Nấc Thang Tiến Đạo
Hòa Thượng Thích Nhật Quang

 

Lời Đầu Sách

Nhìn thấy những hạt mầm gieo xuống mảnh đất không âm dương đang từng phút vươn lên, tôi vui và quên đi bao năm tháng nhọc nhằn của một tăng quê. Ngày ngày tưới tắm, ngày ngày chăm sóc, mong hạt mầm vươn lên, ra hoa kết trái hiến dâng cho đời. Những hạt mầm hôm nay và mai sau. Chắc thực. Tươi chồi sức sống.

Nếu Thường Chiếu là mảnh đất nuôi dưỡng tôi lớn lên từ tâm hạnh vô lượng của Hoà thượng Ân sư thì Trí Đức là nơi tôi nguyện noi theo gương hạnh của Thầy, xin làm người lái đò đưa khách sang sông trước khi ánh hoàng hôn vụt tắt. Những năm tháng tuổi cao sức yếu mới hiểu hết nỗi vất vả nhọc nhằn của Thầy. Con đường hoằng pháp lợi sanh cũng chính là con đường của đại hạnh đại nguyện vô ngã vị tha.

Thầy đã đến với chúng sanh bằng trái tim của người mẹ lẫn người cha, khi trìu mến bảo ban, lúc huấn dụ nghiêm cẩn. Dù mệt mỏi cách mấy, Hoà thượng vẫn chưa bao giờ thối chuyển than van. Nguồn mạch thiền tông nhờ thế mà tuôn chảy rạt rào. Công đức, tấm lòng của Thầy đã trở thành nguồn sống mãnh liệt của tất cả chúng tôi trên những chặng đường học đạo và hành đạo.

Thời gian đi qua quãng đời thơ ấu của tôi với nhiều khoảnh khắc gian nan khốn khó. Thầy đã đến và đưa tôi tới bến đỗ bình yên, dừng bước phong trần lãng khách. Bây giờ ngồi sát bên Thầy, tôi đã 70 tuổi nhưng vẫn là đứa con chưa thực sự lớn khôn. Thầy luôn ban rải ánh mắt yêu thương, độ lượng, tin tưởng và đợi chờ. Chính vì thế chúng tôi không thể nào quên, không được quên, ánh đuốc soi đường truyền đăng tục diệm phải được trao truyền mãi mãi.

Nơi đây, nhớ tưởng ân đức cao vời của bậc Thầy đã tái tạo lại một mảnh đời, có lúc tưởng chừng như vụn vỡ, xin nguyện theo dấu chân Thầy, đến với người sau bằng tất cả tấm lòng chân thành. Chỉ mong thắp sáng đèn tâm, nối nắm mạng mạch tông tuấn. Thường Chiếu xưa hay Trí Đức nay, huynh đệ chúng ta cũng chỉ một con đường duy nhất, tu học cho tới bao giờ thành Phật mới vừa lòng. Có bao nhiêu công đức xin dâng lên cúng dường Tam Bảo, cúng dường Ân sư, cúng dường mười phương pháp giới chúng sanh, nguyện đồng vui cõi thật.

Chừng ấy, tha hồ mà hoà khúc quàng xiên của Thượng sĩ thuở nọ:

Buông bốn đại chừ đừng nắm bắt,

Tỉnh một đời chừ thôi chạy quàng,

Thoả nguyện ta chừ được ngã sở,

Sống chết bức nhau chừ ta vẫn như thường.

Thường Chiếu, ngày 17 – 07 – 2012

Cuối hạ Nhâm Thìn

THÍCH NHẬT QUANG

 

Xuân Nhâm Thìn – 2012

Hôm nay nhân ngày đầu năm chư Tăng Ni và quý Phật tử trong đạo tràng về họp mặt đông đủ, ai nấy đều phấn khởi mong mỏi được học pháp tu hành. Quý vị thấy điều thị hiện rõ ràng là Hòa thượng Ân sư của chúng ta đang bệnh, rồi tới tôi nữa. Năm nay tôi đã 70 tuổi, thiệt ra lúc này bệnh là vừa rồi, nên tôi không biết thời gian giảng dạy cho quý Phật tử được bao nhiêu, nhưng tôi cũng có sự chuẩn bị cho các huynh đệ, đệ tử nối tiếp tôi hướng dẫn quý vị tu tập. Xin nói trước như vậy để quý Phật tử thông cảm.

Trước tiên, tôi xin được phép đại lao Hòa thượng Tôn sư và thay lời cho đại chúng Tổ đình Thiền viện Thường Chiếu, Thiền viện Trúc Lâm và các Chiếu chúc mừng đến chư Tôn đức Tăng Ni hiện diện cùng quý Phật tử trong đạo tràng, chúc nguyện tất cả đều được an lạc, khỏe mạnh, tâm Bồ-đề kiên cố, đủ duyên thực hiện tốt mọi Phật sự dưới sự gia hộ của Tam Bảo.

Mỗi ngày qua chúng ta đang đối mặt với sự già chết, bệnh yếu và bao nhiêu biến đổi của chính mình cũng như mọi vật xung quanh. Chỉ trong khoảng thời gian một năm thôi, ngay trong đạo tràng của chúng ta đã có những huynh đệ vĩnh viễn vắng mặt. Đó là quy luật vô thường tất yếu. Chúng ta là người tu hành, là đệ tử của Đức Phật, phải giải quyết vấn đề này thế nào? Từ bao nhiêu lâu nay, những người đi trước, những người đồng hành và những người sau chúng ta vẫn chấp nhận sự tất yếu này mà không ai dám nhìn, dám nói thật về điểm bất lực của mình, mặc dù chúng ta là đệ tử Phật. Đức Phật và các bậc Thánh hiền đối với sanh tử đã giải quyết tận căn để. Ngài dạy lại cho chúng ta phương pháp tu tập để tự giải thoát mình, nhưng chúng ta chưa làm đúng lời Phật dạy, nên đến bây giờ vẫn còn chìm đắm trong sanh tử, chịu sự chi phối mãnh liệt của vô thường. Thật đáng hổ thẹn.

Kiểm lại thấy mình dở thật. Chúng ta dám nghĩ, dám nói, dám làm nhiều việc, nhưng đối với vô thường sanh tử lại không biết gì cả. Từ xưa tới giờ chưa một người nào có biểu hiện như Thái tử Sĩ Đạt Ta. Ngài chứng kiến cảnh con người già bệnh chết, run rẩy lụm cụm, Ngài thực sự cảm nhận được vô thường để rồi từ đó un đúc ý chí cương quyết tìm một lối thoát. Lối thoát đó không chỉ riêng cho Ngài mà cho tất cả mọi người. Thái tử đã thực hiện trọn vẹn ý chí cao cả bằng sự cương quyết, bằng tấm lòng vị tha và cũng là thương xót cho chính thân phận của mình. Nói một cách thiết thực, trước tiên chúng ta vì bản thân mà tu hành, sau đó mới nghĩ nhớ đến chúng sanh. Ta đã bị ràng buộc, bị chôn nhốt, trôi lăn, khổ đau… chỉ có bản thân mình mới cảm nhận rõ nhất về những điều này.

Hòa thượng Trúc Lâm thường dạy chúng ta phải biết thương mình. Tại sao? Bởi nếu không thương mình thì ta sẽ trôi dạt lang thang trong cát bụi phù sinh, chịu nhiều thống khổ, không biết bao giờ mới chấm dứt. Sáng Sài Gòn, chiều Vũng Tàu, nay ở cao nguyên, mai về đồng bằng… rồi một thoáng nhìn lại thấy mình đã già nua, bao nhiêu bệnh tật, sự cố xảy ra cuối cùng kết thúc nín thở, không đem theo được gì cả, ngoài một khối nghiệp mình đã gây tạo. Con người là như vậy. Cho nên chúng ta phải mạnh dạn nhận ra chỗ cốt lõi của mọi vấn đề.

Tâm nguyện tu hành của huynh đệ chúng ta hàng ngày cũng vậy. Nếu chưa biết thương mình, chưa thấy được lẽ thực thì công phu chưa tốt, chưa có kết quả xứng đáng. Muốn tốt phải xây dựng sự thấy biết của mình từ chỗ chân thật. Thấy là thấy được lẽ thật của vấn đề, một khi thấy được lẽ thật rồi, ta sẽ xoáy sâu tận đáy nguồn của nó để biết rõ mình nên làm gì. Nhiều người thường than rằng: “Thời gian trôi qua nhanh quá, e mình tu không kịp”. Tại sao họ nói như vậy? Có lẽ những vị này xoáy sâu, thấy được chút lẽ thật nào đó. Nếu thấy được bề dày của sinh tử, sự tăm tối, chỗ vướng mắc nhiều đời sâu nặng, nên muốn mài giũa, muốn phá tan nó. Tuy nhiên thời gian vô thường nên con người bỗng trở thấy mình bất lực, không còn kịp nữa rồi.

Bản thân tôi cảm nhận điều này rất rõ. Là trụ trì ở đây có trách nhiệm hướng dẫn chư Tăng, có khi lắng nghe, khi dạy dỗ, khi bám sát sinh hoạt của chư huynh đệ, tôi thấy thời gian qua quá nhanh, chưa kịp làm gì cả là đã hết ngày giờ rồi. Như sau khi thọ trai sáng, tôi định sẽ đến Thư viện nhắc nhở thầy Quản thủ Thư viện hướng dẫn chư huynh đệ đọc sách, nghiên cứu, ghi chép những tư liệu văn hóa lịch sử… Nhưng đi chưa tới Thư viện thì gặp các vị chức sự, thầy Phó tự, thầy Tri sự, các thầy Trưởng mấy ban ngành, anh em mời đến chỗ khác chỉ dạy công việc, mất hết một buổi sáng vẫn chưa xong. Các vị còn xin ngày mai tôi tiếp tục chỉ đạo để công việc tại đó hoàn tất. Thế là công việc ở Thư viện tạm gác qua.

Công việc nhỏ trong phạm vi một ngôi chùa mà đã như vậy, hà huống đời sống bên ngoài xã hội, các mối quan hệ, đối tác, đối tượng và công việc phải làm nhiều lắm. Sáng nay đi Sài Gòn giải quyết việc gì đó, chiều trở về Long Thành hướng dẫn công tác khác, rồi mai đi Tây Nguyên bàn về gỗ, ngày kia lên Bảo Lộc bàn về trà… đủ thứ việc. Như vậy sáng nay, sáng mai, rồi sáng của tháng sau, năm sau… cuối cùng kết thúc cũng chưa hết công việc. Cho nên người xưa nói dù sống thêm trăm năm nữa cũng giải quyết không rồi. Lời nói này có tác dụng gì? Để cảnh báo chúng ta. Nếu mình cứ dây dưa dể duôi, để ngày này qua ngày khác, cuối cùng sẽ không làm được gì. Thấy in tuồng như ta đã làm một số việc gì đó nhưng thực sự thì chưa. Bởi toàn làm những việc phụ, còn việc chánh lại bỏ lơ.

Ở đây tôi muốn nói chúng ta phải xây dựng cho mình cái thấy biết chân thật. Xây dựng cái thấy biết chân thật thì phải chuyển hóa từ con người, từ bản thân chúng ta. Bình thường mình đi thọ trai, tụng kinh, tọa thiền, học Phật pháp hay làm tất cả công việc thấy như trang nghiêm lắm, nhưng thực sự trong lòng ngổn ngang, cái này chồng lên cái kia. Cuối cùng thành ra một khối giống như vòng xoáy, Phật đặt cho nó cái tên là vọng tưởng điên đảo.

Người tu phải biết xây dựng cái thấy biết của mình bằng cách chuyển hóa. Thấy biết bằng trí tuệ, chứ không phải bằng giác quan, bằng kinh nghiệm học hành khoa bảng. Nên nhớ trí tuệ chỉ có từ công đức tu hành. Dùng trí tuệ này mới giải quyết sự việc nhanh chóng, dứt khoát, đúng đắn. Vì sao nhanh? Vì nó đi thẳng vô mình, không vòng vo quanh quẩn bên ngoài.

Trở lại đời sống của chúng ta, mấy mươi năm nhìn lại cũng chỉ là một thoáng mà thôi. Nhớ hôm nào tôi đến Thiền viện Thường Chiếu vừa tròn 30 tuổi, rồi sáng nay đếm lại đã thấy mình bước vào tuổi “cổ lai hi”. Trong khoảng thời gian đó tôi làm gì? Nếu nói tu tốt thì tôi đã thành Phật rồi, ngày xưa Phật đâu có tu lâu như vậy. Sáu năm khổ hạnh, 49 ngày đêm quyết liệt dưới cội Bồ-đề, cuối cùng thành tựu trí tuệ viên mãn, thành Phật. Tại sao mình tu ba bốn mươi năm mà chưa thành tựu gì hết? Cũng bởi tại những cái dây dưa cù cặn ngày này qua ngày khác, mình chưa buông xả được. Như tôi tính đi đến Thư viện gần điện Phật chứ có đâu xa mà đi hoài không tới, dính bên này mắc bên kia. Thời gian dài cứ loay hoay lẩn quẩn giải quyết chuyện tạp nham, cuối cùng chưa đi tới chỗ mình muốn đi.

Có bao giờ chúng ta khẳng định mình phải đi tới chỗ giác ngộ giải thoát chưa? Trong lúc hướng dẫn cho huynh đệ việc ngồi thiền, tôi nói nếu quyết tâm nghiêm chỉnh thì trong vòng sáu tháng quý vị sẽ ngồi thiền được hai tiếng đồng hồ. Có hôm bất ngờ tôi đang đi bên hàng dương, gặp mấy tân thiền sinh, họ đứng lại chào. Tôi hỏi:

– Mấy chú được tiến liêu, tu học bao lâu rồi?

Có người nói:

– Thưa Thầy, ba năm.

Người khác lại nói:

– Thưa Thầy, hai năm.

Người tu trễ nhất thì thưa:

– Thưa thầy, con tu được một năm rưỡi rồi.

Tôi nói:

– Vậy hả? Mấy huynh đệ đã ngồi thiền được một tiếng đồng hồ chưa?

– Dạ, chưa.

– Ủa, sao lạ vậy? Thường chỉ tập trong vòng sáu tháng là ngồi được một tiếng rưỡi đến hai tiếng, sao tới bây giờ ngồi chưa được một tiếng?

– Thưa Thầy, đau chân quá.

Mới tu chúng ta thường hay gặp những sự cố như vậy. Đau chân ngồi không yên nên chấp nhận kéo chân ra, vì thế thua cuộc. Hôm nay tới khoảng đó kéo chân ra chấp nhận thua cuộc, ngày mai chưa tới khoảng đó đã kéo chân ra, thua lại càng thua. Ngoài ra còn những sự cố khác như buồn ngủ, nhức đầu, đau bụng… rất nhiều lý do để chúng ta kéo chân ra. Đã như vậy thì tu chừng nào thành Phật? Đây là chỗ xây dựng công phu tu hành. Có nhiều vị đến thưa với tôi: “Thưa thầy, con đâu nghe Phật bắt mình ngồi thiền dữ vậy, Phật cũng không nói phải ngồi thiền mới thành Phật. Trong La Hán đường có 18 Tôn giả, Ngài thì đứng, Ngài thì ngồi xổm, Ngài cưỡi voi, Ngài ngồi trên lưng cọp … cớ sao Thầy lại bắt chúng con ngồi thiền?”. Những suy nghĩ đó đẩy đưa khiến chúng ta dã dượi, loay hoay lẩn quẩn trong vọng tưởng, cuối cùng không tới đâu hết.

Người tu phải thấy cái nào là thực, quyết tâm thực hiện hoàn chỉnh công việc đó. Trong đầu đã có ý thức như vậy nhất định chúng ta sẽ thâu ngắn, sẽ buông bỏ được tất cả dây mơ rễ má trong mọi sinh hoạt của mình. Thế nào gọi là người có trí tuệ? Hàng ngày chúng ta thường trì tụng Bát Nhã Tâm Kinh, trong đó viết: “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, nghĩa là “Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không”, rất ngắn gọn và dứt khoát. Chỉ hành thâm Bát-nhã thì chiếu kiến ngũ uẩn đến chỗ tột cùng là không. Nếu phải đem ra lý giải về chữ nghĩa thì cũng không có bao nhiêu từ.

Các vị tân thiền sinh đã tu học ở đây ba năm, cũng chiếu kiến ngũ uẩn mà không biết đã được “giai không” chưa? Những thiền sinh đã tu học khoảng 10 năm, 9 năm hoặc 6, 7 năm khi hỏi chiếu kiến ngũ uẩn giai không chưa, có vị trả lời vẫn chưa “giai không”. Một công phu như vậy thôi mà làm mãi chưa rồi. Tại sao? Bởi mình cứ dể duôi qua ngày, sáng Sài Gòn, chiều Vũng Tàu, bữa nay dự lễ khánh thành trên Đồng Nai, ngày mai dự lễ đặt đá dưới Cà Mau, ngày kia đi thuyết giảng ở Bến Tre, rồi cầu an cầu siêu… cứ như vậy hoài thì tới đâu!

Một hôm, Hòa thượng hỏi: “Dạo này mấy chú ở Tây đường tu hành có tiến bộ không?”, Ngài chỉ hỏi một câu như vậy nhưng lay động tất cả anh em. Mọi người tự quán chiếu lại mình, soát xét việc tu học trong thời gian qua. Tiến bộ hay không, ai bị mắc mứu gì thì trình lên. Trong quá trình tu học, vị nào còn đắm trước, cố chấp, kiến thủ mà chưa có dịp trình bày thì hôm nay sẽ được nghe sự chỉ dạy của những bậc thầy có trách nhiệm. Anh em dường như mở sáng một chân trời, nhiều người nhận hiểu thân thiết, ngắn gọn. Tuy nói vậy nhưng phải rất cẩn thận bởi đây không phải là chuyện đơn giản đâu.

Những thời pháp thầy trò được gần gũi trao đổi như vậy rất hữu ích và thiết thực. Nếu chúng ta quyết tâm hành trì, nhất định hành thâm được Bát-nhã và chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Tôi không có ý phủ nhận công phu hành trì Phật pháp hàng ngày của chư huynh đệ, của tất cả quý Phật tử nhưng rõ ràng chúng ta phải hành trì như thế nào, sống và tu tập như thế nào để vượt ngoài những chấp thủ, ái kiến, những thứ làm chúng ta lún sâu vào hệ lụy, không thoát ra được. Nếu chúng ta sống được như vậy là đã mở sáng trí tuệ của mình.

Khi còn là thiền sinh tu học trên núi, chúng tôi thường nghe Hòa thượng dạy: “Thân này không thiệt, cảnh không thiệt, tất cả đều không thiệt, luôn cả cái tâm mà các chú cho là tâm của tôi cũng không thiệt”. Nghe nói như vậy mình chới với, không biết cái gì thiệt và phải hành trì như thế nào để sống được chỗ chân thật. Cuối cùng mới biết phải có công phu, phải tu hành chân thật chúng ta mới có thể tới được chỗ đó. Muốn vào được chỗ chân thật thì tất cả hệ lụy, hiện tượng xung quanh, chúng ta thảy nó ra, buông cho được. Hòa thượng dùng một chữ buông, chúng ta không chịu buông cứ chấp nhận, đó là mắc mứu, cố thủ, tăm tối ràng buộc nhiều đời kiếp của mình. Tóm lại muốn buông được phải đầy đủ trí tuệ. Muốn đầy đủ trí tuệ nhất định phải tu chứ không có cách nào khác.

Kế đến chúng ta bàn về ý thức chủ quan. Đôi khi tôi băn khoăn tự hỏi không biết mình có rơi vào chủ quan không? Những gì mình nói chư Tôn đức Tăng Ni, quý Phật tử có đồng cảm không? Thật sự nếu chúng ta chủ quan quá sẽ dễ dẫn đến tham vọng. Giả sử tôi đưa ra một ý kiến, bảo các huynh đệ phải làm theo, không như vậy không được. Tôi cho rằng quyết định thế là đúng mà không ngờ đó là những cố chấp chủ quan của mình. Đưa ra một điều và bảo vệ nó bằng hào quang cá nhân khiến người khác không đỡ được. Cái chủ quan này sẽ dẫn người ta rơi vào tham vọng, những mộng mơ tham cầu quá đáng.

Từ chỗ chấp thủ, xem mình là đúng là hay nên rơi vào bệnh tham vọng, có những mong cầu quá đáng không thích hợp, đánh mất công phu tu hành mà không hay. Như hàng ngày mình đọc sách khoảng một trăm trang, ngồi thiền được một tiếng rưỡi, rồi tự cho tất cả kinh sách đều nằm hết trong bụng mình, ngồi thiền được tiếng rưỡi không ai bằng. Từ cái thấy như vậy rơi vào cố chấp, cứ loay hoay lẩn quẩn không thoát ra được, giống như bị nhốt trong một chiếc lồng không có cửa. Bây giờ muốn mở được cửa phải làm sao? Chư huynh đệ nên nhớ chúng ta có mặt giữa cuộc đời này là từ cha mẹ sanh, từ phúc duyên của mỗi người. Nhưng không nên quá quan trọng thân này bởi còn những thứ đáng trân quý hơn.

Nhìn lại mình đã sáu, bảy mươi tuổi rồi nhưng mở ra một hướng cho cuộc đời tu hành, làm lợi ích nhân sinh thì ta chưa mở được. Bởi chưa mở được nên còn phiền não, còn thấy thế này thế khác. Từ việc cố chấp như vậy nên hình thành tham vọng để cuối cùng không có lối thoát ra. Tu hành trước nhất để bù đắp ân nghĩa hai đấng sanh thành, kế đến là đền ân mọi người xung quanh đã giúp đỡ hộ trì cho mình. Cho nên người tu không thể nuôi lớn tham vọng mà là dẹp bỏ tham vọng. Thấy rõ như vậy chúng ta cần cố gắng tu thật nhiều. Ý thức như vậy thì việc làm mới có ý nghĩa và xứng đáng với tâm nguyện của người tu Phật. Nhị Tổ Pháp Loa trước khi thị tịch có làm bài kệ:

Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn,
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian.
Trân trọng chư nhơn hưu tá vấn,
Na biên phong nguyệt cánh man khoan.

Dịch:

Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn,
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng.
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi,
Bên kia trăng gió rộng thênh thang.

Viết kệ xong, Ngài an nhiên thị tịch. Ngài đã thảnh thơi cắt đứt được muôn duyên, cuộc đời hơn bốn mươi năm qua đối với Ngài chỉ là một giấc mộng dài. Tổ nhắn nhủ mọi người đừng hỏi thêm chi nữa bởi bên kia là cả một bầu trời cao rộng với gió mát trăng thanh, có gì đâu vướng bận, âu lo. Sự ra đi của Ngài thật nhẹ nhàng thảnh thơi. Trong nhà thiền có nhiều vị cũng tự tại đối với sanh tử như thế, thấy hết duyên rồi các Ngài vui vẻ nói: “Bảy mươi năm qua, những việc phải làm, đáng làm, tôi đã làm xong. Bây giờ tới lúc vui vẻ cởi bỏ chiếc áo nhơ nhớp nóng bức này, tự tại ra đi”. Chúng ta nghe dễ dàng như vậy nhưng không mấy người làm được.

Chúng ta trước lúc ra đi, cận tử nghiệp bu tới hù dọa, tấn công tứ phía. Từ những thói quen, nghiệp tập quá khứ do tham lam, giận dữ, si mê điên đảo nên ta không làm chủ được mình, vì thế bị đẩy vào chỗ bất an bất ổn. Trong đời sống hiện tại, muốn gầy dựng cho mình cuộc sống bình yên, phải nhận định chín chắn mọi vấn đề, xa lìa những tham vọng mới tự do tự tại ra đi. Điều quan trọng đối với người tu thiền là phải thực hiện được quyền tự do tự tại. Không mong cầu chứng đắc gì cả, chỉ tự tại làm chủ, đủ duyên đến đi một cách thảnh thơi.

Trong đời tu, chúng ta phải luôn hành trì bởi bất cứ lúc nào tai họa cũng có thể xảy đến. Người chưa làm chủ được e rằng sẽ bị dẫn vào chỗ tăm tối, bị nghiệp lôi. Nghiệp là năng lực trong sinh hoạt, trong đời sống hàng ngày của mỗi người. Chúng ta là đệ tử Phật mà chưa chuyên sâu vào công phu, chưa sống được với lời dạy của Phật Tổ, còn bị trôi lăn vướng mắc bởi các pháp thế gian thì lúc cận tử nghiệp đến khó biết mình sẽ đi đâu. Trong kinh nói nếu bình thường người tạo ác nghiệp thì vừa nhắm mắt, bao nhiêu cảnh hãi hùng, thú dữ, sấm sét sẽ hiện tới. Hãi hùng như vậy nên tìm cách chạy trốn. Chạy đi đâu? Loay hoay lẩn quẩn sợ đến mức thấy lùm bụi liền nhảy vào để tránh. Khi mở mắt ra đã thấy mình mang lông đội sừng. Việc sanh tử nhanh như thế, nếu chúng ta không chuẩn bị, cứ lơ đễnh để ngày qua ngày thì khi sự cố đến chúng ta làm sao đây?

Vô thường nhanh chóng, cái chết sẽ cướp mất mạng sống con người trong chớp nhoáng. Chỉ cần lơ đễnh là mất thân này, mất công đức từng tu tập thì tìm lại không dễ chút nào. Nghiệm lại chỉ trong giây lát thôi, tâm điên cuồng đã dẫn mình đi vào đường tối. Vừa mới lễ Phật tụng kinh xong, ra ngoài đụng chuyện liền nổi trận lôi đình, ma quân quỷ quái hiện đầy trời đất. Mê thì nhiều còn tỉnh giác lại quá ít. Biết như vậy rồi còn chưa chịu gầy dựng cho mình một sự sáng suốt thì đợi đến bao giờ? Biết nghĩ, biết lo như vậy thì ngay trong hiện tại, từng bước tập thực hành Bát-nhã, từng bước tập chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Theo tiến trình đó mà thành tựu từng phần từng giai đoạn, nhất định sẽ đi đến giải thoát viên mãn, ra khỏi trầm luân sanh tử.

Chúng ta còn mê mờ quá nên thả lỏng ra thì dễ chạy theo cảnh duyên, vì thế cần phải luôn buộc mình, nhắc mình nghiêm túc, chánh niệm trong từng phút giây công phu. Đó là một cách dạy cho chúng ta đừng quên và luôn luôn thấy sự đổi thay vô thường nhanh thần tốc. Từ xưa tới giờ, chưa có vị tu hành nào dám xem thường sinh tử như chúng ta. Rõ ràng là chúng sanh quá xem thường sinh tử, bỏ ngày này qua ngày khác để xem truyền hình, coi cải lương… chạy theo ngũ dục. Nếu chúng ta biết sợ vô thường nhanh chóng, sợ sanh tử nhận chìm mình trong thống khổ thì đâu dám lơ đễnh, sẽ gác qua mọi chuyện, tập trung chiếu kiến ngũ uẩn giai không thì qua hết tất cả khổ ách.

Từ chủ quan đưa đến tham vọng, từ tham vọng phát sanh tư dục. Tư kiến, tư dục là những thứ phát sinh từ tham vọng, ban đầu ít dần dần sẽ dày hơn, nhiều hơn. Bởi nhiều hơn nên năm trước mới tu thấy nhẹ lắm, không biết sao tu được hai năm lại thấy nặng đầu. Bằng chứng tôi kể thật lòng cho quý vị nghe. Lúc mới về đây tôi khoảng ba mươi tuổi, anh em đi đẩy phân bò, ở trần cuốc đất, làm tất cả các công việc. Có người gặp kêu mấy thằng ở Thường Chiếu, tôi tỉnh bơ. Nhưng nếu bây giờ ai gặp tôi mà kêu thằng thì sao? Khó nói đa. Như vậy cả ba bốn mươi năm tu hành chẳng lẽ trôi hết sao. Nên biết tư kiến, tư dục, chấp thủ của mình càng lớn sẽ càng dẫn chúng ta đi tới chỗ tối tăm mê mờ, không có lối thoát. Vì vậy tất cả huynh đệ cố gắng làm sao để tư kiến, tư dục của mình giảm thiểu, tới mức mình có thể thảy nó ra hoàn toàn.

Nói thảy là một cách nói để đơn giản hóa pháp tu, chứ buông bỏ tư kiến, tư dục… không dễ dàng chút nào đâu. Như quý vị vừa mới xả thiền ra, có ai tới thăm, liền la lên:

– Trời ơi, sáng giờ tu muốn chết luôn.

Hỏi:

– Tu làm sao?

– Bỏ những tư kiến, tư dục.

– Bỏ được chưa?

– Chưa.

Từ tư kiến, tư dục, tham vọng sẽ dẫn đến sai lầm trong cuộc sống. Đối với những đam mê nhỏ nhỏ không đến đỗi gì, chúng ta chỉ mất công tốn của chút ít còn chưa bỏ được. Huống là sai lầm về pháp tu, về tâm nguyện là những sai lầm lớn, khó có thể bỏ được. Nhà Phật gọi sai lầm đó là Kiến Tư Nghiệp. Kiến tư tức là thấy như vậy, biết như vậy nhưng phải vận dụng suy nghĩ, tu tập hành trì Phật pháp mới hoán chuyển được. Đồng thời cũng phải có thời gian tương xứng để giải trừ những cố chấp, tham vọng. Tham vọng thì quá nhiều nên mỗi người có cách trị khác nhau. Tuy có hướng hành trì nhưng thực sự vào được chỗ ngũ uẩn giai không thì chưa.

Thí dụ ở xóm đó, đêm nào khoảng 10 giờ cũng nghe tiếng mõ tụng bài Kệ Khai Kinh rồi niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của một bà cụ. Mấy đứa nhỏ chơi xung quanh nghe vậy nói: “Bà chùa này sao bữa nào cũng nghe hù hù, khai kinh kệ”. Bà cụ nghe được không vui nên đang tụng kinh mà vẫn nói: “Mấy đứa nhóc kia, bà tụng kinh xong thì tụi bây biết”. Dù chưa giáp mặt với lũ trẻ, chỉ nghe lời nói thôi mà đã điên đảo, nghiệp tập sâu dày khó gỡ. Vì vậy phải tu và tu nhiều đời kiếp mới gỡ được. Tuy tu đúng chánh pháp, niệm Phật cầu Phật rước, cầu được giác ngộ nhưng từ tham vọng, cố chấp biến thành độc hại. Điều này đòi hỏi trong nhiều đời kiếp chúng ta tu hành mới giải trừ nổi. Loại tập nghiệp này quả thật làm cho người ham tu dễ bị lầm lẫn, rất nguy hiểm.

Trong đây có nhiều vị tầm tuổi 70 như tôi, nhiều vị tầm tuổi 80, ngoài 80. Có thể nói huynh đệ chúng ta ai nấy cũng đầy dẫy những tư nghiệp tư kiến, tham vọng. Như vậy đòi hỏi chúng ta phải có công phu hành trì như thế nào để có thể thâm nhập Bát-nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Phải hành trì đúng chánh pháp mới có thể giải trừ các nghiệp tập. Những nghiệp tập đó chẳng qua cũng từ những thứ vu vơ bên ngoài, đâu có thật.

Nhớ lời dạy của Hòa thượng Trúc Lâm mới thấy mình tức cười. Ngài dạy không có gì thật hết, đã không có gì thật thì mấy đứa nhỏ ngoài kia nói gì cũng không thiệt, tại sao đang tu lại nổi đóa với nó? Nếu bà cụ thấy không thiệt thì đâu có chuyện hẹn lát nữa niệm Phật xong sẽ tính sổ tụi nhỏ. Cứ phớt tỉnh như thường, niệm Phật thanh tịnh thì Phật rước, ngồi thiền thực sự vào thiền thì được định, đầy đủ trí tuệ an nhiên tự tại, nơi nào có Phật, nơi nào đủ duyên thì mình đến. Thể nghiệm trong đời sống hàng ngày, chúng ta phải cố gắng nhiều, khuyên nhau cố gắng tu, chứ không nguyện sống lâu, nguyện được giàu sang sung sướng, vạn sự kiết tường như ý. Chúng ta nhắc nhở nhau, mỗi người phải tự khắc tỉnh, hành trì cho xứng đáng. Đầu năm hay cuối năm, trong tất cả mọi lúc mình luôn tỉnh sáng, luôn cố gắng. Dù bầu trời có tăm tối cỡ nào, mình cũng tỉnh sáng, như vậy công phu mới có kết quả tốt.

Kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi mong mỏi chư huynh đệ chúng ta, ai nấy cũng đều hành thâm Bát-nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Nguyện cầu cho hết thảy chúng sanh được hạnh phúc, đầy đủ nhân duyên để có hạnh phúc. Nguyện thứ hai tôi nguyện cầu cho hết thảy chúng sanh thoát khỏi khổ não và những nguyên nhân đưa đến khổ não. Lời nguyện này tôi học theo tâm từ của Hòa thượng Trúc Lâm, Ngài dạy chúng ta phải biết thương mình. Biết thương mình là nguyện mình thoát được khổ não và thoát luôn những nguyên nhân đưa đến khổ não. Nguyện thứ ba tôi nguyện cầu cho hết thảy chúng sanh luôn sống trong yên vui, không khổ đau. Đây là từ tâm hoan hỉ, tùy hỷ của chúng ta, mong muốn cho tất cả chúng sanh trong đó có cả mình luôn được an vui hạnh phúc. Cuối cùng tôi nguyện cho hết thảy chúng sanh xa lìa tất cả chấp trước, giác quán, an trú trong tịch tịnh. Chúng ta buông được, nhập thiền định để phát huy trí tuệ Bát-nhã và giác ngộ giải thoát hiện tiền.

Có thiền định thì trí tuệ mới phát huy. Có trí tuệ rồi thì an vui, giải thoát, thanh tịnh, đạo lý hiện tiền. Người tu thiền mà chưa được định thì không thể phát sinh trí tuệ. Bởi chưa được định nên cứ vớ vẩn, lao chao chuyện này chuyện khác hết năm hết tháng. Do vậy chư huynh đệ phải cố gắng tu, có bao nhiêu công đức chúng ta hồi hướng chúc nguyện, trước nhất là ngôi Tam Bảo còn mãi trên đời, thứ hai nguyện Hòa thượng Ân sư sớm hồi phục sức khoẻ, trí tuệ viên mãn để Ngài sống lâu với chúng ta, nương uy đức của Hòa thượng, Tăng Ni và Phật tử nỗ lực tinh tấn trên bước đường tu hành, thứ ba nguyện pháp giới chúng sanh đều mở sáng đôi mắt trí tuệ để ra khỏi bóng tối vô minh, không còn lầm lũi trong đêm dài sanh tử nữa.

Nhận Lại Và Sống

Trong đời tu của chúng ta, mỗi người đều có những đoạn nhân duyên. Tôi xuất gia năm 7 tuổi, sống tại vùng quê nghèo thiếu và phải chịu nỗi khổ chung của chiến tranh. Chùa bên nội ở gần xã Gia Tân, chùa bên ngoại thuộc xã Gia Lộc, cả hai xã đều nằm trong huyện Trảng Bàng. Thuở nhỏ có biết gì đâu nhưng sống trong thời chiến tranh mình cũng sợ cũng khổ. Tuy nhiên nỗi lo sợ ấy không tồn tại lâu trong tâm hồn bé thơ, chỉ trong vòng một ngày nửa ngày thì tôi sống hồn nhiên trở lại.

Nhờ hồn nhiên mà con người sống an vui, quên hết mọi ưu tư lo lắng. Tuổi thơ quý nhất ở tính hồn nhiên này. Thật ra hồn nhiên là một nguồn sống không chỉ dành riêng cho trẻ con, tất cả chúng ta đều có. Tuổi già có cái hồn nhiên của tuổi già, tuổi trẻ có hồn nhiên của tuổi trẻ. Tuy nhiên chúng ta đã bỏ quên nó rồi, chỉ sống với những hình ảnh hiện tại từ bên ngoài dồn dập đưa đến. Cái giả phủ lên cái thật, bây giờ muốn nhận lại cái thật không dễ dàng chút nào.

