LUẬN XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Đàm Ma Da Xá, Đàm Ma Quật Đa
Việt dịch: Phật tử Nguyên Huệ
QUYỂN 17
Phẩm thứ 10: PHẦN KHÔNG HỎI VỀ ĐẠO, phần 3
Nói: Như tưởng bất tịnh của thức ăn. Thân cận, tu học nhiều xong, tức được quả báo lớn, được công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ.
Hỏi: Do nguyên nhân gì nên nói như thế?
Đáp: Như Tỳ-kheo, tâm nhận biết phân biệt về tưởng bất tịnh của thức ăn, đối với đoạn thực tâm lùi lại, chìm lặn, không tiến triển, dần dần sẽ loại trừ hết, dứt bỏ chán lìa xong, được chánh trụ. Như gân mạch, như lông chim, như cỏ đầu la ném vào trong lửa tức bị cháy rụi, co lại, không trải ra, sau đó thì tiêu tan hết. Tỳ-kheo như thế, tâm nhận biết phân biệt về tưởng bất tịnh của đoạn thực, khiến cho tưởng tịnh về đoạn thực lùi lại, chìm lặn, không tiến triển, dần dần sẽ trừ diệt hết, dứt bỏ chán lìa xong được chánh trụ.
Như Tỳ-kheo, hoặc có tâm nhận biết phân biệt về tưởng bất tịnh của đoạn thực, đối với đoạn thực tâm cũng còn sinh lậu thấm như cũ không khác, tâm không dứt bỏ, không chán lìa, không chánh trụ. Tỳ-kheo tự nhận biết như thật: “Chính là ta chưa tu tưởng bất tịnh về đoạn thực, ta chưa tăng trưởng khác với danh sắc, ta chưa được quả báo tu”. Như thế là Tỳ-kheo có chánh trí.
Như Tỳ-kheo, tâm nhận biết phân biệt về tưởng bất tịnh của đoạn thực, đối với đoạn thực tâm không sinh lậu thấm, so với trước có khác, dứt bỏ, chán lìa, chánh trụ. Tỳ-kheo chánh tri như thật: “Ta đã tu tưởng bất tịnh về đoạn thực, ta có tăng trưởng khác với danh sắc, ta đã được quả báo tu”. Tỳ-kheo này có chánh trí về tưởng bất tịnh của đoạn thực, thân cận tu học nhiều, tu học nhiều xong tức được quả báo lớn, được công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ. Tức do nhân duyên ấy.
Nói: Như tưởng tất cả thế gian không an vui. Thân cận, tu học nhiều xong, tức được quả báo lớn, công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ.
Hỏi: Do nhân duyên gì nên nói như thế?
Đáp: Như Tỳ-kheo, tâm nhận biết phân biệt về tưởng tất cả thế gian không an vui, vô số tưởng về thế gian tâm lùi lại, chìm lặn, không tiến triển, dần dần sẽ diệt trừ hết, dứt bỏ chán lìa xong, được chánh trụ. Như gân mạch, như lông chim, như cỏ Đầu la ném vào trong lửa liền cháy rụi, co lại không trải ra, sau thì tiêu tan hết. Tỳkheo như thế, tâm nhận biết phân biệt về tưởng tất cả thế gian không an vui, khiến vô số tưởng của thế gian phải thoái mất, không tiến triển, dần dần sẽ diệt trừ hết, dứt bỏ chán lìa xong, được chánh trụ.
Như Tỳ-kheo, hoặc có tâm nhận biết phân biệt về tưởng tất cả thế gian không an vui, vô số tưởng về thế gian, tâm cũng còn sinh lậu thấm như xưa không khác, không dứt bỏ, không chán lìa, không chánh trụ. Tỳ-kheo tự nhận biết như thật: “Chính là ta chưa tu tưởng tất cả thế gian không an vui, ta chưa tăng trưởng khác với danh sắc, ta chưa được quả báo tu”. Như thế là Tỳ-kheo có chánh trí.
Như Tỳ-kheo, tâm nhận biết phân biệt về tưởng tất cả thế gian không an vui, đối với vô số tưởng cuả thế gian, tâm không sinh lậu thấm, đối với trước có khác, dứt bỏ chán lìa được chánh trụ. Tỳ-kheo chánh trí như thật: “Ta đã tu tưởng tất cả thế gian không an vui, ta có tăng trưởng khác với danh sắc, ta được quả báo tu”. Tỳ-kheo này có chánh trí hành tưởng tất cả thế gian không an vui, thân cận tu học nhiều, tu học nhiều xong tức được quả báo lớn, công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ. Tức do nhân duyên ấy.
Nói: Như tưởng chết. Thân cận, tu học nhiều xong, tức được quả báo lớn, công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ.
Hỏi: Do nguyên nhân gì nên nói như thế?
Đáp: Như Tỳ-kheo, tâm nhận biết phân biệt về tưởng chết, dựa cậy vào mạng căn mà tự kiêu ngạo. Do mạng căn quyết định có thể nhận là thường trụ, tâm tham chấp mạng căn, như là đã đoạn hết phiền não không còn sót. Như Tỳ-kheo, hoặc có tâm nhận biết phân biệt về tưởng chết, dựa cậy vào mạng căn mà tự kiêu ngạo, dùng mạng căn quyết định có thể nhận là thường trụ, tâm tham đắm mạng căn, như thế là chưa đoạn. Tỳ-kheo tự nhận biết như thật: “Ta chính là chưa tu tưởng chết, ta chưa tăng trưởng khác với danh sắc, ta chưa được quả báo tu khác”. Như thế là Tỳ-kheo có chánh trí.
Như Tỳ-kheo tâm nhận biết phân biệt về tưởng chết, dựa cậy vào mạng căn mà tự kiêu cạo, dùng mạng căn để quyết định có thể nhận là thường trụ, tâm tham đắm mạng căn, như là đã đoạn trừ hết, không còn sót. Tỳ-kheo tự nhận biết như thật: “Ta đã tu tưởng chết, đã tăng trưởng khác với danh sắc, ta đã được quả báo tu”. Tỳ-kheo như thế là có chánh trí về tưởng chết, thân cận tu học nhiều, tu học nhiều xong tức được quả báo lớn, công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ. Tức do nhân duyên ấy.
Nói: Như tưởng vô thường. Thân cận tu học nhiều xong, tức được quả báo lớn, công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ.
Hỏi: Do nhân duyên gì nên nói như thế?
Đáp: Như Tỳ-kheo, tâm nhận biết phân biệt về tưởng vô thường, đối với tâm cung kính nơi lợi dưỡng, danh tiếng, tức thoái mất, không tiến triển, dần dần sẽ trừ dứt hết, dứt bỏ chán lìa xong, được chánh trụ. Như gân mạch, như lông chim, như cỏ Đầu la ném vào trong lửa liền bị cháy rụi, co lại, không trải ra, sau thì tiêu tan hết. Tỳ-kheo như thế tâm nhận biết phân biệt về tưởng vô thường, đối với sự cung kính nơi lợi dưỡng, danh tiếng, tâm thoái mất, không tiến triển, dần dần sẽ loại trừ hết, dứt bỏ chán lìa xong, tức được chánh trụ.
Như Tỳ-kheo, hoặc có tâm nhận biết phân biệt về tưởng vô thường, đối với sự cung kính nơi lợi dưỡng, danh tiếng, tâm cũng còn sinh ra lậu thấm, như cũ không khác, không dứt bỏ, không chán lìa, không chánh trụ. Tỳ-kheo tự nhận biết như thật: “Ta chính là chưa tu tưởng vô thường, chưa tăng trưởng khác với danh sắc, ta chưa được quả báo tu”. Như thế là Tỳ-kheo đã tự nhận biết như thật.
Như Tỳ-kheo tâm nhận biết phân biệt về tưởng vô thường, đối với sự cung kính nơi lợi dưỡng, danh tiếng, tâm không sinh lậu thấm, so với trước có khác, dứt bỏ chán lìa xong được chánh trụ. Tỳ-kheo chánh tri như thật: “Ta đã tu tưởng vô thường, ta có tăng trưởng khác với danh sắc, ta được quả báo tu”. Tỳ-kheo có chánh trí về tưởng vô thường, thân cận tu học nhiều, tu học nhiều xong tức được quả báo lớn, được công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ. Tức do nhân duyên này.
Nói: Như tưởng vô thường khổ. Thân cận, tu học nhiều xong, tức được quả báo lớn, được công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ.
Hỏi: Do nhân duyên gì nên nói như thế?
