Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Hán dịch: Vu-điền Tam Tạng Sa-môn Thật-xoa-nan-đà đời Đường
Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận

Nghi Thức Tụng Kinh

 

TÁN HƯƠNG

Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thệ trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sinh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm bồ đề kiên cố
Chí tu học vững bền
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác. C

TÁN PHẬT

Ðấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài
Quy y trọn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận. C
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông khó thể nghĩ bàn
Lưới đế Châu ví tựa đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời
Trước Bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. C

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. C (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Ðiều-ngự Bổn-sư Thích Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. C (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại-từ đại-bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán-Thế-Âm Bồ tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Ðại Nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Ðại Hải chúng Bồ-Tát. C (1 lạy)

TÁN LƯ HƯƠNG

Kim lư vừa bén chiên đàn
Khắp xông khắp pháp giới đạo tràng mười Phương
Hiện thành mây báu kiết tường
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền. C
Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh, thương nguyện phước liên ban cho.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần) C

Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (3 lần) C

Cúi lạy đấng Tam giới tôn
Quy mạng cùng Mười Phương Phật
Con nay phát nguyện rộng
Thọ trì Kinh Địa Tạng
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ Tam đồ
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều phát lòng Bồ Đề
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần) C

KỆ KHAI KINH

Phật pháp thậm sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe đặng chuyên trì tụng
Nguyện tỏa Như Lai nghĩa nhiệm mầu. C

CHÍ TÂM QUY MẠNG LỄ:

U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn
Ðịa Tạng Bồ tát Ma ha tát.
Lạy đức từ bi đại Giáo chủ!
“Ðịa” là dày chắc, “Tạng” chứa đủ.
Cõi nước phương Nam nổi mây thơm,
Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ,
Mây xinh, mưa báu số không lường.
Lành tốt, trang nghiêm cảnh dị thường,
Người, trời bạch Phật: Nhơn gì thế?
Phật rằng: Ðịa Tạng đến Thiên đường!
Chư Phật ba đời đồng khen chuộng
Mười phương Bồ tát chung tin tưởng
Nay con sẵn có thiện nhơn duyên,
Ngợi khen Ðịa Tạng đức vô lượng:
Lòng từ do chứa hạnh lành
Trải bao số kiếp độ sanh khỏi nàn,
Trong tay đã sẵn gậy vàng,
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sinh,
Tay cầm châu sáng tròn vìn,
Hào quang soi khắp ba nghìn Ðại Thiên.
Diêm Vương trước điện chẳng hiền,
Ðài cao nghiệp cảnh soi liền tội căn.
Ðịa Tạng Bồ tát thượng nhơn,
Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!

Nam mô U Minh giáo chủ hoằng nguyện độ sanh:
Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật,
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ đề.

Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ tát Ma ha tát. (3 Lần)

Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Hán dịch: Vu-điền Tam Tạng Sa-môn Thật-xoa-nan-đà đời Đường
Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận

Quyển thượng

1/. Phẩm Thần Thông Tại Cung Trời Đao-lợi

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật lên cung trời Đao-lợi thuyết Pháp cho mẫu thân.

Lúc bấy giờ, bất khả thuyết bất khả thuyết, tất cả chư Phật cùng đại Bồ-Tát Ma-ha-tát từ vô lượng thế giới ở mười phương đều đến hội họp và tán thán Đức Phật Thích-ca-mâu-ni có thể ở trong đời ác năm trược, hiện sức đại trí tuệ thần thông chẳng thể nghĩ bàn để điều phục chúng sanh cang cường, khiến cho họ biết pháp nào khổ, pháp nào vui. Rồi mỗi vị đều sai thị giả đến vấn an Thế Tôn.

Khi ấy Đức Như Lai mỉm cười và phóng ra trăm ngàn vạn ức vầng mây hào quang lớn. Như là:

– vầng mây hào quang đại viên mãn,
– vầng mây hào quang đại từ bi,
– vầng mây hào quang đại trí tuệ,
– vầng mây hào quang đại Bát-nhã,
– vầng mây hào quang đại tam-muội,
– vầng mây hào quang đại cát tường,
– vầng mây hào quang đại phước đức,
– vầng mây hào quang đại công đức,
– vầng mây hào quang đại quy y,
– vầng mây hào quang đại tán thán.

Sau khi phóng ra bất khả thuyết vầng mây hào quang như thế, Ngài lại phát ra đủ loại âm thanh vi diệu. Như là:

– tiếng Bố Thí Ba-la-mật,
– tiếng Trì Giới Ba-la-mật,
– tiếng Nhẫn Nhục Ba-la-mật,
– tiếng Tinh Tấn Ba-la-mật,
– tiếng Thiền Định Ba-la-mật,
– tiếng Bát-nhã Ba-la-mật;

– tiếng từ bi,
– tiếng hỷ xả,
– tiếng giải thoát,
– tiếng vô lậu,
– tiếng trí tuệ,
– tiếng trí tuệ lớn,
– tiếng sư tử hống,
– tiếng sư tử hống lớn,
– tiếng mây sấm,
– tiếng mây sấm lớn.

Sau khi phát ra bất khả thuyết bất khả thuyết âm thanh như thế, có vô lượng ức thiên long quỷ thần từ Thế Giới Ta-bà và cõi nước phương khác cũng đến tụ tập tại cung trời Đao-lợi. Như là:

– trời Tứ Thiên Vương,
– trời Đao-lợi,
– trời Tu-diệm-ma,
– trời Đâu-suất-đà,
– trời Hóa Lạc,
– trời Tha Hóa Tự Tại;

– trời Phạm Chúng,
– trời Phạm Phụ,
– trời Đại Phạm;

– trời Thiểu Quang,
– trời Vô Lượng Quang,
– trời Quang Âm;

– trời Thiểu Tịnh,
– trời Vô Lượng Tịnh,
– trời Biến Tịnh;

– trời Phước Sanh,
– trời Phước Ái,
– trời Quảng Quả,
– trời Vô Tưởng,
– trời Vô Phiền,
– trời Vô Nhiệt,
– trời Thiện Kiến,
– trời Thiện Hiện,
– trời Sắc Cứu Cánh,
– trời Đại Tự Tại;

– Cho đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ;

Tất cả thiên chúng, long chúng, và các chúng quỷ thần đều đến hội họp.

Lại có những vị thần ở cõi nước phương khác cùng Thế Giới Ta-bà. Như là:

– thần biển,
– thần sông,
– thần kênh rạch,
– thần cây,
– thần núi,
– thần đất,
– thần ao suối,
– thần lúa mạ hạt giống,
– thần ngày,
– thần đêm,
– thần hư không,
– thần trên trời,
– thần ăn uống,
– thần thảo mộc.

Các vị thần như thế đều đến hội họp.

Lại có những đại quỷ vương ở cõi nước phương khác cùng Thế Giới Ta-bà. Như là:

– Ác Mục Quỷ Vương,
– Đạm Huyết Quỷ Vương,
– Đạm Tinh Khí Quỷ Vương,
– Đạm Thai Noãn Quỷ Vương,
– Hành Bệnh Quỷ Vương,
– Nhiếp Độc Quỷ Vương,
– Từ Tâm Quỷ Vương,
– Phước Lợi Quỷ Vương,
– Đại Ái Kính Quỷ Vương.

Các quỷ vương như thế đều đến hội họp.

Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích-ca-mâu-ni bảo Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử Bồ-Tát Ma-ha-tát:

“Ông hãy quán sát hết thảy chư Phật Bồ-Tát cùng thiên long quỷ thần ở thế giới này, thế giới khác, quốc độ này, quốc độ khác, nay đã đến hội họp tại cung trời Đao-lợi như thế, ông biết số ấy là bao nhiêu chăng?”

Ngài Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Dù con dùng thần lực tính đếm trong ngàn kiếp thì cũng không thể biết được.”

Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi:

“Cho dù Ta dùng Phật nhãn để quán sát mà vẫn còn không tính xuể. Đây đều là do Địa Tạng Bồ-Tát từ kiếp xa xưa đến nay đã độ, đang độ, sẽ độ, đã thành tựu, đang thành tựu, hoặc sẽ thành tựu.”

Ngài Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Từ thuở quá khứ xa xưa, con đã tu thiện căn và chứng đắc Trí Tuệ Vô Ngại. Khi nghe Phật nói, con lập tức tín thọ. Còn hàng tiểu quả Thanh Văn, thiên long bát bộ cùng những chúng sanh ở đời vị lai, tuy nghe lời thành thật của Như Lai, nhưng chắc sẽ sanh lòng hoài nghi. Cho dù họ có lễ kính và thọ trì đi nữa, nhưng vẫn không tránh khỏi việc phỉ báng.

Duy nguyện Thế Tôn hãy rộng nói về lúc ở Nhân Địa, Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát đã tu hạnh và lập nguyện gì mà có thể thành tựu những việc chẳng thể nghĩ bàn?”

Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi:

“Ví như mỗi cỏ cây, lùm rừng, lúa gai, trúc lau, núi đá, và vi trần trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, mỗi vật làm thành một sông Hằng. Rồi mỗi hạt cát trong mỗi sông Hằng làm thành một thế giới, và mỗi vi trần trong mỗi thế giới đó làm thành một kiếp. Rồi mỗi vi trần chứa trong mỗi kiếp ấy làm hết thành một kiếp nữa. Thời gian Địa Tạng Bồ-Tát đã chứng quả Thập Địa đến nay còn gấp ngàn lần nhiều hơn số thí dụ trên. Hà huống là khi Địa Tạng Bồ-Tát còn đang ở bậc Thanh Văn và Bích-chi-phật.

Này Văn-thù-sư-lợi! Uy thần và thệ nguyện của vị Bồ-Tát đó không thể nghĩ bàn. Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào nghe được danh hiệu của vị Bồ-Tát này, hoặc tán thán, hay chiêm lễ, hoặc xưng danh hiệu, hay cúng dường, cho đến tô vẽ, khắc chạm, đắp sơn hình tượng, thì người ấy sẽ được sanh lên trời Tam Thập Tam 100 lần và vĩnh viễn không đọa vào ác đạo.

Này Văn-thù-sư-lợi! Vào thuở quá khứ xa xưa bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp về trước, Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát đây là con trai của một đại trưởng giả. Lúc ấy trong đời có Đức Phật, hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Khi trưởng giả tử thấy tướng hảo ngàn phước trang nghiêm của Phật, nên mới hỏi Đức Phật kia đã tu hạnh nguyện gì mà được tướng tốt đó.

Khi ấy Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai bảo trưởng giả tử rằng:

‘Nếu muốn chứng được thân tướng này thì phải trải qua một thời gian lâu dài để độ thoát hết thảy chúng sanh thọ khổ.’

Này Văn-thù-sư-lợi! Lúc đó, trưởng giả tử do nhân ấy mà phát nguyện rằng:

‘Từ nay cho đến tận vị lai không thể tính kể số kiếp, con sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong lục đạo mà rộng thiết lập phương tiện, khiến cho họ đều giải thoát hết, rồi sau đó con mới tự mình thành Phật Đạo.’

Từ khi lập đại nguyện ở trước Đức Phật kia đến nay đã trải qua trăm ngàn vạn ức na-do-tha bất khả thuyết kiếp mà ngài vẫn còn làm một vị Bồ-Tát.

Lại vào thuở quá khứ bất khả tư nghị a-tăng-kỳ kiếp, lúc ấy trong đời có Đức Phật, hiệu là Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Thọ mạng của Đức Phật kia là 400 ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp.

Trong thời Tượng Pháp có một người con gái dòng Bà-la-môn nhiều đời tích phước sâu dày, mọi người đều kính mến, và đi đứng nằm ngồi có chư thiên hộ vệ. Tuy nhiên, người mẹ của cô lại tin theo tà đạo và thường khinh chê Tam Bảo.

Thuở ấy Thánh Nữ dùng đủ mọi phương tiện để khuyến dụ mẫu thân, hầu khiến cho bà sanh chánh kiến. Thế nhưng, mẹ của Thánh Nữ chưa hoàn toàn tin hẳn thì chẳng bao lâu mạng chung và thần hồn bị đọa vào Địa Ngục Vô Gián.

Khi ấy Thánh Nữ Bà-la-môn biết mẹ khi còn sống không tin nhân quả, nên chắc phải theo nghiệp mà sanh vào ác thú. Và thế là, cô bán nhà cửa và mua nhiều hương hoa với những đồ lễ cúng, rồi làm đại cúng dường ở trước các tháp tự của Phật. Trong một ngôi chùa kia, cô trông thấy hình tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai được đắp vẽ uy dung và đoan nghiêm.

Khi đó Thánh Nữ Bà-la-môn chiêm lễ Tôn dung và sanh tâm kính ngưỡng bội phần, rồi tự nghĩ thầm:

‘Đức Phật là bậc Đại Giác và đầy đủ Nhất Thiết Trí. Nếu Ngài còn tại thế, thì sau khi mẹ mình mất, giả như mình đến thưa hỏi Phật, tất sẽ biết được nơi mẹ đã thác sanh.’

Khi đó Thánh Nữ Bà-la-môn mủi lòng khóc hồi lâu và chiêm ngưỡng quyến luyến Đức Như Lai. Bỗng nhiên cô nghe trên không trung có tiếng bảo rằng:

‘Này Thánh Nữ đang khóc kia, thôi đừng quá bi ai! Ta nay sẽ chỉ cho biết chỗ thác sanh của mẹ con.’

Thánh Nữ Bà-la-môn chắp tay và hướng lên không trung mà bạch rằng:

‘Chẳng hay đức thần nào đã giải vơi lòng âu lo của tôi như thế? Từ khi mẫu thân của tôi mất đến nay, tôi ngày đêm thương nhớ, nhưng không biết đâu để hỏi cho rõ nơi cõi giới mà mẹ tôi đã sanh về.’

Bấy giờ trên không trung lại có tiếng bảo Thánh Nữ:

‘Ta là Đức Phật quá khứ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà con đang chiêm lễ đó. Bởi thấy con thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh nên Ta đến chỉ bảo.’

Khi nghe tiếng ấy xong, Thánh Nữ Bà-la-môn liền nhảy choàng lên nên té xuống và khiến cho các khớp tay chân đều tổn thương; những người bên cạnh liền đỡ Thánh Nữ lên. Một hồi lâu sau cô mới tỉnh lại và bạch cùng hư không rằng:

‘Cúi mong Đức Phật từ bi thương xót, xin hãy mau nói cho con biết chỗ thác sanh của mẹ con. Nay thân tâm của con sắp chết mất.’

Khi ấy Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ rằng:

‘Sau khi cúng dường xong, con hãy mau trở về nhà, rồi ngồi ngay thẳng và tư duy đến danh hiệu của Ta, thời sẽ liền biết chỗ thác sanh của mẹ con.’

Sau khi lễ Phật xong, Thánh Nữ Bà-la-môn lập tức trở về nhà.

Vì thương nhớ mẹ nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng và niệm danh hiệu của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Trải qua suốt một ngày một đêm, hốt nhiên cô chợt thấy mình đến một bờ biển. Nước trong biển đó sôi sùng sục và có nhiều thú dữ toàn thân bằng sắt. Chúng bay qua chạy lại và rong đuổi trên biển. Cô trông thấy hàng trăm ngàn vạn những kẻ nam người nữ chìm nổi trong biển và bị các thú dữ tranh nhau bắt ăn thịt.

Cô lại thấy quỷ dạ-xoa với nhiều hình thù khác nhau. Hoặc nhiều tay, nhiều chân, nhiều đầu, nhiều mắt, miệng răng chìa ra ngoài, bén nhọn như kiếm. Chúng lùa đuổi các tội nhân đến gần thú dữ, hay tự chúng vồ lấy và bẻ đầu cuộn chân thành muôn loại hình tướng đến chẳng dám nhìn lâu.

Khi đó Thánh Nữ Bà-la-môn do nhờ sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ.

Lúc ấy có một quỷ vương đi đến tên là Vô Độc, cúi đầu nghênh tiếp và bạch Thánh Nữ rằng:

‘Lành thay, Bồ tát! Do duyên sự gì mà ngài đến chốn này?’

Thánh Nữ Bà-la-môn liền hỏi quỷ vương rằng:

‘Đây là nơi nào?’

Vô Độc đáp:

‘Nơi này là núi Đại Thiết Vi, ở phía tây của tầng biển thứ nhất.’

Thánh Nữ hỏi:

‘Tôi nghe nói trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thật chăng?’

Vô Độc đáp:

‘Thật có địa ngục!’

Thánh Nữ hỏi:

‘Nay tôi làm thế nào mà đến được chốn địa ngục?’

Vô Độc đáp:

‘Nếu không phải do sức uy thần, thì phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này ra, quyết không có cách nào khác đến được.’

Thánh Nữ lại hỏi:

‘Vì nhân duyên gì mà nước ở đây sôi sùng sục và có nhiều người tội cùng các thú dữ như thế?’

Vô Độc đáp:

‘Đây là những chúng sanh làm ác ở Diêm-phù-đề vừa mới chết. Bởi vì đã quá 49 ngày mà không có ai kế tự để làm công đức, hầu cứu vớt khổ nạn cho họ, và lúc sanh thời lại không làm được nhân lành nào, cho nên bây giờ, họ cứ theo bổn nghiệp mà chiêu cảm địa ngục. Tự nhiên, họ phải đi qua biển này trước.

Về phía đông của biển này 100.000 do-tuần, lại có một cái biển. Những sự thống khổ ở đó còn gấp bội chốn này. Phía đông của biển ấy, lại có một cái biển nữa. Những sự thống khổ ở đó càng trội hơn.

Do nhân làm ác của ba nghiệp mà chiêu cảm và gọi chung là biển nghiệp, chính là chốn này vậy!’

Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Độc:

‘Thế còn địa ngục ở đâu?’