Trong công phu tu hành, người hồn nhiên sẽ dễ tu hơn những vị thường hay tư lự. Tư lự nhiều là vọng tưởng nhiều, vọng tưởng nhiều làm sao an ổn được. Cho nên phải trị vọng tưởng mới có thể giữ vững tâm Bồ-đề, áp dụng pháp môn tu hành thành tựu tốt đẹp. Bây giờ con người khôn quá, biết nhiều quá, cảm giác bén nhạy quá nên không sử dụng được cái nguyên thủy căn bản ban đầu. Vì vậy trong nhà thiền rất thường nhắc đến hạnh anh nhi để nói lên ý này. Chúng ta tu cũng nên chậm lại một chút, ít biết một chút để trưởng dưỡng tâm Bồ-đề. Chậm và ít biết là đối với các pháp thế gian không để tâm vướng mắc, không chạy theo phân biệt, chớ không phải chậm là khù khờ mờ tối kém trí tuệ.

Khoảng năm 1959 – 1960, tôi 16 tuổi và ở trên núi Long Hải với sáu bảy anh em. Chúng tôi sống rất vui, chẳng biết sợ gì. Vui nhất là những ngày được quý thầy dẫn đi tìm bí kỳ nam, những ngày Phật tử từ đạo tràng Vạn Đức lên thăm. Chúng tôi rủ nhau leo núi lên thất Thầy chơi, sống rất hồn nhiên. Khi càng lớn lên, càng va chạm việc này việc khác, chúng ta đánh mất đi sự hồn nhiên trong trẻo của tuổi thơ, thật uổng quá. Bây giờ nhớ lại cũng chỉ là hồi tưởng mà thôi, chứ không sao nhận lại và sống được thời ấy.

Trở lại với tánh chân thật của chúng ta cũng thế. Từ lâu rồi mình bỏ quên, bây giờ nhận lại và sống rất khó. Hòa thượng chỉ dạy trên bước đường tu học phải nhận và sống được với tánh Phật của mình, như vậy mới có niềm vui, niềm tin đối với chánh pháp, tu tiến đến viên mãn. Danh từ “tánh giác” chúng ta học đã thuộc, viết bằng chữ Việt cũng được mà viết bằng chữ Hán cũng hay, có người còn viết cả chữ Anh chữ Pháp nữa kìa. Nhưng thực sự nhận ra sống được với nó đôi khi hoàn toàn mù tịt. Chỗ này thật đáng tiếc.

Nếu như chúng ta không bỏ quên tánh giác thì khỏi phải nói chuyện tu. Mỗi người đều có sẵn tánh giác, không ai thiếu, nhưng mình đã bỏ quên nó ở đâu cũng không biết. Chúng ta chỉ sống với những thứ lượm lặt chung quanh. Lượm lặt từ những năm học lớp sáu, lớp bảy, lớp tám, lớp chín dài dài cho tới ba bốn mươi tuổi, có cụ sáu bảy mươi tuổi, vẫn còn lượm lặt toàn những thứ ngoài hàng rào, không phải của báu trong nhà. Tuy nhiên như vậy đó mà chúng ta vẫn cứ sống, vẫn chạy theo, vẫn ôm giữ không bỏ xuống được. Chẳng những thế mình còn cho nó là thiệt nữa. Như vậy làm sao sống được với tánh giác của mình? Suy nghiệm lại cuối cùng thấy uổng thiệt!

Nói chuyện với quý vị thế này cũng là tơ tưởng về một thời kỳ vàng son. Thời bé thơ, thời chưa biết sợ gì, chưa cảm nhận thật sự những nỗi khổ lớn của cuộc đời. Không vọng động chạy theo những thứ bên ngoài hàng rào. Hồi tưởng lại thấy tiếc uổng nhưng cũng không làm gì được, chỉ càng mất thì giờ thêm mà thôi. Phật nói tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, chất Phật nơi chúng ta không mất, nhưng tại sao ta chưa thành Phật? Chúng ta không biết, nếu có biết thì cũng biết léng phéng. Tại vì chúng ta mê muội tăm tối, chạy theo ôm giữ những thứ bên ngoài, chỉ vậy thôi. Khi đã quên bẵng chất Phật nơi mình, cuối cùng chúng ta cam nhận đời sống của kẻ cùng tử lang thang. Cha mẹ sanh ra, có thân, mang tên tuổi như vậy, ở quê hương như vậy. Từ đó ta ôm giữ quê hương, ôm giữ sự sống, ôm giữ cha mẹ… cứ nhắm mắt lại mà ôm giữ, cuối cùng mất tất cả.

Những gì đã có, lẽ ra chúng ta trân quý nó nhưng lại bỏ quên. Bây giờ hè hụi tìm lại bằng cách này cách khác, như xuất gia học đạo, tu hành… Tu thì phải vui hòa, không cố chấp, biết kính nhường hỗ trợ nhau, ngồi thiền, tụng kinh, học Phật pháp. Tất cả những hành pháp này gọi là tu. Thầy Tổ cũng khuyên “ráng tu sẽ được thành Phật”. Nhưng bây giờ ráng như thế nào? Chỉ một ý tưởng này đủ làm cho chúng ta khắc khoải nhiều năm không giải quyết được.

Có huynh đệ xuất gia năm năm, ba năm, đùng một cái trở về, bỏ thành quả đã gầy dựng từ trước. Trở lại đời sống thế tục thì phải đi kiếm việc làm. Có kiến thức một chút thì làm những việc nhẹ nhàng, không có kiến thức thì đi cuốc đi cày, làm thuê làm mướn để có cơm gạo mà sống. Thật vô lý! Ngày trước bước vào đạo một cách mạnh dạn, rồi bây giờ quanh trở lại như vậy. Có vị kể lại cởi chiếc áo đạo, ôm chiếc áo đời mà… khóc. Khóc gì đây? Người ta nấu thức ăn ngoài đời, ăn không được khóc. Người ta nói những câu khó nghe, nghe không được khóc, người ta làm những việc khó coi, coi không được khóc. Khóc thì cứ khóc mà nghiệp tập thì cứ gây tạo.

Như có vị tịnh nhân cư sĩ muốn tu từ hồi học lớp tám, nhưng năm nay gần bảy mươi tuổi rồi vẫn chưa tu được. Học xong có gia đình, đi làm ăn rồi sinh con đẻ cái, hết đời này tới đời khác. Bây giờ ở tuổi cổ lai hi mà vẫn chưa dừng, về chùa một chút là “còn việc nhiều quá chưa làm”, lại phải quanh về. Tu như vậy, hiểu đạo như vậy, hành đạo như vậy chừng nào thành Phật? Cho nên Phật nói mình là Phật sẽ thành nhưng mà không biết chừng nào. Có ai đo định được chữ “sẽ” kéo dài tới đâu không? Đây cũng lại là việc mơ hồ thôi.

Tôi có cảm nhận nếu chúng ta tiếp tục nuôi dưỡng cái hồn nhiên thời bé thơ bằng tâm hồn trong trắng thì việc thành Phật chắc là không khó. Chư huynh đệ phát khởi tâm nguyện xuất gia tu hành, học hỏi giáo lý là để sống trở lại với ông Phật của chính mình. Bây giờ chúng ta phải hành trì như thế nào? Hòa thượng Trúc Lâm dạy phải sống được với tánh giác. Quả thật tánh giác sẵn có, nhưng tại sao biểu mình phải sống với nó? Bởi vì từ lâu chúng ta không sống được với nó mà cứ lượm lặt những rác rưởi bên ngoài cho là của quý trong nhà. Đây là lầm mê của chúng sanh. Nhận được như vậy mình sẽ nhanh chóng quay trở về, công phu tu hành sẽ không khó khăn, việc thành tựu Phật đạo cũng không khó khăn.

Câu chuyện của Ngài Nham Đầu và Ngài Tuyết Phong nói rất rõ về việc này. Hai vị trở về đất Mân, gặp lúc trở tuyết, ngoài đường đi không được. Do vậy hai Ngài tạm nghỉ trong một cái miếu. Ngài Tuyết Phong thường ngồi thiền, còn Ngài Nham Đầu lại cứ nằm. Không biết ngủ hay không mà cứ thấy nằm. Ngài Tuyết Phong ngồi thiền xong xả ra, nhìn qua sư huynh thấy nằm hoài chịu không nổi, nên nhắc:

– Sư huynh, sư huynh, dậy! Tại sao những người đi hành cước với mình đã thành tựu hết rồi, bây giờ hai huynh đệ ở đây gặp trời trở tuyết đi không được, mà sư huynh cứ ăn xong rồi nằm dài, chừng nào mới xong?

Ngài Nham Đầu ngồi dậy nạt cho sư đệ một tiếng:

– Ông nói cái gì? Mỗi ngày cứ ngồi sững, nếu trong lòng có chỗ chưa xong thì nói ra đi, tôi chỉ cho.

Bấy giờ Ngài Tuyết Phong mới nói:

– Khi xưa tôi mới đến chỗ Thiền sư Diêm Quan thấy Ngài thượng đường nói về nghĩa sắc không, ngay nơi đó tôi liền được vào cửa.

Ngài Nham Đầu bảo :

– Từ đây đến 30 năm sau rất kỵ không được nói đến.

Ngài Tuyết Phong kể tiếp:

– Tôi thấy bài kệ của Ngài Động Sơn khi qua cầu ngộ đạo (Ngài Động Sơn qua cầu, nhìn dưới dòng suối thấy bóng của mình, ngay đó ngộ đạo) liền làm bài kệ:

Thiết kỵ tùng tha mích,
Điều điều dữ ngã sơ,
Cừ kim chánh thị ngã,
Ngã kim bất thị cừ.

Ngài Nham Đầu lại bảo rằng:

– Nếu chừng ấy tự cứu cũng chưa xong.

Ngài Tuyết Phong kể thêm:

– Một hôm tôi hỏi Ngài Đức Sơn việc tông thừa từ trước con có phần chăng, Đức Sơn đánh một gậy hỏi, nói cái gì? Tôi khi ấy như thùng lủng đáy.

Ngài Nham Đầu nạt:

– Ông chẳng nghe nói từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà.

Từ đó về sau Ngài Tuyết Phong mới nhận được yếu chỉ và đảnh lễ sư huynh. Ngài nói luôn hôm nay tôi mới thực sự ngộ đạo ở đây.

Câu chuyện của hai thiền sư cho chúng ta nhận được điều gì? Điều cần thiết nhất là chúng ta không nên chấp vào các hình thức công phu bên ngoài, mà phải căn cứ trong tâm. Của quý phải là của mình chứ không thể của người khác được. Cũng thế, sự bừng ngộ phải lưu xuất từ trong tâm của mỗi hành giả, chứ không do kiến thức học tập từ cổ nhân hay thiện hữu tri thức bên ngoài. Thiền sư không chấp nhận hình thức có vẻ như là ráng chịu, không tự nhiên, không bình thường.

Chư huynh đệ chúng ta có lỗi này không? Như các tịnh nhân đang công quả tập sự tại nhà khách, quý vị thấy đời sống của chư Tăng, tới giờ ăn, giờ nghỉ, giờ tu tụng, giờ tọa thiền… như vậy, dường như lo lắng trong lòng sợ theo không nổi. Do đó tới giờ ăn cố gắng đi, nhưng không vui. Giờ tụng kinh, tọa thiền v.v… cũng vậy, luôn có cảm nhận đau nhức, khí trời nóng bức khó chịu. Chung quanh thì muỗi mòng, thầy Giám thiền cũng giống mục đồng, còn mình là những con trâu. Nhìn thấy mà buồn. Ở ngoài đi làm, quý vị sống như mọi người đâu đến đỗi, vô Thiền viện phải như vậy. Tuy tự nhắc nhở cố gắng, cố gắng nhưng vẫn không thoát, không vượt được những tâm niệm thường tình. Do sống bằng những tâm niệm như vậy nên hôm nào bực bội là xách gói đi. Hồi tới rất là hoan hỉ, nhưng ở năm ba ngày thì bực bội, đi. Vì cảm nhận đời sống hiện tại không có gì lý thú, cứ sống bằng những thứ mình phải cố gắng.

Một khi chúng ta đánh mất sự hồn nhiên là đánh mất sức sống chân thật của chính mình. Đi ăn cơm cũng đánh mất sự hồn nhiên, làm việc cũng đánh mất sự hồn nhiên, cho đến toạ thiền cũng không hồn nhiên. Tôi thích các tiểu La Vân nhất ở chỗ các chú luôn hồn nhiên. Trời mưa trời gió gì, đi là đi vui là vui. Ăn cơm, quý thầy hướng dẫn lên quả đường, ăn nhiều cũng ăn, ăn ít cũng ăn, lúc nào cũng vui cười bình thường, không bao giờ hỏi tại sao phải ăn thế này hay thế khác. Có thể lấy đời sống hồn nhiên của các chú làm tấm gương cho mình, là bài học cho chúng ta sống trở lại với tuổi thơ chân thật. Bởi chúng ta khôn ngoan nhiều quá, vận dụng nắm giữ, ôm đồm những thứ bên ngoài nên đánh mất sự hồn nhiên.

Những khi trời mưa nhìn thấy một đoàn các tiểu thọ trai về, đi tự nhiên không dù không nón gì hết, rất bình thường, có khi còn vui hơn bình thường nữa. Đó là gì? Sự hồn nhiên. Các vị tuy còn nhỏ tuổi, kiến thức chưa đầy đủ, nhưng gầy dựng được một sức sống từ sự hồn nhiên của mình. Sự gầy dựng này có chất lượng lắm và nó sẽ in sâu vào tàng thức của các chú. Bây giờ chúng ta chưa thấy gì, nhưng mai này nó trở thành vốn sống quý giá, từ đó giúp ta có thể quay về với chính mình. Ở đây chúng tôi nuôi dạy các chú tiểu, không hy vọng tương lai các chú trở thành tiến sĩ, bác học chi chi. Chỉ mong các tiểu học xong phổ thông sẽ trở thành những người hiền lương, sống có ích cho đạo cho đời. Nhờ vậy mỗi ngày mình vẫn cứ vui, cứ lo cơm lo thuốc, lo tất cả những gì cần thiết cho các tiểu để ngày nào còn sống hồn nhiên trong Tam Bảo là quý ngày đó. Hy vọng nét hồn nhiên này sẽ là dấu ấn tồn đọng trong lòng các chú. Mai kia mốt nọ dù có đi đâu làm gì, sự trong sáng ấy sẽ giúp các chú thành tựu được sự nghiệp.

Tâm trong sáng chưa in ấn điều gì rất cần, có thể nói nó là lợi khí để chúng ta gầy dựng phát huy việc tu tập cho mình tốt hơn. Sở dĩ con người khổ là vì in ấn nhiều thứ quá, camera của họ thông minh lạ thường, thứ gì cũng thâu vô hết. Do vậy thiên hạ bị đau đầu kinh niên, khổ sở vì những thứ ấy mà không tự thoát ra được. Phật nói chúng sanh khổ vì vọng tưởng, chết vì vọng tưởng, luân hồi sinh tử vì vọng tưởng, chớ không phải vì các cảnh duyên bên ngoài.

Nghiệm kỹ lời Phật dạy thật chính xác. Chúng ta hôm nay khổ cũng vì vọng tưởng, chứ không gì khác. Vọng tưởng làm cho con người điêu đứng, khổ sở, nó làm cho thiên hạ rối như tơ, không biết manh mối đâu mà gỡ. Cứ như vậy chúng ta loay hoay trong mờ mịt tăm tối. Bởi mờ mịt tăm tối nên dễ dàng chấp nhận cuộc sống tạm, chạy theo cái giả, bỏ qua cái thật hồn nhiên, trong sáng của tánh giác. Muốn gầy dựng lại thật là cay đắng.

Tôi tu năm 7 tuổi mà cho tới năm 12 tuổi, chưa được một bộ đồ có cái quần dài. Những bộ đồ mặc tôi mặc thường do mấy cô may lại từ đồ tang đi đám về. Họ lấy mực nhuộm đen, nhuộm xanh, nhuộm dương. Thuở ấy tôi hồn nhiên lắm, cần mặc áo tràng thì lấy áo tràng mặc, không hề chọn lựa áo này đẹp áo kia xấu. Tôi nhớ lại mấy năm đó cơm gạo khó khăn, sau khi công phu khuya xong, mấy huynh đệ nhỏ tập trung trước bàn Hộ pháp, Hòa thượng dạy “tụi con phải tụng cho hay, tụng thuộc không được sai, tụng siêng năng thì Phật tử sẽ cúng gạo cho mà ăn. Mấy tiểu tụng thành khẩn thì long thiên hộ pháp nghe được, mới cảm động đến các vị hộ pháp, hộ giáo, hộ giới đến ủng hộ mình”. Tôi không biết chuyện này có thiệt hay không, nhưng huynh đệ cứ tin như vậy và bữa nào cũng tụng chú Thiện thiên nữ. Đó là một trong Thập chú. Anh em vui vẻ tụng, mặc dù mặc quần đùi vẫn cứ tụng, có áo dài phủ xuống rồi ai dám cười chứ! Tụng không biết bao nhiêu lần, chừng nào vị lớn đánh chuông là biết xong, được nghỉ. Chúng tôi không hề than mệt cũng không có ý kiến chi.

Quả thực tuy hoàn cảnh lúc ấy khó khăn, chiến tranh ác liệt. Người ta chết trước mắt mình không biết bao nhiêu mà nói, nhưng trong chùa cơm gạo không thiếu. Suốt thời gian mấy năm ở chùa Từ Lâm, tuy còn nhỏ nhưng tôi cảm thấy sự linh nghiệm rõ ràng. Chẳng những nhà chùa không đói mà còn có thể chia sẻ với những người dân chung quanh quá nghèo thiếu, không có cháo để ăn. Có khi mình cho một tô cơm nguội họ ngồi ăn với muối ngon lành.

Hoàn cảnh như vậy mà chùa ta không thiếu cơm. Buổi sáng khoảng chừng chín giờ, cơm nấu xong để vô thố, cúng Phật cúng quả đường, tụng kinh xong dọn lên ăn. Ăn rồi Hòa thượng bảo lấy khoai mì khoai lang rửa sạch nấu một nồi để trên bếp đó, chừng nào muốn ăn lấy ra ăn. Nhiều khi bà con Phật tử chung quanh đến Hòa thượng đem ra cho họ ăn. Sống giản dị như vậy. Khi nào thấy hơi yếu kém Hòa thượng nhắc phải tụng chú gia tăng lên. Công phu rồi trời còn mờ mờ chưa sáng hẳn, hồi đó trong chùa không có đồng hồ. Tôi chẳng biết đồng hồ là cái gì, chỉ nhìn theo trời sáng trời tối vậy thôi. Chưa sáng hẳn thì tụng, tụng cho tới trời sáng hẳn, sau đó đi nấu cơm ăn. Tôi có cảm nhận thời hồn nhiên, những sợ sệt về chiến tranh, về chết chóc không ảnh hưởng đến tâm hồn bé thơ. Mình sống bằng con người, con người đó không dám nói là con người thật, nhưng rõ ràng không dính mắc nhiều bởi những giả tưởng bên ngoài, sống một cách chân thật.

Bây giờ gần các tiểu La Vân, tôi nhớ lại tuổi hồn nhiên của mình. Đang chơi hay đang học bài, thầy nói tới giờ tụng kinh, mau mau bỏ chạy tụng kinh. Thầy nhìn lại hỏi sao không mặc áo tràng? Thế là điệu ta chạy vô lấy áo tràng mặc, cũng không hờn không giận chi hết. Gặp ông thầy cằn nhằn thế này thế khác tiểu cũng bình thường. Vô tụng kinh với huynh đệ, tụng xong qua căn tin ăn uống thoải mái, ăn chưa đầy bụng thì kêu thêm nữa, không mắc cỡ. Chỉ một việc này mấy huynh đệ lớn chưa chắc làm được. Ngồi vô phải coi trước coi sau, ăn xong có khi thấy trong bụng còn trống, muốn ăn nữa nhưng nói no. Rõ ràng người lớn không thật, mất đi bản tính hồn nhiên đáng quý của thời bé thơ.

Tôi nhớ những ngày tết, thấy người lớn đạp xe đi chợ mình cũng trèo lên xin theo chơi. Ra chợ không có một đồng bạc, nếu có đôi đồng cũng chẳng biết ăn cái gì. Thấy bánh nhưng không dám hỏi mua, sợ thiếu tiền. Chỉ có một món ăn bình dân rẻ tiền, người lớn người nhỏ gì trong quê cũng có thể ăn được. Đó là nước đá si rô. Người bán món này bào đá xẹt xẹt bỏ vô ly, lấy tay đập một cái bằng mặt, xong rồi hỏi mình thích màu xanh hay màu đỏ? Nếu muốn màu xanh ông rót màu xanh, muốn màu đỏ ông tưới màu đỏ, sau đó đưa cho mình, cầm húp. Mấy đồng bạc quên rồi không nhớ, nhưng khi nào có tiền đứng nhìn người ta ăn, nhìn rồi tôi mới mua. Cuộc sống của người dân nghèo khó miền quê thời chiến tranh như vậy, đành cam chịu biết nói với ai!

Ở quê, người dân làm lụng cực khổ mà chẳng được bao nhiêu tiền. Như chỗ bà Năm người ta trồng kiệu. Kiệu đem lên để ở mương, nước mọi chảy ra các vị lớn ngồi lột tỉa, bó lại, rửa sạch. Người ta làm từ khuya tới chiều, rồi mau mau gánh ra chợ đêm bán. Gánh vất vả ra chợ, khách mua đến định giá, nói năm đồng bảy đồng gì đó. Cái công trong đó biết bao nhiêu, cực ơi là cực, vậy mà họ đánh giá năm đồng ba đồng. Mình không bán thì họ không mua, họ không mua thì hư của mình chứ hư gì của họ. Cho nên bán mắc bán rẻ chi cũng phải bán. Có lần tôi gánh phụ các chị ra chợ mới thấy sức nặng oằn vai của gia đình mình, của má của chị. Bởi nhà không có xe trâu xe bò nên phải gánh, đâu làm sao khác. Từ khuya tới chiều trong bụng trống trơn, đã vậy còn bị ép giá, không có tiền mua cái gì lót dạ. Cảnh này tôi thực sự nếm trải, buồn khổ làm sao. Dân quê của mình vì thế mà nghèo lại càng nghèo, khổ lại càng khổ.

Làm ông thầy chùa con nho nhỏ, bị những hình ảnh này đập vô đầu cho nên lớn lên tôi ý thức phải học, phải có kiến thức. Vì chỉ như thế mới gầy dựng được cuộc sống ấm no. Cho tới bây giờ trong đầu tôi cũng còn cảm nhận xót xa cho người dân nghèo. Muốn thoát khỏi hoàn cảnh này phải làm sao, đi đâu, làm gì? Cuối cùng tôi nghĩ ra chỉ có đi tu, làm Phật mới thoát khỏi thảm cảnh ấy. Vì vậy chúng ta phải ráng tu, thưa chư huynh đệ. Nghĩ đến cuộc đời rồi nghĩ đến cái chân thật, quý báu nhất của mình, nếu chúng ta vô tình bỏ quên nó, thật là quá uổng.

Năm 13 tuổi có người rủ đi Sài Gòn, tôi đi. Nhất định phải đi học. Muốn tiến bộ trên đường đạo cũng phải học. Muốn giải thoát phải cất bước lên phương trời cao rộng, như Tổ Quy Sơn nói “phát túc siêu phương” tức là vượt ra những thường tình, mới giải quyết được những rắc rối trong lòng, trong đời. Bây giờ chúng ta đã bước được những bước khá tốt, nhưng vì chưa cương quyết nên vẫn chưa nhận ra cái quý báu nhất của mình. Đã vậy còn lượm lặt những thứ ba mớ ngoài cửa để dùng với nhau, thật uổng quá. Khi xuống Sài Gòn nhân duyên đưa đẩy tôi gặp được những bậc thầy chân tu cao quý.

Từ đó đời tu của tôi bước sang trang, dần dần phát triển có cơ hội đi học, gặp gỡ các bậc thầy lớn.

Nhìn lại đoạn đường tôi đi qua dù tân khổ hay an vui đều có giá trị cả. Nhờ thế tôi có vốn sống để chia sẻ, để nhắc nhở động viên chư huynh đệ, những người bạn đồng hành đừng bao giờ thối chuyển trước mọi cảnh duyên. Tất cả đều từ tâm kiên quyết, chí vững bền mà nên. Có thể nói chúng ta đủ phước duyên lắm mới được xuất gia tu học, chư huynh đệ phải cương quyết cố gắng hết mình. Thật ra sức chịu đựng của con người rất phi thường khi họ muốn thực hiện một mục đích nào đó mãnh liệt. Nếu không biết khai thác sức mạnh ấy, vô tình chúng ta đánh mất một năng lực nội tại mà không thể tìm ở đâu ra.

Bây giờ đừng nói ai, nhìn mấy chú tiểu La Vân nhỏ xíu vậy, không có thời gian mà các chú vẫn có thể tuân thủ thời khóa một cách vui vẻ, nhịp nhàng. Sáng mai đi ăn cơm, ăn nhanh để chuẩn bị đi học. Thời gian đến trường chiếm nhiều nhất trong sinh hoạt hàng ngày. Đi học về ăn cơm. Ăn cơm xong nghỉ, buổi chiều học thêm tại chùa, rồi tới giờ tụng kinh. Tụng kinh xong học bài, tập ngồi thiền đến 9g30’ tối mới được nghỉ. Tóm lại, sắp đặt sinh hoạt cho các chú trẻ nhỏ như vậy là hơi nặng. Tôi nghĩ có nhiều huynh đệ lớn không làm nổi như mấy tiểu. Thế nhưng tại sao các chú làm nổi? Vì hồn nhiên. Vì vui. Vì không đắn đo nghĩ ngợi gì cả. Quý thầy bảo làm sao làm vậy. Do làm mà tâm không mong cầu, quả tự đến hồi nào không hay.

Con người là như vậy, cứ thảy dần gia bảo của mình ra để thu vô những tạp nham bên ngoài. Bởi đánh mất tính hồn nhiên quý giá nên vừa học xong lớp mười hai là các tiểu lớn không theo nổi thời khóa tu học của Thiền viện. Xong phổ thông cấp III, chúng tôi đưa các chú về Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức chuyên tu. Một đạo tràng trong sáng trang nghiêm như vậy, mà các chú ở đó uốn éo giống như không có xương sống, vì ngồi thiền không nổi. Nay chú này xin đi, mai chú khác xin đi. Họ thích tiếp thu ngoại duyên mới, phát huy tánh giác chân thật hiện tiền họ không chịu. Thật đáng thương!

Vì không vững niềm tin nơi Tam Bảo nên không theo nổi con đường Phật đạo. Các chú cũng quên bẵng tấm lòng của những người thầy đã bao nhiêu năm nuôi dạy chăm sóc từng chút từng chút. Các chú đi ăn, đi học, đi tụng kinh, đi khám bệnh… các thầy đều mỗi mỗi đi theo. Do không thấy được tấm chân tình đó nên các chú dễ dàng phủi áo ra đi. Đi theo tiếng gọi của nghiệp thức mênh mang, của cát bụi phù sinh. Thì thôi, quý thầy sẽ đợi chừng nào các chú quỵ té trên đường đời, mỏi gối chùn chân trở về, quý thầy sẽ tiếp tục dìu các chú những bước còn lại, có thể lúc đó không phải các chú mà là các bác.

Phật dạy, người kiến đế thấy được lẽ thật, thấy được chân lý thì tự tại bình yên trước mọi cảnh duyên. Cho nên chúng ta muốn được như vậy phải kiến đế. Cố gắng thảy ra hết những cù cặn bên trong mới có thể kiến đế, từ đó nhớ lại trân bảo mình đã bỏ quên lấy ra xài. Sau khi thiền sư Thường Chiếu quy tịch, Ngài Hiện Quang lớn lên được nuôi nấng tốt trong đạo tràng, nhưng chưa nhận được trân bảo của Thầy Tổ. Ngài tủi thân mình là con cái trong nhà mà không biết châu báu của cha mẹ để đâu nên than “giàu có mà cam lòng thiếu thốn”. Giàu có nhưng của báu cất đâu không biết. Do không biết nên chẳng thể lấy ra dùng, không dùng được của báu thì cam phận nghèo thiếu. Từ đó Ngài vào núi tu, nên ngày nay chúng ta mới có bậc cao Tổ của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử chính là Thiền sư Hiện Quang vậy.

Chư huynh đệ muốn thăng tiến trên con đường Phật đạo phải vững niềm tin và hồn nhiên sống, đừng chạy theo những giả cảnh bên ngoài. Tập trung nhận lại gia bảo nhà mình.

Chỉ mong chúng ta luôn được như vậy.

Kết Mộng Vui

Hôm nay là ngày khai pháp của đạo tràng chư Ni khu am thất ngoại viện Thường Chiếu tại Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức – Viện Ni. Trước nhất tôi xin chúc nguyện đại chúng tu học thật tốt và hy vọng mỗi lần tham dự khóa tu, quý vị có được niềm vui và sự tiến triển trên bước đường công phu.  Đại chúng gầy dựng được niềm vui trên bước đường tu học rồi, từ đó lúc nào chúng ta cũng vui. Có vui thì sự tu mới tiến, điều này chắc chắn quý vị đã ít nhiều trải nghiệm. Nếu chúng ta không vui, cứ sầu héo hoài thì tu khó tiến.

Trong từ “cố gắng” đã nói lên được một bước tiến. Nếu thực sự cố gắng sẽ gầy dựng được niềm vui, để từ đó chúng ta phấn phát vững niềm tin hơn nữa. Có niềm vui, vững niềm tin đối với chánh pháp thì qua mỗi giai đoạn công phu, nhất định chúng ta sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.

Trong buổi nói chuyện này, tôi nói về đề tài “Kết mộng vui”. Trong cuộc đời giả tạm, mộng ảo không có gì thực chúng ta nên kết mộng vui. Để làm gì? Để thấy rõ các pháp là mộng mà ta vẫn vui tu hành, không bị mộng ảo gây trở ngại trên bước đường công phu. Có lần trong câu chuyện vui, Hòa thượng Trúc Lâm kể lại: Tại một thiền đường đó, có vị Tăng cứ ngồi cười mãi. Trong chúng thấy lạ trình lên Hòa thượng Đường đầu, Hòa thượng đến hỏi:

– Ngươi vì sao cười hoài?

Vị Tăng thưa:

– Bạch Hòa thượng, trong cuộc đời mộng ảo này nên kết mộng vui, không nên kết mộng buồn. Vì kết mộng vui nên con cười.

Nghe nói vậy, Hòa thượng cũng cười. Thật ra niềm vui có một sức mạnh khiến người ta phấn phát vươn lên để sống. Ngược lại buồn nản thường làm mình nhũn chí. Do vậy đừng bao giờ chúng ta để cho buồn nản hiện trong đầu, trong sinh hoạt tu hành. Chư huynh đệ nên cố gắng vui tu vui sống. Tôi nói vui đây không phải cứ cười hoài giống như người bị tốc kê. Tôi ý thức rõ niềm vui đủ sức tái tạo và chuyển đổi cho mình một sức mạnh. Khi gặp việc khó khăn, chúng ta cố gắng hết sức mà cũng không ổn định, khi đó phải làm sao? Quý vị cố gắng ngay đây gầy dựng công phu, phấn chấn lên, cười chứ không rầu, nhất định không chịu chào thua. Nếu lúc đó ta buồn là thua cuộc liền. Cương quyết vui lên thì mọi việc rồi sẽ ổn.

Tôi rất tin tưởng nơi pháp học của Hòa thượng Ân sư. Ngay từ những buổi đầu Ngài dạy cuộc đời là mộng, tôi như được mở mắt chiêm bao mặc dù cũng chẳng hiểu bao nhiêu. Thời còn trẻ, tôi là người có nhiều mơ mộng. Vì hoàn cảnh của tôi lúc đó không thuận lợi như chư huynh đệ khác. Do vậy trong lòng có nhiều ưu tư nghĩ tưởng. Muốn vươn lên phải luôn nhớ cố gắng. Thấy mình đã vươn lên được, lấy đó làm đà tiến để gầy dựng cuộc sống đạo. Trước khi lên núi tu theo Hòa thượng, tôi khoảng hơn hai mươi tuổi, đã học xong chương trình Trung Cấp Phật Học, đang học lên Đại học Vạn Hạnh. Đây là thời kỳ đất nước đang bị chiến tranh, quê tôi nằm trong vùng bom đạn khốc liệt. Đêm đêm ngồi học nghe đâu đó tiếng bom dội, thiệt là đau đớn trong lòng. Có đêm không sao ngủ nhưng cũng không biết làm gì. Nhiều anh em nói sảng, cứ trướng lên sẽ làm này làm kia nhưng nhìn lại mình là ông thầy, làm gì được đây. Bây giờ ngồi đó mà mộng mơ, vấn vương tơ tưởng lan man. Tại sao mình không kết niềm vui để gầy dựng sức chuyển hóa, phấn đấu vượt qua tất cả mơ mộng. Anh em bày ra nhóm viết văn, nhóm làm thơ, nhóm nào tôi cũng tham gia hết. Huynh đệ họp lại đưa ra những đề tài nhỏ, sau đó mỗi người tự viết thành bài, ghi vào một cuốn tập lớn. Đây cũng là một cách kết mộng vui của chúng tôi thuở còn là Tăng sinh trẻ.

Nhóm thành lập khi chưa học thiền với Hòa thượng Trúc Lâm. Lúc đó Ngài là Quản viện Học viện Huệ Nghiêm nhưng chưa dạy thiền, anh em tự ý thức gầy dựng thành nhóm học tập và cũng có một số kết quả. Nhóm làm thơ lấy tên là Thi Đoàn Sóng Trào. Khi được Hòa thượng hỏi ý nghĩa Sóng Trào, ai cũng giải thích lan man, Ngài quở mấy chú tơ tưởng quá. Nói thì nói vậy nhưng Ngài vẫn thương và cho tiền mua giấy để in. Tôi không làm thơ giỏi nhưng biết thưởng thức thơ. Ngày họp của mấy anh em, tôi ngồi nghe ngâm thơ rồi góp ý hoặc cải biên những danh từ trong bài. Năm đó nhà trường xuất bản tờ báo xuân. Mấy anh lớn đi làm báo, mấy em nhỏ ở nhà. Nhóm viết văn chịu trách nhiệm kêu gọi anh em viết bài cho tờ báo, tôi cũng tham gia viết bài. Hòa thượng đặt tên tờ báo là Hương Thiền, cho thấy Ngài đã mớm thiền cho chúng tôi khi còn ngồi ở ghế Học viện.

Mấy huynh lớn đã đi giảng dạy viết bài rất tốt, được đọc cho quý Hòa thượng nghe và được khen. Riêng thi đoàn Sóng Trào, bao nhiêu thơ anh em dự định sẽ được trình làng đều bị loại ra hết. Thế nhưng chúng tôi vẫn vui vẻ, vẫn tiếp tục viết văn làm thơ. Cuối cùng những bài thơ được đăng trong tập Hương Thiền chẳng là bao, chỉ mấy bài nói về tu hành, kêu gọi anh em ráng tu thì được đăng, còn lại rớt sạch.

Hồi đó Hòa thượng thường gọi chúng tôi là mấy chú. Thầy trò nói chuyện với nhau rất gần gũi. Hòa thượng kể lại cuộc đời tu học và giảng dạy của Ngài, anh em chúng tôi lắng nghe, sau đó cũng trình lên Thầy những suy nghĩ và tâm nguyện của mình. Nhưng có một điều là tuyệt nhiên tôi không hề nghe Thầy nói sau này làm Thiền sư, mở thiền đường dạy thiền… Cho tới khi mãn khóa, Thầy giao trách nhiệm lại quý Hòa thượng ở trường rồi lên núi cất thất tu. Chừng ấy anh em mới biết Thầy thích tu thiền. Thất đầu tiên ở Bảo Lộc tên là Thiền Duyệt thất, thất thứ hai ở Vũng Tàu tên là Pháp Lạc thất, tiền thân của Thiền viện Chân Không bây giờ. Thầy thường kể những niềm vui qua công phu tu hành, nghiên cứu Phật pháp và đi giảng dạy để khích lệ anh em chúng tôi tiến lên. Sơn tăng sống ở núi, chấp nhận quy chế chung, học theo chương trình Hòa thượng đã quy định, ngoài ra không thêm gì khác. Hòa thượng chỉ mong mỏi chúng tôi yên lòng tu thật tốt, giữ gìn quy chế của Thiền viện, không nên tơ tưởng mông lung như hồi trước.