Đáp: Như Tỳ-kheo tâm nhận biết phân biệt về tưởng vô thường khổ, đối với sự lười biếng, trễ nãi, bất tín, phóng dật, không siêng năng, không quán xét v.v… sinh tưởng lo sợ, rất sợ hãi bức thiết, như người sắp chết, ra sức quán tưởng vô thường khổ. Tỳ-kheo hoặc có tâm nhận biết phân biệt về tưởng vô thường khổ, đối với sự lười biếng, trễ nải, bất tín, phóng dật, không siêng năng, không quán xét v.v… không sinh tưởng lo sợ, rất sợ hãi bức thiết, không phải như người sắp chết, ra sức quán tưởng vô thường khổ. Như Tỳ-kheo, tự nhận biết như thật: “Chính vì ta chưa tu tưởng vô thường khổ, ta chưa tăng trưởng khác với danh sắc, ta chưa được quả báo tu”. Như thế là, Tỳ-kheo tự nhận biết như thật.
Như Tỳ-kheo tâm nhận biết phân biệt về tưởng vô thường khổ, đối với sự lười biếng, trễ nãi, bất tín, phóng dật, không siêng năng, không quán xét v.v… sinh tưởng lo sợ, rất sợ hãi bức thiết, như kẻ sắp chết, ra sức quán tưởng vô thường khổ. Như Tỳ-kheo chánh trí như thật: “ Ta do tu tưởng vô thường khổ, ta đã tăng trưởng khác với danh sắc, ta đã được quả báo tu”. Tỳ-kheo này có chánh trí về tưởng vô thường khổ, thân cận tu học nhiều, tu học nhiều xong tức được quả báo lớn, được công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ. Tức do nhân duyên ấy.
Nói: Như tưởng khổ vô ngã. Thân cận tu học nhiều tưởng này xong, tức được quả báo lớn, được công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ.
Hỏi: Do nhân duyên gì nên nói như thế?
Đáp: Như Tỳ-kheo, tâm nhận biết phân biệt về tưởng khổ vô ngã, đối với các hữu thức thân cùng những vật ngoài, chấp ngã, ngã sở, sinh kiêu mạn v.v… đều cùng lìa, tĩnh lặng, chánh giải thoát.
Như Tỳ-kheo, hoặc có tâm phân biệt về tưởng khổ vô ngã, đối với các hữu thức thân cùng những vật ngoài, chấp ngã, ngã sở, sinh kiêu mạn v.v…, tâm cũng còn không xa lìa, không tĩnh lặng, không giải thoát. Như Tỳ-kheo, tự nhận biết như thật: “Vì chính ta chưa tu tưởng khổ vô ngã, chưa tăng trưởng khác với danh sắc, ta chưa được quả báo tu”. Như thế là Tỳ-kheo tự nhận biết như thật.
Như Tỳ-kheo, tâm nhận biết phân biệt về tưởng khổ vô ngã, đối với các hữu thức thân cùng những vật ngoài, chấp ngã, ngã sở, sinh kiêu mạn v.v…, tâm cùng lìa, tĩnh lặng, chánh giải thoát. Như thế là Tỳ-kheo tự nhận biết như thật: “Ta đã tu tưởng khổ vô ngã, ta đã tăng trưởng khác với danh sắc, đã được quả báo tu”. Tỳ-kheo này có chánh tri về tưởng khổ vô ngã, thân cận tu học nhiều, tu học nhiều tưởng này xong tức được quả báo lớn, được công đức lớn, được đến cảnh giới cam lộ. Do nguyên nhân này nên nói như thế.
Đó gọi là bảy tưởng.
Hỏi: Thế nào là bảy pháp nhân duyên của định?
Đáp: Chánh kiến, chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tấn, chánh niệm, đó gọi là bảy pháp nhân duyên của định.
Hỏi: Thế nào là tám Thánh đạo?
Đáp: Chánh kiến cho đến chánh định, đó gọi là tám Thánh đạo.
Hỏi: Thế nào là tám giải thoát?
Đáp: Sắc quán sắc giải thoát, đó gọi là giải thoát thứ nhất. Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài, đó gọi là giải thoát thứ hai. Tịnh giải thoát, đó gọi là giải thoát thứ ba. Lìa tất cả tưởng sắc, diệt tưởng giận dữ, không tư duy từng ấy tưởng, thành tựu xứ vô biên không, đó gọi là giải thoát thứ tư. Lìa tất cả xứ không, thành tựu vô biên hành của thức xứ, đó gọi là giải thoát thứ năm. Lìa hết thảy xứ thức, thành tựu xứ vô sở hữu, đó gọi là giải thoát thứ sáu. Lìa tất cả xứ vô sở hữu, thành tựu xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là giải thoát thứ bảy. Lìa tất cả xứ phi tưởng phi phi tưởng, thành tựu hành của diệt thọ tưởng, đó gọi là giải thoát thứ tám.
Hỏi: Thế nào là sắc quán sắc là giải thoát thứ nhất?
Đáp: Như Tỳ-kheo không diệt tưởng sắc trong, nhận lấy tưởng sắc ngoài. Tỳ-kheo dùng sắc ngo ài để điều phục tâm mình, tu khiến được nhu hòa. Tu khiến nhu hòa xong, được sắc giải thoát. Như Tỳkheo tâm nhận biết phân biệt về tưởng sắc ngoài, tâm hướng đến sắc kia, tôn thượng sắc kia, dốc hướng nơi sắc kia, dùng sắc kia để giải thoát.
Thế nào là sắc? Như Tỳ-kheo chưa phân biệt sắc bên trong, chưa diệt, không mất, không trừ, đó gọi là sắc.
Thế nào là quán? Nếu sắc ngoài do nhãn thức từng thấy, thấy như thật, thấy vi tế, duyên nơi thấy, do ý thức phân biệt, phân biệt như thật, phân biệt vi tế, duyên nơi phân biệt, đó gọi là quán.
Thế nào là thứ nhất? Thuận theo thứ lớp của tám giải thoát, không nghịch, do thứ lớp hành nhập định là đầu tiên, là mới bắt đầu, là trước, đó gọi là thứ nhất.
Thế nào là được giải thoát? Tâm hướng đến pháp kia, tôn thượng pháp kia, dốc hướng nơi pháp kia, do pháp kia nên được giải thoát, đó gọi là giải thoát.
Hỏi: Thế nào là trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài là giải thoát thứ hai?
Đáp: Như Tỳ-kheo diệt tưởng sắc trong xong, nhận lấy tướng của sắc ngoài, dùng sắc ngoài điều phục tâm, tu khiến nhu hòa, tu khiến nhu hòa xong, tức được giải thoát. Như Tỳ-kheo, tâm nhận biết phân biệt tướng của sắc ngoài, tâm hướng đến sắc ấy, tôn thượng sắc ấy, dốc hướng nơi sắc ấy, dùng sắc ấy để giải thoát.
Thế nào là trong không có tưởng sắc? Như Tỳ-kheo do tưởng sắc trong phân biệt diệt mất trừ xong, đó gọi là trong không có tưởng sắc.
Thế nào là quán? Nếu sắc ngoài, do nhãn thức đã từng thấy, thấy như thật, thấy vi tế, duyên nơi thấy, do ý thức phân biệt, phân biệt như thật, phân biệt vi tế, duyên nơi phân biệt, đó gọi là quán.
Thế nào là thứ hai? tám giải thoát do thứ lớp là thuận không nghịch, do hành nhập định theo thứ lớp là thứ hai so với thứ nhất, không có trung gian, nên gọi là thứ hai.
Thế nào là giải thoát? Tâm hướng đến pháp kia, tôn thượng pháp kia, dốc hướng nơi pháp kia, do pháp kia nên được giải thoát, đó gọi là giải thoát.
Hỏi: Thế nào là tịnh giải thoát là giải thoát thứ ba?
Đáp: Như Tỳ-kheo nhận lấy tướng của một sắc tịnh. Như tướng lửa, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, ngọc ma ni, bảy báu, cung điện, tơ năm sắc, y phục, mền, hoa quả, vàng bạc, đồng, vòng ngọc, lưu ly, chân châu, ngọc kha bối, san hô, đá ngọc và tánh báu khác. Tỳ-kheo nhận lấy tướng của các sắc tịnh ấy xong, được tịnh giải thoát. Tâm Tỳ-kheo nhận biết phân biệt về tưởng sắc tịnh, tâm hướng đến sắc ấy, tôn thượng sắc ấy, dốc hướng nơi sắc ấy, do sắc ấy nên giải thoát.
Thế nào là tịnh? Các sắc tốt đẹp lần lượt cùng chiếu sáng, vừa ý, ngắm xem không chán, đó gọi là tịnh.
Thế nào là giải? Tâm hướng đến giải thoát kia, đó gọi là giải.
