, Sân, Si. Hạnh thứ nhất Hoan hỷ thì Trị kia. Hạnh thứ ba không trái nghịch thị trị sân, Hạnh thứ sáu Thiện hiện thì trị si.

“Hoặc nghiệp của ba đời”: là nhẫn nhân quá khứ, nhẫn nhân quả hiện tại và nhẫn quả vị lai. Hạnh thứ bảy không chấp trước thì trị quá khứ, hiện tại. Hạnh thứ tám khó đạt được thì trị quả vị lai. Theo hạnh mà có đời trị riêng.

“Mười điên đảo”: Mười tổng kết về đối tượng trị (sở trị).

Tiếp theo là phần hai – Ngã, pháp không.

Kinh: Ngã, Nhân, Tri kiến, niệm niệm giả dối.

Giải thích: “Ngã Nhân, Tri kiến”: là nêu sở tri. Tập chủng tính trên nói chỉ lần lần chế phục trừ bỏ, ở đây nêu lên niệm niệm của uẩn tức sở y, sở trị đều giả dối.

“Niệm niệm giả dối”: là chỉ rõ chúng là không thật, cái Ngã đối Trị đó mãi mãi không hiện hành.

Dưới đây là phần ba – nói hành quán. Trong đó chia làm hai phần: 1. Quán pháp tu.

Kinh: Thấu đạt danh giả, Thọ giả, pháp giả, đều chẳng thể đạt được, không có tướng tự tha, trụ chơn thật mà quán.

Giải thích: Thông đạt thể của danh, thọ, pháp đều là giả dối, không có chơn thật, không thể đạt được. Trước kia là nương theo sinh khởi dùng pháp, Thọ, danh làm thứ yếu. Nay ở đây là nói về đối trị từ dễ đến khó nên khác thứ tự.

“Không có tướng tự tha”: Nghĩa là tu mười Hạnh và trị mười Đảo, khống trụ nơi Tướng phân biệt tự và tha, hiểu rõ ba giả không, không khởi phân biệt. Đó tức là thuận hướng đến lý vô sinh là quán chơn Thật. Thiên Thai gọi đó là trong Thập hạnh có vô sinh nhẫn, cũng tương tự với đây.

Dưới đây là phần hai – hành tu tập.

Kinh: Trung phẩm, tu tập tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật đa.

Giải thích: Trong ngôi vị Hiền, cho nên văn dễ hiểu.

Tiếp theo là phần ba – Kết. Trình bày vị viên mãn.

Kinh: Ở hai A-tăng-kỳ kiếp, hành các hạnh thù thắng, đắc vị nhẫn kiên cố.

Giải thích: Ngôi vị này thời gian dài hơn ngôi vị trước một kiếp.

“Hành Hạnh thù thắng”: Là kết về mười Hạnh đó.

“Đắc vị nhẫn kiên?”: Là được vào ngôi vị sau

Kế đến là phần ba- Đạo chủng tính, văn chia làm ba phần như trên phần một. 1. Nêu vị biện tướng.

Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Đạo chủng tính, trụ trong Nhẫn kiên cố, quán tính các pháp, đắc vô sinh diệt.

Giải thích: “Đạo chủng tính”: như trên đã giải thích.

“Trú trong nhẫn kiên cố”: kiên, nghĩa là kiên cố không thể hư hoại. Như kinh Phạm Võng nói: Thập Hồi hướng là Thập Kim cang.

“Quán tính các pháp”: là tính pháp Hữu vi

“Đắc vô sinh diệt”: là hiểu rõ hữu vi không, rõ về vô sinh diệt.

Dưới đây là phần hai – Chánh biện về tu hành, trong đó chia làm hai phần: 1. Mười Hồi hướng; 2. Đối trị; 3. Biện về sinh sai biệt. Tuy nhiên mười hồi hướng nghĩa là những điều mình đã tu phát khởi lên tư nguyện, mạnh hơn. Có ba nghĩa: chiếu lý bất trú, gọi là Hồi, Đại Bi cứu vật gọi là Hướng, là Hướng chúng sanh. Lại nữa, hành không trú ở có, gọi là Hồi. Thắng đến Bồ-đề gọi là Hướng, là Hướng Bồ-đề. Lại nữa, nhưng không trụ ở tướng gọi là Hồi, đạt sự chiếu Như gọi là hướng, là Hướng Thật tế. Do những nghĩa đó gọi là Hồi hướng. Hồi hướng viên mãn, nên gọi là mười. Nói là mười Hồi hướng là theo số mà dặt tên. Mười Hồi hướng này đều đủ cả ba nghĩa: 1. Hướng chúng sanh: là Thiện căn nương vào chúng sinh mà được tăng trưởng lại vì đại bi, nên khác với Nhị Thừa; 2. Hướng Bồ-đề: là tâm nương theo Bồ-đề phát thuận hướng đến Bồ-đề, mong quả vô thượng, mau viên mãn; 3. Hướng Thật tế; thiện căn nương theo Thật tế, ắt sẽ quay về với lý, trí khởi chiếu Như, mong được chứng viên. Do vậy Hồi hướng này có đủ ba nghĩa. Nêu thể chung tức là đại nguyện, riêng thì bốn pháp; Định Tuệ Nguyện Bi, đủ cả năm uẩn. Về biệt danh và tướng sẽ giải thích sau.

Nói về mười Hồi hướng, văn chia làm mười phần. Dưới đây là phần một Hồi hướng – Cứu hộ tất cả chúng sanh, lìa tướng chúng sanh.

Kinh: Bốn tâm vô lượng, phá tan các ám.

Giải thích: Tên gọi cứu vớt là cứu, gia trì hộ vệ là hộ. Đối với những cứu hộ, hiểu rõ bình đẳng gọi là lìa tướng. Lại nữa, Bi có thể cứu hộ, Trí có thể lìa tướng, hành lìa tướng là hồi Hướng.

“Bốn vô lượng tâm”: là tâm cứu hộ.

“Phá tan các ám”: là cứu vớt hữu tình, phá tan bóng tối phiền não.

Dưới đây là phần hai – Hồi hướng chẳng hoại.

Kinh: Thường thấy chư Phật rộng khởi cúng dường.

Giải thích tên này: Tam bảo và giới là tính chẳng hoại. Lấy thiện căn kia mà thành tựu Hồi hướng này.

“Thường thấy chư Phật”: là dựa vào cao nhất, thù thắng nhất để nói, theo lý thì đủ cả Pháp, Tăng và Giới.

“Rộng khởi cúng dường”: là nói rõ phước tư lương, rộng cúng dường.

Dưới đây là phần ba – Hồi hướng bình đẳng tất cả chư Phật.

Kinh: Thường học chư Phật, trụ tâm Hồi hướng.

Giải thích: Tên gọi học tập theo hạnh làm của chư Phật ba đời mà hồi hướng, niệm niệm tu học, thành tựu Hồi hướng này.

Nói “Thường học”: là tâm thọ học.

Nói “Chư Phật”: là chỗ thọ học.

“Tâm Hồi hướng”: là sự việc thọ học.

Như kinh Hoa Nghiêm nói: Đạo Hồi hướng của chư Phật đức Thế Tôn gồm có ba loại: 1. Những Thiện Căn đã tu, Hồi hướng về pháp giới, không gì sánh bằng; 2. Hồi hướng Bồ-đề, mong được viên mãn; 3. Hồi hướng chúng sanh thân cận với Tam bảo. Thọ trì thực hành ba điều đó tức là thường học. Dưới đây là phần bốn – Hồi hướng đến tất cả xứ sở.

Kinh: Những thiện căn tu, đều như Thật tế.

Giải thích: Tên gọi này tất cả những thiện căn mà Bồ-tát đã tu đạt đến mọi xứ, thành Hồi hướng này.

“Những thiện căn tu”: là các Thiện căn đã tu, phước Tuệ, tự Lợi, lợi Tha, vô lượng Hạnh nguyện.

“Đều như thực tế”: là nêu dụ nói rõ thành. Thật tế thì bình đẳng khắp cả mọi nơi, các hành đã tu do không Trụ tướng, nên bằng với thực tế. Dưới đây là phần năm – vô lượng công Hồi hướng vô lượng tạng công đức.

Kinh: Trong Tam muội, rộng làm Phật sự.

Giải thích tên gọi này: dùng pháp mà mình đã tu tập vô tận các hành pháp công đức mà thành tựu Hồi hướng này.

“Trong Tam muội”: là nêu nương theo định

“Rộng làm Phật sự”: là sự việc hóa lợi. Như kinh Hoa Nghiêm nói; nghĩa là Bồ-tát đó sám hối trừ chướng nặng, lễ kính chư Phật, thỉnh xin tất cả chư Phật thuyết pháp, tùy hỷ tất cả Thiện căn của chư Phật, Bồ-tát. Phàm hễ những đức hạnh tri kiến của tự mình tu đều Hồi hướng làm trang nghiêm tất cả cõi Phật, nhập, Tam muội tự tại không thể diễn bày và phương tiện thiện xảo làm Phật sự.

Tiếp theo là phần sáu – Hồi hướng vào tất cả thiện căn bình đẳng.

Kinh: Hiện nhiều loại thân, thành tựu bốn nhiếp pháp.

Giải thích tên gọi: rộng tu Đàn Thí, đắc ba luận thanh tịnh, trụ tâm bình đẳng thành tựu Hồi hướng này.

“Hiện nhiều loại thân”: là hiện thân tôn quý tùy theo từng loài.

“Hành bốn nhiếp pháp”: là hành lợi tha. Như kinh Hoa Nghiêm thuyết, hoặc làm đế Vương, hoặc làm Chuyển Luân vương bố thí tiền của ngoài thân và thân thể. Có một trăm hai mươi môn với chi tiết khác nhau. Từ môn thứ hai mươi lăm đến hết môn thứ hai mươi tám là nói về Hạnh Đàn (Bố thí). Dưới đây là phần bảy – Tùy thuận tất cả chúng sinh bình đẳng Hồi hướng.

Kinh: Trụ không phân biệt, hóa lợi chúng sanh.

Giải thích tên gọi này: Thiện căn rộng lớn, phương tiện thiện xảo, tùy thuận chúng sanh, thành tựu Hồi hướng này.

“Trú không phân biệt”: là tuy trụ nhiều tướng nhưng giống như không phân biệt.

“Hóa độ lợi ích chúng sanh”: là Hạnh lợi tha thù thắng.

Tiếp theo là phần tám – Hồi hướng tướng chân thật.

 

 

PHẦN 2

Kinh: Trí tuệ sáng tỏ. Quán sát sâu xa.

Giải thích: Tên gọi; các hạnh đã tu, phước Tuệ vô lượng, đều đồng là chơn thật, thành tựu Hồi hướng này.

“Trí Tuệ sáng tỏ”: nghĩa là quán lý và sự hiểu sáng tỏ liễu rõ ràng.

“Quán sát sâu xa” Hành hợp với lý gọi là sâu xa. Không trụ có và không đều, tức là khéo quán sát. Dưới đây là phần chín – Về giải thoát không trói buộc, không chấp trước Hồi hướng.

Kinh: Tất cả hành nguyện, khắp đều tu tập.

Giải thích: Tên gọi không bị tướng trói, không chấp trước các kiến, mọi tạo tác tự tại, thành tựu Hồi hướng này.

“Tất cả hành”: là các hành như Bố thí… “Tất cả các nguyện”: là nguyện rộng lớn cả hai thứ hổ trợ nhau ắt cùng khởi.

“Khắp đều tu tập”: do không bị trói buộc chấp trước nên, giải thoát tự tại, vô lượng hạnh nguyện đều tu tập.

Dưới đây là phần mười vô lượng pháp giới bình đẳng Hồi hướng.

Kinh: Có thể làm Pháp sư, điều ngự hữu tình.

Giải thích: Tên gọi các hành đã tu, lìa tướng rộng lớn, đều ngang bằng với pháp giới, thành tựu Hồi hướng này.

“Có thể làm Pháp sư”: là vì đắc vô ngại giải, khéo hóa độ, dẫn dắt.

“Điều Ngự hữu tình”: Diễn thuyết đúng với căn, khiến khéo điều phục, lợi lạc rộng lớn. Như kinh Hoa Nghiêm nói; như dải lụa lìa sự nhơ nhớp mà bịt trên đỉnh đầu, trụ ngôi vị pháp sư, rộng hành pháp thí, khởi đại từ bi, an lập chúng sanh, đối với đạo Bồ-đề, thường tạo lợi ích, không có nghĩ ngơi, dùng tâm Bồ-đề, nuôi lớn thiện căn, vì các chúng sinh mà làm thầy hướng dẫn (Điều ngự sư), chỉ bày cho con đường Nhất-thiết-trí. Đó tức là nói về Hạnh hóa Lợi kết thành tụng là:

Cứu hộ, chẳng hoại, tất cả bình đẳng

Đến tất cả xứ và vô Tận

Tùy Thuận, bình đẳng, tùy và cùng chơn thật Không nói, không chấp, bình đẳng, pháp giới.

Tiếp theo là phần hai – Nói đối trị (sở trị). Trong đó chia làm ba phần: 1. Sở trị; 2. Biện sai biệt; 3. Chỗ tu chuyển thắng.

Phần một – Sở trị.

Kinh: Khéo quán năm uẩn, ba cõi hai đế, không có tướng tự tha, chứng đắc tính như thật.

Giải giải: “Khéo quán năm uẩn…”: là như trên đã giải thích. Nghĩa là quán năm uẩn chứng đắc giải thoát uẩn, Quán Nhân quả trong ba cõi đắc các nhẫn, không… Quán hai đế giả thật đắc sinh vô sinh nhẫn.

“Không có tướng tự tha”: Nghĩa là quán các uẩn thảy đều chẳng trụ, không có năng sở không có tự, tha, tức là vô phân biệt. Văn lại chia làm ba phần: 1. Sinh trong ba cõi.

Kinh: Tuy thường tu Thắng nghĩa, nhưng thọ sinh trong ba cõi.

Giải thích: “Tuy thường tu thắng nghĩa…”: là giải thích sự thắc mắc nghi hỏi. Nghĩa là: Đã tu Hạnh thù thắng trước đây đều thuận với Thắng nghĩa thì sau này sẽ sinh ra ở đâu? Tuy thường tu tập đều thuận với Thắng nghĩa, nhưng do cảm sinh tử phân đoạn trong ba cõi, Tập chủng chưa mất, chưa lìa tướng trói buộc, cho nên Hạnh tu vẫn Sinh ra ở Ba cõi. Kinh nói ba cõi là nói theo Tướng chung, đa phần là chỉ sinh ở Dục giới, như tiếp sau sẽ rõ. Dưới đây là phần hai – Hỏi về nguyên do.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Là nêu hỏi. Tiếp theo là phần ba – Giải thích nguyên do.

Kinh: Vì quả báo của nghiệp tập chưa hoại hết, cho nên ở trong cõi người cõi trời, thuận đạo mà sinh.

Giải thích: Nói “Nghiệp Tập”: Đó là Nhân. Nói “Quả Báo”. Đó là làm Quả. “Chưa hoại hết”: là do chưa đoạn dứt nghiệp, làm Nhân cho sự cảm sinh. Vì phân đoạn sinh chưa hoại hết. “Ở trong cõi Trời, Người”: là chỉ thọ sinh tốt đẹp ở Dục giới: Trời, Người. Vì sao chẳng như hai ngôi vị trên mà chỉ Dục giới Trời Người. Vì có hiệu quán đây là kề với Sơ Địa chẳng phải hai bậc trước kia.

“Thuận đạo sinh”: Trải qua nhưng không quên Tính thành tựu, đó là chủng tính thẳng đến. Nếu người Hồi tâm thì trong phần Biến dị trước đã phân biệt rõ.

Tiếp theo là phần ba – nói Hạnh tu tập.

Kinh: Thượng phẩm tu tập tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật-đa.

Giải thích: Tam Hiền trở lên, các câu khác thì đã rõ.

Dưới đây là phần ba – Kết. Trình bày vị mãn. Trong đó chia làm ba phần: 1. Số kiếp phải trải qua.

Kinh: Ba A-tăng-kỳ kiếp, tu hành hai lợi, tạo ích rộng lớn.

Giải thích: “Ba A-tăng-kỳ”: là gia thêm một kiếp so với bậc thứ hai trước, tu đủ cả hai lợi, nhiêu ích rộng lớn.

Kế đến là phần hai – Hạnh Xuất Ly.

Kinh: Đắc thiện điều phục các tam ma địa, trụ thắng quán sát tu hạnh xuất ly.

Giải thích: “Đắc thiện điều phục”: là ở ngôi vị Tam Hiền, khéo điều phục.

“Tam ma địa”: Tiếng Hoa gọi là Đẳng Trì. Thường tương ứng tu các định thù thắng đã tu.

“Trụ quán sát thù thắng”: là Thượng, trung, hạ phẩm tu tuệ thù thắng vì dẫn đến Hạnh xuất ly ở Sơ Địa. Lại còn giải thích; tu hạnh hai lợi là làm ích lợi rộng lớn, đó là kết về vị Tư lương ở trên, đa phần là trụ Ngoại Môn, tu Hạnh Bồ-tát, sau câu “Đắc thiện điều phục” là văn nói về ngôi vị gia hạnh. Hai câu trước là nói về Định mà mình nương vào… “Đắc Thiện Điều phục” là đã đắc Thượng phẩm điều phục tâm. “Các Tam Ma Địa”: là đắc các Định Sở y. Cả bốn Định đó chẳng phải là một cho nên gọi là các Định. hai câu sau là nói các vị Noãn v.v… nương theo bốn tầm tư, bốn Như thật Trí, gọi là Quán sát thù thắng.

Dưới đây là phần ba – Kết. Các Địa thù thắng ở sau.

Kinh: Có thể chứng đắc địa Thánh nhân bình đẳng.

Giải thích: “Có thể chứng đắc bình đẳng”: là Biệt vô lậu trí, thân chứng Chơn Như. Như tức là bình đẳng Địa của Thánh Nhân.

Tiếp sau là phần bốn – Hoan hỷ Địa. Trong đó có ba phần: 1. Nhập Tướng Địa; 2. Trụ Địa tu hành; 3. Kết, nói vị viên mãn.

Trong phần một lại có ba phần: 1. Tướng Nhập Địa.

Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Hoan hỷ địa, vượt hạng ngu phu, sinh nhà Như Lai, trụ nhẫn bình đẳng.

Giải thích: Hễ sắp đăng Địa thì trước tiên phải có tướng lành. Như kinh Kim Quang Minh quyển bốn nói: Phật bảo Bồ-tát Sư Tử Tướng vô Ngại Quang Diệm rằng: Này người thiện nam! Bồ-tát Sơ Địa, trước tiên là hiện tướng tam thiên đại thiên thế giới vô lượng vô biên nhiều loại tạng, báu, đều tràn đầy, Bồ-tát đều thấy, điều đó giống với đoạn văn nói về Thập Địa trong kinh Đại bảo Tích quyển một trăm mười lăm, tức là tướng trước tiên.

“Hoan hỷ Địa”: là bắt đầu chứng đắc tâm xuất thế, xưa chưa đắc nhưng nay bắt đầu đắc nên sinh ra cực Hỷ. “Địa” đức hữu vi, vô vi làm tự tính, như trên đã giải thích.

“Vượt qua Địa Ngu phu”: Ngu, nghĩa là phàm ngu, vô minh làm Địa. Vô lậu đoạn dứt vô minh nên bảo là vượt qua.

“Sinh ở nhà Như Lai Nhiếp Luận của Vô Tánh nói: Phật pháp giới gọi là Nhà Như Lai, chứng hội với đó nên gọi là sinh. Sơ sinh Thánh thai, nối giòng giống Phật. Như kinh thập Địa nói: Quá Địa phàm phu, nhập vị Bồ-tát, sinh tại nhà Phật, chủng tính tôn quý.

“Trụ bình đẳng nhẫn”: Chơn thì không có cao thấp, cho nên bảo là bình đẳng. Chánh trí chứng hội là nhẫn Trụ vậy.

Dưới đây là phần hai – Như sở chứng.

Kinh: Thứ nhất là Trí vô tướng, chiếu Thắng nghĩa đế, nhất tướng Bình đẳng, chẳng phải tướng vô tướng.

Giải thích: “Thứ nhất là Trí vô tướng trí”. Nghĩa là chơn kiến đạo, vô phân biệt, chứng lý hai không. Trí đó là Trí đầu tiên cho nên gọi là thứ nhất.

“Chiếu Thắng nghĩa đế”: là chứng pháp tính như Thắng nghĩa chân thật mà hai “không” hiển hiện.

“Nhất tướng bình đẳng”: Trí Như chẳng hai, tức là Nhất tướng bình đẳng.

“Chẳng phải tướng vô tướng”: không có tướng của năng và Sở, tức là chẳng phải tướng vô tướng.

Dưới đây là phần ba – Chướng sở đoạn.

Kinh: Đoạn các vô minh, diệt tham ba cõi, vô lượng sinh tử vị lai vĩnh viễn không sinh.

Giải thích: “Đoạn các vô minh”: là phân biệt khởi trong hai chướng vô minh chẳng phải là một, cho nên gọi là các tuy chỉ nói là đoạn dứt vô minh những các chấp chướng đều đoạn, vì chấp chướng nương vào gốc vô minh, chỉ cần đoạn dứt vô minh thì các chướng khác cũng theo đó mà đoạn dứt, cho nên chỉ nói là vô minh.

“Diệt Tham ba cõi”: Đó là cái mà tu đoạn. nghĩa là Tham phiền não và vô minh đều chướng ngại Thí độ. Khi nhập Sơ Địa thì Tham thô năng liền vĩnh viễn đoạn dứt.

“Vô lượng sinh tử vị lai vĩnh viễn không sinh”: Do phần biệt hoặc tạo ra mười ác và các Thiện nghiệp mà cảm vô lượng sinh tử ở cõi ác kia và các cõi Trời Trường Thọ ở Bắc câu Lô Châu, khi nhập Sơ Địa thì mãi mãi không sinh. Như kinh Kim Quang Minh quyển bốn. Đoạn hai Vô minh: 1. Vô minh Ngã pháp chấp trước tướng có. Nghĩa là trong hai chướng chấp trước tướng có. Vì hai chấp làm gốc cho là Ngã, pháp tức giống với đây “Đoạn chư vô minh”; Vô minh sợ hãi sinh tử cõi ác: Nghĩa là cảm các nghiệp quả cõi ác tức là đây với vô lượng sinh tử vị lai.

Dưới đây là phần hai – Trụ Địa tu hành. Trong đó chia làm ba phần: 1. Tu bi trí; 2. Trí nhất dị; 3. Tu trí nguyện.

Phần bi trí, văn có ba phần:

-Tổng nêu bi trí.

-Tu hạnh thù thắng.

-Y Địa biện minh đức.

Dưới đây là phần một – Tổng nêu bi trí.

Kinh: Đại bi làm đầu, khởi đại nguyện, với Trí phương tiện, niệm niệm tu tập, vô lượng hạnh thù thắng.

Giải thích: “Đại bi làm đầu”: là gốc của lợi tha.

“Khởi các đại nguyện”: là chỗ nương của Hạnh, do Hạnh và Nguyện nương dựa duy trì lẫn nhau, cả hai điều đó cùng tu không khởi riêng biệt.

“Đối với phương tiện Trí”: là Trí thấu đạt tục. Như kinh Thập Địa nói: Đại bi làm đầu, trí tuệ tăng thượng là các trí thuộc về, phương tiện thiện xảo, sở nhiếp chư Trí. Theo kinh đó thì rõ ràng là nương vào Bi và Trí.

Niệm Niệm tu tập, tự lợi lợi Tha, vô lượng Hạnh thù thắng đều là Thiện xảo. Tiếp theo là phần hai – Tu Hạnh thù thắng, văn lại chia làm hai phần: 1. Tu khắp các hành.

Kinh: Học khắp tất cả, chẳng phải chứng, chẳng phải không chứng.

Giải thích: “Chẳng phải chứng”: là phương Tiện Trí. “Chẳng phải không chứng”: là hình ảnh. Nếu theo Bản ký thì trong chơn có Tục, cho nên bảo là chẳng phải chứng. Trong Tục có chơn cho nên là chẳng phải không chứng.

“Học khắp tất cả”: là Trú trong Địa này, một vô số kiếp, vạn hạnh trang nghiêm, tu học khắp. Như Thành Thật luận nói; Rộng học Dị Luận ý biết khắp, Như kinh Thiện giới nói: Học khắp các luận Ngũ Minh… Lại nữa, Hoa Nghiêm quyển ba mươi bốn. Thập địa Luận quyển hai và ba đã nói chi tiết về Hạnh.

Kế đến là phần hai – Hướng Nhất-thiết-trí.

Kinh: Hướng Nhất-thiết-trí, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ.

Giải thích: “Phi trú”: là tu khắp các hành, chẳng trú dừng.

“Chẳng phải không Trú”: Với các hành tu, tâm không tán loạn thường tịch tịnh. “Hướng Nhất-thiết-trí”: là các hành nguyện đã tu đều hướng vào Nhất-thiết-trí.

Tiếp sau là phần ba – Y Địa biện minh đức. Trong đó có bốn phần:

1. Ma không thể động.

Kinh: Hành ở sinh tử, ma không thể động.

Giải thích: “Hành ở sinh tử” là xứ lợi sinh.

“Ma không thể động”: Nghĩa là bốn Ma, phiền não, uẩn, tử và Thiên, như phẩm Tự trên đã phân biệt rõ. Như Phật Địa Luận quyển một nói: Sơ Địa trở lên, các Đại Bồ-tát ở trong tịnh độ, lìa bốn ma thô, không năm sợ hãi. Tiếp phần hai: Lìa các sợ hãi.

Kinh: Lìa ngã, ngã sở, không có sợ hãi.

Giải thích: “Lìa ngã ngã sở” đã mãi mãi đoạn dứt những dấy khởi do phân biệt, không sợ hãi có năm: 1. Sợ không thể sống; 2. Sợ tiếng xấu; 3. Sợ chết; 4. Sợ ác đạo; 5. Sợ oai đức của đại chúng. Biện minh năm y. Thập địa Luận quyển hai nói: Năm sợ hãi này là chướng của Sơ Địa. Loại một, hai năm là y nương vào Thân khẩu ý. Loại ba, bốn y nương vào Thân. Vì Thân có yêu ghét khác nhau. Nói rõ năm nhân, lược có hai loại: 1. Vì Tà Trí vọng thủ, tưởng kiến ái trước; 2. Thiện căn ít ỏi. Năng đối trị là như kinh Thập Địa và kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát đó lìa Ngã tưởng, còn chẳng yêu Thân, huống nữa là tiền của, không sợ không thể sống, thì không mong cấu sự cúng dường ở người khác, chỉ chuyên thí cho tất cả chúng sanh, không sợ tiếng xấu, vì xa lìa ngã tướng, không có ngã kiến không có sợ chết, tự biết chết rồi chắc chắn không lìa chư Phật, Bồ-tát, không sợ ác đạo. Vì chí vui thích thế gian. Không có ai bằng, huống nữa là có hơn, nên không sợ oai đức của đại chúng, đây gọi chung là không còn sợ hãi.

Dưới đây là phần ba. Thường hóa độ chúng sanh.

Kinh: Không tướng tự tha, thường hóa độ chúng sanh.

Giải thích: “Không tướng tự tha”: là đắc vô phân biệt, chẳng trú tướng.

“Thường hóa độ chúng sanh”. Như kinh Thập địa nói: lại phát Đại nguyện, chịu trói buộc ở ba cõi, đi vào sáu cõi, tất cả sinh xứ, thuộc về danh sắc. Các loài như vậy, Ta đều giáo hóa, khiến nhập Phật pháp, đều khiến đọa dứt tất cả cõi thế gian. Khiến an trú đạo Nhất-thiết-trí. Cho đến tận hết đời vị lai, không bao giờ ngừng nghỉ. Đây là “thường hóa độ”. Dưới đây là phần bốn – Sinh chư Tịnh độ.