Vô Độc đáp:

‘Ở trong ba cái biển đó đều là đại địa ngục. Chúng nhiều đến số trăm ngàn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thì có 18, bậc kế có 500, tất cả đều hết sức thống khổ và độc ác khôn lường. Bậc kế nữa có đến ngàn trăm và cũng thống khổ vô lượng.’

Thánh Nữ lại hỏi đại quỷ vương:

‘Thân mẫu tôi mới mất gần đây, nhưng tôi không biết thần hồn của bà ấy đã đi về đâu.’

Quỷ vương hỏi Thánh Nữ:

‘Thân mẫu của Bồ-Tát khi còn sống quen làm những nghiệp gì?’

Thánh Nữ đáp:

‘Thân mẫu tôi tà kiến, khinh chê Tam Bảo. Hoặc có lúc tạm tin nhưng rồi chẳng kính. Mặc dầu mới mất đây, nhưng tôi vẫn không biết nơi bà ấy đã sanh về?’

Vô Độc hỏi:

‘Thân mẫu của Bồ-Tát tên họ là gì?’

Thánh Nữ đáp:

‘Thân phụ và thân mẫu tôi đều thuộc dòng dõi Bà-la-môn. Thân phụ tôi tên là Thi-la Thiện Hiện, còn thân mẫu tên là Duyệt-đế-lợi.’

Vô Độc chắp tay và thưa với Bồ-Tát rằng:

‘Xin thánh giả hãy trở về bổn xứ và chớ thương nhớ lưu luyến. Tội nữ Duyệt-đế-lợi sanh lên trời đến nay đã ba ngày rồi. Nghe nói nhờ có con hiếu thuận, vì mẹ mà cúng dường tu phước và bố thí chùa tháp thờ Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng phải chỉ thân mẫu của Bồ-Tát được thoát khỏi địa ngục, mà trong ngày đó, các tội nhân vô gián cũng được an lạc và thảy đồng vãng sanh.’

Khi nói xong, quỷ vương chắp tay rồi cáo lui.

Thánh Nữ Bà-la-môn như mộng chợt tỉnh, rõ biết việc đã xảy ra, và liền ở trước tháp tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà lập hoằng thệ nguyện:

‘Từ nay cho đến tận kiếp vị lai, con nguyện sẽ vì những chúng sanh tội khổ mà dùng đủ mọi phương tiện để khiến họ đều được giải thoát.’ ”

Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi:

“Vô Độc Quỷ Vương thuở đó, nay chính là Tài Thủ Bồ-Tát; còn Thánh Nữ Bà-la-môn, nay là Địa Tạng Bồ-Tát.”

2/. Phẩm Phân Thân Hội Họp

Lúc bấy giờ, phân thân của Địa Tạng Bồ-Tát ở những nơi có địa ngục trong trăm ngàn vạn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng a-tăng-kỳ thế giới đều đến tụ tập tại cung trời Đao-lợi. Do thần lực của Như lai nên mỗi phân thân từ phương xứ của mình và cũng có ngàn vạn ức na-do-tha các chúng sanh đã được giải thoát ra khỏi nghiệp đạo, họ đều cùng cầm theo hương hoa đi đến cúng dường Phật. Những chúng sanh đồng đến kia đều do Địa Tạng Bồ-Tát giáo hóa và vĩnh viễn chẳng còn thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Các chúng sanh ấy từ kiếp xa xưa đến nay đã lưu chuyển trong vòng sanh tử và chịu khổ nơi lục đạo không chút tạm ngưng. Nhờ lòng từ bi rộng lớn và thệ nguyện thâm sâu của Địa Tạng Bồ-Tát nên ai cũng đều chứng quả. Lòng họ hân hoan khi đến trời Đao-lợi và chiêm ngưỡng Đức Như Lai, mắt không muốn rời một thoáng.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nhấc cánh tay sắc vàng xoa lên đỉnh đầu phân thân của Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát đã đến từ trăm ngàn vạn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng a-tăng-kỳ thế giới mà nói lời như vầy:

“Ta ở trong đời ác năm trược giáo hóa các chúng sanh cang cường như thế, làm cho tâm họ điều phục, bỏ tà quy chánh. Nhưng trong mười thì có một hoặc hai vẫn còn bám theo các tập khí ác. Ta cũng phân ra trăm ngàn ức thân và dùng đủ mọi phương tiện.

Những ai có thiện căn lanh lợi thì khi nghe liền tín thọ. Những ai có trồng nhân quả lành thì cần khuyên bảo mới thành tựu. Những ai có căn tánh ám độn thì phải giáo hóa rất lâu mới quay về. Những ai có nghiệp thâm trọng thì chẳng hề sanh lòng kính ngưỡng.

Ta phân thân độ thoát những hạng chúng sanh như vậy, mỗi mỗi đều sai biệt.

– Hoặc hiện thân nam tử.
– Hoặc hiện thân nữ nhân.
– Hoặc hiện thân trời rồng.
– Hoặc hiện thân quỷ thần.
– Hoặc hiện thân núi rừng, dòng nước, đồng bằng, sông hồ, khe suối, giếng nước mà làm lợi ích người và khiến đều độ thoát.
– Hoặc hiện thân Thiên Đế.
– Hoặc hiện thân trời Phạm Vương.
– Hoặc hiện thân vua Chuyển Luân.
– Hoặc hiện thân cư sĩ.
– Hoặc hiện thân quốc vương.
– Hoặc hiện thân tể tướng.
– Hoặc hiện thân quan thần.
– Hoặc hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.

Cho đến các thân Thanh Văn, La-Hán, Bích-chi-phật, và Bồ-Tát mà dùng để hóa độ, chớ chẳng phải chỉ dùng độc nhất thân Phật hiện ra trước họ đâu.

Ông quán sát Ta đã trải qua bao kiếp cần lao khổ nhọc để độ thoát các chúng sanh cang cường mắc tội khổ và khó giáo hóa như vậy. Những ai chưa được điều phục thì tùy theo nghiệp mà ứng theo quả báo.

Nếu khi họ bị đọa vào ác thú để chịu thống khổ thì ông nên nhớ nghĩ đến Ta. Nay tại cung trời Đao-lợi, Ta ân cần phó chúc: hãy khiến cho chúng sanh ở Thế Giới Ta-bà, từ đây cho đến lúc Đức Di-lặc xuất thế, thảy đều làm cho họ giải thoát, vĩnh viễn xa lìa các ách khổ, và sẽ gặp Phật thọ ký.”

Lúc bấy giờ, hết thảy phân thân của Địa Tạng Bồ-Tát trong các thế giới hợp nhập thành một hình, rơi lệ thương luyến và bạch Đức Phật rằng:

“Từ kiếp xa xưa đến nay, con nhờ Đức Phật tiếp dẫn nên mới được thần lực không thể nghĩ bàn và đầy đủ đại trí tuệ. Phân thân của con biến khắp trăm ngàn vạn ức Hằng Hà sa thế giới. Trong mỗi thế giới lại hóa hiện trăm ngàn vạn ức thân. Mỗi thân hóa độ trăm ngàn vạn ức người, khiến họ quy y, cung kính Tam Bảo, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, và đạt đến Niết-bàn an vui.

Những chúng sanh nào ở trong Phật Pháp, dù chỉ làm việc lành chừng bằng một sợi lông, một giọt nước, một hạt cát, một hạt bụi, hoặc nhỏ như sợi lông tơ, thì con dần dần sẽ độ thoát và làm cho họ được lợi ích lớn. Duy nguyện Thế Tôn chớ vì những chúng sanh ác nghiệp đời sau mà lo lắng nữa.”

Và như thế, ngài bạch với Đức Phật đến ba lần.

“Duy nguyện Thế Tôn chớ vì những chúng sanh ác nghiệp đời sau mà lo lắng nữa.”

Lúc bấy giờ Đức Phật ngợi khen Địa Tạng Bồ-Tát rằng:

“Lành thay, lành thay! Ta sẽ hỗ trợ điều ông vui làm để ông có thể thành tựu các thệ nguyện rộng lớn đã phát từ kiếp xa xưa đến nay. Khi việc quảng độ chúng sanh hoàn tất, ông liền chứng Bồ-đề.”

3/. Phẩm Quán Chúng Sanh Nghiệp Duyên

Lúc bấy giờ Phật mẫu Ma-da Phu Nhân chắp tay cung kính và hỏi Địa Tạng Bồ-Tát rằng:

“Thưa thánh giả! Chúng sanh ở châu Diêm-phù tạo các nghiệp sai khác và thọ quả báo ứng, việc ấy như thế nào?”

Ngài Địa Tạng đáp:

“Trong ngàn vạn thế giới cùng các quốc độ, hoặc có địa ngục, hoặc không địa ngục, hoặc có người nữ, hoặc không người nữ, hoặc có Phật Pháp, hoặc không Phật Pháp, cho đến Thanh Văn, Bích-chi-phật cũng đều như thế. Cho nên tội báo ở địa ngục cũng chẳng giống nhau.”

Ma-da Phu Nhân lại bạch với Bồ-Tát rằng:

“Nay tôi muốn nghe về tội báo chiêu cảm nơi ác thú ở châu Diêm-phù.”

Ngài Địa Tạng đáp:

“Thánh Mẫu! Xin hãy lắng nghe và lãnh thọ, tôi sẽ nói sơ về việc đó.”

Phật Mẫu bạch rằng:

“Kính mong thánh giả hãy nói!”

Lúc bấy giờ Địa Tạng Bồ-Tát nói với Thánh Mẫu rằng:

“Danh hiệu của những tội báo ở Nam Diêm-phù-đề là như vầy:

Nếu có chúng sanh nào bất hiếu với cha mẹ hoặc thậm chí giết hại, thì sẽ đọa vào Địa Ngục Vô Gián cho đến ngàn vạn ức kiếp cũng không có kỳ hạn ra khỏi.

Nếu có chúng sanh nào làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, hoặc chẳng tôn kính Kinh Điển, thì cũng sẽ đọa vào Địa Ngục Vô Gián cho đến ngàn vạn ức kiếp cũng không có kỳ hạn ra khỏi.

Nếu có chúng sanh nào xâm chiếm, làm tổn hại Thường Trụ, ô nhục Tăng Ni, hoặc tình tứ hành dâm trong chốn Già-lam, hoặc giết hoặc hại, những kẻ như thế sẽ đọa vào Địa Ngục Vô Gián cho đến ngàn vạn ức kiếp cũng không có kỳ hạn ra khỏi.

Nếu có chúng sanh nào giả làm Sa-môn nhưng tâm chẳng phải Sa-môn, phá hoại, lạm dụng Thường Trụ, dối gạt hàng cư sĩ, vi phạm giới luật, hoặc tạo đủ thứ ác nghiệp, những kẻ như thế sẽ đọa vào Địa Ngục Vô Gián cho đến ngàn vạn ức kiếp cũng không có kỳ hạn ra khỏi.

Nếu có chúng sanh nào trộm cắp tài vật, lúa gạo, thức ăn nước uống, y phục của Thường Trụ, cho đến các đồ vật không cho mà lấy, thì sẽ đọa vào Địa Ngục Vô Gián cho đến ngàn vạn ức kiếp cũng không có kỳ hạn ra khỏi.”

Ngài Địa Tạng nói rằng:

“Thánh Mẫu! Nếu có chúng sanh nào phạm các tội như thế thì sẽ đọa vào năm Địa Ngục Vô Gián, cầu mong tạm ngưng nỗi thống khổ trong một niệm cũng chẳng được.”

Ma-da Phu Nhân lại bạch với Địa Tạng Bồ-Tát rằng:

“Vì sao gọi là Địa Ngục Vô Gián?”

Ngài Địa Tạng nói rằng:

“Thánh Mẫu! Trong dãy núi Đại Thiết Vi có những địa ngục. Địa ngục lớn có 18. Bậc kế có 500. Mỗi ngục có danh hiệu riêng. Bậc kế nữa có đến ngàn trăm. Danh tự cũng đều khác. Còn Địa Ngục Vô Gián thì ở bên trong ngục thành với chu vi là 80.000 dặm. Thành đó toàn bằng sắt và cao 10.000 dặm. Trên thành có lửa cháy, không hở trống một chỗ nào. Trong thành ấy, các ngục nối liền với nhau và danh hiệu đều sai biệt.

Duy chỉ có độc nhất một ngục tên là Vô Gián. Ngục đó chu vi là 18.000 dặm. Ngục tường cao 1.000 dặm và đều là làm bằng sắt. Lửa từ trên bắn xuống, lửa ở dưới bốc lên. Trên tường có rắn sắt và chó sắt phun ra lửa, đuổi bắt chạy qua lại.

Trong ngục có một cái giường, rộng đầy 10.000 dặm. Một người thọ tội thì tự thấy thân mình nằm chật cả giường. Ngàn vạn người thọ tội thì cũng tự thấy thân mỗi người nằm chật trên giường. Do các nghiệp chiêu cảm nên thọ báo như vậy.

Lại có các tội nhân phải chịu những sự thống khổ bị trăm ngàn quỷ dạ-xoa cùng ác quỷ, miệng răng như kiếm, mắt như điện chớp, và chúng dùng móng tay bằng đồng tha kéo người tội.

Lại có quỷ dạ-xoa cầm cây kích sắt lớn đâm vào thân người tội, hoặc trúng miệng mũi, hoặc trúng bụng lưng. Sau đó chúng quăng tội nhân lên không trung rồi dùng cây kích hứng lấy, hoặc để họ trên giường.

Lại có chim ưng sắt ăn mắt người tội.

Lại có rắn sắt siết cổ tội nhân. Chân tay và khắp khớp xương bị cây đinh dài đóng vào. Lưỡi bị kéo ra để cày bừa. Ruột bị moi ra và chém đứt. Miệng bị đổ nước đồng nung. Toàn thân bị sắt nóng quấn quanh. Ngàn vạn lần chết đi sống lại. Nghiệp cảm như thế, trải qua ức kiếp cũng đừng mong ra khỏi.

Khi thế giới này hư hoại thì sanh nhờ qua thế giới khác. Khi thế giới đó hư hoại thì thứ tự chuyển ký phương khác. Khi phương khác hư hoại thì xoay vần chuyển gửi. Sau khi thế giới này đến kiếp thành thì sanh về trở lại. Tội báo của Vô Gián, việc ấy là như vậy.

Lại có năm sự nghiệp cảm nên gọi là Vô Gián. Những gì là năm?

1. Ngày đêm thọ tội đến trọn số kiếp, không lúc nào gián đoạn, cho nên gọi là Vô Gián.

2. Một người cũng chật cả ngục mà nhiều người cũng đầy khắp, cho nên gọi là Vô Gián.

3. Có những tội khí, như chỉa, gậy; chim ưng, rắn, sói, chó; giã, mài, cưa, đục, chém, chặt; chảo dầu sôi, võng sắt, dây sắt, lừa sắt, ngựa sắt; miếng da sống quấn trên đầu, sắt nóng tạt vào thân; đói nuốt viên sắt; khát uống nước sắt. Quanh năm đến trọn số kiếp na-do-tha, khổ sở liên tục, không chút gián đoạn, cho nên gọi là Vô Gián.

4. Chẳng kể kẻ nam người nữ, mọi rợ man di, già trẻ sang hèn, hoặc rồng hoặc thần, hoặc trời hoặc quỷ, hễ tạo nghiệp thì thảy đều chiêu cảm thọ tội như nhau, cho nên gọi là Vô Gián.

5. Nếu đọa vào địa ngục này thì từ lúc mới vào cho đến trăm ngàn kiếp, trong một ngày một đêm có muôn lần chết đi và muôn lần sống lại, cầu tạm ngưng chừng một niệm cũng không được. Trừ phi nghiệp đã hết, rồi mới được thọ sanh. Do vì liên miên như thế, cho nên gọi là Vô Gián.”

Địa Tạng Bồ-Tát nói với Thánh Mẫu rằng:

“Đó là kể sơ về Địa Ngục Vô Gián như thế. Nếu rộng nói về tên của các tội khí ở địa ngục cùng những sự thống khổ thì trong một kiếp cũng chẳng thể nói hết.”

Khi Ma-da Phu Nhân nghe xong, lòng ưu sầu, chắp tay, đảnh lễ và lui ra.

4/. Phẩm Nghiệp Cảm của Chúng Sanh ở Diêm-phù-đề

Lúc bấy giờ Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con nương nhờ sức uy thần của Phật Như Lai mà có thể phân thân hình này đến khắp trăm ngàn vạn ức thế giới để cứu bạt tất cả chúng sanh mắc nghiệp báo. Nếu không phải do sức đại từ của Như Lai thì con không thể nào biến hóa được như vậy. Nay con lại được Phật phó chúc:

‘Từ đây cho đến khi Vô Năng Thắng thành Phật, hãy khiến cho các chúng sanh trong lục đạo đều được độ thoát.’

Dạ vâng, thưa Thế Tôn! Xin nguyện Ngài chớ lo lắng.”

Lúc bấy giờ Phật bảo Địa Tạng Bồ-Tát:

“Hết thảy chúng sanh nào còn chưa giải thoát thì tánh thức bất định. Tập khí ác kết nghiệp; tập khí thiện kết quả. Làm thiện làm ác đều duyên cảnh mà sanh nên luân chuyển trong năm đường và không chút tạm ngưng. Họ trải qua số kiếp như bụi, si mê lầm lạc, chướng nạn bủa vây, như cá bơi trong lưới trôi theo dòng nước chảy. Tuy tạm thoát ra nhưng mắc vào lưới trở lại. Do những chúng sanh như thế mà Ta lo nhớ. Nhưng đã có ông từ nhiều kiếp phát thệ nguyện hoằng thâm để rộng cứu độ những kẻ mắc tội ấy, vậy Ta còn âu lo gì nữa?”

Khi nói lời ấy xong, trong Pháp hội có một vị Bồ-Tát Ma-ha-tát tên là Định Tự Tại Vương, bạch với Đức Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, Địa Tạng Bồ-Tát đã phát thệ nguyện gì mà nay được Thế Tôn ân cần ngợi khen như thế? Duy nguyện Thế Tôn hãy lược nói.”