Thế nào là thứ ba? Tám giải thoát theo thứ lớp là thuận không nghịch, do thứ lớp hành nhập định là thứ ba so với thứ hai, không có trung gian, nên gọi là thứ ba.
Thế nào là giải thoát? Tâm hướng đến pháp kia, tôn thượng pháp kia, dốc hướng nơi pháp kia, do pháp kia nên giải thoát, đó gọi là giải thoát.
Hỏi: Thế nào là lìa tất cả tưởng sắc, diệt tưởng giận dữ, không tư duy từng ấy tưởng, thành tựu hành của xứ vô biên không, là giải thoát thứ tư?
Thế nào là tưởng sắc? Nếu tưởng tương ưng với nhãn thức, đó gọi là tưởng sắc.
Thế nào là tưởng giận dữ? Nếu tưởng tương ưng với phẫn nộ, đó gọi là tưởng giận dữ.
Thế nào là từng ấy tưởng? Như sự cấu uế, vẩn đục bên ngoài không phải là tưởng của phần thiện, đó gọi là từng ấy tưởng.00
Lại nữa, tưởng sắc nếu không lìa tưởng của cõi sắc và tưởng tương ưng với nhãn thức, đó gọi là tưởng sắc.
Lại nữa, tưởng giận dữ, nếu tưởng tương ưng với năm thức thân và tưởng tương ưng với phẫn nộ, đó gọi là tưởng giận dữ.
Lại nữa, từng ấy tưởng, nếu các chúng sinh, các vật, các cảnh giới, các thứ thanh tịnh, các phiền não, đó gọi là từng ấy tưởng.
Đáp: Như Tỳ-kheo lìa tất cả tưởng sắc, diệt tưởng giận dữ, không tư duy từng ấy tưởng. Như Tỳ-kheo đối nơi trong thân có các lỗ: Hoặc là lỗ tai, lỗ mũi, lỗ miệng, chỗ thức ăn uống đi vào, chỗ thức ăn uống dừng lại, chỗ thức ăn uống xuất ra, tư duy về không, nhận biết không, hành giải không, thọ nhận không.
Như Tỳ-kheo nhận biết thân có thức uống, cũng như vỏ tỏi, tư duy dần khiến mỏng, nhận biết mỏng, hành giải mỏng, thọ nhận mỏng. Tư duy dần khiến cho vỡ tan, nhận biết vỡ tan, hành giải vỡ tan, thọ nhận vỡ tan.
Như thế, Tỳ-kheo nhận biết tưởng của sắc trong xong. Hoặc các lỗ trong vật ngoài, hoặc các lõi trong đất, giếng, hố, hầm, hang núi, hang sâu, hang thú, Tỳ-kheo tư duy về không, nhận biết không, hành giải không, thọ nhận không.
Như Tỳ-kheo phân biệt về tưởng sắc trong, ngoài xong, quán xứ không tĩnh lặng, tư duy về vô biên không, nhận biết vô biên không, hành giải vô biên không, thọ nhận vô biên không. Như người tu hành, nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng không xứ. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định không xứ.
Lại nữa, Tỳ-kheo nơi đại địa và núi Tu Di tạo ra tưởng đống lửa, tư duy về khói, nhận biết khói, hành giải khói, thọ nhận khói. Tư duy về cháy, nhận biết cháy, hành giải cháy, thọ nhận cháy. Tư duy về đốt, nhận biết đốt, hành giải đốt, thọ nhận đốt xong, Tỳ-kheo tư duy về xứ vô biên không là tĩnh lặng, vượt hơn, tư duy về xứ vô biên không, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ vô biên không là tĩnh lặng vượt hơn. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng không xứ, tưởng này với định cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt, đó gọi là nhập định không xứ.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế, nếu tưởng dục hiện đời, tưởng dục vị lai, tưởng sắc hiện đời, tưởng sắc vị lai. Tưởng này là thô, còn tưởng không xứ là tĩnh lặng vượt hơn, là vi tế, thiện tịnh.
Tỳ-kheo tư duy về xứ vô biên không là xứ tĩnh lặng thù thắng, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ vô biên không là tĩnh lặng thù thắng. Như người tu hành, nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng không xứ. Tưởng này với định cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt, đó gọi là nhập định không xứ.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế về tưởng dục hiện tại, tưởng dục vị lai, tưởng sắc hiện tại, tưởng sắc vị lai, tưởng này là thô, còn xứ không vô biên thì vĩnh viễn diệt trọn vẹn, tĩnh lặng thù thắng. Tỳ-kheo tư duy về xứ vô biên không là tĩnh lặng, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ vô biên không. Như người tu hành, nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng không xứ. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định không xứ.
Thế nào là thứ tư? Vì tám giải thoát theo thứ lớp là thuận, không nghịch, do hành nhập định theo thứ lớp là thứ tư so với thứ ba, không có trung gian, nên gọi là thứ tư.
Thế nào là giải thoát? Tâm hướng đến pháp kia, tôn thượng pháp kia, dốc hướng nơi pháp kia, do pháp kia nên giải thoát, đó gọi là giải thoát.
Hỏi: Thế nào là lìa nhất thiết không xứ, thành tựu hành của xứ vô biên thức, gọi là giải thoát thứ năm?
Đáp: Như Tỳ-kheo tư duy như thế này: Ta đã thành tựu hành của xứ vô biên không, từng có pháp vượt hơn xứ vô biên không chăng?
Tỳ-kheo liền khởi suy nghĩ này: Chỉ có hành của không xứ. Như người dùng đồ dựng đớn đậy lên đồ đựng nhỏ, tư duy như vầy: Đồ đựng này vượt hơn đồ dựng kia. Đồ đựng này do nhân gì mà vượt hơn? Ta dùng đồ đựng này để đậy lên đồ đựng kia.
Như Tỳ-kheo, tư duy như thế này: Ta đã hành giải khắp hành của xứ vô biên không, từng có pháp nào vượt hơn vô biên không xứ chăng? Tỳ-kheo liền có suy nghĩ này: Chỉ có thức là vượt hơn hành của xứ vô biên không. Do nhân gì mà thức vượt hơn? Do ta dùng thức mở bày khắp xứ vô biên không.
Như Tỳ-kheo tư duy về xứ vô biên thức là tĩnh lặng, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ vô biên thức là tĩnh lặng. Như người tu hành, nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng thức xứ. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định thức xứ.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nếu tưởng dục hiện tại, tưởng dục vị lai, tưởng sắc hiện tại, tưởng sắc vị lai, tưởng không xứ v.v… là thô, còn tưởng thức xứ là tĩnh lặng thù thắng. Tỳ-kheo tư duy về xứ vô biên thức là tĩnh lặng hơn hết, nhận biết, hành giải, thọ nhận sự tĩnh lặng hơn hẳn của xứ vô biên thức. Như người tu hành, nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của thức xứ. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định thức xứ.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Như tưởng dục hiện tại, tưởng dục vị lai, tưởng sắc hiện tại, tưởng sắc vị lai, tưởng không xứ v.v…, chỉ có thức xứ là vĩnh viễn diệt không còn sót, chỉ thức xứ là tĩnh lặng vượt hơn. Như Tỳ-kheo tư duy về xứ vô biên thức, nhận biết, hành giải, thọ nhận sự tĩnh lặng hơn hết của xứ vô biên thức.
Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng thức xứ. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định thức xứ.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nhập xứ vô biên không là thô, nhập xứ vô biên thức là tĩnh lặng thù thắng, vi tế, thiện tinh. Như Tỳ-kheo tư duy về xứ vô biên thức là tĩnh lặng hơn hẳn, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ vô biên thức là tĩnh lặng vượt hơn. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của thức xứ. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định thức xứ.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nếu nhập định không xứ là thô, nếu nhập định thức xứ là tĩnh lặng, thù thắng, vi tế, thiện tịnh. Như Tỳ-kheo tư duy về xứ vô biên thức là tĩnh lặng vượt hơn, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ vô biên thức là tĩnh lặng hơn hẳn. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của thức xứ. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định thức xứ.
Thế nào là thứ năm? Do tám giải thoát theo thứ lớp là thuận, không nghịch, do hành nhập định theo là thứ năm so với thứ tư, không có trung gian, nên gọi là thứ năm.
Thế nào là giải thoát? Tâm hướng đến pháp kia, tôn thượng pháp kia, dốc hướng nơi pháp kia, do pháp kia nên được giải thoát, đó gọi là giải thoát.
Hỏi: Thế nào là lìa tất cả thức xứ, thành tựu hành của xứ vô sở hữu, là giải thoát thứ sáu?