Kinh: Nguyện lực tự tại, sinh các cõi tịnh.

Giải thích: “Nguyện lực tự tại”. Nguyện do hành lực mà đắc tự tại.

“Sinh các cõi tịnh”: là cõi mà chư Phật thọ dụng.

Cõi tự thọ dụng của Bồ-tát đó với cõi xứ của chư Phật không có “Thể” khác nhau như đã phân biệt ở phần trên.

Hỏi: Cõi thọ dụng này, thể trạng ra sao? Nương theo đường, xe nào, được sinh?

Đáp: Như Phật Địa kinh luận quyển một nói: Tịnh độ của chư Phật, chu không giới hạn khó lường, vượt quá những xứ sở hành trong Ba cõi, hơn cả những sở khởi của xuất thế gian, lấy thức thanh tịnh tự tại cao tột nhất làm Tướng là chỗ mà Như Lai, thấy chỗ vân tập của chúng đại Bồ-tát. Lấy Đại niệm Tuệ hành làm con đường đi, Đại chỉ diệu Quán làm xe đi, đại không, vô nguyện, giải thoát làm cửa vào. Kinh này phần trên nói tu Tam thoát Môn, nay ở phần này lại nói Tự tại Nguyện lực rõ ràng là Nguyện do hành mà đắc tự tại, theo con đường và xe ấy được sinh đến.

Hỏi: Dựa vào đâu mà biết được họ sinh ra ở cõi này?

Đáp: Luận kia giải rằng: cõi tha thọ dụng, Bồ-tát đã vào địa mới được sinh.

Dưới đây là phần hai – Trí là một hay khác (Nhất Dị). Trong đó chia làm ba phần: 1. Căn bản Trí.

Kinh: Này người thiện nam! Giác trí này chẳng phải Như, chẳng phải Trí, chẳng phải có, chẳng phải không, không có hai tướng.

Giải thích: “Giác trí thứ nhất này”: là Trí nhập Địa. Giác là Trí giác chiếu tức là chứng chơn Trí.

“Chẳng phải như, chẳng phải trí”: là cảnh và Trí đều không

“Chẳng phải có, chẳng phải không”: là có và không đều đều vắng lặng.

“Không có hai tướng”: là Năng và Sở cả hai đều mất, tức là thức thứ sáu và Thức thứ bảy quán sát bình đẳng, hai Trí phẩm này là khởi 0 đầu tiên.

Dưới đây là phần hai – Phương tiện Trí.

Kinh: Phương tiện diệu dụng, chẳng phải đảo, chẳng phải trụ, chẳng phải động, chẳng phải tĩnh.

Giải thích: “Phương tiện diệu dụng”: là Đạt Tục Trí. Thể đủ cả bốn đức cho nên bảo là Diệu dụng.

“Chẳng phải đảo”: là tuy mang tướng mà duyên không điên đảo. “Chẳng phải trú”: là vạn hạnh đều tu, chẳng trú vào một hạnh “Chẳng phải động”: là duyên với Như trước, trí không tán động. “Chẳng phải tĩnh” là Thừa đại Trí Đại bi, tu vô Trú. Lại nữa, câu đầu là khác với Ngoại đạo câu tiếp là khác với phàm Thiên, hai loại động và tịnh thì khác với Nhị Thừa, Họ không có trí đó, khác với ở đây.

Kinh: Hai lợi tự tại, như nước với sóng, chẳng phải một chẳng phải khác, Trí khởi các Ba-la-mật-đa, cũng chẳng phải một, chẳng phải khác.

Giải thích: “Hai lợi tự tại” chơn trí thì tự lợi, phương tiện trí thì lợi tha với hai lợi đó tác dụng tự tại

“Như nước với sóng”: là nêu dụ để giải thích thành. Nước dụ cho Bản Trí, sóng dụ cho hậu trí dụng của hai thứ đó như sóng nước.

“Chẳng phải một chẳng phải khác”: là do động tịnh khác nhau cho nên chẳng phải một Lìa nước thì không có sóng, cho nên chẳng phải khác (chẳng phải khác) tức là nghĩa hai trí chẳng phải một.

“Trí khởi các Ba-la-mật đa cũng chẳng phải một Dị”: nương theo Trí khởi hành, hành và trí đều cùng khởi cũng như Nước và sóng chẳng phải một khác.

Dưới đây là phần ba – Tu Trí Nguyện. Trong đó chia làm hai phần:

1. Hạnh tu.

Kinh: Ở bốn A-tăng-kỳ kiếp, tu tập đầy đủ vạn vạn hạnh nguyện.

Giải thích: “Bốn A-tăng-kỳ” ngôi vị trước là ba, nay gia thêm một kiếp.

“Tu tập…” tu hành ở trong đây, khác với ngôi vị Hiền Theo Dugià Luận nói: vô số kiếp thứ nhất gọi là Ba-la-mật đa, ở trong một Hạnh, tu một hạnh. vô số kiếp thứ hai gọi là cận Ba-la-mật đa, ở trong một hạnh mà tu tất cả Hạnh. vô số kiếp thứ ba gọi là Đại Ba-la-mật đa, ở trong tất cả hạnh mà tu tất cả hạnh. Giải Thâm Mật quyển bốn và Duy Thức quyển chín cũng nói giống vậy. Nay ở đây tu tập đó tức là kiếp thứ hai, cho nên có khác với ngôi vị Hiền.

Dưới đây là phần hai – Trí Nguyện lực.

Kinh: Bồ-tát nơi địa này, không có nghiệp tập của Ba cõi, càng không tạo thêm mới, do tùy Trí lực để nguyện sinh.

Giải thích: “Không có Nghiệp Tập của ba cõi”. Nghiệp là hành, Tập là Tập khí, tức chung chủng tử và hiện hành không còn.

“Càng không tạo thêm nghiệp mới”. Mê lý vô minh chuyển phát nghiệp mới.

Đã đọan dứt nghiệp cũ, không tạo thêm nghiệp mới. Từ đây về sau cho đến Địa thứ mười những hạnh nguyện mà mình tu đều không chiêu cảm sinh do bởi bắt đầu nhập Địa thì vô minh bị đoạn.

Hỏi: Nếu vậy, vô minh ở địa sau khác với trước ra sao? Bồ-tát vào Địa hiện những tham, sân,… chẳng phải là nghiệp sao?

Đáp: Vô minh ở Địa sau, chỉ là câu sinh hoặc, tuy có nhưng không khởi, không phải phát nghiệp. Lại nữa, chư Bồ-tát hóa độ nhiều loại tính dục của chư hữu Tình, duyên để giáo hóa không chỉ là một, do lực đại bi mà hiện tham sân. Như kinh Hoa Nghiêm quyển sáu mươi tám nói về Bà tu mật nữ, quyển sáu mươi sáu nói về vô Yểm Túc vương, mỗi vị đều đắc vô lượng Tam muội chẳng giống bất thiện như mình thấy.

Hỏi: Nếu vậy, những báo tốt đẹp ở Địa phải là không có Nhân.

Đáp: Cũng không phải vậy. Do vô minh của các ngôi vị tư lương… thuộc Địa tiền phát hành làm nhân.

“Do tùy trí lực để nguyện sinh”. Các sư ở Tây phương có hai giải thích. Có thuyết nói: Do người tiệm ngộ và Trí tăng thượng nên đoạn dứt phiền não do tái sinh, không còn phân đoạn sinh trong Ba cõi. Quả báo của mười vua do tùy Trí lực và Định nguyện vô lậu mà thọ biến dịch sinh. Vì nếu không vậy thi phải không có mười vua kia. Nếu sinh ở ngoài ba cõi chẳng phải cảnh phàm thì chư Phật, Bồ-tát phải chẳng thấy. Có thuyết nói; có một Luận sư tên là Điều phục Quang dựa vào kinh Giải Thâm Mật mà nói như sau: một loại người do đốn ngộ mà bi tăng thượng những huân tập ở Địa tiền chiêu cảm thân thù thắng, nhân đó, lưu lại các Hoặc chủng thuộc sư, tùy theo nguyện lực thấm nhuần ở đó mà sinh. Địa thứ tám trở lên thì chỉ có Biến hóa sinh tùy địa định, tán đều có thể thấy. Vì vậy địa trước, quả mười vua đều là thật sự sinh.

Dưới đây là phần ba – Kết. Địa mãn.

Kinh: Niệm niệm thường hành Đàn Ba-la-mật đa, Bố thí, Ái ngữ Lợi hành, Đồng sự, thanh tịnh rộng lớn, khéo có thể an trú, tạo lợi ích cho chúng sanh.

Giải thích: “Niệm niệm thường hành”: trong mười Độ nghiêng nhiều về đàn độ bố thí tài, pháp, vô úy để làm viên mãn tu, những độ khác chẳng phải là không tu nhưng tùy theo khả năng.

“Bố thí, Ái ngữ…” Tu tập rộng lớn đều là thanh tịnh ở đây có hơi khác với Thập Địa Luận nói; dùng hai nhiếp pháp để thâu giữ chúng sanh là Bố thí và Ái ngữ, còn hai nhiếp sau chỉ tín giải lực hành chưa thông đạt.

“Khéo an trú…”: là Kết, Viên Mãn.

Dưới đây là phần năm – Ly cấu Địa văn có ba phần như trên: 1. Nêu nhập tướng địa.

Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Ly cấu địa, bốn tâm vô lượng, tịch diệt tối thắng, đoạn tập của sân v.v…

Giải thích: Là nói về nhập Địa. Như kinh Kim Quang Minh nói; Nhị Địa Bồ-tát Hiện trước tiên là tướng này, Tam thiên đại thiên thế giới đất bằng phẳng như lòng bàn tay, đồ dùng để trang nghiêm thì vô lượng vô biên trân bảo thanh tịnh nhiều loại diệu sắc.

“Ly cấu Địa” các cấu vi tế tội lỗi phạm giới đều đắc thanh tịnh gọi là vô cấu.

“Bốn vô lượng tâm”: Nghĩa là ở Địa này đoạn dứt Tập khí các sân bốn vô lượng tương ứng với tâm nhập Địa mà khởi.

“Tối thắng tịch diệt”: là chứng Như. Đây giống với tối thắng Như trong nhiếp Luận. Nghĩa là có đủ vô biên công đức thù thắng. “Đoạn tập sân…”: là Sở đoạn. Tập là tập khí, chữ Tập ở đây có hai nghĩa:

1. Chủng tử phiền não của Sân…; 2. Tính chất không tự tại do sân… huân nhiễm sâu nặng. Chữ “Đẳng” v.v… cũng có hai nghĩa: Đẳng thứ nhất là: Các tùy phiền não phẩm, nhuế, hại… Đẳng thứ hai là: những thứ đó cùng có tri chướng và sở đoạn. Ở đây lại có hai nghĩa như kinh Kim Quang minh nói: Một là Vi tế Học xứ lầm phạm vô minh tức là một phần câu sinh của địa này. Hai là vô minh phát khởi nhiều loại nghiệp hành. Tức là lầm phạm ba Nghiệp khởi do vô minh. Những vô minh này đều chướng Thi La hết sức thanh tịnh của Địa thứ hai. Khi vào nhập Địa thứ hai thì đều đoạn dứt mãi mãi.

Đoạn sai biệt là: ở đây chỉ câu hữu sân… chỉ đoạn dứt Tính thô trọng không tự tại, không đoạn dứt chủng. Vì chủng sân… thuộc tu sơ đoạn. Duy Thức quyển mười nói: về Tu sở đoạn thì Địa tiền phục dần dần, Sơ Địa trở lên nhanh chóng phục hết khiến vĩnh viễn không hiện hành, trong những địa trước Địa thứ bảy tuy tạm hiện khởi nhưng không bị lỗi lầm, Địa thứ tám trở lên thì rốt ráo không hiện hành nữa trong cả địa thứ mười thì không đoạn dứt chủng, đạt đến Kim cang định thì tất cả được nhanh chóng đoạn trừ.

Hỏi: Sở Tri chướng đó và Sân thô trọng, cả hai loại bất đồng đều bị đoạn dứt cùng lúc sao?

Đáp: Nói về sở đoạn, hai loại tuy là khác nhau nhưng chẳng phải lìa ngoài chướng riêng khởi vô gián, đoạn sân thô trọng mà chúng từ vô thủy đến nay đều câu hữu với Sở tri và lấy sở tri chướng làm gốc. Dùng đạo vô gián đoạn gốc chướng đó cho nên trong giải thoát đạo, tính thô trọng của Sân và Tính thô trọng của sở trí chướng đều cùng lúc xả bỏ.

Riêng về thời gian đoạn: khi vô gián đoạn khởi thì chủng của chướng không còn nữa, nhưng chưa xả bỏ tính chất không tự tại kia. Vì xả bỏ tính này, cho nên khởi giải thoát đạo. Giải thoát đạo khởi chẳng phải chỉ vì tính này. Cho đến chứng trạch diệt vô vi của phẩm này, thì tính chất không tự tại và đạo vô gián đều diệt mà chướng vô vi, đắc sinh cùng một lúc với giải thoát Đạo. Ở trong địa thứ mười hai chướng Sở đoạn đoạn chủng và đoạn tập cho đến đạo vô gián giải thoát năng đoạn đều dựa theo trên thì rõ.

Tiếp là phần hai – Trụ Địa tu hành. Trong đó chia làm hai phần: 1. Tu hạnh Thập thiện.

Kinh: Tu tất cả hạnh là: lìa xa sát hại, không cho thì không lấy, tâm không nhiễm dục, đắc ngữ chơn thật, đắc ngữ hòa hợp, đắc ngữ nhu hòa, đắc ngữ điều phục, thường hành tâm xả, thường khởi tâm từ trú tâm chánh trực.

Giải thích: “Tu tất cả hạnh” đó là nêu chung.

“Là…” Nói về Thập thiện. Ba điều đầu là Thân nghiệp lìa sát đạo dâm, bốn điều tiếp là khẩu nghiệp, xa lìa lời nói giả dối ly gián, thô xấu, tạp uế, ba điều sau là ý nghiệp; lìa các bất thiện căn tham, sân, si. Nghĩa là Bồ-tát này, Giới Độ viên mãn ba nghiệp thanh tịnh có đủ Thập Thiện.

Biện minh Thể của thập thiện: Hữu Tông cho là bảy sắc và ba tâm sở. Kinh bộ Tông thì duy chỉ là tư vận thân, phát ngữ, suy Tính quyết định cả ba tác động là ba. Đại Thừa thì cũng là Tư, giả cũng là sắc.

Biện minh sai biệt như Thập Địa kinh Luận quyển bốn nói: bởi tập nhân duyên thập thiện nghiệp Đạo mà sinh ra ở cõi Người đến hữu đỉnh xứ. Lại nữa, Thượng phẩm thập thiện nghiệp đạo này và Trí tuệ quán hòa hợp nhau mà tu hành nhưng vì tâm đó hẹp hỏi. Vì chán ghét sợ hãi ba cõi vì xa lìa Đại Bi vì từ người khác nói giáo pháp mà ngộ hiểu cho nên thành là thanh văn Thừa. Lại nữa, Thượng phẩm Thập Thiện

nghiệp đạo này tu trị thanh tịnh, không do lời dạy của Người khác mà tự giác Ngộ, nhưng vì không đầy đủ phương tiện Đại Bi, nhờ Ngộ hiểu sâu xa pháp Nhân duyên, nên thành là Độc giác Thừa. Lại nữa, Thượng phẩm Thập thiên nghiệp Đạo này, tu trị thanh tịnh, tâm rộng vô lượng đầy đủ thương xót, thực hành phương tiện phát sinh đại nguyện không xả bỏ chúng sanh, mong cầu đại trí của chư Phật tịnh trị các Địa Bồtát Tịnh tu tất cả các Độ thành tựu hạnh rộng lớn của Bồ-tát. Lại nữa, Thượng Thượng phẩm Thập Thiện nghiệp Đạo, nhất thiết chủng thanh tịnh, chứng mười lực, bốn vô úy, tất cả Phật pháp đều thành tựu. Dó tức là nói đầy đủ các thú, các Thừa, cho đến Phật qủa đều do Thập Thiện.

Trái với đó là quả mười bất thiện. Có ba loại Dị thục quả. Kinh kia tiếp đó nói: Thượng phẩm Thập bất thiện nghiệp đạo thì làm nhân Địa ngục trung phẩm thì làm nhân súc sanh, phẩm làm Nhân Ngạ Quỷ. Do đó mà bị sinh ra trong ba nẻo ác. Do quả đẳng lưu nên sinh trong loài người thì sát sinh có hai hai quả: Đoản mệnh và nhiều bệnh Trộm cắp có hai quả: nghèo khổ mất tiền tài, không tự tại Dâm có hai quả; vợ không trinh lương, không được được quyến thuộc tùy ý. Nói lời giả dối có hai quả: hay bị phí báng bị người khác lừa phỉnh. Ly gián có hai quả: quyến thuộc xa lìa trái khuấy thân tộc tệ ác. Thô ác có hai quả: thường nghe tiếng xấu lời nói hay bị tranh tụng. Tạp uế có hai quả: lời mình nói không có ai nghe nhận, lời nói không rõ ràng. Tham dục có hai quả, tâm không tri túc, đa dục không chán. Sân Nhuế có hai quả: thường bị người khác phê bình, lại thường bị người khác não hại. Tà kiến có hai quả: Sinh ra trong nhà tà kiến, tâm Siểm khúc cong vẹo. Đó tức là Đẳng lưu Quả trong cõi người. Tăng Thượng Quả là như Luận Bà-sa nói: Thân không bóng láng thường bị mụn nhọt, thân nhiều bụi nhơ miệng thường hôi thối,… tức là Tăng Thượng Quả trong cõi người. Kinh đó kết rằng: mười bất thiện Đạo có thể sinh ra vô lượng vô biên nhiều tu khổ lớn. Vì vậy nên lìa xa. Mười thiện nghiệp là vườn pháp đẹp, thường tự an trú cũng khuyên người khác an trú.

Dưới đây là phần hai – Lý Quá tu hành.

Kinh: Tịch tĩnh thuần thiện, lìa cấu nhiễm phá giới hành quán đại từ, niệm niệm hiện tiền.

Giải thích: “tịch tĩnh thuần thiện” là ba Nghiệp Tịch tĩnh lìa huyên náo, loạn động Thập Thiện không tạp tức là thuần Thiện.

“Lìa cấu nhiễm phá giới”: là Hạnh thanh tịnh.

“Hành Đại từ Quán”: là được định thù thắng.

“Niệm Niệm hiện tiền”: là không có gián đoạn.

Dưới đây là phần ba – Kết. Trình bày Địa viên mãn.

Kinh: Ở năm A-tăng-kỳ kiếp, đầy đủ thanh tịnh giới Ba-la-mật đa ý chí dũng mãnh, lìa hẳn các nhiễm.

Giải thích: “Năm A-tăng-kỳ” trước là bốn, nay gia thêm một kiếp.

“Đầy đủ…” tăng thiên về giới độ còn các độ khác thì tùy phần.

“Ý chí dũng mãnh”: là hạnh không có thối lùi.

“Lìa hẳn các nhiễm”: là thanh tịnh viên mãn.

Dưới đây là phần sáu – Phát Quang Địa. Văn lại chia làm ba phần như trên. 1. Nêu tướng nhập địa.

Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Phát quang Địa, trụ không phân biệt, diệt vô minh ám.

Giải thích: Tướng nhập Địa Như kinh Kim Quang Minh nói: Bồtát địa thứ ba tướng ấy trước hiện tự thân dũng kiện giáp phục trang nghiêm tất cả giặc oán đều bị chế phục. Bồ-tát thấy rõ.

“Phát Quang Địa”: là vô lượng trí tuệ, Tam muội quang minh không thể khuynh động không ai có thể bẻ gãy chế phục được lấy văn trì Đà-la-ni làm căn bản, gọi là phát Quang Địa.

“Trụ vô phân biệt”. Nghĩa là ngay khi nhập Địa thì vô phân biệt trí. Chỉ nói Trí Năng chứng ắt phải có Như sở chứng. Theo Duy Thức luận Bồ-tát nơi Địa này chứng Thắng Lưu chơn Như. nghĩa là giáo pháp chảy ra từ chơn như đó so với các giáo pháp khác là cực kỳ thù Thắng. nghĩa là do ba Tuệ đắc được từ Địa này thấu rõ pháp Đại Thừa mà chứng chơn như căn bản của giáo pháp đó.

“Diệt vô minh ám”: là nói đoạn chướng. Nghĩa là nhập Địa này, đoạn dứt chướng ám độn. Trong sở tri chướng câu sinh một phần chướng ba Tuệ thù thắng phát ra do Định thù thắng Tổng Trì ở Địa thứ ba đó. Như kinh Kim Quang Minh nói: Có hai vô minh: 1. Trước chưa ái, nay ái tức là vô minh nghĩa là chướng hai định thù thắng và tu Tuệ. Ái là phiền não câu hữu vô minh đều là năng chướng; 2. Có thể chướng tổng Trì thù thắng. Nghĩa là chướng Tổng trì văn, tư, Tuệ. Tiếng phạm gọi là Đà-la-ni, tiếng Hoa gọi là Tổng Trì, Niệm Tuệ làm Thể. Theo Địa Trì Luận thì có bốn loại: 1. Pháp Trì: trì danh cú văn; 2. Nghĩa Trì: trì nghĩa đã thuyên giảng; 3. Từ vô ngại giải; 4. Biện tài không dứt. Do đắc nhẫn Trí mà không quên bốn Tổng Trì này. Địa này đối với pháp, chí cầu không bao giờ mệt, như Thập Địa Luận quyển năm nói; giả sử tam thiên Đại thiên thế giới, đầy lửa lớn, chạy qua đống lửa đó để cầu một câu pháp mà Phật đã thuyết.

Dưới đây là phần hai – Trụ Địa tu hành. Trong đó chia làm ba phần: 1. Đắc Ba Minh.

Kinh: Ở nhẫn vô tướng mà đắc Ba Minh, biết rõ ba đời vô lai, vô khứ.

Giải thích: “Ở nhẫn vô tướng”: là Trí duyên với vô tướng, gọi là vô tướng nhẫn. “Mà đắc Ba Minh”: 1. Túc Trú Trí Minh; 2. Tử-sinh-trí Minh; 3. Lậu-tận-trí-minh. “biết rõ ba đời vô lai vô khứ”: là do ba Minh đó, đầu tiên là biết quá khứ, tiếp đến là biết vị lai, sau là biết hiện tại, biết rõ ba đời, đạt thể nó là “không”, không đến không đi.

Dưới đây là phần hai – Định Sở Tu.

Kinh: Nương theo bốn Tĩnh lự, bốn định vô sắc, vô phân biệt trí, thứ lớp tùy thuận.

Giải thích: “Nương bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc”. Tĩnh lự và Vô sắc như trên đã giải thích. Định Địa của hai giới gồm có tám loại sai biệt bảy loại trước mỗi loại có ba vị tịnh vô lậu, do phàm thánh khác nhau. Hữu đỉnh chỉ có hai không có vô lậu.

“Vô phân biệt Trí”: Tức là gia hạnh căn bản hậu đắc đều là vô phân biệt.

“Thứ đệ tùy thuận”: là Hậu đắc trí. Vì sao biết vậy? Vì Gia hạnh trí dẫn căn bản, căn bản Trí phẩm chứng chơn lý chỉ Hậu Đắc trí, nhiều loại tu hành đạt ở tám Địa thì đều tu tập. “Tùy thuận” nghĩa là tu tập từ dưới lên trên, tùy thuận hướng vào như “tu siêu đẳng chí” trong quyển hai mươi tám của câu xá Luận. Luận đó tụng rằng:

Hai loại định thuận nghịch

Đều gián, thứ và siêu

Chí gián, siêu được thành.

Với tám Địa trước thì thiện căn bản, Đẳng chí chia làm hai loại: 1. Hữu hậu; 2. Vô lậu. Hướng lên gọi là Thuận, trở xuống gọi là Nghịch. Đồng loại gọi là đều, khác loại là gián, gần nhau gọi là Thứ vượt một gọi là Siêu. Ý chí gián được thành: Nghĩa là người Quán hành khi tu siêu định, đối với Bát Địa Hữu lậu, thuận nghịch đều thứ, hiện tiền thường tập, vô lậu thất Địa thì thuận nghịch đều thứ, lậu vô lậu Địa thì thuận nghịch gián thứ. Với hữu Lậu Địa thì Thuận nghịch đều Siêu. Với vô lậu Địa thì thuận nghịch đều siêu hiện tiền thường tập gọi là gia hạnh mãn, vô lâụ Đẳng chí. Thuận nghịch gián siêu gọi là siêu được Thành. Đó tức là tùy thuận kinh Đại Bát-nhã Bồ-tát Ma-ha-tát Sư Tử Tần Thân Tam Ma Địa, tập Tán tam ma địa đến đoạn sau sẽ rõ. Như Thập địa Luận nói; Bồ-tát nơi địa này vì nghĩa gì mà nhập Thiền vô sắc, vô lượng thần thông? Vì năm loại chúng sinh: 1. Vì những chúng sinh yêu thích Thiền mà kiêu mạn nên nhập các Thiền; 2. Vì những chúng sanh giải thoát mà kiêu mạn nên nhập Vô sắc định; 3. Vì những chúng sinh khổ não khiến an ở Thiện xứ mãi mãi cho lạc vì để giải nổi khổ của họ khiến không thọ nhận mà nhập các Thiền Định khởi từ Bi vô lượng; 4. Vì những chúng sanh đã đắc giải thoát nên nhập Hỷ xả vô lượng; 5. Vì những chúng sanh quy y Tà mà nhập thần thông khiến họ chánh Tín. Địa này gặt được Bất Thối Thiền cho nên gọi là Tam muội Địa Tiền Địa, bốn môn trong năm loại trên là thuộc đoạn này môn thứ năm thần thông là thuộc đoạn sau.

Dưới đây là phần ba – Đắc Ngũ Thông. Trong đó chia làm hai phần: 1. Nêu chung các Định.

Kinh: Đầy đủ Định thù thắng đắc năm thần thông.

Giải thích: “Đầy đủ định thù thắng”: là tám Định trước bốn định đầu là chỗ nương của năm thần Thông.

“Đắc năm Thần thông”: Đó là nêu chung. Dưới đây là phần hai- Nói riêng về năm thông.

Kinh: Hiện thân lớn nhỏ, ẩn hiển tự tại. Thiên nhãn thanh tịnh, thấy rõ các cõi. Thiên nhĩ thanh tịnh nghe hiểu nhiều tiếng. Dùng Tha tâm trí biết tâm chúng sanh, có thể biết được vô lượng sai biệt về đời trước.

Giải thích: Trong năm thứ đó, loại một, ba, bốn là cảnh duy chỉ hiện tại. Vì hiện nghe, biết đều là hiện tại. Giới hạn của cảnh là như phần trước của kinh đã nói; muôn cõi nước Phật. Loại thứ năm là biết Quá khứ. Như Thập Địa kinh nói: Như thật niệm, biết vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha kiếp, quá khứ. Loại thứ hai là biết vị lai như nghĩa của biết Quá khứ.

Lại nữa, Thập Địa Luân nói về Trí, kiên thì bốn thông là trí, loại thứ năm là kiến. Nhưng Thập Địa Luận liệt kê năm thông là: 1. Thần thông; 2. Nhĩ thông; 3. Tha tâm thông; 4. Túc mệnh thông; 5. Thiên nhãn thông. Theo thứ tự đó mà nói về Trí và kiến thì khác với ở đây. Về ba Nghiệp khác nhau là: Luận đó tiếp theo nói; Thần thông đầu tiên là Thân nghiệp thanh tịnh. Thiên nhĩ và Tha tâm là khẩu nghiệp thanh tịnh. Túc mệnh tử sinh là ý nghiệp thanh tịnh. Về sở tri khác nhau là; thần thông thứ nhất là có thể vận thân đến chỗ chúng sanh hiểu ý một cách nhanh chóng. Thiên nhĩ trí thông có thể biết nghĩa âm thanh thuyết pháp. Tha tâm thông thì tùy theo các âm thanh lời nói đều biết hết. Theo với nghĩa đó nhiều loại tên khác lạ, tùy theo chúng sanh mà thuyết. Hai thông Quá khứ và vị lai thì biết hết Quá khứ vị lai của chúng sanh mà thọ hóa.