Lúc gần gũi chúng tôi nghe Thầy nói về những trường hợp mê tín dị đoan. Ngài cho rằng tệ nạn này đa số phát xuất từ những Tăng sĩ không được tu học đúng chánh pháp. Cho nên Ngài có tâm nguyện đem giáo lý nhà Phật phổ vào đời sống quần chúng để phá tan những tập tục mê lầm. Khi mở Thiền viện, chúng tôi lại nghe Thầy tuyên bố tâm huyết khôi phục Thiền tông Phật giáo Việt Nam, nhằm hướng dẫn cho người Phật tử nhận được tinh thần trọng yếu của đạo giác ngộ, giải thoát tức nhận ra và sống với tâm chân thật của mình. Hòa thượng mở những khóa tu thiền trên núi Tao Phùng – Chân Không, hồi đó anh em không có bao nhiêu người nhưng Thầy nói sau này sẽ mở mang tinh thần thiền, tinh thần Phật giáo đại thừa rộng rãi khắp nơi, để cho mọi người hiểu và hành.

Trước kia khi giảng các bản kinh thuộc Phật giáo đại thừa như Lăng Nghiêm, Pháp Hoa… có những điều Thầy không nhận ra. Cho nên Hòa thượng nghĩ kinh điển này chỉ để trên gác thờ, chứ không biết bắt đầu từ chỗ nào để tu. Đó là những ưu tư trong giai đoạn đầu khi Thầy mở Thiền viện. Sau này nhờ công phu hành thiền, Hòa thượng nhận ra được cốt tủy của kinh Đại thừa rồi, Ngài dõng dạc tuyên bố kinh và thiền không hai. Từ đó Ngài giảng dạy đạt lý thấu sự, anh em chúng tôi càng học càng thấy giáo nghĩa Phật dạy thật là sâu mầu vi diệu.

Nhiều người ngạc nhiên hỏi tôi sao dám buông bỏ hết lên núi tu, kinh điển đâu trong đó. Thật ra một thực tế cho thấy từ trước đến nay, chư vị thiền sư thường vào hang núi hành thiền, các Ngài dễ thành tựu công phu. Chúng ta cũng noi theo tấm gương ấy, hy vọng núi cao rừng sâu là nơi vắng vẻ dễ giúp hành giả buông bỏ các duyên để nhận và sống trở lại với chính mình, phá hết tất cả mê mờ từ trước. Nhận ra được tâm mình chính là gầy dựng được tâm tông, do đó thiền tông phát triển từ những nơi này.

Ngày xưa khi sống trên Bảo Lộc, Hòa thượng ở một mình vừa trị bệnh vừa tu. Giai đoạn này Thầy cố gắng hình thành một giáo trình Phật học. Sau đó mở Học Viện Huệ Nghiêm, Thầy cùng quý Hòa thượng chịu trách nhiệm dạy dỗ Tăng Ni, mở mang Phật pháp. Các kinh sách Thầy giảng dạy cho Tăng Ni sinh tại Học viện và luôn cả Đại học Vạn Hạnh đều là những tư tưởng Thầy phát minh khi tu tại Thiền Duyệt thất – Bảo Lộc. Sau giai đoạn đó, Thầy lại nhập thất ở Pháp Lạc thất – Vũng Tàu, với tâm nguyện nếu không sáng đạo, thà chết chứ không mở cửa thất. Nhưng chỉ trong khoảng ba tháng, Thầy đã mở cửa thất cho Tăng Ni tứ chúng được đón mừng tin vui.

Từ đó Thầy bắt đầu xây thiền đường, mở Thiền viện và nhận chúng dạy tu học thiền. Năm 1970, Thầy chánh thức mở khóa thiền đầu tiên. Từ những phôi thai trong lòng dẫn đến sự ưu tư, tìm chỗ tu tập, tâm đắc và sau này dạy thiền, kết quả nhiều nhất từ lần nhập thất ở Pháp Lạc. Đó là những điều tôi biết được trong những năm tháng gần gũi Thầy tại Chân Không. Điểm tôi muốn nói là chúng ta phải kết mộng vui, phấn chấn tiến tu, đừng co ro nhăn nhó trong sự bất an, bực bội, không có ích lợi gì. Làm sao mỗi ngày mình gầy dựng được niềm vui, kết mộng vui, thẳng tiến công phu như vị thiền tăng ngày xưa.

Thiền viện có thiền đường nhưng không phải chúng ta chỉ ngồi thiền mà còn học Phật pháp và lao động nữa. Ngồi thiền là một trong những thời khóa tu học, nhưng nó rất quan trọng cho nên ai xem thường việc ngồi thiền thì người đó không gầy dựng nổi niềm vui. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tu không tiến. Tại sao? Hòa thượng dạy ngồi thiền sẽ thắng vượt tất cả những khó khăn, làm chủ được mình, gầy dựng một sức mạnh nội tại.

Chư huynh đệ ở các Thiền viện, mỗi ngày chỉ ngồi thiền hai thời đầu đêm và cuối đêm. Ba giờ khuya thức dậy ngồi thiền, năm giờ xả thiền. Sau đó vệ sinh, ăn sáng, sáu giờ rưỡi làm công tác, mười giờ nghỉ, mười giờ bốn mươi lăm thọ trai. Thọ trai xong chỉ tịnh, một giờ thức dậy, hai giờ lên lớp học đến ba giờ rưỡi, bốn giờ làm chút công việc gì đó như tưới kiểng, quét sân… theo sự điều động của các vị trong ban chức sự, sau đó dọn dẹp, giải lao, chuẩn bị cho thời tụng kinh vào đúng sáu giờ chiều. Sau thời kinh lại lo rửa mặt, giăng mùng, bảy giờ ba mươi ngồi thiền tới chín giờ ba mươi xả thiền, ai nấy đều lo nghỉ ngơi. Cả một ngày đêm xoay vòng như vậy nhưng chỉ có hai thời ngắn ngủi để tọa thiền, còn đầu ngày đến cuối ngày lu bu các công việc.

Chư huynh đệ có ai dám nghĩ ngoài hai thời thiền đầu đêm cuối đêm, tất cả các thời khác mình giữ được sinh hoạt đúng pháp như khi ngồi thiền không? Chưa ai dám nhận điều đó. Hòa thượng Trúc Lâm thường hỏi anh em chúng tôi:

– Ngoài hai thời thiền, mấy chú dụng công thế nào, giữ tâm thế nào?

Phần nhiều các anh em cà lăm hết, nếu có ai trả lời thì cũng e nói không thật. Cho nên rồi cuối cùng chúng tôi thỉnh Ngài chỉ dạy. Hòa thượng bảo mình phải biết cách tự làm chủ trong mọi thời mọi lúc. Lưu ý giữ mọi sinh hoạt trong tâm niệm tỉnh giác để có sức sống tương đương như khi ngồi thiền. Nói như vậy nhưng chưa chắc chúng ta đã ngồi thiền tốt. Bởi vì tôi biết chư huynh đệ còn ngủ gục mà. Một tiếng đồng hồ tỉnh táo chưa tới nửa giờ. Ma quỷ nó dẫn mình đi khắp nơi, sao mà yên được. Hòa thượng nói bị ma dẫn và ngủ gục là hai gọng kềm giống như hai lưỡi kéo luôn luôn kề sát cổ hành giả tọa thiền.

Không chiến thắng được hai con ma này thì công phu ngồi thiền xem như mất trắng, chẳng ra cái gì cả. Người ngồi thiền ngủ nhiều, tâm làm sao yên được cho nên khi được giám thiền đánh thức, họ có vẻ hối hận sợ sệt, chứ đâu phải vô tư. Nếu vô tư họ đã ngủ thoải mái, đằng này dù gục cỡ nào trong tâm vẫn có chút lo âu. Nếu lên thiền đường trải bồ đoàn ra nằm ngáy thì đúng là tự tại không ngán ai hết và cũng không ngại chỗ nào. Chúng ta không dám làm như vậy vì trong tâm còn nhiều bất ổn, từ đó cuộc sống cứ như bị xô đẩy từ bờ bên này sang bờ bên kia, luôn không yên. Thiền định tối kỵ những tật lơ mơ, tơ tưởng, cho nên phải làm sao tuyệt được những thứ đó. Tuyệt bằng cách nào? Chúng ta ngồi đây mà nghĩ vớ vẩn chuyện này chuyện khác, chuyện năm trên năm dưới làm sao ổn được. Huynh đệ phải có cách thương mình, bảo vệ mình, đừng để con trâu điên của chúng ta xâm phạm vào lúa mạ nhà người. Đó là cách thức thành tựu công phu.

Thập niên năm 70, tôi theo Hòa thượng lên núi Chân Không – Vũng Tàu, thời ấy Thiền viện đơn sơ, chỉ có một ngôi nhà xây bằng đá xanh, phía trước vừa Điện Phật vừa Thiền đường, phía sau dành ra một khoảng cho Hòa thượng nghỉ ngơi. Anh em chúng tôi sống trong nhà thiền khiêm tốn làm bằng vật liệu tạp của người ta bán lại. Thế nhưng những năm này lời dạy của Thầy dường như rót trọn vào lòng chúng tôi. Mọi lăng xăng phố thị tuy chưa vứt được nhưng đã để ngoài cửa Chân Không, có Thầy cầm gậy đứng đó, trợn mắt canh chừng để chúng tôi yên lòng sống, yên lòng tu tập. Từ giai đoạn gầy dựng ban đầu cho tới vào được thiền định phải có một quá trình. Nhất định phải ở yên một chỗ chuyên tâm tu hành, chứ không thể nào cứ đi đây đi đó, bá hết duyên này bợ đến duyên khác. Đó chính là những dây mơ rễ má ta chưa dứt được, nên khi ngồi lại tu nó vẫn thường kéo lôi.

Bản thân tôi đã khó khăn suốt một thời gian dài từ những năm đầu vâng lời Thầy về Thường Chiếu. Ngày ấy Thiền viện thật thiếu thốn, Thầy bảo chú nào muốn theo Thầy tu thiền thì phải cạp đất mà ăn. Anh em chúng tôi sống bên nhau kết mộng vui và lớn lên từng ngày dưới sự giáo dưỡng của Hòa thượng. Cho tới bây giờ Thiền viện Thường Chiếu đã trở thành Tổ đình trang nghiêm thanh tịnh, huynh đệ chúng ta yên ổn tu hành. Sống trong một môi trường như vậy thì mọi sinh hoạt như tiếp khách, làm việc, thọ trai hoặc anh em ngồi nói chuyện với nhau đều có thiền vị. Tuy trải qua quá trình dài lâu theo Hòa thượng Ân sư, nhưng tôi vẫn thấy mình chưa được. Có thể ta thuộc lòng lời dạy của Thầy nhưng thực sự sống được chỗ đó thì chưa, bởi mình vẫn còn dính bên này mắc bên kia. Đang ngồi đây mà ai nói chuyện Trảng Bàng – Tây Ninh thì cố lắng tai nghe họ nói gì, mấy người đó có quen không hoặc có tiếng Quang thì chú ý xem phải Nhật Quang hay không… Cứ tơ tưởng dõi theo như vậy khiến mình mắc bên này, kết bên kia, vì thế cả đời chưa làm được gì.

Bây giờ tôi đã 70 tuổi rồi lại còn bệnh nữa, hồi nào lên núi đâu phải như thế, Hòa thượng nói anh em chúng tôi hiên ngang như những dũng tướng. Trước khi về Chân Không thầy Phước Hảo, thầy Đắc Pháp… đang làm trong ban Giám đốc của Học Viện Huệ Nghiêm, còn tôi là một đứa em nhỏ tập làm công tác giáo dục thôi. Hòa thượng dạy tôi: “Thầy giao công tác giáo dục cho chú, người ta cho cơm ăn, cho phương tiện thì cứ yên lòng học. Chú nghiên cứu học cho giỏi, tu cho giỏi”. Thầy bỏ vào túi mình bấy nhiêu điều đó, mà lâu lâu hỏi thăm cũng chưa xong. Từ khi theo Thầy tu thiền, tôi tuân thủ lời Hòa thượng dạy lắm. Tới bây giờ già cái đầu rồi, Thầy biểu làm gì làm nấy, không dám sai khác. Tập trung như vậy mà cũng thiền chưa được, định chưa được, giác ngộ tự tánh thanh tịnh gì gì đó… cũng chưa được.

Bây giờ chúng ta phải tu như thế nào để xóa bỏ tất cả những ương yếu đó. Quý vị phải cực lực, tự bản thân mình cương quyết dẹp bỏ nó. Đây là việc của mình, ta phải làm, Thầy bạn không thể thế được, cũng không có đấng thánh thần nào ban ân sủng cho mình tự tại giải thoát. Làm được hay không là tự nơi bản thân chúng ta. Nếu không tự cảnh tỉnh, cứ lơ mơ chiều bờ sông này, sáng bên núi kia, như thế hoài đến bữa nào kết thúc buông tay chẳng tới đâu hết. Đây là chỗ Hòa thượng dạy chúng ta phải mãnh tỉnh, phải gầy dựng công phu để ngay trong đời này ít ra cũng sáng được việc sanh tử.

Khi giảng dạy về vấn đề sanh tử, Hòa thượng dùng nhiều dẫn dụ cho chúng ta nhận ra chỗ then chốt để thực hành. Mặc dù nhận và hiểu vấn đề nhưng mình vẫn chưa sống được với lẽ thật Phật dạy. Đối với Tăng Ni, Hòa thượng đinh ninh chỉ vẽ từng chút từng điều, tuy nhiên cũng chưa ai xong việc. Bây giờ tự bản thân mỗi vị dựng lên cho mình một thời khóa tu hành chính đáng, những nhân duyên đã qua gạt sang một bên, không để nó dây dưa trong đầu. Hiện tại đời sống của chư huynh đệ ở các am cốc tương đối ổn, người nào cũng có chỗ nơi, có phương tiện sống đầy đủ. Chư huynh đệ về Thiền viện tu học trong môi trường thanh tịnh trang nghiêm, đó là phước duyên từ sự hộ trì của Tam Bảo. Với một số đông như vậy chúng ta sống vui vẻ, không có chuyện gì xảy ra là quý lắm, chỉ cần cố gắng khéo léo giải quyết một cách dứt khoát việc sanh tử nữa là xong việc.

Tóm lại thời gian qua sự thay đổi, vô thường nhanh chóng đã cướp đi những gì thuận lợi nhất của chúng ta, bản thân tôi cũng phải chịu sự chi phối ấy. Bây giờ ta phải làm sao để tròn bổn phận mà Sư Phụ đã giao phó. Sư Phụ giao phó chúng ta điều gì? Không phải Thầy bảo chúng ta xuất gia rồi mỗi người cất cái cốc tu. Có bao giờ Hòa thượng dạy quý vị như vậy không? Nếu chỉ cất cốc tu thì tu đâu cũng được, tại sao phải đến Thường Chiếu chi cho cực khổ vậy. Từ đáy lòng Thầy muốn chỉ cho chúng ta tu phải thấu lý đến nơi đến chốn. Đối với vấn đề sanh tử, huynh đệ phải giải quyết làm sao?

Tôi thường khuyên đại chúng không nên xin đi đây đi đó hoài mà không chịu tu hành, đến lúc hấp hối mời quý thầy đến khai thị. Khi đó biết khai thị gì đây, tôi cũng mù mịt. Mù mịt với mù mịt gặp nhau thành mù trời. Khi sống không cố gắng, đến lúc sắp ra đi tâm thần hoảng loạn, đâu có định tỉnh mà nghe nhắc nhở. Bình nhật huynh đệ tu hành tốt thì lúc sắp lâm chung không cần phải khai thị đâu. Chỉ cần một huynh đệ có đạo lý vững vàng, ngồi gần đó nhắc nhỏ rằng con đường lâu nay mình đã đi thì tiếp tục đi, đó là con đường của Phật, tất cả những thứ khác đều buông bỏ. Chỉ nhắc vậy thôi đủ rồi.

Như có người quen tụng “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”. Bây giờ họ đang mắc nghẹn cần phải nhắc câu này, chứ đem chuông mõ tụng rùm beng toàn những câu không ai hiểu, làm sao người ta định tỉnh được. Nói đến chiếu kiến ngũ uẩn giai không thì người ấy sẽ nhớ công phu của Bồ-tát Quán Tự Tại cũng chính là công phu của mình. Nhắc là như vậy. Tuy nhiên bây giờ chúng ta đủ điều kiện, lúc này phải mãnh tỉnh giải quyết việc của mình. Hòa thượng dạy phải biết thương mình, giải quyết việc của mình chứ không ai thế được. Cho nên quý vị phải ráng tu.

Trở lại vấn đề thiền định, Hòa thượng dạy muốn được định thì phải làm sao? Một là không bị các pháp kéo lôi, hai là không chạy theo các pháp. Các pháp không đủ sức kéo lôi mình, mình không điên đảo tăm tối chạy theo nó, chừng ấy thôi là vào định tức thì. Dễ mà, đâu có khó gì. Bây giờ trong mọi thời làm sao chúng ta thấy được các pháp không thiệt để không chạy theo nó. Nó không đủ sức kéo lôi thì mình được định. Có định thì liền có tuệ. Đây là cách giải quyết ách yếu của người tu thiền, chớ không phải lên pháp tòa giảng huyên thuyên, nói thiền nói đạo mới là thiền.

Công phu trong cuộc sống là biểu hiện rõ nhất. Huynh đệ chúng ta dù nghèo nàn rách rưới, không có cơm gạo ngon hoặc không được gia đình hỗ trợ nhưng trong lòng lúc nào cũng biết các pháp không thiệt. Đây là người biết chăn con trâu điên của mình, bước vào được ngưỡng cửa sáng suốt, đầy đủ tỉnh táo thì định và trí tuệ Bát-nhã sẽ phát huy. Đó là con đường thẳng tắp nhất quý vị có thể thực hiện được. Không luận người lớn tuổi, chỉ cần làm chủ được mình là người biết cách chăn trâu.

Hòa thượng Ân sư đã dạy thiền từ những thập niên 70 cho tới bây giờ trên ba mươi năm, do đó chúng ta học được rất nhiều điều từ Ngài. Tất cả chư vị Tổ sư từ Ấn Độ, Trung Hoa cho đến Việt Nam có những vị kỳ đặc lắm. Các Ngài ngồi thiền rách đến bảy, tám cái bồ đoàn. Một hành giả tu hành trên ba mươi năm kiểu chúng ta mà không xong chuyện gì thì chắc chắn không được ghi trong thiền sử rồi. Cho nên khi nghe người xung quanh phê bình chúng ta tu thiền mờ mịt thì nên kiểm lại mình, chớ có trách móc người. Đừng vội cho rằng họ nói như vậy là bài bác mình hoặc có tâm ý không tốt đối với thiền. Phải kiểm lại mình trước, nếu đúng như lời người ta nói thì tự chỉnh đốn. Đó là cách vừa sám hối vừa cố gắng tu hành.

Bây giờ là lúc cần thiết tu hành nhất vì Sư Phụ của chúng ta đã già bệnh, hy vọng Ngài khỏe mạnh để đến với đạo tràng là điều rất hiếm. Chúng ta có mong mỏi thì cũng khó mà được như nguyện. Tôi biết trong số quý vị ngồi đây, ai cũng mong Thầy mạnh khoẻ để Thầy sống lâu, dạy dỗ giáo hóa chúng sinh. Đó là tâm nguyện chung của tất cả chúng ta. Cho nên đại chúng phải cố gắng. Nghe ai phê bình gì về Tổ chức, về việc tu học của mình thì nên lắng nghe cho thông suốt để biết bệnh rồi chỉnh sửa. Đó là một cách sám hối, tiếp theo gầy dựng cuộc sống sinh hoạt tu học sao cho bản thân mình và huynh đệ trong đạo tràng đều trang nghiêm, đúng chánh pháp. Được như vậy mới xứng là đích tử đích tôn của Đức Thế Tôn, là môn hạ con cháu của Hòa thượng Trúc Lâm. Đại chúng góp phần tu học của chính mình là cùng dốc sức bảo vệ sự nghiệp khôi phục Thiền tông Việt Nam của Hòa thượng Ân sư đã dầy công tạo dựng.

Thời gian gần đây do bệnh nhiều nên tôi gặp khó khăn trở ngại trong việc tu học và làm Phật sự. Tôi cũng già rồi, nhân duyên được gặp đại chúng như thế này càng ngày càng hiếm nên không thể nói trước điều gì cả. Ở tuổi của tôi, lẽ ra nghỉ ngơi rồi nhưng thấy trong tông môn, bản thân mình cũng như chư huynh đệ còn nhiều điều phải chia sẻ, nhắc nhở động viên để chúng ta thấy được nhiệm vụ của mình mà cùng phát tâm tu học, bảo vệ chánh pháp. Chúng ta vừa tu vừa bảo vệ đạo tràng trang nghiêm. Chỉnh đốn mình được rồi thì mặc ai nói gì, chánh pháp của Phật Tổ là như vậy, chúng ta cứ thế thực hành cho đúng.

Trong đường lối tu học của Hòa thượng Trúc Lâm, ngay từ những năm đầu Ngài đã tuyên bố không chấp nhận việc chư Tăng Ni tham gia các tổ chức cúng bái, cầu an, cầu siêu… nên dành thời giờ nghiên cứu tu học. Hiểu được chỗ này quý vị sẽ kính thương Thầy rất nhiều. Vì thương chúng ta nên Thầy vẫn cương quyết giữ đúng đường lối và lập trường mặc dù có những phản bác chung quanh. Hòa thượng nói: “Tôi sắp đặt như vậy, mong rằng người sau hiểu và cùng nhất tâm hướng theo sự sắp đặt của tôi gầy dựng công phu, đảm bảo trước nhất có đủ sức làm chủ bản thân, hai là thấy rõ lẽ thực của tất cả các pháp thì đối với vấn đề sinh tử không bị nó kéo lôi”. Chư vị thiền sư tu hành đắc lực rất tự tại với việc sanh tử. Các Ngài bảo sống không khoái thiên đường chết không sợ địa ngục, hoặc chết như cởi chiếc áo nhơ nhớp mùa hạ, sống như mặc chiếc áo dầy ấm mùa đông.

Bây giờ chúng ta phải học tập, hành trì theo các Ngài để tự tại đối với vấn đề sinh tử. Nên nhớ sinh tử là việc của chính mình chứ không phải của ai khác. Tất cả những yếu chỉ trên, chúng ta cố gắng thực hành cho được. Mỗi vị tự khắc trong lòng do thương Thầy, thương mình mà tu. Những yếu lý trong lời dạy của Thầy, chúng ta nắm vững để theo đó hành trì, sao cho chấm dứt những dây mơ dễ má, cù cặn làm trở ngại sự tiến đạo. Huynh đệ cố gắng hiểu và ghi nhận những điều tôi nói để mỗi ngày chúng ta đều vui tu. Dù cho phúc duyên, hoàn cảnh xung quanh có thế nào mà nội tại gầy dựng tốt thì mình an ổn.

Hôm nay trong nhân duyên gặp gỡ này, tôi rất hoan hỉ và có đôi lời chia sẻ cùng chư huynh đệ. Mong nhân duyên lành này luôn được phát triển. Đại chúng kết chủng duyên Phật tương thân tương trợ lẫn nhau để tình Linh sơn cốt nhục mỗi ngày bền vững hơn.

Rất mong là như vậy.

Nhân Duyên Trên Đường Tu

Trong đạo Phật, nhân duyên là một danh từ rất quen thuộc mà chúng ta thường xuyên nói tới, không những Tăng Ni mà cả quý Phật tử cũng thường dùng từ này bởi các pháp đều có nhân duyên của nó. Hôm nay tôi muốn nói tới một số nhân duyên trong phạm vi tu hành của người Phật tử, tức những nhân duyên trên đường tu. Trong việc tu hành, có nhiều huynh đệ nói rằng có khi không vượt nổi hay không khắc phục những nhân duyên. Bởi không vượt được, không khắc phục được cho nên thoái tâm, thậm chí có trường hợp cách xa đạo.

Vừa rồi một số Phật tử đến thăm tôi, họ đã chia sẻ và nói về nhân duyên của mình. Có vị nói rằng không biết tại sao mà nhân duyên của con kỳ cục quá. Tôi hỏi kỳ cục là sao. Vị đó kể, từ khi con gặp được Phật pháp và qua một thời gian thử thách, con bước vào đạo, phát tâm quy y Tam Bảo, dốc lòng tu hành theo những lời dạy của Hòa thượng, của quý thầy, giữ gìn nghiêm túc những điều giới của người Phật tử và có thể giữ được thời khóa tu học của riêng mình rất tốt. Sau khi quy y Tam Bảo được một thời gian khoảng chừng ba năm, tuy đã cố gắng hết sức nhưng cũng chỉ tu tập được khoảng chừng sáu mươi phần trăm, không lên hơn nổi.

Lúc đầu con chuẩn bị cho thời khóa tu tập đầu đêm rất đầy đủ. Sắp đặt mọi việc ổn định, khoảng 7 giờ là bắt đầu tụng kinh sám hối. Vì con biết nghiệp chướng của con sâu dày, do vậy cho nên trước khi ngồi thiền, hay trước khi nghe băng giảng, con thường có khóa lễ sám hối. Sau thời sám hối, con chuẩn bị tọa thiền. Con coi đây là giờ tu tập quan trọng nhất trong một ngày. Áp dụng thời khóa này được vài tuần lễ, rồi không biết chướng duyên gì mà cứ tới giờ tu tập con lại gặp khó khăn, chuyện này chuyện nọ xảy ra. Nếu như con tham gia vô thì coi như không còn thời gian để tu tập nữa.

Trong cuộc sống có rất nhiều lần con mắc sai phạm, nên đã thành khẩn sám hối và gầy dựng trở lại. Nhớ tới lời dạy của Hòa thượng, khi vấp té phải tự đứng dậy, không đợi ai đỡ, gắng gổ tu tập, tu tập chừng nào thành Phật mới vừa lòng. Cho nên mỗi khi vấp ngã, mỗi khi thua là con cố gắng hết sức. Nhưng con cũng chỉ gầy dựng lại được trong một hai tuần lễ, rồi tiếp tục vướng vào sai phạm, không giữ nổi thời khóa tu tập. Con cho đây là một nghiệp chướng sâu dày, nhân duyên Phật pháp của con không lẽ ngang đây dừng lại. Tuy nhiên con không bỏ cuộc, nhất định không chịu thua và càng cố gắng hơn nữa. Được một thời gian rồi vì việc không đáng gì hết khiến con bỏ hẳn giờ giấc tu tập.

Đại khái là thế này. Mấy đứa cháu của con, chúng coi phim Tề Thiên hay quá nên đem về cho con coi. Nó chuẩn bị máy móc thật tốt trong phòng của con, hễ tới giờ con bắt đầu tu thì chúng bắt máy lên. Do đó cả thời khóa tu tập đầu đêm của con biến mất. Mấy đứa nhỏ không thương tiếc mà bản thân con cũng quên luôn. Con quên bẵng một thời gian cho đến khi phim hết, chợt nhớ lại từ bao lâu nay mình theo phim, lúc nào cũng nhớ chuyện trong phim. Nhớ Đường Tăng đi thỉnh kinh khó khổ như thế nào, nhớ mấy ông đệ tử, ông nào dữ dằn, ông nào hiền hậu. Hết phim này, nó lại mang phim khác tới. Tự nhiên con quen coi phim và xem như đây là công phu tu hành của mình.

Tôi vẫn ngồi mỉm cười lắng nghe. Mấy đứa nhỏ tiếp tục dụ cô hết phim này tới phim khác, nó bảo phim sau hay hơn phim trước. Nhưng qua phim thứ hai, cô theo dõi khoảng chừng một tuần, cảm thấy nhức đầu và không thể nào xem được nữa, phải đi bác sĩ. Đến bệnh viện, bác sĩ phát hiện cô mắc bệnh thiếu máu tuần hoàn não, khuyên về đêm nên ngủ sớm và phải uống thuốc cho tới ngày bỏ thân này. Từ đó cô tỉnh và gầy dựng lại công phu, không nghe lời mấy đứa nhỏ coi phim nữa, dành thời giờ lo tu. Nhưng theo lời khuyên của bác sĩ thì thời khóa tu tập đầu đêm cũng phải bỏ luôn, do đó đâu còn thời gian nào để tu. Cô hỏi tôi nhân duyên này là thế nào?

Tôi khuyên điều cốt yếu là bản thân cô phải cố gắng. Trước mắt bây giờ nên thuốc men trị bệnh. Hãy nhớ thân này là ổ bệnh, có bệnh là chuyện đương nhiên. Cô cứ uống thuốc, cố gắng điều hòa là được rồi. Việc tu hành là việc của mình không ai thay được, nếu không cố gắng, không chịu tu thì dù người khác có cảm thông, có thương chúng ta nhưng họ cũng chỉ rủ mình tham gia những trò vui vẻ để khuây khỏa, chứ không nhắc mình tu hành đắc lực. Cô nhận được ý này nên cố gắng điều hòa thuốc thang, bỏ hẳn việc coi phim, bắt đầu lại thời khóa tu tập vào cuối đêm. Cô sắp xếp thời khóa cẩn trọng sao cho không ảnh hưởng đến giấc ngủ của mọi người trong nhà. Thời gian công phu được năm, sáu tuần lễ thì gia tăng thêm giờ tọa thiền, giờ kinh hành nên thời sám hối bắt đầu muộn hơn một chút. Mấy đứa nhỏ trong nhà rất đồng tình và hoan nghinh, từ đó cô vui tu với thời khóa liên tục. Khi về đây thăm tôi, cô kể lại sự tình trong nhân duyên tu học của mình.

Tuy nhiên cô nói rằng trong giai đoạn thứ hai, cô lại gặp một nhân duyên nữa. Nhân duyên này là một nghịch cảnh. Cô có rất nhiều bạn, chơi với nhau từ nhỏ, lớn lên lại cùng làm ăn chung. Một hôm có người bạn đến yêu cầu cô hỗ trợ phương tiện để giải quyết công việc trong gia đình họ. Nghe bạn nói như vậy cô làm sao không giúp được. Cho nên cô dốc hết tất cả những gì mình có, cộng với phương tiện cô vận dụng trong gia đình, gởi hết cho bạn. Sau khi nhận phương tiện đó rồi, người bạn này thường vắng mặt và tránh né cô. Đồng thời người bạn thường tung ra những tin không tốt đẹp, ảnh hưởng đến đời sống trong sạch của một người đang dốc lòng vì Phật pháp, vì tâm nguyện tu hành. Cô sợ những đứa con nghe được tin này, nhất định sẽ không đồng ý, làm trở ngại cho việc tu học của cô. Cô hụt hẫng đến thưa với tôi xin lời chỉ dạy.

Tôi nói, nếu giải quyết về tiền bạc thì tôi không có kinh nghiệm, về việc làm ăn bên ngoài thì càng không biết, chỉ việc tu hành tôi có thể hỗ trợ giúp cô phần nào. Bây giờ cô phải ráng tu thôi. Nếu không ráng tu, cô sẽ bỏ mất thời khóa, có khi bị thoái tâm, dẫn đến chuyện bỏ đạo. Do không giữ được tâm lành, cô khởi lên những niệm không hay về Phật pháp thì có lỗi. Từ sự thua thiệt, không cố gắng tu tập, những suy thoái bởi nhân duyên trước mắt như vậy, rồi buông dần nên mình thua cuộc. Do không làm chủ được nên phát ra ngôn ngữ hoặc cử chỉ bất kính đối với Phật pháp thì mang tội lớn.

Cô đang có phiền não nên chắc chắn ngủ sẽ không yên. Tôi khuyên nên thức dậy công phu, mặc áo trang nghiêm lên dâng hương cúng dường đảnh lễ Phật, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi thiền. Lúc đó trong đầu có khởi nghĩ việc mình mất tiền bạc, việc bạn bè thân thương nói xấu, bôi bác mình thế này thế khác thì bỏ hết, buông hết. Cố gắng giữ tâm thanh tịnh, vừa dấy lên niệm gì buông liền. Buông không được cũng phải buông. Chỉ có buông được mình mới thấy yên.

Đó là một trong những trường hợp về sự trở ngại trên đường tu của chúng ta. Nếu chúng ta biết cố gắng dốc lòng tu hành và quyết tiến thì có thể vượt qua và khắc phục được, có thể làm chủ những trở ngại, chướng duyên. Ở đây, chúng ta cố gắng làm sao để chuyển hóa được tất cả những nhân duyên, sự kiện chung quanh đời sống tu tập. Trong những nhân duyên đó có nhân duyên gần và nhân duyên xa.

Nhân duyên gần là sao? Như mình được bạn bè hướng dẫn đến đạo tràng, khi nghe vị Hòa thượng hay Thượng tọa ở đó giảng kinh Phật, nghe xong cảm nhận được liền, thấy có lối vào và có thể tu tập theo lời Phật dạy. Tôi cho đây là nhân duyên gần. Tuy nhiên giai đoạn hành trì ban đầu bao giờ cũng có những khó khăn, nhưng nếu nhất định quyết tâm thì sẽ làm được. Đó là nhân duyên gần.

Nhân duyên xa là sao? Như quý Phật tử đi nghe giảng ở Thường Chiếu vào những ngày cuối tháng. Sau một ngày tỉnh tu, quý Thầy phát cho Phật tử những quyển sách đạo lý của Hòa thượng hoặc của quý Thầy giảng giải. Khi nhận được quyển kinh hoặc quyển sách, ai nấy đều rất hoan hỉ nhưng không thể ngay sau đó đọc hết. Đem về nhà có khi một vài ngày bận việc chưa đọc, thậm chí một hai tuần lễ sau mới có nhân duyên lật từng trang ra đọc. Đọc hết một lần như vậy cũng chưa chắc hiểu được gì trong đó, chỉ nhớ lõm bõm lời Phật dạy, huống gì là biết đến việc hành trì.

Nếu là một quyển sách lớn khoảng chừng hai trăm trang, hơn hai trăm trang thì có khi mấy tháng trường mới đọc hết. Đọc hết rồi còn phải có thời gian chiêm nghiệm và cũng có thể đọc lại vài lần mới nắm được những chỗ thiết yếu để áp dụng tu tập. Nói tóm lại, một quyển sách dù là mỏng cũng phải mất một thời gian mới đọc hết. Muốn hành trì những điều Phật dạy trong quyển sách đó lại cũng phải có một thời gian nữa. Thời gian đó cộng thêm với ý chí, sự sắp đặt quyết tâm tu học để trải nghiệm vào những chỗ sâu, chỗ yếu chỉ của kinh sách. Từ đó mới có thể nói mình tu được, hành trì được những lời Phật dạy. Trường hợp này tôi gọi là nhân duyên xa.

Nhân duyên gần là vừa nghe giảng giải Phật pháp, hiểu và có thể làm được. Nhân duyên xa là học hiểu Phật pháp, nhưng phải có thời gian trải nghiệm thật lâu, thật vững mới có thể hành trì được. Ví dụ, Phật dạy phiền não không thiệt, muốn tu được an ổn chúng ta phải rửa sạch phiền não. Nhưng làm sao để rửa sạch phiền não, làm sao có thể buông bỏ phiền não? Đối với phiền não nói thì dễ nhưng sự thực không phải như vậy. Chúng ta phải đọc học cho thật kỹ, xem Phật nói như thế nào về phiền não và cách để trị? Đây là những phương pháp đòi hỏi chúng ta phải có sự quán chiếu, có công phu trải nghiệm thật chín chắn mới có thể trị được phiền não.

Phật dạy phải bỏ phiền não, mới nghe qua bỏ được không? Có khi ta tưởng mình bỏ được nhưng thực sự cất nó trong hộc tủ mới, khóa lại không cho ai biết. Như tôi nhìn thấy tất cả quý Phật tử và Phật tử cũng nhìn thấy tôi, nhưng đâu có ai thấy được phiền não của tôi, tôi cũng không thấy được phiền não của quý vị. Tuy nhiên nếu động tới là nó biểu hiện ra liền. Cho nên huynh đệ chúng ta phải thực hành đúng lời Phật dạy mới hết khổ được vui. Chúng ta ai cũng đang rất cố gắng tu, nhưng sạch phiền não, hết phiền não thì chưa, bởi vì mức độ tu trì còn kém. Có khi phiền não len vào trong cơ thể chúng ta giống như những tĩnh mạch, chỗ nào phì ra được thì nó phì ra, chỗ nào trừng trợn la hét thì nó trừng trợn la hét. Đó là những hiện tượng báo cho chúng ta biết rằng mình chưa làm chủ được.
Trong cuộc sống tu hành, nếu nói làm chủ được bản thân thì chúng ta mới chỉ làm chủ được khoảng chừng bốn mươi phần trăm trở lại thôi, còn tới năm sáu mươi phần trăm thì chưa. Do mình chưa tu đúng lời Phật dạy, dù không khổ tâm, không buồn lo như những ngày trước, nhưng vẫn chưa hết phiền não. Như vậy bây giờ chúng ta phải làm sao? Ở đây tôi muốn nói rằng, dù cho duyên xa hay duyên gần, nếu chúng ta là người biết tu, ham tu, nhất định sự cố gắng của chúng ta sẽ chuyển hóa được tất cả những nhân duyên đó trở thành năng lực tu tập. Năng lực chỉ có khi chúng ta ráng thực hành cho được những lời Phật dạy. Vị nào thực hành còn quá ít thì phải ráng tăng công phu lên.