Đáp: Như Tỳ-kheo tư duy như thế này: Ta đã mở bày khắp hành của xứ vô biên thức, từng có pháp vượt hơn xứ vô biên thức chăng? Tỳ-kheo liền khởi suy nghĩ này: Chỉ có thức nơi xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn. Như Tỳ-kheo tư duy về xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn, nhận biết, hành giải, thọ nhận sự tĩnh lặng vượt hơn của xứ vô sở hữu. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ vô sở hữu. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ vô sở hữu.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Ngã không phải là ngã sở có, ngã sở không phải là ngã có. Như Tỳ-kheo tư duy về xứ vô sở hữu là tĩnh lặng thù thắng, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ vô sở hữu. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ vô sở hữu.
Lại nữa, Tỳ-kheo quán tất cả thế gian là không, quán thế gian là không rồi, khởi tưởng không có nơi chốn nương dựa. Như Tỳkheo tư duy về xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn, nhận biết, hành giải, thọ nhận sự tĩnh lặng hơn hết của xứ vô sở hữu. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ vô sở hữu. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ vô sở hữu.
Lại nữa, Tỳ-kheo dùng đại địa, núi Tu Di, tạo ra tưởng đống lửa, tư duy về khói, nhận biết, hành giải, thọ nhận khói, tư duy về cháy, nhận biết, hành giải, thọ nhận cháy, tư duy về đốt, nhận biết, hành giải, thọ nhận đốt xong, Tỳ-kheo tư duy về xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn, nhận biết, hành giải, thọ nhận sự tĩnh lặng vượt hơn của tưởng xứ vô sở hữu. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ vô sở hữu. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ vô sở hữu.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nếu tưởng dục hiện tại, tưởng dục vị lai, tưởng sắc hiện tại, tưởng sắc vị lai, tưởng của không xứ, tưởng của thức xứ, thì các tưởng này là thô, tưởng của xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn, vi tế tịnh thiện. Như Tỳ-kheo tư duy về sự tĩnh lặng vượt hơn của xứ vô sở hữu, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ vô sở hữu. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ vô sở hữu.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nếu tưởng dục hiện tại, tưởng dục vị lai, tưởng sắc hiện tại, tưởng sắc vị lai, tưởng của không xứ, tưởng của thức xứ, trọn vẹn là tĩnh lặng vượt hơn. Như Tỳ-kheo tư duy về xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn, nhận biết, hành giải, thọ nhận sự tĩnh lặng vượt hơn của xứ vô sở hữu. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ vô sở hữu. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ vô sở hữu.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nhập xứ vô biên không là thô, nhập xứ thức là thô, nhập xứ vô sở hữu là tĩnh lặng hơn hết, vi tế tịnh thiện. Như Tỳ-kheo tư duy về xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn, nhận biết, hành giải, thọ nhận sự tĩnh lặng hơn hẳn của xứ vô sở hữu. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ vô sở hữu. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định xứ vô sở hữu, đó gọi là nhập định xứ vô sở hữu.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nếu nhập định không xứ, định thức xứ là thô. Nếu nhập định xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn, vi tế tịnh thiện. Như Tỳ-kheo tư duy về xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ vô sở hữu là tĩnh lặng vượt hơn. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ vô sở hữu. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt, đó gọi là nhập định xứ vô sở hữu.
Thế nào là thứ sáu? Do tám giải thoát là theo thứ lớp thuận, không nghịch, do hành nhập định theo thứ lớp là thứ sáu so với thứ năm, không có trung gian, nên gọi là thứ sáu.
Thế nào là giải thoát? Tâm hướng đến pháp kia, tôn thượng pháp kia, dốc hướng nơi pháp kia, do pháp kia nên được giải thoát, đó gọi là giải thoát.
Hỏi: Thế nào là lìa tất cả xứ vô sở hữu, thành tựu hành của xứ phi tưởng phi phi tưởng, là giải thoát thứ bảy?
Đáp: Như Tỳ-kheo tư duy như thế này: Tưởng là lỗi lầm tai hại của ta. Tưởng là ung nhọt, tưởng là mũi tên độc của ta. Xứ phi tưởng phi phi tưởng là tĩnh lặng vượt hơn, Tỳ-kheo tư duy về xứ phi tưởng phi phi tưởng là tĩnh lặng hơn hết, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ phi tưởng phi phi tưởng là tĩnh lặng vượt hơn. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ phi tưởng phi phi tưởng.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Như tưởng dục hiện tại, tưởng dục vị lai, tưởng sắc hiện tại, tưởng sắc vị lai, tưởng không xứ, tưởng thức xứ, tưởng xứ vô sở hữu, là thô, tưởng xứ phi tưởng phi phi tưởng là tĩnh lặng, hơn hết, vi tế tịnh thiện. Tỳ-kheo tư duy về sự tĩnh lặng hơn hết của xứ phi tưởng phi phi tưởng, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ phi tưởng phi phi tưởng là tĩnh lặng hơn hết. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ phi tưởng phi phi tưởng.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nếu tưởng dục hiện tại, tưởng dục vị lai, tưởng sắc hiện tại, tưởng sắc vị lai, tưởng không xứ, tưởng thức xứ, tưởng xứ vô sở hữu, chỉ có xứ phi tưởng phi phi tưởng là vĩnh viễn diệt trọn vẹn và tĩnh lặng hơn hết. Tỳ-kheo tư duy về sự tĩnh lặng hơn hết của xứ phi tưởng phi phi tưởng, nhận biết, hành giải, thọ nhận sự tĩnh lặng hơn hết của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ phi tưởng phi phi tưởng.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nếu nhập xứ vô biên không, nhập xứ vô biên thức xứ, nhập xứ vô sở hữu là thô, còn nhập xứ phi tưởng phi phi tưởng là tĩnh lặng hơn hết, là vi tế thiện tịnh. Tỳ-kheo tư duy về sự tĩnh lặng hơn hết của xứ phi tưởng phi phi tưởng, nhận biết, hành giải, thọ nhận sự tĩnh lặng hơn hết của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ phi tưởng phi phi tưởng.
Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nếu nhập định vô biên không xứ, nếu nhập định thức xứ, nếu nhập định xứ vô sở hữu là thô, nếu nhập định xứ phi tưởng phi phi tưởng là tĩnh lặng hơn hết, vi tế thiện tịnh. Tỳ-kheo tư duy về sự tĩnh lặng hơn hết của xứ phi tưởng phi phi tưởng, nhận biết, hành giải, thọ nhận xứ phi tưởng phi phi tưởng là tĩnh lặng hơn hết. Như người tu hành nếu tưởng, nhớ tưởng, đó gọi là tưởng của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Tưởng này cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt với định, đó gọi là nhập định xứ phi tưởng phi phi tưởng.
Thế nào là thứ bảy? Do tám giải thoát là thứ lớp thuận không nghịch, do hành nhập định theo thứ lớp là thứ bảy so với thứ sáu, không có trung gian, nên gọi là thứ bảy.
Thế nào là giải thoát? Do tâm hướng đến pháp kia, tôn thượng pháp kia, dốc hướng nơi pháp kia, do pháp kia nên được giải thoát, đó gọi là giải thoát.
Hỏi: Thế nào là lìa tất cả xứ phi tưởng phi phi tưởng, thành tựu định diệt thọ tưởng là giải thoát thứ tám?
Đáp: Như Tỳ-kheo dựa vào giới, trụ nơi giới, tu thêm hai pháp định, tuệ, nương dựa nơi định, tuệ diệt thọ tưởng. Nếu diệt thọ tưởng, đó gọi là định diệt tận.
Lại nữa, Tỳ-kheo trụ nơi tưởng xúc chứng vượt hơn, lúc trụ nơi tưởng xúc chứng thù thắng, tư duy như thế này: Ta có tư (suy nghĩ) cũng còn ác, không có tư mới là thiện. Ta có tư thì có tạo tác, có tạo tác tức là có tưởng vui, có tưởng vui tức có tưởng thô của địa khác sinh. Tỳ-kheo lại tư duy như vầy: Nếu ta không có tư thì không có hành tác, không có hành tác xong, thì tưởng vui không sinh, tưởng vui không sinh thì tưởng thô của địa khác cũng không sinh. Như Tỳkheo không tư duy thì không tạo tác, không tạo tác xong thì tưởng vui diệt, tưởng vui diệt thì tưởng thô của địa khác cũng diệt, đạt được xúc chứng định diệt tận.
Thế nào là thứ tám? Do tám giải thoát là thứ lớp thuận không nghịch, do hành nhập định theo thứ lớp là thứ tám so với thứ bảy không có trung gian, nên gọi là thứ tám.
Thế nào là giải thoát? Do tâm hướng đến pháp kia, tôn thượng pháp kia, dốc hướng nơi pháp kia, do pháp kia nên được giải thoát, đó gọi là giải thoát.
Như thế gọi là tám giải thoát.
Hỏi: Thế nào là tám thắng xứ?
Đáp: Tưởng sắc trong, quán một ít sắc ngoài, sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp, biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn, tức có tưởng như thế.
Tưởng sắc trong, quán vô lượng sắc ngoài, sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp, biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn, tức có tưởng như thế.
Trong không có tưởng sắc, quán một ít sắc ngoài, sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp, biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn, tức có tưởng như thế.
Trong không có tưởng sắc, quán vô lượng sắc ngoài, sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp, biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn, tức có tưởng như thế.
Có tưởng như thế này: Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài xanh, sắc xanh, ánh sáng xanh. Như hoa Ưu-ma xanh, sắc xanh, ánh sáng xanh. Như áo ở Ba-la-nại khéo nhuộm xanh, sắc xanh, ánh sáng xanh. Quán sắc diệu xanh sắc xanh, ánh sáng xanh như thế, biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn.
Có tưởng như thế này: Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài vàng, sắc vàng, ánh sáng vàng. Như hoa Ca-ni-già-la vàng, sắc vàng, ánh sáng vàng. Như áo ở Ba-la-nại khéo nhuộm vàng, sắc vàng, ánh sáng vàng. Quán sắc diệu vàng sắc vàng, ánh sáng vàng như thế, biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn.
Có tưởng như thế này: Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài đỏ, sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Như hoa Bàn-đầu đỏ, sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Như áo ở Ba-la-nại khéo nhuộm đỏ, sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Quán sắc diệu đỏ, sắc đỏ, ánh sáng đỏ như thế, biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn.
Có tưởng như thế này: Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài trắng, sắc trắng, ánh sáng trắng. Như sao Lỗ thổ trắng, sắc trắng, ánh sáng trắng. Như áo ở Ba-la-nại khéo giặt giũ trắng, sắc trắng, ánh sáng trắng. Quán sắc diệu trắng, sắc trắng, ánh sáng trắng như thế, biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn.
Thế nào là tưởng sắc trong, quán một ít sắc ngoài, sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp, biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn, tức có tưởng như thế? Nghĩa là Tỳ-kheo chưa diệt tưởng sắc trong, nhận lấy một ít sắc ngoài, sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp, vừa ý, không vừa ý, đáng ghét, không đáng ghét. Tỳ-kheo dùng một ít sắc ngoài để điều phục tâm, tu khiến nhu hòa, tu cho nhu hòa xong được sắc giải thoát thù thắng. Tỳkheo thấy biết phân biệt một ít sắc bên ngoài, tâm hướng đến sắc ấy, tôn thượng sắc ấy, dốc hướng về sắc ấy, thắng giải của sắc ấy.
Thế nào là tưởng sắc trong? Tỳ-kheo chưa diệt tưởng sắc trong, không diệt, không mất, không trừ, đó gọi là tưởng sắc trong.
Thế nào là quán sắc ngoài? Nếu một ít sắc ngoài, nhãn thức đã từng thấy, thấy như thật, duyên nơi thấy, ý thức phân biệt, phân biệt như thật, duyên nơi phân biệt, đó gọi là quán sắc ngoài.
Thế nào là ít? Nếu số lượng có thế tính đếm, không phải là vô biên, vô lượng, không phải A-tăng-kỳ, không phải vô biên, vô tế, đó gọi là một ít.
Thế nào là sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp? Tịnh, bất tịnh, đó gọi là sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp.
Thế nào là biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn? Thắng giải về sắc kia, đó gọi là biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn.
Thế nào là có tưởng như thế? Nếu có tưởng một ít sắc hoàn toàn không phân tán, không lìa nhau, đó gọi là có tưởng như thế.
Thế nào là tưởng sắc trong, quán vô lượng sắc ngoài, sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp, biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn, tức có tưởng như thế? Nghĩa là Tỳ-kheo không diệt tưởng một ít sắc, nhận lấy tưởng vô lượng sắc ngoại, sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp, vừa ý, không vừa ý, đáng ghét, không đáng ghét. Tỳ-kheo đã dùng vô lượng sắc ngoài kia để điều phục tâm, tu khiến nhu hòa, tu khiến nhu hòa xong được thắng giải về sắc kia. Tỳ-kheo thấy biết phân biệt vô lượng sắc ngoài, tâm hướng đến sắc ấy, tôn thượng sắc ấy, dốc hướng nơi sắc ấy, thắng giải đối với sắc ấy.
Thế nào là tưởng sắc trong? Tỳ-kheo chưa diệt tưởng sắc trong, chưa mất, chưa trừ, đó gọi là tưởng sắc trong.
Thế nào là quán sắc ngoài? Nếu vô lượng sắc ngoài, nhãn thức đã từng thấy, thấy như thật, duyên nơi thấy, ý thức phân biệt, phân biệt như thật, duyên nơi phân biệt, đó gọi là quán sắc ngoài.
Thế nào là vô lượng? Không phải là ít, không phải có thể lường tính, là vô biên, vô lượng A-tăng-kỳ, vô biên, vô tế, đó gọi là vô lượng.
Thế nào là sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp? Nếu tịnh, bất tịnh, đó gọi là sắc tốt đẹp, sắc không phải tốt đẹp.
Thế nào là biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn? Nếu đối với pháp kia, thọ nhận hơn hẳn rồi, thấy biết phân biệt, đó gọi là biết hơn hẳn, thấy hơn hẳn.
Thế nào là có tưởng như thế? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, nhất định là vô lượng tưởng sắc, đó gọi là có tưởng như thế.
Thế nào là trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài là xanh, sắc xanh, ánh sáng xanh, đối với sắc ấy có thấy biết hơn hẳn, nên có tưởng như thế? Nếu đối với sắc ấy, thấy biết hơn hẳn, tức có tưởng như thế. Như Tỳ-kheo diệt tưởng sắc trong xong, nhận lấy tưởng sắc xanh bên ngoài, Tỳ-kheo dùng màu xanh ngoài để điều phục tâm, tu khiến nhu hòa, khiến nhu hòa xong tức được thắng giải về sắc. Tỳkheo thấy biết phân biệt sắc xanh ngoài, tâm hướng đến sắc ấy, tôn thượng sắc ấy, dốc hướng về sắc ấy, thắng giải nơi sắc ấy.
Thế nào là trong không có tưởng sắc? Vì tưởng sắc trong đã diệt, mất, trừ, nên gọi là trong không có tưởng sắc.
Thế nào là quán sắc ngoài? Nếu sắc xanh bên ngoài, nhãn thức đã từng thấy, thấy như thật, duyên nơi thấy, ý thức phân biệt, phân biệt như thật, duyên nơi phân biệt, đó gọi là quán sắc ngoài.
Thế nào là màu xanh? Màu xanh có hai thứ: Màu xanh do tánh và màu xanh do nhuộm, đó gọi là màu xanh.
Thế nào là thấy biết hơn hẳn? Nếu đối với sắc kia đã thọ nhận là hơn hết rồi thì thấy biết, phân biệt, tâm hướng về sắc kia, tôn thượng sắc kia, dốc hướng nơi sắc kia, thắng giải về sắc kia, đó gọi là thấy biết hơn hẳn.
Thế nào là có tưởng như thế? Nếu có tưởng không phân tán, không lìa nhau, nhất định là tưởng xanh, đó gọi là có tưởng như thế.
Thế nào là trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài là vàng, sắc vàng, ánh sáng vàng, đối với sắc ấy có thấy biết hơn hẳn, nên có tưởng như thế? Như Tỳ-kheo diệt tưởng sắc trong, nhận lấy tưởng sắc vàng bên ngoài. Tỳ-kheo dùng sắc vàng bên ngoài để điều phục tâm, tu khiến nhu hòa, khiến nhu hòa xong tức được thắng giải về màu vàng. Tỳ-kheo thấy biết phân biệt về sắc vàng bên ngoài, tâm hướng đến sắc ấy, tôn thượng sắc ấy, dốc hướng nơi sắc ấy, thắng giải đối với sắc ấy.
Thế nào là trong không có tưởng sắc? Tỳ-kheo nơi tưởng sắc trong diệt, mất, trừ, đó gọi trong không có tưởng sắc.
Thế nào là quán sắc ngoài? Nếu sắc vàng bên ngoài, nhãn thức đã từng thấy, thấy như thật, duyên nơi thấy, ý thức phân biệt, phân biệt như thật, duyên nơi phân biệt, đó gọi là quán sắc ngoài.
Thế nào là màu vàng? Vàng có hai thứ: Màu vàng do tánh và màu vàng do nhuộm, đó gọi là màu vàng.
Thế nào là thấy biết hơn hẳn? Nếu đối với sắc kia đã thọ nhận là hơn hết rồi, thì thấy biết, phân biệt, tâm hướng đến sắc kia, tôn thượng sắc kia, dốc hướng nơi sắc kia, thắng giải về sắc kia, đó gọi là thấy biết hơn hẳn.
Thế nào là có tưởng như thế? Nếu có tưởng không phân tán, không lìa nhau, nhất định là vàng, đó gọi là có tưởng như thế.
Thế nào là trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài là đỏ, sắc đỏ, ánh sáng đỏ, nếu đối với sắc ấy đã có thấy biết hơn hẳn, tức có tưởng như thế? Như Tỳ-kheo diệt sắc trong xong, nhận lấy tưởng sắc đỏ ở ngoài, Tỳ-kheo dùng sắc đỏ bên ngoài để điều phục tâm, tu khiến nhu hòa, tu nhu hòa xong tức được thắng giải màu về đỏ. Tỳkheo thấy biết phân biệt về sắc đỏ, tâm hướng đến sắc ấy, tôn thượng sắc ấy, dốc hướng nơi sắc ấy, thắng giải đối với sắc ấy.
Thế nào là trong không có tưởng sắc? Là Tỳ-kheo nơi tưởng sắc trong đã diệt, mất, trừ, đó gọi là trong không có tưởng sắc.
Thế nào là quán sắc ngoài? Nếu đối với sắc đỏ ngoài, nhãn thức đã từng thấy, thấy như thật, duyên nơi thấy, ý thức phân biệt, phân biệt như thật, duyên nơi phân biệt, đó gọi là quán sắc ngoài.
Thế nào là sắc đỏ? Đỏ có hai thứ: Có tánh đỏ, có nhuộm đỏ, đó gọi là sắc đỏ.
Thế nào là thấy biết hơn hẳn? Nếu đối với sắc kia đã thọ nhận là hơn hết xong, thì thấy biết, phân biệt, tâm hướng đến sắc kia, tôn thượng sắc kia, dốc hướng nơi sắc kia, thắng giải đối với sắc kia, đó gọi là thấy biết hơn hẳn.
Thế nào là có tưởng như thế? Nếu có tưởng không phân tán, không lìa nhau, nhất định là sắc đỏ, đó gọi là có tưởng như thế.
Thế nào là trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài là màu trắng, ánh sáng trắng, nếu đối với sắc ấy đã có thấy biết hơn hẳn, tức có tưởng như thế? Như Tỳ-kheo diệt tưởng sắc trong, nhận lấy tưởng sắc trắng bên ngoài. Tỳ-kheo nhận lấy sắc trắng bên ngoài để điều phục tâm, tu khiến nhu hòa, khiến nhu hòa xong tức được thắng giải về màu trắng. Tỳ-kheo thấy biết, phân biệt về sắc trắng, tâm hướng đến sắc ấy, tôn thượng sắc ấy, dốc hướng nơi sắc ấy, thắng giải đối với sắc ấy.
Thế nào là trong không có tưởng sắc? Tỳ-kheo đã diệt, mất, trừ sắc trong, đó gọi là trong không có tưởng sắc.
Thế nào là quán sắc ngoài? Nếu sắc trắng bên ngoài, nhãn thức đã từng thấy, thấy như thật, duyên nơi thấy, ý thức phân biệt, phân biệt như thật, duyên nơi phân biệt, đó gọi là quán sắc ngoài.
Thế nào là trắng? Trắng có hai thứ: có tánh trắng, trắng do nhuộm, đó gọi là trắng.
Thế nào là thấy biết hơn hẳn? Nếu đối với sắc kia đã thọ nhận là hơn hẳn, thấy biết, phân biệt, tâm hướng đến sắc ấy, tôn thượng sắc ấy, dốc hướng nơi sắc ấy, thắng giải về sắc ấy, đó gọi là thấy biết hơn hẳn.
Thế nào là có tưởng như thế? Nếu có tưởng không phân tán, không lìa nhau, nhất định là sắc trắng, đó gọi là có tưởng như thế.
Như thế gọi là tám thắng xứ.
Hỏi: Thế nào là chín diệt?
Đáp: Nếu nhập định của thiền thứ nhất, thì ngôn ngữ sẽ diệt nhanh. Nếu nhập định của thiền thứ hai, thì giác quán sẽ diệt nhanh. Nếu nhập định của thiền thứ ba, thì hỷ sẽ diệt nhanh. Nếu nhập định của thiền thứ tư, thì hơi thở ra vào sẽ diệt nhanh. Nếu nhập định xứ không, thì tưởng sắc sẽ diệt nhanh. Nếu nhập định xứ thức, thì xứ không sẽ diệt nhanh. Nếu nhập định xứ vô sở hữu, thì xứ thức sẽ diệt nhanh. Nếu nhập định xứ phi tưởng phi phi tưởng, thì xứ vô sở hữu sẽ diệt nhanh. Nếu nhập định diệt tận, thì thọ, tưởng sẽ diệt nhanh. Đó gọi là chín diệt.
Hỏi: Thế nào là chín định thứ đệ?
Đáp: Như Tỳ-kheo lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất, cho đến lìa xứ phi tưởng phi phi tưởng, thành tựu định diệt thọ tưởng. Đó gọi là chín định thứ đệ.
Hỏi: Thế nào là chín tưởng?
Đáp: Tưởng bất tịnh. Tưởng chán lìa thức ăn. Tưởng tất cả thế gian không an vui. Tưởng chết. Tưởng vô thường. Tưởng vô thường khổ. Tưởng khổ vô ngã. Tưởng đoạn. Tưởng lìa dục. Đó gọi là chín tưởng.
Hỏi: Thế nào là mười tưởng?
Đáp: Tưởng bất tịnh. Tưởng chán lìa thức ăn. Tưởng tất cả thế gian không an vui. Tưởng chết. Tưởng vô thường. Tưởng vô thường khổ. Tưởng khổ vô ngã. Tưởng đoạn. Tưởng lìa dục. Tưởng diệt. Đó gọi là mười tưởng.
Hỏi: Thế nào là mười pháp chánh trực?
Đáp: Chánh kiến, chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát, chánh trí. Đó gọi là mười pháp chánh trực.
Hỏi: Thế nào là mười nhất thiết nhập?
Đáp: Nhất thiết nhập của địa, do một tưởng trên dưới, dọc ngang, không hai, vô lượng. Nhất thiết nhập của thủy. Nhất thiết nhập của hỏa. Nhất thiết nhập của phong. Nhất thiết nhập của màu xanh. Nhất thiết nhập của màu vàng. Nhất thiết nhập của màu đỏ. Nhất thiết nhập của màu trắng. Nhất thiết nhập của không. Nhất thiết nhập của thức, do một tưởng trên dưới, dọc ngang, không hai, vô lượng.
Hỏi: Thế nào là nhất thiết nhập của địa?
Đáp: Do một tưởng trên dưới, dọc ngang, không hai, vô lượng.
Thế nào là địa? Địa nghĩa là giới địa, đại địa, đó gọi là địa.
Thế nào là nhất thiết? Nếu đều là phương tiện trọn vẹn, đó gọi là nhất thiết.
Thế nào là nhất? Nếu chỉ là một không phải giới khác, như người nhập nhất thiết nhập của địa, đó gọi là nhất.
Thế nào là tưởng? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, hoàn toàn là tưởng địa, đó gọi là tưởng.
Thế nào là trên dưới, dọc ngang? Trên là hư không, dưới là đất, dọc ngang là bốn phương. Như người, nếu trên dưới, dọc ngang đều tư duy về địa, nhận biết địa, hành giải địa, thọ nhận địa, đó gọi là trên dưới dọc ngang.
Thế nào là không hai, vô lượng? Trên không có hai, dưới không có hai, dọc ngang không có hai. Trên vô lượng, dưới vô lượng, dọc ngang vô lượng, không có hai tưởng, chỉ có tưởng địa, vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ, vô biên vô tế, đối với địa không có tưởng khác. Đó gọi là không hai, vô lượng.
Hỏi: Thế nào là nhất thiết nhập của thủy?
Đáp: Một tưởng trên dưới, dọc ngang.
Thế nào là thủy? Thủy là thủy giới, thủy đại, đó gọi là thủy.
Thế nào là nhất thiết? Nếu đều là phương tiện trọn vẹn, đó gọi là nhất thiết.
Thế nào là nhất? Nếu chỉ là một không phải giới khác, như người nhập nhất thiết nhập của thủy, đó gọi là nhất.
Thế nào là tưởng? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, hoàn toàn là tưởng thủy, đó gọi là tưởng.
Thế nào là trên dưới dọc ngang? Trên là hư không, dưới là đất, dọc ngang là bốn phương. Như người nếu trên dưới dọc ngang đều tư duy về thủy, nhận biết thủy, hành giải thủy, thọ nhận thủy, đó gọi là trên dưới dọc ngang.
Thế nào là không hai, vô lượng? Trên không có hai, dưới không có hai, dọc ngang không có hai. Trên dưới vô lượng, dọc ngang vô lượng, không có hai tưởng, chỉ có tưởng thủy, vô lượng vô biên A-tăng-kỳ, vô biên vô tế, đối với thủy không có tưởng khác. Đó gọi là không hai, vô lượng.
Hỏi: Thế nào là nhất thiết nhập của hỏa?
Đáp: Một tưởng trên dưới dọc ngang.
Thế nào là hỏa? Hỏa là hỏa giới, hỏa đại, đó gọi là hỏa.
Thế nào là nhất thiết? Nếu đều là phương tiện trọn vẹn, đó gọi là nhất thiết.
Thế nào là nhất? Nếu chỉ là một không phải giới khác, như người nhập nhất thiết nhập của hỏa, đó gọi là nhất.
Thế nào là tưởng? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, hoàn toàn là tưởng hỏa, đó gọi là tưởng.
Thế nào là trên dưới, dọc ngang? Trên là hư không, dưới là đất, dọc ngang là bốn phương. Như người nếu trên dưới dọc ngang đều tư duy về hỏa, nhận biết hỏa, hành giải hỏa, thọ nhận hỏa, đó gọi là trên dưới, dọc ngang.
Thế nào là không hai, vô lượng? Trên không có hai, dưới không có hai, dọc ngang đều không có hai. Trên dưới, dọc ngang đều vô lượng, không có hai tưởng, chỉ có tưởng hỏa, vô lượng vô biên A-tăng-kỳ, vô biên vô tế, đối với hỏa không có tưởng khác. Đó gọi là không hai, vô lượng.
Hỏi: Thế nào là nhất thiết nhập của phong?
Đáp: Một tưởng trên dưới dọc ngang.
Thế nào là phong? Phong là phong giới, phong đại, đó gọi là phong.
Thế nào là nhất thiết? Nếu đều là phương tiện trọn vẹn, đó gọi là nhất thiết.
Thế nào là nhất? Nếu chỉ là một không phải giới khác, như người nhập nhất thiết nhập của phong, đó gọi là nhất.
Thế nào là tưởng? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, hoàn toàn là tưởng phong, đó gọi là tưởng.
Thế nào là trên dưới dọc ngang? Trên là hư không, dưới là đất, dọc ngang là bốn phương. Như người nếu trên dưới dọc ngang đều tư duy về phong, nhận biết phong, hành giải phong, thọ nhận phong, đó gọi là trên dưới dọc ngang.
Thế nào là không hai, vô lượng? Trên, dưới, dọc, ngang đều là không có hai. Trên, dưới, dọc, ngang đều là vô lượng, không có hai tưởng, chỉ có tưởng phong, vô lượng vô biên A-tăng-kỳ, vô biên vô tế, đối với phong không có tưởng khác. Đó gọi là không hai, vô lượng.
Hỏi: Thế nào là nhất thiết nhập của màu xanh?
Đáp: Một tưởng trên dưới, dọc ngang, không có hai, vô lượng.
Thế nào là màu xanh? Màu xanh có hai thứ: Màu xanh của tánh, màu xanh do nhuộm, đó gọi là màu xanh.
Thế nào là nhất thiết? Nếu đều là phương tiện trọn vẹn, đó gọi là nhất thiết.
Thế nào là nhất? Nếu chỉ là một không phải màu khác, như người nhập nhất thiết nhập của màu xanh, đó gọi là nhất.
Thế nào là tưởng? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, hoàn toàn là tưởng màu xanh, đó gọi là tưởng.
Thế nào là trên dưới, dọc ngang? Trên là hư không, dưới là đất, dọc ngang là bốn phương. Như người trên dưới, dọc ngang đều tư duy về màu xanh, nhận biết màu xanh, hành giải màu xanh, thọ nhận màu xanh. Đó gọi là trên dưới, dọc ngang.
Thế nào là không có hai, vô lượng? Trên không có hai, dưới không có hai, dọc ngang không có hai. Trên vô lượng, dưới vô lượng, dọc ngang vô lượng, không có hai tưởng, chỉ có tưởng xanh. vô lượng vô biên A-tăng-kỳ, vô biên vô tế, đối với màu xanh không có tưởng khác, đó gọi là không có hai, vô lượng.
Hỏi: Thế nào là nhất thiết nhập của màu vàng?
Đáp: Một tưởng trên dưới, dọc ngang, không có hai, vô lượng.
Thế nào là màu vàng? Màu vàng có hai thứ: màu vàng của tánh, màu vàng do nhuộm, đó gọi là màu vàng.
Thế nào là nhất thiết? Nếu đều là phương tiện trọn vẹn, đó gọi là nhất thiết.
Thế nào là nhất? Nếu chỉ là một không phải màu khác, như người nhập nhất thiết nhập của màu vàng, đó gọi là nhất.
Thế nào là tưởng? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, hoàn toàn là tưởng màu vàng, đó gọi là tưởng.
Thế nào là trên dưới, dọc ngang? Trên là hư không, dưới là đất, dọc ngang là bốn phương. Như người trên dưới, dọc ngang đều tư duy về màu vàng, nhận biết, hành giải, thọ nhận màu vàng. Đó gọi là trên dưới, dọc ngang.
Thế nào là không có hai, vô lượng? Trên không có hai, dưới không có hai, dọc ngang không có hai. Trên vô lương, dưới vô lượng, dọc ngang vô lượng, không có hai tưởng, chỉ có tưởng màu vàng, vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ, vô biên vô tế, đối với màu vàng không có tưởng khác. Đó gọi là không có hai, vô lượng.
Hỏi: Thế nào là nhất thiết nhập của màu đỏ?
Đáp: Một tưởng trên dưới, dọc ngang, không có hai, vô lượng.
Thế nào là màu đỏ? Màu đỏ có hai thứ: Màu đỏ của tánh, màu đỏ do nhuộm, đó gọi là màu đỏ.
Thế nào là nhất thiết? Nếu đều là phương tiện trọn vẹn, đó gọi là nhất thiết.
Thế nào là nhất? Nếu chỉ là một không phải màu khác, như người nhập nhất thiết nhập của màu đỏ, đó gọi là nhất.
Thế nào là tưởng? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, hòan toàn là tưởng màu đỏ, đó gọi là tưởng.
Thế nào là trên dưới, dọc ngang? Trên là hư không, dưới là đất, dọc ngang là bốn phương. Như người trên dưới, dọc ngang đều tư duy về màu đỏ, nhận biết, hành giải, thọ nhận màu đỏ. Đó gọi là trên dưới, dọc ngang.
Thế nào là không có hai, vô lượng? Trên không có hai, dưới không có hai, dọc ngang không có hai. Trên vô lương, dưới vô lượng, dọc ngang vô lượng, không có hai tưởng, chỉ có tưởng màu đỏ, vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ, vô biên vô tế, đối với màu đỏ không có tưởng khác. Đó gọi là không có hai, vô lượng.
Hỏi: Thế nào là nhất thiết nhập của màu trắng?
Đáp: Một tưởng trên dưới, dọc ngang, không có hai, vô lượng.
Thế nào là màu trắng? Màu trắng có hai thứ: Màu trắng của tánh, màu trắng do nhuộm, đó gọi là màu trắng.
Thế nào là nhất thiết? Nếu đều là phương tiện trọn vẹn, đó gọi là nhất thiết.
Thế nào là nhất? Nếu chỉ là một không phải màu khác, như người nhập nhất thiết nhập của màu trắng, đó gọi là nhất.
Thế nào là tưởng? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, hoàn toàn là tưởng màu trắng, đó gọi là tưởng.
Thế nào là trên dưới, dọc ngang? Trên là hư không, dưới là đất, dọc ngang là bốn phương. Như người trên dưới, dọc ngang đều tư duy về màu trắng, nhận biết, hành giải, thọ nhận màu trắng. Đó gọi là trên dưới, dọc ngang.
Thế nào là không có hai, vô lượng? Trên không có hai, dưới không có hai, dọc ngang không có hai. Trên vô lượng, dưới vô lượng, dọc ngang vô lượng, không có hai tưởng, chỉ có tưởng màu trắng, vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ, vô biên vô tế, đối với màu trắng không có tưởng khác. Đó gọi là không có hai, vô lượng.
Hỏi: Thế nào là nhất thiết nhập của không?
Đáp: Một tưởng trên dưới, dọc ngang, không có hai, vô lượng.
Thế nào là không? Không có hai thứ: giới không trong, giới không ngoài, đó gọi là không.
Thế nào là nhất thiết? Nếu đều là phương tiện trọn vẹn, đó gọi là nhất thiết.
Thế nào là nhất? Nếu chỉ là một không phải khác, như người nhập nhất thiết nhập của không, đó gọi là nhất.
Thế nào là tưởng? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, hoàn toàn là tưởng không, đó gọi là tưởng.
Thế nào là trên dưới, dọc ngang? Trên là hư không, dưới là đất, dọc ngang là bốn phương. Như người trên dưới, dọc ngang đều tư duy về không, nhận biết, hành giải, thọ nhận không. Đó gọi là trên dưới, dọc ngang.
Thế nào là không có hai, vô lượng? Trên không có hai, dưới không có hai, dọc ngang không có hai. Trên vô lượng, dưới vô lượng, dọc ngang vô lượng, không có hai tưởng, chỉ có tưởng về không, vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ, vô biên vô tế, đối với không không có tưởng khác. Đó gọi là không có hai, vô lượng.
Hỏi: Thế nào là nhất thiết nhập của thức?
Đáp: Một tưởng trên dưới, dọc ngang, không có hai, vô lượng.
Thế nào là thức? Là sáu thức thân: Nhãn thức thân, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức thân, đó gọi là thức.
Thế nào là nhất thiết? Nếu đều là phương tiện trọn vẹn, đó gọi là nhất thiết.
Thế nào là nhất? Nếu chỉ là một không phải khác, như người nhập nhất thiết nhập của thức, đó gọi là nhất.
Thế nào là tưởng? Nếu tưởng không phân tán, không lìa nhau, hoàn toàn là tưởng thức, đó gọi là tưởng.
Thế nào là trên dưới, dọc ngang? Trên là hư không, dưới là đất, dọc ngang là bốn phương. Như người trên dưới, dọc ngang đều tư duy về thức, nhận biết, hành giải, thọ nhận thức. Đó gọi là trên dưới, dọc ngang.
Thế nào là không có hai, vô lượng? Trên không có hai, dưới không có hai, dọc ngang không có hai. Trên vô lượng, dưới vô lượng, dọc ngang vô lượng, không có hai tưởng, chỉ có tưởng thức, vô lượng vô biên A-tăng-kỳ, vô biên vô tế, đối với thức không có tưởng khác. Đó gọi là không có hai, vô lượng.
Như thế gọi là mười nhất thiết nhập.
Hỏi: Thế nào là mười một giải thoát nhập?
Đáp: Như Trưởng giả Đà-xá đến chỗ Tôn giả A-nan, cúi đầu đảnh lễ xong, liền ngồi qua một phía, hỏi Tôn giả A-nan: Từng có một pháp, như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng năng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng có được an ổn không?
Tôn giả A-nan đáp Trưởng giả Đà-xá: Có!
Trưởng giả hỏi: Thế nào là có?
Tôn giả A-nan nói với trưởng giả: Như Tỳ-kheo lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Tỳ-kheo tư duy như thế này: Định này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng năng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa hết được lậu hết, chưa an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, trưởng giả! Như Tỳ-kheo diệt giác quán, nội chánh tín, nhất tâm, không giác không quán, định sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ hai. Tỳ-kheo tư duy như vầy: Định này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các hậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, trưởng giả! Như Tỳ-kheo lìa hỷ hành xả, niệm chánh trí, thân thọ nhận vui, như các Thánh nhân hành giải xả niệm lạc, thành tựu hành của thiền thứ ba. Tỳ-kheo tư duy như vầy: Định này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, trưởng giả! Như Tỳ-kheo đoạn khổ, vui, trước diệt ưu, hỷ, xả, bất khổ bất lạc, niệm tịnh, thành tựu hành của thiền thứ tư. Tỳ-kheo tư duy như thế này: Định này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng năng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, trưởng giả! Như Tỳ-kheo hành từ mở bày tâm, mở bày khắp một phương Đông, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng trên dưới, tất cả tâm từ được mở bày rộng lớn, tôn thắng, không có hai, vô lượng, không oán, không giận, mở bày khắp hành của các thế gian. Tỳ-kheo tư duy như vầy: Mở bày tâm từ này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, thì đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, trưởng giả! Như Tỳ-kheo mở bày tâm bi, mở bày khắp một phương Đông, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng trên dưới, tất cả tâm bi được mở bày rộng lớn, tôn thắng, không có hai, vô lượng, không oán, không giận, mở bày khắp hành của các thế gian. Tỳ-kheo tư duy như thế này: Mở bày tâm bi này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, trưởng giả! Như Tỳ-kheo có tâm hỷ mở bày khắp hành của một phương Đông, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng trên dưới, tất cả tâm hỷ được mở bày rộng lớn, tôn thắng, không có hai, vô lượng, không oán, không giận, mở bày khắp hành của các thế gian. Tỳ-kheo tư duy như vầy: Mở bày tâm hỷ này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, trưởng giả! Như Tỳ-kheo có tâm xả mở bày khắp hành của một phương Đông, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng trên dưới, tất cả tâm xả được mở bày rộng lớn, tôn thắng, không có hai, vô lượng, không oán, không giận, mở bày khắp hành của các thế gian. Tỳ-kheo tư duy như thế này: Mở bày tâm xả này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, Trưởng giả! Như Tỳ-kheo lìa tất cả tưởng sắc, diệt tưởng giận dữ, không tư duy từng ấy tưởng, thành tựu hành của xứ vô biên không. Tỳ-kheo tư duy như vầy: Nhập định này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, trưởng giả! Như Tỳ-kheo lìa tất cả không xứ, thành tựu hành của xứ vô biên thức. Tỳ-kheo tư duy như vầy: Nhập định ấy là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này.
Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, trưởng giả! Như Tỳ-kheo lìa tất cả thức xứ, thành tựu hành của xứ vô sở hữu. Tỳ-kheo tư duy như vầy: Nhập định này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Lại nữa, trưởng giả! Như Tỳ-kheo lìa tất cả xứ vô sở hữu, thành tựu hành của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Tỳ-kheo tư duy như vầy: Nhập định này là chánh học, chánh sinh. Nếu tất cả là chánh học, chánh sinh xong, đều nhận biết là pháp vô thường diệt. Tỳ-kheo thấy biết như thật, đoạn tất cả các lậu, tâm được giải thoát, tuy chưa đoạn hết các lậu, nhưng Tỳ-kheo do pháp dục, pháp lạc, nên đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới, ở nơi cõi kia hóa sinh mà bát Niết-bàn, không trở lại đời này. Trưởng giả! Đây là một pháp.
Như Tỳ-kheo không phóng dật, siêng niệm chánh trí, hành tĩnh lặng, tâm chưa giải thoát được giải thoát, các lậu chưa dứt hết được lậu hết, chưa được an ổn vô thượng thì được an ổn.
Tôn giả A-nan giảng nói xong, Trưởng giả Đà-xá nói: Như người cầu tìm một kho báu, được mười một kho báu. Tôn giả A-nan! Tôi cũng như thế, cầu một giải thoát nhập được mười một giải thoát nhập. Tôn giả A-nan! Như nhà của con Trưởng giả có mười một cổng, bị lửa đốt cháy, ngọn lửa dữ cháy bùng, ý của hai cha con Trưởng giả khi muốn đi ra tức ở trong các cổng, đều tự tại thoát ra. Tôn giả A-nan! Tôi cũng như thế, ở trong mười một pháp môn theo chỗ muốn ra đều tùy ý được ra. Tôn giả A-nan! Như Bà-la-môn tà kiến cũng vì thầy cầu của cải cúng dường thầy, huống chi nghe chánh kiến mà không cúng dường.
Bấy giờ, Trưởng giả Đà-xá thỉnh chúng Tăng ở Tỳ-da-ly, chúng Tăng ở Ba-đa-ly, thỉnh xong, sắm sửa những thức ăn thật ngon để nấu bữa cơm thịnh soạn, hầu cúng dường chúng Tăng. Ngoài ra, còn dùng giày dép, một vạn xấp nĩ trắng để bố thí chúng Tăng, đặc biệt dùng ba y, phòng nhà tốt đẹp, để dâng lên Tôn giả A-nan.
Như thế gọi là mười một giải thoát nhập.
HẾT – QUYỂN 17