Dưới đây là phần ba- kết về địa viên mãn.

Kinh: Đối với sáu A-tăng-kỳ kiếp, hành tất cả nhẫn Ba-la-mật đa, đắc Đại Tổng trì, lợi ích an lạc.

Giải thích: “Sáu A-tăng-kỳ”; là như trên gia thêm

“Nhẫn Ba-la-mật”; thiên mạnh ở Độ này chẳng phải là không tu các Độ khác mà tùy theo lực phần. “Đắc Đại tổng trì”; bốn loại như trên đều được viên mãn.

“Lợi ích an lạc”; là kết lợi tha

Dưới đây là phần bảy- Nói về Diễm Tuệ Địa. Văn có ba phần như trên: 1. Nêu tướng nhập Địa tướng.

Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Diệm tuệ địa tu hành Thuận nhẫn, không có gì nhiếp tha vĩnh viễn đoạn trừ thân biên kiến vi tế.

Giải thích: Về nhập Địa, như kinh Kim Quang Minh nói: Bồ-tát địa thứ tư trước tiên là hiện tướng này; bốn phương phong luân nhiều loại diệu hoa đều rải đầy trên Địa Bồ-tát thấy rõ

“Diệm Tuệ Địa”: là dùng lửa trí tuệ thiêu đốt các phiền não tăng trưởng quang Minh tu giác phần.

“Tu hành Thuận nhẫn”: là Hạ phẩm nhẫn trong nhẫn thuận thứ ba. Tu là tu tập. Hành là Tiến thứ chữ nhẫn là tên gọi chung. Nay Nhập Địa này trí chứng nhơn gọi là Thuận nhẫn mới bắt đầu chứng lý này nên nghĩa nhẫn mạnh.

“Không có gì nhiếp thọ”: là Như sở chứng. nghĩa là chơn như đó không hề trói buộc lệ thuộc chẳng lệ thuộc Ngã chẳng phải là chỗ nương lấy do Ngã chấp.

“vĩnh viễn đoạn vi tế thân biên kiến”; là chướng sở đoạn nghĩa là ý thức cùng tu đoạn phiền não thân biên kiến của Tu đoạn. Nói vi tế; là Thân biên kiến này là phẩm thấp nhất vì duyên với chẳng tác ý vì nó xa tùy hiện hành, cho nên gọi là vi tế. Nó làm chướng Bồ-đề phần pháp ở Địa này khi nhập vào Địa này liễn vĩnh viễn đoạn dứt. Kiến cùng với vô minh thành là sở tri chướng. có hai loại: như kinh Kim Quang minh nói: 1. Đắm vị Đẳng chí vui mừng là vô minh: Tức gồm có ái định ở trong Địa này ở trong định thanh tịnh mà sinh ra đắm trước; 2. Vi diệu tịnh pháp yêu thích là vô minh: tức gồm có ái pháp ái trong đó. Tịnh pháp nghĩa là chơn như pháp và Bồ-đề phần pháp mười hai phần giáo pháp. Cả hai vô minh đó thành ra là sở tri chướng, tương ưng với hai ái phiền não kia. Lại nữa, cả hai vô minh từ vô thủy đến nay càng nhận vận trong ý thức mà sinh ra hai kiến thân biên tương ưng mà dấy khởi. Nay nhập Địa này vì vô minh đoạn dứt nên hai ái kiến vĩnh viễn không hành. Đoạn chủng đoạn hiện dựa theo giải thích trên thì rõ.

Địa này khác với ba Địa trước là: Ba địa trước hành Thí, Giới tu thì tương đồng với thế gian. Nay Địa thứ tư này đã đắc vô lậu Bồ-đề phần pháp gọi là xuất thế gian.

Dưới đây là phần hai – Trụ Địa tu hành. Trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu hành Sở Tu.

Kinh: Tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần.

Giải thích: Nói “Tu Tập”: là như Thập Địa Luận nói; trong địa này Tu Bồ Đêf phần hành tướng vô biên hoặc là lợi vô biên hoặc liền hướng đến quả đức vô biên, gọi là vô biên.

“Phần”: Nghĩa là Nhân, cũng có nghĩa là chi phần, hướng đến mỗi mỗi quả quả phần, gọi là phần pháp.

Dưới đây là phần hai – Nói về Bồ-đề phần.

Kinh: Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc. Căn, Lực, Giác, Đạo, đầy đủ.

Giải thích: “Niệm xứ,…” Ba thứ đầu mỗi thứ có bốn, hai thứ tiếp mỗi thứ có năm, thứ tiếp theo (giác) có bảy, thứ sau cùng (Đạo) có tám cọng lại thành ba mươi bảy. Liệt kê tên gọi và xuất thể đã nói ở phần phẩm Tự trên. Những thứ tu ở Địa này đều là vô lậu như kinh Thập Địa; tu Niệm, Trú, Căn, mỗi thứ đều bảo là trừ bỏ tham lam lo buồn ở thế gian, từ phần thần túc trở về sau đến hết Bát chánh Đạo, mỗi một thứ đều có đủ bốn điều; y chỉ yểm, y chỉ ly, y tâm diệt, y chỉ xả. Kinh Hoa nghiêm nói: Hồi hướng ở xả. Như Luận sa bà nói: Tuệ duyên với khổ, Tập, gọi là yểm (chán). Năng đoạn hoặc đạo gọi là ly, bởi lìa phiền não. diệt nghĩa là Hoặc không còn nữa, Lý của diệt được hiển rõ. Xả: nghĩa là đại xả, vì trú tịch tịnh. Nói chi tiết như trong Câu xá Luận quyển hai mươi lăm phần thứ mười nói về Đối pháp.

Dưới đây là phần ba – Quả hướng đến.

Kinh: Vì muốn thành tựu lực, vô sở úy, Phật pháp bất cộng.

Giải thích: Vì hướng đến quả Phật. Văn dể hiểu đã rõ.

Dưới đây là phần hai – Thời gian trải qua viên mãn Địa.

Kinh: Ở bảy A-tăng-kỳ kiếp, tu tập vô lượng tinh tấn Ba-la-mật đa, xa lìa biếng trễ lợi khắp chúng sanh.

Giải thích: “Ở bảy A-tăng-kỳ kiếp” gia thêm như trên.

Nói “Vô lượng”: là chúng hạnh rộng lớn, tu tập bất thối đều là tinh tấn, nghiêng về Độ này các độ khác thì tùy phần lực.

“Viễn ly giải đãi”: vĩnh viễn đoạn dứt các chướng.

“Phổ lợi chúng sanh”: là bình đẳng lợi Tha.

Dưới đây là phần tám – Nan thắng địa. Văn có ba phần như trên: 1. Nêu tướng nhập Địa tướng.

Kinh: Tiếp nữa, là Bồ-tát Ma-ha-tát Nan thắng địa, dùng bốn vô úy tùy thuận chơn như, thanh tịnh bình đẳng, tướng không sai biệt đoạn thuận vui cầu Niết-bàn.

Giải thích: Tướng nhập Địa là như kinh Kim Quang minh nói: Bồtát địa thứ năm, trước tiên là hiện tướng này; Có Diệu Bảo nữ, các anh lạc báu, trang nghiêm toàn thân, đầu đội danh hoa, để làm trang sức, Bồ-tát thấy rõ.

“Nan thắng Địa”: là tu hành phương tiện, thắng trí tự tại, đắc được những thứ khó đắc, gọi là Nan Thắng Địa.

“Dùng bốn vô úy”. Đây có hai loại: 1. Bốn vô úy của Phật Quả Nhất-thiết-trí vô úy, Lậu tận vô úy. Chướng Đạo vô úy, xuất khổ đạo vô úy; 2. Bốn vô úy của Bồ-tát: Văn trì vô úy, giải thoát vô úy chúng vô úy, Đáp nạn vô úy như trên đã giải thích. Nếu bốn loại sau chuyển được tăng tiến, rộng hành lợi lạc, gia hạnh dẫn phát thì nhập Địa này, như bốn loại trước. Do trong Địa này, trí năng chứng và chướng sở đoạn biết phần chướng đạo và xuất đạo ở trong các Địa đều đồng một qua, gọi là vô úy.

“Tùy thuận chơn Như”: Là như Thập Địa Luận quyển tám nói: Tùy thuận bình đẳng chơn như pháp, theo Luận đó thì Trí Năng chứng tùy thuận bình đẳng chứng lý Chơn như, là trung phẩm Thuận nhẫn.

“Thanh tịnh bình đẳng, vô sai biệt tướng”: là Như Sở chứng. Nhiễm và Tịnh đều bình đẳng, không có sai biệt khác nhau, chẳng phải như nhãn, nhĩ, tỉ… có sai biệt khác nhau.

“Đoạn thuận vui cầu Niết-bàn của tiểu thừa”: là chướng sở đoạn nghĩa là trong địa trước tu Bồ-đề phần, tuy đắc vô lậu do sở tri chướng khiến thiện tâm… có sự vui, ghét, giống với hàng Tiểu thừa kinh. Kim Quang Minh nói: 1. Muốn bỏ sinh tử vô minh; tức là chán sinh tử trong đoạn văn này; 2. Mong hướng Niết-bàn vô Minh: Tức là vui thích với Niết-bàn ở đoạn văn này. Cả hai vô minh đó làm chướng đạo vô sai biệt ở Địa thứ năm. Khi nhập vào Địa thứ năm thì đoạn dứt mãi mãi.

Dưới đây là phần ba – Trú Địa tu hành. Trong đó chia làm ba phần: 1. Quán các đế; 2. Tập kỹ nghệ; 3. Xuất chướng đạo. Dưới đây là phần một – Quán các đế.

Kinh: Tích tập các công đức, quán đủ các đế, đó là khổ Thánh đế,

Tập, diệt, Đạo đế, thế tục, thắng nghĩa, quán vô lượng đế.

Giải thích: “Tập các công đức”: là tích tập vô lượng hạnh nguyện công đức, như Thập Địa Luận quyển bảy nói; Tu tập Bồ-đề tâm đắc Đại nguyện lực tâm. Không mệt mỏi, từ bi không xả bỏ chúng sanh. Đắc Thiện căn lực, tu tập công đức Trí Tuệ hạnh nên không xả bỏ chúng sanh lực không, ngừng nghĩ các hành. Lực chánh tu hành, khởi phương tiện thiện xảo, lực không chán đủ hiểu rõ thượng địa thượng tâm: đắc tha thắng lực chánh thọ nhận Như Lai gia hộ tự đắc thắng: đắc niệm định tuệ.

Dưới đây là phần hai – Tập kỹ nghệ, văn có hai phần: 1. Tập kỹ nghệ.

Kinh: Vì lợi chúng sanh, tập các kỹ nghệ, văn tự, y phương, tán vịnh, vui đùa, ta hát công xảo chú thuật, dị luận ngoại đạo, chiêm tướng lành dữ không một sai lầm.

Giải thích: “Vì làm lợi cho chúng sanh mà tập các kỹ nghệ”: là nêu Lợi tha. Kỹ nghệ nghề nghiệp có sai biệt khác nhau.

“Văn tự”: là ghi chép. “Y phương”: là cứu chữa, chữa bệnh.

“Tán thán vịnh”: là văn từ. “Hý hiếu là ca nhạc. “Công xảo”: là điêu khắc, thêu thùa… “chú thuật”: là ẩn tàng, hiểu lộ… “Ngoại đạo dị luận” là mười sáu dị luận. “Cát hung chiêm tướng” Chiêm: nghĩa là Bốc phệ. Tướng là xem Tướng mặt, Tướng tay hoặc đoán mộng, xem sao… đều rành rỏi, khéo giỏi. Chiêm tướng có thể biết được cát hung họa phúc, không bao giờ sai lầm.

Dưới đây là phần hai – Hướng Bồ-đề.

Kinh: Nhưng không làm tổn hại chúng sanh mà làm lợi ích, đều khai thị cho họ, dần dần khiến an trú nơi Bồ-đề vô thượng.

Giải thích: Khai mở cái này, chỉ bày cái kia. Các câu văn khác thì dễ hiểu.

Dưới đây là phần ba – Xuất chướng Đạo.

Kinh: Biết các thú xuất đạo, và chướng đạo trong các Địa.

Giải thích: Nghĩa là biết các tâm nhập, trú, mãn, Xuất đạo chướng đạo trong các Địa đều biết rõ. Dưới đây là phần ba – Kết. Mãn Địa.

Kinh: Ở tâm A-tăng-kỳ kiếp, thường tu Tam muội, khai phát các hạnh.

Giải thích: “Ở tám A-tăng-kỳ” là gia thêm như trên.

“Thường tu Tam muội”: Nghiêng về Thiền Độ. Còn các độ khác thì tùy lực phần. Nương theo Định mà khai phát các hành nguyện.

Dưới đây là phần chín – Hiện tiền Địa. Văn có ba phần như trên.

Dưới đây là phần một – Nêu Tướng nhập Địa.

Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Hiện tiền địa, đắc Thượng thuận nhẫn, trú ba môn giải thoát, có thể dứt hết mọi, tập nhân tập nghiệp tướng thô hiện hành nơi ba cõi.

Giải thích: Tướng nhập Địa như kinh Kim Quang Minh nói Địa thứ sáu Bồ-tát thì trước tiên là hiện tướng này: Hồ Hoa bảy báu, có đường bốn cấp, cát vàng trải khắp thanh tịnh không nhơ, rước tám công đức đều đã tràn đầy. Hoa-Ôn-bát-la, Hoa-ba-đầu-ma. Hoa-phân-đầu, Hoa- phân-đà-lợi, tùy xứ trang nghiêm. Ở chỗ hồ hoa, dạo chơi vui vẻ, mát mẻ vô song, Bồ-tát thấy rõ.

“Hiện tiền địa”: hành và pháp tương tục nhau, hiển hiện rõ ràng. vô tướng tư duy, đều đã hiện tiền.

“Đắc thượng Thuận nhẫn”; là Trí năng chứng, là Thượng phẩm nhẫn.

“Trụ Tam thoát môn”: Như Thập Địa Luận quyển tám nói: Muốn nhập Địa thứ sáu. Phải đắc tất cả pháp tự tính vô tướng bình đẳng. Theo đó, tức là hiển chứng chơn lý Bình đẳng của ba Giải thoát môn.

“Năng tận Ba cõi,..”: là chướng sở đoạn, Năng tận nghĩa là Đoạn dứt hết. Tam giới: là nói về Sở y. Tập Nhân: là câu sinh phiền não và Thức chủng. Tập nghiệp: là các nghiệp chủng của phúc và phi phúc, đều là Nhân thuộc phân đoạn của Tập đế.

“Thô hiện hành tướng”: là Sở tri chướng. Nghĩa là do Địa trước quán về bốn đế: Hai Nhiễm hai tịnh, chấp là có Nhiễm có tịnh, thô tướng hiện hành, làm chướng đạo không có nhiễm tịnh ở Địa thứ Sáu. nghĩa là vô minh đó có hai loại, như kinh Kim Quang Minh nói: 1. Vô minh Quán hành Lưu chuyển. Tức là chấp có nhiễm ở đây; 2. Vô minh Thô Tướng hiện tiền: Tức là chấp Tịnh ở đây. Vì thủ tướng tịnh đó mà Tướng quán nhiều hành, chưa thể nhiều thời trú vô tướng quán, Khi nhập Địa này thì hai vô minh kia và Tập Nhân tập nghiệp đều đoạn dứt mãi mãi.

Dưới đây là phần hai – Trú Địa tu hành. Trong đó chia làm hai phần: 1. Duyên sinh Quán.

Kinh: Đại bi tăng thượng, quán các sinh tử, vô minh ám che, nghiệp tập thức chủng, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ ái, thủ, hữu sinh, lão tử, v.v… đều do chấp ngã.

Giải thích: “Đại Bi Tăng thượng, Quán các Sinh tử”: là trước tiên khởi tăng thượng đại bi lợi Sinh mà quán thọ nhận Sinh tử trong các thế gian. Như kinh Thập Địa nói: Chỗ thọ nhận thân sinh ra ở các thế gian khác nhau đều do bởi chấp trước dính mắc Ngã. Nếu lìa ở Ngã thì không có sinh, lão…

“Vô minh che ám”: là phát nghiệp vô minh, mê ám làm Tính vì che đậy Lý chơn thật, là gốc của Sinh tử.

“Nghiệp tập”: Nghiệp là các hành chẳng động phúc và phi phúc Tập là Huân Tập. “Thức chủng”: là nói chung về chúng Báo Thức… ở kết sinh vị thì chủng sinh hiện.

“Danh sắc”: là sơ kết sinh vị, bốn uẩn phi sắc, gọi chung là danh.

“Lục xứ”: là Danh sắc tăng trưởng, có nhãn, nhĩ… sinh ra sáu căn xứ.

“Xúc”: là xúc đối, căn, cảnh, Thức, cả ba hòa hợp lại mà sinh ra. “Thọ”; là lãnh nạp, Nhân ở xúc mà sinh ra. “Ái”: là làm nhuận Hoặc. Ái tăng lên gọi là thủ, Nghiệp… cả sáu loại tăng trưởng gọi là hữu. Hữu làm Quả, tùy ở các cõi, uẩn khởi thì gọi là Sinh, Suy thoái, thay đổi thì gọi là lão, hư hoại diệt chết thì gọi là tử “.v.v…” là ưu, bi, khổ, não đó. Cũng là hiển về duyên khởi, trường kiếp luân hồi, trị Đạo lúc chưa sinh ra, thường hằng vô tận.

“Đều do chấp ngã”: Bồ-tát Quán trường kiếp Luân hồi kia do bởi có Ngã nên Sinh tử không đoạn dứt.

Dưới đây là phần hai – Tam thoát môn quán.

Kinh: Vô minh nghiệp quả, chẳng phải hữu phi vô, nhất tướng vô tướng mà là bất nhị.

Giải thích: “Vô minh nghiệp quả” là vô minh, Ái, Thủ, cả ba là vô minh. Hành có hai chi, thông cả hai nghiệp; năm chi Thức… và bảy chi sinh, Lảo, tử là Quả…

“Chẳng phải hữu phi vô”: là không Giải thoát môn. Quán Duyên Sinh, Ngã, pháp chẳng phải hữu, thật Tính thì phi vô. Như Thập Địa Luận quyển tám nói: cứ như vậy mà Quán sát pháp nhân duyên rồi. Không có Ngã tác giả. Tự Tính không, ly, đắc không Giải thoát môn.

“Nhất tướng vô tướng”: là vô tướng Giải thoát môn. Luận đó nói tiếp. Quán hữu chi đó, tự tính diệt, cứ như vậy, không thấy một tí pháp Tướng nào, đắc vô tướng Giải thoát môn.

“Mà là Bất nhị”: là vô nguyện Giải thoát môn. Luận đó tiếp nói:

thấy pháp Nhân duyên, không có một tí pháp Tướng nào để có thể sinh nguyện lạc, duy chỉ đại bi giáo hóa chúng sanh đắc vô nguyện Giải thoát môn, Đó tức là hiển bày rõ vô nguyện với cảnh Bi là không hai.

Dưới đây là phần ba – Kết. Viên mãn Địa.

Kinh: Ở chín A-tăng-kỳ kiếp, hành trăm vạn Tam muội không, vô tướng, vô nguyện, đắc tất cả Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vô biên ánh sáng tỏa chiếu.

Giải thích: “Chín A-tăng-kỳ kiếp”: Là như trên, gia thêm một kiếp.

“Hành trăm vạn…” Như kinh Thập địa nói, ở mỗi ba Tam muội Môn đều đắc trăm ngàn vạn Tam muội hiện tiền là giống với ở đây.

“Đắc tất cả Bát-nhã…” Đắc là chứng đắc, gặt hái được nghiêng về Tuệ Độ, các độ khác thì tùy phần lực. Vô biên quang chiếu là đạt không, đạt Hữu đều là vô biên. Dưới đây là phần mười – Viễn hành Địa. văn có ba phần như trên: 1. Nêu Tướng nhập địa.

Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Viễn hành địa tu vô sinh nhẫn, chứng pháp vô biệt, đoạn dứt tướng hiện hành vi tế của các nghiệp quả.

Giải thích: Về Nhập Địa: Như kinh Kim Quang Minh nói: Bồ-tát địa thứ bảy trước tiên là hiện tướng này. Ở trước Bồ-tát có những chúng sanh đúng thì phải đọa Địa ngục, nhờ lực của Bồ-tát liền không bị đọa không bị tổn thương cũng không bị khủng bố sợ hãi.

“Viễn hành Địa”: là vô lậu vô gián, vô tướng tư duy giải thoát Tam muội, viễn tu hành.

“Tu Vô sinh nhẫn”: là nhẫn thứ tư trong năm nhẫn, nói về Trí Năng chứng là Hạ phẩm nhẫn.

“Chứng pháp vô biệt”: là Như, Sở chứng nghĩa là Chơn như này tuy nhiều giáo pháp, nhiều loại an lập nhưng không khác.

“Đoạn chư nghiệp Quả”: là nói về sở đoạn, các nghiệp quả cảm bởi Địa tiền, đến Địa này đều vĩnh viễn đoạn. “Tướng Hiện hành vi tế” là Sở Tri chướng. Chấp có sinh diệt, Tướng tế hiện hành làm chướng đạo Diện vô tướng của Địa này.

Dưới đây là phần hai – Trú Địa tu hành. Trong đó có hai phần: 1. Diệt định hạnh.

Kinh: Trú ở diệt định, khởi hạnh thù thắng, tuy thường tịch diệt, mà rộng hóa chúng sanh.

Giải thích: “Trụ ở diệt định”: là Định sở đắc. Thập Địa Luận quyển chín nói: là Tịch diệt Định, còn các luận khác đều gọi đó là diệt Tận định. Kinh Đại Bát-nhã thì gọi là diệt Thọ tưởng Định giải thích tên gọi này khiến không thường hành tâm nhiễm ô, tâm sở diệt tận, khiến mệnh thân an hòa, nên còn gọi là Định.

Dưới đây là phần hai – Thị hiện Hành.

Kinh: Thị hiện nhập Thanh văn, thường tùy trí Phật, thị hiện đồng ngoại đạo, thị hiện làm Ma vương, tùy thuận thế gian nhưng thường xuất thế.

Giải thích: “Thị hiện nhập Thanh văn” thị hiện nhập vào Tiểu Thừa nhưng khác với họ chỉ cầu tự độ, mà rộng lợi hữu tình tùy thuận Trí Phật .

“Thị hiện đồng ngoại đạo”: là trước dính các kiến. “Đồng với chứng Ma”: là vui với Sinh tử. “Tùy Thuận thế gian”: là thế gian phàm phu, nhiễm dính điên đảo. Bồ-tát thị hiện giống với họ. “Thường tu xuất thế”: là khiến họ đều đắc xuất thế, đồng một loài để mà hóa.

Dưới đây là phần ba – Kết. Viên mãn Địa.

Kinh: Ở mười A-tăng-kỳ kiếp, hành trăm vạn Tam muội, phương tiện thiện xảo, rộng tuyên pháp tạng, tất cả trang nghiêm đều được viên mãn.

Giải thích: “Mười A-tăng-kỳ”: là gia thêm như trên. “Hành trăm vạn Tam muội”: là như Thập Địa luận nói: Bồ-tát Trú Địa thứ bảy này có thể thập trăm ngàn vạn Bồ-tát Tam muội Môn để tịnh trị Địa này. “Thiện xảo phương tiện”: là nghiêng về điều đó. “Rộng tuyên pháp tạng” là lợi lạc tha. “Tất cả trang nghiêm” là Bi, Trí, Hạnh, Nguyện để tự trang nghiêm.

Dưới đây là phần mười một. Bất động Địa. Văn có ba phần như trên: 1. Nêu tướng Nhập Địa.

Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát chẳng động địa, trụ vô sinh nhẫn, thể không tăng giảm, đoạn các công dụng.

Giải thích: Về Nhập Địa, Như Kim Quang Minh nói: Bồ-tát địa thứ tám trước tiên là hiện Tướng này, ở hai bên thân, có sư tử vương làm hộ vệ, tất cả các thú vật đều phải sợ hãi. Bồ-tát thấy rõ.

“Chẳng động”: là vô tướng tư duy, tu đắc tự tại, các thành phiền não không thể làm lay động. “Trụ vô sinh nhẫn”: là nói về Trí Năng chứng là trung phẩm nhẫn. “Thể không tăng giảm”: là nói về sở chứng. Thể nghĩa là chứng hội, hoặc tức là chơn như, là thể Tính của các pháp. nghĩa là chơn như này lìa cái chấp về tăng và giảm, không tùy nhiễm tịnh. “Đoạn các công dụng” là chướng sở đoạn. “Công dụng” nghĩa là gia hạnh. Nghĩa là do công dụng khiến cho vô tướng quán không ý khởi. Năm Địa trước thì hữu Tướng quán nhiều, vô tướng quán thì ít. Ở Địa thứ sáu thì hữu Tướng quán ít vô tướng quán nhiều. Trong Địa thứ bảy thì thuần là vô tướng quán, tuy thường tương tục nhưng có gia Hạnh chưa thể tùy ý hiện thân và Thổ, cứ như vậy mà gia hạnh thì làm chướng vô công dụng Đạo trong Địa đó. Về Thể của công dụng đó có hai vô minh, như Kim Quang Minh nói: 1. Vô minh vô tướng quán công dụng: Nghĩa là chưa đắc tự tại trong vô tướng vì phải nhờ công dụng mới đắc khởi; 2. Vô minh chấp Tướng tự tại: Nghĩa là vì chấp Tướng mà khiến không đắc tự tại ở trong Tướng, vì còn nhiếp một phần tướng quốc độ. “Tướng là gì” Nghĩa là thị hiện tướng thân và tịnh độ đều gọi là Tướng cả hai vô minh đó khi nhập Địa này liền vĩnh viễn đoạn. Trong đó đắc được hai tự tại. Địa này trở lên thuần là vô lậu Đạo, thường nhậm vận tùy ý khởi, phiền não thuộc Ba cõi mãi mãi không còn hiện hành. Trong thức thư bảy mọi sở tri chướng vi tế còn hiện khởi, vì để sinh ra quả trí không, không trái với trên.

Dưới đây là phần hai – Trú Địa tu hành. Trong đó có hai phần: 1. Không có tướng của Thân và tâm; 2. Chư Phật gia trì.

Trong phần một lại có hai phần: 1. không có Tướng Thân tâm.

Kinh: Tâm tâm tịch diệt, không tướng thân tâm, giống như hư không.

Giải thích: “Tâm tâm”: Là tâm trước tâm sau, hoặc là tâm, tâm sở. “Tịch diệt”Là nói về chứng lý. “Vô tướng thân tâm”, hoặc là thân hoặc là tâm không có chỗ để thi thố, vì tịch lặng chẳng động. Câu trước là nói về tâm, câu sau là nói về Tướng hai thứ khác nhau. “Giống như hư không” là lấy dụ nói rõ chung. Như kinh Hoa Nghiêm nói: Ly tất cả tâm ý thức phân biệt, không còn thủ trước, giống như hư không, nhập tất cả pháp, như Tướng của hư không.

Dưới đây là phần hai – Bất khởi tâm.

Kinh: Bồ-tát đó, tâm Phật, tâm Bồ-đề, tâm Niết-bàn, thảy đều không khởi.