Tại Thiền viện, trong những kỳ nhập thất của đại chúng, Hòa thượng Ân sư cũng như tôi đều nhắc nhở chư huynh đệ phải cố gắng tu tập, cố gắng phấn đấu tăng thêm công phu. Tăng lên bằng cách nào? Khi sinh hoạt chung cùng đại chúng, mình ngồi thiền được một tiếng đồng hồ thì vào thất cố tăng lên một tiếng mười phút, một tiếng hai mươi phút, một tiếng rưỡi rồi đến hai tiếng đồng hồ. Huynh đệ làm được, mình cũng phải làm được. Trong hướng quyết định như vậy, nếu kiên quyết cố gắng thì một thời gian không lâu chúng ta sẽ làm được. Công phu đã tăng lên thì sự hành trì lời Phật dạy sẽ đạt từ bốn mươi đến bảy, tám mươi phần trăm. Như thế sẽ hết khổ được an vui.

Cho nên muốn hết khổ được an vui thì phải ráng tu, phải cương quyết chuyển hóa tất cả những nhân duyên chung quanh thành năng lực tu tập. Chuyển như thế nào? Người ta nói mình xấu, kiểm lại coi có xấu không, nếu không xấu thì người ta nói không đúng, đâu có việc gì phải phiền não. Nếu người ta nói đúng thì mình phải sửa, phải tu. Người nhắc cho mình tu tức là Phật, là Bồ-tát. Tu mà giận Phật, giận Bồ-tát thì tu theo ai đây? Không buông xả, cứ cất giữ phiền não chỉ làm tăng trưởng thêm vô minh. Cho nên muốn hết phiền não nhất định phải buông xuống.

Có một ví dụ nói lên sự tăng trưởng phiền não. Khoảng ba mươi mấy năm về trước, khi huynh đệ chúng tôi tham dự khóa học thiền đầu tiên tại Thiền viện Chân Không. Hòa thượng Ân sư hướng dẫn chúng tôi tu và sống theo thanh quy do Ngài soạn ra. Anh em cứ yên lòng sống như vậy, đạo tràng an ổn không ai vướng mắc vấn đề gì. Thỉnh thoảng quý Phật tử có dịp lên cúng dường, thăm Hòa thượng, thăm chư Tăng tại đây. Nhiều vị không biết, họ gọi tôi: “Ê, ông kia”. Lúc đầu tôi không biết gọi ai, tới chừng thấy họ ngoắc, tôi cũng cười vui vẻ dạ. Họ hỏi:

– Thầy tu ở đây hả?

– Dạ, tôi tu ở đây.

– Buồn không?

– Dạ, cũng không buồn gì. Lúc đầu buồn một chút, giờ quen nên hết buồn rồi.

Họ nói chuyện một cách gần gũi bình thường vậy đó. Trước khi ra về, họ rút tiền ra cho:

– Thầy nhận lấy mua bánh ăn.

Tôi vui vẻ nói:

– Trên núi bánh đâu đây mà mua, đem cúng dường Hòa thượng đi.

Sau lần tiếp xúc ấy, trong đầu tôi không có khái niệm gì, không hề nghĩ tại sao Phật tử lại gọi quý thầy như vậy. Tôi chỉ thấy tấm lòng của họ rất thương mình, thấy mình còn nhỏ nên ngoắc lại cho bánh cho tiền. Chuyện đó rất bình thường. Bây giờ gặp mình, ai cũng gọi Hòa thượng, cũng xá chào. Nếu có người nào ngoắc như xưa: “Ông ơi, lại đây”, thử xem lúc đó trong bụng mình có cái gì cộm cộm lên không? Nếu có tức là phiền não nó bò ra. Mình cất kỹ đâu không biết, bây giờ nó bò ra thành đối tác.

Hoặc một Phật tử nào đó vô trong đạo tràng, không biết đường đi. Thấy mình đi ngang, họ gọi:

– Ông ơi, muốn vô chùa đi ngả nào?

– Đi ngả này nè.

Ông thị giả đứng kế bên chỉnh liền:

– Hòa thượng Trụ trì đó, sao kêu kỳ vậy!

– Vậy hả? Mô Phật, con không biết.

Ngay đây nếu thực sự mình không hồn nhiên vui vẻ thì phiền não bò ra liền, phải không? Nếu trong lòng chúng ta chứa sẵn những ngăn tủ, những cái hộc đựng toàn phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… đủ thứ thì ai nói động đến là bực liền. Phật nói những điều này đáng bỏ, đáng buông mà mình buông hoài không hết.

Chúng ta cố gắng tu tập và làm sao chuyển hóa được tất cả những nhân duyên đó, dù là nhân duyên thuận nghịch, nhân duyên khổ vui hay nhân duyên gần xa để thành năng lực tu hành. Năng lực đó biểu hiện bằng cách lúc nào ta cũng cố gắng tu sửa. Một khi đã cố gắng tu hành thì không có vấn đề gì hết. Nếu mình có những giờ phút lơi lỏng chưa làm chủ được thì đó là chưa cố gắng. Biết như vậy, chúng ta phải tập trung cố gắng chuyển hóa để xoay tất cả những trở lực thành năng lực tăng tiến công phu tu hành, với một nhiệt tâm tu hành chừng nào thành Phật mới vừa lòng.

Khi chúng ta gặp những ưu tư, phiền não hay bất cứ điều gì bất như ý trong cuộc đời này, nếu không cương quyết, không phát tâm chuyển hoá, tu tập cho được thì nhất định những thứ đó sẽ làm chủ mình và đưa mình vào con đường tối tăm. Bây giờ thành Phật chưa được, phiền não chưa hết, buông ưu tư phiền muộn chẳng tới đâu, như vậy có nghĩa là trong bụng đầy ắp ưu tư chấp thủ. Tu như vậy thì chừng nào mới giải thoát? Đây là vấn đề trọng yếu của người Phật tử. Chúng ta nên soi xét, quán chiếu chính mình từ việc đi đứng ăn ở tu tập, hành trì học hỏi để thấy rõ những cù cặn vướng mắc, từ đó quyết tâm tu tập, nhất định sẽ hết khổ được vui.

Chúng ta đều biết muốn bỏ một tập khí là điều rất khó. Có khi mấy mươi năm ta chưa làm chủ được. Chỗ tu hành của chúng ta là cố gắng làm sao khi trong tàng thức của mình còn trong sáng thì đừng để nó chụp lấy những cáu bẩn phiền muộn. Điều này đòi hỏi bản thân chúng ta phải sáng suốt, phải thật sự nhìn rõ để bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng trong tâm thức. Nếu đã lỡ nhiễm khiến hình thành một số thói quen xấu thì phải tập trung điều trị. Đây là một cách tu.

Như người Phật tử tôi kể trên, dù cho có bận bịu chuyện này chuyện kia đến mức độ không ngồi thiền, không lạy Phật, không tụng kinh được nhưng không phải như vậy là bỏ tu. Gầy dựng công phu bằng cách kiểm lại xem mình đã vướng phải những điều gì, nếu nhiều quá thì điểm trán một số thứ quan trọng để trị, rồi dần dần trị tiếp những thứ khác. Đây là cách công phu từng bước để trị phiền não, giúp mình tập làm chủ bản thân. Tóm lại nếu chúng ta biết được năng lực tu tập của mình tốt và những tập khí, thói quen, những hơi hớm của phiền não cần phải bỏ nó thì phấn khởi chuẩn bị cho công phu của mình thật tốt. Từng bước trị phiền não, cái nào nặng thì trị trước. Có khi ba bốn mươi năm chúng ta tụng kinh, ngồi thiền nhưng cũng chưa xác định đối tác chính xác phiền não loại gì, mà chỉ trị phiền não chung chung thôi.

Bây giờ phải khéo và sáng, điểm ra cái nào nặng cái nào nhẹ, cái nào nhiều cái nào ít để có phương pháp điều trị. Học theo lời Phật dạy, biết cách trị phiền não, nhất định phải trị cho được thì phiền não sẽ hết. Trái lại, chỉ nói phiền não này xấu, phiền não kia không tốt nhưng không quyết tâm bỏ thì bỏ không được. Không bỏ được phiền não thì tu sao đây? Cho nên phải điểm trán, soi rọi để khắc trị. Dù cho phiền não như núi non, như rắn hổ, khó khăn cách mấy mà biết cách trị, biết cách bỏ thì sẽ hết. Bằng chứng là trước chúng ta có bao nhiêu thiện hữu tri thức làm gương tốt cho người sau học hỏi theo. Một khi đã quyết tâm tu thì nhất định bỏ được những tập khí, những chủng tử, những thói hư tật xấu…

Kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, điều mong mỏi của tôi là làm sao tất cả huynh đệ ai nấy đều cố gắng khắc phục những xấu dở của mình, làm chủ được những phiền não và chuyển hóa tất cả những nhân duyên hoặc xấu hoặc tốt, hoặc gần hoặc xa thành năng lực tu hành. Nhất định cố gắng tu hành thì mới được thành Phật như lời Hòa thượng Ân sư đã chỉ dạy.

Sống Tu Tập

Hôm nay nhân ngày Tạ pháp cuối năm 2011, chúng ta cùng đúc kết và chia sẻ những trải nghiệm trong công phu tu học suốt thời gian qua.

Trước hết tôi nhận thấy nhiều Phật tử trong đạo tràng ngoài thời gian tu học theo thời khóa tại Thiền viện Thường Chiếu, còn tham dự tu học đạo tràng các nơi. Đây là điều đáng mừng. Tuy bận rộn nhưng quý vị vẫn sắp xếp thời gian sinh hoạt cùng đạo tràng. Quý Phật tử đã cố gắng hành trì công phu và quyết tâm thực hành cho được khi về tại tư gia. Ngoài việc học đạo và tu tập quý vị lại phải bận rộn lo lắng cho việc đời thường như chuyện làm ăn, chuyện gia đình. Đây là nhân duyên chiếm rất nhiều thời gian. Cho nên đến thời học pháp có khi không theo được thời khóa mặc dù cũng có sinh hoạt đạo tràng.

Đến chùa được nghe quý thầy cô giảng dạy, ráng tu học nhưng khi về nhà thì nhiều việc quá. Có khi quyển kinh học tháng trước, về để trên bàn lụi hụi tới tháng sau đi học cũng chưa một lần lật ra xem. Khi thầy cô giảng dạy mình lại không biết đang nói về vấn đề gì, công phu như vậy nhất định là thiếu sót rồi. Do đó Phật tử cần chỉnh đốn lại chỗ này. Cuộc sống và việc tu tập nên hòa quyện giống như một bản nhạc sống động, âm điệu trầm bỗng du dương và chính quý vị là những nghệ sĩ tài hoa tấu lên bản nhạc đó.

Nhớ lại những năm Hòa thượng về Trà Ôn, huynh đệ chúng tôi được đi theo. Tại Tổ đình Phước Hậu, Hòa thượng kể lại Ngài phát tâm xuất gia tu học ở chùa Phật Quang, rồi được Hòa thượng Sư Ông đưa về Tổ đình Phước Hậu tu học, sau đó về thành phố. Một hôm huynh đệ chúng tôi theo Ngài vô chùa Thiên Phước, chùa nằm trong vùng chợ Trà Ôn, đi qua lạch nước nho nhỏ. Hòa thượng đi thẳng đến bàn Phật lễ Phật, rồi trở ra nhà Tổ thăm viếng chung quanh. Nơi nào cũng có liên hệ với Ngài, Hòa thượng nhắc lại ngày xưa việc tu học ra sao, Ngài ở đây làm gì.

Trong một lần thuyết pháp, Hòa thượng dạy: “Nếu mấy chú biết áp dụng pháp tu, nhớ lời dạy của Phật Tổ thì chắc mấy chú tu thành Phật hết”. Đó là lần chúng tôi theo Hòa thượng về thăm quê hương của Ngài, được đến một ngôi chùa xưa và biết được nơi đây cũng có những kỷ niệm tu học thời là Tăng sĩ trẻ của Ngài. Qua đây, tôi muốn chia sẻ với quý vị rằng chúng ta làm việc gì cũng bắt đầu từ sự thâm nhập, từ cái tâm của mình. Quyết định làm việc gì đó đã đành rồi, nhưng phải có sự chuyên nhất và quyết tâm. Nhờ quyết tâm mới loại được tất cả những vướng bận, ương yếu. Đây cũng chính là điều bổ ích cho việc tu tập của chúng ta.

Phật tử đi nhiều chùa, nghe nhiều vị giảng sư thuyết pháp, đồng thời đọc sách thêm nên có những cảm nhận về lời dạy của Phật thế này thế khác. Khi đã thâm nhập được phần nào rồi, chúng ta ghi nhận và áp dụng thường xuyên thì việc tu nhất định thành tựu. Sống và tu tập là sao? Nghĩa là tiếp thu rồi áp dụng nhuần nhuyễn lời Phật dạy vào sinh hoạt đời sống của mình. Nếu quý vị biết phổ giáo pháp vào trong đời sống, biến nó thành bản hòa tấu nhịp nhàng với việc ăn mặc, tiếp khách, đi lại, làm việc, đó chính là tu tập.

Tuy nhiên cũng có những điều hạn chế, được thuận lợi về mặt này nhưng lại khó khăn về mặt khác. Khó khăn gì? Hòa thượng dạy trong lúc chúng ta tu, những gì dấy lên là bỏ liền, phải dùng cây kiếm trí tuệ sắc bén chặt cho đứt, mới bảo vệ trọn vẹn được điều chúng ta đang hành trì. Đối với việc tu hành và đời sống, quý Phật tử phải làm sao? Không phải lúc nào quý vị cũng uy nghi trong nét của người tu hành. Dĩ nhiên Phật tử còn phải đi làm, đi chợ, tiếp cận rất nhiều với mọi giới trong xã hội. Cho nên phải hòa điệu như thế nào để chúng ta vừa tu được vừa không làm chướng ngại kẻ chung quanh. Nên nhớ không phải mọi người đều đến chùa tu như mình, cho nên có khi quý vị tụng kinh hay thỉnh chuông phải sắp đặt giờ giấc cho thích hợp. Mọi người xung quanh còn đang nghỉ ngơi mà mình đánh chuông mõ lớn quá sẽ làm động người ta. Nếu người ta bực bội rồi thì ảnh hưởng đến việc tu của mình.

Từ cách sống không hòa điệu của quý vị nên xảy ra những gay cấn. Gay cấn này đổ cho ai? Nhất định không thể đổ cho mấy thầy hướng dẫn quý vị tu rồi, cũng không thể đổ thừa cho người nào khác. Có vị nói ở nhà bận quá, đầu đêm không thể tu tụng được, lúc mọi người trong gia đình ngủ nghỉ mới tu tụng được. Đành rồi, như vậy cũng hay nhưng đó là giờ tu tụng cho chính mình chứ không phải cho những người thân đang cần ngủ, cần nghỉ ngơi. Tu cho chính mình mà làm động tới người khác là điều không tốt. Đây cũng là một kinh nghiệm sống và tu tập. Biết đem Phật pháp, đem nghi thức, đem tiếng chuông mõ, lời kinh kệ vào trong đời sống tu học của chính mình mà không ảnh hưởng gì chung quanh thì sự tu tập mới tốt.

Không chỉ nói riêng các vị Phật tử bên ngoài, giả như trong đạo tràng của chúng ta có quy chế giờ tụng kinh, tọa thiền, nghe băng, làm việc, đọc sách, đi kinh hành… đã được sắp đặt theo thời khóa cố định. Như thời khóa của đạo tràng ở Thiền viện Thường Chiếu, 6 giờ chiều là khóa lễ sám hối. Trước khi bắt đầu, chúng ta sẽ được nghe tiếng đại hồng chung và tiếng đại cổ gióng lên cùng với bài kệ hô trống:

Ngày nay đã qua,

Mạng sống giảm dần,

Như cá cạn nước,

Có gì vui.

Đại chúng!

Phải siêng tinh tấn,

Cứu lửa cháy đầu,

Chỉ nhớ vô thường,

Chớ có buông lung.

Quy kính Bồ-tát Thường Tinh Tấn.

Bài kệ nhắc nhở chúng ta về sự thay đổi nhanh chóng của cuộc sống, nêu danh hiệu vị Bồ-tát Tinh Tấn cho chúng ta nương theo đó cố gắng tu tập. Nghi thức là như vây, cho nên tới giờ đó chư Tăng dốc lực gióng đại hồng chung, đại cổ lên mà không ai rầy hết. Nếu giờ đó mà im lặng thì Hòa thượng Viện trưởng sẽ hỏi liền: “Mấy chú bữa nay quên hô chuông hô trống rồi?” Sau đó là tiếng chuông mõ hòa trong tiếng tụng niệm. Thời tụng kinh kết thúc là đến thời tọa thiền, cuối cùng là chỉ tịnh. Trong đạo tràng, tiếng chuông trống, tiếng hô kệ, tiếng tụng kinh được hô lớn, đọc lớn đều rất hợp lý. Nhưng hợp lý  trong trường hợp nào? Trong trường hợp đúng thời khóa do Thiền viện quy định. Giả tỉ sau khi xả thiền, tới giờ đại chúng chỉ tịnh, quý thầy có quyền giống chuông trống lên không? Chắc chắn là không. Nếu có là trong Tổ đình có đại sự gì đó, chứ không phải bình thường. Việc làm của chúng ta nên hợp pháp trong từng thời gian, không gian, hòa quyện và phổ nó thành nếp sinh hoạt tu học chung của đạo tràng.

Quý Phật tử tại gia học pháp tu hành, chắc rằng trong đời sống cũng phải khéo léo sắp đặt sinh hoạt tu học của mình. Nên chỉ đánh chuông mõ vừa và thỉnh thoảng thôi. Trong giờ nghỉ ngơi của gia đình thì không nên đánh tiếng chuông mõ quá lớn, làm kinh động mọi người. Hà huống là đối với hàng xóm xung quanh khu phố, nếu giờ đó mình đánh chuông mõ quá lớn, chắc chắn người ta sẽ quở nhắc, nếu mình không sửa đổi người ta sẽ thưa đến các cơ quan hữu trách trong khu phố. Đời sống và sự tu học của chúng ta nên sắp xếp làm sao cho khế hợp, ổn định với sinh hoạt đời thường của mọi người xung quanh, như thế sẽ tránh được tất cả những sự cố gay cấn. Tôi nhớ có lần được nghe Sư cô Như Thủy kể, Cô đi giảng ở thành phố, giảng xong nghỉ trưa tại nhà Phật tử. Hạnh Châu là thị giả. Nằm một hồi, Cô gọi: “Châu! Châu! Em ra ngoài coi ai cãi lộn dữ vậy?” Hạnh Châu đi một vòng trở lại nói: “Cô ơi, không có ai cãi lộn mà người ta đang nghe băng của cô giảng đó”. Nói xong Thầy trò nhìn nhau cười. Cho nên phải khéo léo mọi việc như là bản hòa tấu. Được vậy, thành quả của chúng ta trong quá trình tu học đạt khoảng chừng 20% rồi.

Tôi muốn chia sẻ về ý thức tu hành. Sự việc mà chúng ta thường xuyên chạm mặt là bản chất của vô thường. Bản chất vô thường là gì? Là sự thay đổi liên tục. Nếu chúng ta luôn cảm nhận và sống thực được với bản chất này thì chúng ta giác ngộ rất dễ. Không luận hình thức xuất gia hay tại gia, người đủ tỉnh sáng, cảm nhận bản chất của sự đổi thay giữa đây thì ngộ đạo. Bài pháp Tứ Đế Đức Thế Tôn đã dạy, chúng ta thấy những vấn đề Ngài nêu ra là vấn đề sống thực tế chứ không phải điều gì mới lạ. Ngay đó nhận được đến nơi đến chốn, tức nhận được lẽ thực của các pháp thì kiến đế, tức thấy chân lý. Cũng vậy, bản chất của sự đổi thay này, nếu tất cả người học Phật đều cảm nhận và sống thực với nó thì nhất định trong lòng sẽ rỗng rang sáng suốt, bước dần đến chỗ tâm thể nhất như. Như vậy việc tu hành đâu có khó.

Bản chất của vô thường luôn đổi thay trước mắt chúng ta. Như ngày hôm qua, cô ba Chơn Huệ ở gần thất của thân mẫu tôi, trước đó một ngày cô vẫn bình thường, nhưng đến ngày hôm sau nghe cô bị cảm huynh đệ tới thăm, một lát sau cô mệt tim rồi phút chốc theo Phật. Nếu cảm nhận sâu sắc vấn đề vô thường, con người phải đương đầu với sự đổi thay bất ngờ, chúng ta sẽ thấy bình thường khi nó đến. Người không hiểu rõ điều này, có khi cả đời cứ lơ đễnh, xem thường, để khi nó phủ lên thì hoảng loạn sợ hãi, có lợi ích gì đâu, chỉ chuốc thêm tai họa mà thôi.

Phật tử đã biết cuộc đời vô thường thế mà không lo gì hết, không nghĩ cần phải làm gì, chuẩn bị cái gì để đương đầu với nó. Thật là đáng tiếc. Nhất định ai cũng phải có một lần đương đầu với vô thường, không ai thoát khỏi. Nói lên lời này để chúng ta chuẩn bị. Phật tử được học Phật pháp, là người sáng suốt và có sẵn trong tay những phương thức tu tập, đủ tư cách ngồi trực diện với vô thường. Nếu có thể chúng ta chuẩn bị trước, chứ không phải đợi đến lúc hấp hối, tay chân quơ quào, lo lắng mời thầy đến khai thị hay cầu an cầu siêu thì không kịp đâu. Khó lắm, không phải chuyện đơn giản.

Cả đời mình nghe hiểu Phật pháp như vậy còn chưa hành trì được thì làm sao một hai lời nói của thầy cô có thể giải quyết được nghiệp tập cả khối đây. Mong manh như vậy mà Phật tử cứ vớ vào đó đợi chờ, ỷ lại thì quả thực là chưa chuẩn bị gì cho mình cả. Chính Hòa thượng Trúc Lâm đã dạy chúng ta và bản thân Ngài cũng đã chuẩn bị. Trong suốt một đời tu hành, nhất là khôi phục và gầy dựng tinh thần Thiền tông Phật giáo Việt Nam, Ngài đã nhận định đúng và đã làm đúng nên bây giờ Thiền phái Trúc Lâm được mọi người ngưỡng vọng, hướng đến tu tập. Sau khi công việc ổn rồi, Hòa thượng muốn nghỉ và nhập thất tu để lo việc của Ngài. Hòa thượng đã có một sự chuẩn bị như vậy.

Khi có thân bệnh là chúng ta đang thọ báo nghiệp. Báo nghiệp của từng người khác nhau, không ai biết hết được. Thân bệnh là điềm báo nhưng chúng ta lại không để ý, bởi vì cứ sống với những việc linh tinh nên quên bẵng việc chính, vì thế có khi vướng nhiều khó khăn. Nếu chuẩn bị kỹ, nhất định chúng ta vào được chỗ an ổn, khi đi cũng biết được chỗ đến, hoặc đi thẳng đến chỗ mình đã chọn. Tuyệt đối không bị nghiệp dẫn, không bị đến chỗ nào mà ta không muốn. Trong đời thường phần nhiều mình bị nghiệp dẫn, không chủ động được.

Tôi nhớ lại lời dạy của Đức Thế Tôn với một người trong hoàng thân là ông Thích Ma Ha Nam. Ông nói rằng Đức Phật đi tu, các hoàng tử lớn như A Nan, Nan Đà đi tu, rồi đến mấy ông nhỏ hơn như La Hầu La cũng đi tu, bây giờ hoàng thành còn lại mình ông. Ông phải chịu trách nhiệm quá nặng, mai kia mốt nọ khi nhắm mắt ông có được theo Phật không? Phật nói: “Không có gì lạ đâu Ma Ha Nam, ta lấy ví dụ như cái cây, bóng của nó ngả về đâu thì mai kia mốt nọ khi bị đốn nó sẽ ngả về hướng đó. Nếu hằng ngày tâm ông ma mị thế này thế khác thì những thứ đó dẫn ông đi, ta không cứu được. Nếu ông lo chỉnh đốn, tâm không bị ma mị lôi dẫn thì ông sẽ đi theo con đường sáng. Đó là trường hợp không bị nghiệp dẫn”.

Rõ ràng nếu trong mọi sinh hoạt hằng ngày, người phổ vào trong đời sống những chủng nghiệp không có đạo đức, không tốt đẹp, nhất định mai kia mốt nọ thứ này dẫn họ đi. Người thích ca nhạc thì ca nhạc dẫn đi, thích xe đẹp, nhà đẹp thì nó dẫn đi, không bao giờ trật đường rầy đâu mà sợ. Nhân duyên nào nghiệp quả đó, xưa nay luôn như vậy. Trong kinh Pháp Cú nói rằng, như dấu xe đi theo bước chân của con vật kéo xe, không lệch, không khác. Cũng vậy, nghiệp nhân chúng ta gây như thế nào thì mai kia mốt nọ nghiệp quả đến sẽ như thế ấy. Ta gây những nghiệp nhân tăm tối hãi hùng, sợ sệt, điên đảo lung tung thì nhất định lúc lâm chung nó sẽ đến lôi ta đi. Một điều có thể nói là bi đát mà tôi nghĩ rằng có khi chúng ta chưa cảm nhận được. Chúng ta nên nghiên cứu cho thật kỹ lời dạy của Phật, tức là phút lâm chung, lúc mà chúng ta phải xả bỏ tất cả những gì mình ôm giữ từ bao nhiêu lâu, đã từng ham thích, những thứ đó thành áo giáp, thành đường rầy dẫn chúng ta đi vào sào huyệt của nó.

Chúng ta đủ duyên kết chủng Phật, cũng sống và hành trì Phật pháp nhưng sự gầy dựng công phu chưa bảo đảm, nên phút lâm chung chưa thể an toàn. Chỗ này chư Tổ nói giống như lúc con cua bị lột xác đau đớn vô cùng. Mình không phải là con cua, cũng chưa lột xác nhưng chúng ta biết rõ sự đau đớn ấy. Điều này chắc chắn ta có thể cảm nhận, đau đớn lắm chứ không phải thường. Như trường hợp người thân chúng ta mất, nếu là người thân bình thường, ta chảy nước mắt sơ sơ thôi. Nhưng nếu người đó là Thầy Tổ, cha mẹ mình thì chắc là mình sẽ khóc to lên, không ngại ngùng gì. Khi đó muốn dừng lại, cảm xúc ấy cũng không chịu dừng, chỉ khi nào quá mệt mỏi, nó tự dừng thôi. Cái đau khổ, mất mát này khó có ai chia sẻ được, phải không?

Đó là đối với người thân, còn tới mình bỏ thân thì sao đây? Cha mẹ cho cái thân, Thầy Tổ cho cái đầu, Phật pháp cho cái tâm. Quý vị có biết thân này sẽ mất kiểu nào không? Nghĩ tới đó mình khiếp sợ lắm chứ, bởi ta còn thương tiếc nó. Dù cho bệnh hoạn cỡ nào nhưng nghe tới chết là hoảng sợ. Khi thân xài hết được giống như chiếc xe hết date, bánh xe, căm xe, trục xe súc tung từng mảnh, mỗi thứ mỗi nơi, không thể sửa chữa nữa. Chúng ta nghe sắp chết sợ hãi kêu than, ai có thuốc gì hay cho uống để được sống, chứ chưa muốn chết. Cũng có trường hợp đau đớn quá, xin thuốc uống để chết cho khỏe. Tuy nhiên người nào nói như vậy, e là người đó sợ chết nhất. Chỉ có người sống được với đạo mới an nhiên tự tại, như các Thiền sư nói chết như cởi chiếc áo mùa hạ nóng bức nhơ nhớp. Đó là lời nói thật của những bậc đã làm chủ được thân tâm này hoàn toàn. Chúng ta chưa được như thế thì phải cẩn thận.

Hồi nhỏ khi nghe nói đến cận tử nghiệp, tôi nghĩ nó chỉ tới với những ai sắp chết, chứ mình chưa tới cho nên không sợ. Khi chứng kiến người sắp chết, họ la hét dữ quá lúc đó tự nhiên sợ. Sợ ma là một, sợ mình chết là hai, sợ ảnh hưởng của người chết tới mình là ba. Đến đỗi bậc chí thân như cha mẹ vừa chết, bảo mình đến gần thì sợ lắm. Hỏi sợ gì, nói sợ ma, như vậy chẳng lẽ cha mẹ mình là ma? Đó là một tâm lý si mê chấp ngã điên đảo, không đúng với đạo lý. Chúng ta chỉ loại bỏ được tâm lý này khi nào mình phổ Phật pháp vào đời sống và tu tập hài hòa.

Do sự tu tập không khéo khiến mình không vui khi gặp những nghịch duyên của bản thân hoặc của mọi người chung quanh. Cho nên chúng ta phải khéo léo áp dụng Phật pháp vào đời sống, như một nghệ sĩ tài hoa tấu được bản nhạc hay. Muốn thế phải hội đủ các điều kiện như giọng đàn, tiếng ca, thời điểm thích hợp và quần chúng chấp nhận. Trong tu hành, dù thâm nhập Phật pháp nhưng chúng ta cũng phải tế nhị khéo léo, buông xả một cách dễ dàng. Không khi nào đang ngồi thiền lại đi đóng cửa hoặc làm việc khác. Ngồi thiền là ngồi thiền. Nếu quỳ lạy, đều thành khẩn trang nghiêm trong khóa lễ sám hối, riêng mình làm không được. Nội tâm lý hụt hẫng đó thôi cũng làm cho mình tủi phận rồi, nói gì đến những khó khăn bên trong cơ thể khi tuổi già yếu, làm trở ngại công phu tu hành của chúng ta nhiều lắm. Cho nên chư huynh đệ còn trẻ phải cố gắng nỗ lực, tranh thủ tu, đừng để già yếu muốn tu, tu không được.

Chúng ta nên thường xuyên kiểm soát, soi xét lại mình rồi áp dụng Phật pháp, phổ được bản nhạc đạo vào đời. Thành công của người tu là làm sao làm chủ được mình, không bị cảnh duyên bên ngoài kéo lôi, trong đời sống luôn luôn không bị động. Chúng ta không chạy theo trần cảnh vì biết nó không thiệt, từng ấy việc thôi cũng đã là khá lắm rồi. Bởi việc này không phải dễ đâu. Xét lại thật kỹ lòng mình, có chuyện ta không chạy theo nhưng có chuyện không ai bảo ta vẫn vác mõ chạy theo, dính mắc gỡ không ra, chứ chẳng phải thường. Như vậy giác ngộ giải thoát tìm ở đâu? Dừng nói là học kinh Đại thừa hay làm gì cao tột mới giải thoát mà thực sự ngay trong đời sống đây, một dấy niệm chúng ta buông được là giải thoát, buông không được là trầm luân trong sinh tử.

Nên bây giờ trước nhất chúng ta nên kiểm soát lại mình trong mọi thời, mọi lúc. Tiếp khách, thọ trai, tụng kinh, tọa thiền hay đang đi kinh hành một mình, phải kiểm soát thật kỹ, nhìn thật chính xác xem mình có chạy theo các trần cảnh không. Ví dụ đang ngồi nghe pháp đây, nghe ngoài kia “đùng” một cái, mình có chạy ra không? Chạy ra liền. Bước thứ nhất là xem mình đối trước trần cảnh như thế nào, có mê mờ chạy theo nó không. Bước thứ hai là mình có làm chủ được đối với trần cảnh không? Hay là nó làm chủ mình. Hôm đó, đang ngồi đọc sách, một số Phật tử tới chào tôi, họ giới thiệu với nhau: “Đây là Hòa thượng trụ trì, quý vị đảnh lễ Hòa thượng đi”. Cái mạng mộc của tôi, thấy ai cũng cười cười vậy thôi, không biết tên họ cũng không để ý chi, nghe Phật tử bảo nhau: “Ông thầy này dễ thương quá”, tôi cũng tưởng thiệt như vậy. Họ lễ Phật xong rồi vòng lại thưa: “Bữa nay chúng con đi chiêm bái lễ Phật ngọc, Thầy đi không, con mời Thầy đi”. Tôi cũng chưa biết làm sao, suýt chút nữa bị kéo lôi rồi. Sau khi nghe họ nói đủ thứ, tôi trả lời: “Cảm ơn quý Phật tử, chốc nữa tôi có công việc không thể đi được, thôi để hôm khác”. Buổi sáng đi rồi buổi chiều họ tới nữa, tìm gặp tôi thưa: “Thầy ơi, mai mốt đi nghe Thầy, lễ Phật ngọc có phước lắm”. Tôi lại cười, họ ở chơi tới gần tối mới về.

Ở đây, tôi muốn nói tới chỗ mình bị kéo lôi. Chúng ta thường để cho các cảnh bên ngoài kéo lôi, buông tay với ngoại duyên nhiều hơn là bình tĩnh, sáng suốt, ổn định. Nếu dễ dàng để cho ngoại duyên kéo lôi, như vậy là mình không có lực, không làm chủ. Do đó chúng ta khó thành tựu công phu hành trì và không có công đức. Công đức không có thì trí tuệ do công phu tu hành cũng không có luôn. Trong đời sống hằng ngày, nếu chúng ta cứ buông xuôi cho mọi việc trôi qua theo thời gian như vậy, cuối cùng ta sẽ về đâu? Không có định thì không có tuệ, không định không tuệ thì nghiệp sẽ dẫn mình đi mãi trong luân hồi sinh tử. Nếu sợ điều này thì ngay bây giờ dừng lại hay cứ để cho nghiệp kéo lôi? Tháng này năm này đi lễ Phật ngọc ở đây, tháng khác năm khác hẹn đi Ấn Độ lễ Phật thiệt bên đó, rồi mai mốt sẽ đi đây đi kia. Phật ở mười phương, Phật nào chúng ta cũng tới lễ, nhưng cuối cùng ông Phật của mình thì cô đơn, vì chúng ta không sống, không gần gũi, không nhớ tới Ngài. Như vậy ta sẽ trôi dạt mãi trong luân hồi sinh tử.

Chúng ta là đệ tử Phật nên tu theo lời Phật dạy. Là người tu thiền thì phải làm chủ được chính mình, vì tu thiền là tu trí tuệ chứ không có gì lạ. Làm chủ được mình thì con đường luân hồi cũng làm chủ được, không bị nghiệp dẫn cho nên phải chọn đường mà đi. Bây giờ mình chọn trước để mai mốt tới lúc như cảnh con cua bị lột vỏ, mình cũng bình thường mà đi theo con đường đã chọn. Đó là con đường Phật, con đường Bồ-đề chánh giác, thanh tịnh, con đường giác ngộ giải thoát, chứ không phải con đường do nghiệp dẫn.

Phật tử đọc kinh sách nói về nhân quả, thấy con đường nghiệp dẫn rất đáng sợ. Tôi có nghe các bậc thầy kể về chuyện nghiệp dẫn nên cũng cảm nhận được phần nào. Có người huynh đệ cho hằng ngày sống ba nghiệp buông lung, tạo những nghiệp nhân bất hảo. Do vậy ngay trong đời sống này bất tường, tới lúc xả bỏ thân thì cảnh xấu ác hiện ra. Người này vừa nhắm mắt liền nghe tiếng cọp rống, sấm chớp ầm ầm thật kinh khủng. Đây là quả do khi sống tạo những nhân bất hảo, nó hình thành nên những quả khủng khiếp như vậy. Bấy giờ không biết phải làm sao? May còn chút sức khỏe co chân chạy, định tìm chỗ ẩn náu. Chạy một hồi mệt quá, hả họng thở như gần hết hơi. Khi đó thấy lùm bụi liền nghĩ mình chui đại vô đây ẩn núp một chút. Vừa nghĩ chui vô thì mở mắt ra thấy mình mang lông đội sừng. Ôi thôi! Đó là chỗ thác sanh của loài súc sanh, quỷ đói… Thật đáng khinh sợ.