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Định Tự Tại Vương Bồ-Tát:

“Lắng nghe, lắng nghe và khéo tư duy! Ta sẽ phân biệt giảng giải cho ông.

Vào thuở quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ na-do-tha bất khả thuyết kiếp về trước, lúc ấy có Đức Phật, hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật đó thọ 60.000 kiếp.

Khi chưa xuất gia, ngài là vua của một nước nhỏ và kết bạn với vua của nước lân cận. Cả hai ngài đồng tu hành Thập Thiện và mang lợi ích tới chúng sanh. Nhưng dân chúng trong nước láng giềng lại tạo nhiều nghiệp ác, thế nên hai vị quốc vương luận nghị tìm kế và quảng thiết phương tiện. Một vị vua phát nguyện:

‘Tôi nguyện sớm thành Phật Đạo để độ hết những kẻ ấy, không sót một ai.’

Còn vị vua kia phát nguyện:

‘Giả như tôi chẳng trước độ hết những kẻ tội khổ, làm cho họ được an lạc, cho đến đắc Bồ-đề, thì tôi nguyện chưa thành Phật.’ ”

Phật bảo Định Tự Tại Vương Bồ-Tát:

“Vị vua phát nguyện sớm thành Phật, đó chính là Đức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai. Còn vị vua phát nguyện vĩnh viễn cứu độ chúng sanh tội khổ và vẫn chưa chịu thành Phật, đó là Địa Tạng Bồ-Tát.

Lại vào thuở quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai. Đức Phật đó thọ 40 kiếp.

Trong thời Tượng Pháp của Đức Phật ấy có một vị A-la-hán phước đức cứu độ chúng sanh. Nhân đi tuần tự giáo hóa, ngài gặp một người nữ tên là Quang Mục, thiết bày thức ăn cúng dường.

Vị La-Hán hỏi:

‘Con muốn cầu điều chi?’

Quang Mục đáp:

‘Vào ngày mẹ con mất, con có tu phước hầu cứu bạt, song vẫn chưa rõ mẫu thân con đã thác sanh về đâu?’

Vị La-Hán thương cảm nên nhập định quán sát thì thấy mẹ của Quang Mục bị đọa tại ác thú và chịu đại khổ cùng cực.

Vị La-Hán hỏi Quang Mục:

‘Mẫu thân con lúc sanh tiền đã làm những nghiệp gì, mà nay phải ở trong ác đạo chịu cực khổ như thế kia?’

Quang Mục đáp:

‘Tánh của mẹ con chỉ thích ăn cá, ba ba cùng trứng và con của các loài ấy. Hoặc chiên, hoặc nấu, tha hồ mà ăn. Nếu tính đếm số sanh mạng đó thì gấp hơn ngàn muôn.

Thưa Tôn giả từ mẫn! Con phải làm thế nào để giải cứu mẫu thân.’

Vị La-Hán thương xót nên dùng phương tiện khuyên Quang Mục rằng:

‘Con nên chí thành niệm Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai và đắp vẽ hình tượng của Ngài, thời người sống cùng kẻ đã khuất đều sẽ được phước báo.’

Khi Quang Mục nghe xong thì liền xả bỏ những đồ yêu quý và tìm người vẽ hình tượng Phật để cúng dường. Rồi với lòng cung kính, cô khóc thương khi chiêm lễ hình tượng Phật. Bỗng nhiên vào nửa đêm, cô mộng thấy thân màu vàng kim sáng chói của Phật lớn như núi Tu-di, phóng đại quang minh và bảo Quang Mục rằng:

‘Thân mẫu con chẳng bao lâu nữa sẽ sanh vào nhà con và khi vừa biết đói lạnh thì liền biết nói.’

Sau đó, người nữ tỳ trong nhà sanh một bé trai và chưa đầy ba ngày thì nó đã biết nói; đầu của đứa trẻ cúi xuống than khóc, nó nói với Quang Mục rằng:

‘Sanh tử nghiệp duyên, quả báo tự thọ. Tôi là mẹ của người, lâu nay ở chốn tối tăm. Từ khi vĩnh biệt người, tôi phải đọa vào các đại địa ngục. May nhờ phước lực của người nên mới được thọ sanh làm kẻ hạ tiện, và lại thêm thọ mạng ngắn ngủi. Khi đến năm 13 tuổi thì tôi sẽ phải đọa vào ác đạo. Người có phương kế gì khiến tôi được thoát miễn chăng?’

Khi Quang Mục nghe lời ấy, cô biết chắc là mẹ mình và không còn nghi gì nữa nên nghẹn ngào khóc thương mà nói với con của nữ tỳ rằng:

‘Nếu là mẹ tôi thì hẳn rõ đời trước đã làm nghiệp tội gì mà phải đọa vào ác đạo như thế?’

Con của nữ tỳ đáp:

‘Do hai nghiệp, đó là giết hại và hủy báng nên phải thọ báo. Nếu không nhờ phước lực của người cứu bạt khổ nạn, thì tôi vẫn còn chưa giải thoát bởi nghiệp đó.’

Quang Mục hỏi:

‘Những tội báo trong địa ngục ra sao?’

Con của nữ tỳ đáp:

‘Những việc tội khổ nói ra càng bất nhẫn. Dù cho cả trăm ngàn năm thì cũng khó mà kể hết.’

Khi nghe xong, Quang Mục nghẹn ngào rơi lệ và bạch với hư không rằng:

‘Nguyện cho thân mẫu con vĩnh viễn thoát khỏi chốn địa ngục. Khi mãn 13 tuổi thì sẽ không còn trọng tội và cũng chẳng phải trải qua các ác đạo. Cúi mong mười phương chư Phật từ bi thương xót, lắng nghe con nay vì mẹ mà phát lời thệ nguyện quảng đại.

Nếu thân mẫu con được vĩnh viễn lìa khỏi tam đồ và hàng hạ tiện, cho đến cùng kiếp không phải thọ thân người nữ nữa, thì con xin đối trước tượng của Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai mà phát nguyện rằng:

Kể từ hôm nay cho đến trăm ngàn vạn ức kiếp về sau, hễ nơi nào có thế giới còn có các chúng sanh chịu tội khổ ở địa ngục cùng tam ác đạo, con nguyện sẽ cứu bạt và làm cho họ rời xa địa ngục, chốn súc sanh xấu ác, và các loài ngạ quỷ. Chỉ khi nào những kẻ mắc tội báo như thế đều đã thành Phật hết, thời sau đó con mới thành Chánh Giác.’

Khi phát nguyện xong thì liền nghe Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai bảo rằng:

‘Này Quang Mục! Con quả có lòng đại từ mẫn, khéo vì mẹ mà phát lời đại nguyện như thế. Ta quán sát thấy mẹ con lúc mãn 13 tuổi, khi xả báo thân ấy rồi thì sẽ sanh làm một vị Bà-la-môn và sống lâu đến trăm tuổi. Sau khi hết báo thân đó, mẹ con sẽ sanh về cõi nước Vô Ưu, thọ mạng lâu dài đến không thể tính kể số kiếp. Và sau cuối cùng sẽ thành tựu Phật quả, quảng độ trời người nhiều như cát sông Hằng.’ ”

Phật bảo ngài Định Tự Tại Vương:

“Vị La-Hán phước đức độ Quang Mục thuở đó, nay chính là Vô Tận Ý Bồ-Tát. Thân mẫu Quang Mục tức là Giải Thoát Bồ-Tát. Còn Quang Mục là Địa Tạng Bồ-Tát đây vậy. Từ kiếp xa xưa trong quá khứ, ngài đã có lòng từ mẫn như thế và phát thệ nguyện nhiều như số cát sông Hằng để rộng cứu độ chúng sanh.

Trong đời vị lai, nếu có nam tử nữ nhân nào không làm việc lành mà làm việc ác, thậm chí chẳng tin nhân quả, tà dâm vọng ngữ, nói đâm thọc, nói lời ác, hoặc hủy báng Đại Thừa, thì những chúng sanh với nghiệp tội như vậy tất sẽ đọa ác thú.

Nhưng nếu họ gặp bậc Thiện Tri Thức khuyên bảo quy y Địa Tạng Bồ-Tát trong thời gian chừng khảy móng tay, thì các chúng sanh này liền được giải thoát tội báo của tam ác đạo. Nếu họ có thể chí tâm quy y, cung kính, chiêm lễ, và tán thán, rồi dùng hương hoa, y phục, mọi thứ châu báu, hoặc thức ăn nước uống như thế để phụng sự, thì trong trăm ngàn vạn ức kiếp về sau họ sẽ thường ở tại các cõi trời để thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu. Giả như thiên phước đã hết và sinh xuống nhân gian, thì trong trăm ngàn kiếp họ thường làm đế vương và có thể nhớ các việc nhân quả của đời trước.

Này Định Tự Tại Vương! Địa Tạng Bồ-Tát có sức đại uy thần chẳng thể nghĩ bàn để rộng làm lợi ích cho chúng sanh như thế. Chư Bồ-Tát các ông nên ghi nhớ Kinh này và lưu truyền rộng rãi.”

Ngài Định Tự Tại Vương bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Xin Ngài chớ lo lắng. Ngàn vạn ức Bồ-Tát Ma-ha-tát chúng con đều có thể nương uy thần của Phật mà rộng nói Kinh này để làm lợi ích cho chúng sanh ở Diêm-phù-đề.”

Khi Định Tự Tại Vương Bồ-Tát bạch với Đức Thế Tôn xong, ngài chắp tay cung kính, đảnh lễ và lui ra.

Lúc bấy giờ bốn vị Thiên Vương của bốn phương đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính và bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Địa Tạng Bồ-Tát từ kiếp xa xưa đến nay đã phát đại nguyện như thế, nhưng vì sao cho đến nay ngài vẫn còn chưa độ hết và lại phải phát thêm quảng đại thệ nguyện? Duy nguyện Thế Tôn thuyết giảng cho chúng con.”

Phật bảo bốn vị Thiên Vương:

“Lành thay, lành thay! Ta nay sẽ vì sự lợi ích rộng lớn của các ông và hàng trời người ở hiện tại cùng vị lai mà nói về những việc phương tiện của Địa Tạng Bồ-Tát ở Thế Giới Ta-bà tại châu Diêm-phù-đề; ngài ở trong sanh tử từ bi cứu bạt và độ thoát hết thảy chúng sanh tội khổ.”

Bốn vị Thiên Vương thưa rằng:

“Dạ vâng, thưa Thế Tôn! Chúng con vui thích muốn nghe.”

Phật bảo bốn vị Thiên Vương:

“Địa Tạng Bồ-Tát từ kiếp xa xưa đến nay đã và đang độ thoát chúng sanh. Do vì thệ nguyện chưa hoàn tất và từ mẫn chúng sanh tội khổ ở thế giới này. Lại quán thấy trong vô lượng kiếp về vị lai, các nghiệp nhân cứ liên miên mãi không dứt. Cho nên vị Bồ-Tát này ở Thế Giới Ta-bà, trong châu Diêm-phù-đề, lại phát thêm trọng nguyện và dùng trăm ngàn vạn ức phương tiện để giáo hóa họ.

Này Tứ Thiên Vương!

– Nếu Địa Tạng Bồ-Tát gặp kẻ sát sanh thì nói quả báo là chết yểu.

– Nếu gặp kẻ trộm cắp thì nói quả báo là bần cùng khổ sở.

– Nếu gặp kẻ tà dâm thì nói quả báo là sanh làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.

– Nếu gặp kẻ ác khẩu thì nói quả báo là quyến thuộc tranh đấu.

– Nếu gặp kẻ hủy báng thì nói quả báo là không lưỡi miệng lở.

– Nếu gặp kẻ nóng giận thì nói quả báo là xấu xí tàn tật.

– Nếu gặp kẻ keo kiệt thì nói quả báo là sở cầu trái nguyện.

– Nếu gặp kẻ ăn uống vô độ thì nói quả báo là đói khát đau cổ.

– Nếu gặp kẻ săn bắn bừa bãi thì nói quả báo là điên cuồng mất mạng.

– Nếu gặp kẻ ngỗ nghịch cha mẹ thì nói quả báo là trời đất giết chết.

– Nếu gặp kẻ thiêu đốt núi rừng thì nói quả báo là cuồng mê đến chết.

– Nếu gặp cha mẹ hoặc cha mẹ kế ác độc thì nói quả báo là đời sau bị roi quất.

– Nếu gặp kẻ giăng lưới bắt thú vật con thì nói quả báo là cốt nhục phân ly.

– Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo thì nói quả báo là mù điếc câm ngọng.

– Nếu gặp kẻ khinh mạn giáo Pháp thì nói quả báo là vĩnh viễn ở chốn ác đạo.

– Nếu gặp kẻ phá hoại hoặc lạm dụng Thường Trụ thì nói quả báo là ức kiếp luân hồi ở địa ngục.

– Nếu gặp kẻ ô nhục Phạm hạnh hoặc vu khống chư Tăng thì nói quả báo là vĩnh viễn ở chốn súc sanh.

– Nếu gặp kẻ nung đốt, chém chặt, và giết hại chúng sanh thì nói quả báo là luân hồi thọ lại.

– Nếu gặp kẻ phạm giới phá trai thì nói quả báo là sanh làm cầm thú đói khát.

– Nếu gặp kẻ phá hủy đồ dùng phi lý thì nói quả báo là sở cầu thiếu hụt.

– Nếu gặp kẻ cống cao ngã mạn thì nói quả báo là sanh làm kẻ hạ tiện bị sai khiến.

– Nếu gặp kẻ nói đâm thọc tranh đấu thì nói quả báo là không lưỡi hoặc trăm lưỡi.

– Nếu gặp kẻ tà kiến thì nói quả báo là sanh chốn biên địa.

Tập khí xấu từ nghiệp thân, khẩu, ý của chúng sanh ở Diêm-phù-đề kết tạo thành trăm ngàn báo ứng như vậy. Nay Ta chỉ nói sơ lược. Do nghiệp cảm của chúng sanh ở Diêm-phù-đề sai khác nên Địa Tạng Bồ-Tát phải dùng trăm ngàn phương tiện để giáo hóa họ.

Trước tiên, những chúng sanh này sẽ thọ quả báo như thế. Sau đó, họ đọa vào địa ngục và trải qua số kiếp mà không có kỳ hạn ra khỏi. Vì thế các ông hãy hộ nhân hộ quốc và đừng để các nghiệp mê hoặc chúng sanh.”

Khi nghe xong, bốn vị Thiên Vương rơi lệ than thở, chắp tay và lui ra.

卍 Kinh Địa Tạng Bồ-Tát Bổn Nguyện – Hết quyển thượng


Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Hán dịch: Vu-điền Tam Tạng Sa-môn Thật-xoa-nan-đà đời Đường
Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận

Quyển trung

5/. Phẩm Các Danh Hiệu của Địa Ngục

Lúc bấy giờ Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát nói với Địa Tạng Bồ-Tát rằng:

“Nhân giả! Nguyện ngài vì hàng trời rồng, bốn chúng đệ tử và hết thảy chúng sanh ở hiện tại cùng vị lai mà nói về danh hiệu của địa ngục, nơi thọ báo, và các sự ác báo của chúng sanh tội khổ ở Thế Giới Ta-bà cùng châu Diêm-phù-đề, khiến cho chúng sanh trong thời Mạt Pháp đời sau biết được những quả báo này.”

Ngài Địa Tạng đáp:

“Nhân giả! Tôi nay nương uy thần của Phật và uy lực của Đại sĩ mà sẽ lược nói về danh hiệu địa ngục cùng tội báo và ác báo của việc ấy.

Nhân giả! Về phương đông ở Diêm-phù-đề có một dãy núi sắt tên là Thiết Vi. Núi đó đen mịt, mặt trời và mặt trăng không thể rọi đến.

– Nơi đó có một địa ngục lớn nhất tên là Cực Vô Gián.
– Lại có địa ngục tên là Đại Vô Gián.
– Lại có địa ngục tên là Bốn Sừng.
– Lại có địa ngục tên là Đao Bay.
– Lại có địa ngục tên là Hỏa Tiễn.
– Lại có địa ngục tên là Núi Ép.
– Lại có địa ngục tên là Thương Đâm.
– Lại có địa ngục tên là Xe Sắt.
– Lại có địa ngục tên là Giường Sắt.
– Lại có địa ngục tên là Trâu Bò Sắt.
– Lại có địa ngục tên là Áo Sắt.
– Lại có địa ngục tên là Ngàn Mũi Nhọn.
– Lại có địa ngục tên là Lừa Sắt.
– Lại có địa ngục tên là Nấu Đồng.
– Lại có địa ngục tên là Ôm Trụ.
– Lại có địa ngục tên là Lửa Chảy.
– Lại có địa ngục tên là Cày Lưỡi.
– Lại có địa ngục tên là Chém Đầu.
– Lại có địa ngục tên là Đốt Chân.
– Lại có địa ngục tên là Ăn Mắt.
– Lại có địa ngục tên là Viên Sắt.
– Lại có địa ngục tên là Tranh Luận.
– Lại có địa ngục tên là Rìu Sắt.
– Lại có địa ngục tên là Nhiều Sân.”

Ngài Địa Tạng nói tiếp:

“Nhân giả! Bên trong của dãy núi Thiết Vi có vô số địa ngục như thế. Lại có thêm:

– Địa Ngục Kêu Gào,
– Địa Ngục Rút Lưỡi,
– Địa Ngục Phân và Nước Tiểu,
– Địa Ngục Khóa Đồng,
– Địa Ngục Voi Lửa,
– Địa Ngục Chó Lửa,
– Địa Ngục Ngựa Lửa,
– Địa Ngục Trâu Bò Lửa,
– Địa Ngục Núi Lửa,
– Địa Ngục Đá Lửa,
– Địa Ngục Giường Lửa,
– Địa Ngục Sườn Cột Lửa,
– Địa Ngục Chim Ưng Lửa,
– Địa Ngục Cưa Răng,
– Địa Ngục Lột Da,
– Địa Ngục Uống Máu,
– Địa Ngục Đốt Tay,
– Địa Ngục Đốt Chân,
– Địa Ngục Treo Đâm Ngược,
– Địa Ngục Phòng Ốc Lửa,
– Địa Ngục Phòng Ốc Sắt,
– Địa Ngục Chó Sói Lửa.