Giải thích: Là nói Bồ-tát này, tâm Phật đại bi, tâm Bồ-đề, tâm cầu Niết-bàn, những tâm đó còn chẳng khởi, huống nữa là khởi tâm thuộc về thế gian. Dưới đây là phần hai – Chư Phật gia trì. Trong đó chia làm hai phần: 1. Chư Phật gia trì.

Kinh: Do bản nguyện cho nên chư Phật gia trì.

Giải thích: “Do bởi bản nguyện”: là do Bản Thắng nguyện của Bồ-tát đó. Nghĩa là trong Địa nhập vào biển vô tướng, thân tâm tịch diệt. Nếu không có thắng nguyện thì mãi mãi không bao giờ khởi.

“Chư Phật gia trì”: duy chỉ có chư Phật gia hộ nhiếp trì thì có thể khởi tâm thú đến vô thượng. Như kinh Hoa Nghiêm quyển ba mươi tám và Thập địa Luận quyển mười đều nói: Thập phương chư Phật tất là đều hiện tiền cùng cho Trí Như Lai, khuyên bảy điều. Nay theo kinh

Hoa Nghiêm nói về bảy điều khuyên là: 1. Khuyên nên hướng đến Quả Đức: kinh nói: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! nhẫn này là Đệ Nhất thuận chư Phật pháp. Mà này, Này thiện nam! Chúng ta có toàn bộ mười lực vô úy, mười tám Bất cộng, pháp của chư Phật. Con nay chưa đắc, con muốn thành tựu pháp này khuyên con nên phải Gia thêm tính tấn, đừng lại buông xả. Là khuyên tinh tấn với nhẫn Môn này; 2. Khuyên thương nghĩ chúng sanh: Kinh nói: Lại nữa Này thiện nam! con tuy đã đắc tịch diệt giải thoát ấy, nhưng chư phàm phu chưa thể chứng đắc, nhiều loại phiền não đều đang hiện tiền, nhiêù loại giác Quán thường đến xâm hại, con nên mẫn niệm xót thương những chúng sanh như vây. Đó là khuyên hóa; 3. Khuyên nhớ bản Thệ: Kinh nói: Lại nữa, Này thiện nam! Con nên nhớ nghĩa về Bản thệ Nguyện của mình, làm lợi ích rộng khắp cho tất cả chúng sanh đều khiến được vào cửa trú tuệ chẳng thể nghĩ bàn. Đó là khuyên viên mãn bản nguyện; 4. Khuyên đừng đồng nhị thừa: Kinh nói: Lại Này thiện nam! pháp Tính này, Phật xuất thế hay Phật không xuất thế thì vẫn thường Trú không khác. Chư Phật không phải nhờ đắc pháp đó mà gọi là Như Lai, tất cả Nhị Thừa cũng có thể đắc được pháp vô phân biệt đó. Đó là khuyên song tu; 5. khuyên khiến thành (chỉ về sự): Kinh nói: lại nữa, Này thiện nam! con Quán chúng ta đây Thân Tướng vô lượng, Trí Tuệ vô lượng, Quốc độ vô lượng, phương tiện vô lượng, Quang Minh vô lượng, thanh tịnh Âm thanh cũng vô lượng. Con này nên phải thành tựu pháp đó. Đó là khuyên tu thành; . Khuyên đừng sinh thỏa mãn ngừng nghĩ: Kinh nói: Lại nữa, Này thiện nam! Con nay vừa mới đắc một pháp Minh này, pháp minh đó gọi là tất cả pháp vô sinh vô phân biệt. Này thiện nam! Còn pháp Minh của Như Lai thì vô lượng nhập, vô lượng tác, vô lượng chuyển, cho đến trăm ngàn ức Na do Tha kiếp không thể biết được. Con nên tu hành thành tựu pháp đó. Đó là khuyên tu khắp; 7. Khuyên phải nên thông đạt: Kinh nói: Lại nữa, Này thiện nam! Con Quán Thập phương vô lượng Quốc độ; vô lượng chúng sanh, vô lượng pháp, nhiều loại sai biệt khác nhau. Phải nên như thật thông đạt đó là khuyên biết khắp, thuyết bảy điều khuyên rồi. Kinh đó kết rằng: Nếu chư Phật không cho Bồ-tát đó khởi Trí Môn thì Bồ-tát đó lúc ấy sẽ nhập cứu cánh Niết-bàn, vứt bỏ tất cả nghiệp lợi chúng sanh. Đó tức chính là nghĩa của chữ gia trì trong đoạn kinh trên.

Dưới đây là phần hai – Khởi độ lợi ích.

Kinh: Trong khoảng một niệm, mà khởi Trí nghiệp, song chiếu bình đẳng, dùng Trí mười lực, hiện bày khắp, đại thiên thế giới không thể nói hết, tùy các chúng sanh đều tạo lợi lạc khắp.

Giải thích: “Trong một niệm khoảnh” là nhờ sự răn bảo rồi, trong một Sát-na. “Mà khởi Trí nghiệp” là nghiệp lợi sinh. “Song chiếu bình đẳng” là song chiếu chơn và Tục, lợi hành bình đẳng. “Dùng Trí Thập lực” một phần giống với trí Thập lực của chư Phật. “Khắp bất khả thuyết đại thiên thế giới”: Tức là trăm vạn vi trần số Phật xát mà phần trước kinh đã nói. “Tùy chư chúng sanh” là hiện thân theo loại, đúng với căn cơ mà làm lợi lạc. Như kinh Hoa Nghiêm nói Trí nghiệp được sinh ra ở trong khoảnh khắc một niệm tất cả các hành tu từ sơ phát tâm cho đến Địa thứ bảy, không bằng một phần trăm trí nghiệp đó. Cũng không bằng một phần trăm ngàn ức na do tha Thí như chèo thuyền vào biển lớn, khi chưa đến biển thì phải dùng nhiều sức lực, nếu vào giữa biển rồi thì chỉ theo gió mà đi, không cần sức người mà thuyền vẫn chạy trên biển, một ngày đi được so với khi thuyền chưa vào biển, giả sử trải qua cả trăm năm cũng không bằng Bồ-tát Ma-ha-tát cũng lại như vậy, tích tập rộng lớn thiện căn tư lượng, người con thuyền Đại Thừa đến biển hạnh Bồ-tát trong khoảnh khắc một niệm nhờ vô công dụng Trí mà nhập vào cảnh giới của Nhất-thiết-trí trí. Công Dụng hạnh vốn có, trải qua vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, đều không bằng được.

Dưới đây là phần ba – Kết. Viên mãn Địa.

Kinh: Ở ngàn A-tăng-kỳ kiếp, đầy đủ trăm vạn đại nguyện, tâm tâm hướng nhập Nhất thiết chủng, Nhất-thiết-trí trí.

Giải thích: “Ở ngàn A-tăng-kỳ kiếp” là vượt con số trước, như ba vô số kiếp của Du-già đã nói ở trên. Địa này mới bắt đầu nhập vào kiếp thứ ba, cho nên khác với trước, tuy là văn trước sau con số có nhiều ít nhưng thời gian trải qua trọn ba kiếp thì không khác. “Đầy đủ trăm vạn đại nguyện” là hạnh và nguyện cùng dưỡng nhau, cho nên bảo là mãn túc đầy đủ, nghiêng tăng về Nguyện độ các độ khác thì tùy phần. “Tâm tâm thú nhập” là tu không gián đoạn “Nhất thiết chủng, Nhất-thiết-trí trí” trước là Tục sau là chơn. Dời chữ Trí ở sau đặt ở chữ Chủng là kết chỗ thú đến.

Dưới đây là phần mười hai – Thiện Tuệ Địa. Văn có ba phần như trên. 1. Nêu tướng nhập Địa.

Kinh: Tiếp nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát Thiện tuệ địa, trụ thượng vô sinh nhẫn, diệt tướng tâm tâm chứng Trí tự tại, đoan chướng vô ngại.

Giải thích: Về nhập Địa, như kinh Kim Quang Minh nói: Bồ-tát địa thứ chín trước tiên hiện Tướng này; chuyển luận Thánh vương, vô lượng ức chúng vây quanh cúng dường. Long trắng che trên đảnh đầu được trang nghiêm bởi vô lượng các báu. Bồ-tát thấy rõ.

“Thiện Tuệ Địa”: là thuyết về nhiều loại sai biệt khác nhau của Tất cả pháp đều đắc tự tại, không khó khăn không mệt mỏi, Tăng trưởng trí Tuệ, tự tại vô ngại. “Trú thượng vô sinh nhẫn diệt tâm tâm tướng” là nói về trí Năng chứng, là Trú thượng phẩm nhẫn. Niệm niệm tịch diệt vô tướng làm Tướng. “Chứng trí tự tại” là như, Sở chứng. Do chứng chơn như mà trí đắc được tự tại. Nghĩa là: Nếu Địa này đã chứng chơn như rồi thì với vô ngại giải mà đắc tự tại. “Đoạn vô Ngại chướng”: là chướng sở đoạn. Bồ-tát nơi địa này đắc vô ngại giải, do bởi chướng làm chướng ngại vô ngại giải đó, cho nên gọi là vô ngại chướng. Vô minh của chướng đó có hai loại, như kinh Kim Quang Minh nói: 1. Vô minh ở nghĩa sở thuyết và danh cú văn, cả hai vô ngại đó chưa thiện xảo. Nghĩa sở thuyết”: là nghĩa vô ngại. “Danh cú văn”: là pháp vô ngại. Cả hai thứ đó mỗi thứ đều có vô lượng sự sai biệt khác nhau, gọi là vô lượng vì chưa đắc thiện xảo với hai loại đó; 2. Vô minh với từ ngữ biện tài, không tùy ý. Vô minh từ ngữ nghĩa là không có từ ngữ làm trở ngại Biện tài vô ngại, nhưng do vô minh cho nên không được tùy ý. Cả hai vô minh đó là chướng ở Địa này. Bốn vô Ngại giải không đắc tự tại, khi nhập Địa thứ chín liền đoạn dứt mãi mãi. Dưới đây là phần hai – Trú Địa tu hành. Trong đó chia làm hai phần: 1. Vô Ngại giải; 2. Lợi chúng sanh.

Trong phần một lại có hai phần: 1. Hộ pháp Tạng.

Kinh: Đủ đại thần thông, tu lực vô úy, khéo hộ trì được pháp tạng chư Phật.

Giải thích: “Đủ đại Thần thông” là nói đã đắc. “Tu lực vô úy”:

là nói về tu tập. “Khéo thủ hộ được pháp tạng chư Phật”: bốn vô ngại giải là pháp tạng của Phật khéo trì thuyết là Thủ hộ, hoặc là ở trong bốn vô ngại giải; đắc loại thứ nhất và thứ hai (nghĩa và danh cú văn) là Phật pháp Tạng, đắc hai loại sau Từ ngữ và biện tài là năng Thủ hộ. Như kinh Hoa Nghiêm nói: Làm Đại pháp sư, có đủ Hạnh của pháp sư, khéo thủ hộ được pháp Tạng của Như Lai, dùng Trí thiện xảo mà khởi bốn vô ngại dùng ngôn từ của Bồ-tát mà diễn thuyết. Theo ý của kinh đó thì Thập nhị phần giáo là Phật pháp tạng, có đủ hai lợi là Năng Thủ hộ, khởi bốn vô ngại là sự lợi lạc.

Dưới đây là phần hai – Vô ngại giải.

Kinh: Đắc vô ngại giải: Pháp, nghĩa, Từ, Biện, diễn thuyết chánh pháp không dứt, không hết.

Giải thích: “Đắc vô Ngại giải” đến Địa này thì gặt hái được Trí vô Ngại gọi là Đắc như phần giải thích về vô tánh trong Nhiếp Đại Thừa Luận nói: bốn vô Ngại giải thông cả định tuệ và pháp tâm tâm sở tương ứng làm tự tính. “Pháp, nghĩa, Từ Biện”; “pháp”: là biết tự Tướng của các pháp. “Nghĩa” là biết sai biệt của các pháp.”Từ” là nói không lầm lẫn, “Biện” là thuyết không bao giờ dứt hết, Như Thập Địa luận nói: khẩu nghiệp thành tựu. “Diễn thuyết chánh pháp không dứt không tận” là Biện vô Ngại.

Dưới đây là phần hai – Lợi chúng sanh.

Kinh: Trong khoảnh khắc một Sát-na, ở trong các thế giới không thể nói hết được, tùy các chúng sanh, tất cả thắc mắc một âm giải thích, khiến cho hoan hỷ.

Giải thích: “Tùy chư chúng sanh”: là các cõi người, Trời…

“Tất cả thắc mắc” theo âm thanh tiếng nói của mỗi loài, nhiều loại danh nghĩa mà thắc mắc vấn nạn.

“Một âm giải thích”: Năng giải là từ và biện, Sở giải là pháp và nghĩa. “Khắp khiến Hoan hỷ” tùy theo chủng tích, lợi căn trung căn, độn căn phổ khắp được ích, khiến cho Hoan hỷ, như kinh Thập Địa nói: Bồ-tát đó ở một chỗ Phật, dùng mười A-tăng-kỳ trăm ngàn Đà-la-ni môn nghe nhận pháp đó, ở vô lượng vô biên chỗ chư Phật khác, cũng lại như vậy. Bồ-tát đó, ở trong khoảng thời gian một niệm, hoặc một đại thế giới hoặc hai, ba, bốn, mười trăm, ngàn vạn ức thế giới, hoặc mười ức trăm ức, ngàn vạn ức Na do tha, cho đến số Đại Thiên Thế giới không thể nói, không thể nói, chúng sanh đầy cả trong đó, với khoảng thời gian một niệm, chỉ dùng một âm đều khiến khai hiểu, tức là ở trong một Danh, câu chữ mà thuyết tất cả các Danh, câu, chữ. Ở trong một nghĩa mà thuyết tất cả nghĩa. Trong âm thanh tiếng nói của một phương mà hiện tất cả âm tiếng. Ở trong một pháp đều ứng đúng với căn, diễn thuyết vô tận, gọi là vô Ngại giải. Dưới đây là phần ba – Kết. Viên mãn Địa.

Kinh: Ở vạn A-tăng-kỳ kiếp, hiện trăm vạn hằng hà sa thần lực của chư Phật nơi pháp tạng vô tận, lợi ích viên mãn.

Giải thích: “Ở vạn A-tăng-kỳ”: là thời gian trải qua vượt con số của Địa trước. “Hiện Trăm vạn…”: là hiện thần lực chư Phật, tức nói Thần thông. Bồ-tát này, trong mười Độ thì nghiêng về Lực Độ. “Vô tận pháp tạng”: là bốn vô Ngại giải, Rộng Làm lợi lạc.

Dưới đây là phần mười ba nói: Pháp vân Địa. Trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu nhập Địa Tướng; 2. Trụ Địa tu hành; 3. Kết. Mãn vị. Dưới đây là phần một – Nêu Tướng Nhập Địa.

Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Pháp Vân Địa, vô lượng trí

tuệ, tư duy quán sát, từ phát tín tâm, trải qua trăm vạn A-tăng-kỳ Kiếp, rộng tập vô lượng trợ đạo Pháp, tăng trưởng vô biên đại phước trí, chứng nghiệp tự tại, đoạn chướng thần thông.

Giải thích: Về nhập Địa: Kinh Kim Quang minh nói: Bồ-tát địa thứ mười, trước tiên hiện tướng; thân của Như Lai, Kim sắc huy hoàng, vô lượng Tịnh Quang đều đã viên mãn, có vô lượng ức phạm vương vây quanh, cung kính cúng dường, chuyển ở vô thượng vi diệu pháp luân, Bồ-tát thấy rõ.

“Pháp vân Địa”: là pháp thân Như hư không, trí tuệ như đám mây lớn, đều có thể che đầy khắp tất cả. hai chữ Pháp vân là tên gọi riêng của Trí Như. Duy thức luận nói: Mây trí đại pháp, ngậm nước các đức. “Vô lượng trí tuệ tư duy quán sát”. Đó tức là gia hạnh, quán sát khắp. “Từ phát tín tâm”: là nêu tối sơ. “Trải trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp” là thời gian đã trãi qua khi đạt viên mãn Địa thứ chín. “Rộng tập vô lượng trị đạo pháp”: là nói về đã tu tập tất cả hạnh nguyện, pháp để trị đạo. “Tăng trưởng vô biên Đại phước trí”: là nói đã tăng trưởng phước trí rộng lớn. Quán sát như vậy, dẫn đến trí năng chứng, chứng Tịch diệt nhẫn, mà nhập vào Địa này. “Chứng nghiệp tự tại”: là nói về sở chứng. nghĩa là, Trong Địa này, Chơn như đó khắp ở tất cả thần thông, tác nghiệp, tổng trì định môn đều trị tại. Tuy ở trong Địa thứ mười mà Chơn Như không có riêng khác tùy theo Hạnh năng chứng mà giả đặt Tên gọi. “Đoạn Thần Thông chướng”: là chướng sở đoạn (chướng bị đoạn dứt). Thần Thông chướng là dựa theo nghĩa chính mà đặt tên gọi. Thông chướng Địa mày khiến chư pháp không được tự tại, cũng làm chướng ngại mây Trí Đại pháp và những sự nghiệp hàm tăng được khởi. Đây có hai loại vô minh như kinh Kim Quang Minh nói: 1. Vô minh với đại thần thông chưa đắc tự tại biến hiện, tức chính là chướng những sự nghiệp khởi ở trong đó, câu này đúng thì phải nói thế này: vô minh với đại thần thông biến hiện chưa đắc tự tại, như vậy văn mới thuận; 2. Vô minh về vi tế bí mật chưa thể hiểu ngộ sự nghiệp, tức là làm chướng ngại mây trí đại pháp và những hàm chứa trong ấy, Do cả hai vô minh làm chướng Thần Thông, khi nhập vào Địa này liền vĩnh đoạn.

Dưới đây là phần hai – Trụ Địa tu hành. Trong đó có ba phần: 1. Hạnh lợi tha.

Kinh: Trong khoảng một niệm, khắp mười phương trăm vạn ức A-tăng-kỳ thế giới vi trần số quốc độ đều biết tâm hành nơi căn thượng trung hạ của tất cả chúng sanh, vì họ thuyết giảng pháp ba Thừa, khiến đều tu tập Ba-la-mật đa.

Giải thích: “Trong khoảnh một niệm…”: là nói về khi năng hóa khắp cả quốc độ giáo hóa hữu tình đúng căn được ích, theo pháp đều tu tập. Dưới đây là phần hai – Tu chuyển y.

Kinh: Nhập hành xứ, lực, vô sở úy của Phật tùy thuận Như lai, tịch diệt chuyển y.

Giải thích: “Nhập hành xứ, lực vô sở úy của Phật”. Nhập: nghĩa là chứng Nhập hoặc là hướng nhập, chứng chơn lợi lạc hành xứ của Phật. Lực vô úy… là công đức bất động đều hướng vào. “Tùy thuận Như Lai Tịch diệt chuyển y”: là những chuyển y do tu tập Quả vị. Chuyển: là chuyển dịch. Y: là Sở y. chuyển đổi sự kém cõi đắc sự thắng tốt là nghĩa của chuyển y. Nhưng chuyển y đó có sáu loại khác nhau như Duy Thức Luận nói: 1. Chuyển tổn lực ích Năng; ở ngôi vị Tam Hiền, do nhờ tu tập thắng giải và hổ thẹn làm tổn thế lực nhiễm chủng trong Bản thức, làm ích công năng tịnh chủng trong bản thức, dần dần chế phục hiện hành gọi là chuyển; 2. Chuyển thông đạt: nghĩa là ở ngôi vị sơ địa, do lực của kiến đạo và thông đạt chơn như, đoạn dứt hai chướng thô trọng do phân biệt sinh ra, chứng đắc một phần chơn thật chuyển y; 3. Chuyển Tu Tập: nghĩa là chuyên thông cả địa thứ mười do bởi tu tập nhiều hạnh thập địa dần dần đoạn dứt hai chướng thô trong câu sinh, dần dần chứng đắc chơn thật chuyển y. 4. Chuyển Quả viên mãn: nghĩa là ở Ngôi vị cứu cánh cuối cùng, do bởi ba Đại A-tăng-kỳ kiếp tu tập vô biên, Hạnh thù thắng hạnh khó làm khi Kim cang Định hiện tiền rõ ràng thì mãi mãi đoạn dứt tâts cả thô trọng, chứng ngay Phật Quả, viên mãn chuyển y cùng tận vị lai, lợi lạc vô tận; 5. Chuyển hạ liệt: nghĩa là ngôi vị nhị thừa chuyển cầu tự lợi, chán ghét khổ đau, vui thích tịch lặng không có sự kham năng chịu đựng, gọi là chuyển hạ liệt; . Chuyển quảng đại: nghĩa là Ngôi vị Đại thừa vì Lợi Tha cho nên hướng Đại Bồ-đề. Sinh tử hay Niết-bàn đều không chán ghét hay yêu thích. Có sự kham nhẫn Tốt, gọi là chuyển Quảng Đại.

Dưới đây là phần ba – Phục diệt đốn tiệm. Trong đó chia làm hai phần: 1. Phục, diệt khác nhau; 2. Thấy Đốn, Tiệm trong phần một lại chia làm ba phần: 1. Nêu chung về phục vị.

Kinh: Này người thiện nam! Từ Tập nhẫn đầu tiên đến Định Kim cang đều gọi là điều phục tất cả phiền não.

Giải thích: “Từ sơ Tập nhẫn”: là nêu đầu tiên. “Đến Kim cang Định”: là nêu cuối cùng. Nêu từ đầu tiên cho đến cuối cùng là nói về phục đó. “Phục” là như trong các đoạn văn khác. Thế đạo gọi là phục, điều phục phiền não hiện Thánh đạo thì gọi là đoạn, đoạn dứt phiền não chủng, chữ phục ở Địa này hợp với hai đạo trên đều gọi là phục. Đối với Ngôi vị Kim cang Định thì dùng chữ phục thuộc Thánh đạo. Tuy là hai chướng thô phẩm không còn nữa, nhưng vi tế phục là chủng do bởi chưa đoạn dứt, cho nên bảo là phục. Như trong khởi Tín Luận: trước khi Đoạn chuyển Thức, gốc ngọn vô minh cũng gọi chung là Đoạn, nhưng vì vọng Bổn Bất giác, cho nên gọi là phục. Như Bản ký nói: Từ Sơ Thập Tín đến Kim cang Định, chưa đoạn dứt A-lai-da-thức, một Sát-na còn tồn tại cho nên nói là phục tất cả phiền não.

Dưới đây là phần hai – Nói riêng về Đoạn diệt.

Kinh: Tín nhẫn vô tướng, chiếu Thắng-nghĩa-đế diệt các phiền não. Sinh Trí giải thoát.

Giải thích: “Vô tướng Tín nhẫn”: là nhập sơ địa, chơn kiến đạo. Trí chứng chơn như, cho nên bảo là vô tướng là sơ Tín nhẫn. “Chiếu Thắng-nghĩa-đế”: là chứng Như. “Diệt các phiền não”, hai chướng nên gọi là các. Thể đều là vô minh gọi chung là phiền não kiến Đạo sơ đoạn cho nên gọi là diệt. Trước so với câu sinh nên gọi chung là phục, đó là dựa theo phân biệt đương Thể diệt. “Sinh giải thoát Trí”: Nghĩa là quán pháp không sinh quán sát bình đẳng Trí phẩm, gọi là giải thoát Trí. Lại tức là pháp thân Bồ-tát vị Thủy Giác trong Khởi Tín Luận.

Dưới đây là phần ba – Cứu cánh diệt.

Kinh: Dần dần phục, diệt, dùng tâm sinh diệt, đắc không sinh diệt, tâm đó nếu diệt thì vô minh diệt.

Giải thích: Ở đây có hai nghĩa, có thuyết nói: “Dần dần phục diệt”. Theo Duy Thức quyển mười trong tu sở đoạn phiền não liền phục, sở tri liền diệt, ở trong địa thứ mười mỗi Địa đều vậy, cho nên bảo là tiệm tiệm, hơn nữa, tất cả những hiện khởi của phiền não chướng, Địa tiền thì dần dần phục Sơ Địa trở lên thì đều hàng phục hết, tùy theo những tương ứng với Trí chướng ở các Địa như sơ Địa thì Tham. Nhị Địa là Sân… mỗi Địa đều phục, chủng tử của những chướng đó đến Kim cang Định tất cả đều được nhanh chóng, như tất cả những hiện khởi của Sở Tri chướng, Địa tiền thì tiệm phục, cho đến Địa thứ mười mới vĩnh viễn đoạn dứt hết. Địa thứ tám trở lên sáu thức câu sinh đều không còn hiện hành vì vô lậu Quán tâm và Quả tương tục ngược lại với chúng, câu sinh với Thức thứ bảy còn có thể hiện hành đến quả trí pháp “không” khởi lên mới phục. Năm chuyển Thức trên giả như chưa chuyển y, vô lậu phục nên chướng không hiện khởi, nhưng chủng tử của những chướng đó, ở trong địa thứ mười dần dần theo thứ tự mà đoạn diệt, đến Kim cang Định mới vĩnh viễn đoạn dứt hết. Phục và diệt hai chướng có những khác nhau như trên.

“Dùng tâm sinh diệt”: là Trí Năng chứng. “Đắc vô sinh diệt”: là Như sở chứng. “Tâm đó nếu diệt thì vô minh diệt”. Đó là tâm tập khởi, tức là tập khí vô minh thức thứ tám thường nương vào tâm đó. Ngôi vị tâm vô lậu thì Thức hữu Lậu diệt vì những chủng tử vô minh kia đều đã diệt.

Có thuyết nói: “Dần dần phục diệt”, theo khởi Tín Luận: là từ ngọn mà hướng về gốc, như người phàm phu vì hiểu biết niệm trước khởi ác nghiệp nên có thể ngừng niệm sau khiến nó không khởi, tuy lại gọi là Giác nhưng chính là Bất giác. Nhị thừa quán trí, mới Bồ-tát phát ý là vị tương tựa với giác vị, giác ngộ niệm khác không có tướng khác, xả phân biệt Thô, gọi là dần dần phục. Sơ Địa trở lên pháp Thân Bồ-tát tùy phần giác ở Niệm. Niệm không có Tướng Trú gọi là dần dần diệt, gọi chung là dần dần phục diệt. “Dùng tâm sinh diệt đắc vô sinh diệt”: là dùng tùy phần giác tâm của sinh diệt, tu chứng không ngừng mà đắc đến cứu cánh vô sinh diệt. “Tâm đó nếu diệt thì vô minh diệt”: như hết Bồ-tát Địa trong ngôi vị Đẳng giác, khi Kim cang Dụ Định hiện rõ tại tiền đầy đủ phương tiện thì tức là phương tiện Đạo một niệm tương ưng tức vô gián đạo, tướng đầu tiên của tâm giác ngộ tức là nghiệp Tướng nhân ở vô minh căn bản mà nghiệp Tướng động niệm, nghiệp Tướng tâm diệt thì vô minh diệt.

Dưới đây là phần hai – Kiến độn tiệm.

Kinh: Trước định Kim cang, vốn có các tri kiến đều không gọi là kiến, chỉ có Phật một lúc hiểu ngay, đủ Nhất-thiết-trí, thì tất cả tri kiến đó mới được gọi là kiến.

Giải thích: “Trước định Kim cang”: là trước ngôi vị Đẳng giác. “Toàn bộ tri kiến”: là chứng Chơn đạt tục, Tuệ tri kiến. “Đều không gọi là kiến”: vì Trí phẩm chưa đủ, hiểu biết giác ngộ chưa trọn vẹn, nên không gọi là kiến. “Duy chỉ Phật một lúc hiểu ngay, có đủ Nhất-thiếttrí, thì Tri kiến đó mới đắc gọi là kiến tức đủ cả bốn Trí phẩm, hiểu biết giác ngộ viên mãn tột cùng nên gọi là kiến.