Trong đời sống sinh hoạt tu tập của chúng ta, nên hòa điệu vui vẻ, sống có đạo lý và giá trị để tráng không gây nhân bất hảo, không bị rơi vào chỗ tăm tối. Khi mang lông đội sừng thì làm gì nữa? Nếu còn nhỏ thì được người nuôi dưỡng, nhưng lớn lên phải kéo cày, bị người ta đâm chém mổ xẻ, có nói gì được đâu. Hễ mang lông đội sừng thì phải trả vậy đó, trả cái nghiệp nhân chính mình đã gây tạo từ trước. Đôi khi vừa trả, vừa gây nhân trong đó nữa mới nguy, không biết chừng nào mới rồi.

Bây giờ muốn sống và tu tập thích hợp, hòa điệu an lạc thì chúng ta phải cắt đứt, phải buông cho được tất cả những sự tăm tối, loạn tưởng, những dấy niệm, được thế mới an ổn. Mong rằng tất cả chúng ta đều áp dụng lời Phật dạy vào đời sống, để sớm được làm chủ và thoát khỏi nỗi khổ lớn sanh tử.

Rất mong như vậy.

 

Buông Bỏ

Hôm nay, tôi có một vài điều nhắc nhở góp thêm vào đời sống sinh hoạt tu học của đại chúng. Tôi luôn mong rằng chương trình tu học của huynh đệ trong đạo tràng được nâng lên một mức đặc biệt. Quan niệm của tôi về việc học Phật pháp không có cao thấp, tất cả đều do nhân duyên và mỗi hành giả học Phật có sự quan tâm, quyết tâm riêng. Nhìn chung tôi thấy mức độ lãnh hội Phật pháp và công phu hành trì của đa số quý vị ngang bằng nhau. Tuy không xuất gia cùng một lượt và nhân duyên đến với đạo của từng vị khác nhau, không ai giống ai nên chủng duyên sâu xa của từng người đối với Tam Bảo thì không thể nói dày mỏng thế nào. Mỗi người kết một chủng duyên riêng nhưng nếu quyết chí thì ai cũng có thể thực hiện tốt sở nguyện của mình.

 Khi sống trong đại chúng, tôi luôn luôn muốn gần gũi làm người đi trước nhắc nhở, động viên quý vị trên con đường tu hành. Đối với tôi đó là một nhân duyên đặc biệt, bởi thế dù thân có nhiều bệnh nhưng lúc nào tôi cũng muốn sống gắn bó với đạo tràng. Những quy chế Hòa thượng Trúc Lâm nêu lên, tôi thấy như quen thuộc từ hồi nào. Những điều Ngài dạy có uy lực, sức mạnh làm nền tảng vững cho bất cứ thiền sinh nào muốn theo tu học. Từ thập niên 70 khi được Ngài trực tiếp hướng dẫn, có một điều trong quy chế rất đặc biệt mà tôi ấn tượng là “phủi tay”. Đối với quy chế này, khi quyết tâm thực hiện phải trải qua biết bao trăn trở. Lúc chưa xuất gia, mỗi chúng ta đều có những nhân duyên riêng, bây giờ vô Thiền viện được nghe Hòa thượng tuyên bố phải gỡ bỏ hết những nhân duyên, tư kiến để thực hành tốt quy chế thiền môn.

Ngày đầu tiên lên núi, lúc đó sáng sớm Hòa thượng chống gậy đi từ trên xuống, vừa gặp Ngài tôi mừng lắm. Lễ Hòa thượng xong, Ngài bảo đi lên trên. Tôi được lãnh hai bộ đồ vàng, y áo có sẵn nên chỉ lãnh thêm một chiếc áo tràng để mặc khi tọa thiền, thọ trai. Trong khoảng chừng nửa tiếng, tôi thay đồ và gom hết tất cả vật dụng mang theo gởi cho mấy huynh đệ đem về. Hòa thượng nói đã lên tới đây rồi thì phủi tay đi, tất cả những gì dưới núi đều giao gởi lại hết. Cuộc sống ở đây đơn giản, không có nhiêu khê như phố thị.

Trước khi lên núi tôi không có sự nghiệp gì, chỉ chạy tới chạy lui lăng xăng trong những việc Phật sự nhỏ hoặc liên hệ bổn đạo Phật tử này khác. Khi đó tôi còn quá trẻ, kinh nghiệm không có, đạo đức chưa tròn, trí tuệ cũng không ra chi. Hòa thượng hỏi lý do lên núi tôi đã đáp “bừng con mắt dậy thấy mình tay không”. Thật tình nhìn lại tôi thấy cũng không có gì để phủi, chỉ một vài món đồ cá nhân như đồng hồ hoặc vài vật linh tinh không đáng kể. Khi bắt đầu đời sống buông xả, anh em chúng tôi cảm thấy quen thuộc. Vì được Hòa thượng trực tiếp hướng dẫn nên chúng tôi không gặp trở ngại hay khó khăn gì.

Sống chung huynh đệ với nhau, dần dần những gút mắc cá nhân lại trở thành kinh nghiệm chung. Có một người huynh đệ là con cưng trong gia đình. Tuy đã xuất gia và tài sản trong nhà anh không đặt nặng, nhưng khi có chuyện cần anh ký giấy hoặc chuyển sổ chuyển tên thì gia đình kêu về. Trong những trường hợp như thế anh có cố gắng cỡ nào, cuối cùng cũng phải ôm lấy nỗi niềm khắc khoải, bất ổn. Ở nhà có chuyện không tốt thường tin cho hay nên anh luôn bị vọng tưởng quay cuồng không yên. Mới đầu thấy như không có gì nhưng trong sâu lắng anh lại bất an. Nhất là những lúc ngồi một mình, nội lực tu hành không hóa giải nổi, đạo pháp không chen vô được nên nỗi bất an càng ngày càng lớn.

Đặt mình trong hoàn cảnh đó, chúng ta phải hóa giải làm sao? Những thời thiền, thời pháp và sự nhắc nhở, động viên của thầy bạn chính là phương tiện làm vơi dần trở ngại. Có những vọng tưởng chỉ phớt nhẹ bên ngoài nhưng cũng có những vọng tưởng như mũi tên cắm phập vô tim mình. Nếu huynh đệ nào bị những thứ vọng tưởng đó cắm sâu vô tim thì không được đầu hàng mà phải cố gắng giựt nó ra cho mạnh. Hồi đó chúng tôi đều là những Tăng sinh của Phật học đường do vậy phần nhiều trẻ tuổi. Người lớn nhất khoảng hai mươi sáu, hai mươi bảy, còn nhỏ nhất khoảng mười bốn, mười lăm tuổi. Vì chưa được học pháp nơi Hòa thượng ngay từ nhỏ nên chúng tôi cũng huân tập nhiều vọng tưởng. Khi được Ngài dạy vọng tưởng không thiệt, chừng đó chúng tôi mới an tâm và tin tưởng nơi mình luôn có tánh giác hằng tồn tại. Bất cứ thời điểm nào trên giảng đường, dưới nhà bếp, ngoài vườn cây trong chùa… đi đến đâu gặp chúng tôi, Hòa thượng đều nói pháp cho nghe.

Chúng ta là con cháu, là đích tử đích tôn của Ngài, những điều Ngài chỉ dạy ta đã áp dụng và sống như thế nào? Hầu hết đa số mới chỉ thực hành được chút ít phần trăm, phải không? Có người làm được những việc lớn lao, còn điều hết sức bình thường lại làm chưa xong, chưa buông nổi. Chúng ta phải thường xuyên kiểm tra công phu tu hành hàng ngày. Đạo lực, trí tuệ và sự phát huy tinh thần tu học bên trong của mỗi vị được thể hiện qua các sinh hoạt hàng ngày. Cho nên nhất định chúng ta phải huân tu nội lực để tự làm chủ mình, tự thể hiện cuộc sống an vui hạnh phúc trong lòng đại chúng.
Buông bỏ là một trong những bài học đầu tiên chúng tôi được Hòa thượng Ân sư dạy. Tiêu đề Ngài dạy chung cho tất cả anh em là: “Các chú phải buông bỏ”. Trong viện có mấy đại huynh như cụ Phước Hảo, cụ Đắc Pháp là những vị lớn tuổi. Cụ Phước Hảo lớn hơn tôi 12 tuổi, cụ Đắc Pháp hơn tôi nửa con giáp. Trước khi vào Thiền viện, các vị này đều nằm trong bộ phận lãnh đạo của Học viện Huệ Nghiêm. Trong trường hồi đó có các chức vụ như Giám đốc, Giám học, Giám thị, Giám tân là Tri khách. Cụ Phước Hảo là tân Giám đốc, kế thế các Hòa thượng đi trước, còn cụ Đắc Pháp là Giám học của học viện. Mặc dù tôi không phải là giám gì hết nhưng lại có nhân duyên cùng tu học với các Ngài. Tuy không có chức vụ gì, nhưng tôi được vinh dự là sư huynh dạy lại các chúng nhỏ trong học viện. Trường cấp cho chúng tôi một chiếc xe, hàng ngày đi học ở Đại học Vạn Hạnh, về có chỗ nghỉ ngơi đàng hoàng. Tới giờ thì xuống dạy kèm chúng nhỏ, cuối tháng cũng được nhận lương nữa.

Tuy chức danh nhỏ vậy thôi nhưng cũng khó thảy nó ra. Nghe ai nói gì về học viện mà có mặt mình trong đó thì mắt sáng lên. Nó là những cái khôn ngoan, lanh lợi, thông minh của vọng tưởng cho nên dần dần chúng ta có thể thấy rõ mặt thật của nó để buông. Một nụ cười bình thản sau khi tọa thiền vào buổi khuya, một cảm giác nhẹ nhàng khi nhìn trời đất thênh thang vào buổi sáng, thật vô cùng quý giá đối với tôi sau những năm tháng dong ruổi miệt mài. Chân Không bốn bề gió lộng, đứng trên núi cao nhìn xuống thấy thống khoái vô cùng. Bất chợt trong những lúc như vậy, chúng tôi áp dụng được lời dạy của Phật qua sự chỉ dạy của Hòa thượng Ân sư. Cơn gió thổi đùng đùng ngang qua rồi thôi, có ai nắm lại được đâu. Vậy mà đối diện với vọng tưởng, biết nó không thiệt nhưng bỏ chưa được. Chúng tôi tìm mọi cách để nhận ra, hiểu thấu và áp dụng sống theo lời Phật Tổ dạy ráng buông. Nếu không như thế, chẳng những không buông lại còn nuôi lớn vọng tưởng nữa mới khổ.

Buổi sáng trước khi ngồi thiền, chúng tôi làm công tác một chút. Mỗi người có dao cuốc riêng, ra vườn chuối hay phát cỏ, dọn dẹp xung quanh không vất vả lắm. Công việc tuy đơn giản nhưng đôi khi anh em không đồng quan điểm nên có sự trở ngại. Những lúc như thế Hòa thượng xuất hiện: “Đó là chỗ mấy chú chưa bỏ được nên bây giờ nó lòi ra, thấy không?” Phật dạy nó là những con rắn độc ở trong tâm chúng ta. Chỉ cần sơ sót thiếu trí tuệ, nó sẵn sàng mổ lại mình chứ không phải mổ ai hết. Đó là trải nghiệm trong công phu tu hành hàng ngày.

Người xuất gia có hai nhiệm vụ chính là thượng cầu Phật đạo và hạ hóa chúng sanh. Điều này ai đặt định cho mình? Nhiều huynh đệ nghĩ không ai đặt định hết, do vậy muốn làm hay không làm cũng được. Tự kiếm chỗ tu miễn sao có cơm ăn, có phương tiện sinh hoạt là đủ rồi, việc gì phải hạ hóa chúng sanh chi cho mệt. Nói như vậy nghe có thông không? Nhiệm vụ của một người đệ tử Đức Phật là phải đầu đội vai mang, giác ngộ cho mình rồi tiếp tục giúp người khác giác ngộ. Nếu chẳng như thế coi chừng mang lông đội sừng không có ngày ra. Bởi vì ta đã vai mượn của đàn na tín thí quá nhiều, nhân duyên quả báu không phải là việc có thể xem thường. Đã vay thì phải trả, trong luật nhân quả không có chuyện quỵt nợ được đâu. Nên nhớ dè dặt chớ có buông lung.

Thượng cầu Phật đạo là sao? Cầu Phật đạo là cầu cái gì? Không phải học thuộc năm bộ kinh bảy bộ luận, chứng chỉ Hán học, Sử học… mà thượng cầu Phật đạo là chỗ thâm nhận. Trong nhà thiền nói đó là kiến tánh, nhận ra ông chủ và sống được với ông chủ của chính mình. Tỉnh giác nhận ra ông chủ đừng để bị xoay chuyển bởi vọng tưởng. Cầu Phật đạo là như vậy. Cho nên tụng kinh tọa thiền nhiều thì tốt, không tụng kinh tọa thiền sẽ bị rầy. Tại sao? Vì ta chưa nhận diện và làm chủ được mình, chưa làm tròn nhiệm vụ thượng cầu Phật đạo, do vậy phải hành trì theo quy chế chung. Hàng ngày tụng kinh, ngồi thiền mấy thời, dù bệnh tật cũng phải ráng vượt qua. Có người đặt vấn đề, tu thiền tại sao phải áp đặt vô khuôn khổ cho cực. Ngồi làm gì bốn năm thời một ngày, đau chân muốn chết luôn. Hòa thượng nói vui: “Dễ mà, nếu tôi gõ đầu mấy chú thấy rắn độc lòi ra thì phải tiếp tục ngồi, ngồi nhiều hơn nữa. Khi nào nó không lòi ra thì cho mấy chú xuống núi”.

Hòa thượng dạy phải làm chủ các vọng tưởng, các dấy niệm. Khi dấy niệm khởi lên mình biết, cái biết đó là trí tuệ, nhà thiền gọi là “liễu liễu thường tri”. Chúng ta ai cũng sẵn tánh biết, nó luôn có mặt không khi nào vắng. Nửa đêm đang ngủ, có tiếng động mình biết rõ ràng đó là tiếng người đi lại hay tiếng xe chạy hoặc tiếng chó sủa. Rõ ràng cái biết luôn thường trực. Tuy nhiên nếu không dừng ở đó, nghe tiếng động giật mình, thao thức không ngủ tiếp được hoặc tức giận đùng đùng thì cái biết chân thật đã bị tâm hư dối phân biệt, vọng động che khuất rồi.

Hòa thượng thường hay nhắc chúng tôi, cái biết chân thật không bao giờ phụ bạc mình nhưng chúng ta cứ quay lưng với nó, chạy theo những bóng dáng bên ngoài. Tiếng con chó sủa biết con chó sủa nhưng không chịu dừng, ngang đó suy nghĩ thêm. Con chó sủa ai, giờ này ai đi ngang hay là có ma? Ma gì đây? Ma có đầu, ma không đầu, ma có chân, ma không chân… Tưởng tượng ra một loạt như thế. Do không dừng được nên ảo giác dẫn đi xa mịt mù. Sáng ra kể lại cho huynh đệ nghe, hôm qua tôi chiêm bao thấy con ma lớn quá, chân dài cả thước, áo của nó đen thui, đầu tóc bù xù hôi hám, nó rượt tôi chạy muốn chết. Sự thực nếu là con ma thiệt thì vị ấy đã đứng tim chết tại chỗ, đừng nói chạy nổi. Đó chỉ là những tưởng tượng mà thôi.

Tại sao người xưa thâm nhập và sống được với cái chân thật dễ dàng còn chúng ta thì không? Vì chúng ta đa tưởng tượng, quen sống với vọng động. Chư vị Tổ sư ngày xưa đa số sống trên núi non, không nghe nói các Ngài có môn đệ, nhưng khi ngộ đạo rồi thì học chúng các nơi tự tìm đến. Hành trạng của chư vị Tổ sư kể lại, các Ngài sống trên núi chỉ uống nước suối, ăn rau rừng, hái lá cây làm phương tiện che thân. Vậy mà các Ngài vẫn sống tự tại, an nhàn với trời trăng mây nước, với núi rừng bao la. Có những chi tiết trong sử khiến chúng ta hãi hùng kính phục, tại sao các Ngài có thể sống được như vậy? Bởi vì khi đã quyết chí tu hành, người xưa buông quách hết chứ không còn nhớ ba má, nhớ đất đai, địa vị và nhiều nhân duyên khác như chúng ta. Chỉ có như thế người xưa mới thanh thản vui vẻ sống đời Tăng sĩ. Tất cả đều trải qua sự tôi luyện trong điều kiện cực kỳ khó khăn nguy hiểm, mới có được sự vững vàng kiên định như thế. Ngược lại chúng ta thiếu sự tôi luyện nên sanh ra nhát nhúa không dám dấn thân. Nói buông mà thực sự chưa buông được bao nhiêu.

Chúng ta phải làm sao để được an ổn thực sự. Danh tuy nhỏ không đáng gì hết mà buông không được. Biết đời sống vô thường giả tạm cũng không tìm được niềm an vui chân thật. Không làm chủ được mình thì dở quá, phải không? Nếu biết phản quan chính mình, sống bình thường, ngủ nghỉ, làm việc bình thường nhưng luôn có trí tuệ chiếu soi thì an ổn thôi. Đối diện với bất cứ sự duyên gì, chúng ta phải biết phản quan và kiểm tra kịp thời, nhịp nhàng để giữ vững sự sáng suốt tỉnh táo, chủ động đối với tất cả pháp trần. Xuất gia tu hành rồi cần có công phu đảm bảo, sao cứ đặt vấn đề phải làm này làm kia, như thế không đúng đâu. Luôn nhìn lại mình để kiểm điểm xem công phu và chỗ đang sống như thế nào, đừng để thời gian qua suông uổng lắm.

Nhân duyên chúng ta hiện sinh trong đời này với bao nhiêu chủng nghiệp tập khí và một dãy quan hệ gia đình dòng tộc, bây giờ nói buông đâu phải dễ. Nó là những dây mơ dễ má ăn sâu trong máu thịt chúng ta từ nhiều đời kiếp, phải có thời gian và công phu đắc lực mới dần dần hóa giải được. Bữa nay ngồi thiền chợt nhớ người bà con dưới miền Tây, sáng ra nhớ người bà con trên Đà Lạt, đủ thứ tâm tình phiền lụy. Những vị lớn tuổi khi nhìn lại cuộc đời đi qua thấy y như một pho lịch sử, photo tất cả những sự việc từ ngày sanh ra khóc oa oa đến lớn lên đi học, đi làm cho tới già suy. Nói thế để thấy vọng tưởng nhiều vô kể. Có lần tôi thưa với Hòa thượng Ân sư:

– Bạch Thầy, sao con nhiều vọng tưởng quá.

– Ờ, năm nay chú bao nhiêu tuổi?

– Dạ, con 70 tuổi.

– Quá không! Một đống 70 năm.

Một ngày không biết bao nhiêu sự kiện mà 70 năm gom lại thì vọng tưởng nhiều hay ít? Do vậy buông rất khó. Nếu dễ thì chỉ cần đạo lực, trí tuệ biết nó là vọng tưởng không thật, ngay đây hết. Nói buông rồi nhưng có khi chỉ bằng mặt chứ không bằng lòng. Bên ngoài sống vui hòa nhưng thực sự bên trong không ổn. Ngồi lại với nhau, nghe huynh đệ nói sơ hở một chút là vẻ mặt không ưa hiện ra liền: “Anh nói vậy sao phải, tôi không đồng ý” chẳng hạn. Vì bản ngã của mình quá lớn, từ nhỏ đến giờ đã huân tập, photo quá nhiều điều nên bây giờ tiếp duyên xúc cảnh bị dính liền.

Tâm phan duyên, phân biệt tốt xấu luôn đi đầu. Suy nghĩ manh nha, nhen nhúm khiến mình dính mắc, ghi nhận và bảo thủ đủ thứ vọng tưởng. Buông mặt này, nó hiện mặt khác. Tuy nhiên không phải là không có cách trị. Trong sinh hoạt bình thường, giờ ăn, giờ nghỉ, giờ làm việc, giờ tu học, giờ tụng kinh, giờ tọa thiền, giờ nghe giảng dạy, tất cả thời đều bình ổn. Học chỉ học, thọ trai chỉ thọ trai, đây là cách Hòa thượng dạy cho thiền sinh thực tập sống chỗ chân thật. Làm việc gì biết việc đó, tụng kinh biết tụng kinh, ngồi thiền biết ngồi thiền, ý niệm nào dấy khởi lên buông liền. Đó là cách tu giản dị nhất và cũng trọng yếu nhất để điều phục vọng tưởng.

Trước đây, tôi có nghe một số Phật tử nói chuyện về những người say mê nghiên cứu khoa học. Họ mê công việc đến mức khi hút thuốc, đưa điếu thuốc vô miệng rồi để hoài, tới cháy môi mới giật mình lấy ra. Đam mê quên ngày tháng chỉ cốt làm sao vỡ lẽ được đề tài của mình. Có vị trong ngày cưới, sắp đặt đâu đó ổn rồi, tới giờ rước dâu không thấy chú rể đâu, thiên hạ kiếm tá lả. Té ra anh ta ở trong phòng nghiên cứu đang ngồi say sưa với phát minh của mình. Đối với họ mọi việc chung quanh coi như không, quan trọng là làm sao vỡ lẽ việc của mình. Nghe thế tôi thích quá. Nếu các hành giả, các thiền sinh cũng được như vậy thì tốt biết bao. Chỉ mong đại chúng quên hết quên sạch những cù cặn, vọng động tập trung đắc lực vào công phu thì lo gì không phát minh đại sự.

Trong thiền đường của chúng ta, giờ tọa thiền có đến sáu bảy chục vị. Mới vô ngồi rất trang nghiêm, nửa chừng thấy vị này lắc qua, vị kia cúi xuống. Vọng tưởng bắt đầu bốc ra chạy loanh quanh trong nhà thiền. Ông giám thiền đóng cửa lại, cầm thiền bảng đuổi lung tung nhưng cũng chẳng đứa vọng tưởng nào rơi rụng. Đánh đằng này thì ông đằng kia gục đầu, sửa bên đây thì ông nọ ngả bên kia. Sáu bảy chục ông như vậy cho nên vô thiền đường muốn ngộp thở luôn. Vọng tưởng nhiều mà đạo lực, trí tuệ ít thì làm sao trị được. Công đức, công phu chưa có, lấy gì đối kháng vọng tưởng nghiệp tập. Ở La Hán Đường có một thiền sinh ngồi thiền rất giỏi. Tuy đã lớn tuổi nhưng ông có thể ngồi vững vàng một thời năm sáu tiếng đồng hồ. Vọng tưởng trong tâm ông giống như con trâu nằm nghỉ, không hề lăng xăng ngược xuôi. Vì con trâu ngoan ngoãn nằm nghỉ nên người chăn cũng tươi trẻ thư thả. Đó là phúc duyên riêng của ông.

Trong đạo tràng nếu có được nhiều huynh đệ tu hành như vậy là tin tức tốt. Quy chế Thầy Tổ đặt ra để nhắc nhở chúng ta tu hành, đâu phải chỉ có nấu cơm, quét sân, lái xe… Nhiệm vụ chính của người xuất gia là tu tập sáng tỏ chân tâm của mình, sau đó giúp đỡ mọi người cùng được lợi ích. Nguyện đem công đức đó dâng lên cúng dường Tam Bảo, các bậc Sư trưởng, các vị thiện hữu tri thức và luôn ghi nhớ công ơn lớn lao của đàn na thí chủ. Chúng ta được sống, được tu tập, ăn uống học hành đầy đủ trong môi trường tốt đẹp như thế thì ân nghĩa này nặng lắm, không phải vừa. Ngoài ra còn có những vị hộ pháp, các vị thiện thần luôn bên cạnh ủng hộ. Tuy trong thân mỗi vị có lúc phải chịu sự bất an do bốn đại trái nghịch nhưng đó chỉ là những duyên riêng. Thực sự nhìn chung đạo tràng tương đối tốt, cho nên đại chúng cố gắng phát huy tinh thần tu học, làm tròn nhiệm vụ lợi mình lợi người.

Chúng ta tuyệt đối đừng để rơi vào tình trạng trì trệ, chểnh mảng. Nếu chưa khắc phục, chưa làm chủ, chưa buông được vọng tưởng thì đâu thể yên lòng. Người xưa có câu: “Dù là việc nhỏ mà làm chưa xong, sao đành lòng nằm ngủ”. Đừng cho những dây mơ rễ má nắm bắt mình và cũng đừng nắm bắt vọng tưởng làm chi. Vọng tưởng thường làm chúng ta xốn xang bức xúc tu không tiến, cho nên phải cương quyết trị nó và thực hiện tốt nhiệm vụ của một người xuất gia.

Thời gian gần đây, trong đạo tràng có một số thầy lớn bắt đầu tham gia công tác diễn giảng, hướng dẫn Phật pháp cho Phật tử tu thiền ở mọi nơi. Nhất là những vùng như Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu… nhân duyên đạo pháp đang phát triển rất tốt. Ở Bạc Liêu có đạo tràng Dũng Mãnh, Cà Mau có đạo tràng Tinh Tấn, đây là những đạo tràng thành lập từ rất sớm do Hòa thượng Ân sư đặt tên. Sau này tôi phát triển thêm một số đạo tràng khác như đạo tràng Trúc Lâm Phật Trí, Trúc Lâm Phật Huệ, Trúc Lâm Phật Châu, Trúc Lâm Vạn Phúc, Trúc Lâm Vạn Thiện, Trúc Lâm Vạn Thành, Trúc Lâm Vạn Đức và Trúc Lâm Vạn Thông. Các huynh đệ lớn đã thay nhọc tôi gánh vác Phật sự ở những nơi này, dần dần sẽ tới lượt các huynh đệ kế tiếp.

Ngày xưa trong giáo đoàn của Đức Phật, hàng đệ tử lớn cũng theo dấu chân Ngài tiếp tục con đường hoằng pháp, như Tôn giả Đại Ca Diếp, Tôn giả Ca Chiên Diên, Tôn giả Phú Lâu Na…, bên Ni thì có Tỳ-kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề, Kherma… Các Ngài đã lãnh hội trọn vẹn giáo pháp Phật, sau đó tiếp tục sứ mệnh giáo hóa chúng sanh. Chúng ta ngày nay tiếp bước quý Ngài cũng phải thực hiện cho được hai nhiệm vụ đó. Đối với trọng trách cao cả này thì không thể đành lòng cơm cháo qua ngày được. Nhờ sự trợ lực của Tam Bảo, tôi hy vọng chư huynh đệ có thể buông bỏ những vọng tưởng, dấy niệm của mình một cách mau chóng, liên tục, để thành tựu giác ngộ giải thoát viên mãn.

Nói Với Chư Tăng Ni

Kính thưa đại chúng, hôm nay nhân Lễ Tất niên, tôi có một vài chia sẻ và nhắc nhở sự tu học của chư Tăng Ni trong một năm qua. Từ đó huynh đệ rút tỉa kinh nghiệm để việc hành trì trong năm mới được tốt đẹp hơn.

Chư huynh đệ ở đây có một nhân duyên rất tốt là luôn được những người thầy, người huynh đệ hết lòng kề cận một bên, lúc nào cũng sẵn sàng nhắc nhở, động viên, để chúng ta theo kịp nếp sinh hoạt tu học của Thiền viện. Tìm được những người thầy, người bạn như vậy thật hiếm. Quý Sư cô theo Hòa thượng Ân sư tu tập nhiều năm, đã có sự trải nghiệm tốt trong công phu, luôn kích dương hướng tiến cho đại chúng từng bước đều đặn hòa vui tu học. Tâm nguyện, hành động của các vị thể hiện rõ ràng như vậy. Bây giờ chỉ còn phía đại chúng thôi. Qua những nhận định, trình bày ngắn gọn của Thầy Phó tự bên viện Tăng và Sư cô Trụ trì bên viện Ni, tôi thấy được sự tiến bộ, cố gắng của chư huynh đệ.

Nhìn lại đại chúng hầu hết là tuổi học trò, do vậy kiến thức cơ bản cơ thể nói là tương đối cân bằng, rất dễ sắp đặt chương trình tu học nền tảng ban đầu. Một khi nền tảng đã vững vàng thì việc tu học sẽ dễ tiến. Trong học đường ngày xưa, các vị chịu trách nhiệm rất lo lắng ở điểm này. Các Phật học đường hầu hết có đến mấy trăm vị, như Học Viện Huệ Nghiêm thuở ấy trên 300 vị, trong đó có nhiều lớp. Chúng lớn nhất của trường là chúng Mã Minh, tiếp đến là chúng Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, Huyền Trang, Vạn Hạnh, Nguyên Thiều, Liễu Quán và Hư Vân. Tôi ở trong chúng Mã Minh, anh em sắp mãn khóa, học lâu rồi các chúng kia mới tới. Chúng Hư Vân là chúng nhỏ nhất. Chúng Huyền Trang, Vạn Hạnh đi học ở trường Bồ Đề, chúng Mã Minh và các chúng còn lại đều học tại chỗ. Ngoài các vị Giảng sư trong trường, Ban Giám Đốc còn mời thêm các Giáo sư bên ngoài về dạy. Vì số lượng Tăng sinh đông đảo như vậy nên sinh hoạt ban đầu hết sức vất vả, nhưng quý Hòa thượng trong Ban Giám hiệu đã sắp đâu yên đó.

Lớp Mã Minh có nhiều vị chúng lớn như cụ Phước Hảo, cụ Đồng Huy đã từng làm chúng trưởng trong Phật Học đường Nam Việt Ấn Quang, các Ngài luôn ngồi hàng đầu của lớp. Học viện Huệ Nghiêm là hậu thân của Phật Học đường Nam Việt Ấn Quang. Hồi đó, Hòa thượng Ân sư cùng quý Hòa thượng Thiền Tâm, Bảo Huệ cũng là Giảng sư của Đại học Vạn Hạnh. Ngày nào Thầy cũng đi dạy ở Vạn Hạnh, nên 1 giờ Thầy đã có mặt trên lớp rồi. Giờ thọ trai chúng tôi đi ngang, Thầy kêu lại dặn dò: “Báo cho chúng hay, chiều Thầy còn đi dạy ở Vạn Hạnh nên lên lớp học sớm nghe”. Đúng 1 giờ, Thầy cầm bài vở lên bàn rồi, dưới này chúng tôi người còn dụi mắt, người mới thức dậy, vừa đi vừa mặc áo, có người vắt áo trên cổ, bước vô lớp tơi tả hết. Thầy ngồi nghiêm như hổ tướng, mấy cụ lớn hàng đầu sợ lắm. Nhưng khi vào giảng, Thầy cười lên thì mọi sự căng thẳng không còn nữa, Thầy trò đều vui vẻ. Hồi đó tôi ngồi hàng hai hàng ba, Thầy hỏi gì dù trúng dù trật tôi vẫn cứ nói, tạo một sinh khí vui tươi cho cả lớp. Người nào Thầy kêu tới cứ ấp úng hay không muốn nói dễ bị rầy lắm.

Tôi kể lại chuyện này để làm chi? Để kích dương tinh thần của chư huynh đệ, phải luôn cố gắng. Vừa nghe đánh kiểng là thức dậy liền. Hồi đó tôi hay để sẵn sách vở, ca nước trên bàn. Thức dậy nước uống lẹ rồi mặc áo, cầm sách lên lớp liền, nhanh như vậy đó. Chứ ngồi dậy mà còn rũ rượi, đi rửa mặt thiệt là lâu, rồi lấy nước uống mất hết thời gian. Đây cũng là một việc làm đòi hỏi phải cố gắng, tập thói quen mau mắn lẹ làng, siêng năng phấn phát mới được. Về điểm này chư huynh đệ nên noi gương các bậc thầy xưa, không nên chểnh mảng trong các giờ tu học.

Việc ngồi thiền của đại chúng, quý Thầy quý Sư cô còn phải nhắc nhở động viên nhiều, nhưng thực ra như vậy mới tiến. Tôi biết rõ chư huynh đệ ngồi thiền còn đau chân lắm, nhưng cố gắng một thời gian chúng ta sẽ vượt qua khó khăn này. Ngày xưa Hòa thượng dạy: “Chừng nào mấy chú ngồi hết đau, muốn nghỉ Thầy cho nghỉ”. Thật ra không bao giờ ngồi hết đau. Tại sao? Chúng tôi ngồi 1 tiếng vừa quen, Thầy cho lên hơn 1 tiếng. Ngài nhấc lên hoài, cái chân nào mà theo nổi. Cuối cùng tôi thưa:

– Thưa Thầy, chúng con chạy theo Thầy không kịp.

– Ráng đi, ráng đi. Chừng nào ngồi được 2 tiếng, Thầy cho nghỉ.

Lạ thay, tới lúc ngồi thiền được 2 tiếng rồi thì chúng tôi lại không muốn nghỉ, nó khỏe làm sao. Quý vị có tin không? Khỏe thật đó. Nhất là thời gian tôi nhập thất trên núi 3 năm, khoảng một năm rưỡi, việc ngồi thiền trở nên dễ dàng, chỉ cần lấy tay kéo chân trái lên, thế là chân phải tự lên theo, lấy tay sửa nhẹ vạt áo là bắt đầu tọa thiền. Cứ vậy mà ngồi không hề xả chân, hôm nào dấy niệm, muốn lao theo nó chơi thì cục kịch nhúc nhích một chút. Ở Chân Không là núi non, thiền đường xoay hướng về phía Đông, xế chiều gió mát ngồi rất khỏe.

Chư huynh đệ tu thiền phải cố gắng ngồi thiền thôi. Thật ra ngồi thiền chưa phải là thiền sư nhưng muốn làm thiền sư thì phải ngồi thiền. Điều đó là giáo lệnh của Hòa thượng Ân sư. Có thiền sư nào mà không biết ngồi thiền. Già như tôi đây mà những lúc thấy gò má phỉnh phỉnh, Hòa thượng nghiêm mặt hỏi: “Có ngồi thiền không?”. Đủ biết Hòa thượng kiểm soát chặt chẽ việc ngồi thiền của chúng Tăng đến mức nào. Tôi nhớ hồi còn ở Chân Không, thầy Thiện Năng, thầy Thiện Ấn ngồi thiền giỏi lắm, có thể ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ. Thời gian về trụ trì Quan Âm Các, không biết sao thầy Thiện Năng bị bệnh phổi trở lại. Hòa thượng chưa hay tin này nên nhắc nhở anh em mỗi khi chúng tôi có bệnh:

– Thầy Thiện Năng bệnh phổi ngồi thiền hết bệnh, bây giờ mấy chú ngồi thiền tại sao lại bị bệnh?

Thật là một câu hỏi bất ngờ. Hòa thượng hỏi xong, thầy Thiện Năng đứng lên thưa:

– Thưa Thầy, lâu nay con không có ngồi thiền.

Hòa thượng quở:

– Tôi bệnh phổi, ngồi thiền hết bệnh. Tôi dạy mấy chú ngồi để trị bệnh, vậy mà mới xuống núi làm thầy đã không chịu làm thiền.

Tôi cũng xin nhắc nhở chư huynh đệ điều này, chúng ta ngồi thiền điều hòa được huyết mạch, thân tâm thư thái, có sức chịu đựng thì những vui buồn sẽ giảm thiểu, nó không tấn công mình được. Nếu sức chịu đựng yếu kém thì chuyện vui buồn dễ tấn công lắm. Ví dụ một buổi chiều mấy huynh đệ nghe cú điện thoại ở phòng khách cho hay bố mẹ bệnh, nếu mình không có đạo lực, nghe vậy tự nhiên bủn rủn.

Nếu nghĩ kỹ lại, bố mẹ bệnh thì giờ mình làm gì đây, về cũng loay hoay vậy thôi chứ có làm được gì. Trước nhất từ chùa về tới nhà cũng phải mất một thời gian, thất thoát quá trình tu học. Về rồi chưa chắc làm được gì, vậy mà đa số lại nhiệt tâm về chuyện đó. Nghe tin tự nhiên buồn dào dào, không muốn ăn, không muốn ngủ. Khi nào công phu ngồi thiền được chừng một tiếng rưỡi, hai tiếng thì những buồn phiền tạp nham ấy không làm gì được chúng ta. Chư huynh đệ ráng lên, sau một thời gian tu học sẽ thấy những điều tôi nói không sai đâu.

Nhiều năm về trước, trong chuyến đi Hà Nội với Hòa thượng, tôi bị bệnh rất nặng. Trèo lên chùa Đồng trở về, khớp mắt cá chân bị viêm nên đi không được. Phật tử đón bác sĩ ở bệnh viện Bạch Mai xuống chích thuốc, làm đủ thứ chuyện nên nhẹ bớt đôi chút, tôi có thể tham dự được Đại hội Phật giáo tại Hà Nội. Về Nam, tôi vô Thủ Đức trị bệnh, sau này nó yên nhưng cái khớp to hơn giống như dị dạng, mất một thời gian ngồi thiền nhưng tôi kiên quyết không bỏ. Thay vì ngồi kéo hai chân kiết già tôi ngồi bán già, chân trên chân dưới hoặc ngồi xếp bằng. Tuy giữ được giờ tu nhưng vẫn thua đại chúng, vì không kéo chân trái lên được, do cái khớp chấn thương bên trong, đau dữ lắm.