Các địa ngục như thế, trong mỗi địa ngục ấy lại có những địa ngục nhỏ, hoặc một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, cho đến số trăm ngàn; mỗi danh hiệu trong đó đều không giống nhau.”

Địa Tạng Bồ-Tát nói với Phổ Hiền Bồ-Tát rằng:

“Nhân giả! Đây đều là do chúng sanh ở Nam Diêm-phù-đề làm ác mà chiêu cảm nghiệp quả như thế. Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh bằng núi Tu-di, thâm sâu như biển cả, và có thể chướng ngại Thánh Đạo. Vì thế chúng sanh đừng bao giờ khinh điều ác nhỏ mà cho là không tội. Sau khi chết đều có quả báo, dù chỉ một tơ hào nho nhỏ cũng phải thọ lấy. Chí thân như cha con thì cũng đường ai nẻo nấy, mỗi người đều khác nhau. Cho dù được tương phùng thì không ai chịu thế giùm. Tôi nay nương uy lực của Phật mà lược nói những việc tội báo ở địa ngục. Duy nguyện Nhân giả hãy tạm nghe lời ấy.”

Ngài Phổ Hiền đáp:

“Từ lâu tôi đã biết tội báo nơi tam ác đạo. Tôi mong Nhân giả nói ra để khiến cho hết thảy chúng sanh ác hạnh vào đời Mạt Pháp sau này, khi nghe được lời dạy của Nhân giả mà quy y Phật.”

Ngài Địa Tạng nói rằng:

“Nhân giả! Về tội báo ở địa ngục, việc ấy là như vầy:

– Hoặc có địa ngục kéo lưỡi tội nhân để cho trâu bò cày bừa trên đó.
– Hoặc có địa ngục moi tim tội nhân để cho quỷ dạ-xoa ăn.
– Hoặc có địa ngục dùng chảo dầu sôi để nấu thân thể tội nhân.
– Hoặc có địa ngục nung trụ đồng cháy đỏ để bắt tội nhân ôm lấy.
– Hoặc có địa ngục có lửa bay theo đốt tội nhân.
– Hoặc có địa ngục toàn là hàn băng lạnh rét.
– Hoặc có địa ngục có phân và nước tiểu nhiều vô hạn lượng.
– Hoặc có địa ngục toàn là loại chùy sắt nhọn bay.
– Hoặc có địa ngục toàn là cây thương lửa.
– Hoặc có địa ngục chỉ đánh ngực và lưng.
– Hoặc có địa ngục chỉ đốt tay chân.
– Hoặc có địa ngục có rắn sắt siết quanh.
– Hoặc có địa ngục có chó sắt rượt đuổi.
– Hoặc có địa ngục bắt kéo con la bằng sắt.

Nhân giả! Những tội báo như thế, trong mỗi ngục có trăm ngàn khí cụ được tạo bởi nghiệp lực. Nếu không phải là đồng, thì là sắt, là đá, hay là lửa. Bốn loại vật khí đó là do các nghiệp mà chiêu cảm ra. Nếu rộng nói về những sự tội báo ở địa ngục thì trong mỗi ngục còn có thêm trăm ngàn thứ khổ nữa, hà huống là nhiều ngục. Tôi nay nương uy thần của Phật cùng Nhân giả hỏi mà lược nói như vậy. Nếu rộng giảng giải thì tận kiếp cũng chẳng hết.”

6/. Phẩm Như Lai Tán Thán

Lúc bấy giờ toàn thân của Thế Tôn phóng đại quang minh, biến chiếu trăm ngàn vạn ức Hằng Hà sa thế giới của chư Phật. Ngài lại phát ra âm thanh lớn bảo khắp thế giới chư Phật và hết thảy chư Bồ-Tát Ma-ha-tát cùng thiên long quỷ thần, người và phi nhân:

“Lắng nghe, Ta nay tuyên dương ngợi khen Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát đã hiện sức uy thần và lòng từ bi rộng lớn không thể nghĩ bàn ở trong mười phương thế giới để cứu hộ hết thảy chúng sanh tội khổ. Sau khi Ta diệt độ, hàng Bồ-Tát Đại sĩ các ông cùng thiên long quỷ thần hãy dùng phương tiện rộng lớn mà hộ vệ Kinh này để khiến cho tất cả chúng sanh đều chứng Niết-bàn an vui.”

Khi nói lời ấy xong, trong Pháp hội có một vị Bồ-Tát tên là Phổ Quảng, chắp tay cung kính và bạch Phật rằng:

“Nay chúng con thấy được Thế Tôn ngợi khen Địa Tạng Bồ-Tát có đại uy thần đức chẳng thể nghĩ bàn như thế. Duy nguyện Thế Tôn vì chúng sanh Mạt Pháp ở đời vị lai mà tuyên nói về những sự nhân duyên làm lợi ích trời người để khiến cho thiên long bát bộ cùng chúng sanh đời sau tôn kính và thọ trì lời Phật dạy.”

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Phổ Quảng Bồ-Tát cùng bốn chúng đệ tử:

“Lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà lược nói về những sự phước đức làm lợi ích trời người của Địa Tạng Bồ-Tát.”

Ngài Phổ Quảng bạch rằng:

“Dạ vâng, thưa Thế Tôn! Chúng con vui thích muốn nghe.”

Phật bảo Phổ Quảng Bồ-Tát:

“Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào khi nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát, hoặc là chắp tay, tán thán ngài, đảnh lễ ngài, hay quyến luyến và kính mến ngài thì người này sẽ siêu việt 30 kiếp tội.

Này Phổ Quảng! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào, hoặc tô vẽ hình tượng, hoặc dùng đất đá, keo sơn, vàng bạc, đồng sắt mà tạo tượng của vị Bồ-Tát này, rồi một lần chiêm ngưỡng và một lần đảnh lễ, thì người ấy sẽ đắc sanh 100 lần lên trời Tam Thập Tam và vĩnh viễn không đọa nơi ác đạo. Giả như thiên phước đã hết, cho dù sinh xuống nhân gian thì cũng làm quốc vương và chẳng hề mất đại lợi.

Nếu có người nữ nào nhàm chán thân nữ và tận tâm cúng dường tượng vẽ của Địa Tạng Bồ-Tát cùng tượng được làm từ đất đá, keo sơn, đồng sắt, hoặc các vật liệu khác. Ngày ngày như thế với tâm không thối chuyển, họ luôn dùng hương hoa, thức ăn nước uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, tiền bạc, châu báu, và những vật khác để cúng dường. Khi người thiện nữ này thọ hết báo thân đó, thì đến trăm ngàn vạn kiếp còn không sanh vào thế giới có người nữ. Hà huống lại phải thọ lấy. Trừ phi vì nguyện lực từ bi muốn thọ thân nữ để độ thoát chúng sanh. Do nhờ phước lực cúng dường Địa Tạng cùng công đức uy lực mà trăm ngàn vạn kiếp, họ chẳng còn thọ thân người nữ nữa.

Lại nữa, Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán ghét tấm thân xấu xí với nhiều bệnh tật, như có thể ở trước tượng của Địa Tạng, rồi chí tâm chiêm ngưỡng và lễ bái trong khoảng thời gian chừng bằng một bữa ăn. Người đó trong ngàn vạn kiếp sẽ thọ sanh với tướng mạo viên mãn. Như người nữ xấu xí này không nhàm chán nữ thân thì trong trăm ngàn vạn ức thường sanh làm công chúa, cho đến vương phi, con gái của tể tướng có uy thế lớn, hay con gái của đại trưởng giả và có tướng mạo đoan chánh viên mãn. Do chí tâm chiêm lễ Địa Tạng Bồ-Tát mà được phước báo như thế.

Lại nữa, Phổ Quảng! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào có thể đối trước tượng của Bồ-Tát mà trỗi các loại âm nhạc, ca hát, hoặc tán thán và cúng dường hương hoa, cho đến khuyên bảo một người hay nhiều người đồng làm như vậy, thì những người như thế sẽ ở trong đời hiện tại cùng vị lai thường được trăm ngàn quỷ thần ngày đêm hộ vệ và không để cho các việc dữ lọt vào tai của người đó. Hà huống là phải tự thọ các tai họa ấy.

Lại nữa, Phổ Quảng! Trong đời vị lai, nếu có ác nhân cùng ác thần ác quỷ thấy có thiện nam tử thiện nữ nhân nào quy y, cung kính cúng dường, tán thán và chiêm lễ hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát mà sanh lòng sai lầm, chê bai hủy báng, và cho là chẳng có công đức và lợi ích gì. Hoặc nhe răng ra cười, hoặc mỉa mai trước mặt, nói xấu sau lưng, hoặc bảo một nhóm người chê, hoặc một người chê, hoặc nhiều người chê, cho đến sanh một niệm chê bai hủy báng họ. Do tội báo chê bai hủy báng của những kẻ như thế, nên dù 1.000 Đức Phật trong Hiền Kiếp đã diệt độ thì họ vẫn còn ở tại Địa Ngục Vô Gián để chịu tội cực trọng. Hết kiếp ấy rồi sẽ thọ sanh làm ngạ quỷ. Trải qua 1.000 kiếp nữa mới được thọ làm súc sanh. Lại trải qua thêm 1.000 kiếp nữa mới được thân người. Tuy thọ thân người nhưng bần cùng hạ tiện, các căn không vẹn toàn, lại bị nhiều ác nghiệp tìm đến bủa vây tâm trí và chẳng bao lâu thì phải sa đọa vào ác đạo.

Vì thế, Phổ Quảng! Ai chê bai người cúng dường kia thì mắc phải tội báo như thế. Hà huống là sanh thêm những ác kiến hủy diệt khác nữa.

Lại nữa, Phổ Quảng! Vào đời vị lai, nếu có nam tử nữ nhân nào cứ nằm liệt mãi trên giường gối, muốn chết muốn sống cũng không được. Hoặc ban đêm mộng thấy ác quỷ, cho đến với gia quyến thân thuộc. Hoặc dạo đi trên đường hiểm. Hoặc nhiều lần ngủ say bị bóng đè. Hoặc cùng quỷ thần rong chơi. Ngày tháng năm trôi qua, họ trở nên gầy gò héo hon, trong giấc ngủ kêu gào khổ sở, lòng thê thảm không vui. Đây đều là lúc nghiệp đạo đang thảo luận xét xử và vẫn còn chưa quyết định là nặng hay nhẹ, nên khó chết mà cũng chẳng được lành. Nam nữ mắt phàm nên nào rõ việc này. Trong trường hợp ấy, họ chỉ nên đối trước tượng của chư Phật và Bồ-Tát mà lớn tiếng chuyển đọc Kinh này một biến. Hoặc lấy các đồ vật của người bệnh yêu thích, hoặc y phục, vật báu, vườn tược, nhà cửa, rồi đối trước người bệnh mà cao thanh xướng rằng:

‘Con tên là … . Hôm nay vì người bệnh này mà đối trước Kinh tượng thí xả các đồ vật.’

Hoặc có thể cúng dường Kinh tượng, hoặc tạo hình tượng của Phật và Bồ-Tát, hoặc xây chùa tháp, hoặc thắp đèn dầu, hoặc cúng cho Thường Trụ. Hãy nên bạch ba lần như vậy để khiến cho người bệnh nghe và biết được.

Giả như các thức đã phân tán và hơi thở của người đó đã ngưng, cho đến từ một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, và cho đến bảy ngày thì vẫn tiếp tục cáo bạch rõ ràng và lớn tiếng chuyển đọc Kinh này. Sau khi người ấy mạng chung, họ vĩnh viễn sẽ giải thoát tai ương và trọng tội của đời trước, thậm chí gồm cả năm tội vô gián, và thọ sanh nơi nào cũng thường biết được chuyện đời trước. Hà huống là có thiện nam tử thiện nữ nhân nào tự biên chép Kinh này, hoặc bảo người khác biên chép, hay tự mình đắp vẽ hình tượng của Bồ-Tát, cho đến bảo người khác đắp vẽ, thì quả báo lợi ích thọ hưởng tất sẽ rất lớn.

Vì thế, Phổ Quảng! Nếu thấy có người nào đọc tụng Kinh này, cho đến chỉ một niệm tán thán Kinh ấy, hoặc cung kính Kinh đó, thì ông nên dùng trăm ngàn phương tiện mà khuyến tấn để tâm họ chuyên cần và không thối chuyển. Như vậy trong hiện tại cùng vị lai, họ sẽ có thể được ngàn vạn ức bất khả tư nghị công đức.

Lại nữa, Phổ Quảng! Vào đời vị lai, nếu những chúng sanh nào nằm mộng hoặc khi ngủ say mà thấy các quỷ thần cùng những hình dạng khác nhau, hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc ưu sầu, hoặc than thở, hoặc kinh hãi, hoặc sợ sệt. Đây đều là cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái, và hàng quyến thuộc từ một đời, mười đời, trăm đời, hay ngàn đời trong quá khứ, nay họ đang ở tại ác thú và vẫn chưa được ra khỏi. Bởi không có nơi nào để trông nhờ phước lực mong cứu bạt cho, thế nên họ mới mách báo với người thân tình cốt nhục ở đời trước, hy vọng rằng họ sẽ dùng phương tiện để ngõ hầu giúp thoát ly ác đạo.

Này Phổ Quảng! Ông hãy dùng thần lực để khiến cho quyến thuộc của họ đối trước tượng của chư Phật và Bồ-Tát, chí tâm tự đọc Kinh này, hoặc thỉnh người đọc, ba biến hoặc bảy biến. Khi Kinh này đã đọc hoàn tất với số biến trên, hàng quyến thuộc trong ác đạo như thế sẽ được giải thoát. Thậm chí trong giấc mộng và lúc ngủ, họ vĩnh viễn sẽ không còn thấy lại nữa.

Lại nữa, Phổ Quảng! Vào đời vị lai, nếu có ai thuộc hàng hạ tiện, hoặc làm thân nô tỳ, cho đến những kẻ mất đi quyền tự do, mà tỉnh ngộ biết tội nghiệp đã tạo ở đời trước và cầu mong sám hối. Rồi chí tâm chiêm lễ hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát, thì trong từ một ngày cho đến bảy ngày, họ niệm danh hiệu của Bồ-Tát. Khi mãn 10.000 biến, thì khi hết báo thân đó, những người này sẽ ở trong ngàn vạn đời sau thường sanh vào dòng dõi tôn quý và chẳng còn phải trải qua nỗi khổ của ba ác đạo.

Lại nữa, Phổ Quảng! Trong đời vị lai ở Diêm-phù-đề, nếu hàng sát-đế-lợi, Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ, và hết thảy các hạng người khác cùng những dị loại chủng tộc, như có ai sắp sinh con trai hay con gái, thì trong bảy ngày trước đó nên đọc tụng bất khả tư nghị Kinh điển này và niệm danh hiệu của Bồ-Tát đủ 10.000 biến. Thời các đứa trẻ sơ sinh đó, hoặc nam hay nữ, nếu có quả báo tai ương đời trước thì sẽ được giải thoát, lại thêm an vui, dễ nuôi, và thọ mạng tăng trưởng. Nếu là nương nhờ phước lực mà sanh, thời sẽ tăng thêm an lạc và thọ mạng lâu dài.

Lại nữa, Phổ Quảng! Trong mỗi tháng âm lịch vào những ngày: mùng một, mồng tám, mười bốn, ngày rằm, mười tám, hai mươi ba, hai mươi bốn, hai mươi tám, hai mươi chín, và ba mươi. Đây là những ngày kết tập nghiệp tội và thẩm định nặng nhẹ của chúng sanh.

Mỗi cử chỉ động niệm của chúng sanh ở Nam Diêm-phù-đề, không chi là không nghiệp, không chi là không tội. Hà huống là buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, và trăm ngàn tội trạng khác.

Vào đời vị lai, nếu chúng sanh nào có thể một lần trong mười ngày trai này mà đối trước tượng của Phật Bồ-Tát cùng chư thánh hiền để đọc Kinh này một biến, thì đông tây nam bắc, trong vòng 100 do-tuần đều sẽ không có các tai nạn. Trong đời hiện tại cùng vị lai, những người ở gia đình đó, hoặc già hay trẻ, trong trăm ngàn năm sẽ vĩnh viễn thoát ly ác thú. Nếu lại có thể ở mỗi ngày trong mười ngày trai đó mà chuyển đọc Kinh này một biến, thì hiện đời những người trong nhà sẽ không có các tai họa và bệnh tật, lại còn được y phục và thức ăn dư giả.

Vì thế, Phổ Quảng! Ông nên biết Địa Tạng Bồ-Tát có bất khả thuyết trăm ngàn vạn ức đại uy thần lực để làm lợi ích như thế. Chúng sanh ở châu Diêm-phù có nhân duyên lớn với vị Đại sĩ này. Nếu các chúng sanh đó nghe danh hiệu của Bồ-Tát và thấy hình tượng của Bồ-Tát, cho đến chỉ nghe ba chữ, năm chữ, hoặc một bài kệ hay một câu trong Kinh này, thì ở hiện tại họ sẽ thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu. Trong trăm ngàn vạn đời vị lai, họ sẽ luôn được đoan chánh và sanh vào nhà tôn quý.”