Hỏi: Phật Trí dần dần viên mãn, vì sao lại gọi là đốn? (Một lúc ngay).

Đáp: Phàm luận về tiệm đốn thì có bốn loại: 1. Giáo tiệm đốn; phương tiện thì thuyết có ba. Nói thẳng thì chỉ có đại thừa; 2. Lý Tiệm Đốn: vì theo thứ tự dần dần ngộ nhập và chiếu Thật Tính; 3. hành tiệm đốn; Nhị thừa hồi tâm và thẳng đến; 4. Quả tiệm đốn: hai Trí phẩm trước dần dần theo thứ tự và viên mãn. Như gương trí phẩm hoàn hảo một lúc đầy đủ hình tượng. Thể của Niết-bàn Sở chứng chẳng có Tiệm hay đốn, đó là nói theo trí năng chứng, cũng không sai. Lại nữa, Bồ-đề vô thượng theo với tiệm tu mà viên tròn. Tính tịnh Bồ-đề thì vốn đã Mãn túc. Nay ở đây, quả vị Phật quả, giải Lý viêm cực, mộng tưởng đều hết. Giác biết tự tâm vốn không lưu động nay vô sở Tịnh, thường tự một tâm, trú giường Nhất Như, Như kinh Kim cổ nói: Trong mộng qua sông đến bờ bên kia rồi tức gọi là kiến ấy.

Dưới đây là phần ba – Kết. Vị viên mãn. Văn lại chia làm hai phần: 1. Đẳng giác; 2. Phật Quả.

Trong phần một lại có hai phần: 1. Đẳng giác vị.

Kinh: Này người thiện nam! Khi Kim cang Tam muội hiện tiền rõ ràng, nhưng vẫn chưa thể ngang bằng vị vô đẳng đẳng.

Giải thích: Ở vị Đẳng giác có sơ vị và hậu vị. Đây là Hậu vị. Nghĩa là: Bồ-tát đó, trú đệ tứ Thiền, cung Đại Tự Tại có quốc độ diệu tịnh. Như Thập Địa Luận quyển một nói: Tịnh độ do tự tâm của Bồ-tát Địa thứ Mười biến ra. Có hai loại: Nếu tịnh độ do Thức thứ tám biến ra, là còn thuộc về hữu lậu thức tướng phần. tuy được tu huân do Thiện lực vô lậu nhưng tướng tịnh Diệu đó là khổ đế nhiếp. Nếu theo tâm vô lậu Hậu đắc mà biến ra hình ảnh tịnh độ thì đó là vô lậu, từ chủng tử vô lậu Thiện mà sinh ra Thể là vô lậu, thuộc về Đạo đế. Ở trong Thổ đó mà tu giác. Như kinh Anh Lạc nói: Đẳng giác Bồ-tát dùng Đại nguyện lực Trú thọ trăm kiếp tu ngàn Tam muội ngàn kiếp học oai nghi Phật, vạn kiếp học hóa hiện của Phật. Từ đoạn này trở về trước là nói về những tu hành thuộc vị Đẳng giác.

“Sắp thành chánh giác, khởi Kim cang Tam muội”: như Thập Địa Luận quyển mười và kinh Hoa Nghiêm quyển ba mươi chín đều nói: Bồ-tát Ma-ha-tát nhập Thọ Thức Địa đã đắc trăm vạn A-tăng-kỳ Tam muội đều hiện tiền rõ ràng. Tam muội cuối cùng tên là Thọ Nhất-thiếttrí Thắng chức vị, Tam muội đó hiện có Đại Bảo Liên hoa bỗng nhiên xuất sinh, Hoa đó rộng lớn ngang bằng với trăm vạn Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, dùng nhiều diệu báu trang nghiêm xen lẫn, vượt quá tất cả cảnh giới tất cả thế gian là sự sinh khởi do Thiện căn xuất Thế. Thường phóng hào quang chiếu khắp cả pháp giới, số hoa sen nhiều như số bụi trần của Tam thiên Đại Thiên Thế giới làm quyến thuộc. Bấy giờ, thân thù diệu của Bồ-tát đó ngồi trên tòa Hoa đó, Tướng của thân lớn hay nhỏ vừa hợp với hoa. vô lượng Bồ-tát làm quyến Thuộc mỗi vị đều ngồi trên các Hoa sen còn lại, vây nhiểu chung quanh mỗi một vị đều đắc trăm vạn Tam muội, hướng về Đại Bồ-tát nhất tâm kính ngưỡng, toàn bộ hào quang và tiếng nói của Bồ-tát đó và quyến thuộc, tràn đầy khắp cả mười phương pháp giới. Tất cả thế giới đều chấn động cõi Ác dừng tắt Quốc độ nghiêm tịnh những Bồ-tát cùng hạnh đều đến tu tập. Dưới chân Bồ-tát đó phóng Hào quang chiêú các Địa Ngục. Đầu gối phóng hào Quang chiếu các cõi Súc Sinh. Vùng rốn phóng hào Quang chiếu cõi giới Diêm la, hai sườn phóng hào quang chiếu các cõi người, hai tay phóng Hào Quang chiếu cõi Thiên và Tu la. hai vai phóng hào quang chiếu khắp Thanh văn, đỉnh lưng phóng hào quang chiếu Bích chi Phật mặt phóng quang chiếu sơ phát tâm cho đến Bồtát địa thứ chín giữa chặng mày phóng quang chiếu khắp cả Bồ-tát thọ chức ở mười phương, trên đảnh đầu phóng Quang chiếu khắp tất cả đạo trang của chư Phật ở Mười phương rồi nhiễu phải mười vòng, trú giữa trong hư không, thành cưới hào Quang, mưa đồ trang nghiêm để cúng dường. Lại nhiễu mười vòng từ dưới chân các Như Lai mà vào. Bấy giờ chư Phật và chư Bồ-tát biết ở Thế giới nào đó, Bồ-tát Ma-ha-tát nào đó đến thọ nhận chức vị. Các Bồ-tát kia đều đến quan sát, mỗi vị đều đạt được mười ngàn Tam muội, giữa mày của tất cả chư Phật xuất ra hào quang chiếu khắp tất cả Thế giới mười phương, nhiễu quanh phải mười vòng thị hiện Phật sự; mà đến trên Hội của Bồ-tát đó. Nhiễu phải chung quanh thị hiện nhiều loại sự việc trang nghiêm xong, từ đỉnh đầu của Đại Bồ-tát mà nhập vào, đắc trăm vạn Tam muội mà trước đây chưa từng đắc, gọi là đã thọ chức ngôi vị. Như Thái tử do chuyển Luân vương sinh ra. Mẹ là Chánh hậu, Thân Tướng đầy đủ, Vua bảo Thái tử ngồi tòa báu vàng thù diệu voi trắng, lưới màn tràng phan, rải hoa tấu nhạc, lấy nước bốn biển chứa trong bình vàng, vương cầm bình đó, rưới đầu Thái tử. Lấy ấy tức gọi là thọ chức vị vua. “Khi Kim cang Tam muội hiện tiền rõ ràng”: tức phần trước sinh nói; đắc Tam muội sau cùng chưa từng đắc trong trăm vạn Tam muội trước đây, nương theo Định thù thắng đó mà khởi vô gián Đạo, đoạn vi tể chướng, đây có hai nghĩa: có thuyết nói: Đây là đoạn chướng của Địa thứ mười một, Như Lai Địa. Có hai vô minh. Như kinh Kim Quang Minh nói: 1. Vô minh với tất cả cảnh vi tế Sở tri chướng Ngại. Tức chính là sở tri chứơng vi tế ở trong đó; 2. Vô minh cực tế phiền não thô trọng: tức chính là tất cả chướng phiền não ở dạng chủng tử tùy tiện. Hai vô minh đó làm chướng Phật Địa. Khi vô giáo đạo, những thứ đó bị đoạn xả mà Bản Thức chủng hiện. Có thuyết nói; đoạn là Như khởi Tín Luận, duy chỉ Tướng của tâm diệt, chứ chẳng phải thể của tâm diệt. Diệt tức là đoạn. Tự Tướng tâm thể, nêu Thể là vô minh kia khởi. Đó là kích tịnh khiến động, chẳng phải là nói vô tâm khiến làm, Nhân động của tức có tâm chính là vô minh khởi thành nghiệp tướng. Nay ở ngôi vị Đẳng giác, đoạn dứt gốc vô minh. Căn bản vô minh đã hết thì Tướng động cũng diệt theo. Nhưng chỉ diệt Tướng tâm không diệt Thể tâm. Hai thứ khác nhau là: trước là đoạn dứt chuyển Thức, sau là đoạn dứt Bản Thức. Hợp cả hai đoạn văn, mà chọn nghĩa phù hợp.

“Nhưng chưa thể ngang bằng vị vô đẳng đẳng”: Vị này còn kém chưa thể ngang bằng với Phật. Phật thì siêu vượt ngôi vị này cho nên gọi là vô đẳng. Đạo của chư Phật thì ngang nhau, cho nên gọi là đẳng đẳng.

Dưới đây là phần hai – Nêu dụ giải thích thành.

Kinh: Thí như có người lên đài cao lớn, nhìn khắp tất cả, không gì là không rõ.

Giải thích: “Lên đài cao”: là ở đỉnh, vị cao nhất của Bồ-tát như trên đỉnh. Dưới đây là phần hai – Quả vị Phật.

Kinh: Vị giải thoát, nhất tướng vô tướng, không sinh không diệt, đồng chơn tế, đẳng pháp tính, đầy tạng công đức, trụ Như Lai vị.

Giải thích: “Vị giải thoát”: là đạo giải thoát. Bản Thức chủng hiện, vô lậu kém cõi và vi tế chướng bị đoạn dứt, bị vứt bỏ. Vô gián giải thoát như trên đã nói; “Nhất Tướng”: tức là Tịnh pháp giới một chơn Tướng “vô tướng”: là bốn Trí tâm phẩm, tùy chứng Như thường vô tướng. “Không sinh không diệt”, Thể tuy là tương tục, nhưng thường hợp bằng Như, không có gián đoạn. “Đồng chơn Tế”: là Trí ngang với Như. “Đẳng pháp Tính”: là không biến đổi. “Đầy công đức Tạng”: là công đức hữu vi đầy thân Trí đức. Công đức vô vi tính tự đầy mãn. “Trú Như Lai vị”: là vị đã viên mãn.

Dưới đây là phần hai – Kết. Thọ trì. Trong đó có hai phần: 1- Kết. Thọ trì; 2. Tin hiểu. Dưới đây là phần một. Kết. Thọ trì.

Kinh: Này người thiện nam! Như vậy, chư Bồ-tát Ma-ha-tát, thọ trì giải nói đều đi đến mười phương cõi nước của chư Phật, lợi an hữu tình, thông đạt thật tướng, như ta ngày nay, ngang bằng không khác.

Giải thích: “Như vậy…” là kết chung phần trên. Thọ trì giải thuyết đến các cõi Phật, lợi lạc so với Phật thì có hơn kém khác nhau nhưng về phần hóa lợi thì giống nhau, cho nên bảo là không khác.

Dưới đây là phần hai – Kết. Tín giải. Trong đó có hai phần: 1. Trường hàng hiển thị; 2. Thuyết kệ tỏ lại. Dưới đây là phần một – Trường hàng hiển thị.

Kinh: Này người thiện nam! Thập phương pháp giới, tất cả Như

Lai đều nương theo môn này mà được thành Phật. Nếu nói vượt đây mà được thành Phật, đó là Ma nói, chẳng phải là Phật thuyết. Do đây, các ông nên như vậy biết, như vậy thấy, như vậy tin, hiểu.

Giải thích: “Đều nương theo Môn này”: là nêu rõ đồng tu. “Nếu nói vượt đây…”: là chẳng phải Phật thuyết. “Do đó…” là khuyên sinh chánh giải. “Thấy…” như Trí Luận nói: Nếu Trí nương dựa y chỉ ở Xa -ma-tha gọi là biết, nương vào Ty-bát-xá-na gọi là kiến. Cả hai thứ đó y chỉ vào Tam Ma Đề cho nên là Trí giải. Vì Tam Ma Đề tác dụng tự tại, cởi mở duyên níu ở bên trong do có hình ảnh nên gọi là Thắng giải.

Dưới đây là phần hai – Thuyết kệ nói lại. Trong đó chia làm hai phần: 1- Nêu Phật thuyết kệ.

 

PHẦN 3

Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại lần nữa nghĩa này mà nói kệ:

Giải thích: Tụng lại nghĩa trước, Dưới đây là phần hai – Kệ tụng tỏ lại. Trong đó chia làm ba phần: 1. Có một hàng, nói chung về Tam bảo; 2. có mười hàng rõ riêng về địa thứ mười; 3. Có một hàng. Kết. Phật Quả. Dưới đây là phần một – Tỏ chung về Tam bảo.

Kinh:

Bồ-tát phục nhẫn kia

Nơi pháp Phật nuôi lớn

Kiên cố ba mươi tâm

Gọi là Bất thối chuyển.

Giải thích: Nói về nhẫn sở y nuôi lớn Thánh thai, kiên cố không thối Tín vị và tâm, kết ba bất thối.

Dưới đây là phần hai – Nói về địa thứ mười. Văn có mười phần: Dưới đây là phần một – Hoan hỷ Địa.

Kinh:

Sơ chứng tính bình đẳng

Mà sinh nhà chư Phật

Do mới đắc giác ngộ Gọi là Địa Hoan hỷ.

Giải thích: Bắt đầu, giác ngộ tức sở chứng sở sinh. Kết về tên gọi có thể biết.

Dưới đây là phần hai – Ly cấu Địa.

Kinh:

Xa lìa mọi nhiễm ô

Các sân nhiều loại cấu

Đủ giới Đức thanh tịnh

Gọi là Địa Ly cấu.

Giải thích: Sở ly, Sở đoạn, đủ giới đức. Dưới đây là phần ba – Phát

Quang Địa.

Kinh:

Diệt hoại vô minh ám

Mà đắc các thiền định

Sáng chói do Tuệ quang

Gọi là Địa Phát Quang.

Giải thích: Sở đoạn, Sở đắc, Định Tuệ tự tại. Dưới đây là phần hai – Diễm Tuệ Địa.

Kinh:

Bồ-đề phần thanh tịnh

Lìa xa Thân, Biên kiến

Trí tuệ chiếu sáng tỏ

Gọi là Địa Diệm tuệ.

Giải thích: Sở tu, sở đoạn, Diệm Tuệ tăng thêm. Dưới đây là phần năm – Nan Thắng Địa.

Kinh:

Như thật tri các đế

Các kỹ nghệ thế gian

Nhiều loại lợi quần sinh

Gọi là Địa-nan thắng.

Giải thích: Sở quán Sở tập, kết hợp hai lợi. Dưới đây là phần sáu- Hiện tiền Địa.

Kinh:

Quán sát pháp duyên sinh

Vô minh đến lão tử

Thường chứng chúng sâu xa

Gọi là Địa Hiện tiền.

Giải thích: Sở quán sở chứng hiểu, rõ nhiễm tịnh. Dưới đây là phần bảy-Viễn hành Địa.

Kinh:

Phương tiện Tam ma địa

Thị Hiện vô lượng thân.

Thiện xảo ứng quần sinh

Gọi là Địa Viễn hành.

Giải thích: Hạnh thù thắng tương ứng với Hiện thân thiện xảo. Dưới đây là phần tám – Bất động Địa:

Kinh:

Trụ ở biển vô tướng

Tất cả Phật gia trì

Tự tại phá quân Ma

Gọi là Địa chẳng động.

Giải thích: Sở trú, Sở Khuyến (khuyến khích gia hộ), như văn trên. Phá quân Thiên Ma, rốt ráo ở Địa này. Dưới đây là phần chín- Thiện Tuệ Địa.

Kinh:

Đắc bốn vô ngại giải

Một âm diễn tất cả

Người nghe đều hoan hỷ

Gọi là Địa Thiện tuệ.

Giải thích: Sở đắc, Sở lợi, sinh Hoan hỷ. Dưới đây là phần mười – Pháp vân Địa.

Kinh:

Trí tuệ như mây dày

Đầy khắp ở pháp giới

Rưới mọi pháp cam lồ

Gọi là Địa Pháp vân.

Giải thích: Như mây đầy khắp, rưới xuống mưa như pháp. Dưới đây là phần ba – Kết. Quả vị Phật.

Kinh:

Đầy đủ giới vô lậu

Thường tịnh giải thoát thân

Tịch diệt bất tư nghị

Gọi là Nhất-thiết-trí.

Giải thích: Nói “Mãn túc”: tức là cứu cánh nghĩa. Nói “vô lậu” là lậu đã vĩnh tận. “Giới”: nghĩa là Tạng vì gương trí bao hàm cả Đại công đức, hoặc nghĩa là Nhân, xuất sinh các Thừa làm lợi lạc rộng lớn. “Thường tịnh giải thoát thân”: là chuyển năm uẩn vô Thường, chứng được pháp Thường, là thanh tịnh pháp giới không có sinh diệt, tức là chơn giải thoát, Thể an lạc. “Tịch diệt Bất tư Nghị”: là Bồ-đề và Niếtbàn đều tịch diệt. Quả cứu cánh đó đều không thể nghĩ bàn vượt quá con đường suy tư nghị luận. “Gọi là Nhất-thiết-trí”: là nêu Trí kết về tên gọi.

Phần văn trên là mười ba pháp sư phụng trì.

Dưới đây là phần hai: Mười sáu Quốc vương phụng trì. Trong đó chia làm ba phần: 1. Các vua phụng Trì; 2. Nói về pháp hộ quốc; 3. Chư vương được ích.

Trong phần một. Các vua phụng Trì. Văn chia làm năm phần: 1. Nói pháp hộ quốc; 2. Nói bảy Nạn; 3. Nguyên nhân các Nạn; 4. Đức của Bát-nhã; 5. Giáo hưng phế.

Trong phần một văn lại chia làm hai phần: 1. Thời hộ quốc; 2.

pháp được trao.

Văn phần một lại chia làm hai phần: 1. Thời hộ quốc.

Kinh: Phật bảo vua Ba-tư-nặc: Sau khi Ta diệt độ, lúc pháp sắp diệt, vì tất cả hữu tình tạo nghiệp ác làm cho các quốc độ khởi lên nhiều loại tai họa.

Giải thích: “Ta diệt độ”: là nêu chung về thời gian. “Khi pháp sắp diệt”: Nhất thể, biệt tướng, đều là thường trú, còn trú trì Tam bảo, thì thời có suy diệt, ngược lại là hiển bày bất diệt. Có tu hành là Thời tốt, không có các nạn. “Tất cả hữu tình tạo Ác nghiệp”: là do pháp suy diệt mà mười ác tăng. “Khiến khởi lên nhiều loại tai nạn ở các Quốc độ”: do bởi mười ác tăng mà có nạn khởi lên, giải thích theo phép triển chuyển dẫn đến.

Dưới đây là phần hai – Khuyên vua trì đọc.

Kinh: Vua của các nước, muốn hộ tự thân, Thái tử, vương tử, hậu phi, quyến thuộc, trăm quan, trăm họ, tất cả quốc độ, nên thọ trì Bátnhã Ba-la-mật đa này, sẽ đều được an lạc.

Giải thích: Khuyên các vua đề cao pháp thù thắng này, mỗi vị đều tự trì đọc đều được An lạc. Dưới đây là phần hai – Pháp được trao gởi. Trong đó có bốn phần: 1. nói về pháp được trao gởi.

Kinh: Ta lấy kinh này trao gởi cho Quốc vương, không trao cho Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.

Giải thích: :Chỉ có Quốc vương mới có khả năng dựng xây chánh pháp nên lấy kinh trao gởi, không trao gởi hạng khác.

Dưới đây là phần hai – Trưng hỏi nguyên do.

Kinh: Nguyên do là sao?

Giải thích: Vì nguyên nhân gì mà không trao gởi người khác.

Dưới đây là phần ba – Giải thích ý không trao.

Kinh: Không có oai lực của Vua thì không thể dựng lập.

Giải thích: Những hạnh khác đều nương dựa vào vua, không có lực để kiến lập. Dưới đây là phần bốn – Kết. Khuyên thọ trì.

Kinh: Do đó, các nông thường nên thọ trì, đọc tụng, giải nói.

Giải thích: Vua tự thọ trì giáo hóa phổ cập đến cỏ cây, tôi, dân đổi thiện, tai nạn tự trừ tức là Hộ quốc vậy.

Dưới đây là phần hai – Nói rộng bảy nạn. Trong đó chia bốn phần. 1. Cảnh sở hóa; 2. Nói bảy nạn; 3. Liệt kê các Nạn; 4; Kết. Khuyên thọ trì. Trong phần cảnh sở hóa văn lại chia làm hai phần: 1. Nói chung về hóa cảnh; 2. Nói riêng về châu Thiệm Bộ. Dưới đây là phần một – Nói chung về hóa cảnh.

Kinh: Đại vương! Ta nay hóa đại thiên thế giới, trăm ức Tu Di, trăm ức nhật nguyệt, mỗi một Tu Di có bốn thiên hạ.

Giải thích: Nêu chung đại thiên là nói về hóa cảnh. Dưới đây là phần hai. Nói về Thiệm Bộ. Trong đó chia làm ba phần: Dưới đây là phần một. Nói chung các nước.

Kinh: Châu Thiệm Bộ này, mười sáu nước lớn, năm trăm nước vừa, mười vạn nước nhỏ.

Giải thích: “Châu Thiệm Bộ này”: là theo tên cây mà đặt tên. Hình lớn nhỏ, thân lượng, thọ lượng, tác nghiệp thú quả ở châu này, như thường đã phân biệt rõ. “Mười sáu nước lớn”: đến phần sau sẽ kê tên.

Hỏi: kinh cũ chỉ nói là mười ngàn nước nhỏ, ở đây lại nói là mười vạn nước nhỏ, sao nhiều vậy ư?.

Đáp: Kinh cũ thường dùng nơi giáo đạt đến (phổ cập) mà luận. Vì sao biết vậy? Như kinh Kim Quang Minh phâm thứ sáu phẩm Hộ quốc nói: Châu Thiệm Bộ này, tám vạn bốn ngàn thành ấp tụ lạc, tám vạn bốn ngàn các Vua Người, mỗi vị đều ở nước họ hưởng các khoái lạc, đều đắc tự tại, cho đến từ Bi khiêm nhường tăng trưởng thiện căn, nhờ nhân duyên ấy mà an Lạc giàu vui. Đây tuy thừa nhỏ, có gì làm lạ, bản tiếng phạm khác nhau, mỗi bản đều văn như vậy.

Dưới đây là phần hai – Có nạn thọ trì.

Kinh: Trong các nước ấy, nếu bảy nạn dấy khởi, tất cả Quốc vương vì để trừ nạn mà thọ trì giải nói Bát-nhã Ba-la-mật đa này.

Giải thích: Trong các nước ấy nếu thường thọ trì thì nạn quyết không dấy khởi. Hoặc có nạn được thoát thì chỉ có thọ trì. Nhà nhà làm Thiện thì điều vui lành có dư.

Dưới đây là phần ba – Nạn trừ, an lạc.

Kinh: Bảy nạn liền diệt, quốc độ an lạc.

Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần hai – Chính nêu về bảy Nạn. Trong đó chia làm hai phần: 1. Vua Ba-tư-nặc hỏi.

Kinh: Vua Ba-tư-nặc nói: Bảy Nạn là gì?

Giải thích: Hỏi: Dưới đây là phần hai – Như Lai chánh đáp. Trong đó chia làm bảy phần: 1. Nạn nhật nguyệt bạc thực (Nhật thực, nguyệt thực).

Kinh: Phật bảo một là: Nhật nguyệt thất độ, nhật sắc biến đổi, sắc trắng, sắc đỏ, sắc vàng, Sắc đen, hoặc hai, ba, bốn, năm mặt trời cùng chiếu. Hoặc sắc mặt trăng biến đổi. Sắc đỏ, sắc vàng. Nhật Nguyệt bạc thực hoặc có trùng luân. Một, hai, ba, bốn, năm trùng luân hiện.

Giải thích: Trong văn có năm thứ: thất độ, màu sắc biến đổi, tăng nhiều mặt trời, nhật nguyệt bạc thực và trùng luân, như văn đã rõ.

Dưới đây là phần hai – Nạn các sao biến đổi.

Kinh: Hai là tinh thần (các sao) thất độ, sao Chổi, sao Mộc, sao kim, sao Thủy, sao Thổ… các sao mỗi mỗi sao đều biến đổi, hoặc lúc ban ngày lại xuất hiện.

Giải thích: Trong văn có bốn: Thất độ, Sao chổi, năm sao thay đổi, và hiện ra ban ngày. Như văn đã rõ. Dưới đây là phần ba – Nạn các lửa thiêu đốt.

Kinh: Ba là lửa rồng, lửa quỷ, lửa người, lửa cây, lửa lớn, bốn bề dấy khởi thiêu đốt vạn vật.

Giải thích: Trong văn có năm thứ: Lửa nồng là sấm sét khởi lửa. Lửa quỷ là có thể làm ra bệnh ôn dịch. Lửa Người là những người đắc Ngũ Thông, gặp trái duyên hiện tại, ý muốn khởi lửa. Lửa cây là khi hạn hán nóng bức quá mức, cây gỗ khởi lửa. Lửa lớn bốn bề khởi là nghiệp bất thiện chín mùi, tùy nơi mà lửa khởi thành ra là Nạn.

Dưới đây là phần bốn – Nạn khí hậu biến đổi.

Kinh: Bốn là Thời tiết biến đổi, nóng lạnh bất thường, đông thì mưa sấm chớp, hạ thì tuyết băng sương, mưa đất đá núi, cùng những sỏi cát mưa đá phi thời, mưa nước đỏ, nước đen, sông ngòi lụt lội, đá chảy, núi trôi.

Giải thích: Trong văn có sáu thứ: 1. Thời tiết biến đổi; 2. Mùa đông mùa hè, mỗi màu có ba thứ la; 3. Mưa đất Đá núi: kinh chánh pháp Niệm quyển hai mươi nói: Vua A-tu-la chiến tranh với Chư Thiện hoặc nâng đá lớn vuông vứt tám trăm dặm hoặc lấy núi lớn tên là Ba lợi khư rộng năm trăm do tuần, ném đánh với chư Thiên nhờ oai lực của Trời liền ở trong không, bắn tên khiến đá bị tan vỡ hoặc dùng lửa thiêu diệt, tiếp ngọn núi lớn đó đánh lại A-tu-la quân A-tu-la bị hung ác phá tan, chạy tán loạn xuống dưới biển, về núp ở cung điện của mình cá lớn ở biển đều sợ hãi chạy tán loạn, mưa đất, đá núi là tương tự như vậy; 4. Mưa đá trái thời; 5. Nước mưa đổi màu; . Mưa quá mức lớn làm sông ngòi lụt lội. Đá trôi núi nổi.

Dưới đây là phần năm – Nạn gió lớn khởi.

Kinh: Năm là gió bão khởi lên, che mờ nhật nguyệt, tốc nhà, đổ cây cát bay đá chạy.

Giải thích: Câu đầu là nêu chung, ba câu sau là nạn, như văn đã rõ.

Dưới đây là phần sáu – Nạn trời đất hạn hán.

Kinh: Sáu là: hạn hán, sông kiệt hồ cạn, cỏ cây chết khô, lúa gạo không thành.

Giải thích: Nêu nạn như trên. Lúc đó là Năm thứ hai đời Vĩnh Thái, năm canh Ngọ tháng sáu mùa hạ, trời không có mưa, cầu núi, sông Xuyên sắp quá mùa mà vẫn không ứng nghiệm, kể đến đây, thẹn mình không có năng lực bèn để quyển kinh trước mặt quán trưởng lâu dài, thành tâm cáo bạch. Lúc đó, ngẩu nhiên tế hội, hiệu nghiệm lạ kỳ. Chư Thiện nghe được đến gặn hỏi han. Tháng đó ngày ba mươi có chiếu chỉ của Vua viết: “Nhân vương chơn kinh, nghĩa tông Hộ quốc, Sư diễn thuật diệu chỉ, hoằng Thệ càng sâu, liền được mây từ kết bóng, mưa pháp chảy nhuần. Lúc mùa xanh tươi. Cả năm được mùa, công phu chí thành, rất đáng khen ngợi”. Đó thật ra là do minh Chúa chí Đạo, đại thần tin sâu, sự gia hộ bởi từ lực của Bồ-tát năm phương.