Lần bệnh thứ hai, tôi nhập viện mổ sạn thận, Hòa thượng vô thăm, Ngài nói:

– Hồi đó chắc chú cũng mổ xẻ người ta dữ lắm nên bây giờ mới bị như vậy.

Ngài chỉ nói một câu thế thôi rồi ra về, nhưng đã khiến cho tôi thức tỉnh. Tôi biết đây là quả báo của mình. Vì vậy tôi cố gắng ngồi thiền dù thân bệnh, không ngồi được một giờ thì cũng được nửa giờ hay 45 phút. Đau thì đau nhưng bữa nào mằn mằn thấy được là kéo lên liền. Khi Hòa thượng gọi tới hỏi, tôi thật lòng thưa:

– Chú có ngồi thiền không?

– Dạ có. Nhưng hễ đau quá thì con kéo ra.

– Ừ, nhưng đừng có bỏ.

Hòa thượng dạy, ngồi thiền huyết mạch điều hòa thì thân tâm theo đó cũng điều hòa. Tu hành thân hòa tâm hòa, đó là một bước tiến vững trong nội tại. Nội tại vững rồi thì bất cứ sự kiện nào xung quanh không làm gì mình được hết. Do vậy có người nói mấy thầy tu thiền nhiều khi vô duyên, người ta đang khóc mấy thầy lại cười. Như gặp đám ma, người ta khóc bù lu bù loa còn thầy đứng cười, họ nói mình điên. Thật ra ta đâu phải điên, do nội tại bình lặng nên thấy mọi chuyện cũng bình lặng.

Cho nên chư huynh đệ cố gắng. Thời gian tập ngồi thiền từ một tiếng tới một tiếng rưỡi quý vị đã lướt qua được. Người xưa dụng công trong vòng 6 tháng thì thành tựu được pháp ngồi thiền, mà người xưa khắc khổ hơn chúng ta nhiều. Như Hòa thượng Chủ tịch Phật giáo bây giờ ngồi thiền không cần tọa cụ, bồ đoàn, ngồi một cách tự nhiên mà lưng vẫn thẳng như thường. Ngài nói xương sống là cột trụ, nó ngay thẳng thì nhà mới vững. Ngài ngồi đọc sách cũng vậy, ngay thẳng nghiêm trang. Có lần tôi đến thưa hỏi, đứng một bên mà Ngài vẫn ngồi im, cả tiếng đồng hồ không nói với mình câu nào, không biết là đang ngồi thiền hay đọc sách nữa. Rất lâu sau Ngài mới hỏi: “Có chuyện gì, nói Thầy nghe”. Tôi thưa xong, Ngài đuổi đi liền chứ không vui vẻ tiếp chuyện. Mỗi vị thầy đều có một phương pháp giáo hóa riêng.

Hòa thượng Ân sư dạy, ngồi thiền từ một tiếng rưỡi vượt lên hai tiếng không có gì khó khăn hết. Cho nên chư huynh đệ cố gắng, ngồi thiền được nề nếp, thư thái, an nhiên rồi thì trên nét mặt mỗi thiền sinh đều có biểu hiện niềm vui lưu xuất từ nội tâm. Niềm vui đó cũng có thể được như niềm vui của Tổ Ca Diếp trong hội Linh Sơn, khi nhìn thấy cành hoa sen Đức Phật đưa lên. Công phu tọa thiền thành tựu rồi thì niềm vui sẽ biểu hiện tròn đầy, rõ ràng trên ánh mắt và dần dần thấm qua dáng vẻ đi đứng nói năng. Hòa thượng Ân sư nói giản dị tu là hiền, còn cãi cọ, còn gân cổ là dữ, chưa thành tựu. Tôi nói lại, ngồi thiền được chưa phải là tu thiền, nhưng tu thiền phải ngồi thiền được. Sự thành tựu thể hiện rõ trên nét mặt, trong nội tâm. Pháp môn nào Phật dạy cũng đều hướng dẫn chúng ta tu hành có định có tuệ, không chỉ ngồi thiền, ngoài ngồi thiền cũng có thể áp dụng cách khác. Điều cốt yếu là thể hiện được đạo hạnh nghiêm túc, gương mặt tươi vui, nhẹ nhàng thoải mái, trong sáng. Đó là những nét đẹp của người tu. Có được những nét đẹp này là từ công đức tu hành mà ra.

Trong sinh hoạt tu học, chư huynh đệ nên vui vẻ chia sẻ tất cả công việc với nhau. Có người chịu nhọc thay mình làm việc thì nên vui hòa với huynh đệ, để mọi việc trong Thiền viện được ổn định. Đừng gây sự khó khăn cho huynh đệ, không nên có thái độ bất kính với những vị có trách nhiệm. Đây là kinh nghiệm tôi nhận ra trong quá trình tu học nhiều năm. Chúng ta nhìn gương các vị chúng trưởng, liên chúng trưởng, giám thị, giám đốc mà học theo. Tới giờ đi ăn, đi học, làm việc, chúng ta sốt sắng tham gia, không thụ động, không làm lấy có, phải nhiệt tâm. Như thế biểu hiện sự thuần hòa, biểu hiện đạo hạnh, công đức của một người biết tu.

Trong sử kể lại câu chuyện Ngài A Na Luật bị mù. Từ một lời quở nhẹ của Đức Phật mà Ngài gắng gổ tu tập đến mức hai mắt bị hư, chẳng bao lâu sau Ngài chứng Vô sanh quả. Điểm xoáy sâu nhất làm nên sự thành tựu này chính là lòng hổ thẹn. Kể từ khi Ngài siêng năng tu học không lười mỏi, con mắt thịt tuy mù, nhưng huệ nhãn của Ngài đã nhìn thấu suốt mọi vật rõ ràng như nhìn trái xoài trong lòng bàn tay. Người tu hành có mất mát gì đâu, hư con mắt thịt thì được con mắt Phật. Giả tỉ ngồi thiền mà đi khập khễnh, nhưng chắc chắn mai kia mốt nọ mình có đôi chân vững chãi, đi đứng nhẹ nhàng, sau khi bỏ thân này rồi được thân khác tốt đẹp hơn, có gì đâu buồn sợ, cứ vui vẻ mà tu.

Có một điều đặc biệt, khi huynh đệ về tu đông đảo như vầy, tôi và các vị có trách nhiệm tại Thiền viện không biết làm sao lo nổi vấn đề đời sống. Nhưng không ngờ Tam Bảo gia hô, nhờ phúc trí của Hòa thượng Trúc Lâm, công đức của đại chúng nên chúng ta vẫn an ổn, đời sống vật chất cũng như tinh thần vừa đủ. Quang trọng là chư huynh đệ có tu thì chánh báo và y báo đều tốt đẹp, nếu không tu sẽ không được như thế. Cho nên tất cả đều phải cố gắng thường xuyên như vậy, chứ không phải một ngày tu ba ngày nghỉ. Nhân đây tôi nhắc lại bài kệ của thiền sư để sách tấn huynh đệ sang năm mới tu hành tốt hơn:

Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hàn thủy,

Nhạn vô di tung chi ý,

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Dịch:

Nhạn bay trong không,

Bóng in đầm lạnh,

Nhạn không ý để bóng, 

Đầm chẳng tâm lưu hình.

Bài kệ này có hai ý. Thứ nhất “Nhạn vô di tung chi ý” là nhạn bay qua đầm lạnh không có ý lưu bóng trong đó. Nếu lưu lại nó sẽ bị chìm, bị lạnh và chết cóng. Việc tu hành của chúng ta cũng như vậy, không lưu lại dấu vết gì, chỉ mượn thân huyễn nhà mộng để thành tựu đạo nghiệp. Thứ hai “Thủy vô lưu ảnh chi tâm”, nước trong đầm cũng không muốn giữ bóng nhạn. Cánh nhạn bay qua rồi thôi, đầm nước trong vẫn là đầm nước trong, không hề lưu dấu nhạn. Tâm là tâm, cảnh là cảnh. Tâm cảnh không dính nhau, không chìm lặng tức tâm cảnh như như. Đó là đạo.

Chư huynh đệ nhận được chỗ này thì phấn khởi, không có gì khiến chúng ta phải mắc mứu, ôm giữ và chìm trong đó. Thực sự mình còn dở lắm, điều tốt giữ đã đành, nhưng điều không tốt cũng ôm hoài không bỏ được, thiệt là khổ. Giả tỉ mình hờn người nào đó, thay vì hờn một lát thôi rồi vui vẻ lại, nhưng mình cứ hờn hoài, không đúng với lời dạy của người xưa “Tăng hận bất cách túc”, nghĩa là làm Tăng giận không được quá một đêm. Sao không tự hỏi giận để làm gì đây? Cho khổ, cho mệt, chớ được cái gì. Cho nên đã biết tu rồi nhất định phải bước qua được những điểm dở này.

“Nhạn vô di tung chi ý, thủy vô lưu ảnh chi tâm” là một bài học quý báu cho chúng ta. Người tu cần phải sống sao cho tâm cảnh như như mới thể nhập được đạo. Đó là tinh thần trong nhà thiền, sáu căn không dính mắc không chạy theo sáu trần, không để trần cảnh kéo lôi. Trần cảnh là trần cảnh, ta vẫn an nhiên tự tại. Một khi sức định phấn phát rồi thì tuệ giác hiện tiền, điều này tất nhiên như vậy. Biết rõ thế ấy, nhưng nếu mình cứ ôm giữ phiền não hoài thì dù tu vài ba mươi năm cũng chưa vào được cửa. Không biết buông thì không giải thoát, không hết khổ đau, không chấm dứt được sự hiện hành của vọng tưởng.

Nếu thực sự lòng yên lắng, phút giây nào đó lóe lên, chúng ta sẽ thấy thống khoái vô cùng. Có một thiền sư Nhật Bản biểu hiện sự an lạc nhi nhiên của mình bằng cách ai nói gì Ngài cũng đáp “Thế à!”. Bây giờ chúng ta cố gắng vâng lời Hòa thượng Trúc Lâm dạy bỏ hết những cù cặn, chấp thủ, tăm tối, mạnh dạn tống nó ra. Nó ra được mình mới nhẹ nhàng tiến tu. Thấm đượm niềm vui từ việc tu tập, tự nhiên chúng ta quý trọng nhau còn hơn cha mẹ anh em ruột thịt. Bởi mình không có cha mẹ ở đây nên Phật pháp, huynh đệ, tỉ muội chính là cha mẹ mình, pháp tu là sự sống tại đây bây giờ.

Huynh đệ không có người nào nói con tu để khổ cả, phải không? Ngày xưa khi tôi tu học trên núi, có người lên thăm, lúc về họ nói:

– Thầy ơi, ở dưới phố sướng quá, lên núi tu chi cho khổ vậy?

Tôi vui vẻ cười:

– Thôi đi về đi.

Huynh đệ chúng ta dù lớn dù nhỏ, mới vào đạo hay đã tu lâu, học cao hay học thấp, ai cũng muốn tu để được thành Phật, để được hết khổ. Khổ đây là khổ luân hồi sanh tử chứ không phải khổ thiếu cơm áo. Ai nấy đều hun đúc tâm nguyện hướng tới thành tựu giác ngộ giải thoát. Muốn thành tựu đạo nghiệp như bản nguyện, chư huynh đệ phải cố gắng nhiều, không phải ngang mức nào đó rồi thôi. Những chuyện nhỏ nhặt chung quanh sinh hoạt đâu có gì phải lưu tâm. Quý Thầy, quý Sư cô dạy bảo nhắc nhở điều gì nên vui vẻ làm theo, không nên buồn phiền. Bỏ hết buồn phiền đi. Bỏ chưa được thì ráng tập bỏ cho được. Tập riết thành quen, bỏ sẽ dễ thôi. Chúng ta thấy trăm năm ngàn năm, sự có mặt ở đây rồi mất. Luân hồi sanh tử cũng chỉ bao nhiêu đó chuyện, ăn mặc, tạo nghiệp… đại khái vậy thôi không có gì khác. Bây giờ biết những thứ đó là đồ bỏ, ta buông. Học theo lời Phật, áp dụng tu hành để được định, được tuệ, không để phiền não kéo lôi mình nữa.

Tu hành phải có đạo lực. Thiền sư Hoàng Bá là một Thánh tăng, chỉ nghe câu hỏi lại từ thầy mà Ngài nhận được ý chỉ Tổ sư. Từ khi đi xuất gia cho tới lúc thành tựu, Ngài chưa một lần về thăm mẹ. Bà mẹ thương nhớ quá bày ra một quán trà gần bến đò, mong rằng trong số những người khách qua đò, có con trai của mình và bà sẽ được gặp Ngài, được trải lòng thương của mẹ đối với con. Sau này khi bị mù, bà không còn hy vọng thấy được Ngài nữa thì lại có một hạnh phúc khác. Những người khách đến nghỉ trong quán trọ bà xin được rửa chân, lau chân cho họ, bởi bà hy vọng sẽ tìm ra con trai qua vết dấu bàn chân.

Hôm đó, Ngài vào quán trọ ngồi nghỉ và cũng để chân cho bà lau. Đến chỗ có dấu vết riêng Ngài từ chối không cho lau, đứng dậy đi mau. Ngài đi rồi, những người xung quanh cho bà cụ biết ông thầy vừa ra đi chính là con của bà. Bà vội vàng chạy theo kêu: “Con ơi, con ơi, dừng lại cho mẹ thăm một chút”. Tấm lòng của người mẹ cao cả như vậy. Bà vẫn cứ chạy mặc dù không thấy đường, nhưng Ngài không hề dừng lại. Bà chạy hoài chạy hoài cuối cùng ngã xuống sông. Biết mẹ gặp cảnh như vậy, Ngài trở lui lo chuyện hậu sự cho bà. Đứng trước quan tài của mẹ, Ngài nói “Nhất nhân thành đạo cửu huyền thăng”, nghĩa là một người tu hành đắc đạo thì cha mẹ chín đời được sanh cõi trời. Nếu thực sự lời này đúng thi ứng nghiệm kim quan bà cụ bay lên. Ngài nói xong kim quan bà cụ từ từ bay lên.

Nếu không phải là người thành tựu đạo lực mạnh mẽ như Ngài Hoàng Bá, đã thực sự giác ngộ giải thoát thì làm gì có chuyện đó. Cho nên người con chí hiếu là lo tu hành thành đạo, đó mới quan trọng, chứ chuyện thăm hỏi an ủi không quan trọng. Người con Phật báo hiếu cho cha mẹ bằng đạo lực, chứ không bằng nghiệp lực thường tình của chúng sanh. Tu mà tâm thanh tịnh là dẫn đến điềm lành thụy ứng.

Hàng ngày huynh đệ được tu học trong khung cảnh thanh tịnh thế này, chắc chắn tâm chúng ta cũng tịnh hóa phần nào. Giả tỉ như có ai còn lớ ngớ, chưa thanh tịnh thì biết cấu nhiễm bên trong còn nhiều, ráng lên một chút để theo kịp huynh đệ. Trong 100 vị sư huynh hoặc 100 sư tỉ, mỗi vị có một hạnh riêng, mình nhắm xem ai tốt có thể học hỏi thì nên gần gũi. Ví dụ, sư tỉ này nấu cơm ngon, làm tất cả công việc tốt, giao ban hoàn chỉnh, hôm nào gặp sư muội lười nấu cơm, sư tỉ đó sẵn sàng gánh hết mà vẫn vui vẻ. Mình thấy vị này hy sinh, là người thật tâm, vì thế mình nương sư tỉ này học tập. Cuộc sống tu hành cần trên có thầy dưới có bạn, như người ta nói “Ăn cơm có canh, tu hành có bạn” là vậy. Điều quan trọng là đừng bao giờ thấy không vừa ý ai hết. Hòa thượng Trúc Lâm dạy cuộc sống tương đối, trong một trăm điều xấu cũng có ít nhất vài điều tốt, chúng ta nhắm điều tốt mà học thì đời sống an ổn.

Tôi rất mong chư huynh đệ trong đạo tràng Trí Đức, bên Tăng cũng như bên Ni luôn luôn cực lực phát huy ý chí tu học của mình. Khi ý chí được phát huy rồi thì không nói sợ ma, không nói ngồi thiền ngủ gục hay sợ bất cứ việc gì khác, huynh đệ sẽ trưởng thành từ những khó khăn ban đầu. Trước chúng ta đã có những vị Bồ-tát xông pha vào đời và đã thành tựu đạo nghiệp. Trong thời đại của chúng ta cũng có rất nhiều bậc Tổ, bậc Thầy thành tựu công phu mỹ mãn. Huynh đệ được sống trong thời đại đủ duyên đủ điều kiện, văn hóa phong phú, tất cả những điều đặc biệt này là nhân tố đưa đến sự thành công.

Tuy sống trong đạo tràng ở vùng quê như thế này, nhưng mỗi ngày chúng ta tập thành tựu đạo hạnh cho chính mình, đó cũng chính là thành tựu cho Phật pháp. Huynh đệ cố gắng gầy dựng một đời sống đạo lý sáng suốt, mang lại cho mình và mọi người niềm an vui chân thật, lớn lao. Rất mong đại chúng tu hành tinh tấn, kiên quyết thực hiện cho được sự nghiệp lợi mình lợi người, để đền đáp công ân vô lượng của Phật Tổ và không cô phụ tấm lòng của đàn na tín thí.

 

Tu Chuyển Nghiệp

Hôm nay chúng ta sẽ trao đổi về vấn đề tu chuyển nghiệp. Nghiệp là gì? Muốn chuyển nghiệp phải tu thế nào? Đây là vấn đề hầu hết huynh đệ chúng tôi tuy đã có thời gian nhiều năm theo học với Hòa thượng Ân sư nhưng vẫn canh cánh trong lòng. Hòa thượng dạy chuyển được nghiệp chính là sự thành công của việc tu hành. Nghiệp là một loại năng lực bắt nguồn từ thói quen. Thói quen nếu được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ tạo thành sức mạnh. Lâu ngày sức mạnh đó phát triển kết thành năng lực, năng lực ấy mỗi ngày được nuôi nấng tưới tẩm thì dễ dàng nhanh chóng chuyển thành nghiệp lực.

Một điều rất tệ là ai cũng có nhiều thói quen ngủ ngầm bên trong. Chủng tử tập khí tiềm ẩn thật khó lường. Vì không lường nên khó điều phục chuyển hóa, do đó không làm chủ được nó, từ đó phát triển thành năng lực. Năng lực có sức mạnh giống như bánh xe đã bắt trớn, khi chạy nhanh rồi nó tạo ra nghiệp lực. Đã có nghiệp còn cộng thêm lực, do đó nó rất mạnh sẽ lôi chúng ta đi một cách dễ dàng. Vì vậy người tu cố gắng nhận biết thói quen của mình ở chỗ tinh tế nhất. Từ đó gầy dựng chủ lực sẵn sàng đối kháng khi thói quen dấy động, điều này đồng nghĩa với việc làm chủ các dấy niệm.

Những sở thích riêng như ham chơi game, thích hát, hút thuốc, uống rượu, hay làm việc này việc kia là do thói quen. Ngay từ thời ban sơ, chúng ta đâu có biết gì. Hồi mẹ còn ẵm bồng trên tay, đói khóc thì được cho ăn. Tùy theo thói quen riêng của mỗi người mà ba mẹ, anh chị có cách chăm sóc, giáo dục khác nhau. Đôi khi mầm thói quen từ đây phát triển mạnh hoặc tan mất. Một đứa bé có thói quen mỗi khi đói bụng khóc ré lên không ai dỗ được, nhưng cho ăn là bé hết khóc liền. Đó là biểu hiện của thói quen từ nhiều đời bây giờ nó phát tiết ra. Khi thói quen mạnh tạo thành lực rồi thì không chỉ biết khóc thôi, những phản ứng khác theo đó mà nảy nở. Càng lớn chừng nào lực phản ứng càng mạnh chừng nấy.

Thói quen mỗi người không ai giống ai. Có người hay buồn khóc, chuyện không đáng gì cũng có thể khóc dễ dàng. Có người hay giận, hay la hét mỗi khi không bằng lòng với ai hoặc gặp nghịch duyên. Mỗi lần khát nước, có bé biểu hiện rất lạ. Bất cứ ai ở gần dù mẹ hay ba, bé đều quơ tay đánh, bực tức khua múa lung tung. Những hành động này chẳng qua chỉ là biểu hiện muốn thỏa mãn bản ngã.

Mẹ biết bé muốn uống nước, cho chút nước vào miệng là xong ngay. Với người tu, khi kiểm nghiệm chỗ này chúng ta phải ghi nhận và tìm phương thức chuyển hóa, không nên nuôi dưỡng các dấy niệm lâu ngày, nó sẽ tạo thành năng lực của nghiệp thì khổ. Chuyển nghiệp, dừng nghiệp để phát huy và sống được với tánh giác của mình.

Khi về thăm quê, chú bác hay nói với tôi rằng:

– Thầy giống ba Thầy một điểm.

Vì không biết ông già tôi ra sao nên tôi hỏi lại:

– Mấy chú thấy giống như thế nào?

– Cái đầu ba Thầy hồi đó sói sọi. Thầy bây giờ cũng không có mấy cọng tóc ở giữa.

Đây là biểu hiện di truyền gen trong gia đình, hình thành nên cấu trúc thân thể chúng ta. Bộ sọ thành hình từ một cái chủng, cái gen, cũng có thể từ một thói quen. Nói từ một thói quen có khi các nhà khoa học sẽ chê không đúng. Nhưng thật sự toàn bộ thân tâm chúng ta có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nghiệp thuộc về tinh thần, từ đó nó phát tiết ảnh hưởng đến thân vật chất, mà nguyên ủy là tế bào. Do vậy trong gia đình từ cha đến con đều có cấu trúc thân thể tương đối giống nhau. Nếu có khác thì đó là phần giống mẹ chứ không thể giống ai bên ngoài.

Biết rõ nguyên ủy tức nguồn gốc của sự vật là như vậy, người tu phải khéo léo chuyển sửa nó. Đây là việc làm không mấy dễ dàng. Người huynh đệ này trước đây chưa hề biết hút thuốc, uống trà đậm hà huống uống rượu bia. Thời gian sau tham gia công tác chung đụng với mọi người, không biết từ hồi nào anh lại thích uống trà mà phải là trà ngon, đậm đặc. Rồi cà phê, dù nghe mọi người xung quanh nói cà phê là một chất độc, uống không đúng liều lượng lá gan sẽ không chịu nổi. Vì không chuyển tải được nên chính những cặn bã tụ thành chất độc gây ra bệnh, thường là bệnh u xơ hoặc ung thư chẳng hạn. Mọi người khuyên không nên tiếp tục dùng những chất đó, nó sẽ phá hủy nội tạng của anh. Nhưng bấy giờ anh đã bị ghiền rồi, trước mắt nếu không sử dụng anh sẽ chịu không nổi. Không bao lâu anh ngã bệnh.

Có nhiều người sống không điều độ nhưng lại sống tùy lượng. Một huynh đệ nói với tôi điều này:

– Ngồi trên mâm cơm món gì cũng cữ hết, thôi thà nghỉ ăn cho rồi. Cho nên huynh thoải mái cầm đũa, món nào muốn ăn thì cứ gắp, không cần kiêng cữ. Chiên xào, cay mặn gì cứ ăn tự nhiên, rồi kiếm thuốc uống. Thuốc tây không có thì uống phương ngoại cũng tự nhiên sống bình thường. Ở con người này quả là có một phong cách riêng. Tuy nhiên trên phương diện tu như vậy là khó chuyển được thói quen. Có lần ngồi ăn cơm với nhau, tôi nói:

– Anh cứ dùng tự nhiên. Có những món nếu dùng sẽ hại đến gan nhưng tôi có thể dùng những thứ khác như rau củ chẳng hạn, không chết đi đâu cả. Giống như chiếc xe muốn nó khởi động phải đổ xăng, xăng nào cũng được, đâu nhất thiết phải xăng Tây xăng Tàu gì.

Tuy rằng những suy nghĩ của anh chưa làm tổn thương đến sức khỏe ngay, nhưng các tế bào bên trong không chấp nhận, không chuyển hóa. Giống như người đi bộ giỏi, nhưng đi mười bước rồi đứng lại hoặc có khi thụt lùi hai ba bước. Từ sáng tới chiều chỉ loay hoay trong khoảng chừng ấy thôi, không tới đâu hết. Đây là một kinh nghiệm nhắc nhở chúng ta cố gắng làm chủ mình, phát huy được chất xám để chuyển hóa những ương yếu bên trong. Đó cũng là một cách rèn luyện công phu.

Như trên đã nói thói quen phát triển mạnh sẽ chuyển hóa thành nghiệp lực. Khi đã thành nghiệp lực mà thiếu trí tuệ thì tạo tác các nghiệp nhân không tốt. Đây là chỗ chúng ta cần phải gạn lọc. Tu là sửa. Sửa cái gì? Từ bé thơ, ba mẹ, anh chị luôn kêu mình chỉ dạy, dặn dò từng chút. Sáng ra ôm cặp đi học, tới bà nội nhận một xu rồi chào ba mẹ, anh chị. Lại chào bố, đi chưa tới nơi đã gật đầu một cái định vọt liền. Mẹ kêu lại dạy: “Con phải đứng ngay ngắn, chào ba lễ phép để ba gật đầu lại với con chứ, đâu có trộm như vậy được. Chào mẹ, chào anh chị cũng phải như thế. Một lễ nghi bình thường thôi mà làm không được thì mai kia mốt nọ lớn lên con làm gì?” Nội việc đi học thôi mà linh tinh đủ thứ chuyện. Được một đồng ten để vô trong bị rồi là muốn vọt đi cho kịp với chúng bạn. Nhưng không, mẹ bắt phải chào hết mọi người trong nhà. Nếu không được chỉ dạy cặn kẽ như thế, lâu ngày sẽ tạo thành thói quen không tốt.

Năm anh 16 tuổi, gia đình có sự cố, ba mẹ xích mích nhau nên mẹ về sống với ngoại. Anh ở lại với ba, mấy bà cô và anh chị. Anh nhớ mẹ vô cùng. Những nhắc nhở hàng ngày của mẹ không còn nữa, thay vào đó là sự bảo ban của ba và các bà cô, trong đó có một bà cô thường đi chùa. Hôm nào trước khi đi học gặp bà cô là chết rồi, không phải khoanh tay chào như cách mẹ dạy. Bà bắt phải chắp tay thành hình búp sen, không được so le mười ngón, cúi đầu còn hơi cứng, bà lấy tay đè đầu xuống. Những lúc ấy anh thấy sao luộm thuộm quá, nhưng không dám cãi, chỉ làm nhanh để chạy đi cho rồi. Nhưng lớn lên hình dung lại những hình ảnh đó thấy được giá trị cần thiết của nó trong cuộc đời.

Thật đáng tiếc khi đến một đạo tràng, một ngôi chùa, mình là người Phật tử mà lại không biết những nghi thức sơ cơ như vậy. Nếu không được ba mẹ, người thân gầy dựng ngay từ nhỏ thì làm sao chúng ta cung kính, thành tâm khi đến những nơi tôn nghiêm như chùa viện. Cho nên lễ nghi cúng kính nếu có công đức thì phần ấy dành cho mình, chứ đâu dành cho ai khác. Dù ước mơ Phật ban nhiều công đức mà trong tận đáy lòng, tận thâm tâm sự thành kính chưa trọn vẹn thì công đức không thể có. Đây là một thí dụ về hình thức.

Phật dạy không nhân nào không có quả. Nhân tốt thì quả tốt, nhân không tốt thì tương ứng quả không tốt. Ngay từ nhỏ nếu nền tảng đạo đức không được xây dựng từ sự học tập trong môi trường tốt là một thiệt thòi. Do đó cơ hội để hình thành những điều kiện, gầy dựng những nhân tốt bị thiếu hụt. Việc chuyển nghiệp nhất định đòi hỏi phải sáng suốt, tức đòi hỏi trí tuệ. Dùng trí tuệ quán chiếu soi xét kỹ từng phần mới có thể chuyển hóa nghiệp. Không để thói quen tự tung tự tác tạo thành năng lực, phải chủ động sáng suốt làm chủ nó. Đây chính là tu chuyển nghiệp. Nghiệp từ thời nào không biết nhưng nó luôn ấp ủ trong sâu thẳm của tàng thức. Tuy chúng ta đã trưởng thành, có kiến thức nhưng đối với một vài thói quen nhỏ lại không trị được. Nếu trị không được nó sẽ thành hình lớn hơn, năng lực mỗi ngày câu thúc mạnh hơn, chừng đó thì bất trị.

Tu hành là sửa. Một chữ sửa thôi có khi cả đời chúng ta làm không xong. Nếu chuyển được nghiệp tức có thanh tịnh, từ đó đi đến giác ngộ không khó. Vì còn nhiều nghiệp tập chưa chuyển được nên ta chưa giác ngộ. Pháp của Phật tuy có chia ra nhiều môn: Nguyên thủy, Phát triển… nhưng tựu trung đều là phương tiện đưa chúng sanh đi đến giải thoát. Không một pháp môn nào Phật dạy lại không điều trị được bệnh của chúng sanh. Tùy theo căn cơ và mức độ bệnh, cộng với điều kiện xung quanh mà áp dụng phương pháp trị bệnh cho đúng. Cũng như phải biết trong kho hiện giờ thiếu gạo, thiếu nước tương, thừa cà phê, thuốc lá, bánh kẹo. Thiếu thì bổ sung, thừa thì thảy ra.

Kho này Duy thức gọi là Tàng thức tức thức thứ tám, tiếng Phạn gọi là A Lại Da thức. Khi năm giác quan mắt tai mũi lưỡi thân tiếp xúc với trần cảnh hoặc không tiếp xúc với trần cảnh mà vẫn khởi ý thức phân biệt tính toán như thường, cái phân biệt đó gọi là Ý thức tức thức thứ sáu. Khi ý thức không khởi phân biệt, nó không mất hẳn mà chỉ trở về gốc là thức thứ bảy, Duy thức gọi là Ý căn hay truyền tống thức, tiếng Phạn gọi là Mạt-na thức. Công năng của thức này là luôn luôn chấp ngã và truyền tống chủng tử các pháp vào tàng thức. Do thức này huân tập những việc mắt thấy, tai nghe… rồi khởi hiện hành nên chúng ta mới có dòng ký ức để mà tha hồ vọng tưởng. Vì thế thức thứ sáu và thứ bảy hợp tác với nhau thì lợi hại vô cùng.

Thức thứ bảy là thức chấp ngã, thuộc về si. Thức thứ sáu phân biệt tính toán lanh lợi vô cùng. Suy nghĩ việc tốt cũng nó mà xấu cũng nó, cho nên nói “Công vi thủ, tội vi khôi” tức luận về công thì thức này đứng đầu, luận về tội nó cũng hơn hết. Cho nên người tu Phật đối với hai thức này lúc nào cũng phải cẩn thận tu sửa. Dùng thức thứ sáu và thứ bảy quán nhân vô thường để phá si mê ngã chấp, dứt trừ phiền não chướng, quán pháp vô ngã để phá trừ pháp chấp dứt sở tri chướng. Khi ngã chấp và pháp chấp hết rồi thì chứng được Niết-bàn.

Chúng ta can đảm chấp nhận tải hết tất cả cỏ rác không cần thiết hay lúc nào cũng bo bo chấp tôi đúng, tôi hay? Trong một lần hộ niệm cho người Phật tử lớn tuổi ở Cà Mau, thấy con cháu khóc dữ quá, vị Thầy nói:

– Các con phải giữ yên lặng thì bà cụ mới an lòng ra đi. Thương bà chúng ta phải giúp cho bà đi theo con đường sáng của Phật, không rơi vào các chỗ tăm tối, lầm gây tạo nghiệp nhân khổ đau vướng mắc về sau. Bây giờ nếu ai khóc không chịu nín, Thầy sẽ mời ra ngoài cửa.

Trong gia đình mấy vị lớn nghe lời làm theo, còn mấy vị nhỏ lại khóc nhiều hơn nữa. Tại người lớn đã hiểu tầm quan trọng của tâm chánh niệm hỗ trợ cho vong linh người thân, người nhỏ chưa hiểu nên mới như vậy. Nghe nói, các vị lớn từ nhỏ đã được bà cụ hướng dẫn đi chùa, lễ Phật, cúng dường nên ít nhiều thấm nhuần giáo lý. Các cháu nhỏ lớn lên chỉ biết đi học, ít về chùa nên không tiếp nhận được lời dạy của Thầy. Một việc nhỏ như vậy thôi mà làm chưa được thì khi lớn lên những nhu cầu ham muốn khác không thể nào làm chủ được.

Có khi nào chư huynh đệ cảm khái rằng mình tu theo Phật lâu rồi, giáo lý phổ thông đã được học, có thời gian trải nghiệm, hành trì rõ ràng nhưng tại sao không có kết quả gì? Đây là một vấn đề hiện thực đối với tất cả người tu chúng ta. Nếu tu đúng như lời Phật dạy thì chúng ta đâu còn những tập khí thế gian như vậy. Tính ra cũng ba, bốn mươi năm rồi sao mình còn ngồi đây. Bởi vì còn một số điều, một số thói quen, một số năng lực ta chưa chuyển hóa nổi. Nếu chuyển hóa được thì đã giác ngộ giải thoát rồi, phải không? Vì còn vướng mắc chút này chút kia nên chưa chuyển hóa hoàn chỉnh, vì thế chưa giải thoát hoàn toàn.

Tuy nói hành trì công phu để chuyển nghiệp mà trên thực tế chưa chuyển được bao nhiêu. Người không biết tu thường hay buông lung tạo tội từ ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ví dụ nơi thân, thấy con muỗi vo ve trước mặt liền lấy tay bắt. Nơi miệng, mỗi lần giận tức liền nói lời dữ. Nơi ý, gặp người không ưng liền nảy ý nghĩ bậy không tốt. Bây giờ biết tu rồi thì sửa thân đừng làm tội lỗi, miệng đừng nói tội lỗi, ý đừng nghĩ tội lỗi. Hiểu được căn bản của sự tu là như vậy thì việc chuyển nghiệp dễ dàng. Do đó trong suy nghĩ, nói năng và hành động, tựu trung phải làm sao chủ động, đầy đủ trí tuệ để làm chủ được nó.

Có một Phật tử đến than với tôi:

– Con khổ quá. Cái đầu lúc nào cũng nghĩ lung tung lang tang, không muốn nghĩ cũng không được. Nằm xuống một chút mà không yên, con muốn điên cái đầu.

Tôi nói vui:

– Điên thì điên hết cả người, mắc gì chỉ điên cái đầu.

Tuy chỉ là những tế bào nho nhỏ, gen nho nhỏ nhưng nếu thiếu trí tuệ, năng lực của nghiệp sẽ dẫn chúng ta đi. Vì thế nói nghiệp dẫn đi trong luân hồi sinh tử. Không chuyển được nó thì nó dẫn mình đi là điều đương nhiên. Ý thức điều này rõ ràng, thực hành buông xả miên mật thì năng lực của nghiệp đâu thể làm gì được. Từ si mê điên đảo gây tạo những nghiệp nhân không tốt thành ra nghiệp lực dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử, cứ vậy mà trả vay hoài không hết.

Tùy theo mức độ của nghiệp lực mà chúng ta phát ra ý nghĩ, lời nói, hành động khác nhau. Nghe người nói động đến, mình trả lời lại hay im lặng cúi đầu đi. Người ta nói một, mình phải nói lại năm bảy mới hả giận. Như vậy đâu phải là người chân tu. Hiểu rõ nhân quả, thấy rõ sự tăm tối phát xuất từ những dấy niệm rối ren ấy, mình còn điên khùng tạo nghiệp để tự chôn vùi trong đó nữa không? Kinh Nhân Quả, kinh Thập Thiện dạy rất rõ, gieo nghiệp nhân xấu ắt sẽ đi vào con đường xấu. Ba con đường đó là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Gây nhân nào trả quả đó, đây là định luật công bằng không sai ngoa, nhưng không phải không có cách chuyển hóa. Người biết tu hiểu rõ điều này có thể ngay ý nghĩ sai quấy sửa lại thì lời nói việc làm thay đổi tốt hơn.

Nhiều Phật tử khi hành công phu có những trạng thái lo lắng, đến thưa với tôi:

– Thưa Thầy, con tu như vậy đúng không?

– Tu sao mà sợ không đúng?

– Dạ, ở nhà con cũng tụng kinh, lạy Phật và đọc thêm kinh sách.

– Những lời trong kinh Phật dạy đương nhiên là đúng rồi, sao lại phải hỏi. Hỏi tức còn nghi ngờ, tăm tối. Chính tâm nghi mới không đúng.

Trong công phu hàng ngày đòi hỏi chúng ta phải có sự tỉnh sáng để kiểm nghiệm. Thường xuyên lọc luyện nhân tố gây tạo nghiệp. Bây giờ chưa thể nhảy thẳng vào đất Như Lai một cách an ổn, vì còn sống, còn suy nghĩ, tiếp cận đủ thứ nên phải có sự tuyển lựa, làm chủ những nhận định. Sức tự chủ này chính là thước đo, là cán cân và là chủ lực quyết định cho mình đi vào con đường luân hồi hay con đường giải thoát an vui. Vì thế không cần hỏi tu đúng hay sai, hoặc có thành Phật hay không. Nếu làm điều gì ngoài sự kiểm soát của trí tuệ thì sai, phải sửa đổi, đó là tu. Chuyển không được cũng phải chuyển, đổi không được cũng phải đổi. Những vị ngồi thiền còn đau chân nhiều, ráng nhớ điều này.

Có vị hỏi tôi:

– Thưa Thầy, con ngồi thiền đau chân lắm, phải làm sao bây giờ?

– Tôi ngồi cũng đau vậy. Cái chân của anh bằng sắt hay bằng gỗ, chân anh biết đau, chân tôi cũng biết đau. Nếu cắn răng chịu đựng chấp nhận thì đằng sau cái đau này là sự an lạc, nhất định như vậy.

– Con không thấy an lạc chi hết, chỉ thấy đi hết nổi thôi.

– Không phải đâu. Anh quyết tâm làm thử coi, sẽ có an lạc ngay.

Năm xưa khi chúng tôi mới học ngồi thiền, giai đoạn đầu Hòa thượng cho ngồi nửa tiếng. Cặp chân quen chạy ngược xuôi trong thành phố, bây giờ bắt ngồi nửa tiếng đau thấu trời chớ không phải ít. Hòa thượng chỉ nói một câu: “Mình ngồi thiền nửa tiếng đau chịu không nổi thì quá dở đi. Ăn cơm của đàn na thí chủ thiệt là uổng”. Nghe Sư Phụ nói một câu như vậy thấy thật xấu hổ, muốn xuống núi cho rồi. Nhưng không, Hòa thượng nói phải cố gắng lên: “Mấy chú phải nghiệm cái đau mà cắn răng chịu đựng, khắc trị không nhúc nhích cục kịch thì tự nó sẽ hết thôi”.

Ba bốn tháng đầu áp dụng lời chỉ dạy đó của Thầy, tôi cắn răng trợn mắt, cương quyết bó tay chân lại không bỏ xuống. Quả thực ngồi thiền chỉ thấy đau thôi, đâu có sự an lạc nào. Nhưng không ngờ, qua được giai đoạn đó tự dưng hết đau, qua hồi nào cũng không hay nữa. Thầy trò ngồi trên tảng đá phía trước thiền đường, Hòa thượng hỏi vui:

– Hôm trước nghe mấy chú than đau chân. Mấy chú đem cái đau ra đây cho tôi coi, tôi sẽ trị cho.

Anh em đồng thanh trả lời:

– Tụi con kiếm không được.

– Nó là đồ giả, làm sao mấy chú kiếm được. Dùng gan dạ chịu đựng vượt qua tự nó hết chứ đâu có gì. Bắt đầu ngày mai Thầy tăng thêm mười lăm phút.

Giai đoạn từ nửa giờ qua bốn mươi lăm phút quả là nếm một trận đau chí tử. Trước khi cây kim đồng hồ chỉ đúng giờ xả thiền, nó đau lạ lùng, không giống như cái đau ban đầu nữa. Chúng tôi lại than thở với Thầy:

– Thưa Thầy, dây thần kinh chân con bị chấn động, tê liệt hết rồi. Con cảm tưởng nó đang cháy bỏng lên Thầy ơi.

– Đưa ra đây Thầy coi. Cháy đâu? Chẳng thấy gì hết. Thầy tưởng nó sưng gãy hết rồi chứ, còn nguyên mà.

Một khi Hòa thượng đã đưa ra chánh lệnh thì không bao giờ lay chuyển, ai than mặc kệ, tăng cứ tăng. Người chịu trách nhiệm có nghĩa vụ ra lệnh, người thi hành lệnh có nghĩa vụ hành lệnh. Cắn răng mà ngồi chứ còn sao nữa. Qua khoảng chừng bốn tháng tự nhiên ngồi một tiếng đồng hồ hết đau. Bấy giờ anh em mới cười thưa:

– Thưa Thầy, hôm nay tụi con mới nhận được yếu chỉ Thầy dạy. Sém chút nữa tụi con xin Thầy xuống núi hết rồi.

Hòa thượng dạy chúng tôi thực hành thiền trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi, trong đó Ngài chú trọng oai nghi ngồi nhất. Bây giờ tôi cũng tập cho quý vị hành trì. Ba oai nghi kia thì không nói, chỉ có ngồi thôi mà mấy mươi năm chưa vững. Nếu ngày ấy chúng tôi bỏ xuống núi thì không biết phải trả lời sao với Phật tử. Không lẽ nói đau chân tu không nổi, kỳ quá phải không? Chúng tôi ráng một thời gian thì mọi đau nhức qua hết. Khoảng giữa nửa tiếng tới gần một tiếng có hai trận đau. Trận đau đầu chỉ hơi lăn tăn nên nó là điềm báo, trận đau thứ hai tới gần một giờ mới là quyết liệt. Quả thực là thử thách đối với người phát tâm tu hành.

Khi chúng tôi ngồi quen một tiếng, Hòa thượng nâng lên một tiếng rưỡi. Lần này thêm một trận đau thứ ba lúc đến gần tiếng rưỡi, nhưng nó khác hai trận đầu. Cố gắng trong thời gian khoảng sáu tháng thì hai tiếng ngồi vững vàng. Từ đó chúng tôi mới thấu nhận được lời dạy của Hòa thượng. Ngài đã thực tập và trải nghiệm qua những thời khắc, tâm trạng như thế nên Ngài tin tưởng chúng tôi sẽ làm được. Vì vậy Ngài không hề bỏ cương lĩnh, một lòng kiên quyết dù cho chúng tôi có nài nỉ, than thở cỡ nào. Những kinh nghiệm Thầy có được qua sự trải nghiệm bây giờ đem ra chỉ dạy lại cho mình. Nếu không dũng cảm quyết tâm thực hành sự chỉ giáo đó thì làm sao chúng ta có thể bước lên đài vinh quang, làm sao có thể ngồi thiền được hai tiếng đồng hồ an toàn không đau đớn gì.

Rõ ràng những hiện tượng, sự kiện xung quanh không là gì hết nhưng nếu không làm chủ được thì chính nó sẽ làm tiêu tan tất cả cơ hội, nhân duyên thuận tiện tốt nhất của chúng ta. Thế nên tu hoài không tiến là vậy. Hành trì lời Phật dạy mà chưa giác ngộ giải thoát là vì chung quanh mình còn quá nhiều sự việc. Có những điều Thầy dạy như tập “bỏ đi”, mình chí thành vâng lời, thậm chí còn gõ mõ tụng “Bỏ đi, bỏ đi, bỏ đi”. Nói vậy chứ có bỏ gì đâu, lăng xăng lộn xộn mãi cho nên Phật không dám cho mình vô Niết-bàn, chỉ để ngoài trần gian tu gieo duyên chút chút vậy thôi.

Trong khi hành công phu, chúng ta phải khéo léo kiểm nghiệm những yếu điểm để có cách khắc phục ngay từ những manh nha ban đầu. Manh nha căn bản cay đắng nhất chính là tham sân si. Nói chung chung ba thứ này chúng ta đều có hết, nhưng ai biết thứ nào nặng nhất, trầm kha nhất, khó chịu nhất không. Có người tham nặng mà sân nhẹ, có người tham nhẹ mà sân nặng. Có người tham nặng, sân nặng, si hùa theo … Tựu trung tham sân đều từ si mà móng khởi, si mê nhiều thì tham sân nặng, si mê ít thì tham sân nhẹ. Lúc nào con người cũng có thể sân được và nhân duyên dù thế nào, cũng có thể dấy khởi một niệm tham vi tế.

Cách đây nhiều năm, trong chuyến về thăm quê hương của Hòa thượng, Ngài cho Tăng Ni các Chiếu đi rất đông, có Phật tử nữa. Chúng tôi được đến chùa Phật Quang, phía sau là ruộng chùa Đồng Đế có hàng dương phất phơ phía trước. Hòa thượng nói chùa Đồng Đế là chùa của Sư cụ ngày xưa. Đường tới chùa phải đi qua những con rạch nhỏ được bắt với nhau bởi các cây cầu khỉ, ở dưới sình lầy không. Cầu khỉ đơn giản lắm, chỉ là những cây gòn bắt ngang qua, không có tay vịn. Thấy mà sợ. Chúng tôi lừng khừng không dám đi nên thưa:

– Bạch Thầy, Thầy cho tụi con đi đường khác, đường này tụi con đi không được.

– Muốn đi đường khác phải xuống sông, đi thuyền vòng ra ngoài kia. Trên đất bằng chỉ có duy nhất con đường này thôi.

Chuyện nhỏ vậy nhưng đã cho chúng tôi chút kinh nghiệm trên đường tu hành. Thầy dẫn đi trên một đoạn đường ngắn và nói rằng nó bình yên nhưng sự thực trong lòng mình đã không bình yên. Một việc nhỏ như vậy mà không cố gắng, còn sợ bị té xuống dính bùn sình thì không bao giờ qua được. Trên bước đường công phu, Hòa thượng luôn dạy mọi thứ đều không thiệt, những sự kiện, hiện tượng, vọng tưởng đều hư dối. Cảnh duyên không thiệt, cái nhà không thiệt, thân của chúng ta cũng không thiệt và ngay cả tâm vọng động cũng không thiệt luôn. Vậy thì ôm giữ ba mớ dây dưa chi cho mệt. Giả tỉ có rớt xuống ruộng, đầu cổ thân thể dính bùn mà bùn với mình đâu có gì khác lạ. Tuy nhiên vì một chút tham sạch đẹp, an thân mình đã chùn bước và không bao giờ tiến lên được. Phải bình tĩnh, gan dạ sáng suốt trước mọi hoàn cảnh thì công phu mới phát huy vững vàng.

Một nhân duyên nhỏ trong cuộc đời cũng là cơ hội cho chúng ta thực tập hành trì. Nếu không gan dạ sấn tới để tuột mất cơ hội tiến lên thì thật là uổng. Cho nên đừng để cơ hội tốt qua đi, những gì làm được ráng làm, những gì có thể khắc phục ráng cương quyết sấn tới, không nên yếu đuối chùn bước. Trên con đường Phật đạo, mọi việc không hoàn toàn đơn giản nhưng cũng không hoàn toàn khó khăn đến mức làm không được. Ba nghiệp tham sân si chuyển được nhờ trí tuệ đi đầu, khi đó giác ngộ giải thoát là lẽ đương nhiên. Nếu rụt rè, ngó qua ngó lại thì bao giờ tiến lên. Gặp khó khăn vướng mắc một chút đã chùn bước thì trí tuệ làm sao phát triển, làm sao đi đến bến bờ giải thoát an vui?

Với những điều hết sức thông thường trong công phu, khi đã nhận ra rồi chúng ta phải cố gắng, nói sửa thì phải sửa, nói trị thì phải trị. Đừng nói suông rồi bỏ đó, tật của mình sửa ngay nơi mình, đừng kêu người khác sửa giùm hoặc chỉ thấy người có lỗi còn mình luôn tốt đẹp, như thế không hay chút nào cả. Tham sân si, phiền não, điên đảo lăng xăng phải khui ra mà trị cho sạch. Sửa từng chút thì tư cách dần dần được hoàn chỉnh. Sống trong đại chúng, nếu chúng ta thực tâm tu và chịu khó hành trì thì tự nhiên Thầy Tổ, huynh đệ xung quanh sẽ cảm nhận được.

Đó là những vấn đề xoay quanh việc tu chuyển nghiệp. Mong rằng tất cả chúng ta ý thức, sáng suốt nhận định những ưu khuyết của mình, từ đó có cách sửa đổi và hành trì riêng. Mục đích cuối cùng vẫn là an ổn và tu tiến. Đừng để tâm trì trệ như cái kho vô tri vô giác, ai muốn liệng đồ vô lấy đồ ra, sao cũng được. Phải ngăn không cho phiền não phát khởi và giữ niềm an ổn tịnh lạc không rơi mất.

Muốn được như thế thì phải tỉnh giác ngay khi ý thức phân biệt nổi lên. Tu thiền phải có thái độ dứt khoát mạnh mẽ như vậy mới thực xứng đáng là hàng môn đệ của Hòa thượng Trúc Lâm.

Giáo Giới An Cư

Sau khi đại chúng đã chuẩn bị đầy đủ chương trình và điều kiện sinh hoạt tu học cho mùa hạ, quý Hòa thượng sẽ về đây như pháp như luật làm Lễ An cư và thuyết giới cho quý vị. Hôm nay tôi đại diện Tăng đến đây có những điều cần thiết xin được góp ý, chia sẻ trước với đại chúng. Quý vị đã có nhiều trưởng thành, trước nhất là tạo được công đức và thiết lập được quy chế tu hành đúng chánh pháp. Mỗi hành giả đều thể hiện tâm hoan hỉ, siêng năng như pháp như luật hành trì. Đây là điều đáng khen, một phúc duyên vô cùng to lớn cộng thêm sự hộ trì của Tam Bảo, nương nơi phúc trí, công đức của Hòa thượng Ân sư.

Tâm chân thành, khẩn thiết vì sự tu học chính là động lực giúp quý vị thành tựu tâm nguyện tu hành. Điều này tôi thấy rất rõ. Tất cả sự sắp đặt trong chúng được hiện bày rõ ràng tương đối đầy đủ đạo hạnh và nghi biểu trang nghiêm. Tuy chưa hoàn bị nhưng bước đầu được như vậy là điều đáng khen ngợi cho đại chúng.

Bản thân tôi hồi nhỏ là một chú tiểu lang thang khắp các đạo tràng, lại đủ duyên được gần gũi rất nhiều vị Tôn đức và sự thương tưởng hộ trì của Tam Bảo. Tôi luôn được hướng dẫn và đã biểu hiện đầy đủ những nghi cách của người sơ cơ vào đạo. Hôm nay tôi thấy quý vị cũng biểu hiện đầy đủ như vậy.

Ngày xưa sống trong những đạo tràng nghiêm tịnh, sự thực tâm tu học thể hiện qua sinh hoạt hàng ngày. Mỗi khi làm được việc gì hay nhận hiểu giáo lý Phật dạy tôi rất phấn khởi vui vẻ, tâm trạng này có được là từ sự cố gắng tột bậc. Hồi nhỏ tôi nhiều bệnh lắm, hoàn cảnh lúc đó lại thiếu thốn nên tôi cắn răng chịu đựng. Có lần bị bệnh, ngủ quên mất tiêu, ngủ như chết đến mức huynh đệ lấy nước lạnh đổ lên người tôi mới tỉnh. Khi bớt bệnh tỉnh táo rồi, tôi trở nên dũng mãnh phi thường. Nhớ có lần giảng pháp, Hòa thượng kể chuyện các vị hành khước một phen tỉnh rồi thì tỉnh lực ấy sẽ xuyên suốt, đâm thủng tất cả những mê muội, dã dượi, tăm tối. Dường như tôi cảm thấy phấn khởi vì mình cũng có được những phút giây như vậy. Sau niềm vui đó tôi càng cố gắng hơn nữa.

Chư huynh đệ đủ duyên lành vào chùa, có thời gian tập sự quen thuần rồi được xuất gia, tiến liêu làm thiền sinh tu học nhưng không phải ngang đó dừng. Giả tỉ như trong ba bốn vị lãnh đạo, vị căng mặt này nhưng dịu mặt kia. Hoặc có vị dịu mặt này nhưng căng mặt khác. Tại sao họ lại như vậy? Vì họ thương, lo lắng cho quý vị nên có trách nhiệm hướng dẫn và thành toàn cho huynh đệ. Từ nhân duyên tốt đẹp đó chúng ta phải cố gắng tu hành.

Như các thiền sinh trẻ tuổi ham ngủ nhiều, ăn nhiều lại hay thích nghĩ vớ vẩn, lúc nào cũng điên đảo chuyện này chuyện khác. Nếu mặc tình để cho những tư tưởng, vọng động tăm tối đó tung hoành, không khéo làm chủ thì si mê sẽ thúc đẩy trở thành nghiệp lực dẫn đi vào con đường xấu ác. Không thể biết trước đến bao giờ những dại khờ đó chấm dứt. Tuy nhiên nếu cố gắng, kiên quyết vận dụng trí tuệ như mũi nhọn xuyên thủng, đẩy lùi tất cả mê mờ thì con đường sáng sẽ mở ra. Quý vị nên nhìn lại chính mình xem con khỉ bên trong nó đang lăng xăng cỡ nào để từ đó ổn định lại, nhất định trên bước đường tu học sẽ kiên quyết mà thẳng bước tới thành công.

Người tu theo Phật là đang đi trên con đường Bồ-tát đạo và chí hướng tới viên thành Phật đạo. Hạnh nguyện độ tất cả chúng sanh chóng thành Phật đạo không chỉ là sự cố gắng cho riêng mình mà vì đại cuộc, đại thể, vì tâm nguyện tu hành lớn lao vô lượng vô biên. Muốn làm được như vậy đòi hỏi chúng ta phải cố gắng, có cố gắng mới chuyển hóa được nghiệp tập đầy tăm tối. Một phương tiện hữu ích gọi là pháp lực có thể đánh tan, chuyển hóa làm cho nghiệp tăm tối không làm gì nổi. Bây giờ chúng ta cố gắng mở sáng phát huy trí tuệ để vô minh bị giảm thiểu và đẩy lùi.

Muốn trị vô minh chúng ta phải làm gì? Những khi vọng động dấy khởi, không làm chủ được bản thân thì những bực tức, hằn học càng lúc càng dày lên. Nó dày lên thì mình sẽ bất lực buông tay để cho nghiệp tăm tối dẫn. Những lúc sơ suất như vậy chúng ta sẽ thấy buồn, thấy dể duôi để cho những tơ tưởng, dấy niệm và vô vàn trạng thái loạn tưởng bất như ý dấy khởi. Rồi từ đó vô minh phát tiết. Khi vô minh có cơ hội vận hành dẫn mình đi thì đằng sau đó là cả một cảnh giới hiểm nguy đen tối. Muốn thoát ra đòi hỏi thật nhiều công phu, chớ không phải dễ dàng đâu.

Ví dụ một chuyện đơn giản như thế này. Vị thiền sinh đó từ nhà khách bước ra, trong đầu có tâm niệm đến điện Phật phụ huynh đệ quét dọn vì biết ở đó đang cần người. Đây là niệm tốt. Vừa bước ra, một thiền sinh bên kia kêu lại “Chị ơi ra đây, hoa bướm nhiều lắm, rất đẹp và thú vị”. Ngay lúc đó mình do dự, không lên điện Phật mà hướng ra huynh đệ ngoài kia, thế là tâm niệm lành tan mất, nghiệp xấu dẫn đi rồi. Chuyện hết sức bình thường như vậy nhưng nếu không kiểm soát làm chủ, lâu ngày gặp những chuyện to lớn hơn mình phải làm sao? Một chút vậy thôi nghiệm lại thấy loạn tưởng, sôi nổi trong phút chốc không làm chủ được nó dẫn đi xa mút.

Trong bất cứ thời tu tập nào, chúng ta chớ bao giờ xem thường những dấy niệm dù nhỏ nhất, tuy không đáng gì nhưng có khi mình giữ không được. Xây dựng làm thành ngay từ những việc nhỏ để tập trung vào việc chính là thực hiện tròn đầy đại hạnh viên thành Phật đạo. Bao giờ đại hạnh hoàn bị thì Phật đạo mới viên thành. Đại hạnh chưa hoàn bị mà muốn thành Phật đạo hoặc tự nói Phật đạo đã thành là ma mị rồi. Cho nên chúng ta phải cẩn thận, luôn có nhiệt tâm tu học để giải quyết vấn đề sinh tử. Biết vận dụng trí tuệ soi tỏ vấn đề một cách tường tận như thế thì sự cố gắng tu học mới thực sự có cơ năng hoàn chỉnh. Nhiều khi tự nói mình tốt bụng, dễ chịu nên ai mời thỉnh, rủ rê đi đâu cũng được. Thấy như tốt nhưng không phải đâu. Trong giai đoạn tu tập, quý vị chớ bao giờ xem thường mà phải luôn sáng suốt thấy cho rõ.

Sự cố gắng mà thiếu trí tuệ thì ngay cả tâm niệm nhỏ cũng nguy hiểm vô cùng. Không đủ tỉnh sáng dừng những tâm niệm đó, nó sẽ dẫn mình đi vô vàn dặm. Cho nên chớ xem thường dấy niệm, đừng bao giờ hoàn toàn tin vào nó để rồi bị trôi dạt. Sức mạnh của nghiệp lực có tác dụng thúc đẩy phát triển sự tăm tối. Người tu mà để nghiệp dẫn thì uổng lắm, không biết nghiệp và không trị được nghiệp là điều cay đắng. Trong từng phút giây phải cố gắng làm chủ các dấy niệm, đó là bước đầu chuyển hóa nghiệp. Chúng ta có quyền vận dụng sự sáng suốt của mình như con dao bén phẫu thuật tìm cho ra dây mơ rễ má vô minh, xem nó ở đâu và dõng dạc tuyên bố chặt đứt nó đi. Vậy là ta đã chuyển được phần nào nghiệp tập rồi.

Có những dấy niệm ban đầu tuy tầm thường không mang tính xấu gì, nhưng nếu để lâu ngày nó phát triển mạnh thì khó tháo gỡ. Trường hợp các chú tiểu La Vân cũng vậy, xin về nhà ba bữa vui quá, đến ngày trở lại chùa ông cậu đến xin đón về thăm thêm mấy bữa nữa. Cứ vậy hết ông cậu tới bà cô, đi chơi khắp một vòng với bà con dòng họ. Tới hồi trở lên, mặt mày hốc hác tóc tai dài thòng. Hỏi:

– Chú đi đâu, làm gì giờ mới lên?

– Con bệnh quá chắc học không nổi.

– Niệm này có từ hồi nào?

– Dạ, chừng một tháng trở lại đây.

– Giờ chú tính sao?

– Chắc con học không nổi.

– Không nổi thì về thôi.

Từ niệm bà con anh em rủ về nhà thăm đâu có xấu hay to lớn gì, tí xíu vậy thôi mà nó dẫn đi luôn. Vì chưa làm chủ được, công phu tu hành cũng chưa dính dáng, chưa thể chuyển hóa được sự tăm tối, sức hấp dẫn của nghiệp, do đó bị rơi rớt. Đây là vấn đề nhỏ nhưng quý vị phải lưu ý cảnh giác. Trong suốt thời gian phát nguyện tu học, trước nhất phải bảo vệ tâm tu hành ban đầu cho vững, không để sự tăm tối xen vào khiến nghiệp dấy động dẫn mình đi. Nên luôn luôn phát nguyện yên lòng trong mọi hoàn cảnh, phấn đấu tu tập.

Ba giờ khuya thức dậy, ai nấy đều năng nổ rửa mặt lên điện Phật ngồi thiền. Riêng mình còn ngáp, chùng chình đợi mấy huynh đệ rửa mặt xong hết rồi mới vô rửa mặt, họ lên điện Phật hết mình mới lên. Đó là chưa kiểm soát, chưa phát huy được tâm nguyện chân chính tu hành. Quý vị phải cố gắng, chớ để rơi vào những tình huống tầm thường như vậy. Nó là nguyên nhân làm cho mình lui dần. Huynh đệ lên chùa hết, mình lại khởi niệm đi vệ sinh, đi xong thấy còn mấy bộ đồ thôi giặt luôn. Giặt xong mệt, nghỉ một chút. Vừa nằm xuống hai con mắt khép lại, ngáy luôn cả buổi. Tới chừng mở mắt ra nghe trên kia đang hồi hướng, giọng tụng niệm lảnh lót, thanh tao đầy đủ uy nghi và công đức.

Hồi còn sống trong học viện, tôi có người huynh đệ theo học chương trình Đại học Văn khoa. Anh học rất khá, sau này nhận chứng chỉ thầy giáo. Huynh đệ khuyên, thầy tu rồi nên ở nhà dạy anh em, chứ dạy trường ngoài làm sao tu được. Anh không nghe và nói học cực khổ nên phải đi dạy cho ra phết. Mỗi lần ra ngoài dạy anh hay về nhà. Lúc đầu về thăm, nghỉ lại một hai đêm, nói với huynh đệ là đi dạy chỗ này chỗ kia. Sau cùng về cất một ngôi nhà nhỏ trong phần đất của gia đình. Bà con dòng họ xung quanh xúm lại sinh hoạt, thời gian chừng hai năm nơi đó trở thành một nhà thế tục không hơn không kém, có khi còn hơn nhà thế tục nữa.

Điều này khiến chúng ta phải sợ, sợ cái gì? Lòng chưa vững, trí chưa sáng, chưa phát huy tốt tâm Bồ-đề, do vậy khi tiếp cận với hoàn cảnh bên ngoài dễ say sưa dính mắc. Đây là những kinh nghiệm quý vị nên lưu tâm cố gắng xa lìa. Chư huynh đệ còn trẻ tuổi nên phải ráng tu tập, gắn bó với Phật pháp, giới luật và cố gắng thương tưởng đùm bọc nhau. Từ đây cho tới giai đoạn làm chủ được vấn đề sinh tử đâu ai có thể biết trước việc gì xảy ra. Nói chung con đường Phật đạo còn dài lắm, huynh đệ cần phải nương tựa, đùm bọc bảo vệ nhau đi cho trọn cuộc hành trình.

Trong đời tu hành, Hòa thượng Ân sư dạy có hai trường hợp chúng ta phải thực sự trải nghiệm. Tiêu chí thứ nhất phải sáng đạo, tiêu chí thứ hai phải làm chủ vấn đề sinh tử. Sáng đạo tức là đầy đủ sáng suốt, sống an ổn trong đạo lý bình thường, chớ có nhị tâm, ngó qua ngó về, ngay đây bây giờ tập trung phát huy và sống được với trí tuệ của mình. Kế nữa phải làm chủ được vấn đề sanh tử. Ví dụ như nói không uống cà phê mà lại uống là không làm chủ được. Ngay khi còn đang sống đang thở đây mà không làm chủ được huống gì khi chết thì làm sao. Không lẽ tới lúc ngáp ngáp gần chết kêu kiếm cà phê uống một cốc cho đã rồi mới chết sao. Nghiệp nó dẫn tới như vậy không phải đơn giản.

Câu chuyện về một vị tu hành đến hàng trưởng lão, khi bệnh sắp qua đời mà đạo tràng chưa xây dựng xong. Tới lúc hấp hối, thầy bảo đệ tử dìu đi rờ từng viên gạch, tảng đá vừa mới xây chưa khô. Tất cả những tiếc nuối lưu luyến đó mở đường dẫn chúng ta đi vào nghiệp thức mê mờ. Lúc đó dù có liễu đạo vào Niết-bàn hay đến cõi Phật thì Niết-bàn đó chẳng có viên đá viên gạch nào hết và cũng chẳng có cõi Phật nào cho những tâm hồn vớ vẩn vô trong đó được. Cho nên muốn được sanh vào cõi Phật an vui phải làm chủ được mình, sinh tử tự tại đối với tất cả các pháp. Tất cả những gì chúng ta thấy còn khó khăn, bực bội, bức xúc đều phải san bằng hết thì trong cuộc đời này giữa đây bây giờ ai nấy an ổn tự tại. Người an ổn tự tại ngồi góc này cười được, đứng góc kia cũng cười được. Cuốc đất, làm cỏ hay bất cứ công việc gì cũng có thể cười. Vì thế thức ngủ an tường, tự tại xả bỏ dễ dàng những gì không cần thiết, không còn chấp chặt dính mắc với bất cứ cái nào. Đó chính là định hướng tu hành cho quý vị.

Một khoảng thời gian tôi gặp khó khăn mà không tự điều phục được mình, do đó trăn trở dẫn đến mất ngủ và bất an trong lòng. Không khéo tu để bất an trong lòng mà thải ra không được, giải quyết không xong thì nhất định công phu tu hành sẽ hụt hẫng. Không tự điều hòa, cái hụt hẫng càng tăng trưởng do đó tâm Bồ-đề bị gậm nhấm, dần dần thành ra rách nát. Nếu ngay từ phát xuất điểm, trăn trở không có dịp chia sẻ cũng không chịu thải ra ngoài, cứ để tồn đọng dẫn đến tình trạng hụt hẫng nặng nề, tâm Bồ-đề thối chuyển thì còn gì để tu.

Bản thân tôi đã trải qua tình trạng như thế. Chịu trách nhiệm lãnh đạo đôi khi có những chuyện thấy dường như ngoài sức của mình. Chuyện không giải quyết được để tồn đọng trong lòng, trước nhất là mất ngủ rồi những ngày sau sinh hoạt bất thường. Bước đi cảm giác cái đầu nặng hơn hai cái chân. Đầu nặng, xương sống đau cộng với hai cái chân lỏng khỏng nên có bao giờ đi ngay ngắn được đâu. Cái đầu nặng đến mức bước đi cảm giác mình đang cách mặt đất. Những lúc như thế rất dễ nổi cáu. Gặp nhân duyên không hóa giải được làm thiệt hại cho mình và mọi người xung quanh là có thể cáu lên liền. Khi đó tâm Bồ-đề đã rách bươm không còn lành lặn nữa. Ban ngày chao đảo chuyện này chuyện khác, đêm đến nhớ chuyện này chuyện kia ngủ không được thì bình yên ở đâu, làm sao gầy dựng được nếp công phu đúng như pháp. Có lúc tôi cảm thấy xấu hổ không xứng đáng vì mình luôn dạy người khác phải điều hòa, buông bỏ, an ổn vui vẻ không để dính mắc bất cứ điều gì trong khi chính mình chưa làm được. Những lúc như vậy tôi thành tâm mong mỏi mọi việc xung quanh an ổn để vào đêm bớt đi mộng mị, coi như đó là chút an lạc để công phu tu hành có cơ hội phát triển.

Đại chúng có duyên lành cùng chung sống trong đạo tràng trang nghiêm như thế này, nhưng không dễ để tìm được một người trăm phần trăm như ý mình. Nếu có chỉ là những người mắc sai sót biết sửa đổi cũng là tốt lắm rồi. Làm sao có thể đồng cảm hết được phải không? Kinh nghiệm bản thân cho thấy nhất là những người có trọng trách lãnh đạo giữ cương lĩnh, sự đồng tình thống nhất được đặt làm trọng tâm. Bản thân mình và người cộng sự phải thấy được nhiệm vụ chính là tập trung làm sao làm tròn mục đích ổn định đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh. Còn những gì xung quanh tùy duyên xí xóa mà thôi.

Hòa thượng Ân sư dạy, tất cả các pháp đều không thiệt, không gì là của mình, mọi thứ chỉ là nhân duyên hội họp nên có quả ứng thế này thế khác. Tự mỗi cá nhân phải cố gắng tôi tròn trọng trách của mình, còn những gì xung quanh coi như mảnh vụn không cần thiết, thải ra cho nhẹ. Nên biết việc mình phải làm là gì. Những đêm mất ngủ và mất ngủ dài, tôi có cảm giác hãi hùng vì việc của mình làm chưa xong, công phu tu hành không ra chi. Ai rồi cũng có những lúc chiêm bao, hụt hẫng như vậy. Cho nên phút giây hối hận tự nhận thấy khuyết điểm, tự mình sám hối là điều đáng quý hơn hết. Phải cố gắng buông bỏ, đó là phương thức tu hành từ đây mà đạt đạo, không có gì lạ hết.

Nhiều khi chúng ta thấy những vướng mắc trước mặt sao khổ quá, khó quá đi nhưng nghiệm lại thấy tất cả đều không thiệt. Dù không ai lắng nghe, không ai hiểu và chia sẻ, mình chỉ biết vậy thôi chứ nên khởi nghĩ gì cả. Thậm chí người khác có thái độ quá đáng, mình cũng không nên biểu hiện bất mãn. Bên trên có giao phó công tác gì quá sức, mình hoan hỉ cố gắng vươn lên và hòa nhập với sự đồng tình hỗ tương của những người xung quanh. Đó là hướng quý vị nên mở lòng mình ra mà đón nhận tất cả sự cảm thông. Hơn nữa, trong số quý vị ngồi đây, rõ ràng có người hoàn bị điểm này nhưng còn trăm ngàn điều khác chưa được. Giả tỉ như sư huynh này giỏi cắt xén hoa cảnh, đưa vô nhà bếp lại tùm lum làm không được. Hoặc không ai ra ngoài rẫy làm tuyệt vời, vô nấu cơm tuyệt vời, làm vườn hay gì khác cũng tuyệt vời hết. Dường như chưa có người nào được như vậy. Làm rẫy rất tốt mà ngồi thiền ngủ gục thì thiếu đi, hay nấu ăn nêm nếm xuất sắc nhưng ra ngoài làm việc không được. Do đó mỗi người chỉ thành tựu trong một phạm vi. Cho nên muốn thành tựu lớn, chúng ta phải mở rộng lòng mình để đón nhận và cảm thông, cùng nhau phát tâm hướng đến đỉnh cao chung.

Số lượng thiền sinh cả hai viện mỗi ngày mỗi tăng, do đó các vị lãnh đạo phải có cách điều động, khuyến khích, ủng hộ và vận dụng hợp lý tạo sự hưng phấn cho huynh đệ nhắm tới đỉnh cao của việc tu tập. Quý vị lãnh đạo ở đây đã có quá trình tu tập gần 30 năm, trên 30 năm nhưng hầu hết chư huynh đệ mới 2, 3 năm tuổi. Do đó, quý vị cần tạo cơ hội, nhân duyên để khuyến khích chư huynh đệ cố gắng ghi nhận, chia sẻ, đoàn kết vui vẻ trên đường tu học. Mong mỏi gầy dựng thành tựu được một Phật sự từ những chư huynh đệ này ít nhất cũng phải hai, ba thập niên. Chắc quý vị cũng đồng cảm được với tôi điều này.

Nhìn chung trình độ của chư huynh đệ tương đối ngang nhau, hầu hết là phổ thông và trên phổ thông. Một số huynh đệ có trải qua sự va chạm trong cuộc đời nhưng công phu đều chưa trải nghiệm nhiều. Cho nên quý vị phải cố gắng, chủ đích cuối cùng là làm sao thành tựu được đạo nghiệp. Đạo nghiệp có thành tựu thì mọi mê lầm chấp trước không làm gì được chúng ta và tâm nguyện lợi mình lợi người mới được viên mãn tốt đẹp. Đạo nghiệp chưa thành tựu thì chúng ta phải cố gắng, phấn đấu tích cực hỗ trợ cho nhau nhiều hơn nữa. Bởi vì chúng ta đang cùng bơi lội giữa sáu trần, đang còn mê lầm tăm tối nên rất cần sự hỗ trợ, thương yêu, chia sẻ cho nhau để tự bản thân mỗi người thành tựu được nguyện tu hành của mình. Những lúc như thế này có ai nỡ buông tay người bạn của mình ra không? Quý vị đã có nhân duyên tụ họp như vậy thì phải nên vững tâm phát đại nguyện nương tựa nhau, làm thành cho nhau.

Mong rằng nhờ nhân duyên tốt lành này quý vị cố gắng hoàn thành tu tốt, đâu có gì thực hết nên cái gì cũng phải buông. Một ngày nào đó trong giờ tọa thiền, bất chợt quý vị nhận ra lý vô thường của các pháp. Mọi thứ đều là giả tạm, tất cả thành kiến, riêng tư, tăm tối, cố chấp của mình tan rã hết. Không đợi buông, không đợi bỏ nó cũng tự buông bỏ, tan rã rồi. Mỗi chúng ta phải cố gắng tu tập mới nhận ra và thâm nhập được điều đó để được tự tại giải thoát. Hàng ngày nấu cơm, đi làm cỏ, tưới hoa, làm rẫy, bổ củi, gánh nước… làm chỉ biết đang làm, không dính mắc gì hết. Tất cả đều là đồ bỏ, nhận ra và sống với cái chân thật của mình thì nấu cơm không dính nấu cơm, làm cỏ không dính làm cỏ, trồng rẫy không dính trồng rẫy… tự tại đối với tất cả. Đó là chỗ phải ghi nhận và thực hiện để làm sao hoàn toàn sống được với cái chân thật ngay nơi mình.

Hôm nay tôi chia sẻ với quý vị những điều rất bình thường trong đời sống, không phải kinh điển gì xa xôi. Mong rằng trong mùa an cư này, còn những gì bức xúc bất an chưa thông suốt, chư huynh đệ cố gắng chia sẻ, điều hòa giải tỏa tất cả. Làm sao thực hiện được điều Hòa thượng dạy là tu sạch ba nghiệp tham sân si, tu sao bằng Phật mới vừa lòng. Từ các vị lãnh đạo lớn tới các vị mới xuất gia, ai nấy đều phải cố gắng tu tới mức giải trừ những nhỏ nhen cứng nhắc, tăm tối, ương yếu của riêng mình.

Chúc đại chúng một mùa an cư an lạc, gặt hái được nhiều thành tựu trong công phu, xứng đáng một hành giả tu hành đúng chánh pháp. Đó là điểm đến và cũng là công đức dâng lên cúng dường Tam Bảo, cúng dường Hòa thượng Ân sư, bày tỏ tấm lòng biết ơn trả ơn tất cả những ân nghĩa giữa đây. Xin hướng về Tam Bảo thành tâm chúc nguyện đại chúng nương nơi uy đức Thầy Tổ, ai nấy đều đầy đủ sáng suốt phát huy được mũi tên trí tuệ bắn thủng tất cả những nghiệp tập tăm tối, thực sự vào được an lạc.

Nấc Thang Tiến Đạo

Trên bước đường công phu phải có những nấc thang tiến đạo, thì đời tu của chúng ta mới có ý nghĩa, có giá trị thiết thực. Nấc thang đó được thể hiện qua phương pháp và cách ứng dụng công phu của mỗi hành giả.

Nói về công phu tu hành, có những lúc tôi bảo tu hành rất dễ, nhưng cũng có lúc tôi le lưỡi thưa rằng không phải dễ đâu. Thật ra nói dễ nói khó đều không sai, tùy theo cách hành trì và tinh thần tu tập của mỗi người.

Hòa thượng Trúc Lâm luôn dạy chư Tăng Ni tu thì phải giác ngộ. Sự giác ngộ ấy phát xuất từ công phu, từ tâm nguyện của mình. Ngài quở chúng tôi “chú nào tu nghệ sĩ thì không dính dáng đâu”. Tu nghệ sĩ là tu thế nào? Là một nắng mười mưa, một bữa ưa mười bữa không ưa. Chỗ này khi lớn lên tôi chiêm nghiệm thấy quả thật không sai. Cho nên muốn tiến đạo cần phải đặt định cho mình một nấc thang, một cái mốc tu tập vững chắc.

Ngày xưa chư Tăng tu học có nhiều thời gian nghiên cứu. Ở đây Hòa thượng dạy ngoài việc tu học anh em còn phải lao động. Điều này đôi khi chúng ta thấy mất thì giờ nhưng không ngờ nó lại có một giá trị đặc biệt. Nhờ lao động chúng ta tiếp cận được với ánh nắng, tốt cho sức khỏe. Ngoài ra còn cảm nhận công khó khổ của người Phật tử đem thức ăn đến dâng cúng cho mình. Từ đó chúng ta biết trân quý phẩm vật của người, kiệm phước của mình, tập trung tu nhiều hơn. Qua lời dạy của Thầy, tôi thường nhắc nhở chư huynh đệ, mỗi người nên thiết lập một thời khóa biểu tu hành. Nấc thang tiến đạo chính là khóa biểu này. Chúng ta bảo vệ, gắn bó, sống chết với nó thì mới tiến bộ. Tu theo kiểu hâm nóng một ngày để nguội ba bốn ngày, rồi lại hâm nóng và để nguội. Cứ nóng lạnh nóng lạnh giống như bệnh sốt cách nhật thì chết chắc. Bây giờ phải có thuốc ngừa cữ, biết cữ vào khoảng nào thì trước đó mình uống thuốc. Khóa biểu tu học chính là thuốc ngừa bệnh.

Chúng ta có rất nhiều bệnh. Nếu không nói ra, không thật lòng thì không ai trị cho mình được hết. Sống chung thầy trò như cha con, nhưng mình giấu giếm bệnh tật thì thầy cũng bó tay, làm sao biết được trong bụng của mình. Phải nói thật. Như người ham ngủ thì nói bệnh ham ngủ, người ham ăn nói bệnh ham ăn, người ham đi chơi nói bệnh ham đi chơi… Còn nhiều thứ bệnh ngủ ngầm bên trong, chúng ta không chịu nói nên thầy không thể hỗ trợ, vì vậy chẳng những bệnh không hết mà còn ngày càng trầm trọng. Đôi khi nói ra và tha thiết khẩn cầu xin sám hối mà còn chưa thực sự chừa bỏ được, huống là không chịu nói. Nếu cứ giữ tình trạng như vậy thì tu không tiến, nấc thang tiến đạo trèo không biết tới chừng nào!

Như lời Hòa thượng Trúc Lâm dạy tu thì phải giác ngộ. Chữ “giác” là nhận ra, biết. Chữ “ngộ” cũng là nhận. Trước nhất biết mình có cái gì? Biết mình có cái tâm, biết mình có tánh giác, biết mình có khả năng tu thành Phật. Cái biết này rất quan trọng. Nhiều khi chúng ta cũng biết qua lời dạy của Phật, rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh nhưng mình không dám nhận nên không ngộ. Biết rồi còn phải dám nhận, thực hiện điều Phật dạy mới giác ngộ được.

Giác ngộ có nhiều từng bậc. Hòa thượng dạy tiểu ngộ là cái biết không hoàn bị lắm. Người có khóa biểu tu học tốt trước sẽ được những tiểu ngộ, rồi từ từ đến đại ngộ, chắc chắn như vậy. Huynh đệ chúng ta đại ngộ thì chưa dám nói, nhưng tiểu ngộ thì rất nhiều. Nhận ra, hiểu biết chúng ta mới dám bỏ tất cả để đi tu. Chỉ có điều bảo vệ nấc thang tiến đạo, phát huy liên tục tâm Bồ-đề, mình chưa có kinh nghiệm. Chỉ một chút đó thôi mà thành ra trở ngại.

Bởi chưa có kinh nghiệm nên không chiến thắng được nghiệp tập, đụng cái gì thua cái đó. Ngồi thiền đau một chút là ngán. Thầy nhắc, huynh đệ nhắc, thời khóa nhắc, khuôn khổ đời sống của người tu luôn hỗ trợ nhắc nhở cho chúng ta liên tục, nhưng đụng phải tập nghiệp tự nhiên thấy khó. Cho nên có những thiền sinh tu một năm rồi mà chưa ngồi thiền được một tiếng, vì nhát nhúa quá đi. Lúc đầu từ 15 phút cố gắng được tới một tiếng đồng hồ, nghe Thầy nói sẽ hết đau, nhưng thực tế thấy vẫn còn đau, trong lòng lo sợ suy nghĩ chắc là ngồi không nổi nên thối Bồ-đề tâm, từ đó không tiến được.
Chỗ này Hòa thượng dạy “chết bỏ”. Thực sự mà nói chết thì phải bỏ chứ làm sao lấy được. Nghiệm cho cùng, lời dạy của Thầy rất là hữu lý. Bởi rất hữu lý nên bước được tới chỗ đó, mình sẽ tiến, sẽ vượt qua tất cả trở ngại. Nếu còn ôm giữ khối nghi trong lòng thì ngồi tới một tiếng đồng hồ là thấy đau. Dù cho thầy có đứng một bên mình vẫn lén kéo chân ra, nắn nhẹ nhẹ hồi lâu mới kéo lên. Nhưng xui xẻo làm sao, kéo ra được một lần rồi, không bao lâu lại muốn kéo ra nữa. Trong bụng cứ xúi kéo ra kéo vô hoài. Cho nên Thầy dạy phải cắn răng chịu đựng, phải chết bỏ. Nghe lời thầy, mình cố gắng hành trì thì sẽ vượt qua. Hồi ở Chân Không, tôi ngồi thiền tới khoảng một tiếng là thấy Thầy đứng bên cạnh. Nhờ thế mà vươn lên không bị chùn lại. Bởi vươn lên được nên trong đời sống tu hành có niềm vui.

Niềm vui đó là niềm vui gì? Thầy dạy chết bỏ, anh em ngồi đến 1g45’ đau muốn chết mà chết không được, nên rồi cũng không bỏ. Chết không được làm sao mà bỏ. Bấy giờ anh em ngồi lại toàn là chuyện đau nhức. Cứ đau nhức rồi lại đau nhức, không có gì khác. Tuy nhiên nếu chúng ta cắn răng chịu, không cục kịch nhúc nhích, không kéo ra kéo vô thì đau nhức sẽ đến hồi kết thúc. Chỗ này người nào dám bước tới, lướt qua được mới có kinh nghiệm. Có vị nói giống như đụng vào vách tường, đau đã rồi bung ra hết đau. Lúc đầu nghe vậy tôi không tin, huynh đệ bảo muốn biết hư thực cứ ngồi sẽ biết. Quả thực như thế. Chịu đựng được rồi, cái đau biến mất hồi nào không hay.

Trong huynh đệ có vị do dự nên không chiến thắng, không tiến được. Công phu hôm nay tiến nhưng ngày mai chưa chắc. Bữa nay vui vẻ, ai đi ngang mình cũng cười cũng vui, tu tiến. Ngày mai không hiểu vì sao buồn xo, thấy anh em đi qua, vội đóng cửa cái rầm, hết tiến. Cứ như vậy đó. Bây giờ làm sao giữ được công phu để hóa giải những bất thường của mình, nhất định sẽ tu tiến. Công phu hằng ngày là nấc thang tiến đạo nên phải cố gắng.

Bồ-tát Sĩ Đạt Ta ngày xưa xin phép phụ vương đi ra ngoài thành xem xét dân tình, Ngài chứng kiến những gì? Chứng kiến cảnh người già, người bệnh và người chết, cũng những vấn đề cũ sì, đâu có gì lạ. Chúng ta đâu không thấy nhan nhản những cảnh ấy, nhưng thấy rồi thôi không cảm nhận như Đức Phật. Thật ra mình hơi ớn, chẳng biết cái chết đó có bò đến ta không. Tuy nhiên chỉ một chút xíu là quên ngay, không như Bồ-tát Sĩ Đạt Ta. Dấu ấn in đậm trong lòng khi Ngài chứng kiến cảnh người già lụm cụm, người đau yếu rồi thây chết. In đậm đến mức độ những hình ảnh thân thương như vợ con, vương vị, cung vàng điện ngọc đều thải ra ngoài cửa thành.

Thái tử vén màn lên nhìn vợ con rồi từ giã ra đi. Vì Ngài cảm khái rằng nếu như thế này mãi thì đời kiếp nào mới hết khổ. Ngài trải lòng thương đến tất cả chúng sanh, từ đời này sang đời khác cứ trói buộc nhau rồi than khổ, không biết bao giờ thoát khỏi. Vì thương mình, thương gia đình, thương chúng sanh nên Ngài đành gác tình riêng, quyết định nửa đêm vượt thành tìm đường thoát khổ. Khi vượt thành Ngài nói với ai? Nếu nói với ông hoàng em thì không xong, ông sẽ tâu lên vua cha, nói với bà dì cũng không xong, bà bảo con đi thì mẹ khổ lắm. Cho nên cuối cùng nói với ông đánh ngựa Xa-nặc. Đây là người trung thành, chỉ tuân lệnh, không bao giờ cản trở con đường của Ngài. Nhờ thế hai thầy trò an toàn vượt khỏi hoàng thành trong đêm tối.

Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hiện thân cuối cùng là hoàng tử trong cung vua Tịnh Phạn, tên Sĩ Đạt Ta. Vượt thành xuất gia một cách kiên quyết mãnh liệt, chứng tỏ Ngài đã có công phu tu hành từ nhiều đời. Do vậy một phen tiến thì không lùi, một phen đi thì không quay lại. Nói vượt thành là vượt thành, không hề sợ đêm tối hay sợ bất cứ thứ gì khác. Nấc thang, bước đi của con người như vậy mới thành đạt.

Đến nơi rừng sâu Ngài cởi bỏ hoàng bào, ngọc ngà châu báu, cởi bỏ luôn cả vương vị của mình, trả hết về cho triều đình, mặc chiếc áo của gã thợ săn vào rừng tu hành. Như vậy tiến có nhanh không? Ngay trong đêm, ra khỏi hoàng thành thẳng tiến vào rừng, bắt tay ngay vào việc tu hành. Không như chúng ta bây giờ phải tập sự, ở viện Tăng, viện Ni chi cũng có thời gian tập sự. Nhiều vị trải qua ba bốn lần tập sự, mỗi lần ba tháng, sáu tháng hoặc cả năm, nhiều năm… cũng chưa xuất gia. Như vậy là vì chưa cương quyết.

Tâm cương quyết biểu hiện trong sự hòa hợp, tuân thủ và kham nhẫn đời sống xuất gia, như vậy mới tu được. Bồ-tát Sĩ Đạt Ta là bậc thầy của chúng ta, ai giám sát Ngài về việc này? Do Ngài tự quyết định, tự nỗ lực thôi. Sau khi vào rừng chuyên tâm học đạo, hỏi đạo các nơi không chút sao lãng lui sụt. Chưa bao giờ nghe nói Ngài điện thoại về vua cha, kể bữa nay gặp ông thầy ngó bộ không ổn, cũng không nghe nói con nhớ cha quá, muốn về thăm một chút…

Vào rừng cắm đầu tu, hỏi đạo và được sự hướng dẫn của các vị Thầy nổi tiếng đương thời, Ngài chứng được những quả vị cao nhất mà các Thầy đã chứng, nhưng cuối cùng thấy chưa ổn, nên Ngài ra đi tìm một lối tu cho mình. Rõ ràng Đức Phật có những nấc thang tiến đạo trong suốt quá trình tu hành. Chúng ta muốn tu tiến cũng phải quyết như vậy.

Giai đoạn kế Ngài chấp nhận đời sống khổ hạnh. Lịch sử ghi lại quá trình tu khổ hạnh của Đức Thế Tôn rất đáng kính phục, người ý chí trung bình đã không thể làm nổi, nói chi đến kẻ ý chí hạ liệt. Mỗi ngày ăn một hạt mè, một hạt đậu nên thân thể suy kiệt tới mức chỉ còn bộ xương sống, da thịt teo tóp chẳng thấy đâu nữa, hai con mắt sâu như hai đáy giếng. Thử nghĩ như vậy làm sao sống nổi? Thế mà đạo giác ngộ vẫn chưa sáng.

Đồng thời xuất gia với Ngài có năm anh em Kiều Trần Như. Đây là những vị triều đình cử đến, vừa bảo vệ vừa tu cho có bạn với Thái tử. Cuối cùng Ngài từ giã các bạn đồng tu, trở lại đời sống tu bình thường. Thế Tôn nhận bát sữa của mục nữ Sujata cúng dường, nhưng không phải ngang đó Ngài chểnh mảng hoặc bỏ cuộc. Đây là một sự chuẩn bị để tiến lên một bước lớn. Khi nhận và uống xong bát sữa, Đức Phật đến bên dòng sông Ni Liên Thuyền tắm rửa, thấy sức khỏe hồi phục trở lại. Ngài thả bát xuống dòng Ni Liên và phát đại nguyện, nếu công phu của tôi thành tựu thì cho cái bát này trôi ngược dòng. Quả thực cái bát trôi ngược dòng. Ngài phấn khởi tới cội Tất Bát La, trải cỏ làm tòa, kiết già phu tọa với lời kiên thệ: “Nếu ngay nơi đây không đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, dù thịt nát xương tan quyết không rời khỏi chỗ ngồi này.” Đây là câu thệ nguyện kiên quyết cuối cùng. Thế Tôn thiền định trong 49 ngày đêm, đêm cuối cùng khi sao mai vừa mọc Ngài triệt chứng, giác ngộ hoàn toàn.

Từ khi vượt thành xuất gia cho đến lúc ngộ đạo, không có quãng nào Ngài khởi niệm thoái chuyển. Trước giờ phút thành tựu giác ngộ viên mãn, ma quân hiện ra dưới nhiều hình thức quấy phá Ngài kịch liệt. Chiêu thức cuối cùng nặng nề nhất là chúng hiện ra hình ảnh công chúa Da Du Đà La, người vợ hiền ngày xưa của Thái tử. Lưới ái vây bủa là nghiệp tập nặng nhất của chúng sanh từ vô thủy kiếp đến nay. Lịch sử ghi lại nhân duyên vợ chồng của hai vị trải qua rất nhiều đời, đến đây mới được đập tan.

Huynh đệ chúng ta ai cũng phải chuẩn bị nghe, coi chừng nó hiện ra là rơi đài đó. Tu mấy mươi năm mà chỉ bất giác một phút là tiêu đời. Trở lại vấn đề tu hành, Phật nói có khi sự phát tâm tu hành của mình ngang ngửa với các bậc thánh hay chúng ta có mặt cũng xấp xỉ với thời gian Ngài còn là một chúng sanh. Nhưng Đức Phật cương quyết tu học nên thành đạo, chuyển pháp luân làm lợi ích chúng sanh, nhập Niết-bàn cho tới năm này là 2556 năm. Vậy mà chúng ta vẫn còn đây. Bởi vì những nghiệp cũ, những chủng tử tăm tối còn ngủ ngầm trong chúng ta quá nhiều. Do vậy phải cẩn thận đối với các tập khí, chủng tử.

Tại nhà khách Thiền viện Thường Chiếu, luôn có một số tịnh nhân cư sĩ tập tu. Nhiều vị phát tâm mãnh liệt, làm công ty xí nghiệp nhưng phủi bỏ hết vô đây tu. Thời gian tập sự mau hay chậm, được xuất gia sớm hay không là do chính các vị. Anh em được học Phật pháp, mỗi đêm phải lên điện Phật tọa thiền, tụng kinh. Sống trong môi trường như vậy mà có vị không quên được điếu thuốc. Thèm quá họ lén mua thuốc rồi vào nhà vệ sinh hút. Đáng lẽ giờ đó an nghỉ, chuẩn bị tu học mà lại lén vô nhà vệ sinh hút thuốc. Có đáng thương không? Nhớ hút thuốc là một đơn cử trong vô số cái nhớ khác, nó sâu dày rất khó bỏ.

Tóm lại, tất cả chúng ta đều cố gắng và làm sao khi đã cắm mốc được rồi, phải nuôi dưỡng, phát huy nó. Không nên cứ tiến rồi lùi, tiến rồi lùi thì chẳng tới đâu hết. Chỗ này Đức Phật tuyên bố: “Ta đã hàng phục tất cả, rõ biết tất cả, ta không nhiễm một pháp nào, ta xa lìa hết thảy, diệt dục mà giải thoát, tự mình chứng ngộ, còn ai là thầy của ta nữa”. Câu nói này mới nghe thấy như tự phụ, nhưng thực sự là như vậy. Việc tu hành do tự mình chiến thắng, chứ không ai khác.

Ở đây Đức Phật nói ta đã hàng phục tất cả, rõ biết tất cả… diệt dục được giải thoát. Đó là nhận lại trí tuệ vô sư, trí tuệ Bát-nhã của mình. Khi học đạo, chúng ta sẽ thấy có một niềm vui, một sự phấn phát lạ thường. Niềm vui đầu tiên là nhận ra mình có “Tri kiến Phật”, trong các kinh luận Đại thừa gọi là Phật tánh, Chân tâm. Niềm vui thứ hai là biết mình có khả năng tu hành thành Phật. Bao nhiêu điều đặc biệt như vậy, nếu chúng ta cố gắng bảo vệ, nuôi dưỡng công phu thì việc thành Phật không khó.

Chúng ta nuôi dưỡng công phu thật đảm bảo, đừng để trật lên trật xuống, hoặc rơi vào những khoảnh khắc bị tập nhân quá khứ len vào dẫn đi. Đó là khéo léo vận dụng trong công phu. Ai rồi cuối cùng cũng phải tự hàng phục tất cả nghiệp tập, phiền não, không người nào có thể hàng phục thay mình được. Phải tự mình không nhiễm, tự mình biết tất cả, tự mình diệt dục, những dấy niệm đều làm chủ, không bị nó dẫn đi v.v… thì mới nếm được vị giác ngộ giải thoát. Muốn thực sự nếm được vị giác ngộ thì phải trải qua một quá trình trải nghiệm, chứ không ai có quyền năng ban cho mình.

Đức Phật cũng nói “do hàng phục được nội tâm, tự biết rõ tất cả các pháp thiện ác nhiễm tịnh”. Khi đã hàng phục được nội tâm rồi, đối với tất cả các pháp thiện ác chúng ta tự biết rõ ràng, cái nào tốt cái nào không tốt… Sự nhận biết này không giống như cái biết do học từ thầy. Tôi muốn nói đến chỗ tu giác ngộ, mình có thể làm được, chính mình chớ không ai khác. Đức Phật cũng nói bên ngoài không nhiễm ác pháp, không kẹt các thiện pháp do đó mà diệt dục được giải thoát, được tự tại chứng ngộ.

Chứng ngộ trong nhà Phật là tự mình không bị vướng bên này, không bị kẹt bên kia, không lệ thuộc nơi các pháp. Không kẹt các pháp ác, cũng không vướng mắc với pháp thiện, cả hai thiện ác đều ở bên ngoài, không dính dáng gì đến tâm giải thoát của chính mình. Thật ra muốn không vướng cái này, không bận cái kia chẳng phải dễ đâu.

Có vị Phật tử đã học đạo tu hành trên hai mươi năm, các công việc trong gia đình đã giải quyết ổn hết. Cho nên vị này rất vui vì thấy mình có phước, đủ duyên học Phật pháp với chư vị Tôn đức, học liên tục không có gì cản trở. Nghĩ vậy Phật tử cho rằng mình tu tiến nhưng đùng một cái kẹt đứa cháu nội. Bà thương cháu tới mức bữa nào chưa gặp nó là ngủ không được. Với tuổi tác bảy mươi mấy tám mươi mà như vậy thì hại cho sức khỏe lắm. Việc tu hành theo đó dần lui sụt.

Bà hỏi tôi: “Thưa Thầy như vậy con có tu được không?”. Tôi nói: “Tu được hay không Phật tử tự biết, làm sao hỏi tôi được”. Rõ ràng bây giờ bà đang bị vướng bởi tình thương này. Bao giờ bà bình thường được, đứa nhỏ thế nào mặc nó, bà chỉ lo việc tu hành thôi. Không buông được thì cứ lao lư, chạy theo cái nghiệp nên mất hết công phu. Không khắc tiến mức độ tu hành, không cắm mốc cho nên lui sụt dần dần.

Chúng ta nên nhớ càng lớn tuổi sức khỏe càng kém. Ngày xưa mình bận rộn nhưng vẫn tranh thủ tu tập các thời khóa đầy đủ. Đến hồi lớn tuổi lẽ ra rảnh rang có thì giờ tu nhiều hơn, nhưng vừa bắt vào công phu thì ngáp, thì ho, thì mệt, muốn đi nằm. Ngồi vô một chút thấy xót ruột quá kiếm cái gì ăn, hoặc kêu nhắc đứa này đứa kia làm chuyện này chuyện nọ. Bởi cứ như vậy nên công phu tu hành mất đi, không ghi được ở mức độ bình thường. Tu như vậy tới lúc hấp hối làm sao đảm bảo có thể vững tâm theo Phật.

Cho nên chỗ này chúng ta phải cố gắng vượt qua, khắc phục, tự làm chủ, nghĩa là tự mình phải giác ngộ. Để làm gì? Để tất cả những dụ dự, dính mắc, dây mơ rễ má dẹp sạch thì công phu mới bắt đầu tiến được. Bản thân tôi hồi đó làm rất nhiều công việc, nhưng tới giờ thọ trai, ngồi thiền, tụng kinh vẫn tham dự bình thường. Bây giờ tụng kinh được miễn lý do là già, ngồi thiền được miễn lý do là thầy, sướng lắm. Người ta bắt đầu tụng kinh từ 6 giờ tới 7 giờ, mình lụi hụi nhảy mũi, xức dầu, cạo gió, hơ lửa, chườm muối v.v… Sướng ở chỗ nào, rõ ràng cái thân nó hại mình. Tôi đâu có muốn thế, mà ngày qua ngày cứ như vậy đó.

Đáng lẽ không theo đại chúng mình phải có công phu gì đáng kể để ghi bàn thắng. Đằng này không có công phu gì, thua lại càng thua. Tu như vậy làm sao tiến được, làm sao có thể thành Phật? Chúng ta cứ buông xuôi để thời gian trôi theo các duyên sanh diệt nên công phu không tiến. Lý do là vì mình không tỉnh, lại hay lui sụt.

Đức Thế Tôn ngồi dưới cội Bồ-đề với lời cả quyết thành đạo, suốt thời gian đó không hề lui sụt. Bởi không lui sụt nên mới ghi được bàn thắng khi sao Mai sáng rực. Chúng ta bây giờ không ghi được bàn thắng nào nên bao nhiêu lần sao Mai mọc mà mình vẫn tối thui. Ba giờ thức dậy không nổi, bốn giờ cháu nội vô kêu dậy, nói bữa nay sao tao đau mình quá. Cứ như vậy. Tuổi tác, sự mỏi mệt của thân giả tạm đã khống chế mình rồi. Phật dạy thân này giả tạm, chúng ta nghe mà không dám hiểu. Bởi thấy nó là thiệt nên ráng săn sóc, bảo vệ. Do vậy tu không tiến.

Phương pháp chúng ta tu tập hàng ngày là tọa thiền. Tọa thiền là gì? Hàng phục được thân tâm. Cho nên ai tọa thiền được thì người đó sẽ bước vào ngưỡng cửa hàng phục thân tâm. Hàng phục thân và hàng phục tâm nếu ngồi thiền được. Ngồi thiền ở đây không phải là hôm nay ngồi hai ba tiếng một lèo rồi ngày mai lại nằm dài nghỉ, hôm nào khỏe mới ngồi lại. Không phải như vậy. Ngồi thiền trở thành khóa biểu của thiền tăng, đúng như lời dạy của Hòa thượng Ân sư, nó là hơi thở của chúng ta. Thiếu hơi thở một phút là chết. Đặt định công phu tu hành như lời dạy này nhất định sẽ tu tiến.

Tọa thiền là hàng phục thân tâm. Những ý niệm như dòng nước chảy xiết, niệm niệm liên tục không dừng. Công phu tọa thiền sẽ thắng hết tất cả những thứ đó. Bây giờ đi từng bước, trước nhất chúng ta hàng phục thân. Khi ngồi thiền trước phải sắp đặt tay chân để như thế nào… ngồi trong tư thế điều hòa. Giữ suốt cuộc đời tu hành, tất cả các thời thiền điều hòa được thân thì mới hàng phục được tâm.

Nếu ngồi thiền yên ổn, đúng pháp, thân yên. Điều hòa thân được rồi, tiếp theo hơi thở cũng điều hòa, công phu tu hành theo đó cũng điều hòa, tức là trị được những niệm tưởng lăng xăng của mình. Biết rõ chính niệm tưởng này là dòng xích dẫn chúng ta đi trong luân hồi sinh tử. Bây giờ tọa thiền, thân an, điều phục được thân, tâm an điều phục được những dấy niệm.

Hòa thượng dạy chúng ta biết được các dấy niệm, làm chủ các dấy niệm, không chạy theo dấy niệm, nó không đủ sức kéo lôi mình. Ngài dạy chính xác như vậy mà mình không để ý, không làm. Làm chủ các dấy niệm lúc đầu thấy như khó lắm, nhưng tập dần sẽ thấy không khó nữa. Thân đau nhức dậy trời dậy đất mà còn điều hòa được, chịu được. Tập từ hồi mới ngồi 15 phút, tạo dựng cơ đồ ngồi được cả 1 tiếng 45 phút, rồi 2 tiếng đồng hồ, chừng đó vững vàng, an ổn lắm.

Khi chúng ta điều phục được thân thì song song đó cũng điều phục được tâm. Gầy dựng một sức chịu đựng bên trong, từ đó cũng điều hòa các kinh mạch. Cho nên người ngồi thiền nhiều thì khỏe, phong sáng, vầng trán bóng lên, làm chủ được các sự kiện, dễ dàng buông bỏ mọi thứ. Nếu làm chủ được thân thì đối với tất cả dấy niệm cũng có sức mạnh làm chủ. Đó là điều phục được tâm.

Hòa thượng dạy không chạy theo các dấy niệm, nó không đủ sức kéo lôi, tức thì định và tuệ đầy đủ. Chúng ta định tuệ không đầy đủ là vì còn chạy theo dấy niệm, bị nó lôi dẫn, chúng ta không làm chủ được. Không làm chủ được thì nói gì định, nói gì tuệ. Như vậy tuy có trí vô sư nhưng nó ngủ mất tiêu, không phát ra được. Trong công phu nếu chúng ta chủ động điều hòa thân tâm, không bị các niệm tưởng lăng xăng kéo lôi thì trí vô sư sẽ đầy đủ, sẽ hiện tiền. Người tu là người đang trên bước đường chiến thắng và sẽ thực hiện trọn vẹn, phát huy đầy đủ trí tuệ vô sư của mình. Đó là hướng tu hành của chúng ta.

Định là nội tâm yên tĩnh, không lăng xăng và lìa các pháp nhiễm các pháp ác. Mọi ham muốn được tháo gỡ, tâm rỗng rang sáng suốt, tự giác ngộ. Bản thân tôi khi ngồi thiền cũng luôn muốn được định. Dù ngồi một tiếng rưỡi hay một tiếng vẫn muốn phát huy định thể hiện tiền. Nhưng ta không ngờ khi khởi niệm muốn như vậy là đã không định. Định không có thì tuệ làm sao phát sanh? Do thiếu tuệ nên bước ra ngoài gặp cái gì cũng dính, cũng mê, cũng chạy theo v.v… Gặp đối tác thì trong lòng không yên, từ đó dẫn tới tạo nghiệp để rồi bị trói buộc trong vòng lẩn quẩn luân hồi sinh tử. Đối tác bên ngoài tuy thấy hình tướng mạnh bạo, nhưng không mạnh bằng những đối tác vô hình trong lòng. Như nước không xương ở đâu cũng đầy, đôi khi nó trở thành lũ thì sức mạnh phi thường. Trận sóng thần Nhật Bản vừa qua đã minh chứng rất rõ điều này. Những tòa nhà cao ngất, những cơ sở to lớn kiên cố tưởng không gì có thể phá vỡ, thế nhưng một khi trận sóng dữ ập tới thì tất cả sụp đổ như trò chơi.

Cũng vậy, vọng tưởng lôi chúng ta đi từ đời này sang đời khác, nó ghi bàn thắng thì ta phải gánh bàn thua. Dù bên ngoài mình ra vẻ chừng nào nhưng bên trong thua vẫn cứ thua. Nên đề nghị huynh đệ phải để ý tới các dấy niệm, vọng tưởng bên trong. Vọng tưởng là gì? Không là gì hết, có chăng chỉ là một chút tưởng, một chút quàng xiên không chính đáng. Tuy nhiên nó đủ sức kéo lôi và dẫn chúng ta đi, nhận chìm vào chỗ tăm tối, để rồi cắm đầu tạo nghiệp. Một khi đã tạo nghiệp thì quả báo đến mình không trốn đi đâu được.

Đối với người tu thiền, điều phục vọng tưởng là điều hòa được tâm. Điều hòa thân, điều hòa hơi thở, điều hòa pháp tu là vào được công phu. Người tu thiền trong mọi thời khóa, tự gầy dựng cho mình sự an ổn nhu hòa. Ghi bàn thắng nơi thân rồi sẽ tiếp tục điều hòa tâm. Điều hòa vọng tưởng lăng xăng, làm chủ nó thì tâm thể hiện tiền rỗng rang sáng suốt. Trực chỉ là chỉ thẳng, trong đời sống tu hành gầy dựng như vậy, tu tập như vậy, ngoài ra chẳng có việc khác.

Tu hành phải thật lòng, không nên giấu giếm, nuôi dưỡng những thứ không thật, không tốt. Khi có bệnh, có những khó khăn hoặc trở ngại thì phải thật lòng trình bày với Thầy. Bởi chỉ có Thầy mới thực sự hỗ trợ, hướng dẫn cho mình trên bước đường tu học. Trình bày để chi, để Thầy biết bệnh của mình mà giúp đỡ điều phục, chuyển hoá.

Trở lại vấn đề tu hành, nếu tọa thiền trong vòng 1g45’ hoặc 2 tiếng thấy ôi thôi là đau, chịu hết nổi. Đó là vì mình không cố gắng vượt qua. Đâu phải chỉ có mình đau, huynh đệ cũng đau như vậy, nhưng nhờ ý chí, sự cố gắng nên có người phá vỡ cơn đau, vượt qua thời điểm cam go nhất, ngồi được một trăm hai chục phút, chiến thắng. Khi gặp điều kiện thuận lợi chúng ta cố gắng gầy dựng công phu, nhưng nhớ cũng phải khéo léo. Vượt qua cơn đau mà không làm thương tổn thân thể như sai khớp, đau đầu, đau lưng… Được vậy công phu mới bền lâu. Nếu để tổn thương thân thể, vô tình người ta bảo tu thiền trở thành phế nhân thì không tốt. Tu làm sao giống Phật, giống Bồ-tát chứ đừng cong cong vạy vạy giống tôi thì mất uy tín thiền gia hết.

Cho nên ngồi thiền được định thì nội tâm yên tĩnh, mọi thứ lăng xăng nhơ nhiễm thiện ác không còn quấy rối chúng ta nữa. Vì vậy người tu thiền muốn vững vàng thì phải ngồi thiền. Ngồi thiền không được thì khó mà định. Chư Phật, Bồ-tát có nói về Na-già thường tại định, tức loại đại định luôn có trong mọi sinh hoạt, nhưng hiện tại chúng ta không vào được. Mình bước ra thì bá bên này dính bên kia, lăng xăng lộn xộn. Trở vô đóng cửa ngồi một mình thì lảm nhảm độc thoại như thằng điên. Huynh đệ có vướng mắc như vậy không? Có chứ. Vướng mắc này mới là khó gỡ.

Ưu tư, toan tính, phiền muộn còn đầy là con khỉ bên trong chưa ngủ. Vừa nghe con khỉ bên ngoài chóe chóe là nó nhảy ra liền. Cho nên chúng ta phải cố gắng, con khỉ bên trong ngủ yên thì mọi việc đều yên. Ngồi thiền để hàng phục thân tâm, có định thì nội tại vững vàng, mọi vướng mắc được tháo gỡ.

Các bậc tôn sư thường nhắc nhở chớ để tới đêm 30, hãi hùng sợ sệt vì cảnh đen tối sấm chớp thú dữ hầm hét, lúc đó chúng ta sẽ không làm gì được ngoài sự bấn loạn. Nghiệp đen tối dẫn đi vào đường khổ đau. Do vậy bình thường phải cố gắng dụng công tu hành để tự chiến thắng. Chúng ta cũng không mong cầu chi xa xôi, ngay trong hiện tại ngồi thiền được ghi bàn thắng là có tỉnh, có định.

Buổi nói chuyện hôm nay tôi muốn nhấn mạnh hai điểm này. Một là tu giác ngộ, tức gầy dựng được bàn thắng giác ngộ. Chúng ta không bị bất cứ sự duyên gì làm trở ngại, làm thối tâm Bồ-đề. Hai là làm chủ được thân tâm, có định tỉnh nên tự tại đối với tất cả các pháp. Định tỉnh hiện tiền rồi thì không có gì khó dễ chúng ta được. Khen chê tốt xấu không thể phá hoại công phu tu hành của chúng ta.

Rất mong chư huynh đệ tự ý thức, tự trình bạch mọi việc trong tâm lên Phật, lên các bậc Thầy để được uốn nắn thẳng vào con đường thiền, hàng phục thân tâm, làm chủ các pháp. Đó là công phu tu thiền của tất cả chúng ta.