Lúc bấy giờ, khi Phổ Quảng Bồ-Tát nghe Đức Phật Như Lai tuyên dương ngợi khen Địa Tạng Bồ-Tát xong, gối phải quỳ, chắp tay và lại bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con từ lâu đã biết vị Đại sĩ này có thần lực cùng đại thệ nguyện lực không thể nghĩ bàn như thế. Song vì muốn chúng sanh đời vị lai biết được những lợi ích đó nên mới thỉnh vấn Như Lai. Con xin vâng lời, cung kính và thọ trì.

Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì, và chúng con lưu truyền như thế nào?”

Phật bảo ngài Phổ Quảng:

“Kinh này có ba danh hiệu. Tên thứ nhất là Địa Tạng Bổn Nguyện; cũng gọi là Địa Tạng Bổn Hạnh; và cũng gọi là Kinh Địa Tạng Bổn Thệ Lực. Do bởi vị Bồ-Tát này từ kiếp xa xưa đến nay đã phát những đại nguyện thâm trọng để làm lợi ích chúng sanh, cho nên các ông hãy y theo tâm nguyện mà lưu bố.”

Khi nghe xong, ngài Phổ Quảng chắp tay cung kính, đảnh lễ và lui ra.

7/. Phẩm Lợi Ích Kẻ Sống và Người Đã Mất

Lúc bấy giờ Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con quán thấy chúng sanh ở châu Diêm-phù, cử tâm động niệm, không chi là chẳng tội. Họ từ bỏ những lợi ích lành có được và đa số đều thối thất tâm nguyện ban đầu. Nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng.

Những hạng người này như đi trong bùn lầy mà còn mang thêm đá nặng. Mỗi bước đi lại thêm khốn đốn và càng đi càng lún sâu hơn. Nếu họ gặp Thiện Tri Thức thì sẽ được phụ gánh bớt hoặc vác hết giùm. Bởi bậc Thiện Tri Thức đó có sức mạnh. Ngài lại tương trợ giúp đỡ và khuyên bảo phải bước cho vững vàng. Nếu những người này đến được chỗ đất bằng phẳng thì họ phải tỉnh ngộ con đường hiểm ấy và đừng bao giờ đi vào đó nữa.

Bạch Thế Tôn! Những tập khí xấu ác của chúng sanh bắt đầu từ một tơ hào nho nhỏ rồi lần lần đến vô lượng. Khi những chúng sanh có tập khí như thế sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc nên vì họ mà tạo phước đức để giúp cho lộ trình ở phía trước. Hoặc treo phan lọng và thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc tôn Kinh, hoặc cúng dường tượng Phật cùng tượng của chư thánh, cho đến niệm danh hiệu của Phật, Bồ-Tát, cùng Bích-chi-phật và làm cho mỗi danh hiệu đều lọt vào nhĩ căn của người sắp mạng chung hoặc làm nơi bổn thức nghe qua.

Các nghiệp ác đã tạo của những chúng sanh này mà tính theo quả báo chiêu cảm thì họ tất phải đọa ác thú. Tuy nhiên, do nhờ quyến thuộc vì kẻ lâm chung mà tu nhân thánh đó, các tội như vậy thảy đều tiêu trừ.

Sau khi họ đã chết, nếu lại có thể trong 49 ngày tu tạo nhiều việc lành cho họ, thì có thể làm cho các chúng sanh đó vĩnh viễn xa lìa chốn ác thú và được sanh vào cõi trời người để thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu; quyến thuộc hiện tại cũng được vô lượng lợi ích.

Cho nên con nay đối trước Đức Phật Thế Tôn cùng thiên long bát bộ, người và phi nhân mà khuyên bảo các chúng sanh ở Diêm-phù-đề: Vào ngày lâm chung cần phải cẩn thận, chớ giết hại và gây tạo ác duyên, cũng đừng bái tế quỷ thần, cầu thỉnh sơn tinh yêu quái.

Vì sao thế? Bởi các việc sát hại cho đến bái tế đó không có một chút tơ hào năng lực lợi ích cho người mất mà chỉ kết thêm tội duyên và chuyển thành thâm trọng hơn.

Giả sử ở đời vị lai hoặc hiện tại, họ có được phần thánh quả và sẽ sanh trong cõi trời người, nhưng vì lúc lâm chung bị hàng quyến thuộc gây tạo nhân ác nên cũng khiến người mạng chung bị liên lụy và mắc lấy tai ương. Họ phải tự mình bào chữa biện luận và chậm sanh vào nơi tốt lành. Hà huống là người sắp mạng chung, lúc sống chưa từng có một chút thiện căn. Cho nên họ cứ y theo bổn nghiệp mà tự đọa vào ác thú. Hàng quyến thuộc nỡ nào làm tăng thêm nghiệp của người ấy. Đây ví như có một người hàng xóm bỏ thêm đồ vật nặng hơn 100 cân cho người vác từ phương xa đến và người vác này đã nhịn đói đến ba ngày rồi. Nếu họ còn vác thêm đồ thì sẽ chuyển thành nặng nề và thêm khốn đốn.

Bạch Thế Tôn! Con quán sát chúng sanh ở châu Diêm-phù, thậm chí ở trong giáo Pháp của chư Phật mà chỉ làm việc lành chừng bằng một sợi lông, một giọt nước, một hạt cát, hay một hạt bụi, thì họ sẽ tự mình đều được sự lợi ích.”

Khi nói lời ấy xong, trong Pháp hội có một vị trưởng giả tên là Đại Biện. Vị trưởng giả này từ lâu đã chứng Vô Sanh. Vì hóa độ chúng sanh trong mười phương nên hiện thân trưởng giả. Ngài chắp tay cung kính và hỏi Địa Tạng Bồ-Tát rằng:

“Thưa Đại sĩ! Sau khi chúng sanh ở Nam Diêm-phù-đề mạng chung, nếu hàng quyến thuộc lớn nhỏ của họ làm công đức, cho đến thiết trai, hoặc tạo các nhân lành, thì người chết này có được lợi ích lớn và giải thoát không?”

Ngài Địa Tạng đáp:

“Này trưởng giả! Tôi nay nương uy lực của Phật mà sẽ lược nói về việc ấy cho hết thảy chúng sanh trong hiện tại cùng vị lai.

Này trưởng giả! Những chúng sanh ở hiện tại cùng vị lai, vào ngày lâm chung mà họ nghe được danh hiệu của một Đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ-Tát, hay danh hiệu của một vị Bích-chi-phật, thì chẳng kể là có tội hay vô tội, thảy đều được giải thoát.

Nếu có người nam hoặc người nữ nào trong lúc sống đã không tu nhân lành mà còn tạo nhiều nghiệp tội, nhưng sau khi mạng chung lại được hàng quyến thuộc lớn nhỏ tu tạo phước lợi cho họ, thì hết thảy thánh sự, người chết được một phần trong bảy phần công đức, còn sáu phần thuộc về người sống hiện đang tu tập. Vì thế cho nên, khi các thiện nam tín nữ ở hiện tại cùng vị lai nghe lời nói vừa rồi, thì hãy nên cố gắng tự tu hành, thời sẽ hưởng trọn phần công đức.

Đại quỷ vô thường sẽ chợt đến bất kỳ. Thần hồn vơ vẩn mịt mờ, chưa rõ là tội hay phước. Trong 49 ngày như ngây như điếc, hoặc họ ở tại các ty sở để biện luận về nghiệp quả. Sau khi thẩm định xong sẽ y theo nghiệp mà thọ sanh. Trong lúc chưa biết ra sao đó, thì đã ngàn vạn lần sầu khổ. Hà huống là bị đọa vào các chốn ác thú.

Những người mạng chung này khi chưa được thọ sanh, họ ở trong 49 ngày luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục quyến thuộc tu tạo phước lực để hầu cứu bạt. Khi quá ngày ấy rồi sẽ y theo nghiệp mà thọ quả báo. Nếu là tội nhân thì phải trải qua trăm ngàn năm mà không có ngày được giải thoát. Còn nếu là người phạm năm tội vô gián, thì sẽ đọa vào đại địa ngục để chịu mãi những sự đau khổ trong ngàn vạn kiếp.

Lại nữa, trưởng giả! Sau khi các chúng sanh gây nghiệp tội như vậy mạng chung, hàng cốt nhục quyến thuộc hãy thiết lễ chay để trợ giúp nghiệp đạo cho họ. Trước khi lễ chay hoàn mãn hoặc trong lúc chuẩn bị, thì nhớ đừng đổ nước gạo hoặc bỏ rau quả xuống đất. Cho đến các món ăn chưa dâng cúng cho Phật và chư Tăng thì chớ được ăn trước. Nếu có sai phạm về phần ẩm thực hoặc người tu tạo không chu đáo, thì người mạng chung này sẽ hoàn toàn không được trợ lực nào hết. Nếu họ có thể chu đáo và thanh tịnh trong việc phụng hiến thức ăn cho Phật và chư Tăng, thời người mạng chung sẽ được một phần trong bảy phần công đức.

Vì thế, trưởng giả! Các chúng sanh ở châu Diêm-phù, sau khi cha mẹ của họ hoặc cho đến hàng quyến thuộc qua đời, nếu có thể thiết chay cúng dường và chí tâm khẩn cầu, thì những người như thế, kẻ sống người mất, đều được lợi ích.”

Khi nói lời ấy xong, cung trời Đao-lợi có ngàn vạn ức na-do-tha quỷ thần ở châu Diêm-phù đều phát vô lượng Bồ-đề tâm. Trưởng giả Đại Biện đảnh lễ và lui ra.

8/. Phẩm Các Vua Diêm-la và Quyến Thuộc Tán Thán

Lúc bấy giờ, trong dãy núi Thiết Vi có vô lượng quỷ vương và Diêm-la Thiên Tử đều đến chỗ Phật tại trời Đao-lợi. Các vị ấy là:

– Ác Độc Quỷ Vương,
– Đa Ác Quỷ Vương,
– Đại Tranh Quỷ Vương,
– Bạch Hổ Quỷ Vương,
– Huyết Hổ Quỷ Vương,
– Xích Hổ Quỷ Vương,
– Tán Ương Quỷ Vương,
– Phi Thân Quỷ Vương,
– Điện Quang Quỷ Vương,
– Lang Nha Quỷ Vương,
– Thiên Nhãn Quỷ Vương,
– Đạm Thú Quỷ Vương,
– Phụ Thạch Quỷ Vương,
– Chủ Hao Quỷ Vương,
– Chủ Họa Quỷ Vương,
– Chủ Thực Quỷ Vương,
– Chủ Tài Quỷ Vương,
– Chủ Súc Quỷ Vương,
– Chủ Cầm Quỷ Vương,
– Chủ Thú Quỷ Vương,
– Chủ Mị Quỷ Vương,
– Chủ Sản Quỷ Vương,
– Chủ Mạng Quỷ Vương,
– Chủ Tật Quỷ Vương,
– Chủ Hiểm Quỷ Vương,
– Tam Mục Quỷ Vương,
– Tứ Mục Quỷ Vương,
– Ngũ Mục Quỷ Vương,
– Kỳ-lợi-thất Vương,
– Đại Kỳ-lợi-thất Vương,
– Kỳ-lợi-xoa Vương,
– Đại Kỳ-lợi-xoa Vương,
– A-na-tra Vương,
– Đại A-na-tra Vương,
– và các đại quỷ vương như thế.

Mỗi vị cùng với trăm ngàn các tiểu quỷ vương cư ngụ khắp Diêm-phù-đề, vị nào chức nấy và có chủ quyền tự trị riêng.

Các vị quỷ vương này và Diêm-la Thiên Tử nương uy thần của Phật cùng uy lực của Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát, họ thảy đều đến trời Đao-lợi và đứng qua một bên.

Lúc bấy giờ Diêm-la Thiên Tử, gối phải quỳ và chắp tay bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Nay chúng con và các quỷ vương nương uy thần của Phật cùng uy lực của Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát mới có thể đến trời Đao-lợi dự đại hội này. Do nhân ấy, chúng con cũng sẽ được các lợi ích lành. Con nay có một hoài nghi nhỏ mong được thỉnh vấn Đức Thế Tôn. Duy nguyện Thế Tôn từ bi tuyên nói.”

Phật bảo Diêm-la Thiên Tử:

“Ông hãy cứ hỏi. Ta sẽ nói rõ cho ông.”

Lúc ấy Diêm-la Thiên Tử chiêm lễ Đức Thế Tôn và ngoảnh nhìn Địa Tạng Bồ-Tát, rồi bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con quán sát Địa Tạng Bồ-Tát ở trong lục đạo dùng trăm ngàn phương tiện cứu độ chúng sanh tội khổ, không chút từ nan mệt mỏi. Vị đại Bồ-Tát này có những sự thần thông bất khả tư nghị như thế. Nhưng sao các chúng sanh vừa thoát khỏi tội báo, chẳng bao lâu thì lại đọa vào ác đạo?

Bạch Thế Tôn! Địa Tạng Bồ-Tát này đã có thần lực không thể nghĩ bàn như thế. Cớ sao chúng sanh không y theo và ở trên thiện đạo để được giải thoát vĩnh viễn? Kính mong Thế Tôn thuyết giảng cho con.”

Phật bảo Diêm-la Thiên Tử:

“Chúng sanh ở Nam Diêm-phù-đề có tâm tánh cang cường, khó điều khó phục. Vị đại Bồ-Tát này ở trong trăm ngàn kiếp liên miên cứu bạt các chúng sanh như vậy, khiến họ sớm được giải thoát. Những người mắc tội báo đó, cho đến bị đọa vào đại ác thú, Bồ-Tát cũng dùng sức phương tiện mà bạt trừ căn bổn nghiệp duyên và làm cho họ tỏ ngộ các việc của đời trước. Nhưng chúng sanh ở châu Diêm-phù này đây bị tập khí ác kết chặt nặng nề, thoáng vừa ra khỏi lại quay trở vào nên làm lao nhọc Bồ-Tát phải trải qua số kiếp rất lâu mới độ thoát.

Ví như có người quên mất nhà của mình và đi lạc vào con đường hiểm. Trong con đường hiểm đó có rất nhiều quỷ dạ-xoa cùng cọp sói, sư tử, rắn độc, và bò cạp. Người bị lạc này ở trong hiểm đạo, chẳng mấy chốc liền gặp ngay các thứ độc ấy. Nhưng nếu có một vị Thiện Tri Thức biết nhiều phép thuật, khéo giải trừ các thứ độc đó, bao gồm cả quỷ dạ-xoa và các loài ác độc khác, bỗng gặp kẻ lạc lối đang muốn tiến vào hiểm đạo thì vội bảo rằng:

‘Này ông bạn kia! Do duyên sự gì mà vào con đường ấy? Ông có phép thuật lạ gì có thể chế phục được các thứ độc hại chăng?’

Người lạc đường này chợt nghe lời ấy thì mới biết là hiểm đạo nên liền lui lại và cầu ra khỏi con đường đó. Vị Thiện Tri Thức này nắm tay dìu dắt và dẫn họ ra khỏi con đường hiểm, thoát khỏi các thứ ác độc để đến nơi tốt lành và làm cho họ được an vui rồi mới bảo rằng:

‘Này người lạc đường! Từ nay về sau chớ đi vào con đường đó. Ai mà vào rồi thì khó mà ra khỏi, lại còn nguy hại đến tánh mạng nữa.’

Người lạc đường ấy sanh lòng cảm kích ân trọng. Lúc sắp từ biệt, vị Thiện Tri Thức lại căn dặn thêm:

‘Nếu gặp người thân quen cùng những người đi đường khác, hoặc nam hay nữ, thì bảo họ biết rằng con đường này có nhiều thứ độc ác, vào đó rồi sẽ mất cả tánh mạng đấy. Ông hãy khiến cho họ đừng tự vào chỗ chết.’

Cũng như vậy, Địa Tạng Bồ-Tát với đầy lòng đại từ bi luôn cứu bạt chúng sanh tội khổ, khiến cho họ sinh vào cõi trời người để thọ hưởng an vui vi diệu.

Một khi những người tội đó biết sự khốn khổ của nghiệp đạo thì lúc được thoát ra, họ vĩnh viễn sẽ chẳng còn trở vào lại. Họ cũng như người lạc đường sa vào hiểm đạo. Khi gặp bậc Thiện Tri Thức, họ liền được tiếp dẫn ra khỏi và vĩnh viễn sẽ không đi vào chỗ ấy nữa. Khi thấy người khác, họ khuyên đừng có vào và nói rằng:

‘Tôi lúc xưa do bị mê lầm nên mới lạc vào đó. Nay đã được ra khỏi nên sẽ không bao giờ qua trở vào. Nếu còn giẫm bước vào thì cũng còn bị lạc ngay và vẫn chẳng biết ấy là con đường hiểm mà mình đã từng bị lạc qua, hoặc có thể phải bị mất cả tánh mạng.’

Điều này cũng giống như khi chúng sanh sa đọa nơi ác thú. Địa Tạng Bồ-Tát dùng sức phương tiện để khiến cho họ giải thoát và sanh trong cõi trời người, nhưng thoáng chốc họ lại đọa vào nữa. Nếu nghiệp báo kết chặt thâm trọng thì họ vĩnh viễn sẽ ở chốn địa ngục và không bao giờ được ra khỏi.”

Lúc bấy giờ Ác Độc Quỷ Vương chắp tay cung kính và bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Quỷ vương chúng con ở Diêm-phù-đề, số đông vô lượng. Hoặc làm lợi ích người hay tổn hại người, mỗi mỗi đều khác nhau. Do nghiệp báo nên quyến thuộc chúng con đi du hành thế giới, làm ác thì nhiều mà làm thiện lại quá ít. Tuy vậy, nhưng nếu chúng con đi qua sân nhà ai hoặc thành thị xóm làng, vườn tược phòng xá, hoặc có nam tử nữ nhân nào tu hành thiện sự chừng bằng cọng lông sợi tóc, cho đến chỉ treo một tràng phan hay một lọng che, dùng chút hương ít hoa mà cúng dường tượng Phật cùng tượng của Bồ-Tát, hoặc chuyển đọc tôn Kinh, thắp hương, cúng dường một câu hay một bài kệ, thì quỷ vương chúng con lễ kính người này như chư Phật thuở quá khứ, hiện tại cùng vị lai. Chúng con lại sai các tiểu quỷ có uy lực lớn cùng thần thổ địa mà hộ vệ họ, khiến cho các việc dữ, tai họa, ác bệnh hoặc bệnh bất ngờ, cho đến những sự không như ý còn chẳng hề đến gần nhà và các nơi xung quanh. Hà huống là lọt vào đến cửa.”