Dưới đây là phần bảy – Nạn bốn bề giặc đến.

Kinh: Bảy là bốn phương giặc đến, xâm lăng trong ngoài, chiến tranh phát khởi trăm họ chết chóc.

Giải thích: Nêu nạn như trên, phần trên gồm bảy đoạn văn, riêng thì có hai mươi chín thứ.

Dưới đây là phần ba – Liệt bày các Nạn.

Kinh: Đại vương! Ta nay lược nêu các nạn như vậy, trong đó có: Mặt trời ban ngày không hiện. Mặt trăng ban đêm không hiện. Trời nhiều loại tai: không có mây, mưa, tuyết. Đất nhiều loại tai: nứt nẻ động đất, hoặc lại máu chảy, quỷ thần xuất hiện, chim thú quái lạ, tai nạn như vậy, vô lượng vô biên.

Giải thích: Trong văn có năm thứ: 1. Nhật nguyệt không hiện; 2. Trời nhiều loại tai ách; 3. Đất nhiều loại tai ách; 4. Quỷ thần xuất hiện; 5. Chim thú quái lạ. “Tai nạn như vậy,..” là liệt kê nhiều thứ khác. Các điềm chẳng lành cầu vồng trắng, đen. Sói cọp lộng hành, sâu bọ hại cây cỏ, nhiều loại nạn cho nước cho nhà.

Dưới đây là phần bốn – Kết. Khuyên thọ trì.

Kinh: Mỗi một tai nạn dấy khởi, đều cần phải thọ trì đọc tụng giải

nói Bát-nhã Ba-la-mật đa này.

Giải thích: :Nói “Mỗi một”; là tai nạn không kể là lớn hay nhỏ đều khuyên thọ trì, đọc tụng giả thuyết. Ở trên đã nói bảy nạn liền diệt, quốc độ an lạc, cho nên ở đây chỉ khuyên không nói diệt thôi.

Dưới đây là phần ba – Nói về Nhân của các nạn. Trong đó chia làm ba phần: 1. Vua Ba-tư-nặc hỏi

Kinh: Bấy giờ! Mười sáu Quốc vương nghe Phật đã nói, thảy đều kinh sợ. Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Thế Tôn! Vì sao trời đất có những tai nạn ấy?

Giải thích: “Mười sáu Quốc vương”; Thánh chúng tuy nghe những đã vượt qua sự sợ hãi. Còn các Vua vì nước mình, nên đều kinh sợ. Vì vậy mà Vua Ba-tư-nặc phát lời hỏi đó.

Dưới đây là phần hai – Thế Tôn chánh đáp

Kinh: Đại vương! Do châu Thiệm bộ, quốc ấp lớn nhỏ, tất cả dân chúng bất hiếu cha mẹ, bất kính sư trưởng, sa môn, Bà-la-môn, Quốc vương, đại thần không hành chánh pháp.

Giải thích: “Do Châu Thiệm Bộ” là nêu chung. Ở bốn đại châu tai nạn khác nhau; như kinh Chánh Pháp Niệm quyển mười tám nói: ở Đông phất bà đề, người ở châu đó, không tu pháp hành thì rồng dữ Tăng trưởng gồm rống Sấm lớn, như núi lớn đổ hoặc chớp tia sáng, rồng hiện trong mây, giống như mây đen, cổ có ba đầu, hoặc làm thân rắn. tâm họ yếu mềm thấy việc ấy đều bị bệnh khổ mà suy nảo. Ở Tây Cù Đà Ni tâm chúng sanh ướt át, không tu pháp hành, bị rồng dữ phi pháp, ở vùng hẻo lánh hiểm trở giáng mưa lớn làm tất cả nước bị vẩn đục người uống nước ấy thì bị suy yếu buồn khổ. Ở Bắc Uất đơn việt như cõi trời thứ hai. Nếu người thế gian đó, bất hiếu cha mẹ thì rồng dữ tự tại khởi mây đen lớn, giống như núi đen, che kín mặt trời. Hoa sen liền khép lại không có mùi thơm mất ánh sắc vàng. Ở núi Tăng ca xa, chim hót tiếng thô xấu, họ thấy việc ấy sầu não sợ hãi, trong mây khởi gió thổi bay các tiếng âm nhạc âm nhạc tan mất không còn thích thú. Ở trong Diêm-phù-đề gồm có bốn duyên: 1. Đói khát; 2. Chiến tranh; 3. Gió độc; 4. Mưa dữ.

Do những duyên đó mà bỏ mất thân mệnh. Đó là nói chung.

“Quốc ấp lớn nhỏ”: là nêu về sự khác nhau.

Có sáu duyên: 1. Bất hiếu với cha mẹ, là người sinh ra thân mình; 2. Bất kính Sư trưởng là người thành tựu đức mình; 3. Bất kính sa môn là phước điền lành; 4. Bất kính Bà-la-môn là người có chí hướng tu đạo; 5. Quốc vương không hành chánh pháp; . Đại thần không hành chánh pháp. Có một trong sáu điều đó thì tai nạn sẽ sinh nếu đủ cả sáu điều thì tai nạn luôn khởi.

Dưới đây là phần ba – Kết. Các nạn khởi.

Kinh: Do các ác đó, nên có nạn ấy hưng khởi.

Giải thích: Văn dễ, đã rõ. Dưới đây là phần bốn – Đức của Bátnhã. Trong đó có hai phần: 1. Đức Bát-nhã; 2. Khuyên phụng trì.

Trong phần Đức Bát-nhã văn chia làm hai phần: 1. Có đủ các Đức; 2. Nêu dụ làm rõ. Dưới đây là phần một – Có đủ các đức.

Kinh: Đại vương! Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể xuất sinh tất cả pháp của chư Phật, tất cả pháp giải thoát của Bồ-tát, tất cả pháp vô thượng của Quốc vương, tất cả pháp xuất ly của Hữu tình.

Giải thích: “Bát-nhã Ba-la-mật”: là chỉ bày thể của pháp. Tiếp nữa là nói về mẹ của Phật, chư Bồ-tát là pháp giải thoát. Tiếp nữa chư Quốc vương nguyện hộ quốc là vô Thượng pháp bảo, không có gì bằng. Sau cùng là tất cả hữu tình nếu xưng tên hoặc lại với kinh thọ trì đọc tụng thì chắc chắn được xuất ly.

Dưới đây là phần hai – Nêu dụ giải thích thành. Trong đó có ba phần: 1. Nói chung dụ về Thể; 2. Hiển riêng về Đức thù thắng; 3. Kết Bát-nhã. Dưới đây là phần một – Nói chung dụ về thể.

Kinh: Như báu Ma ni, thể đủ các đức.

Giải thích: “Như”: nghĩa là nêu dụ. Tiếng phạm gọi là Ma Ni tiếng Hoa gọi là Bảo, (báu) thuận theo cách dịch cũ, dịch mới là Mạt- ni-cụ-túc, đúng thì Chấn-di-mạt-ni tiếng Hoa là Tư duy bảo. Hội ý dịch là Như ý Bảo Châu, tùy ý sở cầu đều là mãn túc. “Thể đủ các đức”: là nêu các Đức ở phần sau:

Dưới đây là phần hai – Hiển bày riêng về đức thù thắng.

Kinh: Có thể ngăn giữ được rồng độc, các quỷ thần ác, làm toại lòng người, thỏa mãn sự mong muốn, có thể ứng với Luân vương, gọi là ngọc Như ý, có thể khiến các đại Long vương như Nan đà, Bạt Nan đà… giáng xuống mưa ngọt, cỏ cây tươi tốt. Nếu ở đêm tối, đặt ngọc báu ấy trên chỗ cao, ánh sáng soi cả trời đất, sáng như mặt trời mọc.

Giải thích: “Ngăn chận được rồng độc”: là đức trấn rồng quỷ dữ, nghĩa là ngọc báu Ma ni bảo trấn các rồng độc, làm ngừng lặng mưa gió dữ trấn quỷ thần dữ, không hành ôn dịch, không làm phi pháp giết hại hữu tình. “Làm toại lòng người”; là đức thỏa mãn mong cầu của người: nghĩa là ngọc Ma Ni, nếu có ngưòi mong cầu về áo quần, ăn uống, đồ trân bảo, đều có thể được. “Có thể ứng với Luân vương”: là đức châu ý Luân vương. Nghĩa là Ma ni bảo ứng với chuyển Luân vương, theo ý của vương cần gì được nấy. “Có thể khiến các…”: là đức của rồng giáng mưa ngọt: nghĩa là Ma ni bảo có thể khiến cho Nan Đà (tiếng Hoa dịch là Hỷ) Bạt Nan Đà (tiếng Hoa dịch là Hiền Hỷ) các Đại Long vương tùy thuận pháp hành, giáng xuống mưa ngọt, cỏ cây xanh tươi. “Nêu ở đêm tối”: là đức ánh sáng quang chiếu thiện địa. nghĩa là Ma ni bảo, vào đêm tối đặt ở trên chỗ cao chiếu sáng khắp cả như mặt trời mọc.

Dưới đây là phần ba – Kết. Bát-nhã

Kinh: Bát-nhã Ba-la-mật đa này cũng lại như vậy.

Giải thích: Nghĩa là: Bát-nhã này có đủ các đức kê trên, có thể trấn giữ tin, hiểu, trấn rồng ác ba độc các quỷ năm kiến của tất cả hữu tình. Lại nữa, nếu Người thọ trì đọc tụng tất cả những điều mong cầu; Quan vị; giàu có, con cái, Tuệ giải đều được tùy ý. Quả báo cõi Trời cõi người đều được thỏa mãn.

Lại nữa, đó tức chính là chư Phật pháp vương, Bồ-đề Niết-bàn vô thượng ý châu vì bởi từ trong Tịnh pháp giới lưu xuất…

Dưới đây là phần hai – Kết. Khuyên phụng trì, trong đó chia làm bốn phần: 1. Khuyên vua cúng dường.

Kinh: Chư vương các ông, nên làm cờ báu và dùng phướn, lọng thắp đèn rải hoa, cúng dường rộng lớn.

Giải thích: Xây dựng đạo tràng, tỏ lòng cung kính. Dưới đây là phần hai – Nơi đặt kinh.

Kinh: Dùng hộp báu đựng kinh, đặt ở bàn báu.

Giải thích: Hộp báu, bàn báu; là tỏ sự tôn trọng.

Kinh: Nếu khi sắp đi, thường kinh đi trước.

Giải thích: Khi vua muốn đi, thường để kinh này dẫn dắt đi trước. Nghe nói các xứ có Phật pháp ở phương Tây, Quốc vương các nước đều dùng Bát-nhã làm vật báu trấn quốc, Nếu vua xuất hành để kinh đi trước thì cả nước không có tai nạn.

Dưới đây là phần bốn – Trú xứ cúng dường.

Kinh: Trú xứ hiện tại làm trướng bảy báu, các báu làm tòa, đặt kinh ở trên, cúng dường nhiều loại, như thờ cha mẹ, cũng như chư Thiên phụng sự đế Thích.

Giải thích: “Trú xứ hiện tại”: là chỗ đặt kinh. văn dể hiểu đã rõ. Dưới đây là phần năm – Giáo hưng phế. Trong đó có hai phần: 1. Nhân giáo hưng khởi.

Kinh: Đại vương! Ta thấy tất cả vua người ở các nước, đều do quá khứ cúng dường năm trăm Phật, cung kính cúng dường đắc làm đế vương. Tất cả Thánh nhân được đạo quả, sinh đến nước đó, làm lợi ích lớn.

Giải thích: Như văn dễ hiểu. Dưới đây là phần hai – Các nạn khởi.

Kinh: Nếu vua hết phước, vô đạo, thì Thánh nhân bỏ đi, tai nạn tranh khởi.

Giải thích: Như văn dễ hiểu. Dưới đây là phần hai – Pháp Hộ quốc. Có ba phần: 1. Người hộ quốc; 2. Pháp hộ quốc; 3. Thế Tôn ấn thuật. Trong phần hộ quốc, văn có hai phần: 1. Phật khiến Hộ quốc; 2. Bồ-tát kính thừa, văn phần một lại có ba phần: 1. Cáo thị chư vương; 2. Răn bảo chư Bồ-tát; 3. Làm tượng cúng dường. Dưới đây là phần một – Cáo thị các vua.

Kinh: Đại vương! Nếu đời vị lai, có các Quốc vương, kiến lập chánh pháp, hộ trì Tam Bảo, thì ta khiến chúng Bồ-tát Ma-ha-tát ở năm phương đến hộ trì nước đó.

Giải thích: “Kiến lập chánh pháp”. Đây có hai loại: 1. Thế gian chánh pháp, như kinh Kim Quang Minh nói: Cai trị như pháp; 2. Xuất thế chánh pháp: là các pháp giải thoát do chư Phật đã thuyết.

Dưới đây là phần hai – Răn bảo chư Bồ-tát. Trong đó chia làm năm phần: 1. Bồ-tát ở Đông phương.

Kinh: Bồ-tát Ma-ha-tát Kim cang Thủ ở phương Đông, tay cầm chày Kim cang, phóng ra hào quang xanh, cùng với bốn câu chi Bồ-tát đến hộ trì nước đó.

Giải thích: “Kim cang” kinh Kim cang đảnh Du-già bản phạm nói:

có đủ cả hai nghĩa: kiên cố, bén nhọn. Cả năm Bồ-tát đều nương theo hai loại luân để hiện thân. 1. Pháp luân hiện chơn thật thân: thân báo đắc do tu hạnh nguyện; 2. Giáo lệnh Luân thị hiện thân: do khởi đại bi mà khởi thân uy mãnh. Bồ-tát Kim cang Thủ đó tức chính là Bồ-tát phổ Hiền oai nghi dữ tợn.

“Tay cầm chày Kim cang”: là do chánh trí khởi, giống như Kim cang có thể chặt đứt Ngã pháp vi tế chướng, nương theo giáo lệnh Luân hiện thân oai nộ thị hiện ba đầu tám tay hàng phục tất cả trời Ma-hê-thủ -la, ở cõi Trời Đại Tự tại các chúng ma quân điều phục những người làm hại chánh pháp, não hại chúng sanh.

“Phóng hào quang xanh”: là khả năng trừ diệt chúng ma.

“Bốn câu chi”: một câu chi là như kinh Hoa Nghiêm quyển bốn mươi lăm, phẩm A-tăng-kỳ nói: một trăm Lạc Xoa thành một câu chi, tức là bằng trăm ức ở nước Đại Đường.

Dưới đây là phần hai – Bồ-tát ở Nam phương.

Kinh: Bồ-tát ở Nam phương, Ma-ha-tát Kim cang Bảo, tay cầm Ma ni Kim cang, phóng ra hào quang sắc trắng, cùng bốn câu chi Bồ-tát đến hộ trì nước đó.

Giải thích: “Kim Cang bảo” như kinh kia nói: là Bồ-tát Hư không Tạng nương theo pháp luân trước hiện Thân thắng Diệu, tu các hành Đàn (bố thí).

“Tay cầm Ma ni Kim cang”: là Thể tịnh kiên mật giống như Kim cang tức chính là Kim cang Như ý bảo, các hữu tình cầu gì được nấy. Nương theo Giáo lệnh Luân hiện thân oai Nộ, Cam lộ quân tra lợi Kim cang thị hiện tám tay hàng phục tất cả A-tu-la viêm ma, quyến thuộc các quỷ thần ác, não hại hữu Tình hành bệnh ôn dịch khiến cho điều phục.

“Phóng hào quang sắc trắng”: là nói khả năng trừ diệt các Tu la. Cùng với Nam phương Tăng trưởng Thiên vương và đem vô lượng chúng Trà bạn trà. Tiết Lệ Đa chúng mà làm quyến thuộc.

Dưới đây là phần bốn – Bồ-tát ở Tây phương.

Kinh: Bồ-tát, Kim cang Lợi Ma-ha-tát ở Phương tây tay cầm kiếm Kim cang, phóng ra hào quang sắc vàng, cùng bốn câu chi Bồ-tát đến hộ trì nước đó.

Giải thích: “Kim cang Lợi’ như kinh kia nói là Bồ-tát văn Thù Sư Lợi nương pháp Luân trước hiện thân Thắng Diệu, chánh trí viên mãn, đắc tự tại. “Tay cầm kiếm Kim cang”: là nói về những tác dụng của Bồtát đó. Có thể đoạn dứt chướng tự tha câu sinh, nương theo pháp lệnh luận, hiện làm oai nộ thân, Lục Túc Kim cang, sáu đầu sáu tay cởi trên trâu nước, hàng phục tất cả các rồng độc dữ và mưa gió ác tổn hại hữu tình, khiến cho điều phục.

“Phóng hào quang sắc vàng”: là nói trừ rồng dữ… cùng với Tây phương Quảng Mục Thiên vương và đem vô lượng chư Long phú Đơn Na chúng mà làm quyến thuộc.

Dưới đây là phần bốn – Bồ-tát ở Bắc phương.

Kinh: Bồ-tát Ma-ha-tát Kim cang Dược Xoa ở phương Bắc, tay cầm linh Kim cang, phóng ra hào quang sắc, lưu ly, cùng bốn câu chi Dược xoa đến hộ trì nước đó.

Giải thích: Tiếng phạm gọi là Dược Xoa, tiếng Hoa gọi là Oai Đức. Lại dịch là tận vì có thể tận hết các oán như kinh kia nói: Tồi Nhất Thiết Ma Oán Bồ-tát (Bồ-tát bẻ gãy tất cả Ma ám) nương theo pháp luân trước hiện thân sự thắng diệu và trí viên mãn đắc tự tại.

“Tay cầm linh Kim cang” một tiếng linh đánh thức giác ngộ hữu tình, biểu thị cho dùng Bát-nhã để cảnh tỉnh quần mê. Nương theo Giáo lệnh Luân hiện làm thân Kim cang oai nộ thanh tịnh, thị hiện thân có bốn tay, hàng phục tất cả các Dược Xoa đáng sợ, thường ngày đêm tìm cách đoạt tinh khí của Người, làm hại hữu tình. Bồ-tát khiến họ điều phục.

“Phóng hào quang sắc lưu ly? Là nói trừ diệt các Dược xoa cùng Đa văn Thiên vương ở Bắc phương kia và vô lượng Dược xoa, vô lượng chúng La Sát mà làm quyến thuộc.

Dưới đây là phần năm – Bồ-tát ở phương giữa.

Kinh: Bồ-tát Ma-ha-tát Kim cang Ba-la-mật đa ở phương giữa, tay cầm Kim cang luân, phóng ra hào quang năm sắc, cùng bốn câu chi Bồ-tát đến hộ trì nước đó.

Giải thích: “Kim cang Ba-la-mật-đa” tiếng Hoa gọi là Đáo Bỉ Ngạn như kinh kia nói: là Bồ-tát chuyển pháp Luân, nương theo pháp Luân trước hiện thân thắng diệu hạnh nguyện viên mãn Trú Đắng Giác vị.

“Tay cầm Kim cang luân”: là Tỳ-lô-giá-na Phật khi mới thành chánh giác xin chuyển pháp luân để biểu thị. Lại nữa, dùng pháp luân để hóa Đạo hữu tình khiến vô số lượng đến bờ giác ngộ nương theo giáo lệnh Luân hiện làm oai Nộ chẳng động Kim cang, hàng phục tất cả Quỷ mỵ hoặc loạn các chướng não khiến cho điều phục.

“Hào quang Ngũ sắc”: là tỏ có đủ chúng đức phá các ám trên. Dưới đây là phần ba – Lập tượng cúng dường.

Kinh: Năm vị Bồ-tát Ma-ha-tát đó, mỗi vị cùng với vô lượng đại chúng như vậy, ở trong nước ông làm đại lợi ích, nên lập hình tượng mà cúng dường họ.

Giải thích: Văn dễ hiểu. Dưới đây là phần hai – Bồ-tát kính thừa. Trong có ba phần: 1- Bồ-tát kính thừa.

Kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Kim cang Thủ… liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật rồi đứng qua một bên.

Giải thích: Nói về kính thừa. Dưới đây là phần hai – Tỏ nơi có kinh

Kinh: Bạch Phật: Bản nguyện của chúng con là nương theo thần lực Phật ở mười phương thế giới, tất cả quốc độ, nếu nơi nào có thọ trì đọc tụng, giải nói kinh này, con sẽ cùng với quyến thuộc như vậy, trong khoảnh khắc một niệm, liền đến chỗ đó, hộ trì chánh pháp, kiến lập chánh pháp.

Giải thích: “Bản nguyện chúng con”: 1. Tức là bản nguyện; 2. Tức là nương thần lực Phật. “Trong khoảnh một niệm”: là nói về sự nhanh chóng kiến lập thủ hộ pháp Bát-nhã. Dưới đây là phần ba – Trừ tai nạn.

Kinh: Khiến cõi nước đó, không có tai nạn, chiến tranh dịch bệnh, tất cả đều trừ.

Giải thích: Hai câu trước là nêu, hai câu sau là liệt kê.

Dưới đây là phần hai – Nói pháp Hộ quốc. Trong đó có hai phần:

1. Tỏ có Thắng pháp; 2. thuyết Đà-la-ni.

Trong phần một lại có hai phần: 1. Tỏ có pháp thù thắng.

Kinh: Thế Tôn! Con có Đà-la-ni có thể gia trì ủng hộ. Đó là gốc của tất cả Phật, là môn tu hành mau chóng.

Giải thích: “Đà-la-ni”: tiếng Hoa gọi là Tổng Trì. Thần lực gia trì oai linh không gì bằng, trừ tà diệt ác, gọi là Đà-la-ni.

“Có thể gia trì ủng hộ”: nghĩa là ủng hộ gia trì chủ Quốc vương kiến lập chánh pháp và ở đâu có thọ trì. “Đó là…”: Đà-la-ni đó là mật nói Thật Tướng Bát-nhã và Quán chiếu Bát-nhã, Phật từ đó mà sinh ra, nhân ở đó mà thành Phật tức là Môn xuất sinh mau chóng.

Dưới đây là phần hai – Nói về Trừ tai nạn.

Kinh: Nếu người nghe được, vừa qua ở tai, toàn bộ tội chướng tất đều tiêu diệt, huống nữa là còn tụng tập, khiến cho thông lợi, nhờ oai lực của pháp khiến cả cõi nước mãi không có các nạn.

Giải thích: “Toàn Bộ tội chướng”: Nghĩa là nếu vừa nghe thì ba chướng đều diệt huống nữa là tụng tập tu hành thông lợi thì nước nhà làm gì có tai nạn. Dưới đây là phần hai – Thuyết Đà-la-ni. Trong đó chia làm hai phần: 1. Đồng thuyết.

Kinh: Liền ở trước Phật, khác miệng cùng âm, thuyết Đà-la-ni:

Giải thích: Nói về đồng thuyết. Dưới đây là phần hai. Thuyết Đàla-ni. Trong đó chia làm hai phần: 1. Tam quy y; 2. Tông chỉ, trong phần một lại có hai phần. 1. Nêu chung về Tam quy.

Kinh: Na-mô-la-đát-na-đát-la-dạ-da.

Giải thích: Tiếng phạm là na mô, tiếng Hoa gọi là Quy mạng. Tiếng phạm là La-đát-na tiếng Hoa dịch là Bảo. Tiếng phận là Đát-la- dạ-da tiếng Hoa dịch là Tam, kia thì Quy mạng Bảo Tam. Đây thì Quy mạng tam bảo. nghĩa là do trì kinh tụng Đà-la-ni là Mật Ngữ, gọi là Quy mạng Tam bảo. Từ đoạn này về sau, được đối chiếu dịch giải theo bản tiếng phạm kinh Tam tạng Kim cang Đỉnh Du-già. Như kinh kia nói; Người quy y Phật Đà thì được chư Phật năm vị Bồ-tát cùng tất cả các quyến thuộc Bồ-tát đều đến gia Hộ. nghĩa là chư Bồ-tát tôn kính tâm

Bồ-đề, thấy người phát tâm Bồ-đề quy y Phật, thì thường gia hộ, Quy y Đạt Ma thì đắc được đế Thích cùng các quyến thuộc tứ Thiên vương đều đến gia hộ. nghĩa là, do thời xưa Vua đế Thích bị nạn nguy hiểm được pháp Bát-nhã gia hộ mà được ích, cho nên thường tôn kính. Quy y Tăng già thì được sắc cứu cánh Thiên, Ngũ tịnh cư thường tôn kính. cùng các quyến thuộc đều gia hộ. Nghĩa là chư Bồ-tát và Thanh văn tăng ở trong cõi trời kia trú hiện pháp lạc cho nên thường tôn kính.

Dưới đây là phần hai – Nói riêng về Tam quy. Trong đó chia làm hai phần: 1. Quy Phật Bảo.

Kinh: Na-mô, a-lý-dạ, phệ-lộ-giả-na-dã, đát-tha-đọa-đa-dạ, laha-đế, tam-miệu-tam-một-đà-dã.

Giải thích: “Na-mô” là Quy mạng còn gọi là khể thủ, còn gọi là Đảnh lể. “A-lý-dạ”: tiếng Hoa gọi là Thánh. “Phệ-lộ-giả-na-dã”: tiếng Hoa gọi là Biến Chiếu còn gọi là Đại Nhật, như mặt trời ở thế gian không chiếu thế giới khác, chỉ được gọi là Nhật chứ không được gọi là Đại. Tỳ-lô-giá-na, gọi là Đại Nhật là sắc thân pháp thân khắp cả pháp giới, mười phương thế giới đều chiếu sáng. Nếu người xưng danh Quy mạng lễ bái thì được pháp giới chư Phật, Bồ-tát Thánh Hiền tám bộ gia trì vệ hộ. “Đát-tha-đọa-đa-dạ”: tiếng Hoa gọi là Như Lai. “La-ha-đế”; tiếng Hoa gọi là ứng cúng còn gọi là hại oán, còn gọi là Bất sinh. “Tam Miệu”: tiếng Hoa gọi là chánh. “Tam-một-đà-dã”: tiếng Hoa gọi là

Đẳng giác thuận theo ngôn ngữ của Nước Đường này thì gọi là: “Quy Mạng Thánh Giả Biến Chiếu Như Lai ứng cúng chánh Đẳng giác”: tức là Bản sư. Ở đây thiếu pháp bảo vì trong phần Tông chỉ sau Nói chi tiết về pháp bảo, cho nên ở đây lược bớt. Dưới đây là phần hai – Quy Tăng Bảo.

Kinh: Na-mô-a-lý-đã, tam-mãn-đa, bạt-nại-la-dã-mạo, địa-tátđát-phược-dã-ma-ha-tát-đát-phược-dã-ma-hạ-ca-lo-ni-ca-dã.

Giải thích: “Na mô”: như trên. “A-lý-dã” là Thánh. “Tam-mãn- đa”: là phổ, còn gọi là Biến. Còn gọi là Đẳng. “Bạt-nại-la”: tiếng Hoa gọi là Hiền. Nói về chữ “Dã”: là nương theo thanh mà tỏ pháp, là thanh thứ tư trong tám chuyển thanh. Có nghĩa là “Vì”. Vì kia mà tác lể, cho nên gọi là vi. Các chữ Dã ở phần sau đều theo đó mà biết. nghĩa là Bồ-tát đó thuyết môn Tam Mật nói rộng về hạnh nguyện. Nêú có chư Phật không tu môn Tam Mật, không nương theo hạnh nguyện phổ Hiền mà đắc thành Phật; thì không có việc đó. Nếu đã thành Phật mà có sự ngừng nghĩ ở môn Tam Mật hạnh nguyện Phổ Hiền thì cũng không có việc đó. Cho nên bảo là Quy mạng.

“Mạo địa tát đát phược dã”: cũ gọi là Bồ-đề nay gọi là Mạo địa, gọi theo cách cũ là Tát-đỏa. Nay gọi là tát đát phược. Trong năm chữ đó, ở nước này lượt bớt bỏ bớt ba chữ chỉ gọi là Bồ-tát.

“Ma hạ tát đát phược dã”: tiếng Hoa gọi là Đại Dũng Mãnh.

“Ma hạ ca lô ni ca dã” tiếng Hoa gọi là Đại Bi Thuận với ngôn ngữ ở vùng này (Trung Hoa) là Quy Mạng Bậc Thánh Phổ Hiền Bồ-tát bậc Đại Dũng Mãnh, Đại Bi do quy y đó mà được chư Phật, Bồ-tát mười phương gia hộ. nghĩa là chư Phật, Bồ-tát tu môn Tam Mật hành hạnh Phổ Hiền, được chứng thù thắng quả cho nên thường gia hộ. Trên là đã nói về quy y Phật tăng.

Dưới đây là phần hai – Chánh nói về Tông chỉ. Trong đó chia làm ba phần. 1. Quán Hạnh; 2. Tam Mật Môn; 3. Quả Đức. Trong phần một văn lại chia làm hai phần: 1- nêu chung về Sở Vi.

Kinh: Đát nhĩ dã tha.

Giải thích: Tiếng Hoa gọi là “Sở Vi”, thời cổ gọi là Tức thuyết. Dưới đây là phần hai – Rộng nói về Quán hạnh. Có mười sáu câu trong đó chia làm ba phần. 1. Gồm mười hai câu, nói riêng về Nhân vị; 2. Có hai câu tỏ chung về Quả vị; 3. Có hai câu nói về Phật, Bồ-tát Mẫu.

Trong phần một nói về Nhân, văn chia làm bốn phần: 1. Bản Hậu Trí; 2. Thật Tướng Trí; 3. Nhị Lợi Trí; 4. Đại Phổ Hiền Địa. Trong phần một Bản Hâụ Trí văn lại chia hai phần: 1. Căn bản Trí; 2. Hậu Đắc Trí.

Trong phần một văn lại chia hai phần: 1. Trí Đăng cú (câu).

Kinh: Chỉ-nhương-na-bát-la-nhĩ-bế.

Giải thích: Tiếng phạm Chỉ-nhương-na, tiếng Hoa dịch là Trí. Bát -la-nhĩ-bế dịch là Đăng (Đèn) do đến trí đó mà phá tan bóng tối vô minh. Du-già chú thích rằng: dùng vô sở Đắc Trí làm phương tiện. Vô trí vô đắc tức thành đèn Trí Bát-nhã Ba-la-mật-đa chiếu khắp tất cả pháp giới vô phân biệt.

Kinh: A-khất-xoa-dã-cú thế.

Giải thích: Chữ “A” là hô thượng thanh, tiếng Hoa dịch là Vô. Nhưng trong bản phạm chữ A này vì tùy theo thanh nhiều lúc hô là chữ Ác, chữ ác. Chữ Ố ở trên kinh tức là chữ A này.

“Khất xã dã”: tiếng Hoa dịch là Tận.

“Cú thế”: tiếng Hoa gọi làTạng tức là Trí Đăng trên là Tạng vô Tận.

Du-già giải thích rằng: chữ A là chủng tử, chủng tử có hai nghĩa: 1. Dãn sinh; 2. Nhiếp trì đến phần sau sẽ rõ. Nói chữ “A” là thuyên bày nghĩa tất cả pháp vốn bất sinh mà chữ A là mẹ của các chữ, có thể sinh ra các chữ. Nếu đắc A tự Môn thì đắc vô tận pháp Tạng của chư Phật ngộ các pháp bản lai bất sinh, do như hư không, một Tướng thanh tịnh bình đẳng không hai tức chính là căn bản vô phân biệt Trí.

Dưới đây là phần hai – Hậu đắc cú.

Kinh: Bát-la-để-bà-na-phược-để.

Giải thích: “Bát-la-để-bà-na”: tiếng Hoa gọi là Cụ thuận theo tiếng Hoa là cụ Biện Tài. Du-già giải thích rằng: Chữ bát-la là chủng tử. Chữ bát-la là thuyên Bát-nhã Ba-la-mật đa vô sở đắc, do chứng chư pháp bản lai bất sinh mà đắc vô tận pháp Tạng của chư Phật. ở trong Hậu Đắc trí có đủ cả bốn vô Ngại giải, biện thuyết tự tại.

Dưới đây là phần hai – Thật Tướng Trí.Văn có bốn Câu: 1. Thật Tướng Cú.

Kinh: Tát-phược-một-đà-phược-lô-chỉ-đế.

Giải thích:Tát Phược: tiếng Hoa gọi là Nhất Thiết. Một Đà: tiếng Hoa gọi là Giác. Phược-lô-chỉ-đế; tiếng Hoa gọi là sở Quán. Tức là Thật Tướng mà tất cả Phật đã Quán. Du-già giải thích rằng: chữ Tát là

Chủng Tử, Chử Tát là thuyên bày nghĩa tất cả pháp bình đẳng. Người Trú Du-già thì Năng duyên và Sở duyên đều bình đẳng, Trí chứng chơn Lý, nhập dòng pháp tức đồng với vô biên, là cảnh sát của chư Phật.

Dưới đây là phần hai – Viên Thành cú.

Kinh: Du-nga-bì-lý-nhĩ-sáp-bì-ninh.

Giải thích: “Du nga”; cũ gọi là Du-già, tiếng Hoa gọi là tương ưng. “Bì-lý-nhĩ-sáp-bì-ninh”: tiếng Hoa gọi là Viên thành, viên mãn. Thành Thật gọi là viên thành. Thuận theo tiếng Hoa nói là viên thành tương ưng.

Du-già giải thích: Chữ Du là chủng tử, chữ du là thuyên bày tất cả Thừa vô sở đắc. Quán Trí tương ưng chứng lý viên thành, tức là giáo lý hạnh Quả ở các Thừa đều chứng đắc cùng một chơn pháp Tính. Dưới đây là phần ba – Thậm Thâm cú.

Kinh: Nghiễm-tị-la-nỗ-la-phược-nga-hệ.

Giải thích: “Nghiêm Tị La”: Tiếng Hoa gọi là Thậm Thâm (rất sâu).

“Nỗ-la-phược-nga-hệ”: Tiếng Hoa gọi là Nan trắc (khó lường).

Du-già giải thích; chữ nghiêm là chủng tử. Chữ Nghiêm là thuyên bày pháp Chơn Như, không đến không đi, tính lìa ngôn thuyên. Duy chỉ tự giác Thánh Trí lìa Tướng mà chứng đắc cho nên bảo là thâm sâu khó lường.

Dưới đây là phần bốn – Tam Thế viên thành cú.

Kinh: Để Lý-dã-trì-phược-bì-lý-nhĩ-sáp-bì-ninh.

Giải thích: “Để lý dã trì phược”; tiếng Hoa gọi là Tam thế (ba đời).

“Bì-lý-nhĩ-sáp-bì-ninh”: Tiếng Hoa gọi là Viên thành. Tức là Tam thế viên Thành. Du-già giải thích ba chữ “để-lý-dã”: là một chữ phạm làm chủng tử, để thuyên bày tất cả pháp Chơn như bình đẳng vô số công đức tự thành tựu, pháp chơn như đó, tuy khắp tất cả nhưng thể chẳng phải là thời gian mà quá khứ hiện tại, vị lai là từ hư vọng mà Sinh. Đó là thuộc về Hành uẩn bất tương ưng, nhiếp bởi hành uẩn, Đó là Hữu vi, cho nên chơ Như tuy là khắp nhưng không đồng với hữu vi.

Dưới đây là phần ba – Nhị lợi Trí, văn có bốn cú: 1. Bồ-đề tâm cú.

Kinh: Mạo-địa-chất-đa-tán-nhạ-na-nhĩ.

Giải thích: “Mạo địa chất đa”: Tiếng Hoa gọi là chánh giác tâm, “Tán Nhã Na Nhĩ”: Tiếng Hoa gọi là Năng sinh. Thuận theo tiếng Hoa là: Tam Thế viên thành trên có thể sinh ra tâm Bồ-đề. Du-già giải thích rằng: chữ “Mạo” làm chủng tử, chữ Mạo là thuyên về nghĩa tất cả pháp không có trói buộc. Nếu biết rõ tự tánh của tâm Bồ-đề trong chính thân mình thì thành tựu ba đời bình đẳng cũng như hư không. Nếu lìa bỏ tất cả tướng thì có thể biết rõ tâm của tất cả Hữu tình và tâm của chư Phật đều như tự tâm, bản lai thanh tịnh, thì khởi đại bi thâm sâu sinh ra thương xót, nhiều loại phương tiện khiến các hữu tình Lìa khổ giải thoát đạt đến cứu cánh không trói không mở, Đó mới là tâm Bồ-đề rộng lớn.

Dưới đây là phần hai – Quán Đảnh cú.

Kinh: Tát-phược Tỳ-li-ca Tỳ-sắc-ngật-đế.

Giải thích: “Tát-phược-Tỳ-li-ca”: Tiếng Hoa gọi là Nhất thiết Quán đảnh.

“Tỳ-sắc-ngật-đế”: Tiếng Hoa gọi là sở quán Hội ý dịch là: dùng pháp Quán đảnh mà Rưới đảnh đầu. Pháp Quán Đảnh thì theo kinh kia có năm thứ: Mũ báu, Án khế nước, ánh sáng, danh hiệu mà Quán Đảnh.

Du-già giải thích: chữ tát làm chủng tử. Chữ Tát là thuyên bày nghĩa tất cả pháp không có nhiễm trước. Do Quán tâm tự tha và chư Phật đồng một chơn như, nên đắc đồng thể bi, do đó đạt được không nhiễm không chấp trước và được mưa pháp của tất cả chư Phật mười phương quán đảnh, nghĩa là trong địa thứ mười, Địa nào cũng được pháp quán đảnh thù thắng tối thượng, ba nghiệp gia trì mà đối với vô lượng Tu-đa-la diễn thuyết tự tại, Lợi Tha rộng lớn.

Dưới đây là phần ba – Pháp hải xuất sinh cú. (Câu “biển pháp sinh ra).

Kinh: Đạt-ma-bà-nga-la-tam-bộ-đế.

Giải thích: “Đạt ma”: Tiếng Hoa gọi là pháp. “Bà la nga”: Tiếng Hoa gọi là Hải. “Tam bộ đế”: là xuất Sinh… Nghĩa là: từ Biển pháp xuất sinh ra ngộ giải không chướng ngại, không gián đoạn.

Vô Ngại giải, vô Đoạn tận.

Du-già giải thích rằng: chữ Đạt làm chủng tử, thuyên bày tất cả pháp nhiễm tịnh thể của cả hai đều chẳng thể có được, dùng chánh Thể Trí đoạn dứt câu sinh Trí chướng trong Bản Thức, thì thành pháp Hải, chảy ra giáo pháp, làm lợi lạc rộng lớn.

Dưới đây là phần bốn – Vô gián Thính văn cú.

Kinh: A-mộ-già-thất-la-phược-ninh.

Giải thích: Chữ “A”: là hô ngắn Thượng thanh. “Mộ già” tiếng Hoa dịch là vô gián đoạn, cổ dịch là Bất không, là sai. “Thất-la-phược- ninh”: Tiếng hoa dịch là “văn” nghe thuận theo tiếng này dịch là: ở chỗ bày chư Phật lắng nghe không gián đoạn. Du-già giải thích: Nay nương theo thanh mà Luận nói, giải thích vô gián. Chữ A làm chủng tử, thuyên chư pháp Bản lai tịch tịnh, Bản lai Niết-bàn, do chứng pháp này, biến khắp pháp giới, quốc độ chư Phật, đại tập trong hội, nên đối với giáo pháp đã nghe từ chư Phật trước đây đều đã nhớ trì mãi mãi không quên.

Dưới đây là phần bốn – Đại Phổ Hiền Địa cú.

Kinh: Ma-hạ-tam-mãn-đa-bạt-nại-la-bộ-di-niết-lý-dã-đế.

Giải thích: “Ma-hạ”: là tiếng Hoa dịch đại. “Tam-mãn-đa”: là phổ. “Bạt-nại-la”: là hiền. “bộ-di”: là tiếng Hoa dịch địa. “Niết-lý-dã đế”: là tiếng Hoa dịch xuất sinh. Thuận theo tiếng hoa câu này là: từ các hành nguyện đã tu ở các Địa trước có thể xuất sinh ra Địa Đại phổ Hiền này, tức là Đẳng giác Địa sau Thập Địa.

Trong Du-già, từ phàm đến Thánh gồm có địa thứ tư: 1. Thắng giải Hạnh Địa, gọi chung là tiếng Hoa dịch Địa tiền; 2. Phổ Hiền hạnh Nguyện Địa, gọi chung cho cả địa thứ mười; 3. Đại phổ Hiền Địa tức là Đẳng giác Địa; 4. Phổ Chiếu Diệu Địa tức là thành tựu Chánh giác Địa. Theo kia giải thích là: chữ ma làm chủng tử thuyên bày tất cả pháp, Ngã pháp không. Nghĩa người hành Du-già, đoạn chướng vi tế, chứng Ngã pháp không, tức là vượt qua Đại phổ Hiền. Địa chứng chiếu diệu thành Đẳng chánh giác phước và Trí trang nghiêm, thọ dụng thân và pháp thân đều viên mãn.

Trên là đã nói về Nhân, tiếp theo là phần hai. Nói về Quả vị. Văn có hai cú: 1. Quả viên mãn cú.

Kinh: Vỹ-dã-yết-la-nỗ-bì-lý-bát-la-bì-nhĩ.

Giải thích: Năm chữ đầu, tiếng Hoa gọi là Thọ ký. Sáu chữ sau là hoạch đắc (thu hoạch được) Thuận theo tiếng Hoa câu này dịch là thu hoạch được thọ ký, tức chính là Trước đắc thọ ký, nay được đầy đủ.

Du-già giải thích rằng: chữ Vỹ dã làm chủng tử, chữ Vỹ Dã là thuyên tất cả pháp rốt ráo cuốn cùng chẳng thể đạt được. Do Quả viên mãn, cứu cánh cuối cùng chứng đắc tất cả các pháp tự Tính là tịch tịnh, tự tính Niết-bàn. Năng chứng và sở chứng đều đồng một Tính, bất tăng chẳng giảm thường viên mãn.

Dưới đây là phần hai – Lễ kính cú.

Kinh: Tát-phược-tất-đà-na-ma-tắc-ngật-lý-đế.

Giải thích: “Tát-phược-tất-đà”: Tiếng Hoa dịch là người thành tựu tức Bồ tác Thập Địa. “Na-ma-tắc-ngật-lý-đế”: tiếng Hoa gọi là Tác Lễ. Lễ có hai nghĩa: 1. Lễ pháp Bát-nhã kia; 2. Lễ Người Thành chánh giác. Vì có đủ cả hai nghĩa đó, cho nên bậc Thập Địa là nơi mình làm lễ.

Du-già giải thích: Chữ Tát là chủng tử, chữ Tát là thuyên bày nghĩa Sinh diệt. Ở trong chữ tát, có chữ A thuyên về nghĩa vô sinh. Nhưng do chứng chữ A trong quả vị, nên thể bất sinh bất diệt, thường kiên cố, giống như Kim cang Thắng dụng tự tại, tức có thể hiện khắp vô biên ứng hóa, nhiều loại lợi lạc thị hiện có sinh có diệt nhưng thật ra là vô sinh vô diệt.

Ở trên đã nói về quả. Dưới đây là phần ba – Mẹ của chư Phật, Bồtát. Văn có hai cú: 1. Xuất sinh Bồ-tát cú.

Kinh: Tát-phược-mạo-địa, tát-đát-phược, tán-nhã-na-nhĩ.

Giải thích: “Tát phược”: tiếng Hoa gọi là nhất thiết (tất cả)

“Mạo-địa-tát-đác-phược”: tiếng Hoa gọi là Bồ-tát. “Tán-nhã-na- nhĩ”: là xuất sinh. Thuận với tiếng Hoa là: xuất sinh tất cả Bồ-tát.

Dưới đây là phần hai – Phật Thế Tôn Mẫu cú.

Kinh: Bà-nga-phược-để-một-đà-ma-đế.

Giải thích: “Bà Nga phược để”: tiếng Hoa dịch là cụ phúc giả (người đầy đủ phước). Hội ý dịch là Thế Tôn. “Một đà?” là tiếng Hoa dịch giác. Ma đế: là Mẫu. Thuận theo tiếng Hán là Phật Thế Tôn Mẫu. Bà già phạm là tiếng xưng hô Nam, Bà Nga phược để là tiếng xưng hô nữ, hội ý cả hai dịch là Thế Tôn. Nếu nương theo thanh dịch theo nghĩa đối thì, Bà già dịch là phá, phạm dịch là Năng, Năng phá bốn Ma, gọi là Bà già phạm. Lại nói Bạch-a-phạm theo thanh minh luận chia chữ mà giải thích thì; bạc là phá, A: là vô sinh, phạm mà phá phiền não, cho nên Phật Thế Tôn bất sinh bất diệt, bất Lai bất khứ, bất Nhất bất Dị, bất thường chẳng đoạn, bất tăng bất giảm. Có đủ các đức như vậy gọi là Bạc-a-phạm. Lại nữa, Bạc-già-phạm; Bạc gia: là phúc Trí, phạm dịch là cụ. Hội ý dịch là: do có đủ phúc và trí trang nghiêm mãn túc gọi là Bạc-già-phạm cũng là Nam Thanh.

Du-già giải thích rằng: chữ Bà làm chủng tử chữ Bà là thuyên về tâts cả pháp có chẳng thể đạt được, do tâm nhiễm cho nên có sanh tử, do tâm tịnh mà có Niết Bàn hai kia Lìa tâm đều chẳng thể đạt được, nghĩa là do Bát-nhã mà sinh ra liễu Nhân thì có thể sinh ra tất cả chư Phật cho nên gọi là Mẫu. Mười sáu câu trên như trong kinh Du-già cũng thuộc mười sáu Hạnh Phổ Hiền.

Dưới đây là phần hai – Tam mật Môn.

Kinh: A-la-nhĩ-la-nhĩ, a-la-nỗ-ca-la-nhĩ.

Giải thích: Mười chữ đó, nghĩa của chúng rất thâm mật, chỉ có Phật mới biết được. Nếu theo chữ mà giải thích thì cũng có thể gọi là ba nghiệp thanh tịnh. A Tự Môn là thuyên tất cả pháp bản lai bất sinh. La tự Môn là thuyên về nghĩa tất cả pháp Ly trần. Nhĩ Tự Môn là thuyên về Tất cả pháp vô Tránh, do bởi biết chư pháp vô sinh, cho nên Ly trần, do ly trền Mà đắc vô tránh gọi là A La Nhĩ. Ca tự Môn là thuyên về tất cả pháp vô tạo tác. La Tự Môn là thuyên về nghĩa tất cả pháp thanh tịnh. Nhĩ Tự Môn là thuyên về nghĩa tất cả pháp vô tránh, do bởi biết chư pháp không có tạo tác cho nên thanh tịnh, do thanh tịnh mà đắc vô tránh gọi là Ca La Nhĩ. A Tự Môn là thuyên tất cả pháp Bản Lai Tịch Tịnh, La Tự Môn thuyên tất cả pháp vô cấu, Nổ Tự Môn là thuyên tất cả pháp vô tránh. Do Biết chư pháp tịch tịnh cho nên vô cấu do vô cấu mà đắc vô tránh, gọi là A La Nổ. Ca tự Môn là thuyên tất cả pháp vô tạo tác. La Tự Môn là thuyên tất cả pháp vô phân biệt. Nhĩ Tự Môn là thuyên tất cả pháp vô động, do biết chư pháp vô tạo tác cho nên vô phân biệt, do vô phân biệt mà chẳng động, do chẳng động mà chứng Ma Ha Bát-nhã Ba-la-mật đa, đắc vô Trú Đạo gọi là Ca la Nhĩ. Dưới đây là phần ba – kết. Quả Đức.

Kinh: Ma-ha-bát-la-chỉ-nhương, bá-la-nhĩ-đế-sa-phược-hạ.

Giải thích: “Ma hạ”: là tiếng Hoa dịch Đại. Bát La chỉ Nhương:

tiếng Hoa gọi là Cực trí. Bá La Nhị đế: nghĩa là Ly, Đáo. Dựa theo thanh minh luận phân câu mà giải thích. Ba Lam Y (thượng thanh) Đa Y đa là Thử Ngạn. Bá lam: là Bỉ Ngạn. Nương đại cực trí lìa sinh tử Bờ này đến

Niết-bàn bờ kia. Đắc vô Trú Đại Niết-bàn Sa-phược-hạ: là bờ này đến Niết-bàn bờ kia, đắc vô Trú xứ Đại Niết-bàn. Sa Phược-ha: tiếng Hoa gọi là thành tựu, còn gọi là cát tường, còn có nghĩa là viên tịch, còn có nghĩa là dứt tai nạn tăng ích, còn có nghĩa là vô trú. Nay ở đây lâý nghĩa vô Trú tức chính là vô Trú Niết-bàn. Nương theo Niết-bàn đó cho đến tận vị lai lợi lạc hữu tình không bao giờ hết gọi là Sa Phược-hạ.

Ở trên nói chữ chủng tử là có hai nghĩa: 1. Dẫn đến, sinh ra; 2. Nhiếp trì. Như mười chữ hợp thành một câu, dùng chữ thứ nhất mà làm chủng tử. Lại chín chữ sau là toàn bộ Quán Trí, chữ đầu tiên là đãn sinh, chín chữ sau thâu nhiếp vào dựa vào chữ đầu tức chính là chữ đầu nhiếp trì chín chữ còn lại. Do đó mà nói; nếu biết một pháp tức biết tất cả pháp. Nếu biết một pháp không tức biết tất cả pháp không. Nếu có thể đối với một chữ, chuyên chú Quán sát tu các hành nguyện thì tất cả Hạnh nguyện đều đạt được viên mãn, tức là nghĩa của Đà-la-ni Tổng Trì. Lại nữa, những nghĩa sai biệt ở trên là thâu nhiếp mười sáu câu của văn trường hàng bên trân, nhiếp mười sáu câu thành mười hai chữ, nhiếp mười hai chữ thành mười chữ đó, nhiếp mười chữ đó quy về một chữ Địa, từ rộng đến lược dần dần thâm sâu. Một chữ hiện tiền, vòng khắp pháp giới, tính tướng Bình Đẳng đến ngôi vị cứu cánh.

Dưới đây là phần ba – Thế Tôn ấn thuật.

Kinh: Bấy giờ! Đức Thế Tôn nghe thuyết chú đó rồi, tán thán các

Bồ-tát Kim cang Thủ… Lành thay! Lành thay! Nếu có người trì tụng Đà-la-ni này, Ta và chư Phật mười phương đều thường gia hộ. Các quỷ thần xấu ác đều kính trọng người đó như Phật, không lâu sẽ đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.

Giải thích: “Lành thay! Lành thay!”: là lời ấn chứng chư Phật đồng hộ tôn kính mẹ, Quỷ thần kính ngưỡng vì oai lực của pháp. Sẽ đắc Bồ-đề là đạt quả thù thắng. Dưới đây là phần ba – Các vua được ích. Trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu các Quốc vương.

Kinh: Đại vương! Ta đem kinh này giao phó cho các ông. Nước Tỳ-xá-ly, nước Kiều-tát-la, nước Thất-La-phiệt, nước Ma-già-đà, nước Ba-la-ni-tư, nước Ca-tỳ-la, nước Câu-thi-na, nước Kiều-thiểm-di, nước

Ban-già-la, nước Ba-tra-la, nước Mạt-thổ-la, nước Ô-thi-ni, nước Bôn Tra-bạt-đa, nước Đề-bà-bạt-đa, nước Ca-thi, nước Thiệm Ba, tất cả các Quốc vương như vậy đều nên thọ trì Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Giải thích: Trao cho các Quốc vương, khiến thọ trì, tôn kính an lập chánh pháp, mãi mãi không có các nạn, mười sáu nước lớn liệt kê ở trong này hơi khác với kinh cũ, phạm ân khác với kinh Đại Tập, phần Nguyệt Tạng quyển mười sáu và Luận Đại Tỳ Bà-sa quyển một trăm hai mươi bốn.

Dưới đây là phần hai – Đại chúng kinh ngạc, tán thán.

Kinh: Lúc này, các đại chúng A-tu-la v.v… nghe Phật nói rõ về các chuyện tai nạn, lông thân đều dựng đứng, cất tiếng xướng: Nguyện cho chúng ta vào đời vị lai không sinh nơi nước đó.

Giải thích: “Lúc ấy”, chư đại chúng”; là nêu chung. “A-tu-la,…”; là nêu riêng. “Tai nạn”: là bảy nạn. Vì thời trược ác nên nhân bảy nạn, các nghiệp ác tăng “không sinh nước đó”: có hai nghĩa: Đại Bi phương tiện, chê chẳng nguyện sinh và Báo lực thấp kém, thật sự chẳng nguyện sinh.

Dưới đây là phần ba – Các vua được ích.

Kinh: Khi ấy, mười sáu Quốc vương liền xả bỏ ngôi vua, xuất gia tu đạo, có đủ cả tám Thắng xứ, mười Nhất thiết xứ, đắc Phục nhẫn, Tín nhẫn, vô sinh pháp nhẫn.

Giải thích: “Xả bỏ Ngôi vua”: là thật sự bỏ ngôi vua có, thân tùy xuất gia là xả bỏ tâm cao Ngạo ở Ngôi vua, phát tâm Bồ-đề tức là xuất gia “Tám Thắng xứ…”như trên đã giải thích.

Kinh: Bấy giờ, tất cả đại chúng người, trời, A-tu-la… đều tung rải hoa Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Bà-sư-ca, Hoa-tô-mạn na, để cúng dường Phật, tùy theo chủng tính mà đắc ba môn giải thoát, sinh không, pháp không, pháp phần Bồ-đề.

Giải thích: “Bấy giờ, tất cả…” là chúng cùng nghe. Hai loại hoa đầu là loại hoa trời, hai loại sau ở cõi người. Những hoa đó nếu là Hoa Thật thì như văn đã rõ. Nếu là hoa biến hiện thì theo như giải trước sẽ rõ. “Tùy theo chủng tính”: là chủng tính thuộc Tam Thừa. “Đắc ba Thoát Môn và sinh không”: là thông cả Tam thừa đều đắc. “Pháp không”: là chỉ có Đại Thừa Đắc. “Bồ-đề phần pháp”: cũng thông cả Tam Thừa nhưng pháp Bát-nhã thì đắc quả cả Tam thừa, như kinh Đại Bát-nhã quyển năm trăm chín mươi ba nói; Thiện Dũng Mãnh nói; “Duy nguyện Thế Tôn, thương xót chúng con”: vì chúng con mà tuyên thuyên đầy đủ cảnh trí của Như Lai. Nếu loài Hữu tình bậc thuộc Tính thanh văn thừa quyết định, khi nghe pháp này rồi, thì mau chóng có thể chứng đắc địa vô lậu của tự mình, thuộc Độc giác Thừa Tính quyết định, khi nghe pháp này rồi thì mau chóng nương theo tự thừa mà được xuất ly, thuộc vô thượng thừa Tính quyết định nghe pháp này rồi thì mau chóng chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, cho đến những người Tam thừa, tính bất định khi nghe pháp này rồi mau chóng phát tâm vô thượng chánh Đẳng giác. “Tức là pháp Bát-nhã chẳng phải chỉ Đại Thừa mà cũng khiến nhị thừa đắc tự quả.