Đức Phật ngợi khen quỷ vương rằng:

“Lành thay, lành thay! Các ông cùng với vua Diêm-la có thể ủng hộ những thiện nam thiện nữ như thế, thì Ta cũng sẽ bảo Phạm Vương và Đế-thích hộ vệ các ông.”

Khi nói lời ấy xong, trong Pháp hội có một quỷ vương tên là Chủ Mạng, bạch với Đức Phật rằng:

“Bạch Thế tôn! Do bổn nghiệp duyên mà nay con làm chủ về nhân mạng ở Diêm-phù-đề. Khi sanh khi tử đều do con làm chủ. Bổn nguyện của con thì rất muốn làm lợi ích, nhưng chúng sanh không hội ý con nên khiến cho lúc sanh tử đều không được an ổn.

Tại sao thế? Người ở Diêm-phù-đề khi vừa mới sanh, không kể là nam hay nữ, hoặc lúc gần sanh, thì chỉ nên làm việc lành để tăng thêm lợi ích cho nhà cửa. Như vậy tự nhiên sẽ khiến cho thần thổ địa vô cùng hoan hỷ mà ủng hộ mẹ con đều được nhiều an vui, quyến thuộc cũng được lợi ích. Hoặc khi đã sanh rồi, thì cẩn thận chớ giết hại để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho người sản phụ, cùng nhóm hợp hàng quyến thuộc lại để uống rượu, ăn thịt, ca hát, và âm nhạc ầm ĩ. Vì các việc như thế sẽ có thể khiến cho cả mẹ lẫn con chẳng được an lạc.

Vì sao thế? Bởi đương lúc sanh nở khó khăn ấy, có vô số ác quỷ cùng sơn tinh yêu quái muốn tới ăn máu tanh. Chính con đã sớm sai các thần linh của nhà cửa phải bảo hộ người mẹ và đứa con để khiến họ an vui và được lợi ích. Những người này khi thấy sự an vui thì nên cùng nhau tạo phước để báo đáp các thần thổ địa. Nếu trái lại, họ giết hại và tụ tập quyến thuộc, thì do bởi lẽ này, hễ phạm tai ương thời phải tự lãnh thọ, người mẹ và đứa con đều sẽ tổn hại.

Lại nữa, khi người ở Diêm-phù-đề sắp mạng chung, chẳng kể là thiện hay ác, con đều không muốn cho người mạng chung đó bị lạc vào ác đạo. Hà huống là người ấy tự tu căn lành, làm tăng uy lực của con. Những người làm thiện ở Diêm-phù-đề đến lúc lâm chung cũng còn có trăm ngàn quỷ thần trong ác đạo, hoặc biến làm cha mẹ, cho đến hàng quyến thuộc và dẫn dắt người chết khiến sa vào ác đạo. Huống chi là người vốn đã tạo ác.

Bạch Thế Tôn! Những nam tử nữ nhân ở Diêm-phù-đề đến lúc lâm chung thì thần thức hôn ám mê muội, không phân biệt được thiện ác, cho đến mắt và tai đều chẳng còn thấy nghe gì nữa. Hàng quyến thuộc của họ nên phải thiết đại cúng dường, chuyển đọc tôn Kinh, niệm danh hiệu của Phật và Bồ-Tát. Những thiện duyên như vậy mới có thể khiến cho người chết xa lìa các ác đạo, và chúng ma quỷ thần đều phải thoái lui.

Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sanh khi sắp mạng chung, nếu họ nghe được danh hiệu của một Đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ-Tát, hoặc một câu hoặc một bài kệ trong Kinh điển Đại Thừa, thời con quán sát thấy hạng người ấy, chỉ trừ năm tội vô gián và các tội sát hại, còn những nghiệp ác nho nhỏ đáng phải đọa vào ác thú thì sẽ liền giải thoát.”

Phật bảo Chủ Mạng Quỷ Vương:

“Ông vì lòng đại từ nên mới có thể phát đại nguyện như thế để cứu hộ chúng sanh trong lúc sanh tử. Vào đời vị lai, nếu có nam tử nữ nhân nào đến thời điểm sanh tử, thì ông chớ quên lời nguyện đó và hãy khiến họ giải thoát để có được niềm an lạc vĩnh viễn.”

Quỷ vương bạch Phật rằng:

“Xin Đức Thế Tôn chớ lo lắng! Trọn đời con niệm niệm ủng hộ chúng sanh ở châu Diêm-phù, làm cho họ lúc sanh lúc tử đều được an vui. Con chỉ mong các chúng sanh trong khi sanh khi tử đều tin theo lời con, thì không ai là chẳng giải thoát và được lợi ích lớn.”

Lúc bấy giờ Phật bảo Địa Tạng Bồ-Tát:

“Đại Quỷ Vương Chủ Mạng này đã từng trải qua trăm ngàn đời làm đại quỷ vương và ở trong sinh tử ủng hộ chúng sanh. Do thệ nguyện từ bi nên vị Đại sĩ này hiện thân làm đại quỷ vương chớ không phải quỷ thật. Qua 170 kiếp về sau, ông ta sẽ thành Phật, hiệu là Vô Tướng Như Lai. Kiếp tên An Lạc. Thế giới tên là Tịnh Trụ. Thọ mạng của Đức Phật đó dài không thể tính kể số kiếp.

Này Địa Tạng! Vị đại quỷ vương ấy có những sự bất khả tư nghị như vậy. Hàng trời người được độ thoát cũng nhiều không thể hạn lượng.”

9/. Phẩm Xưng Danh Hiệu Chư Phật

Lúc bấy giờ Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con nay vì chúng sanh ở vị lai mà muốn diễn bày về những việc lợi ích để làm cho họ trong khi sanh khi tử đều được lợi ích lớn. Duy nguyện Thế Tôn hãy lắng nghe con nói.”

Phật bảo Địa Tạng Bồ-Tát:

“Ông nay khởi lòng từ bi và muốn cứu bạt hết thảy chúng sanh tội khổ trong lục đạo mà diễn nói về những việc không thể nghĩ bàn. Nay chính là lúc, ông nên mau nói. Ta sắp nhập Niết-bàn và ông hãy sớm hoàn tất thệ nguyện này. Như thế, Ta sẽ không còn phải âu lo cho tất cả chúng sanh ở hiện tại cùng vị lai nữa.”

Địa Tạng Bồ-Tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Vào thuở quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Vô Biên Thân Như Lai. Nếu có nam tử nữ nhân nào nghe danh hiệu của Đức Phật này và tạm sanh lòng cung kính thì liền siêu vượt 40 kiếp sanh tử trọng tội. Hà huống là đắp vẽ hình tượng và cúng dường tán thán. Người đó sẽ được vô lượng vô biên phước báo.

Lại vào thuở quá khứ Hằng Hà sa số kiếp, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Bảo Tánh Như Lai. Nếu có nam tử nữ nhân nào nghe danh hiệu của Đức Phật này và chỉ trong khoảnh khảy móng tay mà phát tâm quy y, thì người ấy sẽ vĩnh viễn không còn thối chuyển nơi Đạo vô thượng.

Lại vào thuở quá khứ, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Hồng Liên Thắng Như Lai. Nếu có nam tử nữ nhân nào nghe danh hiệu của Đức Phật này chừng thoáng qua nhĩ căn, thì người ấy sẽ đắc sanh lên sáu cõi trời Dục Giới 1.000 lần. Hà huống là chí tâm xưng niệm.

Lại vào thuở quá khứ bất khả thuyết bất khả thuyết a-tăng-kỳ kiếp, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Sư Tử Hống Như Lai. Nếu có nam tử nữ nhân nào nghe danh hiệu của Đức Phật này và chỉ một niệm quy y, thì người ấy sẽ được gặp vô lượng chư Phật xoa đảnh thọ ký.

Lại vào thuở quá khứ, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Câu-lưu-tôn Phật. Nếu có nam tử nữ nhân nào nghe danh hiệu của Đức Phật này và chí tâm chiêm lễ hoặc tán thán, thì người ấy ở tại Pháp hội của 1.000 Đức Phật trong Hiền Kiếp sẽ làm Đại Phạm Thiên Vương và được thọ thượng ký.

Lại vào thuở quá khứ, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Tỳ-bà-thi. Nếu có nam tử nữ nhân nào nghe danh hiệu của Đức Phật này, thì vĩnh viễn sẽ không đọa vào ác đạo, thường sanh về cõi trời người, và thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu.

Lại vào thuở quá khứ vô lượng vô số Hằng Hà sa kiếp, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Bảo Thắng Như Lai. Nếu có nam tử nữ nhân nào nghe danh hiệu của Đức Phật này, thì sẽ không bao giờ đọa vào ác đạo, thường sanh lên trời, và thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu.

Lại vào thuở quá khứ, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Bảo Tướng Như Lai. Nếu có nam tử nữ nhân nào nghe danh hiệu của Đức Phật này và sanh tâm cung kính, thì người này không lâu sẽ đắc Đạo A-la-hán.

Lại vào thuở quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Ca-sa Tràng Như Lai. Nếu có nam tử nữ nhân nào nghe danh hiệu của Đức Phật này, thì sẽ siêu thoát 100 đại kiếp tội sanh tử.

Lại vào thuở quá khứ, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Đại Thông Sơn Vương Như Lai. Nếu có nam tử nữ nhân nào nghe danh hiệu của Đức Phật này, thì người ấy sẽ gặp được Hằng Hà sa chư Phật rộng vì họ mà thuyết Pháp và tất sẽ thành tựu quả Bồ-đề.

Lại vào thuở quá khứ có Tịnh Nguyệt Phật, Sơn Vương Phật, Trí Thắng Phật, Tịnh Danh Vương Phật, Trí Thành Tựu Phật, Vô Thượng Phật, Diệu Thanh Phật, Mãn Nguyệt Phật, Nguyệt Diện Phật, và bất khả thuyết chư Phật như vậy.

Bạch Thế Tôn! Hết thảy chúng sanh ở hiện tại cùng vị lai, hoặc trời, hoặc người, hoặc nam, hoặc nữ, như chỉ niệm được một danh hiệu Phật mà công đức đã nhiều vô lượng. Hà huống là niệm được nhiều danh hiệu. Các chúng sanh này trong lúc sanh lúc tử sẽ tự mình được những sự lợi ích to lớn và không bao giờ bị đọa vào ác đạo.

Nếu có người sắp mạng chung, hàng quyến thuộc trong nhà, dẫu chỉ một người vì người bệnh đó mà niệm lớn danh hiệu của một Đức Phật, thì người mạng chung này, ngay cả năm tội vô gián và những nghiệp báo khác đều được tiêu trừ. Năm tội vô gián này tuy là cực trọng vô cùng, dù cho trải qua ức kiếp cũng không thể ra khỏi. Nhưng nhờ lúc sắp mạng chung, lại được người khác xưng niệm danh hiệu Phật cho họ nên các tội ấy rồi cũng lần lần tiêu trừ. Hà huống là chúng sanh tự mình xưng niệm, thì sẽ được vô lượng phước, diệt vô lượng tội.”

Kinh Địa Tạng Bồ-Tát Bổn Nguyện – Hết quyển trung


Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Hán dịch: Vu-điền Tam Tạng Sa-môn Thật-xoa-nan-đà đời Đường
Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận

Quyển hạ

10/. Phẩm Nhân Duyên và So Sánh Công Đức của Bố Thí

Lúc bấy giờ, Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát nương uy thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, gối phải quỳ và chắp tay bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con quán sát chúng sanh trong nghiệp đạo và so sánh của việc bố thí thì có nặng, có nhẹ. Có người thọ phước một đời. Có người thọ phước mười đời. Hoặc có người thọ phước lợi lớn đến trăm đời hay ngàn đời. Việc ấy thế nào? Duy nguyện Thế Tôn hãy thuyết giảng cho con.”

Lúc bấy giờ Phật bảo Địa Tạng Bồ-Tát:

“Ta nay ở giữa toàn thể chúng hội tại cung trời Đao-lợi mà sẽ thuyết giảng về sự so sánh công đức nặng nhẹ ở Diêm-phù-đề. Ông nay lắng nghe! Ta sẽ thuyết giảng cho ông.”

Ngài Địa Tạng bạch Phật rằng:

“Con hoài nghi về việc ấy và rất vui thích muốn nghe.”

Phật bảo Địa Tạng Bồ-Tát:

“Ở Nam Diêm-phù-đề, nếu có các quốc vương, tể tướng, đại thần, đại trưởng giả, đại sát-lợi, đại Bà-la-môn, và những ai mà khi gặp kẻ bần cùng thấp kém, cho đến gù lưng, tàn tật, câm ngọng, ngu điếc, mắt mù, và mọi thứ căn không vẹn toàn như vậy. Khi các đại quốc vương và những người ấy muốn bố thí mà nếu có thể đầy đủ lòng đại từ bi và khiêm tốn cười vui, tự tay mình làm việc bố thí hoặc bảo người khác bố thí, nói năng hòa nhã và khuyên nhủ cảm thông, thì các đại quốc vương và những người này sẽ được công đức phước lợi nhiều như cúng dường cho 100 Hằng Hà sa chư Phật.

Vì sao thế? Bởi các quốc vương và những người đó, do nhân duyên đối với kẻ nghèo khốn với các căn không hoàn chỉnh mà phát tâm đại từ, nên mới có được quả báo phước lợi như thế. Suốt trăm ngàn đời, họ sẽ thường được đầy đủ thất bảo. Hà huống là y phục, thức ăn, và những vật cần dùng.

Lại nữa, Địa Tạng! Vào đời vị lai, nếu có các quốc vương, cho đến Bà-la-môn, và những ai gặp chùa tháp Phật, hoặc hình tượng Phật, cho đến tượng của Bồ-Tát, Thanh Văn, hay Bích-chi-phật mà đích thân sửa sang và bố thí cúng dường, thời các quốc vương và những người đó sẽ được ba kiếp làm thân trời Đế-thích, thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu. Nếu lại có thể dùng phước lợi từ việc bố thí này hồi hướng đến khắp chúng sanh trong Pháp Giới, thì các đại quốc vương và những người ấy ở trong mười kiếp sẽ thường làm Đại Phạm Thiên Vương.

Lại nữa, Địa Tạng! Vào đời vị lai, nếu có các quốc vương, cho đến Bà-la-môn, và những ai gặp tháp miếu Phật cổ xưa hay Kinh tượng bị hư hoại, vỡ nát mà có thể phát tâm tu bổ. Các quốc vương và những người đó đích thân tu bổ hoặc bảo người khác, thậm chí cả trăm ngàn người cùng bố thí kết duyên, thời các quốc vương và những người ấy sẽ ở trong trăm ngàn đời thường làm thân Chuyển Luân Vương. Còn những người đồng chung bố thí, thì sẽ ở trong trăm ngàn đời thường làm thân tiểu quốc vương. Nếu lại có thể ở trước tháp miếu mà phát tâm hồi hướng, thời các quốc vương cùng những người này cuối cùng sẽ thành Phật Đạo, bởi quả báo đó là vô lượng vô biên.

Lại nữa, Địa Tạng! Vào đời vị lai, nếu có các quốc vương, cho đến Bà-la-môn, và những ai thấy người già yếu, kẻ bệnh tật cùng phụ nữ đang sinh nở mà trong một niệm với đủ lòng đại từ, bố thí thuốc thang, ẩm thực, và giường nằm để khiến cho họ an vui. Phước lợi như thế thật sẽ chẳng thể nghĩ bàn. Trong 100 kiếp thường làm Tịnh Cư Thiên Chủ. Trong 200 kiếp thường làm Lục Dục Thiên Chủ. Sau cùng họ sẽ thành Phật và vĩnh viễn không đọa vào ác đạo. Thậm chí trong trăm ngàn đời, họ sẽ không hề nghe đến tiếng khổ.

Lại nữa, Địa Tạng! Vào đời vị lai, nếu có các quốc vương cùng Bà-la-môn và những ai có thể làm việc bố thí như thế, thời sẽ được phước vô lượng. Nếu lại có thể hồi hướng, chẳng kể là nhiều hay ít, cuối cùng sẽ đều thành Phật. Hà huống là những quả báo: Đế-thích, Phạm Vương, và Chuyển Luân. Vì thế, Địa Tạng! Ông hãy rộng khuyên bảo chúng sanh nên học làm bố thí như vậy.

Lại nữa, Địa Tạng! Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào ở trong Phật Pháp gieo trồng chút ít căn lành, chừng bằng cọng lông, sợi tóc, hạt cát, hay hạt bụi, thì phước lợi thọ hưởng sẽ chẳng thể nào ví dụ cho xuể.

Lại nữa, Địa Tạng! Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào gặp hình tượng Phật, hình tượng Bồ-Tát, hình tượng Bích-chi-phật, hoặc hình tượng vua Chuyển Luân mà bố thí cúng dùng, thời sẽ được phước vô lượng và thường ở cõi trời người để thọ hưởng an vui vi diệu. Nếu có thể hồi hướng đến khắp chúng sanh trong Pháp Giới thì phước lợi đó sẽ chẳng thể nào ví dụ cho xuể.

Lại nữa, Địa Tạng! Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào gặp Kinh điển Đại Thừa, hoặc nghe một bài kệ hay một câu rồi phát tâm ân cần trân trọng, tán thán cung kính, và bố thí cúng dường, thời người này sẽ được quả báo lớn vô lượng vô biên. Nếu có thể hồi hướng đến khắp chúng sanh trong Pháp Giới thì phước lợi đó sẽ chẳng thể nào ví dụ cho xuể.

Lại nữa, Địa Tạng! Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào gặp chùa tháp Phật, hoặc Kinh điển Đại Thừa còn mới mà bố thí cúng dường, chiêm lễ tán thán, và chắp tay cung kính. Nếu như đã cũ và bị hư hoại thì có thể một mình phát tâm, hoặc khuyên bảo nhiều người đồng cộng phát tâm để tu bổ sửa sang. Những người đồng phát tâm như thế sẽ ở trong 30 đời thường làm vua nước nhỏ, còn vị Đàn-việt thì thường làm Luân Vương và lại dùng Pháp lành để giáo hóa các tiểu quốc vương.

Lại nữa, Địa Tạng! Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào ở trong Phật Pháp gieo trồng căn lành, hoặc bố thí cúng dường, hoặc tu bổ chùa tháp, hoặc sửa sang Kinh điển, cho đến các việc lành chừng bằng một sợi lông, một hạt bụi, một hạt cát, hay một giọt nước như thế. Như có thể hồi hướng đến khắp chúng sanh trong Pháp Giới thì công đức của người này là sẽ ở trong trăm ngàn đời thọ hưởng an vui cao thượng vi diệu. Còn như chỉ hồi hướng cho quyến thuộc và gia đình, hoặc lợi ích riêng bản thân thì quả báo ấy là trong ba đời sẽ thọ hưởng an vui. Khi xả một liền được vạn hồi báo.

Vì thế, Địa Tạng! Nhân duyên về sự bố thí, việc ấy là như vậy.”

11/. Phẩm Địa Thần Hộ Pháp

Lúc bấy giờ Kiên Lao Địa Thần bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Từ xưa đến nay, con đã chiêm ngưỡng và đảnh lễ vô lượng Bồ-Tát Ma-ha-tát. Tất cả đều là những bậc thần thông đại trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn và khéo rộng độ chúng sanh. Ở trong chư Bồ-Tát, Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát đây là vị lập thệ nguyện thâm trọng nhất.

Bạch Thế Tôn! Địa Tạng Bồ-Tát này có đại nhân duyên ở Diêm-phù-đề. Như ngài Văn-thù, Phổ Hiền, Quán Âm, và Di-lặc cũng hóa hiện trăm ngàn thân hình để độ chúng sanh trong lục đạo, nhưng các thệ nguyện đó rồi sẽ hoàn tất. Còn Địa Tạng Bồ-Tát đây đã phát thệ nguyện giáo hóa hết thảy chúng sanh trong lục đạo và số kiếp trải qua thì nhiều như trăm ngàn ức Hằng Hà sa.

Bạch Thế Tôn! Con quán sát chúng sanh ở hiện tại cùng vị lai, nếu trên vùng đất sạch sẽ nơi trú xứ về hướng nam mà dùng đất đá hay trúc gỗ để dựng xây một khám thất. Như lại có thể đắp vẽ, cho đến tạo lập hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát bằng vàng, bạc, đồng, hay sắt và an trí vào bên trong. Rồi thắp hương cúng dường, chiêm lễ tán thán, thì nơi cư ngụ của người ấy liền được mười điều lợi ích. Những gì là mười?

1. Đất đai màu mỡ.
2. Nhà cửa vĩnh yên.
3. Kẻ mất sanh thiên.
4. Người sống tăng thọ.
5. Sở cầu toại ý.
6. Không nạn nước lửa.
7. Dứt trừ tai ương.
8. Đoạn tuyệt ác mộng.
9. Thần hộ ra vào.
10. Gặp nhiều nhân thánh.

Bạch Thế Tôn! Trong đời hiện tại cùng vị lai, nếu có chúng sanh nào ở nơi trú xứ về hướng nam của mình mà có thể làm được sự cúng dường như thế thì sẽ được những điều lợi ích như vậy.”

Lại bạch cùng Đức Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào ở nơi trú xứ của mình mà có Kinh điển này cùng hình tượng của Bồ-Tát, người này lại có thể thường đọc tụng Kinh điển và cúng dường Đức Bồ-Tát, thời con ngày đêm sẽ luôn dùng bổn thần lực mà hộ vệ người ấy, cho đến nạn nước lửa, trộm cướp, các tai họa lớn nhỏ, và tất cả những ác sự thảy đều tiêu trừ.”

Phật bảo Kiên Lao Địa Thần:

“Thần lực của ông to lớn, các vị thần khác ít ai sánh bằng.

Vì sao thế? Bởi đất đai ở châu Diêm-phù đều nhận sự bảo hộ của ông, cho đến cỏ cây, cát đá, lúa gai, trúc lau, cũng từ dưới đất mà có và đều là do thần lực của ông. Như ông lại thường tán thán về những sự lợi ích của Địa Tạng Bồ-Tát thì công đức và thần thông của ông sẽ gấp trăm ngàn lần hơn các địa thần bình thường.

Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào cúng dường Đức Bồ-Tát, thì ông hãy dùng thần lực ủng hộ và chớ để cho tất cả tai họa cùng những việc không như ý nghe lọt vào tai họ. Huống nữa là phải thọ lấy. Không những người đó được riêng ông bảo hộ mà cũng có quyến thuộc của Đế-thích, Phạm Vương và hàng quyến thuộc chư thiên đều ủng hộ người này.

Tại sao được thánh hiền ủng hộ như vậy? Đó đều là do chiêm lễ hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát và thường đọc tụng Kinh bổn nguyện này. Họ tự nhiên sẽ có thể rời xa biển khổ và chứng Niết-bàn an vui. Do vậy, họ được sự ủng hộ lớn lao như thế.”

12/. Phẩm Lợi Ích của Sự Thấy Nghe

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ trên đảnh môn phóng ra trăm ngàn vạn ức tướng hào quang lớn. Như là:

– tướng hào quang màu trắng,
– tướng hào quang màu trắng lớn,
– tướng hào quang điềm lành,
– tướng hào quang điềm lành lớn,
– tướng hào quang ngọc thạch,
– tướng hào quang ngọc thạch lớn,
– tướng hào quang màu tím,
– tướng hào quang màu tím lớn,
– tướng hào quang màu xanh,
– tướng hào quang màu xanh lớn,
– tướng hào quang màu xanh biếc,
– tướng hào quang màu xanh biếc lớn,
– tướng hào quang màu đỏ,
– tướng hào quang màu đỏ lớn,
– tướng hào quang màu xanh lá cây,
– tướng hào quang màu xanh lá cây lớn,
– tướng hào quang màu vàng,
– tướng hào quang màu vàng lớn,
– tướng hào quang vầng mây khánh hỷ,
– tướng hào quang vầng mây khánh hỷ lớn,
– hào quang bánh xe ngàn tăm,
– hào quang bánh xe ngàn tăm lớn,
– hào quang bánh xe báu,
– hào quang bánh xe báu lớn,
– hào quang vầng mặt trời,
– hào quang vầng mặt trời lớn,
– hào quang vầng mặt trăng,
– hào quang vầng mặt trăng lớn,
– hào quang cung điện,
– hào quang cung điện lớn,
– hào quang mây biển,
– hào quang mây biển lớn.

Từ trên đảnh môn phóng ra các tướng hào quang như thế xong, Ngài lại phát ra âm thanh vi diệu và bảo các đại chúng, thiên long bát bộ, người và phi nhân:

“Hãy lắng nghe! Hôm nay Ta tại cung trời Đao-lợi xưng dương và ngợi khen Địa Tạng Bồ-Tát về những sự lợi ích trong hàng trời người; những sự không thể nghĩ bàn; những sự siêu vượt nhân thánh; những sự chứng quả Thập Địa; những sự cứu cánh không thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”

Khi nói lời ấy xong, trong Pháp hội có một vị Bồ-Tát Ma-ha-tát tên là Quán Thế Âm, từ chỗ ngồi đứng dậy, gối phải quỳ và chắp tay bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát là bậc đầy đủ lòng đại từ bi và luôn thương xót chúng sanh tội khổ. Ở trong ngàn vạn ức thế giới, ngài biến hóa ngàn vạn ức thân và có công đức với sức uy thần chẳng thể nghĩ bàn. Con đã nghe Thế Tôn cùng vô lượng mười phương chư Phật, dị khẩu đồng âm, ngợi khen Địa Tạng Bồ-Tát. Dù cho quá khứ, hiện tại, cùng vị lai chư Phật đều thuyết về công đức của ngài thì vẫn chẳng thể nào nói hết.

Mới đây lại được Thế Tôn bảo khắp đại chúng là Ngài muốn xưng dương các sự lợi ích của Địa Tạng Bồ-Tát. Kính mong Đức Thế Tôn vì tất cả chúng sanh ở hiện tại cùng vị lai mà tuyên dương về những việc bất khả tư nghị của Địa Tạng Bồ-Tát, khiến cho thiên long bát bộ, chiêm lễ được phước.”

Phật bảo Quán Thế Âm Bồ-Tát:

“Ông có đại nhân duyên với Thế Giới Ta-bà. Nếu hàng trời, hoặc rồng, hoặc kẻ nam người nữ, hoặc thần, hoặc quỷ, cho đến các chúng sanh tội khổ trong lục đạo mà nghe danh hiệu ông, thấy hình tượng ông, mến tưởng ông, tán thán ông, thì những chúng sanh ấy đều ở nơi Đạo vô thượng và quyết sẽ chẳng còn thối chuyển. Họ sẽ luôn sanh vào cõi trời người để thọ hưởng đủ các sự an vui vi diệu. Khi nhân quả sắp thành thục thì liền gặp Phật thọ ký. Ông nay với lòng đại từ bi vô tận mà thương xót các chúng sanh cùng thiên long bát bộ và muốn Ta tuyên nói về những sự lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ-Tát. Ông hãy lắng nghe! Nay Ta sẽ nói rõ.”

Ngài Quán Thế Âm bạch rằng:

“Dạ vâng, thưa Thế Tôn! Con vui thích muốn nghe.”

Phật bảo Quán Thế Âm Bồ-Tát:

“Trong các thế giới ở hiện tại cùng vị lai, nếu có vị thiên nhân nào mà phước trời thọ hưởng đã hết và có năm tướng suy hiện ra, hoặc có vị phải đọa lạc nơi ác đạo. Những vị thiên nhân ấy, hoặc nam hay nữ, đương lúc tướng suy hiện ra mà thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát, hoặc nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ-Tát, rồi một lần chiêm ngưỡng và một lần đảnh lễ, thì các vị thiên nhân đó sẽ tăng thêm phước trời, thọ hưởng nhiều sự vui sướng, và vĩnh viễn sẽ chẳng còn đọa vào tam ác đạo nữa. Hà huống là được nghe tên của Bồ-Tát, rồi dùng các hương hoa, y phục, ẩm thực, vật báu, và xâu chuỗi anh lạc mà bố thí cúng dường, thời công đức phước lợi có được sẽ vô lượng vô biên.

Lại nữa, Quán Thế Âm! Trong các thế giới ở hiện tại cùng vị lai, nếu có chúng sanh nào trong lục đạo sắp mạng chung mà nghe được một tiếng danh hiệu của Địa Tạng Bồ-Tát thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn sẽ chẳng còn phải trải qua nỗi khổ của ba đường ác. Huống nữa là lúc gần mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, tài vật, bảo bối, và y phục của người sắp chết đó mà đắp vẽ hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát.

Hoặc làm cho người bệnh trong lúc chưa mạng chung được mắt thấy tai nghe và biết rằng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, bảo bối, cùng những đồ vật khác của họ để chi vào việc đắp vẽ hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát. Người đó, nếu do nghiệp báo phải chịu bệnh nặng, thì nhờ công đức này sẽ liền lành bệnh, tuổi thọ thêm lâu dài. Còn nếu nghiệp báo sanh mạng của người đó đã tận và đáng phải chịu tất cả tội chướng, nghiệp chướng, cùng phải sa đọa nơi ác thú, song nhờ công đức này nên sau khi mạng chung, họ liền sanh vào cõi trời người để thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu. Tất cả tội chướng thảy đều tiêu trừ.

Lại nữa, Quán Thế Âm Bồ-Tát! Vào đời vị lai, nếu có nam tử nữ nhân nào, hoặc lúc còn bú mớm, hoặc lúc lên ba tuổi, năm tuổi, hay mười tuổi trở xuống mà cha mẹ đã qua đời, cho đến mất hết anh chị em, rồi đến khi khôn lớn, người đó tưởng nhớ về cha mẹ cùng hàng quyến thuộc, nhưng vẫn không biết họ lạc vào chốn nào, sanh về thế giới nào, hoặc sanh trong cõi trời nào.

Người ấy như có thể đắp vẽ hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát, thậm chí nghe danh hiệu ngài, rồi một lần chiêm ngưỡng và một lần đảnh lễ. Trong từ một ngày cho đến bảy ngày chớ để thối thất tâm nguyện ban đầu: nghe danh hiệu, thấy hình tượng, chiêm lễ, và cúng dường Bồ-Tát, thì quyến thuộc của người đó nếu do nghiệp mà đọa ác đạo và lẽ ra phải chịu nhiều số kiếp, nhưng nay nhờ công đức đắp vẽ hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát và chiêm lễ của con cái hoặc anh chị em, nên cũng liền giải thoát. Họ sẽ sanh vào cõi trời người để thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu.

Còn như quyến thuộc của người ấy có phước lực, đã sanh vào cõi trời người và đang thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu, thời nhờ công đức này mà nhân thánh tăng trưởng và sẽ thọ hưởng vô lượng điều vui sướng.

Như người ấy lại có thể trong 21 ngày nhất tâm chiêm lễ hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát và niệm danh hiệu của ngài đủ 10.000 biến, thời sẽ được Bồ-Tát hiện thân vô biên để mách bảo người đó cõi giới mà hàng quyến thuộc đã sanh về. Hoặc trong giấc mộng, Bồ-Tát sẽ hiện đại thần lực và đích thân dắt người ấy đến các thế giới để thấy hàng quyến thuộc của mình.

Nếu người này lại có thể mỗi ngày đều niệm danh hiệu của Bồ-Tát 1.000 biến và luôn đến 1.000 ngày, thì người đó sẽ được Bồ-Tát sai các quỷ thần và thổ địa tại nơi ấy hộ vệ trọn đời. Hiện đời y phục với thức ăn dư giả, và sẽ không có các bệnh khổ. Cho đến những tai họa còn không hề vào đến cửa, huống nữa là đến thân. Người đó cuối cùng sẽ được Bồ-Tát xoa đảnh thọ ký.

Lại nữa, Quán Thế Âm Bồ-Tát! Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào muốn phát lòng từ bi rộng lớn để cứu độ tất cả chúng sanh, muốn tu Đạo Bồ-đề vô thượng, và muốn ra khỏi Tam Giới. Khi những người này thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát, cùng nghe danh hiệu, rồi chí tâm quy y, hoặc lấy hương hoa, y phục, bảo bối, ẩm thực để cúng dường và chiêm lễ, thì điều nguyện cầu của các thiện nam thiện nữ đó sẽ mau thành tựu và vĩnh viễn không bị chướng ngại.

Lại nữa, Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào muốn cầu trăm ngàn vạn ức điều nguyện, hoặc trăm ngàn vạn ức sự việc ở hiện tại cùng vị lai, thì chỉ nên quy y, chiêm ngưỡng, đảnh lễ, cúng dường, và tán thán hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát, thời những điều sở nguyện sở cầu như thế tất sẽ đều thành tựu. Nếu lại cầu mong Địa Tạng Bồ-Tát, bậc đầy đủ đại từ bi, luôn mãi mãi ủng hộ cho mình, thì người ấy trong giấc mộng sẽ liền được Bồ-Tát xoa đảnh thọ ký.

Lại nữa, Quán Thế Âm Bồ-Tát! Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào đối với Kinh điển Đại Thừa sanh lòng trân trọng thâm sâu, họ phát tâm không thể nghĩ bàn để muốn đọc muốn tụng. Mặc dù gặp được bậc minh sư chỉ dạy cho thành thục nhưng họ lại quên hết. Trải đến cả tháng cả năm mà vẫn không thể đọc tụng. Những thiện nam thiện nữ này do có nghiệp chướng ở đời trước chưa trừ sạch, cho nên họ đối với Kinh điển Đại Thừa không có tánh đọc tụng.

Khi những người như thế nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ-Tát, cùng thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát, thì hãy mang hết cõi lòng mà cung kính bày tỏ. Lại dùng hương hoa, y phục, ẩm thực, cùng tất cả đồ chơi để cúng dường Bồ-Tát. Rồi lấy một chén nước trong và đặt ở trước Bồ-Tát một ngày một đêm. Sau đó hãy chắp tay cung thỉnh để uống với mặt xoay về hướng nam. Khi nước sắp vào miệng thì phải chí tâm trịnh trọng. Uống nước xong, họ phải kiêng cữ ngũ tân, rượu thịt, tà dâm, vọng ngữ, và các việc giết hại trong 7 ngày hoặc 21 ngày.

Các thiện nam tử thiện nữ nhân này ở trong giấc mộng sẽ thấy rõ Địa Tạng Bồ-Tát hiện thân vô biên đến chỗ họ mà rưới nước quán đảnh. Khi họ thức dậy thì liền được thông minh. Các Kinh điển một khi lọt vào nhĩ căn thời liền nhớ mãi và sẽ không còn quên một câu Kinh hay một bài kệ nữa.

Lại nữa, Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có những người nào ăn mặc không đủ, cầu gì cũng trái nguyện, hoặc nhiều bệnh tật, hoặc gặp nhiều sự không may, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc bị chia cách, hoặc các tai nạn cứ nhiều lần xảy đến nơi thân, lúc ngủ nằm mơ thường thấy nhiều việc kinh sợ. Khi những người như thế nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ-Tát, hoặc thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ-Tát, rồi chí tâm cung kính và niệm đủ 10.000 biến, thì những việc không như ý sẽ tiêu trừ dần dần. Họ liền được an lạc, đồ ăn mặc dư giả, và cho đến trong giấc mộng thảy đều vui vẻ.