Dưới đây là phần hai – Bồ-tát được ích, văn lại chia làm hai phần: 1. Được các nhẫn thù thắng.

Kinh: Vô lượng vô số Bồ-tát Ma-ha-tát rải hoa Câu vật đầu. hoa Ba đầu ma mà cúng dường Phật, vô lượng Tam muội thảy đều hiện tiền, được trụ thuận nhẫn, vô sinh pháp nhẫn.

Giải thích: Chúng Bồ-tát nhiều, nên gọi là vô lượng số. Rải hai thứ hoa san màu đỏ, màu hồng. “Tam muội và nhẫn”; thì như trên đã giải thích.

Dưới đây là phần hai – Hiện thân thành Phật.

Kinh: Vô lượng vô số Bồ-tát Ma-ha-tát, đắc hằng hà sa các môn Tam muội, chơn Tục bình đẳng, có đủ vô ngại giải, thường khởi đại bi, ở trăm vạn ức A-tăng-kỳ Phật sát vi trần số thế giới, rộng lợi chúng sanh hiện thân thành Phật.

Giải thích: “vô lượng,…” Là nói về Bồ-tát rộng lớn. “Hằng hà sa Tam muội”: là Tam muội rất nhiều. “Chơn Tục,…”; là cảnh đế; nói về Bi, có đủ Đức. “Vi trần số thế giới…” là đều được ích nhờ nghe pháp

 

PHẨM THỨ TÁM: CHÚC LỤY

Là đoạn văn lớn thứ ba, nói về phần lưu thông.

-Ý nghĩa nối tiếp: Ở phần trước nói rộng về Chánh Trí, sau là nói về Bi sâu. Tuy Trí và Bi của Phật thường không gián đoạn, nhưng dựa theo văn trước sau thì có lúc nghiêng về Trí, có khi lại nghiêng về Bi, đoạn văn sau đây là nói về các điều răn bảo.

-Về giải thích tên phẩm: “Chúc”: nghĩa là trao. “Lũy”: là trọng trách gánh vác trọng trách của Phật gọi là Chúc Lũy. Lại nữa, lấy pháp này trao cho các vua, bảo gánh vác hoằng tuyên khiến hột giống Phật không bị dứt đoạn. Lại nữa, trao Bát-nhã, gánh vác lưu truyền nhiều đời khiến trừ tai nạn lợi lạc hữu tình. Như kinh Đại phẩm trao gởi thanh văn kinh pháp Hoa thì trao cho Bồ-tát đúng căn nhiếp ích tùy loại khác nhau. Đây là khiến cho Tam Bảo được Trú lâu dài thì chỉ có vua mới có khả năng kiến lập.

-Về chia văn giải thích: văn chia làm ba đoạn: 1. Nêu về pháp được trao; 2. Các lời răn bảo; 3. Hỏi tên phụng hành. Phần pháp trao lại chia làm hai phần: 1. Thời trao pháp.

Kinh: Phật bảo vua Ba-tư-nặc: Nay khuyên bảo các ông, sau khi ta diệt độ, chánh pháp sắp diệt, sau năm mươi năm, sau năm trăm năm, sau năm ngàn năm, không có Phật Pháp Tăng, thì kinh này là Tam Bảo trao cho các Quốc vương kiến lập, gìn giữ.

Giải thích: “Nay khuyên bảo các ông”: răn bảo nghĩa là dạy bảo, răn dạy, răn bảo là vì Phật đại bi. E rằng sau khi diệt Độ, chánh pháp bị chìm ẩn, các loài hữu tình, mười ác chuyển tăng, nhiều kiếp luân hồi, không ai cứu hộ. Răn bảo các vua, khiến họ kiến lập. Lại còn răn dạy các phàm và Thánh, nhận trì thủ hộ, thì các Quốc độ vĩnh viễn không có tai nạn.

“Sau năm mươi năm…”: Đó là thời chánh pháp. Tượng pháp, Mạt pháp. Như kinh Đại Thừa Đồng Tính quyển hạ nói: Như Lai hiển hiện từ cung Trời Đâu Suất xuống, cho đến Trú trì tất cả chánh pháp, tất cả tượng pháp, tất cả diệt pháp, những sự giáo hóa như vậy đều là ứng thân, Lại nữa, Thiện kiến luận nói; một ngàn năm thứ nhất nếu các Đệ tử siêng năng tu hành tinh tấn, thì đắc Quả A-la-hán. Ngàn năm thứ hai thì đắc Quả thứ ba. Ngàn năm thứ ba thì đắc quả thứ hai. Ngàn năm thứ tư thì đắc Sơ Quả, từ đó về sau là thời Mạt pháp. Theo văn luận thì, thời chánh pháp, đa phần là đắc quả vô học. Lại nữa, như Biệt ký nói; chánh pháp một ngàn năm. Tượng pháp một ngàn Năm, Mạt pháp

một vạn năm. Sự khác nhau của ba Thời kỷ đó là: Có giáo, có hành, có đắc Quả chứng gọi là chánh pháp. Có giáo, có hành nhưng không có đắc Quả chứng, gọi là tượng pháp chỉ có giáo, không có hành không có chứng gọi là Mạt pháp. Nhưng kinh pháp Hoa và kinh Kim cang đều nói là năm trăm năm, kinh này thì nói là năm mươi, ý đó là gì? Như kinh ký pháp Trú dùng số hàng trăm, lấy năm mươi năm sau để nói về thời kỳ suy thoái, như tuổi thọ của con người là một trăm năm, thì năm mươi năm sau là thời kì suy yếu, lấy đó mà dụ cho pháp, do những thời kỳ trước đó là thời kì tốt đẹp, kiến lập pháp chẳng khó, thời kỳ sau thì xấu xa, cho nên đều phải trao gởi dặn dò vậy. Lại nữa, như Luận Xa Bà nói: tất cả Hữu Tông đều nói Chánh Pháp là năm trăm năm, tuy thuyết Bát Kính, nhưng do vì không hành. Đại Chúng Bộ thì nòi là chánh pháp một ngàn năm, chẳng hoàn toàn là không hành. Cũng có hành. Tuy có hai thuyết, nhưng đa phần là nương theo thuyết sau. Lại nữa, Kinh Pháp Trú ghi rằng: mười sáu A-la-hán, mỗi vị đều đem vô lượng quyến thuộc, khi tuổi thọ của loài người đã dần dần tăng đến bảy vạn tuổi, với bản nguyện lực, dùng bảy báu làm Tháp cho Phật. Xá Lợi của Đức Phật Thích ca tự nhiên chảy vào trong tháp, sau đó Tháp xá Lợi Phật đều hảm nhập vào trong đất, đến Thời Kim cang Tế, Các A-la-hán, hóa lửa thiều thân, nhập bát Niết-bàn, tiếp đó có bảy câu kỳ Độc giác xuất thế hóa chư chúng sanh. Đến khi tuổi thọ của loài người dần dần tăng giảm tám vạn tuổi thì cùng một lúc nhập vô dư Niết-bàn, tiếp sau đó Phật Di Lặc mới xuất thế. Lại nữa, kinh Liên Hoa Diệu nói: khi cuối cùng Phật pháp diệt tận thì xá lợi của Như Lai hảm nhập vào Long cung. Pháp ở Long Cung diệt thì hảm nhập vào Kim cang Tế. Tiếp đó bảy ngày bảy đêm trời đất tối đen, có ngoại Đạo ở trong không trung cất tiếng nói rằng; pháp của sa Môn Cù Đàm nay đã diệt tận, chúng ta sẽ giáo hóa chúng sanh ở tất cả thế giới, vừa phát lời đó rồi thị hiện thân hảm nhập vào Địa Ngục, sau đó thì Phật Di Lặc xuất Thế. “không có Phật pháp Tăng”: là như sông thiếu nước, cũng là nghĩa không có nước, cho nên dựa vào thiếu ba thứ ấy Tam bảo ( nên đem kinh trao gửi) nếu đã hoàn toàn là không có thì trao gởi làm gì?.

Dưới đây là phần hai – Tuyên thuyết tu hành.

Kinh: Nay bốn Bộ các đệ tử của Ta, thọ trì đọc tụng hiểu rõ nghĩa lý, rộng vì chúng sanh tuyên thuyết pháp yếu, khiến họ tu tập xuất ly sinh tử.

Giải thích: “Bốn bộ”; là hai chúng xuất gia và hai chúng tại gia như trên. “Xuất ly”: là Tam Thừa tu tập đều xuất ly sinh tử.

Dưới đây là phần hai – Rộng tỏ các điều răn bảo. Trong đó chia làm ba phần: 1. Rộng tỏ các điều răn bảo; 2. Các vua cung kính thửa hành; 3. Đại chúng mũi lòng than vãn. Phần một. Các điều răn, văn chia làm bảy phần: 1. Người kiến lập.

Kinh: Đại vương! Đời năm trược sau này, tất cả Quốc vương, vương tử, đại thần, tự ỷ minh cao quý, phá diệt giáo pháp của ta.

Giải thích: “Năm trược” theo câu xá Luận quyển mười hai nói, gồm: Mệnh trược, kiếp trược, Phiền não trược, kiến trược, Chúng sanh trược. Gọi là Trược, như câu xá Luận nói: kiếp diệt sắp mạt, các thọ thấp kém giống như chất cặn bã, gọi là trược. Chánh lý quyển ba mươi hai nói: vì rất ư hèn hạ thân kém nên phải vứt bỏ như bỏ đồ dơ vậy, gọi là trược. Ngũ trược là gọi chung, mang thêm con số mà giải thích. Giải thích về từng tên gọi riêng là: như Du-già Luận quyển bốn mươi bốn nói: 1. Mệnh trược: như thời nay, tuổi thọ con người ngắn ngủi; 2. Kiếp trược: dần dần nhập vào Tam tai trung kiếp, tổn hao tư cụ đồ dùng; 3. Phiền não trược: hữu tình đa phần tập gần phi pháp, bị tham-sân-si quấy nhiễu; 4. Kiến trược: Hữu Tình đa phần là hoại diệt chánh pháp, giả dối vọng tìm cầu do năm kiến tăng trưởng; 5. Hữu tình trược: Hữu tình đa phần không biết cha mẹ, không thấy sợ hãi, các ác tăng trưởng. Thứ độ của những thứ đó là: Thọ, tư cụ, độ lợi, tác nghiệp, Quả duyên nhân nương theo Khổ Tập mà thành. Có nơi nói: Lợi Độn, tác nghiệp cảm quả nội ngoại là nương theo trị đoạn.

Thể của năm trược, mệnh trược thì thọ dựa mệnh căn, dựa thức làm Tính. Kiếp trược Hữu tình thì lấy uẩn làm Tính. Phiền não và kiến trược thì lấy tâm sở làm Tính. một loại mà bốn hiện, lấy năm uẩn làm Thể. Về Nguyên Do thì; như chánh lý nói; Thọ trược, kiếp trược, hữu tình trược, cả ba thứ đều không thành năm trược. Kiến trược thì dùng phiền não trược làm Thể, đúng thì không thành năm trược, nhưng vì thứ tự thì hiển rõ năm tướng suy tổn. Tăng mạnh năm suy tổn là gì? 1. Thời suy tổn rất ngắn ngủi; 2. Vật dụng suy tổn, thiếu sắc tươi nhuận; 3. Thiện phẩm suy tổn thích làm việc ác; 4. Tịch tĩnh suy tổn lần lượt thành trái ý nhau thành ra tranh luận; 5. Tự thể suy tổn chẳng chứa đựng công đức thế gian. Lại nữa, Câu xá luận nói: do hai trược đầu, Thọ mệnh và vật dụng suy tổn, cùng cực. Do hai trược tiếp mà Thiện phẩm suy tổn thích tự khổ, hoặc tổn hại Thiện tại gia và xuất gia. Do một trược cuối mà suy tổn tự thân. Pháp đối trị với những trược đó là do ba thiện căn, khởi các chánh kiến, tu Thập Thiện hạnh đắc quả vi diệu thù thắng.

“Tất cả Quốc vương”: là tất cả Quốc vương trong Châu Thiệm Bộ. “Vương tử, đại thần”: là như văn đã rõ. Nghĩa là ba loại người đó, lực dụng tự tại, nhận sự trao gởi, kiến lập chánh pháp nhưng lại không kiến lập, tự ỷ cao quý mà phá diệt.

Dưới đây là phần hai – Nói về phi pháp.

Kinh: Tự tạo pháp chế, chế ngự các đệ tử ta, Tỳ-khưu Tỳ-khưu-ni không thuận cho xuất gia, tu hành chánh đạo. Cũng lại không nghe, cho tạo tượng Phật, tháp. Bạch y ngồi cao. Tỳ-khưu đứng đất, giống pháp binh nô, không có gì khác.

Giải thích: “Chế đệ tử ta” là không cho xuất gia. “Tu hành chánh đạo”: là hàng đầu đà… “Tạo Tháp tượng Phật?” Là chế tạo Phật tượng, chế tạo Tháp tượng. “Bạch y ngồi cao”: là tại gia thì ngồi ở trên cao, còn xuất gia thì đứng ở dưới đất, cả hai điều đó đều là phi pháp như dụ đã rõ.

Dưới đây là phần ba – Kết, nói nghĩa không lâu.

Kinh: Nên biết bấy giờ, không lâu pháp sẽ diệt.

Giải thích: Do điều thứ nhất nên hoàn toàn không có người truyền pháp do các điều sau mà không lâu.

Dưới đây là phần hai – Răn bảo Quốc độ phá diệt. Văn có ba phần: 1. Nêu người Năng chế.

Kinh: Đại vương! Nhân duyên phá nước, đều do các ông tự làm, ỷ oai lực mình, cấm bố Bộ chúng, không nghe cho tu phước.

Giải thích: Cấm tu tam học giới định tuệ, cấm tu cúng dường là nghiệp sự phước chân thật.

Dưới đây là phần hai – Nói rõ phi pháp.

Kinh: Chư Tỳ khưu ác, thọ pháp biệt thỉnh, Tỳ khưu tri thức cùng chung một lòng, ngang bằng thân thiện, cùng hợp cầu phước, ấy là pháp ngoại đạo, chẳng phải giáo pháp của Ta, trăm họ dịch bệnh, vô lượng khổ nạn.

Giải thích: Biệt thỉnh là nhận thỉnh mời riêng, như Ngoại đạo. Do chúng xuất gia không khéo thủ hộ, làm phi pháp đó, là nguyên nhân chính của sự rối loạn. Cấm tu phước nghiệp là nhân bất Thiện. Khiến rồng dữ, quỷ dữ làm ra các khổ nạn. Dưới đây là phần ba – Kết, phá diệt.

Kinh: Nên biết bấy giờ, cõi nước phá diệt.

Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần ba – Răn bảo không lâu, pháp diệt. Văn có ba phần: 1. Nên người Năng tác.

Kinh: Đại vương! Vào thời mạt pháp, Quốc vương đại thần, bốn bộ đệ tử, đều làm phi pháp.

Giải thích: Đó là nêu chung, Dưới đây là phần hai – Nói về phi pháp.

Kinh: Trái lời Phật dạy, làm các lỗi lầm, phi pháp phi luật, trói buộc Tỳ khưu, như ở ngục tù kia.

Giải thích: Làm các lỗi lầm, phi pháp trói buộc như Ngục tù.

Dưới đây là phần ba – Nói về không lâu.

Kinh: Nên biết bấy giờ, không lâu pháp sẽ diệt.

Giải thích: Là kết. Dưới đây là phần bốn – Theo Nhân cảm Quả. Trong đó chia làm ba phần: 1. Người tự hủy; 2. Phi pháp bị báo; 3. Nêu dụ giải thích thành. Trong phần một lại có hai phần: 1. Nêu người tự hủy.

Kinh: Đại vương! Sau khi Ta diệt độ, bốn chúng đệ tử, tất cả Quốc vương, vương tử, trăm quan, chính là những người trụ trì Tam bảo, mà cũng chính mình phá diệt.

Giải thích: “Bốn bộ đệ tử” là chúng Trụ trì. “Quốc vương trăm Quan” là chúng lập hộ. Giáo nương vào hai chúng đó mà được trụ ở thế gian. Không trì, không hộ tức là phá diệt.

Dưới đây là phần hai – Nêu thí dụ nói rõ lỗi.

Kinh: Như sâu trùng trong sư tử, tự ăn thịt sư tử, chẳng phải do ngoại đạo.

Giải thích: “Như sâu trùng trong thân sư tử” như kinh Liên Hoa diên nói: Phật bảo A-nan: Thí như Sư tử, nếu mệnh chung, tất cả chúng sanh ở trong nước hay ở trên đất đều không dám cắn ăn chỉ thân sư tử tự sinh ra các sâu trùng trở lại ăn thịt sư tử. A-nan! Phật pháp của ta người khác chẳng thể làm hư hoại được mà chính là những Tỳ khưu xấu trong pháp Ta đã tự hủy hoại. Như trong kinh kia chỉ dụ cho người xuất gia. Nay trong kinh này nói đủ cả bốn chúng không thể hành hộ thì giống như kinh kia. Dưới đây là phần hai – Phá hoại pháp bị Quả báo. Trong đó chia làm ba phần: 1. Thuận hiện báo; 2. Thuận sinh báo; 3. Thuận hậu báo. Trong phần một lại có hai phần “1 Các ác tăng trưởng.

Kinh: Người hủy hoại pháp ta, bị tội lỗi lớn, chánh pháp suy mỏng, dân không chánh hạnh, các ác dần tăng, tuổi thọ ngày giảm, không có hiêú tử, sáu thân bất hòa, trời, rồng không giúp.

Giải thích: “Người hủy hoại…” hai câu đầu là nêu: “Chánh pháp suy mỏng” là nói về tà hạnh. “Các ác dần tăng…” là ác hạnh dần dần tăng lên, tuổi thọ ngắn ngủi. “Không có hiếu tử,…” nhà không có con hiếu thảo, bà con thân thích bất hòa. “Thiên long không giúp” là Bát bộ Thiên Long rời bỏ mà đi.

Dưới đây là phần hai – Tai quái khởi.

Kinh: Quỷ dữ, Rồng ác, ngày đến xâm hại, tai quái liên tục, làm họa ngang dọc.

Giải thích: “Quỷ dữ, rồng ác” Quỷ dữ làm dịch bệnh. Rồng ác làm hạn hán lụt lội, mưa gió thất thường. “Tai quái liên tục”: là chúng nạn tranh nhau khởi lên. “Tung hoành” Nam-Bắc là tung, Đông-Tây là hoành tức bốn phương có tai nạn. Dưới đây là phần hai – Thuận sinh báo.

Kinh: Sẽ bị đọa địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ.

Giải thích: “Sẽ đọa…” là làm nghiệp bất thiện có quả báo dị thục thượng, trung, hạ, ở ba cõi ác.

Dưới đây là phần ba – Thuận hậu báo.

Kinh: Nếu được làm người, thì bần cùng hạ tiện, không đủ các căn.

Giải thích: Nói về hậu báo. Dưới đây là phần ba – Nêu dụ giải thích thành.

Kinh: Như bóng theo hình, như vang ứng tiếng, như viết trong đêm, đèn tắt chữ còn, quả báo hủy hoại pháp, cũng lại như vậy.

Giải thích: “Như bóng theo hình” bóng và thân đều là Dụ cho thuận hiện báo “Như vang ứng tiếng” tiếng mất, thì âm vang ứng. Là dụ cho Thuận sinh báo. “Như viết trong đêm, tắt đèn chữ còn” lửa đèn là dụ cho tác tập. Chữ là dụ cho huân nghiệp. Lửa đèn và chữ hiện cả hai, là dụ cho chủng tử hiện hành, nêu cái thấy của mình để hiển bày cái không thấy, do đó lửa nghiệp tuy diệt nhưng chủng tử chữ không mất, chiêu cảm thuận hậu báo mà thành thục, gần hay xa.

Dưới đây là phần năm – Răn bảo Phật pháp không lâu dài. Văn chia làm ba phần: 1. Người chế pháp.

Kinh: Đại vương! Trong đời vị lai, tất cả Quốc vương, vương tử, đại thần.

Giải thích: Người thiết lập pháp. Dưới đây là phần hai – Nói phi pháp.

Kinh: Đối với đệ tử của Ta, đăng ký ghi sổ, đặt quan điểm chủ, gồm trị mọi tăng lớn nhỏ, sai khiến phi lý.

Giải thích: Những người xuất gia ở các nước phương Tây không lập sổ ghi đăng ký cũng không có người chủ điển quản lý, không có kẻ thống nhiếp trong Tăng. “Phi lý sai dịch” là sai khiến sai dịch giống như thế tục.

Dưới đây là phần ba. Kết pháp không lâu.

Kinh: Nên biết bấy giờ, Phật pháp trụ thế không lâu.

Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần sáu – Răn bảo về nghe theo tà mà chế. Văn có ba phần: 1. Nêu người y pháp.

Kinh: Đại vương! Trong đời vị lai, tất cả Quốc vương, bốn Bộ đệ tử sẽ nương nơi chỗ hành đạo của tất cả, chư Phật mười phương, để kiến lập, lưu thông.

Giải thích: Kiến Lập ba Học: tức là thường Đạo. Dưới đây là phần hai – Nói về phi pháp. Văn lại chia làm hai phần: 1. Khởi phi pháp.

Kinh: Nhưng Tỳ khưu xấu, vì cầu danh lợi, không dựa nơi pháp của ta, ở trước Quốc vương, tự thuyết giảng sai lầm, làm duyên phá pháp.

Giải thích: “Không dựa vào pháp của Ta”: là ngoài ba học ra, thì đều chẳng phải là Phật pháp. kề cận với sự phá pháp. Dưới đây là phần hai – Ngang ngược chế pháp.

Kinh: Vua đó không rõ, tin nhận lời ấy, hoạch lập chế pháp, không theo giới Phật.

Giải thích: Các Bộ luật thuyết là do Phật tùy chế, phải như pháp mà hành, những điều Phật không chế thì không nên ngang ngược chế.

Chế tức là sai. Dưới đây là phần ba – Kết nói nghĩa không lâu.

Kinh: Nên biết bấy giờ, không lâu pháp sẽ diệt.

Giải thích: Như kinh đã rõ. Dưới đây là phần bảy – Răn bảo về tự làm phá nước. Văn có ba phần: 1. Nêu người tự tác.

Kinh: Đại vương! Trong đời vị lai, Quốc vương, đại thần, bốn bộ đệ tử.

Giải thích: Nêu về người. Dưới đây là phần hai – Nói về phi pháp.

Kinh: Tự tạo nhận duyên phá pháp, phá nước, thân tự chịu lấy, chẳng phải lỗi của Phật pháp, trời, rồng bỏ đi, năm trược chuyển tăng.

Giải thích: “Tự làm phá pháp”: nghĩa là bốn bộ chúng, không thể y giáo, như pháp tu hành. “Nhân duyên phá nước”; Quốc vương đại thần, tự không giữ chánh, kiến lập chánh pháp. hai thứ đó nương nhau làm cho chánh pháp bị chìm mất, trời rồng không hộ vệ, làm năm trược tăng thêm. Dưới đây là phần hai – Kết. Tội lỗi vô tân.

Kinh: Nếu nói cho đủ, cùng kiếp không hết.

Giải thích: Kết gần thì ác trược vô tận, kết xa thì sáu chủng loại trên vô tận. Dưới đây là phần hai – Các vua cung kính thừa hành. Trong đó chia làm hai phần: 1. Các vua xúc động, buồn thương.

Kinh: Bấy giờ, mười sáu Đại Quốc vương, nghe nói những điều

khuyên dạy như vậy vào thời vị lai, đều buồn bã la khóc, tiếng động Tam thiên, trời đất tối tăm, ánh sáng không hiện.

Giải thích: Các vua buồn khóc, chấn động đại thiên, mặt trời mặt trăng không hiện thì mờ tối. Dưới đây là phần hai Theo lời dạy bảo, cung kính thừa hành.

Kinh: Lúc này các vua… mỗi mỗi vị đều chí tâm, thọ trì lời Phật, không cấm bốn bộ, xuất gia học Đạo, làm như Phật dạy.

Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần ba – Đại chúng mủi lòng than vãn.

Kinh: Khi ấy hằng hà sa vô lượng đại chúng đều cùng than: đúng vào thời đó, thế gian rỗng không, ấy đời không Phật.

Giải thích: Thương xót than vãn, chánh tuệ mất diệt, trú trì giáo mất tức là không có Phật. Dưới đây là phần ba – Hỏi tên phụng hành. Trong đó chia làm hai phần: 1. Hỏi tên kinh; 2. Phụng hành.

Trong phần một lại có năm phần: Dưới đây là phần một – Nhân vương phát hỏi.

Kinh: Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Chúng con làm sao phụng trì?.

Giải thích: Hỏi tên để phụng trì. Dưới đây là phần hai – Thế Tôn đáp.

Kinh: Phật bảo: Đại vương! Tên kinh này là Nhân Vương Hộ quốc Bát-nhã Ba-la-mật đa. Cũng được gọi là Cam lộ pháp dược. Nếu có người uống, thực hành thì có thể chữa lành các bệnh tật.

Giải thích: Tên kinh này là: đầu tiên tức là Nhân vương. Là người thỉnh hỏi, lấy theo thỉnh chủ mà nêu tên. Tiếp đó nương theo đức nói rõ, khả năng chữa lành các bệnh tật sinh tử, thân sâu nhiều đời con hết được huống nữa là tai khổ thiển cận chẳng diệt được sao?. Dưới đây là phần ba – Công đức của kinh.

Kinh: Đại vương! Công đức của Bát-nhã Ba-la-mật đa vốn có, giống như hư không, không thể lường tính được.

Giải thích: Theo các nghĩa câu, như hư không khôn lường.

Dưới đây là phần bốn – Năng hộ vương thần

Kinh: Nếu có người thọ trì, đọc tụng, thì công đức đạt được có thể hộ trì Nhân vương và các chúng sanh.

Giải thích: Lực kinh thâm diệu, tùy đọc mà hộ trì. Đại bi oai Quang… không có cao thấp. Dưới đây là phần năm – Dụ hiển rõ thọ trì.

Kinh: Giống như vách tường, cũng như thành trì. Do đó các ông, phải nên thọ trì.

Giải thích: Hộ nhà, hộ nước. Cả hai dụ cho thọ trì.

Dưới đây là phần hai – Đại chúng phụng trì.

Kinh: Phật thuyết giảng kinh này xong… vô lượng Bồ-tát Ma-hatát như Di Lặc, Sư Tử Nguyệt… vô lượng Thanh văn như Xá-lợi-phất, Tu-bồ-đề, vô lượng thiên nhân nơi Dục giới, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di, A-tu-la… tất cả đại chúng, nghe Phật giảng nói đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Giải thích: Đại chúng nghe pháp, vui mừng phụng hành.

Lương Bí than mình ở cuối đời Tượng pháp, không gặp được Phật uổng nhớ vận Huyền, buồn bưng hào quang rực rỡ còn sót lại, Sớ củ truyền kinh đã lâu tràn khắp. Nay thuộc Đại Đướng, ngự lịch bốn biển quang lâm, dịch lại kinh này, chiếu bảo tán thuật. Lương Bí trong Tăng chí thấp, ha dám nơm châm, nhưng vì kinh đã phát luân hành lấy lửa đom đóm mà giúp mặt trời lần theo dấu vết xưa cũ, như đi trong bóng tối e gặp chỗ thâm sâu, từ ngữ ý tứ sơ vụng, càng thêm thẹn sợ. Xin các bậc tôn thượng xem mà sửa cho.

Chọn tập kinh Luận các yếu chỉ

Tán thêm Bát-nhã diệu khó lường

Lấy tấm lòng này thí quần sinh

Nguyện cùng mau chứng vô thượng giác

 

Pages: 1 2 3