Lại nữa, Quán Thế Âm Bồ-Tát! Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào, hoặc vì việc làm ăn sinh sống, hoặc vì chuyện công việc tư, hoặc vì sự sanh tử, hoặc vì việc khẩn cấp, nên họ phải vào rừng lên núi, qua sông vượt biển, cho đến gặp nước lớn, hoặc đi ngang qua đường hiểm, thời người đó trước tiên hãy niệm danh hiệu của Địa Tạng Bồ-Tát 10.000 biến. Như vậy, khi họ đi qua nơi nào cũng có quỷ thần hộ vệ; đi đứng nằm ngồi, mãi mãi được an vui. Cho đến dẫu có gặp cọp, sói, sư tử, cùng tất cả mọi thứ độc hại thì cũng không thể làm tổn thương.”

Phật bảo Quán Thế Âm Bồ-Tát:

“Địa Tạng Bồ-Tát có đại nhân duyên với Diêm-phù-đề. Nếu nói về những việc lợi ích nhờ được thấy nghe của các chúng sanh, thì suốt trăm ngàn kiếp cũng không thể kể hết.

Vì thế, Quán Thế Âm! Ông hãy dùng thần lực mà lưu bố Kinh này và làm cho chúng sanh ở Thế Giới Ta-bà trong trăm ngàn vạn kiếp luôn hưởng mãi an lạc.”

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Ta quán Địa Tạng sức uy thần
Hằng Hà sa kiếp nói chẳng cùng
Thấy nghe chiêm lễ dù một lần
Lợi ích trời người nhiều vô lượng

Nếu nam hay nữ hoặc long thần
Phước hết nên phải đọa ác đạo
Chí tâm quy y bậc Đại sĩ
Thọ mạng chuyển tăng tội chướng trừ

Trẻ thơ mất sớm tình cha mẹ
Chẳng rõ thần hồn tại xứ nào
Anh chị em gái cùng thân thuộc
Đến nay khôn lớn chẳng biết nhau

Hoặc đắp hay vẽ hình Đại sĩ
Quyến luyến chiêm lễ chẳng rời xa
Ba tuần luôn niệm danh hiệu ấy
Bồ-Tát liền hiện vô biên thân

Chỉ họ quyến thuộc nơi sanh giới
Dù đọa ác thú cũng thoát mau
Sơ tâm nếu lại không thối chuyển
Liền được xoa đảnh thọ thánh ký

Bồ-đề vô thượng quyết chí tu
Tam Giới khổ não muốn lìa xa
Người ấy đã phát đại bi tâm
Trước tiên chiêm lễ tượng Đại sĩ
Hết thảy các nguyện chóng viên thành
Mãi không nghiệp chướng nào cản ngăn

Có người phát tâm tụng Kinh điển
Muốn độ quần mê qua bờ kia
Tuy lập thệ nguyện không nghĩ bàn
Mới đọc liền quên xao lãng mất

Người này do có nghiệp chướng mê
Kinh điển Đại Thừa không thể nhớ
Cúng dường Địa Tạng với hương hoa
Y phục ẩm thực các đồ chơi

Để bát nước trong trước Đại sĩ
Sau một ngày đêm rồi thỉnh uống
Sanh lòng trân trọng cữ ngũ tân
Rượu thịt tà dâm cùng vọng ngữ

Hai mươi mốt ngày chớ sát hại
Chí tâm nhớ niệm Đại sĩ danh
Liền như trong mộng thấy vô biên
Tỉnh giấc nhĩ căn được bén lanh

Kinh giáo một khi đã nghe qua
Ngàn vạn đời sau mãi chẳng quên
Bậc Đại sĩ ấy không nghĩ bàn
Có thể khiến người đắc trí tuệ

Bần cùng chúng sanh và bệnh tật
Nhà cửa hung suy quyến thuộc ly
Lúc ngủ mộng điềm chẳng an lành
Cầu gì cũng trái không toại ý

Chí tâm chiêm lễ tượng Địa Tạng
Tất cả ác sự đều tiêu tan
Cho đến trong mộng thảy an vui
Quỷ thần hộ vệ y thực dư

Vào rừng lên núi qua biển cả
Chim thú độc dữ cùng ác nhân
Ác thần ác quỷ với ác phong
Tất cả ách nạn các khổ não

Chỉ cần chiêm lễ và cúng dường
Địa Tạng Bồ-Tát Đại sĩ tượng
Giả như băng rừng vượt biển lớn
Các điều dữ ấy đều tiêu tan

Quán Âm chí tâm nghe Ta nói
Địa Tạng vô tận chẳng nghĩ bàn
Trăm ngàn vạn kiếp kể không cùng
Rộng tuyên Đại sĩ sức như vậy

Nếu ai nghe được Địa Tạng danh
Cho đến thấy tượng chiêm lễ Ngài
Hương hoa y phục ẩm thực dâng
Thọ hưởng trăm ngàn vi diệu lạc

Nếu lại hồi hướng đến Pháp Giới
Tất sẽ thành Phật liễu sanh tử
Vì thế Quán Âm hãy bảo khắp
Hằng sa quốc độ đều nên biết”

13/. Phẩm Phó Chúc Trời Người

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại nhấc cánh tay sắc vàng xoa trên đảnh của Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát và nói lời như vầy:

“Địa Tạng, Địa Tạng! Thần lực của ông bất khả tư nghị, từ bi của ông bất khả tư nghị, trí tuệ của ông bất khả tư nghị, biện tài của ông bất khả tư nghị. Dù cho mười phương chư Phật ngợi khen và tuyên nói những sự không thể nghĩ bàn của ông trong ngàn vạn kiếp thì cũng chẳng thể hết.

Địa Tạng, Địa Tạng! Ông nên nhớ Ta nay tại cung trời Đao-lợi, ở trong đại hội với trăm ngàn vạn ức bất khả thuyết bất khả thuyết với tất cả chư Phật Bồ-Tát và trời rồng tám bộ chúng, một lần nữa, Ta phó chúc hàng trời người và các chúng sanh cho ông–những kẻ còn ở trong căn nhà lửa và vẫn chưa ra khỏi Tam Giới. Ông đừng khiến cho những chúng sanh ấy đọa vào trong ác thú dù chỉ một ngày một đêm. Huống nữa còn đọa vào năm Địa Ngục Vô Gián, đến nỗi phải trải qua ngàn vạn ức kiếp mà chẳng có kỳ hạn thoát ra.

Này Địa Tạng! Chúng sanh ở Diêm-phù-đề này đây, ý chí với tâm tánh bất định và nhiều tập khí xấu ác. Dù họ đã phát thiện tâm nhưng thoáng liền thối thất. Nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Vì thế Ta đã phân ra trăm ngàn ức thân để hóa độ với tùy theo căn tánh mà độ thoát họ.

Này Địa Tạng! Ta nay ân cần phó chúc chúng trời người cho ông. Vào đời vị lai, nếu có trời người cùng thiện nam tử thiện nữ nhân nào ở trong Phật Pháp gieo trồng được chút ít thiện căn chừng bằng một sợi lông, một hạt bụi, một hạt cát hay một giọt nước, thì ông hãy dùng Đạo lực mà ủng hộ người đó, làm cho họ dần dần tu hành Đạo vô thượng và chớ để thối thất.

Lại nữa, Địa Tạng! Vào đời vị lai, hoặc trời hoặc người, do tùy theo nghiệp mà thọ báo ứng và sa vào nơi ác thú, hay sắp đọa trong ác thú, hoặc gần kề đến cửa đó. Nếu các chúng sanh này có thể niệm được danh hiệu của một vị Phật, danh hiệu của một vị Bồ-Tát, một câu hay một bài kệ trong Kinh điển Đại Thừa, thì ông hãy dùng thần lực và phương tiện để cứu bạt những chúng sanh ấy. Ông hãy hiện ra vô biên thân ở chỗ người đó và phá tan địa ngục, khiến họ sanh lên cõi trời để thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu.”

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Hiện tại vị lai chúng trời người
Ta nay ân cần phó chúc ông
Dùng đại thần thông phương tiện độ
Chớ khiến sa đọa ác thú khổ”

Lúc bấy giờ Địa Tạng Bồ-Tát Ma-ha-tát, gối phải quỳ và chắp tay bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Kính mong Thế Tôn đừng lo lắng nữa. Vào đời vị lai, nếu thiện nam tử thiện nữ nhân nào ở trong Phật Pháp mà có chừng một niệm cung kính, thì con cũng dùng trăm ngàn phương tiện để độ thoát người đó và làm cho họ mau ra khỏi vòng sanh tử. Hà huống là họ nghe về các việc lành rồi niệm niệm tu hành, thì tự nhiên sẽ vĩnh viễn không còn thối chuyển nơi Đạo vô thượng.”

Khi nói lời ấy xong, trong Pháp hội có một vị Bồ-Tát tên là Hư Không Tạng bạch với Đức Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con nay đến trời Đao-lợi và nghe được Như Lai ngợi khen về sức uy thần bất khả tư nghị của Địa Tạng Bồ-Tát. Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân, cho đến hết thảy trời rồng mà nghe Kinh điển này cùng danh tự của ngài Địa Tạng, hoặc chiêm lễ hình tượng, thì sẽ được bao nhiêu điều phước lợi? Duy nguyện Thế Tôn vì tất cả chúng sanh ở hiện tại cùng vị lai mà lược nói về việc ấy.”

Phật bảo Hư Không Tạng Bồ-Tát:

“Lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giảng giải. Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào thấy hình tượng của Địa Tạng cùng nghe Kinh này, cho đến đọc tụng, rồi dùng hương hoa, thức ăn nước uống, y phục và châu báu để cúng dường, bố thí, tán thán, chiêm ngưỡng, và đảnh lễ ngài, thời sẽ được 28 điều lợi ích:

1. Trời rồng hộ niệm.
2. Thiện quả ngày tăng.
3. Tích nhân thánh thượng.
4. Bồ-đề bất thối.
5. Y thực phong phú.
6. Bệnh dịch bất xâm.
7. Thoát nạn nước lửa.
8. Chẳng gặp trộm cướp.
9. Người thấy kính mến.
10. Quỷ thần hộ giúp.
11. Thân nữ chuyển nam.
12. Làm con vua chúa.
13. Tướng đẹp đoan chánh.
14. Thường sanh lên trời.
15. Hoặc làm đế vương.
16. Đắc Túc Mạng Thông.
17. Cầu mong như ý.
18. Quyến thuộc hòa vui.
19. Tai họa tiêu diệt.
20. Nghiệp đạo vĩnh trừ.
21. Đi đến nơi chốn.
22. Đêm mộng an vui.
23. Người mất lìa khổ.
24. Túc phước thọ sanh.
25. Chư thánh khen ngợi.
26. Thông minh lanh lợi.
27. Giàu lòng từ mẫn.
28. Cứu cánh thành Phật.

Lại nữa, Hư Không Tạng Bồ-Tát! Nếu thiên long quỷ thần ở hiện tại cùng vị lai mà nghe danh hiệu Địa Tạng và đảnh lễ hình tượng Địa Tạng, hoặc nghe về bổn nguyện và sự tích tu hành của Địa Tạng, rồi tán thán chiêm lễ, thì sẽ được bảy điều lợi ích:

1. Mau vượt thánh địa.
2. Ác nghiệp tiêu diệt.
3. Chư Phật đến hộ.
4. Bồ-đề bất thối.
5. Bổn lực tăng trưởng.
6. Đắc Túc Mạng Thông.
7. Cứu cánh thành Phật.”

Lúc bấy giờ, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả chư Phật Như Lai đã đến từ mười phương, cùng đại Bồ-Tát và thiên long bát bộ, khi nghe Đức Phật Thích-ca-mâu-ni xưng dương tán thán đại uy thần lực không thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ-Tát và đều khen là việc chưa từng có. Khi ấy ở trời Đao-lợi mưa xuống vô lượng hương hoa, thiên y, và xâu chuỗi anh lạc để cúng dường Đức Phật Thích-ca-mâu-ni cùng Địa Tạng Bồ-Tát. Sau đó, hết thảy chúng hội đều chiêm ngưỡng, đảnh lễ, chắp tay rồi cáo lui.

Kinh Địa Tạng Bồ-Tát Bổn Nguyện – Hết quyển hạ

I. Đao lợi, Thế Tôn nói pháp mầu,
Ðịa Tạng công hạnh rất rộng sâu,
Thánh giáo mãi truyền sau chẳng ngớt,
Khắp lợi Trời, người khỏi khổ sầu.

II. Trời, A tu la, Dạ xoa thảy
Ðến nghe pháp đó nên chí tâm,
Ủng hộ Phật Pháp khiến thường còn,
Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy,
Bao nhiêu người nghe đến chốn này,
Hoặc trên đất liền hoặc hư không,
Thường với người đời sinh từ tâm,
Ngày đêm tự mình nương pháp ở.

III. Nguyện các thế giới thường an ổn,
Phước trí vô biên lợi quần sinh,
Bao nhiêu tội nghiệp thảy đều trừ,
Xa lìa các khổ về viên tịch.
Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng,
Thường gìn định phục để giúp thân,
Hoa mầu Bồ đề khắp trang nghiêm,
Tùy theo chỗ ở thường an lạc.

Nam mô Tồi Tà Phụ Chánh Hộ pháp chư Tôn Bồ tát Ma Ha Tát. (3 lần)

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA TÂM KINH

Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố, không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thinh hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Ðề Tát Ðỏa y Bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.

Tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhã ba la mật đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thế khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú. Tức thuyết chú viết: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

BẠT NHỨT THẾ NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN ÐẮC SANH TỊNH ÐỘ ÐÀ LA NI

Nam mô a di đa bà dạ. Ða tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)

A Di Ðà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, đại từ, đại bi A Di Ðà Phật.

Nam mô A Di Ðà Phật. (108 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. (10 lần)
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát. (10 lần)
Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ tát. (10 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát. (10 lần)

SÁM THẬP PHƯƠNG

Thập phương tam thế Phật
A Di Ðà đệ nhất
Cửu phẩm độ chúng sinh
Oai đức vô cùng cực
Ngã kim đại quy y
Sám hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện
Chí tâm dụng hồi hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhân
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây phương cảnh
Phân minh tại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn
Ðồng sanh Cực Lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh tử,
Như Phật độ nhứt thiết.
Vô biên phiền não đoạn
Vô lượng pháp môn tu
Thệ nguyện độ chúng sinh
Tổng giai thành Phật đạo.
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng
Tình dữ vô tình,
Ðồng viên chủng trí,

Phổ Hiền Thập Hạnh

Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như Lai,
Tam giả quảng tu cúng dường,
Tứ giả sám hối nghiệp chướng,
Ngũ giả tùy hỷ công đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy học Phật,
Cửu giả hằng thuận chúng sinh,
Thập giả phổ giai hồi hướng.

Phụ thêm bài: SÁM THẬP PHƯƠNG (nghĩa)
Cũng gọi là: SÁM MƯỜI PHƯƠNG. (20)

Mười phương chư Phật ba đời,
Di Ðà bực nhứt chẳng rời quần sanh,
Sen vàng chín phẩm sẵn dành,
Oai linh đức cả đã thành vô biên.
Nay con dưng tấm lòng thiềng
Quy y với Phật sám liền tội căn,
Phước lành con có chi chăng,
Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây!
Nguyện cùng với bạn tu đây,
Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành,
Biết giờ biết khắc rõ rành.
Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.
Thấy nghe chánh niệm hơn thường,
Vãng sanh Lạc quốc đồng nương hoa vàng,
Hoa nở thấy Phật rõ ràng,
Thoát vòng sanh tử, độ an muôn loài.
Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,
Pháp môn tu học, chẳng còn dư,
Chúng sinh nguyện độ, bờ kia đến
Phật đạo cùng nhau chứng trí như.
Hư không cõi nọ dầu cùng,
Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên.
Không tình cùng có đồng nguyền,
Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.

SÁM PHỔ HIỀN (nghĩa)

Nay con lại nguyện tu hành,
Phổ Hiền nguyện lớn sẵn dành mười môn:
Một là nguyện lạy Thế Tôn
Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin.
Hai, khen Phật đức rộng thinh,
Lời hay, tiếng tốt tận tình ngợi ca.
Ba, thời sắm đủ hương hoa,
Tràng phan bảo cái dưng ra cúng dường.
Bốn, vì mê chấp lầm đường,
Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn.
Năm, suy công đức vàn muôn,
Của Phàm của Thánh con đồng vui ưa.
Sáu, khi Phật chứng thượng thừa,
Pháp mầu con thỉnh đã vừa truyền trao.
Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,
Cầu xin chư Phật chớ vào vô dư!
Tám, thường tu học Ðại thừa,
Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con,
Chín, thề chẳng dám mỏi mòn,
Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.
Mười, đem tất cả công huân,
Mọi loài cùng hưởng, khắp trần cùng vui.
Mười điều nguyện lớn nguyện rồi,
Nguyện về Cực Lạc nguyện ngồi tòa sen. (21)

HỒI HƯỚNG

Niệm Phật công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sinh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sinh
Giai cộng thành Phật đạo.

PHỤC NGUYỆN

A Di Ðà Phật thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn. Lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh diện phụng Di Ðà, dữ chư thánh chúng, thủ chấp kim đài, lai nghinh tiếp ngã. Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ tát đạo, quảng độ chúng sinh, đồng thành chủng trí.

Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, đại từ, Ðại Bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy)

Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, Liên Trì Hải Hội Phật, Bồ tát, nhứt thiết Hiền Thánh Chúng, chư Thượng Thiện nhơn. (1 lạy)

TAM TỰ QUY Y

Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.

Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.

Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại.