LUẬN LẬP THẾ A TỲ ĐÀM
Hán dịch: Tam Tạng Chân Đế
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản
QUYỂN 1
Phẩm 1: ĐỊA ĐỘNG
Như Phật Bà Già Bà và A La Hán nói: Tôi nghe như vậy: Một thời, Phật Thế Tôn trú tại lầu các Liên Hoa ở Tinh xá Lộc-tử-mẫu của Ưu-ba-di Tỳ-xá-khư thuộc đại thành Xá Vệ, cùng với chúng đại Tỳkheo. Tất cả họ đều là các bậc A-la-hán, các lậu đã hết, đã được tự lợi, dứt hết kiết sử, tâm được tự tại, việc làm đã xong, bỏ hết gánh nặng, chánh trí giải thoát, chỉ trừ A nan. Lúc ấy, đại địa chấn động, Phú-lâuna-di-đa-la-ni-tử ở trong đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày áo vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà đại địa chấn động.
Đức Phật bảo Phú Lâu Na: Này Tỳ-kheo! Ông nay hãy một lòng lắng nghe, khéo suy nghĩ kỹ, ta sẽ vì Ông mà phân biệt giảng thuyết. Có hai nhân duyên làm cho đại địa chấn động. Những gì là hai? Này Tỳ-kheo! Đó là địa giới trú trên thủy giới, là thủy giới trú trên phong giới, là phong giới trú trong hư không. Này Tỳ-kheo! Có lúc gió lớn (đại phong) thổi động thủy giới, lúc thủy giới động thì địa giới động, đó là nhân duyên thứ nhất làm đại địa động. Này Tỳ-kheo! Lại có oai đức đại thần thông của Chư thiên, nếu muốn chấn động đại địa thì có thể khiến cho chấn động. Nếu các Tỳ-kheo có đại thần thông và đại oai đức, quán tướng đất làm cho nhỏ lại, quán tướng nước làm cho lớn ra, muốn làm cho đại địa động cũng có thể chấn động, đó là nhân duyên thứ hai làm cho đại địa chấn động.
Lúc ấy, Thế Tôn muốn dùng kệ nói lại nghĩa này:
Phong giới làm thủy động
Địa động do thủy động
Nhân duyên động thứ nhất
Là sở thuyết thật danh
Chư thiên và Tỳ-kheo
Oai thần làm chấn động
Nhân duyên động thứ hai
Nói-điều phục kẻ ác.
Lúc ấy, Thế Tôn lại bảo Phú-lâu-na-ni-đa-la-ni-tử: Có ngọn gió gọi là Tỳ Phong Ba, gió này thường thổi và động không dứt, sức gió này bay lên. Có ngọn gió thổi xuống, có ngọn gió thổi ngang; có ngọn gió thổi liên tiếp vòng tròn, bằng phẳng, chiều dày chín ức sáu vạn do tuần, chiều rộng mười hai ức ba ngàn bốn trăm năm mươi do tuần, chu vi là ba mươi sáu ức một vạn ba trăm năm mươi do tuần. Ở phía trên của gió này là thủy giới, trên dưới của thủy giới này đều nằm yên bằng phẳng, không có xao động, chiều dày đến bốn ức tám vạn do tuần, chiều rộng đến mười hai ức ba ngàn bốn trăm năm mươi do tuần, chu vi đến ba mươi sáu ức một vạn ba trăm năm mươi do tuần. Phía trên của thủy giới này là địa giới, những vùng bên trên và bên dưới đều an trú bằng phẳng bất động, chiều dày đến hai ức bốn vạn do tuần, chiều rộng đến mười hai ức ba ngàn bốn trăm năm mươi do tuần, chu vi đến ba mươi sáu ức một vạn ba trăm năm mươi do tuần. Chư Phật Thế Tôn nói như vậy: Này Tỳ-kheo! Có một đại địa ngục tên là Hắc Ám, bên ngoài mỗi một thế giới đều có và không có che đậy trong đó, chúng sinh tự mình dùng tay sờ soạn, mắt không thể thấy. Tuy mặt trời, mặt trăng có đủ oai thần lớn, nhưng tất cả ánh sáng đều không chiếu sáng ở đó. Địa ngục Hắc Ám như vậy trú ở chỗ nào? Bên ngoài của cả hai bên thế giới Thiết Luân gọi là giới ngoại, là địa ngục Hàn: một là An-phù-đà; hai là Niết-phù-đà; ba là A-ba-ba; bốn là A-tra-tra; năm là Ưu-khổngkhổng; sáu là Uất-ba-lâu; bảy là Câu-vật-đầu; tám là Kiện-đà-cố; chín là Phân-đà-lợi-cố; mười là Ba-đầu-ma. Phật bảo Phú-lâu-na: Này Tỳkheo! Như nước Ma-già-đà có mười Bà-ha-ma, một Bà-ha-ma có hai mươi Khư-lợi Lượng-ma như vậy tu tại một chỗ, giả như có một người tuổi đến tròn một trăm năm thì trừ đi một Ma. Này Tỳ-kheo! Ma tập hợp như vậy còn dễ hết, nhưng ta chưa thể nói cùng tận thọ mạng của địa ngục An-phù-đà. Này Tỳ-kheo! Gấp mười địa ngục An-phù-đà là lượng thọ mạng địa ngục Niết-phù-đà, mười địa ngục Niết Phù Đà là lượng thọ mạng địa ngục A-ba-ba, cho đến địa ngục Ba-đầu-ma cũng là như vậy. Này Tỳ-kheo! Tỳ kheo Cù Già Ly ở chỗ của Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên sanh ác tâm bất tín, do tâm này nên rơi và địa ngục Ba- đầu-ma. Lúc ấy, Thế Tôn nói kệ:
Phàm người ở thế gian
Dao búa sinh từ miệng
Do họ tạo ác ngôn
Vì vậy tự hại thân.
Đáng chê thì tán thán
Đáng khen lại chê mắng
Vì lỗi miệng nên suy
Suy nên không an vui.
Ví như nhà mất của
Mất vật, mất tự thân
Người ấy tội còn nhẹ
Nếu đối Tu-già-đa
Sinh tâm ác, chẳng tin
Tội này nặng nơi kia
Trăm nghìn Niết Phù Đà
An Phù Đà ba ức
Sáu vạn và năm ngàn
Hoặc phỉ báng Thánh nhân
Tạo tâm ác, lời ác
Tùy lượng đoạ địa ngục.
Tỳ-kheo Cù-già-ly
Đọa ngục Ba-đầu-ma
Phỉ báng đại Thanh văn
Xá Lợi và Mục Liên.
Chúng sinh đi hàng ngang ở trong ấy có tưởng hướng thượng, giống như việc giữ cung. Bên ngoài Thiết-luân, thường đi hàng ngang, thân lượng của họ lớn như An-đa. Vì gió lạnh chạm đến nên thân của họ bị nức nẻ, như áo bị đốt, như rừng trúc nứa bị lửa lớn đốt cháy, tiếng nổ bùng bùng như pháo. Chúng sinh bị gió lạnh chạm vào như vậy nên xương bị nứt ra, tiếng nổ bùng bùng vang xa, nhờ tiếng này nên họ biết nhau. Có các chúng sinh thọ sinh trong ấy, hoặc lúc đi lại xúc chạm với nhau, nhờ sự xúc chạm này mà được biết nhau. Có các chúng sinh thọ sinh trong ấy, hoặc lúc chư Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời, ánh sáng lớn lúc ấy vượt quá sức oai thần lớn của chư thiên, chiếu khắp trong ấy. Nhờ ánh sáng này mà được thấy nhau và suy nghĩ như vậy: “Có các chúng sinh thọ sinh trong đây”. Hoặc có các chúng sinh ở thế giới này chết, phần nhiều sanh đến địa ngục Hàn Băng ở bên ngoài Thiết-luân. Hoặc ở thế giới khác có chúng sinh chết sinh đến địa ngục Hàn Băng, phần nhiều sanh ở thế giới kia, nằm bên ngoài thế giới Thiết Luân. Trong khoảng giữa hai thế giới này có một chỗ rất hẹp chừng tám vạn do tuần, bên dưới không có đáy, bên trên không có gì che. Chỗ ấy rất rộng khoảng mười sáu vạn do tuần.
Lúc ấy, Tịnh mạng A-nan ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày áo vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Con nghe pháp cú này từ Thế Tôn, Con thọ trì chánh nghĩa này từ miệng Thế Tôn. Vào thời quá khứ, có một vị Phật là Thi Khí. Ngài có một đệ tử, có đại thần thông đệ nhất tên là A Tỳ Khổng, là một Tỳ-kheo ở trong Đệ tứ thiền phạm xứ. Vị này dùng ánh sáng một ngón tay chiếu một ngàn thế giới, một âm thuyết pháp vang khắp một ngàn thế giới, tất cả đều được hiểu rõ chánh nghĩa. Bạch Thế Tôn! Các đệ tử chư Phật oai thần còn vậy, huống là chư Phật Như Lai thì lượng đến thế nào?
A-nan hỏi xong, Phật bèn đáp:
Này A-nan! Tỳ-kheo A Tỳ Khổng này là một vị đệ tử, chư Phật Thế Tôn, như chỗ lượng này không thể nghĩ bàn.
Cho đến lần thứ ba cũng đáp như vậy. Lần thứ tư hỏi xong, Phật bảo A-nan: Nếu chỗ quay quanh của một mặt trời, một mặt trăng gọi là một thế giới, từ một cho đến một nghìn, trong đó có một nghìn mặt trời, mặt trăng, một nghìn núi Tu Di, một nghìn Tứ Đại Thiên Vương, một nghìn cõi trời Đao Lợi, một nghìn cõi trời Dạ Ma, một nghìn cõi trời Đâu Suất Đà, một nghìn cõi trời Hóa Lạc, một nghìn cõi trời Tha Hóa Tự Tại, một nghìn cõi trời Phạm Phụ, một nghìn cõi trời Phạm Chúng. Đại Phạm Vương chỗ này làm chủ một nghìn thế giới, làm vua thống lĩnh tự tại, không lệ thuộc vào người khác, biết sự thành tựu việc của người khác, vì ở thượng thượng phẩm của Sơ thiền nên được tự tại. Đại Phạm Vương trú ở chỗ này được mệnh danh là đệ nhất. Này A-nan! Chỗ Phạm Vương này thống lĩnh có bốn nghìn châu lớn, bốn nghìn cây lớn, bốn nghìn cung rồng lớn, bốn nghìn trú xứ của chim cánh vàng, bảy nghìn sông lớn, chín nghìn núi lớn, tám nghìn rừng lớn, tám nghìn địa ngục lớn, một nghìn địa ngục Diêm-la, hai nghìn biển lớn, mười sáu nghìn vườn địa ngục, đó gọi là một tiểu thiên thế giới; lại nhân lên một nghìn lần như vậy gọi là trung thiên thế giới. Lại nhân lên một nghìn lần như vậy gọi là Đại thiên thế giới. Này A-nan! Nếu Như Lai tác ý muốn chiếu, muốn thuyết nơi Đại thiên thế giới này thì ánh sáng chiếu khắp, pháp cú thuyết ra tất cả đều được hiểu. Lại nữa, hoặc muốn đi qua Đại thiên thế giới thì Như Lai đều được tùy ý, chúng sinh ở trong đó không một ai mà không nghe, thấy Như Lai phóng quang, thuyết pháp. Này A-nan! Nếu Như Lai muốn ngồi cõi trời Phạm xứ A-canị-tra phóng quang thuyết pháp, hoặc đại thiên, hoặc vượt ngoài đại thiên, ánh sáng chiếu khắp, dùng tám phần Phạm thanh thuyết pháp cú nghĩa biến khắp, khiến mọi người đều được lĩnh hội. Này A-nan! Ánh sáng và âm thanh thuyết pháp của Như Lai này không có chúng sinh nào mà không thấy, không nghe; lúc ấy không có chúng sinh nào mà không đầy đủ các căn. Này A-nan! Như Lai ở trên cõi trời A-ca-nị-tra thuyết âm thanh này và tuyên bày danh cú này:
Các người thọ pháp Phật
Khởi cung kính siêng năng,
Trụ trong pháp, quán tu
Ra khỏi nạn ba cõi,
Diệt quân lính vua “chết”
Như voi phá nhà cửa
Nếu trong luật pháp Phật
An trụ không phóng dật,
Người này xả sanh tử,
Đến tận cùng hết khổ.
Lúc ấy, A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày áo vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Con nay ít có lợi dưỡng, con nay khéo được lợi hy hữu, con nay được nhờ oai đức rộng lớn, thần thông tròn đủ của Đại sư.
Lúc ấy, Tịnh mạng Ưu Đà Di ở trong đại chúng, cách Phật không xa, nói với A-nan:
Ông làm sao có được đầy đủ oai đức, thần thông quảng đại của Đại Sư.
Lúc ấy, Thế Tôn bảo với Tỳ-kheo Ưu-đà-di:
Ông chớ tác ý trái với thâm tâm của A-nan. Nếu trước đây, ta không thọ ký cho A-nan đời này được quả A-la-hán thì do lòng tin này mà nghiệp báo chỗ sinh sẽ có ba mươi sáu lỗi, làm vua cõi trời Tha Hóa Tự Tại, cho đến ba mươi sáu lỗi làm thiên chủ cõi trời Đao Lợi. Huống gì làm Chuyển Luân Thánh Vương thuộc dòng họ Sát Lợi Vương, nhận chức Quán đảnh, cho đến làm vua bốn thiên hạ.
Này Tỳ-kheo Ưu-đà-di và A-nan! Từ xa xưa, ta đã vì họ mà thọ ký. Ta nói rất nhiều chúng sinh ở trong Dục giới, sinh trong nước thì nhiều, sinh trên đất thì ít; sinh trên đất ấy, súc sinh thì nhiều mà nhân đạo thì rất ít; trong nhân đạo, kẻ phá giới thì nhiều còn người trì giới thì ít; trong số người trì giới thì kẻ phàm phu thì nhiều, còn đệ tử bậc Thánh thì ít; trong đệ tử bậc Thánh, bậc Hữu học thì nhiều, còn bậc Vô học thì ít; trong bậc Vô học, bậc giải thoát đúng thời thì nhiều, còn bậc giải thoát phi thời thì ít. Bậc La Hán giải thoát phi thời như vậy thế gian rất khó đắc. Ta đã thọ ký cho A-nan đắc đến chỗ này. Có các kẻ ngoại đạo nói như vậy: “Đại địa giới này thường lui lại không dừng”; thì phải đáp lời này: “Việc này không đúng”. Nếu thật như vậy thì như người ném vật phía trước mà vật rơi phía sau. Các ngoại đạo lại nói như vậy: “Đại địa giới này thường rơi xuống” thì phải đáp lời này là: “Việc này không đúng”. Nếu quả thật như vậy thì như ném vật lên phía trên, vật phải không rơi xuống đất. Lại nữa, các ngoại đạo lại nói như vậy: “Mặt trời, mặt trăng, các tinh tú thường đứng một chỗ, không di chuyển, đại địa tự chuyển động, đoán nghĩ là quay quanh mặt trời” thì phải đáp lời này là: “Việc này không đúng”. Nếu như vậy thì bắn cung tên không đến được đích. Các ngoại đạo lại nói như vậy: “Đại địa giới thường nổi, tùy theo gió mà đến đi, qua lại” thì phải đáp như vậy: “Việc này không đúng”. Nếu quả thật như vậy thì đất thường hợp với gió mà chuyển động; nếu không như vậy thì đất có tướng gì, đất đứng yên không động.
Nghĩa như vậy Thế Tôn đã nói, Tôi nghe như vậy.
Phẩm 2: NAM DIÊM PHÙ ĐỀ
Phật bảo: Này Tỳ-kheo! Có một cây gọi là Diêm-phù, do cây mà đặt tên nên gọi châu lục địa ấy là Diêm-phù-đề. Cây này sinh trưởng ở phía Bắc của cõi Diêm-phù-đề, ở bờ Nam sông Ny-dân-đà-la, gốc cây nằm chính giữa châu này. Từ gốc cây chính giữa, lấy theo hướng Đông Tây đến một nghìn do tuần là phạm vi của cây sinh trưởng, đầy đủ hình dáng đáng yêu, cành lá xum xuê, nhiều lớp che phủ dày kín, ở lâu trên cây cũng không hề tàn rụng, tất cả gió mưa không thể xâm tổn. Này Tỳkheo! Thí như thợ vòng hoa trang hoàng vòng hoa đẹp đẽ trang nghiêm, cây ấy hình dáng đẹp đẽ đáng yêu cũng như vậy. Ở phần trên cây ấy cũng như một lọng hoa, tuần tự che phủ cây ấy gốc to thẳng đến một trăm do tuần, không có mắt, đốt sần sùi; trong chu vi năm mươi do tuần là cành nhánh, đường kính thân cây rộng năm do tuần, chu vi là mười lăm do tuần, mỗi một nhánh của nó vươn ra đến năm mươi do tuần, trong khoảng ấy của cây thường rộng một trăm do tuần, với chu vi là ba trăm do tuần. Lúc quả của cây này chín, vị ngọt và hình thù không có quả gì sánh được, vị ngọt đượm như mật ong, khó mà nhàm chán, vị của quả thì như vậy, còn hình thù của quả lớn như bồn đựng nước, hạt của nó cỡ như hạt của cây Diêm-phù thế gian. Trên cây ấy có con chim, hình dáng lớn như đại điện, và con khỉ to như con voi lớn sáu mươi tuổi, hai loại chim và thú này thường ăn quả của cây. Cành phía Đông có quả, phần nhiều quả rơi xuống đất Diêm-phù-đề, chứ ít rơi xuống nước, quả của cành phía Tây cũng phần nhiều rụng trên đất Diêm-phù-đề, chứ ít rơi xuống nước, quả của cành phía Nam đều rơi xuống đất Diêm-phù-đề còn quả của cành nhánh phía Bắc đều rụng xuống nước sông, làm thức ăn cho cá. Chỗ rễ cây đâm đến đều có cát vàng che phủ, lúc mưa xuân thì phía dưới rễ không có thấm rỉ, vào mùa hạ thì không có khô nóng, mùa đông thì không có gió lạnh, dưới cây có thần Càn-thát-bà và thần Dạ-xoa nương trú. Những việc như vậy thì làm sao biết được? Ngày xưa, trong thành Vương Xá có hai Tỳ-kheo cùng là bằng hữu với nhau, đầy đủ sức thần thông. Họ nghe tướng của cây Diêm-phù từ kim khẩu của Phật nói ra như vậy, hai Tỳ-kheo này nói với nhau rằng: “Chúng ta phải đi đến xem cây Diêm-phù kia”. Người nào cũng bảo là để tôi đi, họ liền đi đến chỗ cây ấy, thấy quả của cây chín rụng xuống đất rồi tự vỡ. Một vị Tỳ-kheo, từ nơi lỗ thủng của cuống quả ấy đưa tay vào cho đến cánh tay, ngón tay dài nhất của Tỳ-kheo vẫn không đụng đến được hạt. Lúc rút tay ra ngoài, bàn tay và cánh tay đều đỏ, nhuốm màu của quả, giống như chỗ nhuốm màu đỏ của mủ cây Xích-chiên-đàn quý ở thế gian. Mùi thơm của quả cây này có thể đắm nhiễm lòng người. Lúc ấy Tỳ-kheo ngửi hưởng mùi hương của quả, vị Tỳ-kheo thứ hai hỏi: Ông muốn ăn không”? “Này Trưởng Lão! Tôi không thích ăn”. Việc này rất hiếm có, khó có thể nghĩ bàn, vì xa lìa được kiết dục rất là rộng lớn. Vì sao? Nếu người chưa lìa dục mà ngửi mùi hương như vậy thì liền sanh trạng thái điên cuồng. Có các người ngoại đạo lìa dục, nếu người ngửi mùi hương này thì thối mất Địa-ly-dục. Tỳ-kheo thứ hai này lúc trở về thành Vương Xá nói lại sự việc như trên. Lúc ấy có một người tên là Trường Hĩnh, vốn là người thuộc dòng vua chúa, họ là Câu lợi, nhờ thiện báo đời trước mà có được thần thông. Người này có tướng mạo oai thần: Nếu đi trong nước thì chân trước chưa xuống nước, chân sau đã bước đi, nếu đi trên cỏ, cỏ chưa rạp xuống hai chân đã bước đi, nếu đi trên cây lá, cây lá chưa trĩu xuống thì chân sau đã bước qua, chỗ bước chân giẫm qua đều không bị hư hại. Ông Trường Hĩnh này từ lúc nghe Phật nói về cây Diêm-phù như vậy, liền bạch Phật.
– Bạch Thế Tôn! Con nay đi đến cây Diêm-phù có được không?Đức Phật liền đáp:
– Đến được.
Người này đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, mặt hướng chính Bắc, từ đó xuất phát. Trải qua các núi: một là núi Hắc sơn, hai là Đại Hắc. Ba là núi Đa Ly Ngưu, bốn là núi Nhật Quang, năm là núi Căn, sáu là núi Hương thủy, bảy là núi Kim Biên. Người này lên đỉnh núi Kim Biên, xoay mặt về hướng Bắc, từ thân mình nhìn ra xa chỉ thấy sự tối tăm và sợ hãi mà thôi,
Phật hỏi:
– Ông có đi đến cây Diêm-phù không?
Đáp:
– Không đến.
Đức Phật hỏi:
– Ông thấy những gì?
Người này đáp:
– Chỉ thấy toàn là bóng tối.
Đức Phật nói:
– Sự tối tăm này tức là cây Diêm-phù.
Người này lại đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lại hướng về phía Bắc mà đi qua bảy núi: Một là núi Chu-la- ca-la, hai là núi Ma-ha-ca-la, ba là núi Cù-hán, bốn là núi Thủ-la, năm là núi Khể-la, sáu là núi Càn-đà, bảy là núi Tu-bạt-cơ. Lại đi qua sáu đất nước lớn:
Một là nước Cưu-Lưu
Hai là nước Cao Lạp
Ba là nước Tùy-đề- ha
Bốn là Ma-ha-tỳ-đề-ha
Năm là Tước-đa-ha-mạn-đà Sáu là Sa-hy-ma-la-dã.
Đó là sáu đất nước lớn. Lại đi qua bảy rừng cây lớn, trong rừng có sông, đi qua hết bảy con sông này, lại đi qua rừng A-ma-la và rừng Halê-cách, cho đến cành phía Nam của cây Diêm-phù-đề. Từ cành phía Nam đi đến cành phía Bắc, người này cúi nhìn xuống nước, thấy tướng nước so với nước bình thường khác nhau, là rất lắng, rất trong, nhìn xuống thấy thấu suốt tận đáy không hề có sự che ngăn. Người này quan sát xong liền tư duy: “Thần thông của ta nay được thành tựu ở chỗ này không?” Nhân đó, chân đạp lên nước, tay vịn cành cây, chân này đến nước mà như đá xuống nước liền chìm, đối với thần thông này không được thành tựu. Vì sao như vậy? Vì nước này rất nhẹ, rất tế. Nếu lấy nước kia đổ vào trong nước này thì nước này như tô, như dầu nổi trên mặt nước, nếu lấy nước này đổ vào nước kia thì nước kia chìm như đá. Người này lấy một quả từ cây Diêm-phù, trở về thành Vương Xá dâng lên Thế Tôn. Đức Phật nhận lấy quả này, cắt ra thành nhiều miếng, phân phát cho đại chúng, mủ của quả này dính nơi tay Phật.
Lúc ấy, Đức Phật dùng tay này chùi vào núi đá mà cho đến nay màu đỏ vẫn như xưa không sót, ướt vẫn không khô, dấu tay rõ ràng. Vì khi xưa Đức Phật chia quả này làm nhiều miếng nên gọi núi đá này là Phiến-phiến-ngung. Lúc ấy, Phật vì hoá độ Ưu-lâu-tần-loa Ca Diếp, lấy quả của cây Diêm-phù-đề này đưa cho Ca Diếp: “Này Ca Diếp! Ông ăn quả này”. Ca Diếp hỏi Đức Phật: “Bạch Sa-môn Đại Cồ Đàm! Sao có được quả này”? Phật bảo Ca Diếp: “Cây này tên là Diêm-phù, quả này có được từ cây này”. Ca Diếp thưa: “Con không thể ăn quả này, xin Ngài thọ”!
Lúc ấy các Thiên thần lại dâng quả Diêm-phù cúng dường Đức Phật, hoặc ở Xá-vệ, hoặc ở thành Vương-xá, hoặc ở nước Ca-tỳ-la-vệ… Sau khi Đức Phật nhận xong, phân phát cho Đại chúng, lại các Tỳ-kheo khác trú chỗ Diêm-phù trở về chốn này nói, Tỳ-kheo Mục Liên cũng từng ở chỗ kia trở về đây. Đức Phật vì các Tỳ-kheo mà thuyết, do nhân duyên này việc này có thể biết rõ.
Phẩm 3: SÁU ĐẠI QUỐC
Ngoài cây Diêm-phù này, có hai cánh rừng, hình như bán nguyệt, vây quanh cây này. Trong đó có rừng tên là Kha-lê-lặc, ở ngoài gọi là A-ma-lặc, quả A-ma-lặc lúc chín, vị của nó rất ngon, không cay, không đắng, ngọt như mật ong, hình của quả lớn bằng như hai hộc (mười đấu). Hạt của nó như tính chất của hạt quả A-ma-lặc. Quả Kha-lê-lặc lúc chín, vị của nó rất ngọt, không cay không đắng, như vị của mật ong. Quả của cây trong nó lớn gấp hai quả trước, hạt của nó cũng như vậy. Khu rừng A-ma-lặc phía Nam lại có bảy khu rừng, trong đó có bảy con sông, những khu rừng này rất rộng, giáp với khu rừng phía Bắc. Đó là:
Rừng Yêm-la
Rừng Diêm-Phù
Rừng Sa-la
Rừng Đa-la
Rừng Nhân-lâm
Rừng Thạch-lựu
Rừng Kiếp-tất-tha.
Quả của các rừng này lúc chín, mùi vị không cay, không đắng, ngọt như mật ong. Hình tướng của quả trong rừng Nhân-lâm giống y như hình người, như người đẹp thuộc dòng họ vua chúa cõi Diêm-phù-đề, họ tộc Câu Lê, như người nam mười sáu tuổi, người nữ mười lăm tuổi tướng mạo đoan nghiêm tròn đủ như lúc đi lấy chồng. Quả của rừng Nhân-lâm khả ái như vậy, hạt của nó mang hình như đầu tóc người chưa lìa dục, nghĩa là lúc thấy quả này liền sanh lòng yêu mến. Các ngoại đạo… có kẻ lìa dục, hoặc thấy quả này thì thối thất thiền định, dục tâm sinh trở lại. Lúc quả của nó chín, chim chóc tranh nhau ăn, những quả chim ăn còn thừa thì rơi rụng xuống đất, như rừng Thi-đà thật đáng chán ghét. Những người thối thất thiền định thấy tướng này xong, sinh lòng chán lìa sâu xa, trở về lại bổn định. Hai rừng này rộng năm mươi do tuần, phía Đông và Tây của rừng giáp đến biển. Mỗi một con sông trong đó rộng năm mươi do tuần, phía Đông và Tây của nó giáp đến biển. Rừng và sông đan xen lẫn nhau trong cõi Diêm-phù-đề, diện tích của nó đến bảy trăm do tuần. Phía Nam rừng Kiếp-tất-tha của nó có đến sáu nước lớn. Nước ở cực Nam là Cao-lưu, Câu-lạp-bà Tỳ-đề-ha; Ma-ha-tỳ-đềha, Uất-đa-la-mạn-đà, ở cực Bắc là Xả-hỷ-ma-la-da. Con người trong sáu nước này đều trinh thiện, thọ trì mười pháp thiện, tự mình không sát sinh, không bảo người khác sát sinh; thú vật khi gần chết, tự đến chỗ người. Nó đã tự chết rồi, mới ăn thịt của nó, chỗ đất đó sanh ra bò đuôi dài, số lượng rất nhiều, dùng lông này để che nhà, đất ở đó sinh ra lúa mì, không cần canh tác, lúa mì này trở thành hạt gạo, không có cám mày. Người các nước này nấu làm thức ăn, khí vị của hạt cơm nấu xong rất thơm ngọt như mật ong. Làm sao biết được điều này? Vì ở thời quá khứ lâu xa, có một vị vua xuất gia, vị phu nhân của vua này cũng xuất gia, vị Quốc sư Bà-la-môn cũng đi theo xuất gia, đã xuất gia rồi thì xa lìa các tướng, vào núi học đạo. Phu nhân của vua đến lúc kinh nguyệt, khi kinh nguyệt đã sạch, nàng đi đến chỗ vua, gặp vua liền bẩm vua rằng: “Thưa Đại Vương! Thiếp nay có kinh nguyệt, người xưa rất coi trọng thai tức”. Nhà vua muốn xả bỏ không theo ý của Hậu phi, tư duy vào việc lớn lại sợ không thể được, liền cùng hòa hợp, mới có quý tử phước đức, nam nữ hai người cùng lúc thác thai. Hậu phi liền bỏ vua ra đi, trải qua một thời gian thì bụng to dần, đi qua từ các thôn xóm, đến các quận huyện cho đến các châu, mọi người đều chửi mắng: “Người nữ này không có đạo tâm, xuất gia mà phá giới”. Hậu phi nghe lời nói như vậy, sinh lòng hổ thẹn. Lúc ấy Quốc sư Đại Bà-la-môn đã tu luyện thành tiên đắc được ngũ thông, trú trong một khu rừng núi. Lúc Hậu phi nghe vị Bà-la-môn này trú ở núi ấy, liền đi đến tìm; lúc gặp Quốc sư rồi, Quốc sư liền hỏi Hậu phi: “Thai này của ai”? Hậu phi đáp : “Của vua”. Lúc ấy, Tiên nhân nhớ lại ân nghĩa xưa kia của nhà vua, mới dựng lên một lều tranh nơi một khu riêng và nói với Hậu phi rằng: “Thí chủ ở trong này tôi sẽ đi hái rau và hoa quả để cấp dưỡng cho thí chủ”. Hậu Phi y theo lời mà ở trong ấy. Lúc ấy, Tiên nhân y theo pháp, hái rau và hoa quả cấp dưỡng cho Hậu phi. Hậu phi mang thai đầy tháng liền sinh hai người con, một trai, một gái. Đến lúc dứt sữa, vị tiên này đuổi Hậu phi này nói: “Người hãy đi đi, tôi sẽ tùy theo rau quả hái được mà nuôi hai đứa trẻ này”. Hậu phi phải bỏ hai đứa con, theo lời Tiên nhân mà ra đi. Tiên nhân tùy theo rau quả hái được mà nuôi dưỡng hai đứa trẻ này. Hai đứa trẻ lớn lên một chút thì đã nhận biết nhiều điều. Ví như lúc Tiên nhân lấy các loại quả sống và chín thử cho hai đứa trẻ ăn, lúc ấy hai đứa trẻ đã tự phân biệt được: trái chín thì ăn, còn trái sống thì bỏ đi. Tiên nhân suy nghĩ: “Hai đứa trẻ này đã lớn, đã biết được quả sống và chín, có thể biết phân biệt nhiều điều, ta nay phải ở nước nào giàu vui an ổn , để an lập cho mấy đứa trẻ này”. Ông ta liền dùng ngũ thông thấy nơi chỗ đất có lúa gạo đó nên liền dùng thần lực bay trên không trung mang hai đứa trẻ đi để an lập trên đất này. Tiên nhân dạy hai đứa trẻ: “Cỏ này gọi là lúa”. Lúc ấy, Tiên nhân liền tự cắt lấy, chà sát ra để lấy gạo làm lương thực. Tiên nhân còn dạy bảo nhiều điều: “Các ngươi từ nay phải y theo cách này mà làm ra lương thực, các ngươi ở chỗ này chớ sinh lòng buồn chán, ta thường xuyên đến thăm các ngươi”. Hai đứa trẻ vì thế mới ở chỗ này. Sau đó, Tiên nhân thường đến thăm viếng, hai đứa trẻ đã dần lớn lên theo năm tháng, giới tính nam nữ đã trưởng thành đầy đủ, họ liền kết phu thê với nhau và sinh ra con bầy cháu đống, làm thành sáu nước. Bấy giờ, vị vua ấy đã học đạo xong, lìa bỏ thân người, sanh lên cõi trời, bỏ thân cõi trời, về thọ thân người. Thọ thân người rồi thì được nương vào lời dạy chánh pháp vô thượng của Đức Phật mà xuất gia học đạo, đạt đến sáu thứ thần thông vô ngại. Vị này nhờ dùng sáu thần thông nên quán thấy được đời trước của mình, thấy sáu đại quốc liền suy nghĩ: “Sáu nước lớn này đều là con cháu của ta”. Vì thương xót người trong sáu đại quốc này nên đã đi đến đó mà khất thực, được thức ăn mang về, không hỏi các Tỳ-kheo đã mà ăn trước. Lúc ăn một mình, các Tỳ-kheo gọi tên Tỳ-kheo này mà trách mắng: “Người là trưởng lão, nhiều lòng đố kỵ hẹp hòi, người là người xấu, được thức ăn khất thực mà không hỏi đến các Tỳ-kheo, lại ăn một mình”. Tỳ-kheo này đáp: “Tôi nay không vì sự đố kỵ, mà không chia sẻ cho các vị. Vì sao? vì thức ăn như vậy người chưa lìa dục thì không được ăn. Lúc Tỳ-kheo này ba lần rửa bát, nước thứ hai bỏ đi, dùng một ít nước lần rửa sau bố thí cho các Tỳ-kheo. Trong cõi Diêm Phù Đề này không có một mùi vị nào ngang hàng với vị này. Lúc ấy Tỳ-kheo này vì các Tỳ-kheo ấy mà thuyết tuần tự về nhân duyên của vị thức ăn này: Sáu Đại quốc ấy vốn là con cháu của tôi cả, cho nên vì lợi lạc của người nước ấy nên tôi đến đó khất thực, có Tỳ-kheo khác cũng đến đó khất thực, Đại Mục-kiềnliên cũng đến khất thực. Phật Thế Tôn vì các Tỳ-kheo mà nói tuần tự về nhân duyên của sáu nước này, cho nên biết được chuyện của sáu Đại quốc này.
Phẩm 4: THẦN DẠ XOA
Lúc ấy trong cõi Diêm-phù-đề này có hai dãy núi, dãy phía Nam sông Hằng tên là núi Bà-đa-kỳ-lợi, dãy phía Bắc sông Hằng tên là núi Ế-ma-bạt-đa. Trong núi Bà-đa-kỳ-lợi, các núi to nhất có núi:
Một là Tát-xa. Hai là Tần-ha.
Ba là Mạt-xa.
Bốn là Ngu-xa-bà.
Năm là Gian-ha-kỳ-lợi.
Sáu là Ba-lê-da-đa-la.
Trong núi Ế-ma-bạt-đa, các núi to nhất gồm các núi:
Một là Chu-la-ca-la.
Hai là Ma-ha-ca-la.
Ba là Cụ-ha-na.
Bốn là Tu-la-bà-kế-ha.
Năm là Kê-la.
Sáu là Càn-đà-ma-đà
Bảy là Tu-bàn-na-bàn-sa.
Nếu tất cả các Thần trú ở núi phía Nam sông Hằng thì gọi là Thần Bà-đa-kỳ-lợi, nếu Thần ở núi phía Bắc sông Hằng thì gọi là Ế-ma-bạtđà. Vì Thần Bà-đa-kỳ-lợi này thống lĩnh tất cả các Thần phía Nam sông Hằng nên gọi là vua. Vì Thần Ế-ma-bạt-đa này thống lĩnh tất cả các Thần núi phía Bắc sông Hằng nên gọi là vua. Vì sao vậy? Có một Thần vương tên là Ế-ma-bàn trú ở núi Ế-ma-bạt-đa, là Thần vương trưởng lão nhất, tuổi tác đến lúc rất cao, thì bị bệnh nặng nên lúc Thần này mất, Thần gọi một thái tử tên là Ế-ma-bạt-đa đến dạy bảo và nói với con rằng: “Này con! Ta đã được nghe thuở xưa, Thần Dạ xoa lúc tuổi rất cao đã gặp Phật quá khứ, đã từng được gặp Phật Ca Diếp. Nghe nói Đức Thích Ca Mâu Ni cũng sắp ứng thân xuất thế. Như nhân duyên ta thấy tướng ứng hiện và những gì được biết thì Đức Phật Thích Ca không lâu nữa sẽ ứng hiện. Này con! Nếu ta xả mạng nửa chừng, không gặp được Phật thì con phải quyết đến gặp Đức Phật. Nếu con gặp được Phật thì quyết sẽ được lợi lạc lớn”. Thái tử hỏi: “Làm sao con biết được lúc Phật xuất thế”. Người cha đáp: “Ở trong nhà chưa từng có vật báu, mà xuất hiện; phải biết lúc ấy Như Lai xuất thế. Lại có một Thần vương tên là Bà-đa-kỳ-lợi trú ở trong cõi nước Ma-già-đà; con phải kết bằng hữu với vị này, cùng lập thệ nguyện: “Tôi và ông cùng ở một chỗ, nếu có thấy điều gì kỳ báu hy hữu xuất hiện thì không được không báo cho nhau biết”. Lúc người cha dạy bảo người con xong thì liền xả bỏ thân mạng. Lúc ấy, Thái tử làm lễ tang cúng dường thi thể cha xong vì tôn trọng nhớ lời di huấn của cha căn dặn nên Thái tử qua sông tìm Thần vương Bà-đa-kỳ-lợi. Lúc đến chỗ Thần, đối diện với Thần nói chuyện cùng nhau hoà kính, cùng ngồi một chỗ. Thần Ế-ma-bạt-đa nói với Thần Bàđa-kỳ-lợi vương rằng: “Thưa ông! Lúc cha tôi sắp chết có nói những lời như vậy, thì liền qua đời, cho nên tôi nay nói với ông về việc này. “Nếu ở trong nhà bất chợt thấy vật báu xuất hiện thì nhất quyết phải báo cho nhau biết”. Bà-đa-kỳ-lợi nói: “Đúng vậy, đúng vậy”. Lúc hai người đã lập thề nguyện xong, mỗi người đều trở về chỗ của của mình. Sau đó trong nhà Thần vương Ế-ma-bạt-đa có kỳ báu xuất hiện, là hoa sen nghìn cánh lớn như bánh xe, lá bằng vàng, cành bằng các báu. Lúc ấy có một vị Thần thấy hoa sen này liền đưa đến tâu vua: “Nay ngài biết không, có vòng ngọc báu kỳ lạ, trên đời chưa từng có, nay đã xuất hiện, hoa sen nghìn cánh lớn như bánh xe, lá làm bằng vàng, cành bằng các báu, đây là Thiên vật, mong Ngài đến xem”. Lúc Thần vương nghe vậy xong liền đi đến bên lầu thấy hoa Sen này, đầy đủ nghìn cánh, lớn như bánh xe, làm bằng các báu, trang nghiêm kỳ lạ. Thấy việc này rồi nhà vua hết sức kinh ngạc, lông trên mình dựng đứng, tự xuống ao, cung kính chấp tay đảnh lễ ba lần, nhiễu quanh ba vòng, suy nghĩ như vậy: “Lúc xưa, ta đã từng gặp thiện hữu bảo với ta rằng: “Nếu chỗ người thiện hữu ở có báu kỳ lạ xuất hiện phải báo đến cho ta”. Nhớ nghĩ xong liền nhờ người thuộc hạ đi đến báo cho Thần vương Bà-đa-kỳ-lợi rằng: “Thưa Ngài! nay ở chỗ tôi có vật báu hy hữu đã xuất hiện, đầy đủ các tướng báu. Nay ông phải cùng tôi đi đến đó chiêm ngưỡng”. Lúc ấy, Thế Tôn đã xuất hiện ở đời, đã nói chánh pháp, hoàn toàn tịch tĩnh, nay đến Niết bàn, đã đến Bồ đề, Thế tôn đang thuyết pháp. Lúc ấy Thần vương Bà-đa-kỳ-lợi nhớ lại việc này, liền suy nghĩ: “Lúc trước ta đã từng gặp bạn lành đi đến báo cho ta: “Trú xứ của ông sẽ có Chư Phật Thế Tôn ở trong đó đắc đạo, nếu Đức Phật đã xuất thế, ông phải báo cho ta”. Vì sự mong muốn của vị bạn lành đó nên ta phải báo. Vua Bàđa-kỳ-lợi liền cho người đến bảo với vị vua này rằng: “Thưa Ngài! Nếu có một hoa sen thì có lợi ích gì, nếu có trăm nghìn hoa sen thì cũng có lợi ích gì? Trong nước tôi chưa từng có một vật báu, nay đã xuất hiện. Cái gì gọi là báu? Đó là Đa-đà A-già-độ A-la-ha-Tam-miệu-tam-Phậtđà nay đã xuất hiện ở đời. Nay ông phải đến cùng tôi cúng dường báu này. Vào ngày mười lăm tháng chín là lúc đại chúng bố tát, vua Hêma-bạt-đa có năm trăm vị Thần cùng nhau đến vây quanh, cầm các hoa sen, mặt hướng về Nam, bay trên không mà đi, đến chỗ Bà-đa-kỳ-lợi. Vị vua kia lại đem năm trăm Thần chúng cùng nhau vây quanh đón vị vua này nơi bờ Nam sông Hằng, cùng nhau tụ tập, gặp gỡ nhau xong, vua Ế-ma-bạt-đa bèn nói kệ rằng:
Nay ngày rằm thanh tịnh
Lúc bốn vua tụ hội
Chúng tôi thờ thầy nào
Ông tin A-ba-ha
Lúc ấy vua Bà-đa-kỳ-lợi nói kệ đáp:
Lúc này, Phật Thế Tôn
Trú thành Ma-già-đà.
Vì diệt tất cả khổ
Nói pháp Nhất-thiết-trí,
Các khổ và khổ tập,
Khổ diệt không sinh lại,
Bát chánh đạo diệt khổ,
Không não hướng Niết-bàn.
Thế nên ông cùng tôi
Phải đến thờ người này,
Tất cả không thể sánh.
Bậc La-ha, ta tin.
Lúc Ế-ma-bạt-đa nghe kệ này rồi lòng rất sợ hãi, lông thân dựng đứng, hoài nghi chưa tin, ba lần phân biện: “Thưa ngài! Nay Ngài nói Thế Tôn xuất thế”. Đáp: “Thưa ông! Tôi nói Phật bảo xuất thế”; lần hai, lần ba hỏi đáp cũng như vậy. Lúc ấy, Thần Vương ở núi phía Bắc tức thời như năng lực suy lường bốn pháp hành trụ, oai nghi, cảnh giới của chư Phật, hỏi Thần vương ở Nam sơn bằng kệ rằng:
Tâm Phật đối chúng sinh,
Khéo được an lập chăng?
Hai tư duy thương, ghét
Đã được diệt hết chăng?
Lúc ấy, Thần vương ở Nam sơn dùng kệ đáp:
Tâm Phật đối chúng sinh,
Chân thật được an lập
Hai tư duy: thương, ghét
Diệt hết không còn nữa
Thần vương Bắc Sơn lại dùng kệ hỏi:
Phật có vọng ngữ chăng?
Không lời hại người chăng?
Không lời ly tán chăng?
Có lời vô nghĩa chăng?
Thần Vương Nam sơn dùng kệ đáp:
Phật không nói vọng ngữ,
Cũng không lời khổ não,
Không nói lời ly gián,
Nói lời nghĩa đúng mức.
Thần vương Bắc Sơn lại dùng kệ hỏi:
Phật không trộm vật người?
Không tổn mạng người chăng?
Xa lìa các phóng dật?
Không tổn thiền định chăng?
Thần Vương Nam Sơn nói kệ đáp:
Phật không lấy của người,
Thường bảo hộ mạng người,
Xa lìa các phóng dật,
Không tổn thiền định sâu.
Thần Vương Bắc Sơn lại dùng kệ hỏi:
Phật không nhiễm ái dục,
Tâm tịnh, không bẩn chăng?
Đã vượt dòng vô minh,
Được pháp nhãn tịnh chăng?
Thần vương Nam Sơn đáp:
Không nhiễm nơi dục trần,
Tâm địa rất thanh tịnh.
Đã vượt ngoài vô minh,
Đối pháp được tịnh nhãn.
Thần vương Bắc Sơn lại hỏi:
Phật sáng suốt trọn đủ
Pháp đủ thanh tịnh chăng?
Bốn lưu đã dứt chăng?
Đời sau đã hết chăng?
Thần vương Nam Sơn lại đáp:
Phật sáng suốt trọn đủ.
Pháp đủ luôn thanh tịnh
Bốn lưu đã đoạn dứt,
Nên không có thân sau.
Lúc Thần vương Bắc Sơn nói xong, lòng sinh hoan hỷ, nói kệ tán thán:
Ý trí giả thành tựu,
Tất cả việc đã xong,
Cùng thân, khẩu thanh tịnh,
Tán thán đủ trí minh.
Thần vương Nam Sơn tâm khẩu hoan hỷ, nói kệ tán thán:
Tâm Phật thật tịch tĩnh
Thân khẩu thường lợi người
Thập lực khó ai sánh
Tùy hỷ lời ông khen,
Tâm trí giả thành tựu,
Cùng với thân, khẩu nghiệp,
Minh pháp trọn đầy đủ,
Liền cùng ông đến xem.
Nay ngày rằm Bố tát,
Lúc bốn vua vân tập
Tâm giải thoát không nhiễm,
Tôi cùng ông đảnh lễ.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn đang ở dưới cây Nặc-cù-đề trong thành Vương Xá, hai Thần vương này có một nghìn vị Thần vây quanh đi đến chỗ Đức Phật. Đến chỗ Phật rồi, bày áo vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi sang một bên. Lúc ấy vua Bắc Sơn dùng kệ hỏi:
Năng thuyết cũng năng hành
Qua dòng đến vô lậu
Độc hành như Sư tử
Phật không nhiễm thế pháp,
Qua bờ tất cả pháp.
Ân cần nên đến hỏi
Chúng sinh sinh chỗ nào?
Thường huân tập chỗ nào?
Nắm giữ là vật gì?
Chỗ nào mà chịu khổ?
Lúc ấy, Thế Tôn dùng kệ đáp Thần vương Ế-ma-bạt-đa rằng:
Chúng sinh sinh sáu xứ.
Thường huân tập sáu chỗ.
Nắm giữ sáu loại pháp.
Sáu xứ thọ khổ não.
Thần vương Bắc Sơn lại dùng kệ hỏi Phật:
Thủ này là thủ gì,
Mà khiến chúng sinh khổ?
Mong đáp hết nghi vấn,
Làm sao giải thoát khổ?
Lúc ấy, Thế Tôn dùng kệ đáp Thần vương Ế-ma-bạt-đa:
Thế gian có năm trần,
Ta nói tâm thứ sáu,
Lìa dục nhiễm trong đó,
Giải thoát khổ như vậy.
Chúng sinh đắc xuất ly,
Đã nói lượng như lý
Nay ngươi đã có hỏi,
Cho nên đáp xuất ly.
Thần vương Bắc Sơn lại dùng kệ hỏi Phật:
Ai nhanh qua được dòng,
Không đáy, không vướng víu
Ngày đêm không mệt mỏi
Chỗ sâu ai không chìm?
Lúc ấy, Thế Tôn dùng kệ đáp Thần vương Ế-ma-bạt-đa
Thường giữ giới thanh tịnh,
Tinh tấn không tán tâm,
Tư duy trong chánh niệm,
Nhờ trí qua chỗ khó.
Dục tưởng không có dục,
Trừ diệt sắc trói buộc
Mãi dứt có hỷ ái
Người này không thể chìm.
Lúc ấy, hai vị thần vương Nam, Bắc sơn cùng dùng kệ để tán thán Đức Phật:
Nay, chúng con khéo thấy
Khéo đến, cùng khéo rõ
Chúng con gặp Chánh giác
Giảng nói đạo cam lồ
Tên không diệt mất, thấy thật nghĩa
Thường vui vấn nạn không chỗ nhiễm
Trí tuệ thấu tận đều giải thoát
Hành nơi Thánh lộ-Đại Tiên nhân
Nghìn chúng Dạ-xoa khác,
Có tiếng tăm uy thần
Tất cả quy y Phật
Là bậc Vô Thượng Sư.
Ba Da-xoa này ngồi ở ba góc nên đến nay đường có tên là Lăng Giác. Lúc ấy Đức Thế Tôn đang ở dưới cây, cho nên cây này tên là Cùnặc-đàm-cù-đề. Vì việc của hai thần Dạ-xoa này, cho nên biết được hai dãy núi Nam và Bắc.
LUẬN LẬP THẾ A TỲ ĐÀM
QUYỂN 2
Phẩm 5: TƯỢNG VƯƠNG LẬU XÀ KỲ LỢI
Núi Chu-la-ca-la cao một Già-phù-đa rưỡi, chiều rộng cũng vậy, ở giữa cũng như vậy. Núi Ma-ha-ca-la cao ba Già-phù-đa rộng cũng vậy, ở giữa cũng như vậy. Núi Cù-ha-na cao một do tuần rưỡi, bề rộng và ở giữa cũng như vậy. Núi Tu-la-bà-ha cao ba do tuần, chiều rộng và ở giữa lại cũng như vậy. Núi Kê-la-bà cao sáu do tuần, chiều rộng và ở giữa cũng như vậy. Núi Càn-đà-ma-đà cao mười hai do tuần, chiều rộng và ở giữa lại cũng như vậy. Núi Tu-bàn-na-bàn-sa cao hai mươi bốn do tuần, chiều rộng và ở giữa lại cũng như vậy. Núi Tu-bàn-na-bàn-sa vào mùa trăng thu, trời tạnh không mưa, ánh sáng vằng vặc rộng khắp. Lại có những người ở gần Tuyết Sơn, tụ hội trên đất bằng của núi cao vào tháng tư, gọi nhau đến nhìn ngắm lên trời, đi đến đỉnh núi Ma-ha-ca-la ngưỡng nhìn về phía Bắc, xa thấy ở núi kia ánh sáng vằng vặc, do tướng ấy nên nói là núi Tu Di, nay ta đã thấy trên trời. Phía Bắc núi Tu-bànna-bàn-sa này có chỗ cao nhất, lại có hồ lớn tên là Mạn-đà-cơ-ni, dài năm mươi do tuần, nước trong hồ ấy trong vắt, mát ngọt. Hoa sen trong ấy đều có cành, ngó, củ đầy đủ; đáy hồ và bờ của hồ đều làm bằng bạc, vàng, thủy tinh, lưu ly. Bực thềm, nhà cửa làm bằng bốn báu, thành lũy ở ngoài cùng của hồ là làm bằng bạc, tuần tự vây quanh. Nước trong cùng hài hoà với màu sắc các báu, bốn bên của hồ có bốn đường bực thềm thông với cả đáy nước, được làm bằng bốn báu, phía Đông và Nam của hồ thẳng đến núi. Núi ấy có hang động tên là Nan-đà, có chiều dài là năm mươi do tuần, chiều rộng là mười do tuần, hang động ấy đều làm bằng lưu ly bằng láng khả ái, tợ như cung điện, không đồng với sắc các báu, các kiểu hình tượng tự nhiên được khắc hoạ, như thảm trải nền dệt bằng lông. Người vật, cây cỏ, không có gì mà chẳng đầy đủ. Sắc tướng của hang động ấy cũng lại như vậy, như người trang sức lộng lẫy bằng bảy báu trang nghiêm. Sắc tướng của chỗ đất này cũng là như vậy, tất cả lưu ly bằng láng khả ái, vô số sắc báu nếu chân dẫm lên thì liền in vào, nếu giở chân lên thì liền trở lại như cũ, như bông mềm mịn và bông đâu-la, đất ở động ấy mềm mịn cũng lại như vậy. Hang động Nan-đà này lúc dẫm lên thì chân chìm xuống, lúc giở chân lên thì đã vào trong cung điện. Số lượng cung điện không phải một, hoặc có kim đường, hoặc có ngân đường, pha lê, lưu ly đường cũng như vậy, hoặc do bốn báu hợp thành. Các cung điện này đều là chỗ ở của Tượng vương. Hồ của hang động nằm ở giữa, có chỗ tối thắng, có cây Nặc-cùđề-vương tên là Thiện Lập, gốc rễ cành nhánh, tàng lá đều có đầy đủ, hình dáng đáng yêu; lá của cây này dày đặc, không rụng, gió mưa không xâm tổn, như vòng hoa trang sức tuyệt diệu ở thế gian và trang sức các báu lộng lẫy, cũng như cái dù lọng cao thấp che nhau. Hình dáng cây này cũng là như vậy, cao một do tuần, cành rủ xuống như cột trụ, số cành đúng tám nghìn, cành rủ xuống đều dựng vào đất nên gọi là Thiện lập. Ngoài góc hồ phía Tây nam có chỗ tối thắng, có cây Sa-la-vương, gọi là Thiện kiến. Cây này có cành nhánh, tàng lá đều đầy đủ, hình dáng đáng yêu; lá của cây này dày đặc, không rụng, gió mưa không thể tổn hại, như vòng hoa trang sức tinh xảo và vòng đeo tai bằng các báu ở đời, cũng như tàng lọng trên dưới che nhau. Hình dáng cây này cũng lại như vậy, cao một do tuần, thân cây to lớn đến nửa do tuần, mỗi phương hướng đều có cành lá. Kích cở thân cây này có đường kính đến năm tầm, chu vi mười lăm tầm, cành nhánh đâm ra các hướng đến nửa do tuần. Lại nữa, ngoài cây ấy còn có rừng cây Sa-la, cao thấy vừa phải, bảy lớp vây quanh, cành lá che nhau, ngoài nhìn vào như một. Lớp cây phía trong chu vi mười ba tầm, mỗi lớp tuần tự như vậy giảm dần một tầm, lớp cây ngoài cùng có chu vi bảy tầm; lớp phía trong là cao nhất, tuần tự thấp dần từ lớp trong ra lớp ngoài cùng. Hình dáng cây ấy có gốc cành, nhánh tàng đều đầy đủ, dáng vẻ đáng yêu. Lá của cây này dày đặc, không rụng, gió mưa không thể xâm tổn, như vòng hoa và vành tai các báu trang sức tinh xảo ở đời, cũng như tàng lọng trên dưới che nhau, hình dáng cây này cũng lại như vậy. Cành khô lá úa, nếu lúc đi rụng xuống, thì vì cây đã dày đặc nên rơi trượt ra ngoài rừng. Bên ngoài rừng ấy, thông ra bốn phía, tợ như hình cửa nhà. Đất dưới cây này được cát bằng vàng che lấp, nước hương tưới vào, đốt các danh hương, tán các loại hoa, treo áo các báu. Ở dưới cây này là hoa Sa-la cùng với các loại hoa che phủ đất ấy thật là đáng yêu. Tượng vương Lâu-xà-kỳ-lợi ấy thường ở chỗ này. Thân của nó toàn trắng, bảy chi chống đất, đầy đủ sáu ngà, tùy ý biến hóa, có đại oai thần, có đại uy đức. Mỗi mỗi lớp vây quanh của nó, có tám nghìn con voi vây quanh, lớp thứ nhất là voi đực trắng, lớp thứ hai là voi cái trắng, lớp thứ ba là voi đực vàng, lớp thứ tư là voi cái vàng, lớp thứ năm là voi đực đỏ, lớp thứ sáu là voi cái đỏ, lớp thứ bảy là voi đực xanh, lớp thứ tám là voi cái xanh; ngoài ra còn có voi đực đen, voi cái đen không ở trong số vây quanh này. Tượng vương này đến hồ Mạn-đà-cơ-ni, lúc voi tự tắm rửa, các voi đen bên ngoài dẫn nhau đến phòng hộ ở các cồn đảo nhỏ. Đã phòng hộ rồi, lúc ấy, Tượng vương được các voi vây quanh đi đến chỗ hồ nước. Các voi cái trắng vây quanh ấy kích Tượng vương vào hồ nước tắm, chúng lấy nước của hồ tẩy rửa thân Tượng vương, hoặc đến rửa mặt, hoặc đến rửa tai, khắp cả thân thể đều như vậy. Lúc Tượng vương tắm, các voi này hái nhiều loại hoa dùng làm vòng hoa, dâng Tượng vương, hoặc làm vành tai, hoặc làm anh lạc, vô số thứ trang sức lạ thường trang nghiêm thân Tượng vương. Đã tắm rửa xong, từ hồ lên bờ, đến dưới cây Nặc-cù-đề phơi thân cho khô ráo. Trong thời quá khứ, ở chỗ này có một thợ săn bắn chết Tượng vương. Vì vậy trong đây rộng nói: “Kinh Bồ tát Tích Bổn Sinh”. Lúc ấy, các voi con tùy theo thứ tự sắc mầu của nó mà cùng vào hồ tắm, tắm xong thì đi đến dưới cây vây quanh Tượng vương; còn voi đen thì vào hồ tắm sau cùng, nó nhổ lấy gốc sen, ngó sen để tẩy rửa, khiến cho thân được sạch sẽ rồi trở về dưới gốc cây. Voi đực đen ấy đưa biếu thức ăn cho voi cái đen, voi cái đen dâng biếu cho voi đực xanh, voi đực xanh dâng biếu cho voi cái xanh, voi cái xanh dâng cho voi đực đỏ, voi đực đỏ đưa cho voi cái đỏ, voi cái đỏ dâng cho voi đực vàng, voi đực vàng dâng cho voi cái vàng, voi cái vàng dâng cho voi đực trắng, voi đực trắng đưa cho voi cái trắng, voi cái trắng dâng cho đại Tượng vương để cho Tượng vương ăn. Tượng vương ăn xong, dùng thức ăn ngó sen còn dư ấy cứ theo tuần tự mà phân phát cho chúng tượng; chỉ trừ voi đen, nếu thức ăn không đủ thì voi đen liền đến hồ hái thêm ngó sen ấy để cho được đầy đủ. Voi đen này chỉ ăn tại hồ. Các voi khác ăn ngó sen này xong thì thành thân bảy phần, còn nếu ăn cây cỏ, các loại lá cây thì thành phân, nước tiểu. Nếu các voi nào đi ra phân và nước giải thì bị sai khiến, quét dọn cùng với voi đen; việc dâng thức ăn cũng vậy. Bạch Tượng vương này vào tháng tư thì ở trong động Nan-đà, tháng tám vào mùa xuân, mùa đông thì ở dưới cây Sa-la Vương Thiện Kiến. Sau đó, Tượng vương cũng thường ở tại động Nan-đà này, ban ngày thì đến ở dưới cây Sa La Vương Thiện Kiến. Lúc ăn và tắm xong đều ở dưới cây Nặc Cù Đề. Làm sao biết điều này? Vì thuở xưa, Tịnh mạng Đại Trí
Xá-lợi-phất thân mang phong bệnh, thầy thuốc nói: “Bệnh này của Đại Đức phải ăn ngó sen mới có thể trị khỏi”. Lúc ấy có Tịnh mạng thần thông Mục Liên vào thuở xưa đã từng thấy ngó sen này rồi nên liền nói với Đại Đức Xá-lợi-phất như vậy: “Tôi đến đó lấy ngó sen ấy đem về đây”. Mục Liên liền dùng thần thông đến bên Kim Sơn và suy nghĩ như vậy: “Tượng vương này có đại uy đức, có đại thần thông, có tâm kiêu mạn, cho nên quyết phải làm cho Tượng vương kinh sợ”. Mục Liên liền hoá thân làm một con Đại Tượng cao to, chiều dài gấp đôi Tượng vương. Lại hoá làm chúng tượng quyến thuộc có thân hình, số lượng gấp đôi chúng tượng kia, vây quanh đầy đủ trước Tượng vương và bay từ trên không trung đáp xuống. Lúc Bạch Tượng vương thấy việc này rồi lòng đầy kinh ngạc, thân sởn gai ốc, suy nghĩ như vậy: “Có Tượng vương khác từ nơi khác đến, có thần thông, uy đức, thân hình, số lượng đều gấp bội ta, nay sẽ đuổi ta và đoạt lấy chỗ này. Lúc ấy, Tịnh Mạng Mục Liên biết được sự lo sợ này và thấy tướng của nó khác lạ nên liền xả việc hoá hiện thần thông đến nơi chỗ khác ngồi kiết già. Bạch Tượng vương này thấy việc ấy rồi liền suy nghĩ: “Chẳng có Tượng vương nào khác, là Đại Tỳ-kheo”. Lúc ấy Tượng vương tự hoá thân làm Đồng tử cõi trời, dùng vàng báu cõi trời trang sức hai cánh tay, dùng mũ trời, vành tai bằng ngọc, anh lạc các báu để trang nghiêm thân Tỳ-kheo. Lúc Mục Liên ngồi thẳng chánh niệm thì Thiên Đồng tử im lặng chắp tay năm vóc gieo sát đất, kính lễ Đại Đức. Lúc ấy, Mục Liên nói với Tượng vương: “Này Trưởng lão Tượng vương! Ngươi có đại thần thông, đại oai đức khó ai bì kịp”. Tượng vương đáp: “Bạch Đại Đức! Con là súc sinh, có thần lực gì đâu, có oai đức gì đâu! Thánh Sư đến đây cần sai bảo gì”. Mục Liên đáp: “Ta muốn có ngó sen ở hồ”. Lúc ấy Tượng vương liền sai bảo voi đen: “Ngươi hãy đi lấy ngó sen theo như ý của Đại Đức”. Voi đen liền vào hồ, lấy ngó sen rồi rửa, bó lại và cho một con voi chở trên lưng theo Đại Đức Mục Liên bay trên không mà đi. Mục Liên mang về đến khi cho các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo Xá-lợi-phất thọ lấy ngó sen này. Vì vậy từ xưa cho đến khi nay gọi chỗ này là Tượng Hạ Chi Đề, lại còn gọi là Tống Ngẫu Chi Đề, cũng gọi là Thọ Ngẫu Chi Đề. Đại Đức Xá-lợi-phất ăn ngó sen này rồi, bệnh liền khỏi hẳn. Lúc Xá Lợi Phất qua khỏi bệnh rồi, đến Bát Niết-bàn, thân không bệnh não, các Tỳ-kheo khác cũng cùng ăn ngó sen. Ngó sen này hình dạng đáng yêu, mùi vị đậm đà, ngọt ngào như mật ong không hề cay, đắng, dài, ngắn, vuông, tròn, ngang, dọc đều là một xích, mỗi một cọng như vậy chiết ra nước dịch đầy cả một bát. Có một Tỳ-kheo khác dùng thần thông đi đến bên núi Kim Sơn, thấy sự việc như vậy nên trở về hỏi về vấn đề này. Lúc ấy Thế Tôn vì các Tỳ-kheo mà nói về nhân duyên này, cho nên mới biết được những sự việc như thế.
Phẩm 6: TỨ THIÊN HẠ
Lúc bấy giờ, Đức Phật thuyết về Thiên hạ có bốn: Một là Diêmphù-đề, hai là Tây Cù-da-ni, ba là Đông Phất vu-đãi, bốn là Bắc Uất đơn-việt.
Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: “Bạch Thế Tôn! Cõi Diêm-phù-đề này có đất dường như rất lớn.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo! Cõi Diêm-phù-đề rất lớn, vùng biên địa phía Đông rộng đến hai nghìn do tuần, hai phía Tây và Bắc, mỗi một bên rộng hai nghìn do tuần, vùng biên địa phía Nam chỉ có ba do tuần, chu vi tất cả là sáu nghìn ba do tuần, hình thế của nó như bánh xe. Chúng sinh sinh trên đất này có khuôn mặt tự như địa hình. Cõi Diêm-phù-đề này có đủ núi và sông, ở giữa núi là sông, có các đất nước xen kẽ ở trong đó”.
Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Cõi Tây-Cù-da-ni có hình thể dường như rất lớn.
Đức Phật bảo: “Này các Tỳ-kheo! Tây-Cù-da-ni rất lớn, rộng đến hai nghìn ba trăm ba mươi ba một phần ba do tuần, chu vi là bảy nghìn do tuần, địa hình tròn, có sông mà không có núi, ở giữa các sông lập các quốc thổ. Nhân dân ở đó giàu vui, không có trộm cắp, nhiều người hiền thiện trong đó.
Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Cõi Đông-Phất-tỳ-đề có địa hình dường như rất rộng lớn.
Phật bảo: “Này các Tỳ-kheo! Đông Phất-tỳ-đề rộng lớn, bề rộng hai nghìn hai trăm ba mươi ba một phần ba do tuần, chu vi là ba nghìn do tuần, địa thế hình tròn giống như trăng rằm, có nhiều núi đồi mà chỉ có một con sông, ở giữa các núi, an trí các nước. Nhân dân trong đó giàu vui, không có trộm cắp, các người hiền thiện đầy khắp trong các nước ấy. Tất cả các núi đều là vàng báu, rìu búa, cày cuốc và các khí vật khác đều là vàng thật. Có một con sông trong cõi đó tên là Tát-xà, sông ấy hai bên bờ đều rất đáng yêu. Có một Tịnh mạng tên là Tân-đầu-lô ở bên bờ sông làm Tăng-già-lam. Làm sao biết được các việc như vậy? Thuở xưa, ở nước Ba-la-nại, có một Tỳ-kheo và một Sa-di đều có đủ thần thông. Họ từ nước Ba-la-nại đi xuống Đông-tỳ-đề. Lúc ấy Sa-di này lấy một viên đá muốn mài thành kim. Sa-di này liền cầm đá này trở về nước Ba-la-nại, an trí trong chùa, ngay trong đêm ấy viên đá phóng ánh sáng lớn.
Lúc ấy, vị Tỳ-kheo bảo Sa-di: “Người hãy đem đá này trở về lại nước kia”.
Sa-di liền làm theo lời Tỳ-kheo, liền mang đá này ném xuống trong nước sâu của sông Ba-la-nại. Lúc ấy, dòng sông này tỏa ánh sáng lớn, tất cả cá, rùa, các loại dưới nước … đều hiện ra rõ ràng. Nhân dân trong nước ấy đều đua nhau đi đến xem, các đường lớn, đường nhỏ đều đầy khắp, không có lối đi, họ đều cho đó là Rồng hiện đại thần lực.
Lúc ấy, vị Tỳ-kheo cùng với Sa-di này lúc sáng sớm vào thành khất thực, thấy dân chúng nhiều vô số kể tụ tập bên sông, cửa thành tắc nghẽn, trở về khó được. Vị Tỳ-kheo mới hỏi Sa-di: “Ngươi đem viên đá trước kia ấy ném vào chỗ nào?” Sa-di đáp: “Thưa Đại Đức! Con ném viên đá này xuống dòng sông sâu”.
Vị Tỳ-kheo bảo với Sa-di: “Ngươi hãy đem viên đá này trở về chỗ cũ của nó”.
Lúc ấy, vị Sa-di liền theo lời thầy, ở trước mọi người, vào nước sông sâu mà lấy lại viên đá này, áo y không ướt, bay lên hư không mà đi. Lúc mang về lại chỗ cũ, các Tỳ-kheo trở về nước kia số nhiều vô lượng và cùng nói lại như vậy.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn mới vì các Tỳ-kheo mà giảng nói về nhân duyên này, cho nên mới biết được việc này.
Lúc ấy, Tỳ-kheo bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Cõi nước Bắc Uấtđơn-việt dường như rất rộng lớn.
Phật bảo: “Này Tỳ-kheo! Cõi nước Bắc Uất-đơn-việt rất rộng lớn, phía Đông dài hai nghìn do tuần, phía Tây dài hai nghìn do tuần, phía Nam và phía Bắc cũng như vậy. Chu vi là tám nghìn do tuần, thành quách vây quanh làm bằng núi vàng, đất bằng hoàng kim, ngày đêm thường sáng tỏ.
Cõi Uất-đơn-việt này có bốn loại đức:
Một là bằng phẳng,
Hai là yên lắng,
Ba là trong sạch,
Bốn là không có gai nhọn.
Bằng phẳng nghĩa là trong quốc độ kia không có hầm hố, không có hang vực, không có chỗ tù đọng, không có chỗ cao, không có chỗ thấp, không có bùn lầy cho nên gọi là bằng phẳng. Yên lắng nghĩa là trong quốc độ ấy không có sư tử, hổ báo, gấu, độc xà, ong, bọ cạp có thể hại đến người, cho nên gọi là yên lắng. Trong sạch nghĩa là dưới mặt nước ấy không có tử thi, rắn chết, chó chết, và các vật bất tịnh. Nếu nhân dân ở đó lúc đại tiểu tiện thì đất nứt ra và nhận lấy, nhận rồi trở lại như cũ nên gọi là trong sạch. Nước ấy không có gai nhọn, nghĩa là trong quốc độ ấy không có cây, có gai nhọn đâm ra, không có cây có mùi hôi nên gọi là không có gai nhọn. Trong đó có cỏ tên là Xa-tỳ, sắc của nó màu tím thẩm, hình dạng thật đáng yêu, như cổ con chim khổng tước, lúc chạm vào rất mềm mại, như áo Ca-chân-lân. Ca-chân-lân là áo không hề nhiễm bẩn, mùa hạ thì mát, mùa đông thì ấm; lại như áo A-thời-na đốt không hề cháy. Cỏ này chạm tay vào rất mềm mịn cũng như vậy. Cỏ Xa-tỳ này che khắp mặt đất cõi này, bốn mùa không héo, dài chỉ bốn thốn. Các con sông của đất nước ấy có nước tám công đức, hai bờ sông và đáy đều trải cát vàng thật, nước ấy thường chảy, không hề tăng giảm, bờ đê bằng vàng kiên cố, không bao giờ lay đổ.
Đức Phật thuyết như vậy.
Lúc ấy, Phật bảo: “Này Tỳ-kheo! Chỗ trú của chim Ca-lâu-la là bốn châu. giữa hai châu là Đông Phất-tỳ-đề và Nam Diêm-phù-đề có châu Ca-lâu-la; ở giữa hai châu: Nam Diêm-phù-đề và Tây Cù-da-ni có châu Ca-lâu-la; ở giữa hai châu: Tây Cù-da-ni và Bắc Uất-đơn-việt có châu Ca-lâu-la; ở giữa hai châu: Bắc Uất-đơn-việt và Đông Phất-tỳ -đề có châu Ca-lâu-la là châu của chim.
Châu này có chu vi một nghìn do tuần, có hình tròn, tất cả chim đều bay đậu trong rừng sâu. Chim Calâu-la trú ở trong rừng, dưới nước của bên ngoài châu đều là trú xứ của loài rồng, rồng ở nơi đất này, giống như các loài chim kia tụ tập đến chờ ăn uống, đói thì bắt lấy rồng ăn. Chim Ca-lâu-la có tất cả bốn loại: một là hoá sinh, hai là thấp sinh, ba là noãn sinh, bốn là thai sinh. Tất cả các loài rồng cũng đều có bốn loại sinh ấy. Ca-lâu-la hoá sinh có thể ăn bốn loại rồng; Ca-lâu-la thấp sinh có thể ăn ba loại, trừ rồng hóa sinh ra, Calâu-la noãn sinh có thể ăn hai loại sau; Ca-lâu-la thai sinh ăn một loại rồng sau cùng. Lúc chim này khi muốn ăn, hai cánh rẽ nước, nước rẻ ra hai bên cách nhau đến năm mươi do tuần, bắt lấy rồng rồi trở về trên cây mà ăn, thức ăn còn lại của chim giống như xương voi, ngổn ngang ở trên đất, cho nên ở bốn châu thường có mùi hôi. Ở giữa hai châu: Đông Phất-tỳ-đề và Nam Diêm-phù-đề là châu của chim Ca-lâu-la trú. Trong đó có cây tên là Khúc thâm phù-lưu, rễ, cành, nhánh, tán đều có đầy đủ, hình dáng rất đáng yêu. Lá của cây này dày đặc, lâu ngày chẳng úa, gió mưa không thể xâm tổn, như vòng hoa và bông tai các báu trang sức tinh xảo ở đời; cũng như dù lọng trên dưới che nhau. Hình dáng cây này cũng lại như vậy, cao một trăm do tuần, dưới gốc to đến năm mươi do tuần, mỗi phương đều có cành lá, cành lá phân bố rộng khắp bốn phương đến một trăm do tuần. Gốc cây này đến năm do tuần, chu vi mười lăm do tuần. Ca-lâu-la vương tên là Tỳ-na-để-da ở trên cây này. Còn Đại Long vương tên là Ma-na-tư lúc muốn vui đùa cùng với Điểu vương thì bay lượn ra, lúc ấy Điểu vương bắt lấy rồng này, đặt lên cành cây, nhưng giống Long vương này vốn rất to, lại còn biến hoá, có thể khiến cho thân dài hơn nữa. Điểu vương bắt rồng về cây như vậy, thân rồng tùy theo đó mà dài ra, đầy khắp cả cây này. Thân rồng tuần tự như vậy mà chiếm hết cả cây, vì rồng này nặng nên cây bị gãy đổ. Lúc Điểu vương biết được việc này mới thả rồng ra và suy nghĩ: “Rồng Ma-la-tư này làm hỏng chỗ ở của ta”. Lúc ấy Điểu vương Tỳ-na-để-da sinh lòng hối hận, lui về một chỗ khác, im lặng buồn rầu, còn rồng Ma-na-tư này mới có thể chứng tỏ mình. Lúc ấy Long vương lại biến làm đồng tử cõi trời, dùng kim bảo cõi trời trang nghiêm hai tay, đội mão trời, đeo bông tai bằng các báu, anh lạc trang sức thân mình để đi đến chỗ Điểu vương mà nói như vậy: “Ngươi gặp việc gì mà buồn rầu, khổ não, im lặng một mình, sinh lòng bất an vậy”.
Điểu vương đáp: “Nay ta bị sự biến đổi, bị rồng Ma-na-tư làm hỏng chỗ ở của ta”. Đồng Tử đáp: “Này bạn lành! Nếu ông càng bắt rồng làm thức ăn thì không những tổn hại đến chỗ ở của ông mà còn mãi hại đến rồng khác, làm mất quyến thuộc. Khổ ấy thì sao? Nếu ông càng bắt rồng thì trú xứ nhất định sẽ không được an lập . Lúc đó, Long vương và Điểu vương cùng đứng thề nguyền: không làm tổn hại nhau nữa, mãi mãi là bạn lành. Vì nhân duyên này nên gọi cây này là Khúc-thâm-phù-lưu. Bốn thiên hạ này có bốn điểu châu có diện tích rất rộng cho nên nay nói mỗi một châu của nó có tám châu vây quanh: Ngưu châu, Dương châu, Lăng tử châu, Bảo châu, Thần châu, Hầu châu, Tượng châu, Nữ châu. Ngoài ra còn có bảy châu cũng là như vậy. Nghĩa này Đức Thế Tôn nói, tôi nghe như vậy.
Phẩm 7: SỐ LƯỢNG
Lúc ấy, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo Phú-lâu-na: Này Tỳ-kheo! Đất thế giới này có hình tròn, như mâm đèn lồng, như bánh xe của thợ gốm. Đất của thế giới này cũng như vậy, giống như duyên với bên mâm đèn mà hưng khởi, núi Thiết Vi cũng như vậy. Ví như ở trong khay đèn, ở giữa vút cao lên, ở trong thế giới ấy có núi Tu Di cũng như vậy. Núi Tu Di này do bảy báu làm thành, hình và sắc đáng yêu, bốn góc ngay thẳng, ví như ông thợ giỏi khéo dùng mực thước để làm thành trụ gỗ, hình thù của nó vuông, thẳng. Núi Tu Di nầy cũng như vậy, nửa hình của nó soi trong nước tám vạn do tuần, nửa hình trên mặt nước cũng tám vạn do tuần. Bốn bên của núi này, mỗi bên là tám vạn do tuần, chu vi là ba mươi hai vạn do tuần. Trong đó biển lớn là to nhất, tên gọi là Tu Di hải, sâu tám vạn do tuần, rộng bốn vạn do tuần, một bên dài mười sáu vạn do tuần, chu vi sáu mươi tư vạn do tuần. Ngoài biển có núi, núi ấy tên là Do-càn-đà. Núi này dưới mặt nước bốn vạn do tuần, trên mặt nước cũng vậy, cũng rộng bốn vạn do tuần, mỗi một bên của núi này dài hai mươi bốn vạn do tuần, chu vi chín mươi sáu vạn do tuần. Biển ở ngoài khu vực nầy cũng gọi là Do-càn-đà, sâu bốn vạn do tuần, rộng cũng như vậy, một bên dài ba mươi hai vạn do tuần, chu vi hai mươi tám vạn do tuần. Ngoài biển có núi tên là Y-sai-đà, dưới mặt nước hai vạn do tuần, trên mặt nước cũng vậy, rộng cũng như vậy, mỗi bên dài ba mươi sáu vạn do tuần, chu vi một trăm bốn mươi vạn do tuần. Ngoài núi có biển cũng tên là Y-sai-đà, sâu hai vạn do tuần, rộng cũng vậy, mỗi một bên dài bốn mươi vạn do tuần, chu vi một trăm sáu mươi vạn do tuần. Ngoài biển có núi tên là Ha-la-trí, dưới mặt nước một vạn do tuần, trên mặt nước cũng vậy, rộng cũng như vậy, mỗi bên dài bốn mươi bốn vạn do tuần, chu vi một trăm bảy mươi sáu do tuần. Ngoài núi có biển tên là Ha-la-trí, sâu một vạn do tuần, rộng cũng như vậy, mỗi bên dài bốn mươi sáu vạn do tuần, chu vi một trăm tám mươi bốn vạn do tuần. Ngoài biển này cũng có núi cùng tên là Tu-đằng-sa, dưới mặt nước năm nghìn do tuần, trên mặt nước cũng vậy, rộng cũng như vậy, mỗi bên dài bốn mươi bảy vạn do tuần, chu vi là một trăm tám mươi tám vạn do tuần. Ngoài núi có biển tên là Tu-đằng-sa, sâu năm nghìn do tuần, rộng cũng như vậy, mỗi một bên dài bốn mươi tám vạn do tuần, chu vi một trăm chín mươi hai vạn do tuần. Ngoài biển cũng có núi tên là A-sa-thiên-na, dưới mặt nước là hai nghìn năm trăm do tuần, trên mặt nước cũng vậy, rộng cũng như vậy, mỗi bên dài bốn mươi tám vạn năm nghìn do tuần, chu vi một trăm chín mươi vạn do tuần. Ngoài núi lại có biển cũng tên là A-sa-thiên-na, sâu hai nghìn năm trăm do tuần, rộng cũng như vậy, mỗi một bên dài bốn mươi chín vạn do tuần, chu vi một trăm chín mươi sáu vạn do tuần. Ngoài biển cũng có núi tên là Tỳ-na-đa, dưới mặt nước là một nghìn hai trăm năm mươi do tuần, trên mặt nước cũng vậy, rộng cũng vậy, mỗi một bên dài bốn mươi chín vạn hai nghìn năm trăm do tuần, chu vi một trăm chín mươi bảy vạn do tuần. Ngoài biển cũng có núi tên là Tỳ-na-đa, dưới mặt nước là một nghìn hai trăm năm mươi do tuần, trên mặt nước cũng vậy, rộng cũng như vậy, mỗi một bên dài bốn mươi chín vạn hai nghìn năm trăm do tuần, chu vi là một trăm chín mươi bảy vạn do tuần. Ngoài núi có biển cũng tên là Tỳ-na-đa, sâu một nghìn hai trăm năm mươi do tuần, rộng cũng như vậy, mỗi một bên dài bốn mươi chín vạn năm nghìn do tuần, chu vi là một trăm chín mươi tám vạn do tuần. Ngoài biển có núi tên là Ni-dân-đà, dưới mặt nước là sáu trăm hai mươi lăm do tuần, trên mặt nước cũng vậy, rộng cũng như vậy, mõi một bên dài bốn mươi chín vạn sáu nghìn hai trăm năm mươi do tuần, chu vi là một trăm chín mươi tám vạn năm nghìn do tuần. Ngoài núi ấy cũng có biển tên là Ni-dân-đà, sâu sáu trăm hai mươi lăm do tuần, rộng cũng vậy, mỗi một bên dài bốn mươi chín vạn bảy nghìn năm trăm do tuần, chu vi là một trăm chín mươi chín vạn do tuần. Ngoài biển mặn cũng có núi tên là Thiết-vi, dưới mặt nước ba trăm mười hai do tuần rưỡi (312,5), trên mặt nước cũng vậy, rộng cũng như vậy, chu vi ba mươi sáu ức một vạn ba trăm năm mươi do tuần . Từ lãnh địa núi Ni-dân-đà đến lãnh địa núi Thiết-vi là ba ức sáu vạn ba nghìn hai trăm tám mươi tám do tuần. Từ mé biển Ni dân đà đến mé núi Ni-dân-đà là ba ức sáu vạn hai nghìn sáu trăm sáu mươi ba do tuần. Từ cõi Nam Diêm-phù-đề đến núi Thiết vi là ba ức sáu vạn sáu trăm sáu mươi ba do tuần. Từ trung ương cõi Diêm-Phù-Đề đến trung ương Tây Cù-da-ni là ba ức sáu vạn sáu nghìn do tuần. Từ phía Bắc cõi Nam Diêm-phù-đề đến phía Bắc cõi Bắc Uất-đơn-việt là bốn ức bảy vạn bảy nghìn năm trăm do tuần. Từ cực Tây vùng nước của núi Thiết vi này đến vùng nước của núi Thiết Vi kia phải vượt qua mười hai ức hai nghìn tám trăm hai mươi lăm do tuần. Vùng nước của núi Thiết vi có chu vi bốn mươi sáu ức tám nghìn bốn trăm bảy mươi lăm do tuần. Từ bên đỉnh núi Tu Di này đến bên đỉnh núi Tu Di kia là mười hai ức ba nghìn bốn trăm năm mươi do tuần. Từ trung ương của núi Tu Di này đến trung ương của núi Tu Di kia là mười hai ức tám vạn ba nghìn bốn trăm năm mươi do tuần. Từ gốc của núi Tu Di này đến gốc của núi Tu Di kia là mười hai ức ba nghìn lẻ mười lăm do tuần.
Nghĩa như vậy là đức Thế Tôn tuyên dạy, tôi đã nghe như vậy,
Phẩm 8: TRÚ XỨ CÕI TRỜI
Phật bảo Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo! Núi Tu Di vương này đều có bốn bên Đông, Tây, Nam, Bắc. Phía Đông của núi ấy làm bằng chân kim, phía Tây làm bằng bạch ngân, phía Bắc làm bằng lưu ly, phía Nam bằng pha lê, tất cả các bên ấy đều do các báu làm thành. Núi Tu Di này có đầy đủ bảy tính, ở trung ương trên cùng của đỉnh núi là bằng phẳng, chỗ đẹp nhất là Đại thành Thiện kiến của cung trời Đao lợi, có chu vi là mười nghìn do tuần, thành vây quanh làm toàn bằng vàng, cao một do tuần, bức tường thấp trên thành cao nửa do tuần, cửa cao hai do tuần, bên ngoài có cửa kép cao một do tuần rưỡi, trong mỗi một do tuần có một cửa. Bốn mặt của thành là một nghìn cửa lầu, các cửa thành này làm bằng các báu và vô số Ma-ni dùng để trang sức, ví như đất phía Bắc tuyệt đẹp, mềm mịn; tất cả cõi nhân, phi nhân… rồng, thú, cây, cỏ và các loài hoa, không gì mà không có, cũng như sự trang nghiêm bằng các báu lộng lẫy đầy đủ. Các cửa thành này cũng như vậy, hoặc có tất cả các tướng chúng sinh, vô số cây cỏ và các loài hoa cùng trang nghiêm ở ngoài. Hai bên cửa thành này được trang nghiêm bằng tượng quân, trang nghiêm bằng mã quân, trang nghiêm bằng xa quân. Trú trong thành này là các Thiên tử cầm tích trượng đứng trang nghiêm, tụ tập trong ấy để bảo vệ đất nước, để nhìn ngắm, để trang nghiêm. Bốn bên ở ngoài thành là hàng tường rào bảy lớp bằng châu báu vây quanh: lớp trong cùng làm bằng chân kim, lớp tiếp làm bằng bạch ngân, lớp thứ ba bằng lưu ly, lớp bốn bằng cành pha lê, ba lớp ngoài cùng làm bằng các báu. Bên ngoài bảy lớp này là cây Đa-la có bảy lớp vây quanh: lớp cây trong cùng có gốc bằng chân kim, lớp tiếp là bạch ngân, lớp ba bằng lưu ly, lớp bốn bằng pha lê, ba lớp ngoài cùng có gốc bằng các báu. Cây Đa-la chân kim là có bạch ngân, lưu ly, pha lê, các báu làm hoa và lá, quả cũng như vậy. Cây Đa-la bằng bạc có hoàng kim, lưu ly, cành pha lê báu làm hoa và lá, quả cũng như vậy. Cây Đa-la lưu ly có vàng, bạc, pha lê làm hoa, quả và lá. Cây Đa-la pha lê có vàng, bạc, lưu ly làm hoa, quả và lá. Hoa, lá và quả của ba lớp ngoài cùng đều làm bằng các báu. Cây Đa-la này lúc gió nhẹ thổi, cây lay động phát ra âm thanh tuyệt diệu, có thể làm cho chúng sinh khởi năm triền phược:
Một là sinh khởi ái,
Hai là khởi ràng buộc,
Ba là khởi mê loạn,
Bốn là sinh chấp trước,
Năm là không lìa chán.
Như năm phần âm thanh, như năm âm cùng phối tấu của nhạc sư tinh diệu có thể làm khởi năm loại dục tâm của chúng sinh, âm thanh của cây này cũng như vậy. Ở giữa bảy lớp cây ấy, mỗi nơi đều có ao hoa các báu, chiều dài rộng một trăm cung (tên) cõi trời, thiên thủy tràn đầy, bốn báu làm thềm bực, cấu trúc cảnh quan, thành quánh, bờ đáy đều làm bằng vàng, bạc, lưu ly và pha lê. Bốn bên của ao ấy có đường và bực thềm cũng được làm bằng gạch bốn báu. Trong mỗi một ao có vô lượng hoa, do năm báu làm thành là: vàng, bạc, lưu ly, pha-lê-kha, ha-lê-đa. Trong các ao này có thuyền bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê trôi bồng bềnh trong đó; lại có đủ tám loại thủy hý: một là nhảy vào thủy lâu, hai là dùng nước bảy báu nhuần đượm rưới lên thân, ba là dùng vật chặn nước để tạo ra âm nhạc, bốn là dùng nước bắn tung tóe để vui đùa, năm là bánh xe nước, sáu là nhà nổi, bảy là bánh xe chim báu, tám là dây tơ tự quấn quanh và đong đưa. Trong đó Chư Thiên nam, nữ chèo thuyền du hý, lúc ấy thuyền báu tùy theo ý muốn mà nhanh hay chậm. Chư Thiên nam, nữ nếu có khởi ý: mong muốn đến ở chỗ đó, thì thuyền đến chỗ đó. Chư Thiên này nếu có tác ý: “Ta muốn đến chỗ hoa kia hái hoa, thì quả báo trong đó liền tự đến, tự nhiên gió nổi lên thổi các danh hoa, biến khắp Chư Thiên, lại có gió khác thổi các vòng hoa trang nghiêm thân và đầu, hoặc làm mũ báu, hoặc làm anh lạc, hoặc làm thủ ấn, cho đến dây thắt lưng, hoặc làm kiềng đeo chân. Bốn bên của bờ ao có năm loại cây báu: một là vàng, hai là bạc, ba là lưu ly, bốn là pha-lê-kha, năm là A-lê-đa hàng giữa cây ấy có cung điện các báu do năm báu làm thành. Các Chư Thiên nam nữ ở trong đó, bên ngoài thành ấy có rất nhiều Chư Thiên đầy khắp quốc độ. Bên ngoài cây Đa-la có ba lớp hào báu, mỗi một hào ấy rộng hai do tuần, sâu một do tuần rưỡi, phía dưới rộng hơn trên, có chỗ như miệng cái bầu. Ở trong hào ấy, thiên thủy chứa đầy, cũng có dùng gạch bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, và pha-lê-kha làm thành. Bốn bên của hào ấy cũng dùng gạch bốn báu để làm đường và thêm bực. Trong mỗi một hào lại có vô lượng các hoa bốn báu, có thuyền bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê làm thành, bồng bềnh trong đó. Lại có tám loại khí cụ thủy hý (vui chơi trong nước): một là nhảy vào thủy lâu, hai là dùng nước bảy báu rưới lên (thân): ba là dùng vật chặn nước để tạo âm nhạc, bốn là dùng nước bắn tung toé để vui đùa, năm là bánh xe nước, sáu là nhà nổi, bảy là bánh xe chim báu, tám là dây tơ tự quấn quanh và đong đưa. Chư Thiên nam nữ trong đó chèo thuyền vui chơi, các thuyền báu này tùy theo ý muốn mà đi nhanh hay chậm. Chư Thiên này nếu khởi ý: “Muốn đến chỗ kia”, thì thuyền liền đến chỗ kia. Chư Thiên này nếu khởi ý: “Ta muốn hái hoa kia hãy đến chỗ ta”. Thì do quả báo tự nhiên trong đó hoa liền tự đến, gió nổi lên thổi các danh hoa đầy khắp Chư Thiên. Lại có gió khác thổi các vòng hoa trang nghiêm thân và đầu, hoặc làm mũ báu, hoặc làm anh lạc, hoặc làm thủ ấn, dây thắt lưng và kiềng đeo chân cũng như vậy. Ở giữa hào có cung điện các báu, là chỗ trú của các thể nữ cõi trời. Ở trong các cung đường ấy có đặt các chậu báu, trong mỗi chậu có trồng hoa cỏ có năm màu sắc khác nhau, mỗi đều có hàng lối thẳng tắp. Ngoài ba lớp hào ấy có cây bảy báu là: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, sắc báu liên hoa, luy thạch, kha-lê-đa… vây quanh. Trong rừng cây này khắp nơi đều có ao sen bảy báu, thiên thủy chứa đầy, cho đến du hý thuyền báu và các cung điện. Chỗ ở của nam nữ Thiên chúng có rất nhiều và Chư Thiên đầy khắp quốc độ cũng nói như trên. Lúc này, ngoài hào, các cây bảy báu nở ra hoa bảy báu là: vàng, bạc, lưu ly, pha lê cho đến kha-lê-đa…. Trong rừng cây này, các Thiên nữ… tấu nhạc hát ca, vô lượng Thiên tử từ Đại thành đi ra vào rừng thưởng thức. Trong thành ấy, các Thiên tử tấu nhạc hát ca, các Thiên nữ bên ngoài cũng đi vào thành thưởng thức, nhân thế đến đi vui chơi rất thuận tiện. Thành vàng ở trung ương là một phần tư của Đại thành, đây là trú xứ của Đế Thích, Mỗi mười do tuần có một cửa, bốn mặt có bốn trăm chín mươi chín cửa, lại có một cửa nhỏ nữa, tất cả là năm trăm cửa. Hình dáng thành này cũng được vô số vật trang nghiêm: bảo vệ bằng bốn binh, tường rào, hào, cây, ao, rừng, cung điện, tấu nhạc hát ca và các chỗ vui chơi bên ngoài như đã nói ở trước. Ở giữa thành này là chỗ trú của Thích Đề Hoàn Nhân, có trùng các lầu báu tên là Bì Thiền Diên Đa, dài năm trăm do tuần, rộng hai trăm năm mươi do tuần, chu vi một nghìn năm trăm do tuần, trụ cao chín do tuần, do bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê làm thành, bốn loại gạch báu dùng làm nền trụ. Bốn phương của lầu ấy có bốn đường thềm bực, tất cả các vạch đều do bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê làm thành, có ba tầng vỏ bọc duy trì bao quanh, tầng một là chân kim, tầng hai là bạch ngân, tầng ba là lưu ly. Mỗi một tầng ấy có ba lớp linh báu, gió nhẹ thổi đến lay động xuất ra âm thanh vi diệu, ví như năm phần âm nhạc, như đã nói ở trước. Âm thanh của cây Đa-la làm cho chúng sinh khởi năm dục trói buộc. Bốn bên của trùng các ấy có lầu báu để trấn thủ, phía Đông có hai mươi sáu, ba mặt còn lại, mỗi mặt có hai mươi lăm, tất cả là một trăm lẻ một chỗ. Mỗi một chỗ trấn thủ ấy có hình vuông, mỗi bề hai do tuần, chu vi tám do tuần, trên chỗ ấy lại có lầu báu cao nửa do tuần, dùng để nhìn xa. Mỗi một chỗ trấn thủ ấy có bảy Thiên nữ, mỗi một Thiên nữ có bảy thể nữ. Ở trong lâu các có bảy vạn bảy trăm phòng nhà, trong mỗi một phòng có bảy Thiên nữ, mỗi một Thiên nữ cũng có bảy Thể nữ. Thiên nữ ấy là chánh phi của trời Đế Thích. Ngoài chỗ trấn thủ và trong các phòng ốc, có tất cả bốn ức chín vạn bốn nghìn chín trăm chánh phi, ba mươi bốn ức sáu vạn bốn nghìn ba trăm Thể nữ phi và Thể nữ, cộng tất cả là ba mươi chín ức năm vạn chín nghìn hai trăm. Ở vị trí trung ương phía trên cùng của trùng các Bì-thiền-diên-đa là nhà tròn rộng ba mươi do tuần, chu vi là chín mươi do tuần, cao bốn mươi lăm do tuần. Chỗ trú của Thích Đề Hoàn Nhơn đều do lưu ly làm thành, đất ở đó đều mềm mịn, các báu lấp đầy, ví như đất phía Bắc màu mỡ, mềm mịn như thảm; nhân, phi nhân, rồng thú, cây cỏ và các loài hoa không gì mà chẳng có đủ, cũng trang sức bằng các báu lộng lẫy, tròn đầy. Chỗ trú của Đế Thích cũng như vậy đều do lưu ly tạo thành, trang sức bằng các báu. Đất ở đó mềm mịn, chỗ nào chân dẫm vào thì liền in xuống, cất chân lên thì liền trở lại như cũ như thảm bông mịn và bông Đâu-la. Trú xứ Đế Thích cũng lại như vậy, dẫm chân vào thì liền in xuống, cất chân lên thì liền trở lại như cũ, các hoa rãi khắp, hương đốt thơm ngào ngạt, treo các áo trời và vòng hoa báu. Trú xứ như vậy là chỗ cùng trú của Thích Đề Hoàn Nhơn và Xá-chỉ-nữ A-tu-la; Hóa thân của Đế Thích và các phi cùng ở, tất cả các phi đều khởi suy nghĩ: “Đế Thích cùng ở với ta, chân thân Đế Thích cùng ở với Xá Chỉ”. Bốn bên trú xứ trong thành này có đường lớn, đường nhỏ, phố xá đều rất hài hòa, ngăn nắp. Thành của chư Thiên này, hoặc có trú xứ bốn nhà liền nhau, hoặc có trú xứ nhà nhọn nhiều tầng, hoặc có trú xứ lầu cao nhiều tầng, hoặc có trú xứ đài quán vút trời, hoặc có trú xứ bốn bên là để trấn thủ, tùy theo phước đức của mỗi chỗ mà các báu tạo thành, bằng phẳng đoan nghiêm. Đường trong thành cõi trời này có đến năm trăm đường, tứ phía thông nhau, đường ngang dọc ngay hàng thẳng lối, như đường cỏ xanh tươi, bốn cửa thông nhau, Đông Tây thấy nhau, đường xá phố chợ có hàng báu đầy khắp: Thứ nhất là chợ gạo, thứ hai là chợ áo quần, thứ ba là chợ các hương, thứ tư là chợ ẩm thực, thứ năm là chợ hoa, thứ sáu là chợ khéo tay, thứ bảy là chợ mỹ nữ, khắp nơi đều có chợ quán. Trong các chợ này, Thiên tử và Thiên nữ tới lui mua bán, thương lượng đắt, rẽ, cầu xin tăng giảm, cân đong tính lường, đủ các pháp của phố chợ. Tuy làm việc này, nhưng để vui chơi, không giữ, không cho, không tâm ngã sở. Nếu nhu cầu cần lấy thứ gì thì liền có thể lấy đi, nếu tương ưng với nghề nghiệp thì tùy ý mà lấy, nếu không tương hợp với nghề nghiệp thì liền có lời nói như vậy: “Vật này quí lạ, chẳng phải là vật ta cần đến”. Chỗ ngã tư đường được trang nghiêm bằng voi, ngựa, xe, binh và các Thiên tử dừng nghỉ ở trong ấy, hoặc để bảo vệ, hoặc để vui chơi, hoặc để trang nghiêm. Đường ở giữa chợ đều làm bằng lưu ly, mịn láng đáng yêu, các báu trang nghiêm, như thảm trải nền mịn màng tuyệt diệu ở đất Bắc; rồng thú, cỏ cây đều nói như trước, cho đến đốt hương, rãi hoa, treo các thiên y cũng là như vậy, lại có cờ phướn dựng khắp nơi. Trong Đại thành cõi trời có các âm thanh thường không đoạn dứt: tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng con ốc, âm thanh Ba-na-bà, tiếng trống, tiếng Mâu-trừng-già, tiếng Hồgia (dùng lá lau vấn lại để thổi, nhạc khí người Hồ), tiếng âm nhạc. Lại có âm thanh nói: “Thiện lai, Thiện lai, nay tôi xin cúng dường thức ăn, thức uống”. Đại thành Thiện Kiến này là trú xứ của Đế Thích, lại có Thiên châu, Thiên quận, Thiên huyện, Thiên thôn, diện tích chiếm khắp cả trên núi Tu Di. Đại thành Thiện Kiến này ở hai góc Tây và Bắc của nó từ cửa ra khỏi thành cách hai mươi do tuần. Chư thiên Đao Lợi có Thiện Pháp Đường dài ba mươi do tuần, chu vi chín mươi do tuần, cao bốn mươi lăm do tuần, đều do lưu ly làm thành, đất rất mềm mịn, các báu xen lẫn đầy khắp, ví như thảm trải nền mềm mịn ở đất Bắc; nhân, phi nhân, rồng, thú, cây cỏ và các lòai hoa không gì mà không có, cũng như ngọc châu đeo tai, các báu trang nghiêm trọn đủ đầy khắp. Diệu đường Thiện Pháp cũng lại như vậy, mềm nhẵn đáng yêu, dẫm chân vào thì liền in xuống, cất chân lên thì liền trở lại như cũ, vô số sự trang nghiêm đã nói đầy đủ như trước. Diệu đường này có ba lớp thành bảo vệ bao bọc xung quanh: một là do chân kim tạo thành, hai là bạch ngân, ba là lưu ly. Mỗi một tầng ấy có ba lớp linh chuông báu, gió nhẹ thổi động phát ra âm thanh như năm phần âm nhạc, như đã nói ở trước. Âm thanh của cây Đa-la có thể làm cho chúng sinh khởi năm dục trói buộc. Chính giữa của Đường này có các trụ lớn bằng các báu sừng sững trên diệu đường, trên cùng của trụ ấy có bọc một lớp vàng lấm chấm như sương, hình cái khay và vô số vật trang nghiêm đều có đủ. Trụ lớn ở chính giữa chu vi một do tuần, đường kính một phần ba do tuần. Một rui (vuông và tròn) có mười sáu trụ, mỗi một trụ lại có mười sáu trụ vây quanh, mỗi một rui là chỗ chống giữ của hai trăm bảy mươi hai trụ. Phân các rui ấy làm ba phần, mỗi phần có bốn nghìn năm mươi hai vòng, ba phần là một vạn hai nghìn một trăm năm mươi sáu rui, tất cả đều có ba mươi hai ức sáu nghìn bốn trăm ba mươi hai trụ. Trụ này từ dưới đất lên đến gần rui khoảng chừng một phát (một nghìn tấc). Vì nghĩa này nên Thiện Pháp đường này ở giữa không trung, không thể rõ biết, cửa bốn hướng của Pháp đường: một là chánh Đông, hai là chánh Tây, ba là chánh Nam, bốn là chánh Bắc. Ngoài Thiện pháp đường này, khắp nơi đều có hồ đại báu, nước trời chứa đầy; nhà cửa, thành quách, đáy bờ đều được làm bằng gạch bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, bốn bên của hồ ấy cũng dùng gạch báu làm đường, thềm bậc. Trong mỗi một hồ có vô lượng hoa do năm báu: vàng, bạc, lưu ly, pha-lê-kha, khalê-đa làm thành. Trong các hồ này có thuyền bốn báu bồng bềnh trong đó, lại có đủ tám loại khí cụ thủy hý: một là nhảy vào lầu nước, hai là dùng nước bảy báu nhuần đượm rưới lên thân, ba là dùng khí cụ chặn nước để tạo ra âm nhạc, bốn là lấy nước bắn tung tóe để vui đùa, năm là bánh xe nước, sáu là nhà nổi, bảy là bánh xe chim báu, tám là lầu dây tơ tự quấn quanh và đong đưa, trong đó chư Thiên nam, nữ chèo thuyền du hý. Lúc ấy thuyền báu tùy theo ý muốn mà nhanh hay chậm. Các hoa trong hư không tự nhiên tụ đến trang nghiêm thân trời, cho đến có nhiều cung điện chư thiên thảy đều biến khắp cũng là như vậy. Ngoài Thiện Pháp Đường này có vườn rừng lớn, có thành vàng vây quanh, chu vi một nghìn do tuần. Cửa thành này cao hai do tuần, thành thấp ở trên cao nửa do tuần. Cửa thành này cao hai do tuần, rộng mười hai do tuần. Mỗi một cửa có chín mươi chín cửa và một cửa nhỏ. Các cửa này do các báu làm thành, trang nghiêm bằng diệu bảo Ma-ni, ví như đất Bắc mềm mịn, tốt tuyệt đẹp như thảm, vô số vật khắc chạm trang sức. Cửa này lại có bốn quân phòng vệ như đã nói trên. Bảy lớp hàng rào bằng cây báu ở ngoài cũng nói như trên. Bảy lớp rừng cây Đa-la vây quanh cũng nói như trên. Chính giữa cây ấy có các hồ báu có vô số vật trang nghiêm cũng nói như trên. Năm loại hoa báu cũng nói như trên và thuyền bốn báu cũng nói như trên; bờ của hồ và năm loại cây báu cũng nói như trên, cho đến cung điện bốn trú là chỗ trú của chư Thiên nam nữ. Bên ngoài thành có ba lớp hào báu cũng nói như trên. Mỗi một hào rộng hai do tuần, sâu một do tuần rưỡi, hình như miệng bình, dưới rộng trên hẹp, nước trời tràn đầy cũng nói như trên. Giữa hào này có các thể nữ, cung điện bày khắp. Ngoài ba lớp hào có rừng cây bảy báu vây quanh cũng nói như trên. Lúc ấy, trong rừng phía ngoài, tất cả các hoa nở rộ tươi đẹp, các Thiên nữ ca tấu âm nhạc. Lúc ấy, các Thiên tử từ ngoài pháp đường đi vào trong vườn này cùng lắng nghe và ngắm nhìn. Thiên tử trong đó lúc tấu âm nhạc, các Thiên nữ cũng từ Thiện pháp đường đi ra vườn lắng nghe và nhìn ngắm. Vì vậy mà chư Thiên nam, nữ thường thọ vui đùa. Từ cửa phía Tây Bắc Đại thành ấy đến cửa Thiện pháp đường cách hai mươi do tuần, rộng mười do tuần, đất ở đó bằng láng và do lưu ly làm thành, mềm mịn đáng yêu, các báu trang nghiêm, giống như đất Bắc tuyệt đẹp mềm mịn như thảm; nhân và phi nhân, voi, ngựa, hoa, cây, nhiều loại đầy đủ, lại như vòng đeo tai do các báu hợp thành. Đường đi ở đó cũng vậy, chân dẫm lên liền in dấu, cất chân lên thì liền trở lại như cũ, như bông Đâu-la và bông làm bằng cây, đường ấy mềm mịn cũng lại như vậy. Có ba loại thành bảo vệ bao bọc xung quanh rất trang nghiêm, mỗi một lớp đều do bốn báu tạo thành, mỗi một lớp ấy đều có ba tầng linh báu vây quanh, mỗi một linh báu đều do bốn báu tạo thành, gió nhẹ thổi động, phát ra âm thanh có thể làm cho Chư thiên khởi lên năm dục ràng buộc. Hai bên đường này có hai con sông tên là Trường Hình, dài hai mươi do-tuần, rộng mười do-tuần, nước tám công đức tự nhiên tràn đầy. Hai bên sông ấy đều do gạch bốn báu kiến tạo cảnh quan, ngoài ra cũng đều nói như trên. Bốn bên sông ấy đều có đường và bậc thềm bốn báu cũng nói như trên. Trong sông này cũng có hoa năm báu, cũng nói như trên. Có thuyền bốn báu bồng bềnh trong đó, đủ tám khí cụ trò chơi nước, chèo thuyền du hý, nhanh chậm tùy theo ý muốn đều nói như trên. Chư thiên trong đó nếu cần hoa nào thì liền tùy theo ý hoa ấy sẽ đến. Nhờ quả báo thiện nên mưa xuống các hoa báu rãi khắp chư thiên. Lại có gió khác thổi các vòng hoa đến, tùy theo chỗ cần của các phần thân Chư thiên mà trang nghiêm: thân, tay, đầu, chân tự nhiên được tùy ý mang vòng hoa vào. Phía ngoài hai bờ sông có cây năm loại báu, khắp nơi thẳng tắp cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy có các hồ báu và cung điện báu, chư thiên nam nữ trú ở trong đó, vô lượng và vô số nhiều khắp, lúc ấy chư thiên Đao Lợi muốn vào vườn này. Thiện Pháp đường ấy có ngọn gió tên là Hợp Tụ, vì có thể tụ hội nên có thể thổi hoa khiến cho ra ngoài, đất ở đó sạch sẽ, lại không có hoa héo. Lại có ngọn gió khác tên là Thế Đao thổi vào khu vườn rừng phía ngoài và hái các hoa tươi ở ao hồ, hoa có các màu là xanh, vàng, đỏ, trắng. Hái hoa xong rồi, lúc đó gió Hợp Tụ tụ hợp các hoa này vào trong Thiện Pháp đường, bày khắp trên đất chỗ ấy và tạo ra các hình tượng, hoặc hiện ra hình cây tích trượng vàng bạc, hoặc hiện ra hình hoa sen , hoặc hiện ra hình tấm thảm, hoặc hình con dê sữa, hoặc hình sư tử hý, hoặc hiện hình tượng: voi, ngựa, xe, bộ binh…, hoặc hiện ra hình các thú vật: nai… hoặc hiện ra Long mã Ca-lâu. Theo thứ tự này mà hiện vòng khắp đất Thiện Pháp đường, hoa dày đến gối, trang nghiêm đầy đủ. Lúc ấy chư thiên vây quanh Đế Thích, lấy sự cung kính làm đầu, vào trong vườn này. Hai bên trụ trong cùng của Thiện Pháp Đường có tòa sư tử, Thích Đề Hoàn Nhơn ngồi trên tòa này, hai bên tả hữu mỗi một bên có mười sáu Thiên Vương ngồi thành hàng. Ngoài ra Chư thiên khác tùy theo phẩm vị cao thấp của mình mà ngồi tuần tự. Lúc ấy, Trời Đế Thích có hai thái tử: một người tên là Chiên Đàn một người tên là Tu-tỳ-la. Trời Đao Lợi này có hai đại tướng quân ở tại tầng trời Ba mươi ba, ngồi hai bên. Lúc ấy Thiên Vương Đề-đầu-lại-tra người ngồi ở cửa Đông cùng các đại thần và quân chúng cung kính Chư thiên được vào trong ngồi. Thiên Vương Tỳ-lưu-lặc-xoa ngồi ở cửa phía Nam cùng với các đại thần và quân chúng cung kính chư thiên được ngồi vào trong. Thiên Vương Tỳ-lưu-bát-xoa ngồi ở cửa Tây cùng với các đại thần và quân chúng cung kính Chư thiên được ngồi vào trong. Thiên vương Tỳ sa môn ngồi ở cửa Bắc cùng với các đại thần và quân chúng cung kính chư thiên được ngồi vào trong.Tứ thiên Vương này ở trong Thiện Pháp đường tấu cho trời Đế Thích và Đao Lợi nghe về việc thiện, ác của thế gian.
Lúc ấy, Thế Tôn nói việc như vậy: “Này Tỳ-kheo! Ngày mồng tám mỗi tháng, Tứ Thiên Vương cùng với đại thần này đi khắp thế gian, tuần tự quán sát. Ở trong ngày này, hoặc nhiều, hoặc ít, tất cả mọi người thọ trì tám giới, hoặc nhiều hoặc ít đều hành bố thí, hoặc nhiều hoặc ít tu hành phước đức, hoặc nhiều hoặc ít cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bàla-môn, bậc tôn trưởng trong nhà.
Này Tỳ kheo! Ngày mười bốn mỗi tháng Tứ Thiên Vương cùng Thái tử đi khắp thế gian tuần tự quán sát. Ở trong ngày này, hoặc nhiều, hoặc ít, tất cả mọi người thọ trì tám giới, hoặc nhiều, hoặc ít đều hành bố thí, hoặc nhiều, hoặc ít tu hành phước đức, hoặc nhiều, hoặc ít cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, bậc tôn trưởng trong nhà. Này Tỳ kheo! Ngày rằm mỗi tháng lúc ấy Tứ Thiên Vương tự một mình đi khắp thế gian, tuần tự quán sát. Ở trong ngày này hoặc nhiều, hoặc ít, tất cả mọi người thọ trì tám giới, hoặc nhiều, hoặc ít đều hành bố thí, hoặc nhiều, hoặc ít tu hành phước đức, hoặc nhiều, hoặc ít cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, bậc tôn trưởng trong nhà. Những ngày hắc bán (23, 29, 30) trong tháng cũng vậy.
Này Tỳ-kheo! Nếu lúc ấy không có nhiều người thọ trì tám giới, hoặc không có nhiều người tu hành bố thí, hoặc không có nhiều người tu hành phước đức, hoặc không có nhiều người cung kính cha mẹ, Samôn, Bà-la-môn và tôn trưởng trong nhà. Này Tỳ-kheo! Lúc trời Đao Lợi ngồi ngay ngắn trên Thiện pháp đường thì Tứ Thiên Vương đến chỗ Pháp đường ấy thăm hỏi Đế Thích, và trình bày về các việc thế gian. Họ bạch rằng:”Bạch Thiện Tôn! Ở thế gian không có nhiều người thọ trì tám giới, không có nhiều người tu hành bố thí, không có nhiều người cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và bậc tôn trưởng trong nhà”. Lúc chư thiên Đao Lợi và Thích Đề Hoàn Nhơn nghe việc này rồi, sinh lòng buồn rầu và nói như vậy: “Việc này chẳng thiện, việc này chẳng như pháp”. Nếu mọi người không thọ tám giới, không có nhiều người hành bố thí, không nhiều người tu hành phước hạnh, không có nhiều người cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và bậc tôn trưởng trong nhà thì quyến thuộc chư thiên ngày càng ít dần, bè đảng Tu-la ngày càng tăng lên. Này Tỳ-kheo! Nếu có người thọ trì tám giới, nhiều người tu hành bố thí, nhiều người tu phước đức, nhiều người cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và bậc tôn trưởng trong nhà thì lúc đó Tứ Thiên Vương đến chỗ pháp đường thăm hỏi Đế Thích và nói về việc thế gian. Họ thưa rằng:”Bạch Thiện Tôn! Có rất nhiều người thọ trì tám giới, nhiều người tu hành bố thí, nhiều người tu hành phước hạnh, nhiều người cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và bậc tôn trưởng trong nhà. Lúc Trời Đao Lợi nghe Tứ Thiên Vương nói liền sinh lòng hoan hỷ, nói như vậy: “Việc này quá tốt, việc này như pháp”. Nếu có nhiều người thọ trì tám giới, nhiều người tu hành bố thí, nhiều người tu hành phước hạnh, nhiều người cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và bậc tôn trưởng trong nhà thì quyến thuộc chư thiên ngày càng nhiều lên, bè đảng Tu-la ngày càng ít đi.
Này Tỳ kheo! Lúc ấy, Thích Đề Hoàn Nhơn ngồi xuống chỗ của mình, chỗ ngồi của trời này ở ngay chính giữa, tùy theo tâm của trời mà khiến cho họ được hoan hỷ và nói kệ:
Mỗi tháng có các ngày:
Mồng tám và mười bốn,
Mười lăm và hai ba,
Hai chín và ba mươi.
Mười lăm ba thời chay,
Thọ trì tám phần giới,
Sữa tâm thâu nhiếp tĩnh,
Hoặc thọ trì bố tát
Người này tu bảy pháp
Tương lai sẽ như ta.
Này Tỳ-kheo! Kệ của Thích Đề Hoàn Nhơn này là tà ca chứ chẳng phải là thiện-ca, là tà ngôn chứ chẳng phải thiện ngôn. Vì sao như vậy? Vì Thích Đề Hoàn Nhơn này chưa giải thoát sinh, chưa giải thoát lão, chưa giải thoát tử, chưa giải thoát ưu, chưa giải thoát bi, chưa giải thoát khổ, chưa giải thoát não, chưa giải thoát ngũ ấm. Này Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo thành A-la-hán, diệt tận các lậu, tu đạo rốt ráo, chánh trí giải thoát, hết kiết sử các cõi , Tỳ-kheo như vậy nếu nói kệ này là nói thiện ngôn:
Mỗi tháng có các ngày:
Mồng tám và mười bốn,
Mười lăm và hai ba,
Hai chín và ba mươi.
Mười lăm chay ba thời
Thọ trì tám phần giới,
Sữa tâm thâu nhiếp tĩnh.
Hoặc thọ trì bố tát,
Người này tu bảy pháp
Tương lai sẽ như ta.
Này Tỳ-kheo! Kệ Tỳ-kheo này mới là thiện ca, chẳng phải tà-ca, mới là thiện ngôn, chẳng phải tà ngôn. Vì sao như vậy? Tỳ-kheo này đã giải thoát sinh, đã giải thoát lão, đã giải thoát tử, đã giải thoát ưu, đã giải thoát bi, đã giải thoát khổ, đã giải thoát não, đã giải thoát ngũ ấm, liền nói kệ rằng:
Tứ vương, đại thần này,
Mồng tám tuần thiên hạ.
Thái tử Tứ Thiên Vương,
Mười bốn xem thế gian.
Tốt nhất ngày mười lăm.
Tứ Vương thích tiếng thơm.
Nên tự hành thế gian,
Quán sát các thiện ác.
Lúc ấy Tứ Thiên Vương,
Lên chỗ Thiện pháp đường,
Nơi Chư thiên tụ hội,
Tấu trình các thiện, ác.
Ý người thế gian này,
Tương ưng với đạo pháp.
Thiện Tôn! Có nhiều người,
Hành thí thọ bố tát,
Theo chân thường tu thiện,
Nam, nữ thêm phước thiện.
Lúc ấy trời Đao Lợi,
Tin nhận rất hoan hỷ,
Luôn luôn sinh tùy hỷ,
Tứ Đại Vương khéo nói.
Vui quyến thuộc chư thiên,
Càng ngày càng nhiều thêm,
Mong bè đảng Tu-la
Càng ngày càng giảm đi
Tùy nhớ niệm Chánh giác
Thuyết Thánh chúng chánh pháp
Chư thiên trú an vui,
Tâm thường sinh hoan hỷ.
Quả thế, xuất thế gian
Nhân đạo có thể đắc.
Nếu nương Phật Pháp Tăng,
Trú nơi cảnh Tam Bảo.
Nay Ta sẽ vì các ngươi
Nói thiện đạo Tam hiền:
Nếu người cầu chân thật,
Bỏ ác tu hành thiện
Không ích lợi như trên,
Do ít thâu được nhiều.
Như các trời Đao Lợi
Hành ít thiện sinh Thiên.
Đế Thích cùng chư thiên
Tiếng thơm, đại phước đức
Tụ tập Thiện pháp đường
Cùng các trú xứ khác
Nam nữ hành thiện tốt
Nghe tứ vương tấu trình
Thanh tịnh, Trời yêu thích
Huân tập khắp chư thiên.
Các Thiên tử này có các hình sắc không đồng, y phục cũng khác, các báu trang nghiêm vô số khác biệt. Trong Thiện Pháp Đường, hoa báu bốn sắc, hoa và người sáng tỏa, chiếu nhau rực rỡ, ví như các báu đầy khắp trong nhà báu. Thiện pháp đường ấy đáng yêu như vậy. Vì sao cung đường này gọi là Thiện pháp? Vì trong đó chư thiên …. tụ tập, nhiều người khen ngợi Phật, khen ngợi Pháp, khen ngợi Tăng, phân biệt việc tà chánh thế gian, tuyên nói vô số đạo xuất thế ở các nơi: Như vườn v.v… không đâu có những việc như vậy, nên gọi chốn này là thiện pháp. Việc này Đức Thế Tôn nói, tôi đã nghe như vậy.
LUẬN LẬP THẾ A TỲ ĐÀM
QUYỂN 3
Phẩm 9: VƯỜN HOAN HỶ
Phía ngoài cửa Bắc Đại thành Thiện kiến cách cõi trời Đao lợi có một vườn rừng lớn tên là Hoan Hỷ. Trong đó có hồ cũng tên là Hoan Hỷ, vuông một trăm do tuần, sâu cũng như vậy, nước trời tràn đầy, thành quách, đáy bờ làm bằng gạch bốn báu, ngoài ra cũng nói như trên; bốn bên là thềm báu cũng nói như trên; năm loại hoa báu cũng nói như trên. Bốn loại thuyền báu và tám loại vui chơi, tùy theo ý muốn mà thuyền đi nhanh hay chậm. Trong đó, nếu chư thiên cần đến hoa nào thì tùy theo ý niệm mà hoa sẽ đến, nhờ quả báu thiện nên mưa các hoa báu, rãi khắp Chư thiên .
Lại có gió riêng thổi các vòng hoa, tùy theo chỗ cần mà trang nghiêm các phần: thân, tay, đầu, chân, tùy theo mỗi người mà tự nhiên được mang vào. Bờ của hồ này có năm loại cây báu khắp nơi thẳng tắp, ngoài ra cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy và cung điện các báu có chư thiên nam, nữ ở đầy khắp trong đó, đã nói đầy đủ như trên. Trong vườn có cây tên là Hoan Hỷ. Hoa của cây ấy tên là Mạn-đà-la, hình dạng của nó cỡ như bánh xe lớn, tướng mạo và màu sắc của nó như ánh lửa, hoa này có trọng lượng như hoa ở trong cõi người. Cây Hoan Hỷ chỉ có trong vườn này, còn chỗ khác đều không có. Chu vi vườn này là một nghìn do-tuần, đường kính là ba trăm ba mươi ba và một phần ba do-tuần, có thành vàng vây quanh, thành này cao một do-tuần, thành thấp ở trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi, trong mười hai do-tuần có mỗi một cửa, có chín mươi chín cửa và một cửa nhỏ, tất cả là một trăm. Các cửa này do các báu làm thành, trang nghiêm bằng diệu bảo Ma-ni, ví như thảm trải nền dệt bằng bông tuyệt đẹp của đất Bắc, có vô số vật khắc chạm. Cửa này lại có bốn quân phòng vệ đều nói như trên. Hàng rào cây báu bảy lớp bên ngoài cũng nói như trên. Bảy lớp rừng cây Đa-la cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy có hồ các báu cách nhau một trăm cung (một cung là năm thước), vô số sự trang nghiêm cũng nói như trên. Năm loại hoa báu cũng nói như trên, thuyền bốn báu cũng nói như trên. Năm loại cây báu ở bờ hồ cũng nói như trên, cho đến cung điện bốn báu là chỗ trú của Chư thiên nam, nữ. Bên ngoài thành này có ba lớp hào báu cũng nói như trên. Mỗi một hào ấy rộng hai do-tuần, sâu một do-tuần rưỡi, hình như miệng bình, dưới rộng hơn trên, nước trời tràn đầy đều nói như trên. Ở giữa hào ấy có các cung điện thể nữ bày khắp. Ngoài ba lớp hào có rừng cây bảy báu vây quanh cũng nói như trên. Lúc ấy trong rừng phía ngoài, tất cả các hoa nở rộ tốt tươi. Lúc các Thiên nữ… tấu ca âm nhạc, các Thiên tử từ vườn Hoan Hỷ đi ra rừng lắng nghe và nhìn ngắm. Các Thiên tử ở trong rừng phía ngoài tấu ca âm nhạc, các Thiên nữ ở trong vườn cũng đi ra rừng lắng nghe. Thiên nữ ở trong vườn lại tấu âm nhạc, các Thiên tử bên ngoài đi vào vườn lắng nghe và ngắm nhìn. Thiên tử trong vườn cũng tấu âm nhạc, Thiên nữ ngoài vườn cũng đi vào vườn lắng nghe. Vì nguyên nhân này mà họ có nhiều sự vui chơi. Từ cửa Bắc Đại thành Thiện Kiến đến cửa Nam vườn Hoan Hỷ có đường ở giữa dài hai mươi do tuần, rộng mười do-tuần, đất làm bằng lưu ly, bằng phẳng mịn láng, các báu trang nghiêm, ví như thảm trải nền được dệt bằng lông tuyệt đẹp ở phía Bắc. Nhân, phi nhân, voi, chim, thú, cỏ cây, vô số các loại đều đầy đủ, cũng như các báu trang sức lộng lẫy hợp thành. Hình dạng đường ấy cũng như vậy, lúc chân dẫm vào thì in dấu, cất chân lên thì liền trở lại như cũ, như bông Đâu la, bông gỗ cây. Đường ấy êm láng lại cũng như vậy, có ba lớp thành bao bọc bảo vệ rất trang nghiêm, mỗi lớp thành do bốn báu làm thành, mỗi một lớp có ba tầng linh báu vây quanh. Mỗi một linh báu do bốn báu làm thành, lúc gió nhẹ thổi lay động, nó có thể phát ra âm thanh làm cho chư thiên khởi năm dục ràng buộc. Hai bên con đường ấy có hai con sông tên là Trường Hình cũng dài hai mươi do tuần, rộng mười do tuần, nước tám công đức tự nhiên tràn đầy. Hai bên sông ấy đều được kiến tạo bằng gạch bốn báu, ngoài ra cũng nói như trước. Bốn bên sông ấy có đường, bậc thềm bốn báu cũng nói như trước. Trong sông này có năm loại hoa báu cũng nói như trước; có bốn loại thuyền báu bồng bềnh trong đó; có tám loại trò chơi nước, chèo thuyền dạo chơi trong đó, nhanh hay chậm đều theo ý muốn, cũng đều nói như trên. Chư thiên trong đó cần hái hoa nào thì liền tùy ý hoa đó sẽ đến, nhờ quả báo thiện nên mưa các hoa báu tung rãi khắp chư thiên. Lại có ngọn gió khác thổi các vòng hoa đến, tùy theo chỗ cần của từng phần thân, tay, đầu, chân, mà được trang nghiêm, đều tùy theo mỗi người mà tự nhiên được mang vòng hoa vào. Bờ bên ngoài của hai con sông này có năm loại cây báu rất nhiều cùng khắp, thẳng tắp, ngoài ra cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy có hồ các báu và cung điện báu, chư thiên nam nữ đều ở trong đó, vô lượng thiên chúng ở khắp quốc độ. Vì sao gọi khu vườn này là Hoan Hỷ? Vì hồ lớn của vườn này tên là Hoan Hỷ, vườn này có cây cũng gọi là Hoan hỷ, hoa của vườn này gọi là Mạn-đà-la. Ba loại này chỉ có vườn này mới có, ngoài vườn này ra thì không nơi nào có. Lại vì nhân duyên gì mà gọi là Hoan Hỷ? Vì lúc chư thiên Đao Lợi vào khu vườn này thì liền sanh tâm hoan hỷ, nhận được nhiều sự vui chơi và an vui nhất nên gọi là Hoan Hỷ. Nghĩa này Đức Thế Tôn nói, tôi nghe như vậy.
Phẩm 10: VƯỜN CHÚNG XA
Ngoài cổng cửa Đông của đại thành Thiện kiến cách hai mươi dotuần chư thiên Đao Lợi có một khu vườn tên là Chúng Xa. Hồ lớn trong vườn này gọi là Chất-đa-la, vuông một trăm do-tuần, sâu cũng như vậy, nước trời tràn đầy, thành quách và bờ đáy được làm bằng gạch bốn báu cũng nói như trên. Đường và bực thềm bốn báu, năm loại hoa báu cũng nói như trên. Bốn loại thuyền báu và tám trò chơi nước, trong đó chư thiên cần hái hoa gì thì tùy theo ý muốn mà tự đến. Do quả báo thiện nên mưa các hoa báu tung rãi khắp chư thiên. Lại có gió riêng biệt thổi các vòng hoa, tùy theo chỗ cần của từng phần thân: thân, tay, đầu, chân của chư thiên mà được trang nghiêm, tùy theo mỗi người mà tự nhiên được mang vòng hoa vào. Bờ của hồ ấy có năm loại cây báu thẳng tắp, đầy khắp, ngoài ra cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy và cung điện các báu có đông đảo chư thiên nam nữ dừng nghỉ trong đó cũng nói đầy đủ như trên. Chu vi vườn này là một nghìn do-tuần, đường kính một phần ba chu vi, có thành vàng vây quanh, thành này cao một do-tuần, thành thấp ở phía trên thành này cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi, trong hai mươi do tuần một có một cửa, tất cả là chín mươi chín cửa và một cửa nhỏ là một trăm cửa. Các cửa thành này do các báu làm thành, được trang nghiêm bằng diệu bảo Ma-ni, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc, vô số hình khắc chạm. Thành này lại có bốn quân phòng vệ đều nói như trên. Hàng rào bằng cây báu bảy lớp bên ngoài cũng nói như trên. Rừng cây Đa-la bảy lớp vây quanh cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy có hồ các báu cách nhau một trăm cung (một cung là năm thước), vô số sự trang nghiêm cũng nói như trên. Hoa báu năm loại cũng nói như trước, và thuyền bốn báu cũng nói như trước. Hai bên bờ hồ là năm loại cây báu cũng nói như trước và cung điện bốn báu là chỗ ở của chư thiên nam nữ. Bên ngoài thành có ba lớp hào báu, ngoài ra cũng nói như trên. Mỗi một hào ấy rộng hai do-tuần, sâu một do-tuần rưỡi, hình như miệng bình, dưới rộng trên hẹp, nước trời tràn đầy đều nói như trên. Trong khoảng hào này có cung điện các thể nữ bày khắp. Ngoài ba lớp hào có rừng cây bảy báu vây quanh cũng nói như trên. Trong khu rừng bên ngoài này, tất cả hoa nở rộ xinh tươi. Lúc các Thiên nữ ca tấu âm nhạc, các Thiên tử từ vườn Chúng Xa này đi ra rừng lắng nghe. Các Thiên tử ở trong rừng phía ngoài này ca tấu âm nhạc thì các Thiên nữ ở trong vườn cũng đi ra lắng nghe. Thiên nữ trong vườn lại tấu âm nhạc, các Thiên tử bên ngoài đi vào vườn để lắng nghe. Thiên tử trong vườn cũng tấu âm nhạc, các Thiên nữ bên ngoài cũng đi vào vườn lắng nghe. Do nhân duyên này nên họ có được nhiều sự vui chơi. Từ cửa Đông của đại thành Thiện Kiến đến cửa Tây của vườn Chúng Xa có con đường ở chính giữ dài hai mươi do tuần, rộng mười do-tuần, đất được làm bằng lưu ly, bằng phẳng, mịn láng và được trang nghiêm bằng các báu, như thảm trải nền dệt bằng thảm bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc. Nhân, phi nhân, voi, chim thú, cây cỏ, đầy đủ mọi thứ, cũng như vòng tai ngọc châu các báu làm thành. Hình dạng đường ấy cũng lại như vậy, lúc chân giẫm vào thì in xuống, lúc cất chân lên thì trở lại như cũ, như bông Đâu-la và bông gỗ cây, đường ấy láng mịn cũng như vậy. Có ba loại thành bao bọc bảo vệ trang nghiêm, mỗi một lớp do bốn báu làm thành, mỗi một lớp thành bảo vệ có ba tầng linh báu vây quanh. Mỗi một linh báu do bốn báu làm nên, lúc gió nhẹ thổi đến sẽ lay động và phát ra âm thanh có thể làm cho chư thiên khởi năm dục ràng buộc. Hai bên đường này có hai con sông tên là Trường Hình, cũng dài hai mươi do-tuần, rộng mười do-tuần, nước tám công đức tự nhiên tràn đầy. Hai bên sông ấy đều được kiến tạo bằng gạch bốn báu, ngoài ra cũng nói như trên. Bốn bên sông ấy có đường và bậc thềm bốn báu cũng nói như trên. Trong sông này có năm loại hoa báu cũng nói như trên. Bốn loại thuyền báu bồng bềnh trong đó, có tám trò chơi nước, chèo thuyền dạo chơi, nhanh chậm tùy ý đều đã nói như trên. Chư thiên trong ấy cần đến hoa gì thì hoa đó tùy ý mà đến tay, nhờ quả báo thiện nên mưa xuống hoa báu rãi khắp chư thiên. Lại có gió riêng biệt thổi các vòng hoa đến, tùy theo chỗ cần trang nghiêm các phần thân: thân, tay, đầu, chân mà tự nhiên được mang vòng hoa vào. Bờ bên ngoài của hai sông có năm loại cây báu thẳng tắp, cùng khắp, ngoài ra cũng nói như trước. Ở giữa cây ấy có hồ các báu và cung điện báu, chư thiên nam nữ đều ở trong đó, vô lượng thiên chúng cùng khắp quốc độ. Tại sao khu vườn này gọi là Chúng Xa? Vì trong đó có hồ lớn tên là Chất-đa-la, trong đó có cây cũng có tên là Chất-đa-la. Cây này sinh ra vô số hoa, chỉ có vườn này mới có, ngoài vườn này thì không thể có. Lại có nhân duyên gọi là Chất-đa-la là: lúc Chư thiên Đao Lợi vào trong vườn này thì được mang vào vô số vật báu, trang nghiêm thân ấy, rất là vi diệu, mang nhiều gậy giáo như lúc lâm chiến, cưỡi số xe vào rừng vườn này. Lúc ở trong vườn này và lúc muốn ra, hái vô số diệu hoa cây Chất-đala để trang nghiêm xe, hai bên càng xe lớn, vành và thanh gỗ xuyên trục hai bánh trang sức đầy đủ. Tất cả các cỗ xe đều như vậy. Hoa cây Chất-đa-la này và thân trời an vui, các cỗ xe báu phát ra ánh sáng cùng chiếu lẫn nhau. Vì nhân duyên này nên trong vườn vi diệu này có vô số ánh sáng hội tụ trong đây. Do nghĩa này nên gọi là vườn Chúng Xa, lại có yếu tố tự nhiên gọi là vườn Chúng Xa. Nghĩa này Đức Thế Tôn đã nói, tôi nghe như vậy.
Phẩm 11: VƯỜN ÁC KHẨU
Ngoài cổng cửa Nam của Đại thành Thiện Kiến cách hai mươi do tuần, Chư thiên Đao Lợi có một khu vườn tên là Ác khẩu hồ lớn trong vườn cũng tên là Ác Khẩu vuông một trăm do tuần, sâu cũng như trên, nước trời tràn đầy. Thành lũy và bờ đáy làm bằng gạch bốn báu, ngoài ra cũng nói như trên; có đường và bực thềm bốn báu, năm loại hoa báu cũng nói như trên; bốn loại thuyền báu và tám trò chơi nước. Trong đó, lúc chư thiên cần đến hoa nào thì tùy ý hoa ấy sẽ đến, vì do quả báo thiện nên mưa xuống các hoa báu rãi khắp chư thiên. Lại có ngọn gió riêng biệt thổi các vòng hoa đến, tùy theo chỗ cần trang nghiêm các phần thân: thân, đầu, chân, tay của chư thiên thì liền tự nhiên tùy ý được mang các vòng hoa vào. Bờ của hồ này có năm loại cây báu thẳng tắp, cùng khắp, ngoài ra cũng nói như trước. Ở giữa cây ấy và cung điện các báu là trú xứ của chư thiên nam nữ dừng nghỉ đông đảo như đã nói như trên. Chu vi của vườn này là một nghìn do-tuần, đường kính bằng một phần ba, có thành vàng bao bọc xung quanh. Thành cao một do-tuần, bức thành thấp ở trên thành này cao nửa do -tuần, cửa thành cao hai dotuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi, cứ mỗi mười do-tuần có một cửa, cả thảy chín mươi chín cửa và một cửa chân nhỏ là một trăm cửa. Các cửa này do các báu làm thành, và được trang nghiêm bằng diệu bảo Ma-ni, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc và vô số hình điêu khắc. Cửa này có bốn quân phòng hộ cũng nói như trên. Hàng rào cây báu bảy lớp bên ngoài cũng nói như trên. Rừng cây Đa-la bảy lớp vây quanh cũng nói như trên. Ở giữa rừng cây ấy có hồ các báu, các hồ cách nhau một trăm cung (một cung năm thước) và vô số sự trang nghiêm cũng nói như trên thuyền bốn báu cũng nói như trên. Bờ hồ có năm loại cây báu cũng nói như trên, cho đến cung điện bốn báu là chỗ trú của chư thiên nam, nữ. Bên ngoài thành này có ba lớp hào báu, ngoài ra cũng nói như trên. Mỗi một hào ấy rộng hai do-tuần, sâu một do-tuần rưỡi, hình như miệng bình, trên hẹp, dưới rộng, nước trời tràn đầy cũng đều nói như trên. Trong khoảng hào này có la liệt các cung điện của các thể nữ. Ngoài ba lớp hào này có rừng cây bảy báu vây quanh cũng nói như trên. Lúc ấy trong rừng phía ngoài, tất cả các hoa nở rộ tươi đẹp. Lúc các Thiên nữ… tấu ca âm nhạc thì các Thiên tử từ vườn Ác khẩu đi ra rừng lắng nghe. Lúc các Thiên tử ở bên ngoài tấu ca âm nhạc thì các Thiên nữ ở trong vườn cũng đi ra lắng nghe. Thiên nữ trong vườn tấu ca âm nhạc thì Thiên tử bên ngoài đi vào vườn lắng nghe. Thiên tử trong vườn tấu âm nhạc thì các Thiên nữ ở ngoài rừng cũng đi vào vườn lắng nghe. Vì nhân duyên này nên họ được nhiều sự vui chơi. Ở giữa từ cửa phía nam Đại thành Thiện Kiến đến cửa Bắc rừng Ác Khẩu có một con đường dài hai mươi do tuần, rộng mười do tuần, đất ở đây đều do lưu ly làm thành, bằng láng và êm mịn, trang nghiêm bằng các báu, ví như thảm trãi nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc. Nhân, phi nhân, voi, chim, thú, cỏ cây, vô số các loài đều đầy đủ, cũng như vòng đeo tai ngọc châu, các báu làm thành. Hình dáng đường này cũng lại như vậy, lúc chân dẫm vào thì liền in xuống, lúc cất chân lên thì liền trở lại như cũ, như bông Đâu-la và bông bằng gỗ cây, đường ấy mịn bằng láng, êm mịn cũng như vậy. Đường này được trang sức bằng ba lớp rào bọc bảo vệ xung quanh, mỗi một lớp đều do bốn báu làm thành, mỗi lớp có ba tầng linh báu vây quanh. Mỗi linh báu do bốn báu tạo thành, lúc gió nhẹ thổi đến, linh báu lay động phát ra âm thanh có thể làm cho chư thiên khởi năm dục ràng buộc. Hai bên con đường này có hai con sông chạy dọc theo, tên là Trường Hình, dài hai mươi do-tuần, rộng mười do tuần, nước tám công đức tự nhiên tràn đầy. Hai bên sông ấy đều được kiến tạo bằng gạch bốn báu, ngoài ra cũng nói như trước. Bốn mặt sông này đều có đường và thềm bực bốn báu cũng nói như trước. Trong sông này có năm loại hoa báu cũng nói như trước. Có bốn loại thuyền báu bồng bềnh trong đó, có tám loại trò chơi nước, chèo thuyền dạo chơi, nhanh chậm tùy ý đều nói như trên. Chư thiên trong đó cần đến hoa nào thì hoa đó liền tùy ý mà đến, do quả báo thiện nên mưa xuống hoa các báu rãi khắp chư thiên. Lại có ngọn gió khác thổi các vòng hoa, tùy theo chỗ cần trang nghiêm các phần thân: thân, tay, đầu, chân của chư thiên, tự nhiên tùy ý mang vòng hoa vào. Bờ bên ngoài của hai con sông có năm loại cây báu bày khắp nơi, ngoài ra cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy có hồ các báu và cung điện báu, chư thiên nam, nữ đều ở trong đó, vô lượng đại chúng đầy khắp quốc độ. Vì sao gọi vườn này là Ác khẩu, vườn này có hồ lớn cũng tên là Ác khẩu, trong đó có cây cũng tên là Ác khẩu, cây ấy có hoa cũng tên là Ác Khẩu? Vì chỉ có vườn này mới có, ngoài ra chỗ khác không có. Lại có nguyên nhân khác gọi là Ác Khẩu: Lúc chư thiên Đao Lợi vào vườn này làm việc đấu tranh, tỉnh táo suy nghĩ: “Nay chúng ta đi đến chỗ kia công kích, đấu tranh với Tu-la. Lại có sự đố kỵ đây, kia lẫn nhau, tham đắm năm dục, tranh việc trước sau”. Do việc này nên nói các lời ác, cho nên nơi này gọi là Ác khẩu, lại có yếu tố tự nhiên gọi là Ác Khẩu. Nghĩa này Đức Thế Tôn dạy, tôi nghe như vậy.
Phẩm 12: TẠP VIÊN
Ngoài cổng của cửa Tây Đại thành Thiện Kiến đến cửa Đông Tạp Viên có con đường dài hai mươi do-tuần. Trong vườn cõi trời Đao Lợi này có hồ vuông tên là Tạp Trì, mỗi mặt rộng một trăm do tuần, sâu cũng như vậy, nước trời tràn đầy, thành quách và bờ đáy làm bằng gạch bốn báu, ngoài ra cũng nói như trên. Đường và thềm bực bốn báu, năm loại hoa báu cũng nói như trên. Bốn loại thuyền báu và tám loại trò chơi nước, trong đó chư thiên cần đến hoa nào thì liền tùy theo ý hoa đó sẽ đến. Vì quả báo thiện nên mưa xuống hoa các báu rãi khắp chư thiên. Lại có gió khác thổi các vòng hoa đến, tùy theo chỗ cần trang nghiêm các phần trên thân: thân, đầu, tay, chân của chư thiên, thì tự nhiên tùy ý mà được mang vòng hoa vào. Bờ của hồ ấy có năm loại cây báu bày khắp nơi thẳng tắp, ngoài ra cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy và cung điện các báu là chỗ dừng nghỉ của chư thiên nam nữ, cũng nói đầy đủ như trên. Chu vi vườn này là một nghìn do-tuần đường kính bằng một phần ba (chu vi), có thành vàng bao bọc xung quanh, thành này cao một do tuần, thành thấp phía trên cao nửa do tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi. Trong Mỗi mười do tuần có một cửa, tất cả chín mươi chín cửa và một cửa nhỏ, là một trăm cửa. Các cửa này do các báu làm thành, trang nghiêm bằng diệu bảo Ma-ni, ví như thảm trãi nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc và vô số hình điêu khắc. Cửa này lại có bốn quân phòng vệ đều nói như trên. Hàng rào cây báu bảy lớp phía ngoài cũng nói như trên. Rừng cây Đa-la bảy lớp vây quanh cũng nói như trên. Ở giữa các cây ấy có các hồ báu, các hồ cách nhau một trăm cung (mỗi cung năm thước)và vô số sự trang nghiêm cũng nói như trên. Trong hồ ấy có năm loại hoa báu và thuyền bốn báu, tám trò chơi nước… Bờ hồ ấy có năm loại cây báu cũng nói như trên, cho đến cung điện bốn báu là trú xứ của chư thiên nam, nữ. Bên ngoài thành này có ba lớp hào báu, ngoài ra cũng nói như trên. Mỗi một hào ấy rộng hai do tuần, sâu một do-tuần rưỡi, hình như miệng bình, trên hẹp dưới rộng, nước trời tràn đầy, cũng đều nói như trên. Trong hào ấy cũng có la liệt cung điện của các thể nữ. Ngoài ba lớp hào và rừng cây bảy báu vây quanh cũng nói như trên. Lúc ấy tất cả các hoa của rừng bên ngoài này nở rộ tươi đẹp. Lúc các Thiên nữ tấu ca âm nhạc thì các Thiên tử từ trong Tạp Viên này đi ra rừng lắng nghe. Các Thiên tử ở trong rừng bên ngoài tấu ca âm nhạc, các Thiên nữ trong vườn cũng ra rừng lắng nghe. Thiên nữ trong vườn lại tấu âm nhạc, các Thiên tử bên ngoài đi vào vườn lắng nghe. Các Thiên tử trong vườn cùng tấu âm nhạc, Thiên nữ bên ngoài đi vào vườn lắng nghe. Do nhân duyên này họ có được nhiều sự vui chơi. Ở giữa từ cửa Tây đại thành Thiện Kiến đến cửa Đông vườn Tạp Viên có con đường dài hai mươi do tuần, rộng mười do tuần, đất bằng lưu ly, bằng láng, êm mịn, trang nghiêm bằng các báu, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc. Nhân, phi nhân, voi, chim, thú, cỏ cây, đầy đủ vô số loại, cũng như các báu trang sức lộng lẫy hợp thành. Hình dạng con đường ấy cũng lại như vậy, lúc chân dẫm lên liền in xuống, lúc cất chân lên thì liền trở lại như cũ, như bông Đâu la, bông bằng thân cây. Đường ấy nhu nhuyễn cũng lại như vậy, được trang sức bằng ba loại thành bao bọc bảo vệ, mỗi một lớp đều do bốn báu làm thành, mỗi lớp có ba tầng linh báu vây quanh, mỗi linh báu đều do bốn báu làm thành. Lúc gió nhẹ thổi đến, linh báu lay động phát ra âm thanh có thể làm cho chư thiên khởi năm dục ràng buộc. Hai bên đường này có hai con sông chạy dọc theo có tên là Trường Hình, dài hai mươi do tuần, rộng mười do-tuần, nước tám công đức tự nhiên tràn đầy, hai bên sông ấy đều được kiến tạo bằng gạch bốn báu, ngoài ra cũng nói như trên. Bốn mặt sông này có đường bực thềm bốn báu cũng nói như trên. Trong sông này có năm loại hoa báu cũng nói như trên. Bốn loại thuyền báu bồng bềnh trong ấy, đủ tám loại trò chơi nước, chèo thuyền dạo chơi, nhanh chậm tùy ý đều nói như trước.
Chư thiên trong đó nếu cần đến hoa gì thì hoa đó liền tùy ý mà đến đó. Do quả báo thiện nên mưa xuống hoa các báu rãi khắp chư thiên. Lại có ngọn gió khác thổi các vòng hoa đến, tùy theo chỗ cần trang nghiêm của các phần thân: đầu, thân, chân, tay của chư thiên thì tùy ý mang vòng hoa vào một cách tự nhiên. Bờ phía ngoài của hai con sông có năm loại cây báu thẳng tắp bày khắp nơi, ngoài ra đều nói như trước. Ở giữa cây ấy có hồ các báu và cung điện các báu, chư thiên nam nữ trú ở trong đó và vô lượng thiên chúng nhiều khắp quốc độ. Tại sao vườn này gọi là Tạp Viên? Vì trong vườn này có một hồ lớn tên là Tạp Trì, cũng có cây tạp và các loại hoa, chỉ có trong vườn này mới có, ngoài ra chỗ khác thì không. Lại có nhân duyên gọi là Tạp Viên: lúc chư thiên nam nữ, cung trời Đao Lợi đến vườn này ca vũ âm nhạc và các trò đùa chơi rất là rộn ràng, lẫn lộn với nhau, ngoài ra lúc tụ tập nơi vườn, tất cả chư thiên bên ngoài không được vào, đều bị cấm tuyệt, lúc tụ tập trong vườn này không có ngăn ngại. Chư thiên đại thành và chư thiên bên ngoài vào vườn vui chơi lẫn lộn nên gọi là Tạp Viên, lại có sự tự nhiên gọi là Tạp Viên. Nghĩa này Đức Thế Tôn đã dạy, tôi nghe như vậy.
Phẩm 13: VƯỜN BA LÊ DẠ ĐA
Ngoài cửa góc Đông Bắc đại thành Thiện Kiến cách hai mười do tuần, chư thiên Đao Lợi có vườn rừng lớn tên là Ba-lê-dạ-đa. Vườn này có hồ vuông cũng gọi là Ba-lê-dạ-đa.Mỗi bề của hồ dài một trăm do- tuần, sâu cũng như vậy, nước trời tràn đầy, thành quách và bờ đáy làm bằng gạch bốn báu, ngoài ra cũng nói như trên. Đường và thềm bực bốn bên cũng nói như trước. Năm loại hoa báu cũng nói như trước. Bốn loại thuyền báu và tám trò chơi nước, chèo thuyền báu dạo chơi tùy tâm mà nhanh hay chậm. Chư thiên trong đó lúc cần đến hoa nào thì hoa ấy liền tùy ý mà đến. Do quả báo thiện nên mưa xuống hoa các báu rãi khắp chư thiên. Lại có ngọn gió khác thổi các vòng hoa đến, tùy theo chỗ cần trang nghiêm nơi các phần thân chư thiên: đầu, thân, tay, chân thì liền tùy ý mang vòng hoa vào một cách tự nhiên. Trên bờ của hồ này có năm loại cây báu bày khắp nơi thẳng tắp, ngoài ra cũng nói như trước. Ở giữa cây này và cung điện các báu là chỗ dừng nghỉ đầy khắp của chư thiên nam, nữ đều nói đầy đủ như trên. Trong vườn có cây tên là Chất-lợi-dạ-đa, cũng có tên là Câu-tỳ-đà-la. Cây này sinh trưởng tròn đầy, hình dáng đáng yêu, cành lá che nhau, nhiều lá dày đặc xanh hoài không úa, tất cả gió mưa không thể xâm tổn. Ví như vòng hoa chính được trang sức bằng các vòng hoa phụ, dùng để trang sức lộng lẫy. Hình tướng cây này đáng yêu như vậy, trên như dù lọng, tuần tự che nhau, cao một trăm do-tuần, dưới thân gốc to thẳng và đều không có đốt u sần sùi. Cành nhánh toả rộng ra bốn bên, mỗi bên toả rộng năm mươi do-tuần, bán kính thân cây rộng năm do tuần, chu vi mười lăm do tuần. Mỗi một cành ấy tỏa rộng ra năm mươi do tuần, khoảng giữa các cành độ một trăm do tuần, chu vi ba trăm do-tuần. Phía dưới có đá quý tên là Ban-trụ-kiếm-ba-la, dài năm mươi do tuần, rộng mười do tuần đều do lưu ly làm thành, mềm láng đáng yêu, trang nghiêm bằng các báu, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc và vô số hình tượng điêu khắc. Nhân, phi nhân, voi, chim, thú, cỏ cây, vô số loại đều đầy đủ, cũng như các báu trang sức lộng lẫy hợp thành. Ban-trụ-kiếmba-la này cũng như vậy, dẫm chân lên liền in xuống, cất chân lên liền trở lại như cũ, như bông Đâu-la, bông làm bằng gỗ cây hình thể của đá Ban-trụ-kiếm-ba-la này nhu nhuyến cũng như vậy. Nơi này được trang sức bằng ba loại tường rào bao bọc bảo vệ, mỗi một lớp bao bọc đều do bốn báu làm nên, mỗi lớp có ba tầng linh báu vây quanh, mỗi linh báu đều do bốn báu làm thành, lúc gió nhẹ thổi động phát ra âm thanh làm cho chư thiên khởi năm dục ràng buộc, ngoài ra đều nói như trên. Bốn bên đều có đường và thềm bực do vàng, bạc, lưu ly, pha lê làm thành. Khắp nơi trong vườn đều có hồ cũng nói như trên. Cho đến cung điện bốn báu là chỗ trú của chư thiên nam nữ, cũng nói như trên. Chu vi vườn này là một nghìn do-tuần, đường kính khoảng bằng một phần ba chu vi, có thành vàng vây quanh. Thành này cao một do tuần, trên thành này có bức thành thấp cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi, Mỗi mười do tuần có một cửa, có chín mươi chín cửa và một cửa nhỏ, tất cả là một trăm cửa. Các cửa này do các báu làm thành, được trang nghiêm bằng diệu bảo Ma-ni, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc, và vô số hình điêu khắc. Cửa này lại có bốn quân phòng vệ đều nói như trên. Hàng rào cây báu bảy lớp phía ngoài cũng nói như trên. Hàng cây Đa-la bảy lớp vây quanh cũng nói như trên. Ở giữa cây này có hồ các báu, các hồ cách nhau một trăm cung và vô số sự trang nghiêm cũng nói như trên. Hoa báu năm loại cũng nói như trên, có thuyền bốn báu cũng nói như trên. Trên bờ hồ ấy có cây báu năm loại cũng nói như trên, cho đến cung điện bốn báu là chỗ ở của chư thiên nam, nữ. Bên ngoài thành này có ba lớp hào báu, ngoài ra cũng nói như trên. Mỗi một hào rộng hai do tuần, sâu một do tuần rưỡi, hình như miệng bình, dưới rộng trên hẹp, nước trời tràn đầy đều nói như trên. Trong khoảng hào này có la liệt cung điện của các thể nữ. Ngoài ba lớp hào báu có rừng cây bảy báu vây quanh cũng nói như trên. Tất cả các hoa trong rừng phía ngoài lúc ấy nở rộ tươi đẹp. Lúc các Thiên nữ tấu ca âm nhạc, các Thiên tử từ vườn Ba-lợi-dạ-đa đi ra rừng cây lắng nghe. Các Thiên tử ở trong rừng phía ngoài tấu âm nhạc, các Thiên nữ ở trong vườn cũng đi ra lắng nghe. Thiên nữ trong vườn lại tấu âm nhạc, các Thiên tử ở ngoài đi vào vườn lắng nghe. Các Thiên tử ở trong vườn cũng tấu âm nhạc, Thiên nữ ở ngoài cũng đi vào vườn lắng nghe. Vì nhân duyên này mà họ có rất nhiều sự vui chơi. Ở khoảng giữa từ cửa phía Đông bắc đại thành Thiện Kiến đến cửa phía Tây nam của vườn có một con đường dài hai mươi do tuần, rộng mười do tuần, đất làm bằng lưu ly bằng láng, mềm mại, trang nghiêm bằng các báu, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc. Nhân, phi nhân, voi, chim, thú, cây cỏ, vô số các loại đều đầy đủ, cũng như trang sức lộng lẫy do các báu hợp thành. Hình dạng đường ấy cũng là như vậy, lúc chân dẫm vào thì in xuống, lúc cất chân thì liền trở lại như cũ, như bông Đâu-la và bông làm bằng thân cây, đường ấy êm mịn cũng lại như vậy. Nơi đây được trang sức bằng ba loại tường rào bao bọc bảo vệ, mỗi một tường rào bao bọc đều do bốn báu làm nên, mỗi một lớp đều có ba tầng linh báu vây quanh. Mỗi một linh báu đều do bốn báu tạo thành. Lúc gió nhỏ thổi động, linh báu phát ra âm thanh có thể làm cho chư thiên khởi năm dục ràng buộc. Hai bên đường này có hai con sông chạy dọc theo tên là Trường Hình dài hai mươi do tuần, rộng mười do tuần, nước tám công đức tự nhiên tràn đầy. Hai bên sông ấy đều được kiến tạo bằng gạch bốn báu, ngoài ra đều nói như trước. Bốn bên sông ấy có bốn đường bực thềm cũng nói như trước. Trong nước sông này có hoa báu năm loại cũng nói như trước. Bốn loại thuyền báu bồng bềnh trong đó, có tám loại trò chơi nước và chèo thuyền dạo chơi nhanh chậm tùy ý đều nói như trước. Chư thiên trong đó cần đến chỗ của hoa nào thì liền được tùy ý đến đó. Do quả báo thiện nên mưa xuống hoa các báu rãi khắp chư thiên. Lại có ngọn gió khác thổi các vòng hoa đến, tùy theo chỗ cần trang nghiêm nơi các phần thân: đầu, thân, tay, chân của chư thiên thì tùy ý mà được mang vòng hoa vào một cách tự nhiên. Bờ phía ngoài của hai con sông có năm loại cây báu bày khắp nơi thẳng tắp, ngoài ra cũng nói như trước. Ở giữa cây ấy có hồ các báu và cung điện báu, chư thiên nam, nữ đều trú trong chỗ này, vô lượng thiên chúng ở khắp quốc độ. Đức Thế Tôn đã nói như vậy: Này Tỳ-kheo! Cây Câu-tỳđà-la trong vườn Ba-lợi-dạ-đa của cõi trời Đao lợi lá vàng muốn rụng. Lúc ấy chư thiên vui mừng nói như vậy: “Nay cây Ba-lợi-dạ-đa cõi trời Đao Lợi lá đã chuyển vàng, không lâu sẽ úa rụng”. Này Tỳ-kheo! Cây Ba-lợi-dạ-đa của cõi trời Đao lợi lúc lá đã rụng, chư thiên vui mừng nói như vậy: “Lá cây Ba-lợi-dạ-đa cõi trời đã rụng, không lâu sẽ đâm chồi trở lại.” Này Tỳ-kheo! Lúc cây Ba-lợi-dạ-đa cõi trời Đao Lợi đã đâm chồi trở lại, tất cả chư thiên vui mừng nói: “Nay cây Ba-lợi-dạ-đa đã đâm chồi trở lại, không lâu sẽ hiện màu xanh nhạt”. Này Tỳ-kheo! Lúc cây Ba-lợi-dạ-đa đã hiện màu xanh nhạt rồi, chư thiên lúc ấy vui mừng nói: “Cây Ba-lợi-dạ-đa đã hiện màu xanh nhạt rồi, không lâu sẽ trổ hoa”. Này Tỳ-kheo! Lúc cây Ba-lợi- dạ-đa đã trổ hoa rồi, chư thiên vui mừng nói: “Cây Ba-lợi-dạ-đa đã trổ hoa rồi không lâu sẽ nở”. Đã nở hoa rồi, chư thiên vui mừng nói: “Cây Ba-lợi-dạ-đa đã nở hoa rồi không lâu sẽ nở rộ tất cả”. Này Tỳ-kheo! Cây Ba-lợi-dạ-đa lúc ấy đã nở hết rồi, sắc hoa chiếu khắp rực rỡ trong năm mươi do tuần, hương thơm của hoa này cũng xông tỏa năm mươi do tuần. Nếu lúc gió mưa thổi vào hoa cây này thì hương xông toả về phương Tây một trăm do-tuần. Nếu lúc gió mưa hướng Tây thổi hương của hoa này thì hương xông ở phương Đông một trăm do tuần. Nếu lúc gió mưa phương Nam thổi hương của hoa này thì hương xông ở phương Bắc một trăm do-tuần. Nếu lúc gió mưa ở phương Bắc thổi hương của hoa này thì hương xông ở phương Nam một trăm do-tuần. Này Tỳ-kheo! Cây Ba-lợi-dạ-đa của cõi trời Đao Lợi có thần lực và oai đức như vậy. Này Tỳ-kheo! Nếu đệ tử Phật nương vào chánh pháp luật mà Như Lai đã dạy, do tín căn nên lìa được gia cư của mình, tu đạo không nhà, vì việc này nên khởi tâm quyết định. Này Tỳ-Kheo! Người như vậy ví như cây Ba-lợi-dạ-đa lúc lá vàng. Này Tỳ-kheo! Lúc ấy đệ tử Phật cạo bỏ râu tóc, mặc áo pháp phục,tự lìa gia cư, tu đạo không nhà, này Tỳ-kheo! Người như vậy ví như Ba-lợi-dạ-đa lúc lá đã rụng. Này Tỳ-kheo! Nếu đệ tử Phật lìa các dục trần, lìa các pháp ác, có giác có quán, có hỷ có lạc, từ việc sinh khởi sự xa lìa, tu tập Sơ thiền, trú ở trong đó. Này Tỳ-kheo! Người như vậy ví như cây Balợi-dạ-đa lúc mới đâm chồi nảy lộc. Này Tỳ-kheo! Lúc giác quán vì đã tịch diệt nên nương vào tâm lắng trong bên trong, vì hành một phương tiện nên không giác không quán, từ định sinh khởi, có hỷ có lạc, tu tập Nhị thiền, trú ở trong đó. Này Tỳ-kheo! Người như vậy ví như cây Balợi-dạ-đa lúc lá hiện màu xanh nhạt. Này Tỳ-kheo! Lúc đệ tử phật vì lìa dục hỷ nên trú nơi tâm xả, chánh niệm chánh trí, thân được niềm vui của thọ, cho nên Thánh Sư dạy như vậy. Nếu trú nơi lạc, có xả có niệm, tu tập Tam thiền, nhập trú trong đó. Này Tỳ-kheo! Người như vậy ví như Ba-lợi-dạ-đa lúc mới đâm chồi hoa. Này Tỳ-kheo! Nếu đệ tử Phật do diệt tận khổ, đã trải qua lạc, ưu hỷ lúc xưa đã diệt tận nên không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh, tu tập Tứ thiền, trú nhập trong đó. Người như vậy, ví như cây Ba-lợi-dạ-đa lúc hoa hé nở. Này Tỳ-kheo! Nếu đệ tử Phật do đã tận các lậu, tâm giải thoát vô lậu và đã chứng hiện đời Bát nhã giải thoát, hiện đời trú nhập trong đó, thì việc sinh đã dứt, tu đạo rốt ráo, các việc đã xong. Vì không còn sinh trở lại nên đắc trí này. Này Tỳ-kheo! Người như vậy ví như cây Ba-lợi-dạ-đa đã nở tất cả hoa. Này Tỳ-kheo! Các Tỳ-kheo này các lậu đã tận, tu đạo rốt ráo, chánh tuệ giải thoát, đã hết kiết sử. Chư thiên Đao Lợi nói lời tán thán: “Này bạn lành! Người ở chỗ kia có họ là… tên là… ở quận huyện là… của tất cả quốc độ, lìa gia cư của mình mà tu đạo không nhà. Tỳ-kheo tên là…, là đệ tử xuất gia, đệ tử nương vào chỗ các lậu đã dứt nên tâm được vô lậu giải thoát, hiện đời đã chứng Bát nhã giải thoát, hiện đời đã chứng Bát nhã giải thoát và trú nhập trong đó. Việc sinh đã dứt, tu đạo rốt ráo, các việc đã xong, vì không sinh trở lại nữa nên đắc trí này. Các Tỳ-kheo này đã hết các lậu, chánh trí giải thoát, đã hết pháp hữu. Thần lực và uy đức như vậy ví như cây Ba-lợi-dạ-đa, lúc đã nở rộ tất cả hoa. Lại có chư thiên giữ vườn này đi đến chỗ Đế Thích thưa rằng:”Thưa Thiên vương! Cây Ba-lợi-dạ-đa đã nở hoa, cho nên Thiên Tôn phải nên biết thời tiết. “Chư thiên lại có một con Tượng vương tên là Y-la-bàng cỡi đi trong vườn, thân nó dài chín do-tuần, cao ba do-tuần, thân hình cân xứng. Lúc ấy, Thích Đề Hoàn Nhơn sai bảo với Tượng vương rằng: “Này bạn lành! Cây Ba-lợi-dạ-đa đã nở tất cả hoa, chư thiên sẽ đi đến nơi này, vào vườn dạo xem cho nên ngươi nay phải tự trang sức. Tượng vương nghe lời sai bảo như vậy nên rất vui mừng, ví như người lúc mới cầu hôn và lúc đón vợ về, tất cả các việc đều cát tường, hy hữu. Tượng Vương vui mừng cũng lại như vậy. Lúc ấy, Tượng Vương liền hoá đầu của nó thành ba mươi ba cái đầu, mỗi một đầu có sáu cái ngà, mỗi một ngà có hồ bảy báu, mỗi một hồ sinh ra bảy hoa sen, mỗi một hoa sen sinh ra bảy hoa, mỗi một hoa sinh ra bảy lá, mỗi một lá lại có bảy Thiên nữ. Có bốn mươi chín Thiên nữ như vậy vây quanh hoa sen, bày vẻ đáng yêu. Vì nhân duyên này nên các hoa trang sức đều đầy đủ. Chư thiên Đao Lợi cung kính Đế Thích nên tôn xưng là thủ chúng, trước hết lên voi, ngồi vào giữa đầu, hai bên trái phải, mỗi bên có mười sáu vị trời. Tất cả chư thiên mỗi một đều tự suy nghĩ: “Ta ngồi ở giữa đầu, nếu người chân thật thì chỉ có trời Đế Thích một mình ngồi giữa”. Trời Ba mươi ba trước tiên lên voi xong, ngoài ra đến Thiên chúng tuần tự lên. Trời Đế Thích này có hai thái tử: một là Chiên Đàn hai là Tu Tỳ làm tướng quân lớn nhất ở trời Đao Lợi cũng lên voi. Các vị trời Diệu nữ, có những vị ưu tú nhất:
Một là A-lam-phù-sa.
Hai là Mật- xa-kế-thi.
Ba là Phân-đà-lợi-kha.
Bốn là Ni-la.
Năm là A- lâu-na.
Sáu là Ế-ni-bát-bà.
Bảy là Tu-bát-bà.
Tám là Bát-đà-la.
Chín là Tu-bạt-đà-la.
Mười là Ma-đầu-kha-bà-chí, các Thiên nữ như vậy cũng lên voi.
Các vị trời diệu nam:
Một là A-nham-phù.
Hai là Đạt đầu- lâu-mi.
Ba là Nhuệ-phù-lâu.
Bốn là Thi-khí, các trời như vậy cũng lên voi, cùng ở trên voi ca tấu âm nhạc.
Tất cả chư thiên đều lên voi xong, lúc ấy Tượng vương rất vui mừng, ví như các vua nhận chức Quán đảnh, cũng như vị thanh niên lúc làm lễ cưới vợ, hành chánh pháp xong, dùng các diệu hoa trang nghiêm thân và đầu, tượng vương vui mừng cũng lại như vậy. Lúc ấy, Tượng vương rống tiếng sấm lớn, giáng mưa cam hồ cùng phóng toả ánh chớp, Tượng vương hoá làm kỹ nữ trên hoa, ca múa tấu nhạc, vô số kiểu dáng điệu. Chư thiên kỹ nữ và kỹ nam tấu nhạc ca múa. Lúc ấy Tượng vương rống tiếng sấm lớn, dạo từng bước một, như kết vòng hoa. Chuyển ba lần như vậy, rồi đi đến vườn Ba-lợi-dạ-đa. Trời Đao Lợi từ trên đến dưới đều ngồi trên đá báu Ban-trụ-kiếm-ma-la, nếu ngồi không đủ thì đá liền dài ra. Nhờ phước chư thiên nên Tượng vương A-di-la-ba-na càng biến hoá thân làm Đồng tử cõi trời, mang ấn tay báu và vòng tay báu, vô số vật trang nghiêm, thọ năm dục trần, vui chơi thích thú. Có Thiên tử khác ở lầu gác, cỡi xe, voi, ngựa khác. Lại có chư thiên cỡi thuyền các báu theo sông Trường Hình, tùy ý nhanh chậm vào trong vườn này. Ở trong vườn này, người ca một chỗ, người múa một chỗ, người chơi đàn và sáo một chỗ, tụ hội chỗ khác. Trong đó chư thiên dùng tháng tư cõi trời thọ năm trần dục, vui chơi thỏa thích, tương ưng đầy đủ. Nếu căn xứ theo ngày tháng của cõi người thì đến một vạn hai nghìn năm. Tuổi thọ cõi trời trong vườn đến mười năm bốn tháng. Cõi trời Đao Lợi dùng hết các vườn, đó là sáu vườn lớn, lại có các vườn lớn nhỏ bày khắp ở đây. Nghĩa này Đức Thế Tôn dạy, tôi nghe như vậy.
LUẬN LẬP THẾ A TỲ ĐÀM
QUYỂN 4
Phẩm 14: THÀNH ĐỀ ĐẦU LẠI TRA
Núi chúa Tu Di có tất cả bốn đỉnh là: Đông, Tây, Nam, Bắc. Đỉnh phía Đông do chân kim làm thành, đỉnh phía Tây do bạch kim làm thành, đỉnh phía Bắc do lưu ly làm thành, đỉnh phía Nam do pha-lê làm thành. Lại có tất cả các báu làm thành, lại có bảy tính. Bốn đỉnh này trên rộng dưới hẹp, ví như hoa sen, chỗ hẹp nhất đỉnh ấy có chu vi một nghìn năm trăm do- tuần, chỗ rộng nhất có đường kính bảy trăm do tuần, chu vi hai nghìn một trăm do-tuần. Nơi bốn đỉnh này có các loài thú, lại có các loài chim , sư tử, hổ, báo… đều là hoá sinh, tất cả đều ăn vị thiên-tu-đà mà không tàn hại lẫn nhau. Tất cả chư thiên có Kim cương thủ, đều nương trú ở đây. Nơi này có bốn núi Do-càn-đà: một là núi hướng Đông, hai là Tây, ba là Bắc, bốn là Nam. Núi Đông Do-cànđà có hai đỉnh; Tây, Bắc, Nam, cũng như vậy. Hai đỉnh núi phía Đông do chân kim làm thành, hai đỉnh núi phía Tây do bạch kim làm thành, hai đỉnh núi phía Bắc do lưu ly làm thành, hai đỉnh núi Nam do pha lê làm thành, lại có tất cả các báu tạo thành. Lại có bảy tính, trên rộng dưới hẹp, hình như hoa sen, chỗ hẹp nhất có đường kính ba trăm năm mươi do-tuần, chu vi là một nghìn năm mươi do-tuần. Chỗ rộng nhất có đường kính năm trăm do-tuần, chu vi một nghìn năm trăm do-tuần. Chỗ tám đỉnh này có rất nhiều loài thú, lại có các loài chim, sư tử, hổ, báo… đều là hóa sinh và đều ăn vị thiên-tu-đà mà không tàn hại lẫn nhau. Chư thiên có Kim cương thủ và nương trú ở đây. Các núi như vậy có số đỉnh gấp đôi, nhưng đến núi Ni-dân-đà thứ bảy thì có đến năm trăm mười hai đỉnh. Các đỉnh núi thứ bảy này có chiều cao, rộng hướng ra ngoài, mỗi một theo thứ lớp giảm dần một nửa.
Ở giữa hai đỉnh núi Đông-do-càn đà này có một quốc độ tên là Đề-đầu-lại-tra, có chu vi một nghìn do-tuần, có thành vàng bao quanh, cao một do tuần, bức thành thấp ở trên thành cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần cửa lầu một do-tuần rưỡi, mỗi mười do tuần có một cửa, có chín mươi chín cửa và một cửa nhỏ, tất cả là một trăm cửa. Các cửa này đều do các báu làm thành và được trang nghiêm bằng diệu bảo Ma-ni, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc, cửa này lại có bốn quân phòng vệ, đều nói như trên. Hàng rào cây báu bảy lớp bên ngoài cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy có hồ các báu, các hồ cách nhau một trăm cung (mỗi cung năm thước) và vô số sự trang nghiêm cũng nói như trên. Năm loại hoa báu và thuyền bốn báu cũng đều nói như trước. Bờ hồ có năm loại cây báu cũng nói như trên, cho đến cung điện bốn báu là trú xứ của chư thiên nam, nữ. Bên ngoài cửa thành này có ba lớp hào báu, ngoài ra cũng nói như trên. Mỗi một hào rộng hai do-tuần, sâu một do-tuần rưỡi, hình như miệng bình, dưới rộng trên hẹp, nước trời tràn đầy, đều nói như trên. Khoảng giữa hào này có cung điện các thể nữ bày khắp. Ngoài ba lớp hào này có rừng cây bảy báu bao quanh, cũng nói như trên. Lúc này tất cả hoa trong rừng phía ngoài đều nở rộ xinh đẹp. Lúc các Thiên nữ tấu ca âm nhạc thì các Thiên tử từ đại thành đi ra lắng nghe âm nhạc. Các Thiên tử tấu ca âm nhạc thì các Thiên nữ từ Đại thành đi ra lắng nghe. Vì nhân duyên này nên họ có nhiều sự vui chơi.
Góc Tây nam cửa thành Đề-đầu-lại-tra là chỗ trú của Thiên Vương Đề-đầu-lại-tra, có chu vi hai trăm năm mươi do tuần, có thành vàng bao bọc xung quanh cao một do-tuần, thành thấp phía trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi, mỗi mười dotuần có một cửa, tất cả chín mươi chín cửa và một cửa chân nhỏ là một trăm cửa. Các cửa này đều do các báu làm thành, được trang nghiêm bằng diệu bảo Ma-ni, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc và vô số hình điêu khắc. Cửa này lại có bốn quân phòng vệ đều nói như trên. Hàng rào bằng cây báu bảy lớp bên ngoài cũng nói như trên. Rừng cây Đa-la bảy lớp bao quanh cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy có hồ các báu, các hồ cách nhau một trăm cung, và vô số sự trang nghiêm cũng nói như trên. Hoa báu năm loại và thuyền bốn báu cũng nói như trên. Bờ hồ có năm loại cây báu cũng nói như trên, cho đến cung điện bốn báu là trú xứ của chư thiên nam, nữ. Bên ngoài thành này có ba lớp hào báu, ngoài ra cũng nói như trên. Mỗi một hào rộng hai do tuần, sâu một do-tuần rưỡi, hình như miệng bình, dưới rộng trên hẹp, nước trời tràn đầy, đều nói như trên. Ở trong hào này có cung điện các thể nữ hiện bày khắp nơi. Ngoài ba lớp hào có rừng cây bảy báu bao quanh cũng nói như trên. Tất cả các hoa trong rừng phía ngoài ấy nở rộ xinh tươi. Lúc ấy các Thiên nữ tấu ca âm nhạc, các Thiên tử từ trong thành đi ra lắng nghe. Các Thiên tử tấu ca âm nhạc thì các Thiên nữ từ Đại thành đi ra lắng nghe. Vì vậy nên họ rất có nhiều sự vui chơi. Trú xứ bốn bên trong Đại thành này có đường lớn, nhỏ, phố chợ đều rất hài hoà, ngăn nắp. Thành chư thiên này hoặc có trú xứ bốn nhà liền nhau, hoặc có trú xứ nhà nhọn nhiều tầng, hoặc có trú xứ lầu cao nhiều tầng, hoặc có trú xứ lầu đài cao vút, hoặc có trú xứ bốn mặt đều trấn thủ. Tùy theo phước đức của mỗi một mà các báu làm thành, bằng phẳng, trang nghiêm. Đường của thành cõi trời này có tất cả năm mươi con đường, bốn bên đều thông nhau, ngay hàng thẳng lối theo móng đường. Bốn cửa thành thông nhau, Đông Tây thấy nhau, đường phố quán chợ có rất nhiều hàng hoá báu: một là chợ gạo, hai là chợ áo quần, ba là chợ hương, bốn là chợ ẩm thực, năm là chợ hoa, sáu là chợ thợ giỏi, bảy là chợ kỹ nữ, khắp nơi đều có chợ quán. Trong các chợ này, các Thiên tử và Thiên nữ đi lại mua bán, thương lượng đắt rẻ, cầu xin tăng giảm, cân lường tính toán, đủ các pháp chợ quán. Tuy làm những việc này nhưng vì để vui chơi nên không giữ, không cho, không tâm ngã sở, chỗ cần theo ý thì liền có thể mang đi. Nếu thích hợp với nghề thì liền tùy ý mà lấy, nếu không thích hợp với nghề thì liền nói lời này: “Vật này quý lạ, chẳng phải chỗ cần dùng của tôi, là vật trang sức voi, ngựa, xa binh ở ngã tư đường và chỗ dừng trú của các Thiên tử, hoặc để phòng hộ, hoặc để vui chơi, hoặc để trang nghiêm”. Đường giữa chợ tất cả bằng lưu ly, êm láng đáng yêu, các báu trang nghiêm, cũng như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc; rồng, thú, cỏ cây, đều nói như trước. Cho đến đốt hương, rãi hoa, treo các áo trời cũng lại như vậy. Lại ở khắp nơi dựng cờ, tràng phan, trong Đại thành cõi trời cũng có những âm thanh… thường không lặng dưt, đó là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng con ốc, tiếng Ba-na-bà, tiếng trống, tiếng Mâu-trừng già, tiếng sáo, tiếng âm nhạc. Lại có tiếng nói: “Thiện lai! thiện lai! Tôi nay xin cúng dường thức ăn thức uống”. Đại thành Đề-đầu-lại-tra này là chỗ trú của Thiên tử, lại có châu trời, quận trời, huyện trời, thôn trời vây quanh khắp nơi đại thành này. Thiên Vương Đề-đầu-lại-tra trú trong đó, vua thống lĩnh ở vị trí tối cao. Từ phía Đông núi Do-càn-đà đến núi Thiết Vi cõi trời Càn thát-bà là chỗ thống lĩnh của vua. Nghĩa vậy, Đức Phật đã dạy, tôi nghe như vậy.
Phẩm 15: THÀNH TỲ LƯU LẶC XOA
Ở giữa hai đỉnh núi Nam Do-càn-đà có một quốc độ tên là Tỳ-lưulặc-xoa, có chu vi một nghìn do tuần, có thành vàng vây quanh, thành này cao một do-tuần, thành thấp phía trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi, mỗi mười do-tuần có một cửa, tất cả có chín mươi chín cửa và một cửa nhỏ là một trăm cửa. Các cửa này do các báu làm thành, được trang nghiêm bằng diệu bảo ma-ni, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp của đất Bắc và vô số hình điêu khắc. Cửa này lại có bốn quân phòng vệ đều nói như trên. Hàng rào bằng cây báu bảy lớp phía ngoài cũng nói như trên. Rừng cây Đa la bảy lớp vây quanh cũng nói như trên. Ở giữa cây này có hồ các báu, các hồ cách nhau một trăm cung và vô số sự trang nghiêm cũng nói như trên. Hoa báu năm loại và thuyền bốn báu cũng nói như trên. Bờ hồ có năm loại cây báu, cũng nói như trên, cho đến cung điện bốn báu là trú xứ của Chư thiên nam nữ. Bên ngoài thành có ba lớp hào báu, ngoài ra cũng nói như trên. Mỗi một hào rộng hai do-tuần, sâu một do-tuần rưỡi, hình như miệng bình, dưới rộng trên hẹp, nước trời tràn đầy, cũng đều nói như trên. Ở trong hào này có cung điện của các thể nữ bày khắp nơi. Bên ngoài ba lớp hào có rừng cây bảy báu bao quanh cũng nói như trên. Tất cả các hoa lúc ấy ở trong rừng phía ngoài đang nở rộ xinh tươi. Lúc các Thiên nữ tấu ca âm nhạc, các Thiên tử từ Đại thành đi ra lắng nghe. Lúc các Thiên tử tấu âm nhạc, các Thiên nữ cũng từ Đại thành đi ra lắng nghe âm nhạc, vì nhân duyên này nên họ có rất nhiều sự vui chơi.
Phía Tây nam của thành Tỳ-lưu-lặc-xoa là trú xứ của Thiên Vương Tỳ-lưu-lặc-xoa, có chu vi hai trăm năm mươi do tuần, có thành vàng bao quanh. Thành này cao một do tuần, thành thấp phía trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi. Mỗi mười do tuần có một cửa, có hai mươi bốn cửa lớn và một cửa nhỏ, tất cả là hai mươi lăm cửa. Các cửa thành này do các báu làm thành, được trang nghiêm bằng diệu bảo ma-ni, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc, và vô số hình tượng điêu khắc. Cửa thành này lại có bốn quân phòng vệ cũng đều nói như trên. Hàng rào cây báu bảy lớp bên ngoài cũng nói như trên. Rừng cây Đa-la bảy lớp bao quanh cũng nói như trên. Ở giữa cây ấy có hồ các báu, các hồ cách nhau một trăm cung và vô số sự trang nghiêm cũng nói như trên. Hoa báu năm loại, và thuyền bốn báu cũng nói như trên. Bờ hồ có cây báu năm loại cũng nói như trên, cho đến cung điện bốn báu là trú xứ của chư thiên nam, nữ.
Bên ngoài thành ấy có ba lớp hào báu, ngoài ra cũng nói như trên. Mỗi một hào rộng hai do-tuần, sâu một do-tuần rưỡi, hình như miệng bình, trên hẹp dưới rộng, nước trời tràn đầy, đều nói như trên. Trong hào này có cung điện của các thể nữ bày khắp nơi. Ngoài ba lớp hào có rừng cây bảy báu vây quanh cũng nói như trên. Lúc ấy, tất cả hoa trong rừng phía ngoài đang nở rộ xinh tươi. Lúc các Thiên nữ tấu ca âm nhạc, các Thiên tử từ trong thành đi ra lắng nghe. Lúc các Thiên tử tấu âm nhạc, các Thiên nữ cũng từ trong thành đi ra lắng nghe, vì nhân duyên này nên họ thọ nhận nhiều sự vui chơi. Trú xứ bốn bên trong đại thành này có đường lớn, đường nhỏ, quán chợ đều rất thẳng tắp, hài hòa. Thành chư thiên này hoặc có trú xứ bốn nhà liền nhau, hoặc có chỗ thì nhà tầng cao nhọn, hoặc có chỗ thì lầu cao nhiều tầng, có trú xứ thì lầu đài chọc trời, có trú xứ thì bốn mặt đều để phòng chống quân địch. Tùy theo phước đức của mỗi một mà các báu làm thành bằng thẳng, tráng lệ. Thành này có tất cả năm mươi con đường, bốn mặt thông nhau, ngay hàng thẳng lối đều theo như nền móng đường, bốn cửa thông nhau, Đông Tây thấy nhau, đường xá, quán chợ bày nhiều hàng báu: một là chợ gạo, hai là chợ áo quần, ba là chợ hương, bốn là chợ ẩm thực, năm là chợ hoa, sáu là chợ thợ giỏi, bảy là chợ dâm nữ, khắp nơi đều có quán chợ. Trong các chợ này có Thiên tử và Thiên nữ đi lại mua bán, thương lượng đắt rẻ, cầu xin thêm bớt, cân lường tính toán, đầy đủ các pháp chợ. Tuy họ làm việc này nhưng để vui chơi nên không lấy, không cho, không có tâm ngã sở, vật cần theo ý thì liền có thể được mang đi. Nếu thích hợp với nghề thì tùy ý mà lấy. Nếu không thích hợp với nghề thì liền nói lời này: “Vật này quý lạ, chẳng phải là vật ta cần, cần trang nghiêm voi, ngựa, xe, binh ở ngã tư đường và trong chỗ dừng nghỉ của Chư thiên, hoặc để thủ hộ, hoặc để vui chơi, hoặc để trang nghiêm”. Giữa chợ có con đường tất cả đều làm bằng lưu ly êm láng, đáng yêu, trang nghiêm bằng các báu, cũng như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc; rồng, thú, cây cỏ đều nói như trên. Cho đến đốt hương, rãi hoa, treo áo Chư thiên cũng lại như vậy. Lại dựng cờ phướn ở khắp nơi, trong đại thành cõi trời, có các loại âm thanh không bao giờ lắng dứt, đó là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng ốc, tiếng Ba-na-bà, tiếng trống, tiếng Mâu-trừng-già, tiếng sáo, tiếng âm nhạc. Lại có tiếng nói:”Thiện lai, thiện lai! Nay tôi xin cúng dường thức ăn, nước uống”. Đại thành Tỳ-lâu-lặc-xoa này là trú xứ của Thiên tử, lại có Châu trời, quận trời, huyện trời, thôn trời vây quanh khắp nơi Đại thành này. Thiên Vương Tỳ-lâu-lặc-xoa trú trong đó, chỗ cao nhất Vua lĩnh ngự. Từ phía Nam núi Do-càn-đà đến núi Thiết Vi của Thần Câu-bàn-trà là chỗ vua này thống lĩnh. Nghĩa như vậy, Đức Thế Tôn dạy, tôi nghe như vậy.
Phẩm 16: TỲ LƯU BÁC XOA
Giữa hai đỉnh núi Tây Do-càn-đà có một đất nước tên là Tỳ-lưubác-xoa, chu vi một nghìn do tuần, có thành vàng bao quanh, cao một do tuần, thành ở trên cao nửa do-tuần. Cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi, mỗi mười do tuần có một cửa, tất cả chín mươi chín cửa và một cửa nhỏ là một trăm cửa. Các cửa này do các báu làm thành, và được trang nghiêm bằng diệu bảo ma-ni, ví như thảm trải nền tuyệt đẹp và vô số hình tượng điêu khắc. Cửa này lại có bốn quân phòng vệ đều nói như trên. Hàng rào cây báu bảy lớp bên ngoài, có rừng cây Đa-la bảy lớp vây quanh. Ở giữa rừng ấy có hồ các báu, các hồ cách nhau một trăm cung và vô số sự trang nghiêm, có hoa báu năm loại và thuyền bốn báu; bờ hồ có cây báu năm loại, cho đến cung điện bốn báu là trú xứ của chư thiên nam nữ đều nói như trên. Bên ngoài thành ấy có ba lớp hào báu, mỗi một hào ấy rộng hai do tuần, sâu một do tuần rưỡi, hình như miệng bình, trên hẹp, dưới rộng, nước trời tràn đầy đều nói như trên. Trong hào này có cung điện của các Thể nữ bày khắp nơi. Ba lớp hào bên ngoài, rừng cây bảy báu bao quanh cũng nói như trên. Lúc này tất cả các hoa trong rừng phía ngoài đang nở rộ xinh tươi. Lúc các Thiên nữ tấu ca âm nhạc, các Thiên tử từ đại thành đi ra lắng nghe âm nhạc. Lúc các Thiên tử tấu ca âm nhạc, các Thiên nữ từ Đại thành đi ra lắng nghe. Do nhân duyên này mà họ nhận được nhiều sự vui chơi. Góc Tây nam của thành là trú xứ của Thiên Vương Tỳ-lưu-bác-xoa, có chu vi hai trăm năm mươi do tuần, có thành vàng bao quanh. Thành này cao một do tuần, thành phía trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi, mỗi mười do tuần có một cửa, tất cả chín mươi chín cửa và một cửa nhỏ là đủ một trăm cửa. Các cửa như vậy đều do các báu làm thành, trang nghiêm bằng diệu bảo ma-ni, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp và vô số hình tượng điêu khắc. Cửa này lại có bốn quân phòng vệ. Bên ngoài có hàng rào bằng cây báu bảy lớp, có rừng cây Đa-la bảy lớp bao quanh. Ở giữa cây cây ấy có hồ các báu, các hồ cách nhau một trăm cung và vô số sự trang nghiêm, có hoa báu năm loại và thuyền bốn báu. Bờ hồ có năm loại cây báu cho đến cung điện bốn báu là trú xứ của chư thiên nam, nữ đều nói như trên. Bên ngoài thành ấy có ba lớp hào báu, mỗi một hào rộng hai do tuần, sâu một do-tuần rưỡi, hình như miệng bình, trên hẹp, dưới rộng, nước trời tràn đầy đều nói như trên. Trong hào này có cung điện của các thể nữ bày khắp nơi. Ngoài ba lớp hào có rừng cây bảy báu vây quanh, đều nói như trên. Tất cả các hoa trong rừng phía ngoài này đang nở rộ xinh tươi. Lúc các Thiên nữ tấu ca âm nhạc, các Thiên tử từ trong thành đi ra lắng nghe. Các Thiên tử lúc tấu ca âm nhạc, các Thiên nữ từ trong thành đi ra cùng Thiên tử lắng nghe âm nhạc. Vì nhân duyên này nên họ nhận được nhiều sự vui chơi. Trú xứ bốn bên trong Đại thành này có đường lớn, nhỏ, quán chợ đều phân bố hài hoà, thẳng tắp. Thành chư thiên này hoặc có trú xứ bốn nhà liền nhau, hoặc có trú xứ nhà nhọn nhiều tầng, hoặc có trú xứ lầu cao nhiều tầng, hoặc có trú xứ lầu đài chọc trời, hoặc có trú xứ bốn mặt đều trấn thủ, tùy theo phước đức của mỗi một mà các báu làm thành ngay thẳng, tráng lệ. Thành cõi trời này có năm mươi con đường, bốn bề thông nhau, ngay hàng thẳng lối và đều theo nền đường. Bốn cửa thành thông nhau, Đông và Tây thấy nhau, đường xá phố chợ bày hàng bán đầy khắp: một là chợ gạo, hai là chợ áo quần, ba là chợ hương, bốn là chợ ẩm thực, năm là chợ hoa, sáu là chợ thợ giỏi, bảy là chợ kỹ nữ. Các Thiên tử, các Thiên nữ đến đi mua bán, thương lượng đắt rẻ, cầu xin thêm bớt, cân lường tính toán, đủ các pháp chợ búa. Tuy họ làm việc này nhưng vì để vui chơi nên không lấy cũng không cho, không tâm ngã sở, chỗ cần để thoả lòng mong muốn thì liền có thể mang đi. Nếu thích hợp về nghề nghiệp thì tùy ý mà lấy, nếu không thích hợp thì liền nói: “Vật này quý lạ, chẳng phải vật ta cần, phải là vật trang sức voi, ngựa, xe, binh ở ngã tư đường và nơi chỗ dừng nghỉ của chư thiên tử, hoặc để giữ gìn, hoặc để vui chơi, hoặc để trang nghiêm”. Con đường ở giữa chợ đều làm bằng lưu ly, êm láng, đáng yêu, trang nghiêm bằng các báu, cũng như thảm trãi nền dệt lông tuyệt đẹp ở đất Bắc; thú, rồng, cây cỏ, đều nói như trước. Cho đến đốt hương, rãi hoa, treo áo chư thiên cũng là như vậy, khắp nơi lại treo tràng phan. Trong Đại thành cõi trời có nhiều âm thanh, thường không đoạn đứt, đó là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng ốc, tiếng Ba-na-bà, tiếng trống, tiếng mâu-trừng-già, tiếng sáo, tiếng âm nhạc. Lại có tiếng nói: “Thiện lai! Thiện lai! Nay tôi xin cúng dường thức ăn, thức uống”. Đại thành Tỳ-lưu-bát-xoa là trú xứ của Thiên tử, lại có châu trời, quận trời, huyện trời, thôn trời vây quanh khắp nơi Đại thành này. Thiên Vương Tỳ-lưubat-xoa trú ở trong đó, vua thống ngự chỗ cao nhất. Từ phía Tây núi Docàn-đà đến chim Ca-lâu-la, tất cả các rồng bên núi Thiết vi là chỗ thống lĩnh của vua. Nghĩa như vậy, Đức Phật đã dạy, tôi nghe như vậy.
Phẩm 17: THÀNH TỲ SA MÔN
Ở giữa hai núi Do-càn-đà có một quốc độ tên là Tỳ-sa-môn, có chu vi một nghìn do-tuần, có thành vàng bao bọc xung quanh. Thành này cao một do tuần, thành thấp ở trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi. Mỗi mười do tuần có một cửa, tất cả chín mươi chín cửa và một cửa nhỏ là một trăm cửa. Các cửa này do các báu làm thành, được trang nghiêm bằng diệu bảo ma-ni, ví như thảm trải nền dệt bằng lông tuyệt đẹp của đất Bắc và vô số hình tượng điêu khắc khác. Cửa này lại có bốn quân phòng vệ. Bên ngoài thành có hàng rào bằng cây báu bảy lớp, có rừng cây Đa-la bảy lớp vây quanh. Ở giữa rừng ấy có hồ các báu, các hồ này cách nhau khoảng một trăm cung và vô số sự trang nghiêm khác. Ở đây có năm loại hoa báu và thuyền bốn báu, bờ hồ có cây báu năm loại, cho đến cung điện bốn báu là trú xứ của chư thiên nam nữ đều nói như trước. Bên ngoài thành ấy có ba lớp hào báu, mỗi một hào rộng hai do-tuần, sâu một do-tuần rưỡi, hình như miệng bình, trên hẹp dưới rộng, nước trời tràn đầy đều nói như trên.
Trong hào này có cung điện các thể nữ bày khắp nơi, ngoài ba lớp hào có rừng cây bảy báu vây quanh đều nói như trên. Lúc ấy, tất cả các hoa ở rừng phía ngoài nở rộ tươi đẹp. Lúc các Thiên nữ tấu ca âm nhạc, các Thiên tử từ thành đi ra lắng nghe. Các Thiên tử tấu âm nhạc, các Thiên nữ cũng từ thành đi ra lắng nghe. Vì nhân duyên này nên họ nhận được rất nhiều sự vui chơi. Góc Tây nam của thành là trú xứ của Thiên Vương Tỳ-sa-môn, có chu vi hai trăm năm mươi do-tuần, có thành vàng vây quanh. Thành này cao một do-tuần, thành thấp phía trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi. Mỗi mười do-tuần có một cửa, có hai mươi bốn cửa lớn và một cửa nhỏ, tất cả là hai mươi lăm cửa. Các cửa này đều do các báu làm thành, được trang nghiêm bằng diệu bảo ma-ni, ví như thảm trãi nền dệt bằng lông tuyệt đẹp và vô số hình điêu khắc khác. Cửa này lại có bốn quân phòng vệ, bên ngoài có hàng rào cây báu bảy lớp, có rừng cây báu Đa-la bảy lớp bao quanh. Ở giữa rừng ấy có hồ các báu, các hồ cách nhau một trăm cung, và vô số sự trang nghiêm, như hoa báu năm loại và thuyền bốn báu. Bờ hồ có năm loại cây báu, cung điện bốn báu là trú xứ của chư thiên nam nữ đều nói như trên. Bên ngoài thành ấy có ba lớp hào báu, mỗi một hào rộng hai do-tuần, sâu một do-tuần rưỡi, nước trời tràn đầy đều nói như trên. Trong hào này có cung điện các thể nữ bày hiện khắp nơi. Ngoài ba lớp hào có rừng cây bảy báu bao quanh đều nói như trên. Tất cả các hoa trong rừng bên ngoài ấy nở rộ xinh tươi. Lúc các Thiên nữ tấu ca âm nhạc, các Thiên tử từ trong thành đi ra lắng nghe. Các Thiên tử tấu âm nhạc, các Thiên nữ cũng từ trong thành đi ra lắng nghe. Do nhân duyên này nên họ có rất nhiều sự vui chơi. Trú xứ bốn bên trong thành này có đường lớn, đường nhỏ, quán chợ đều rất thẳng tắp, hài hòa. Thành chư thiên này có chỗ bốn nhà liền nhau, hoặc có chỗ nhà nhọn nhiều tầng, hoặc có trú xứ lầu cao nhiều tầng, hoặc có chỗ lầu đài chọc trời, hoặc có trú xứ bốn mặt đều phòng thủ. Tùy theo phước đức của mỗi người mà các báu làm thành ngay ngắn, tráng lệ. Thành cõi trời này có năm mươi con đường, bốn mặt thông nhau, ngay hàng thẳng lối đều theo nền đường, Đông Tây thấy nhau, đường xá quán chợ có hàng hóa qúi báu đầy khắp: Một là chợ gạo, hai là chợ áo quần, ba là chợ hương, bốn là chợ ẩm thực, năm là chợ hoa, sáu là chợ thợ giỏi, bảy là chợ kỹ nữ, khắp nơi đều có quán chợ. Trong các chợ này, chư thiên nam nữ đi lại mua bán, thương lượng rẻ, đắt, cầu xin thêm bớt, cân lường tính toán, đầy đủ các pháp chợ búa. Tuy họ làm việc này nhưng vì để vui chơi nên không lấy, không cho, không tâm ngã sở, vật cần theo ý thì liền có thể mang đi. Nếu thích hợp với nghề thì tùy ý mà lấy, nếu không thích hợp thì liền có lời nói: “Vật này quý lạ chẳng phải vật ta cần, cần để trang sức voi, ngựa, xe, binh ở ngã tư đường và nơi trú xứ các Thiên tử này, hoặc để giữ gìn, hoặc để vui chơi, hoặc để trang nghiêm”. Con đường giữa chợ làm bằng lưu ly, êm láng đáng yêu và trang nghiêm bằng các báu, cũng như thảm trãi nền dệt bằng lông tuyệt đẹp của đất Bắc; rồng, thú, cỏ cây đều nói như trên. Ở đây đốt hương, rãi hoa, treo các áo trời cũng lại như vậy, lại ở khắp nơi đều dựng tràng phan. Trong Đại thành cõi trời này có nhiều âm thanh thường không đoạn dứt, đó là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng ốc, tiếng xe, tiếng Ba-na-bà, tiếng trống, tiếng Mâu-trừng-già, tiếng sáo, tiếng âm nhạc. Lại có tiếng nói: “Thiện lai, Thiện lai! Nay tôi xin cúng dường thức ăn, thức uống”. Đại thành Tỳ-sa-môn này là trú xứ của Thiên tử, lại có châu trời, quận trời, huyện trời, thôn trời vây quanh khắp nơi. Trong Đại thành này là trú xứ của Thiên Vương Tỳ-sa-môn, chỗ cao nhất vua thống ngự. Thành Tỳ-sa-môn này có rất nhiều món ẩm thực khư-đà-ni-bạc-xà-ni, cho nên cũng gọi là A-la-kha-mạn-đà. Nghĩa như vậy, Đức Phật đã dạy, tôi nghe như vậy.
LUẬN LẬP THẾ A TỲ ĐÀM
QUYỂN 5
Phẩm 18: THIÊN VÀ PHI THIÊN ĐÁNH NHAU
Nơi bằng phẳng trên đỉnh núi Chúa Tu Di đều do lưu ly làm thành, êm láng đáng yêu, trang nghiêm bằng các báu, ví như thảm trãi nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc và vô số hình tượng điêu khắc khác, cũng như các báu trang sức vành tai. Ở đây lúc dẫm chân vào thì liền in xuống, lúc cất chân lên thì liền trở lại như cũ, như bông Đâu-la, đất này mềm mịn lại cũng như vậy. Xung quanh đỉnh này có thành vàng bao bọc, cao một do-tuần, thành thấp ở trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi, mỗi mười do-tuần có một cửa, tất cả là ba vạn hai nghìn cửa. Các cửa thành này do các báu làm thành, trang sức bằng vô số ma-ni, ví như thảm trãi nền dệt bằng lông tuyệt đẹp tại đất Bắc. Nhân, phi nhân, rồng, thú, cây cỏ và các loại hoa không có gì mà chẳng có, cũng như trang sức các báu lộng lẫy nhiều khắp đầy đủ, các cửa thành này cũng lại như vậy. Hai bên thành này trang nghiêm bằng voi, ngựa, xe, quân, các Thiên tử cầm gậy giáo nhọn trang nghiêm, tụ tập ở đây để hộ quốc, dạo chơi, trang nghiêm. Có hồ báu khắp nơi, nước trời tràn đầy, thành lũy và bờ đáy đều làm bằng gạch bốn báu, ngoài ra đều nói như trên, cho đến chư thiên nam nữ nhiều khắp trong đó cũng lại như vậy. Từ trên đỉnh núi chúa Tu Di này xuống dưới hai vạn do-tuần là tầng thứ nhất. Bốn bên của tầng này, mỗi bên rộng năm mươi do-tuần, chu vi hơn tầng trên là bốn trăm do-tuần, có thành vàng bao quanh. Thành này cao một do-tuần, thành thấp phía trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một dotuần rưỡi. Mỗi mười do-tuần có một cửa, có tất cả một nghìn cửa do các báu làm thành và được trang sức bằng vô số ma-ni, ví như thảm trãi nền dệt bằng lông ở đất Bắc. Nhân, phi nhân, rồng, thú, cỏ cây và các loài hoa, không gì mà chẳng có, cũng như trang sức các báu lộng lẫy, đầy đủ. Các cửa thành này cũng lại như vậy. Hai bên các cửa thành có voi, ngựa, bốn quân phòng vệ, để hộ quốc, để vui chơi, để trang nghiêm. Bên ngoài thành ấy có hồ các báu, thành lũy và đáy bờ đều do gạch bốn báu làm thành, cho đến Thiên tử và Thiên nữ nhiều khắp quốc độ cũng là như vậy. Có các Thiên tử tên là Trì Man trú ở trong đó. Số chu vi của gốc núi Tu Di tăng thêm bốn trăm do-tuần, tầng này cộng với gốc núi là tám trăm do-tuần. Từ đỉnh xuống bốn vạn do-tuần là tầng thứ hai, bốn bên đều rộng ra hơn tầng trên năm mươi do-tuần, có thành vàng vây quanh. Thành này cao một do-tuần, thành phía trên cao nửa dotuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi. Mỗi mười do-tuần có một cửa, có tất cả một nghìn cửa do các báu làm thành và được trang sức bằng vô số ma-ni, ví như thảm trãi nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc. Nhân, phi nhân rồng, thú, cây cỏ và các loại hoa, không có gì mà chẳng có, cũng như vòng tai đầy đủ các báu, các cửa thành này cũng lại như vậy. Hai bên các cửa thành có bốn quân voi ngựa phòng vệ để giữ nước, để vui chơi, để trang nghiêm. Có hồ các báu, thành lũy và đáy bờ hồ đều làm bằng gạch bốn báu, cho đến chư thiên tử… đầy khắp quốc độ cũng là như vậy. Có các Thiên tử tên là Thường Thắng trú ở trong đó. Số chu vi gốc núi lại tăng thêm tám trăm do-tuần, hợp lại với gốc núi là một nghìn hai trăm do-tuần. Từ đỉnh núi xuống sáu vạn do-tuần là tầng thứ ba, bốn bên đều rộng ra hơn tầng thứ hai là năm mươi do-tuần, có thành vàng bao quanh. Thành này cao một do-tuần, thành phía trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi. Mỗi mười do-tuần có một cửa, tất cả có một nghìn cửa đều do các báu làm thành và trang sức bằng vô số ma-ni, ví như thảm trãi nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc. Nhân, phi nhân rồng, thú, cây cỏ và các loại hoa không có gì mà chẳng có, cũng như vòng tai đầy đủ các báu, các cửa thành này cũng lại như vậy. Hai bên các cửa thành có bốn quân voi ngựa phòng vệ để giữ nước, để vui chơi, để trang nghiêm. Có hồ các báu, thành lũy và đáy bờ hồ đều làm bằng gạch bốn báu, kiến tạo cho đến chư thiên tử… đầy khắp quốc độ cũng là như vậy. Có các Thiên tử tên là Thủ Trì Bảo Khí trú ở trong đó, có thành vàng bao quanh và vô số sự trang nghiêm cũng nói như trên, cho đến các Thiên tử đầy khắp quốc độ lại cũng như vậy. Số chu vi gốc núi Tu Di lại tăng thêm bốn trăm do-tuần, cộng lại là một nghìn sáu trăm do-tuần là tầng thứ tư, bốn bên của tầng này rộng hơn tầng thứ ba ở trên là năm mươi do-tuần. Từ mặt nước biển lên năm mươi do-tuần là tầng thứ tư của núi Tu Di, rộng hơn tầng thứ ba mỗi bên năm mươi do-tuần, dày cũng như vậy, có thành vàng bao quanh. Thành này cao một dotuần, thành phía trên cao nửa do-tuần, cửa thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi. Mỗi mười do-tuần có một cửa, tất cả có một nghìn cửa đều do các báu làm thành và được trang sức bằng vô số mani, ví như thảm trãi nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc. Nhân, phi nhân, rồng, thú, cây cỏ và các loài hoa không gì mà chẳng có; cũng như vòng tai đầy đủ các báu, các cửa thành này cũng là như vậy. Hai bên các cửa thành đều có bốn quân voi, ngựa phòng vệ, để hộ quốc, dạo chơi và trang nghiêm quốc độ. Có hồ các báu và bờ hồ, đáy hồ, thành lũy đều làm bằng gạch bốn báu, cho đến chư thiên đầy khắp quốc độ cũng lại như vậy. Tầng thứ tư này là trú xứ của quân Tứ Thiên Vương. Phía tầng này ra đến bốn trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn tám trăm do-tuần có rồng, thú và trú xứ của chim cánh vàng. Các tầng phía dưới trên núi Tu Di đều dày năm mươi do-tuần. Các tầng trong biển ấy là trú xứ của A Tu-la. A-tu-la này vì muốn được năm việc của chư thiên nên đi đến chinh phạt. Những gì là năm? Một là vị Thiên-tu-đà, hai là đất bằng của chư thiên, ba là vườn rừng của chư thiên, bốn là quốc ấp của chư thiên, năm là Đồng nữ của chư thiên. Vì năm việc này mà đi đến công kích chư thiên. Chư thiên cũng muốn được năm việc kia nên đi đến đánh Tu-la. Những gì là năm? Một là vị Tu đà A-tu-la, hai là đất bằng của Tu-la, ba là vườn rừng của Tu-la, bốn là quốc ấpcủa Tu-la, năm là Đồng nữ của Tu-la. Vì năm việc này mà đi đến đánh Tu-la. Lúc ấy, Tu-la đến đánh chư thiên; trước tiên là ở dưới nước có rồng và chim đánh nhau, nếu không hơn thì liền lui về chỗ cũ. Nếu lúc chiến thắng thì lên tầng dưới nhất cùng quân Tứ Vương và các rồng, chim cũng lên tầng này, cùng chiến đấu một lúc mà Tu-la không bằng thì liền trở về chỗ cũ. Nếu lúc chiến thắng thì lên tầng thứ hai cùng với quân Tứ Vương và trời Bảo Trì Khí, các rồng, chim… cùng đánh nhau một lúc, nếu lúc không thắng thì liền trở về chỗ cũ. Nếu lúc thắng thì tiến lên tầng thứ ba cùng với trời Thường Thắng, trời Trì Bảo Khí và quân Tứ Vương; các chim, rồng… chiến đấu với nhau một lúc, nếu không thắng thì liền trở về chỗ cũ. Nếu thắng thì lên tầng thứ tư cùng trời Trì Man, các trời ở dưới và quân Tứ Vương; các rồng, chim… chiến đấu với nhau một lúc, nếu không thắng thì từ đó trở về chỗ cũ. Nếu lúc chiến thắng thì lên đỉnh núi Tu Di. Chư thiên Trì Man này đi đến chỗ Đế Thích báo về việc như vậy: “Thưa Thiện Tôn! A-tu-la đã đến”. Lúc ấy, Đế Thích dùng một nghìn xe ngựa, có một xe dùng áo A-la-hán làm tràng phan, bốn binh voi, ngựa không xen tạp, quân chúng vây quanh đi ra chỗ chiến. Thiên Vương trời thứ ba mươi ba và mỗi một đều có bốn bộ quân chúng vây quanh cũng đến chỗ chiến. Hai Thái tử của vua là Chiên Đàn và Tu Tỳ cũng có bốn quân vây quanh cùng đến chỗ chiến. Lúc ấy, Tứ Thiên Vương cũng có bốn quân vây quanh cùng đến chỗ chiến. Thiên tử Nhật, Nguyệt cũng có bốn quân vây quanh cùng đến chỗ chiến. Tất cả chư thiên như vậy đều có tướng quân ở trước dẫn quân đến nơi chỗ này cùng với Tu-la chiến đấu. Quân Tượng cùng chiến đấu với quân Tượng, các quân xe, mã, bộ… đều như vậy. Lúc chiến đấu, nếu người nào đến trước thì tự lui trước, quy tắc là vậy. Việc như vậy, Đức Phật đã dạy:
Này Tỳ-kheo! Thuở xưa, lúc chư thiên cùng chiến đấu với Tu-la, đang lúc chiến đấu, hai bên giao kiếm, quân chư thiên thắng, quân Tula bỏ chạy. Này Tỳ-kheo! Lúc Tu-la rút lui, chạy về hướng Nam, trở về chỗ cũ, chư thiên cũng bèn lui về. Này Tỳ-kheo! Lúc ấy Tu-la suy nghĩ: “Chư thiên đại thắng, chúng ta bỏ chạy, chư thiên liền lui về rất gấp, quân ta vẫn có thể quyết chiến lần khác”. Lần thứ hai chiến đấu, chư thiên đại thắng, Tu-la lại rút lui, chạy về hướng Nam, trở về chỗ cũ, chư thiên bèn về. Này Tỳ-kheo! Lúc ấy, Tu-la lại suy nghĩ: “Chư thiên đại thắng, chúng ta bỏ chạy, chư thiên bèn về gấp, nay quân ta vẫn còn, ắt phải quyết chiến lần khác”. Này Tỳ-kheo! Lúc chiến đấu lần thứ ba, chư thiên lại thắng, Tu-la bỏ chạy, trở về thành mình, đóng cửa mà ở. Này Tỳ-kheo! Lúc ấy, Tu-la lại suy nghĩ: “Ta đã vào thành, nếu chư thiên có đến cũng không đánh được ta”. Này Tỳ-kheo! Chư thiên cũng suy nghĩ: “Bọn Tu-la đã vào thành của chúng, không thể tấn công”. Lúc ấy, chư thiên cũng vây quanh khắp nơi, làm cho ở đó chỉ sinh hoạt trong thành, chư thiên liền được ăn vị Tu đà của Tu-la, chiếm đóng nơi đất bằng cùng các vườn rừng và các quốc ấp, các Đồng nữ… đều được chọn dùng, tất cả nam nữ, vật báu đều thâu hết không hề bỏ sót. Nếu chư thiên tác ý muốn vào thành kia: “Ta cùng với Tu-la ăn uống, đã làm thân thích, cần đến thăm hỏi”, thì tùy ý mà đến đi, ăn uống, chuyện trò. Đã vào thành rồi nếu tâm không thích nghi thì vì tâm này mà tự nhiên ra về. Vì sao như vậy? Vì thành này là chỗ vô úy của A-tu-la nên chư thiên tùy ý mà trú ở quốc độ này. Đồng nữ Tu-la đã được chọn dùng, nếu lúc muốn đi sẽ dẫn về cõi trời. Lúc có người đến mua vị Tu đà trong các A-tu-la thì vào thành chư thiên thăm hỏi khắp nơi, hoặc thấy chư thiên… và các quyến thuộc luận bàn đắt rẻ, hoặc mua được thì cùng nhau về chỗ cũ. Nếu các Chư thiên thối lui, lúc bị bắt giữ cũng lại như vậy. Đại thành Thiện Kiến của cõi trời Đao Lợi là trú xứ của Thích Đề Hoàn Nhơn. Thành A-tu-la là trú xứ của vua A-tu-la. Như Tượng Vương đi trong vườn Y-la-bàn của trời Đao Lợi, A-tu-la cũng như vậy có Tượng Vương tên là Bạt-đà-bà-ha cỡi đi trong vườn rừng. Như Thiện Vương Thiện Trụ của trời Đao Lợi cỡi đi chiến đấu, Tượng Vương Nha-la-bà của A-tu-la cũng cỡi đi chiến đấu như vậy. Như châu, quận, huyện… cõi trời của trời Đao Lợi, cảnh giới Tu-la cũng lại như vậy; như y phục, ẩm thực của trời Đao lợi và vô số sự trang nghiêm, cảnh giới Tu-la cũng vậy, trừ Thiện pháp đường và trùng các Bì-thiền-diên-đa. Nghĩa như vậy, Đức Thế Tôn đã dạy, tôi nghe như vậy.
Phẩm 19: SỰ VẬN HÀNH CỦA MẶT TRỜI MẶT TRĂNG
Từ cõi Diêm-phù-đề lên cao bốn vạn do tuần là vòng quay nửa núi Tu di của mặt trời, mặt trăng, đi qua núi Càn-đà. Cung điện mặt trời mặt trăng này có hình tròn như cái trống. Cung điện mặt trăng có bề dày năm mươi do tuần, rộng năm mươi do tuần, chu vi một trăm năm mươi do tuần. Cung điện mặt trời, mặt trăng này được làm bằng lưu ly, lớp che ở trên bằng bạch ngân, phần nhiều là nước, phần nước phía dưới là nhiều nhất, ánh sáng ở phần dưới ấy cũng là lớn nhất. Phía trên của nó có thành vàng bao bọc xung quanh, thành cao một do tuần, thành thấp phía trên cao nửa do tuần, cửa thành cao hai do tuần, cửa lầu cao một do tuần rưởi; mỗi mười do tuần có một cửa, tất cả là mười bốn cửa và một cửa nhỏ. Các cửa thành này được làm bằng các báu, được trang sức bằng vô số Ma-ni, ví như thảm trãi nền dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc. Nhân, phi nhân… rồng, thú, cây cỏ và các loài hoa không gì mà chẳng có, cũng như vòng tai đầy đủ các báu trang nghiêm, các cửa thành này cũng như vậy. Hai bên cửa thành được trang nghiêm bằng bốn quân voi, xe, các Thiên tử cầm gậy giáo trang nghiêm, tập hợp trong đó để giữ nước, vui chơi và trang nghiêm. Khắp nơi có hồ báu, nước trời tràn đầy, thành lũy và bờ đáy đều kiến tạo bằng gạch bốn báu, ngoài ra đều nói như trên. Cho đến chư thiên nam nữ cùng khắp trong đó lại cũng như vậy. Cung điện này gọi là Chiên Đàn, Thiên tử mặt trăng này ở trong đó cũng gọi là Chiên Đàn, cung điện Thiên tử đều gọi là Chiên Đàn. Cung điện như vậy đã trụ hơn bốn mươi kiếp, vì duyên tăng thượng của nghiệp chúng sinh nên thường đi chiếu sáng. Lúc Thiên tử ở cung điện cũng thường đi, nếu Thiên tử không ở, cung điện cũng đi. Lúc Thiên tử trở về, tùy theo chỗ đang ở của cung điện mà Thiên tử liền đáp xuống ở đó. Cung mặt trời này có chiều dày năm mươi mốt do-tuần, rộng năm mươi mốt do-tuần, chu vi một trăm năm mươi ba do-tuần. Cung điện mặt trời này được làm bằng pha lê, lớp che ở trên bằng xích kim (vàng đỏ), phần nhiều là hỏa đại, hỏa phần ở dưới là nhiều nhất, ánh sáng ở dưới vùng ấy cũng nhiều nhất. Phần ở trên của cung điện này có thành vàng vây quanh, thành cao một do-tuần, thành thấp ở trên cao nửa dotuần, cổng thành cao hai do-tuần, cửa lầu cao một do-tuần rưỡi; mỗi một do-tuần có một cửa, tất cả là mười bốn cửa và một cửa nhỏ. Các cửa thành này được làm bằng các báu và được trang sức bằng vô số Ma-ni, ví như thảm trãi nền được dệt bằng lông tuyệt đẹp ở đất Bắc. Nhân, phi nhân… rồng, thú, cỏ cây và các lòai hoa không gì mà chẳng có, cũng như vòng tai trang sức đầy đủ các báu, các cổng thành này lại cũng như vậy. Hai bên cổng thành được phòng vệ bằng bốn quân voi, xe để giữ quốc độ, để trang nghiêm và vui chơi. Khắp nơi có hồ báu nước trời tràn đầy, thành lũy và bờ đáy đều được làm bằng gạch bốn báu, ngoài ra cũng nói như trên. Cho đến chư thiên nam nữ nhiều khắp trong đó lại cũng như vậy. Cung điện này gọi là Tu Dã, Thiên tử mặt trời này trú ở trong đó cũng gọi là Tu Dã, cung điện Thiên tử đều gọi là Tu Dã. Cung điện này đã trú hơn bốn mươi kiếp, vì duyên tăng thượng của chúng sanh nên thường đi chiếu sáng. Lúc Thiên tử ở, cung điện thường đi, nếu Thiên tử không ở cung điện cũng đi. Lúc Thiên tử trở về thì tùy theo chỗ đang trú của cung điện mà Thiên tử liền đáp xuống trong đó. Cung điện tinh tú nhỏ nhất có đường kính nửa câu-lô-xá, chu vi một câu-lô-xá rưỡi. Tinh tú lớn có đường kính mười sáu do-tuần, chu vi bốn mươi tám do-tuần. Trước nhật nguyệt có Thiên tử Hành Lạc. Thiên tử này nếu lúc đi thì nhận lấy sự vui chơi, vì duyên tăng thượng của nghiệp chúng sinh nên có phong luân thường thổi vòng khắp, vì gió thổi nên cung mặt trời mặt trăng… quay khắp không ngừng. Cung điện mặt trời đi một trăm tám mươi đường, cung điện mặt trăng đi mười lăm đường, mặt trời đi mười hai đường và mặt trăng đi một đường. Nếu lúc mặt trời ra vào thì có mười hai đường đi của mặt trời, lúc mặt trăng ra vào thì mặt trời đi được một độ. Từ đường cực Nam đến đường cực Bắc là hai trăm chín mươi do-tuần, mặt trời mặt trăng đi ở trong đó không có giảm đi hoặc dài ra. Mặt trời lại có hai đường một là đường ngoài, hai là đường trong. Đường trong là từ trong đường Diêm-phù-đề đến đường trong Uất đơnviệt cách nhau bốn ức tám vạn tám trăm do-tuần, chu vi mười bốn ức bốn vạn hai nghìn bốn trăm do-tuần. Đường ngoài là cách nhau bốn ức tám vạn một nghìn ba trăm tám mươi do-tuần, chu vi mười bốn ức bốn vạn bốn nghìn một trăm bốn mươi do-tuần. Mặt trăng quay một bên thì nhanh, quay khắp thì chậm; mặt trời quay khắp thì nhanh, quay một bên thì chậm. Mặt trời và mặt trăng quay có lúc trùng (hợp), có lúc không trùng (ly). Trong mỗi một ngày mặt trời quay bốn vạn tám nghìn tám mươi do-tuần, lúc hợp và ly đều vậy. Nếu lúc hợp một thóang, ban ngày mặt trời khuất mặt trăng ba và một phần ba do-tuần, vì phương tiện này nên ngày mười lăm tất cả ánh sáng mặt trăng không hiện. Nếu lúc ly một thoáng, hàng ngày mặt trời quay bốn vạn tám nghìn tám mươi dotuần, mặt trời cách mặt trăng ba và một phần ba do-tuần, vì phương tiện này nên mặt trăng ngày mười lăm tròn. Số lượng như vậy chu vi mặt trời quay nhanh chậm so với mặt trăng bốn vạn tám nghìn tám mươi dotuần. Lúc ấy Thế Tôn nói lại nghĩa này bằng kệ:
Bốn vạn và tám nghìn
Tám mươi các do-tuần
Nhật quay nguyệt chạy vậy
Cách mặt trăng cũng vậy.
Mặt trời thường đi một do tuần rưỡi và một phần chín do-tuần, mỗi một ngày lúc mọc như vậy, lặn cũng như vậy. Trong ngày tháng sáu từ đường trong đi ra đến đường ngoài, ngày tháng sáu từ đường ngoài vào đến đường trong mặt trời thường đi mười chín một phần ba do-tuần. Mỗi một ngày mặt trời mọc cũng như vậy, lặn cũng như vậy. Ngày mười lăm từ đường trong đến đường ngoài, từ đường ngoài đến đường trong, nếu mặt trời đi từ đường trong Đông Phất-bà-đề đến phía Nam cõi Đông Phất-bà-đề cách nhau sáu trăm tám mươi ba và một phần ba do-tuần, trong đó mặt trời đi đường trong. Nếu mặt trời đi đường trong Diêmphù-đề đến phía Nam cõi Diêm-phù-đề cách nhau ba trăm năm mươi do-tuần, trong đó mặt trời đi đường trong. Nếu mặt trời đi đường trong Tây-cù-da-ni đến phía Nam cõi Tây-cù-da-ni cách nhau sáu trăm tám mươi ba một phần ba do-tuần, trong đó mặt trời đi đường trong. Nếu mặt trời đi đường trong Bắc Uất-đơn-việt đến phía Nam cõi Uất-đơn-việt cách nhau ba trăm năm mươi do-tuần, trong đó mặt trời đi đường trong. Nếu mặt trời đi đường ngoài Đông Phất-bà-đề từ vùng phía Nam đến đường ngoài của mặt trời là ba trăm chín mươi ba một phần ba do-tuần, mặt trời đi trong đó. Nếu mặt trời đi đường ngoài Diêm-phù-đề từ vùng phía Nam đến đường ngoài của mặt trời sáu mươi do-tuần, mặt trời đi đường ngoài trong đó. Nếu mặt trời đi đường ngoài Tây Cù-da-ni từ vùng phía Nam đến đường ngoài của mặt trời ba trăm chín mươi ba một phần ba do-tuần, mặt trời đi trong đó. Nếu mặt trời đi đường ngoài Bắc Uất-đơn-việt đến vùng phía Nam sáu mươi do-tuần, mặt trời đi trong đó. Nếu mặt trời đi đường trong Đông Phất-bà-đề thì đi đường ngoài Tây Cù-da-ni và đi đường giữa Nam Diêm-phù-đề và Bắc Uất-đơnviệt. Lúc ấy ban ngày ở Đông Phất-bà-đề dài nhất là mười tám mâuhưu-đa, ban đêm ngắn nhất mười hai mâu-hưu-đa. Ban đêm ở Tây Cùda-ni dài nhất là mười tám mâu-hưu-đa, ban ngày ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa. Phần ban ngày, ban đêm… của Diêm-phù-đề và Bắc Uấtđơn-việt đều là mười lăm mâu-hưu-đa, sáu mâu-hưu-đa ở đó thường động, hai mươi bốn mâu-hưu-đa bất động. Nếu mặt trời đi đường ngoài Đông Phất-bà-đề thì đi đường trong Tây Cù-da-ni, đi đường giữa Nam Diêm-phù-đề và Bắc Uất-đơn-việt, lúc ấy đêm ở Đông Phất-bà-đề dài nhất là mười tám mâu-hưu-đa, ngày ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa, ngày dài nhất ở Tây Cù-da-ni là mười tám mâu-hưu-đa, đêm ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa. Phần ngày đêm ở Nam Diêm-phù-đề và Bắc Uất-đơn-việt đều là mười lăm mâu-hưu-đa. Nếu mặt trời đi đường trong Diêm-phù đề tức đi đường ngoài Bắc Uất-đơn-việt, tức đi đường giữa Đông Phất-bà-đề và Tây Cù-da-ni, ngày dài nhất ở Diêm-phù-đề này là mười tám mâu-hưu-đa, đêm ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa; đêm dài nhất ở Bắc Uất-đơn-việt là mười tám mâu-hưu-đa, ngày ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa. Phần ngày đêm của Đông Phất-bà-đề và Tây Cù-da-ni đều là mười lăm mâu-hưu-đa. Nếu mặt trời đi đường ngoài Nam Diêm-phù-đề tức đi đường trong Bắc Uất-đơn-việt, đi đường giữa Đông Phất-bà–đề và Tây Cù-da-ni, lúc ấy ban đêm ở Diêm-phù-đề dài nhất là mười tám mâu-hưu-đa, ban ngày ngắn nhất là mười hai mâuhưu-đa; ban ngày ở Bắc Uất-đơn-việt dài nhất là mười tám mâu-hưu-đa, ban đêm ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa; phần ngày đêm ở Đông Phất-bà-đề và Tây Cù-da-ni đều là mười lăm mâu-hưu-đa; ở Tây Cùda-ni và Bắc Uất-đơn-việt đều nói như trên. Nếu ba mươi mâu-hưu-đa trong thế gian nhất định thường là một ngày đêm, thì một mâu-hưu-đa đó có ba mươi phần, mỗi một phần này gọi là la-bà Nếu lúc mặt trời tăng thì ban ngày tăng một la-bà, nếu mặt trời giảm ban ngày, cũng giảm một la bà, ban đêm cũng như vậy. Nếu lúc ban ngày giảm, ban đêm tăng một la-bà; nếu ban đêm giảm, ban ngày tăng một la-bà. Nếu ban ngày dài nhất là mười tám mâu-hưu-đa, lúc ấy ban đêm ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa. Nếu ban đêm dài nhất là mười tám mâu-hưuđa, lúc ấy ban đêm ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa. Nếu ngày đêm, ban ngày mười lăm mâu-hưu-đa, ban đêm mười lăm mâu-hưu-đa, hoặc ngày mười lăm tháng năm trăng đang tròn, lúc ấy ở Ấn Độ bắt đầu kiết hạ thì ở Trung Quốc (nhà Hán) an cư đã xong một tháng. Lúc ấy ban ngày thì dài nhất là mười tám mâu-hưu-đa, ban đêm thì ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa. Từ ngày mười sáu giảm một la-bà, tháng một giảm một mâu-hưu-đa, tháng thứ hai giảm một mâu-hưu-đa, tháng thứ ba lại giảm một mâu-hưu-đa cho đến ngày mười lăm tháng tám ở Ấn Độ mát mẻ thì ở Trung Quốc phải mặc áo ca-hy-na, ban ngày và ban đêm bằng nhau, đều là mười lăm mâu-hưu-đa. Từ ngày mười lăm đến tháng một là giảm một mâu-hưu-đa, tháng thứ hai giảm một mâu-hưuđa, tháng thứ ba lại giảm một mâu-hưu-đa, đến ngày mười lăm tháng mười một ban đêm dài nhất là mười tám mâu-hưu-đa, ban ngày ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa. Từ đêm lúc này ban ngày giảm một la-bà, ngày tháng một thì ban đêm giảm một mâu-hưu-đa, tháng thứ hai lại giảm một mâu-hưu-đa, tháng thứ ba lại giảm một mâu-hưu-đa, đến ngày mười lăm tháng mười hai ban ngày và ban đêm bằng nhau, mỗi một đều là mười lăm mâu-hưu-đa. Lại nữa từ ngày mười sáu đến tháng một lại giảm một mâu-hưu-đa, tháng thứ hai lại giảm một mâu-hưu-đa, tháng thứ ba lại giảm một mâu-hưu-đa đến ngày mười lăm tháng năm ban ngày dài nhất là mười tám mâu-hưu-đa, ban đêm ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa. Lại có biệt thời, nếu mùa hạ ở Ấn Độ trong mùa trăng tháng thứ nhất ngày thứ chín nửa tháng thứ hai đó là ngày mồng chín tháng sáu thì lúc này ngày dài nhất là mười tám mâu-hưu-đa, đêm ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa; đến ngày mồng chín tháng chín, ngày đêm bằng nhau đều là mười lăm mâu-hưu-đa. Ngày mồng chín tháng mười một, đêm dài nhất là mười tám mâu-hưu-đa, ngày ngắn nhất là mười hai mâu-hưu-đa, ngày mồng chín tháng ba ngày đêm bằng nhau, đều là mười lăm mâu-hưu-đa. Xoay chuyển như vậy đủ năm năm thì có một du-già, tức là hai tháng nhuận: một là theo mặt trăng, hai là theo mặt trời. Ngày mười hai, mồng chín, ngày mồng sáu, mồng ba, ngày mười lăm ở giữa năm năm, ngày đêm trong đó là ngắn hoặc dài. Mặt trăng là dùng để phân biệt ba việc: một là phân biệt tháng, hai là phân biệt ngày mười lăm, ba là phân biệt tròn khuyết. Mặt trời là để phân biệt ngày đêm, phân biệt tiết hạ, đông, thu, phân biệt năm. Dùng ba việc này theo mặt trời được thành tháng nhuận là cũng có hai: một là theo tháng, hai là theo ngày. Tháng nhuận này được làm ra theo tháng, ngày tháng tư phải làm hai tháng nhỏ: một tháng nhỏ là trong nửa tháng thứ ba; tháng nhỏ thứ hai là trong nửa tháng thứ bảy. Trong một năm phải có sáu tháng nhỏ, năm năm đủ thiếu ba mươi ngày, ba mươi ngày này phải thêm trong năm năm, nếu không làm tháng nhỏ thì tháng tròn không đúng. Tháng nhỏ làm ra theo ngày, theo thế gian mà nói, vì ba mươi mâu-hưu-đa nhất định là một ngày đêm, phân ba mươi mâu-hưuđa làm sáu mươi phần; vì mặt trời đi nhanh nên năm mươi chín phần liền đi khắp, dư một phần. Vì việc này nên tháng hai thì dài một ngày, tháng hai lại dài một ngày cho đến một năm, dài đủ sáu ngày, năm năm như vậy thì dài một tháng, dùng một tháng này thêm vào trong năm năm, đó là tháng nhuận. Nếu không làm tháng nhuận thì thời tiết và năm đều sai không chính xác. Lại nữa năm năm phải có hai tháng nhuận: tháng thứ nhất là ở năm thứ ba, tháng thứ hai là ở năm thứ năm. Nếu mặt trăng ở trong Diêm-phù-đề thì mặt trời đến Tây Cù-da-ni lại là tháng ba, nếu ở Bắc Uất-đơn-việt thì mặt trời tháng sáu, nếu ở Đông Phất-bà-đề thì mặt trời tháng chín. Nếu giáp một năm thì trở lại Diêmphù-đề. Trong một thiên hạ thường có ba thời: hạ, đông, xuân, hạ là tùy theo xuân, đông là tùy theo hạ, xuân là tùy theo đông. Vào ngày mười lăm tháng tám ở Đông Phất-bà-đề mát mẻ thì ở Diêm-phù-đề là ngày kiết hạ mười lăm tháng năm; mười lăm tháng hai ở Tây Cù-da-ni là ngày mười lăm tháng mười một ở Bắc Uất-đơn-việt. Hạ phần tháng ba ở Đông Phất-bà-đề đã sang ở giữa hai châu Đông Phất-bà-đề và Nam Diêm-phù-đề, xuân phần tháng ba ở Tây Cù-da-ni chưa sang giữa hai châu Diêm-phù-đề và Cù-da-ni thì xuân ở Cù-da-ni đã sang một tháng, Đông phần ở Uất-đơn-việt chưa sang hai tháng, đó là ba tháng ở giữa Cù-da-ni và Uất-đơn-việt; đông phần ở Uất-đơn-việt chưa sang hai tháng, hạ phần ở Phất-bà-đề chưa vào một tháng, đó là ba tháng ở giữa hai châu Uất-đơn-việt và Phất-bà-đề. Núi Tu-di ở giữa bốn thiên hạ, vì sao nó lại ở phía Bắc bốn thiên hạ? Đó là tùy theo mặt trời đi, phân chia phương Đông Đông Phất-bà-đề là phương Bắc Nam Diêm-phù-đề là phương Tây Đông Phất-bà-đề là phương Nam Nam Diêm-phù-đề; phương Bắc Đông Phất-bà-đề là phương Tây Nam Diêm-phù-đề; phương Nam Đông Phất-bà-đề là phương Đông Nam Diêm-phù-đề. Bắc Uất-đơn-việt và Tây Cù-da-ni lại cũng như vậy, Nam Diêm-phùđề và Bắc Uất-đơn-việt đối nhau, Đông Phất-bà-đề và Tây Cù-da-ni đối nhau. Lúc ấy mặt trời mặt trăng bắt đầu sinh ra thế gian, cách nhau rất xa, mặt trời chiếu chính giữa Đông Phất-bà-đề thì mặt trăng ở chính giữa Tây Cù-da-ni. Lúc ấy ánh sáng chiếu khắp bốn thiên hạ, mặt trời chiếu một nửa, mặt trăng chiếu một nửa. Nếu mặt trời đã qua chính giữa Đông Phất-bà-đề thì nó đã lặn Bắc Uất-đơn-việt và đã mọc ở Nam Diêm-phù-đề.Nếu mặt trăng đã đi qua chính giữa Tây Cù-da-ni thì đã lặn ở Diêm-phù-đề và đã mọc ở Uất-đơn-việt. Nếu trăng tròn ban đêm đã đến, lúc mặt trăng đang ở chính giữa Uất-đơn-việt thì mặt trời ở chính giữa Nam Diêm-phù-đề, mặt trời qua giữa Diêm-phù-đề thì đã lặn ở Đông Phất-bà-đề và đã mọc ở Tây Cù-da-ni. Nếu mặt trăng đi qua chính giữa Bắc Uất-đơn-việt thì ở Đông Phất-bà-đề đã mọc và ở Tây Cù-da-ni đã lặn. Nếu trăng ban đêm tròn ở Đông Phất-bà-đề đang ở chính giữa thì mặt trời đang ở chính giữa Tây Cù-da-ni, mặt trời đi qua trung ương Tây Cù-da-ni thì đã lặn ở Diêm-phù-đề và đã mọc ở Uấtđơn-việt. Nếu mặt trăng đi qua trung ương Đông Phất-bà-đề thì đã lặn ở Uất-đơn-việt và đã mọc ở Diêm-phù-đề. Trăng tròn ban đêm ở Diêmphù-đề đang ở chính giữa thì mặt trời ở Bắc Uất-đơn-việt đang ở chính giữa. Vì sao mặt trời mặt trăng hợp tại một chỗ? Nghĩa là do sự chuyển động của mặt trăng nên dường như mặt trời cũng chuyển động theo, mỗi ngày gần nhau bốn vạn tám nghìn tám mươi do tuần, mỗi ngày xa nhau cũng lại như vậy. Lúc gần nhau mỗi ngày mặt trăng bị che ba một phần ba do-tuần, vì việc này nên mặt trăng ngày mười lăm bị che hoàn toàn, đó gọi là ngày hắc bán mãn. Mặt trời cách mặt trăng cũng bốn vạn tám nghìn tám mươi do-tuần, mặt trời chiếu mặt trăng ba một phần ba dotuần, vì việc này nên trăng ngày mười lăm tròn sáng vằng vặc, ở thế gian gọi là bạch bán mãn. Nếu mặt trời và mặt trăng quay cách xa nhau nhất, lúc đó trăng tròn, thế gian gọi là bạch bán viên mãn. Nếu mặt trời và mặt trăng quay gặp nhau trên một trục, thế gian gọi là hắc bán viên mãn. Kinh độ của ánh sáng mặt trời là bảy ức hai vạn một nghìn hai trăm do-tuần, chu vi là hai mươi mốt ức sáu vạn ba nghìn sáu trăm dotuần. Lúc mặt trời mọc ở Diêm-phù-đề thì cũng lúc là mặt trời lặn ở Uất-đơn-việt; lúc mặt trời đang chính giữa Đông Phất-bà-đề thì ở Tây Cù-da-ni đang giữa đêm. Bốn thời trong một thiên hạ này là do mặt trời mà hình thành. Nghĩa như vậy, đức Phật Thế Tôn đã dạy, tôi nghe như vậy.
LUẬN LẬP THẾ A TỲ ĐÀM
QUYỂN 6
Phẩm 20: VÌ SAO
Vì sao có ngày, vì sao có đêm? Vì có mặt trời nên có đêm, vì có mặt trời nên có ngày; Dục giới có tự tánh tối tăm. Vì ánh sáng mặt trời ẩn nên đó là đêm, vì ánh sáng mặt trời hiện nên là ngày.
Tại sao nửa tối (hắc bán), tại sao nửa sáng (bạch bán)? Do một nửa có ánh sáng mặt trời, do một nửa tối mặt trời. Mặt trăng do thường quay nên dường như mặt trời cũng quay theo, mỗi một ngày gần nhau bốn vạn tám nghìn tám mươi do-tuần, một ngày cách nhau cũng là như vậy. Nếu lúc gần nhau thì ban ngày mặt trăng bị che khuất mặt trời ba một phần ba do-tuần. Vì việc này nên trăng ngày mười lăm bị che khuất thì ngày là nhật hắc bán mãn. Ban ngày mặt trời cách mặt trăng cũng bốn vạn tám nghìn tám mươi do-tuần, mặt trời ban ngày chiếu đến mặt trăng ba một phần ba do-tuần. Vì việc này nên mặt trăng ngày mười lăm sáng trong, tròn đầy, thế gian gọi là bạch bán viên mãn. Nếu mặt trời và mặt trăng cùng ở trên một trục gọi là hợp hành, thế gian gọi là nhật hắc bán viên mãn. Mặt trời tùy theo đường đi của mặt trăng mà mặt trời chiếu sáng mặt trăng. Vì ánh sáng mặt trăng nên sự chiếu sáng ấy sinh ra ảnh, ảnh của mặt trăng này tự trở lại che mặt trăng, cho nên thấy phần phía sau mặt trăng không tròn, vì việc này nên dần dần bị che khuất, đến ngày mười lăm che hết mặt trăng, tùy lúc quay về sau mà gọi là hắc bán. Nếu mặt trời đi trước mặt trăng, thì mặt trời ban ngày sáng trong cũng như vậy, đến ngày mười lăm tròn sáng đầy đủ. Lúc đi ở trước thì gọi là bạch bán.
Vì sao mùa Đông gọi là Hê-mạn-đa! Vì lúc này lạnh đã đến, tuyết rơi, cho nên mùa đông gọi là Hê-mạn-đa. Thế gian lập ra tự tánh này gọi là Hê-mạn-đa. Vì sao xuân thời gọi là Cầm-hà! Vì lúc mặt trời đang chiếu gần là lúc nóng nhất, lúc đang khô, cho nên nói xuân thời là Cầm-hà. Thế gian lập tự tánh này tên là Cầm-hà. Vì sao hạ thời gọi là Bạt-sa? Là lúc trời mưa, là lúc mưa phùn, là lúc đầu năm cho nên gọi là Bạt-sa. Thế gian lập tự tánh là Bạt-sa.
Vì sao mùa đông lạnh, mùa xuân nóng, mùa hạ nóng lạnh? Vì mùa đông thủy giới dài nhất, chưa giảm, cỏ cây còn ẩm ướt, chưa khô héo; địa đại ẩm ướt, hỏa đại giáng xuống, thủy khí bốc lên.
Vì sao biết? Vì nước sâu thì ấm nhất, nước cạn thì lạnh, tiết lạnh đã đến, mặt trời quay đường ngoài chiếu nóng không lâu, dương khí ở trong thì thức ăn tiêu nhanh, vì việc này nên mùa đông thì lạnh.
Vì sao mùa xuân nóng? Vì lúc thủy giới dài của Cầm-hà đã giảm, đã hết, cỏ cây khô héo, đất đã khô ráo, thủy khí giáng xuống, hỏa khí bốc lên. Vì sao biết? Vì nước sâu thì lạnh, nước cạn thì nóng, mùa đông đã qua, mặt trời đi đường trong, chiếu nóng thì lâu. Trong thân hỏa kém nên mùa xuân nóng.
Vì sao mùa hạ lại lạnh nóng? Trong ngày tháng tám, đại địa thường nhận sự chiếu nóng, mây lớn giáng mưa lớn rưới khắp địa khí bốc hơi ngùn ngụt. Nếu lúc có gió thổi thì lạnh, nếu gió không thổi thì lúc này nóng, cho nên Bạt-sa có lúc lạnh, lúc nóng.
Vì sao địa ngục gọi là Nê-lê-da? Vì không được sự vui chơi, không có đi ra, không có phước đức, vì không lìa bỏ được nghiệp nên sinh ở trong đó. Lại nữa nói đạo này ở trong Dục giới là thấp kém nhất, gọi là phi đạo. Vì việc này nên gọi là Nê-lê-da?
Vì sao cầm thú gọi là Để-lật-xa? Vì nghiệp quanh co nên thọ sinh ở trong đó. Lại nữa, vì đạo này, chúng sinh có nhiều sự che chướng thân hành nên gọi là Để-lật-xa.
Vì sao gọi Quỷ đạo là Thiểm-đa-diêm-ma-la, vua ở đó gọi là Thiểm-đa, cho nên chúng sinh ở đó đồng lọai với vua nên gọi là Thiểmđa. Lại nữa, đạo này có thể trở về đạo khác, vì thiện ác thông nhau nên gọi là Thiểm-đa.
Vì sao nói đạo A-tu-la gọi là A-tu-la? Vì không thể nhẫn thiện, không thể nhất tâm, chú ý lắng nghe lời thiện và vô số sự giáo hóa mà tâm ấy vẫn không lay chuyển; vì kiêu mạn làm lực sĩ phi thiện; lại vì phi thiên nên gọi là A-tu-la.
Vì sao thiên đạo gọi là Đề-bà? Nói Đề-bà nghĩa là tên khác của thiện hạnh. Vì thiện hạnh nên sinh trong đạo này; lại gọi Đề-bà là quang minh, vì thường có ánh sáng. Lại nữa, Đề-bà gọi là Thánh đạo, lại gọi Đề-bà là ý lạc, lại gọi Đề-bà là thượng đạo, lại gọi Đề-bà là cần tu, cần nuôi lớn tất cả thiện nghiệp. Vì nghĩa này nên gọi là Đề-bà.
Vì sao gọi nhân đạo là Ma-nô-sa? Một là vì thông minh, hai là vì vượt trội, ba là vì ý vi tế, bốn là vì Chánh giác, năm là trí tuệ tăng thượng, sáu là có thể phân biệt được hư thực, bảy là có thể là pháp khí của Chánh đạo, tám là sinh ra được sự thông tuệ, cho nên nói nhân đạo là Ma-nô-sa. Vì sao cõi này gọi là Diêm-phù-đề? Vì cõi này có cây Diêm-phù nên gọi cõi này là Diêm-phù-đề.
Vì sao gọi là Tây Cù-da-ni? Vì cõi này ở phía Tây Diêm-phù, vật dụng mua bán đều dùng bò, bò gọi là Cù-da-ni, cho nên gọi cõi này là Tây Cù-da-ni.
Vì sao gọi là Đông Tỳ-đề-ha? Vì cõi này ở phía Đông cõi Diêmphù, có hình dạng đáng yêu, lợi dưỡng vượt trội nên gọi là Tỳ-đề-ha.
Vì sao gọi là Bắc Uất-đơn-việt? Vì cõi này ở phía Bắc cõi Diêmphù, tâm tính ngay thẳng, hiền lành, lại muốn thắng vượt, tất cả của cải đều hơn hẳn chỗ khác nên gọi là Bắc Uất-đơn-việt.
Vì sao gọi trời thứ nhất là Đại Vương Thiên Đề đầu-tra? Vì Tứ Đại Vương là thượng thủ ở trong đó.
Vì sao gọi trời thứ hai là Đao Lợi? Vì vua trời ba mươi ba làm đế chủ ở trong đó, vua ở địa vị tự tại nên gọi là trời Đao Lợi.
Vì sao gọi trời thứ ba là Dạ-ma? Là tùy theo thời gian ngày đêm, tiết phần, phân độ mà nói như vậy: “Ôi! Vui sướng khó thể nghĩ bàn!” nên gọi là Dạ-ma.
Vì sao gọi trời thứ tư là Đâu-suất-đà? Nghĩa là vui thích, no đủ nơi tài vật mà tự biết đủ, nơi Bát Thánh đạo thì không sinh lòng biết đủ, nên gọi là trời Đâu-suất-đà.
Vì sao gọi trời thứ năm là Duy-ma-la-nặc? Vì Chư thiên trong đó biến hóa như ý tất cả của cải, cung điện, vườn rừng và niềm vui của thọ ở trong đó nên gọi là trời Duy-ma-la-nặc.
Vì sao gọi trời thứ sáu là Ba-la-duy-ma-bà-xa? Vì là biến hóa tất cả lạc cụ, vườn rừng, cung điện của người khác mà tự tại ở trong đó. Đó là ngã sở niềm vui của thọ ở trong đó, cho nên gọi là Ba-la-duy-ma-bà-xa.
Vì sao gọi cõi Phạm thiên thứ nhất là Phạm Tiên Hành? Vì người nào nếu từ Dục giới trước khi vào Sắc giới phải đến chỗ này nên gọi là Phạm Tiên Hành.
Vì sao gọi trời Phạm Thiên thứ hai là Phạm Chúng? Vì quyến thuộc của Đại Phạm Vương rất nhiều nên gọi là Phạm Chúng.
Vì sao gọi cõi Phạm Thiên thứ ba là Đại Phạm? Vì thiền định mà Đại Phạm Thiên chứng được là trung gian thiền, vượt trên sơ thiền; vì tự tại, không lệ thuộc người khác nên có thể quán biết được việc khác, vì làm chủ việc đã sanh chỗ đáng sanh nên gọi là Đại Phạm.
Vì sao gọi cõi trời đầu tiên của Nhị thiền là Thiểu Quang? Vì lúc nói, trong miệng có phát ra một ít ánh sáng nên gọi là Thiểu Quang.
Vì sao gọi tầng trời thứ hai thuộc cõi Nhị Thiền Thiên là Vô Lượng Quang? Vì chư thiên… này lúc nói ra, trong miệng có vô lượng ánh sáng chiếu ra nên gọi là Vô Lượng Quang Thiên.
Vì sao gọi tầng trời thứ ba của Nhị thiền thiên là Biến Thắng Quang? Vì chư thiên… này lúc nói ra trong miệng phát ra ánh sáng biến khắp tất cả chỗ, tròn đầy không khuyết thiếu nên gọi là Biến Thắng Quang.
Vì sao gọi cõi trời thứ nhất của Đệ tam thiền là Thiểu Tịnh? Vì chư thiên trong đó chỗ niềm vui của thọ còn ít, sự tịch tịnh niềm vui của thọ tương ưng với tam thiền, vì thọ ít tịnh lạc nên gọi là Thiểu Tịnh.
Vì sao gọi cõi trời thứ hai của Đệ tam thiền là Vô Lượng Tịnh? Vì chư thiên ở đây niềm vui của thọ tịch tịnh hơn cõi trước, vì sự niềm vui của thọ tương ưng với tam thiên nên gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.
Vì sao gọi cõi trời thứ ba của Đệ tam thiền là Biến Tịnh? Vì chư thiên trong đây niềm vui của thọ biến khắp, thân tâm rốt ráo vô dư, niềm vui của thọ tịch tĩnh tương ưng với tam thiền, vì chư thiên niềm vui của thọ này nên gọi là Biến Tịnh Thiên.
Vì sao gọi cõi trời thứ nhất của Đệ tứ thiền là Vô Vân? Vì khổ, lạc diệt trước, phương tiện trước tiên là lắng hết ưu, hỷ, trong đó xả thọ trí niệm thanh tịnh; chư thiên trong đó thọ sự xả thọ này nên gọi là Vô Vân.
Vì sao gọi cõi trời thứ hai là Sinh Phước? Phước là chỗ sinh các thiền tương ưng với trí, niệm, xả…; đã sinh sự thọ dụng ba chi như vậy nên gọi là trời Sinh Phước.
Vì sao gọi cõi trời thứ ba là Quảng Quả? Quảng nghĩa là dung chứa lớn chỗ sinh công lực quả và báo, hai công lực quả và báo này có thể thâu được định tuệ và ly dục y chỉ nên gọi là Quảng Quả Thiên. Vì sao gọi cõi trời thứ tư là Vô Tưởng Thiên? Vì Chư thiên trong đây không có tưởng. Cái gì là tưởng? Là hai tưởng riêng, chung; mỗi một đều có báo dị sinh, vì trong đó không có nên chỉ có sắc ấm và bất tương ưng hành ấm nên gọi là Vô Tưởng Thiên.
Vì sao gọi cõi thứ nhất của Na Hàm Thiên là Thiện Hiện? Vì lúc xưa ở nhân địa có thể thấy thật nghĩa không điên đảo, có thể thọ nhận và có thể hiểu rõ nên gọi là Thiện Hiện.
Vì sao gọi cõi trời thứ hai gọi là Thiện Kiến? Vì xưa kia ở nhân địa chư thiên ở đây đem tài vật, của cải tứ chi tăng thọ mạng cho người khác và làm việc lợi ích, khéo gìn giữ chân chánh. Ở trong đó sanh chánh kiến không bỏ, không giữ, nhờ nhân ở cõi Thiện Hiện trước và nhân này nên gọi là Thiện Kiến.
Vì sao cõi thứ ba gọi là Bất Phiền? Vì xưa kia ở nhân địa, chư thiên ở đây không hề tổn hại kẻ khác, không có ý chướng ngại, không có ý bức bách. Nhờ nhân cõi Thiện Hiện trước và nghiệp này nên gọi là Bất Phiền.
Vì sao gọi cõi trời thứ tư ở đây gọi là Bất Thiêu? Vì xưa kia ở nhân địa, chư thiên ở đây không thiêu đốt bản thân, không làm cho thân khốn khổ; lại không thiêu đốt và làm khốn khổ kẻ khác, mình và người đều lạc hành, mau chóng thông đạt. Nhờ nhân cõi Thiện Hiện trước và nghiệp này nên gọi là Vô Thiêu.
Vì sao gọi cõi trời thứ năm là A-ca-nị-tra? Ca-nị-tra nghĩa là Hạ Phẩm, vì đều đã qua mười bảy địa trước. Lại có Bát Niết bàn trong đó: từ Hạ Phẩm thiên đến Cứu Cánh thiên; lại có Chư thiên tên là A-ca-nịtra đến Bát Niết bàn, cho nên gọi là A-ca-nị-tra.
Vì sao gọi cõi trời thứ nhất của Vô sắc giới là Không Vô Biên Nhập? Không là không chỗ làm, không hữu vi, không ngăn ngại, vượt qua tướng ngại và vô số tướng có, tâm sở duyên vào một tưởng, không có hai, không có khác. Do nghiệp sinh “không” này, cho nên gọi là Không Vô Biên Nhập.
Vì sao gọi cõi trời thứ hai là trời Thức Vô Biên Nhập? Thức là ý thức thứ sáu, đây là thức bên trong nên vi tế hơn “không” ở ngoài, vượt qua tướng ngại, vượt qua tướng bên ngoài; vì tâm sở duyên vào một tưởng nên không hai, không sót. Do nghiệp sinh thức này, cho nên gọi là Thức Vô Biên Nhập.
Vì sao gọi cõi trời thứ ba là trời Vô Sở Hữu Nhập? Vô Sở Hữu nghĩa là từ bỏ hai tướng thô trước, lìa hai tướng bên ngoài này, không có cảnh giới khác, vượt qua tướng trong, ngoài; tâm sở duyên vào một tưởng nên không hai không sót. Do nghiệp sinh tâm này, cho nên nói là Vô Sở Hữu Nhập.
Vì sao gọi cõi trời thứ tư là trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Nhập? Phi Tưởng nghĩa là tưởng vi tế, chẳng phải là định của bảy ngôi Thánh trước nên gọi là Phi Tưởng. Phi Phi Tưởng là như định vô tưởng và định vô tâm, như hai định này gọi là vô tưởng định, đồng với vô tâm, vì nay hữu tâm (còn tưởng tế), nên gọi là Phi Phi tưởng. Vì chỗ sinh định này nên gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Nhập.
Từ cõi Diêm-phù-đề xuống dưới hai vạn do-tuần là đại địa ngục Vô Gián. Từ cõi Diêm-phù-đề trở xuống một vạn do-tuần là địa ngục Dạ Ma thế gian. Ở giữa hai địa ngục này có địa ngục khác nữa. Từ cõi Diêm-phù-đề trở lên bốn vạn do-tuần là cõi trời Tứ Đại Thiên Vương. Từ cõi Diêm-phù-đề trở lên tám vạn do-tuần là trú xứ cõi trời Ba mươi ba. Từ cõi Diêm-phù-đề trở lên mười sáu vạn do tuần là trú xứ cõi trời Dạ Ma. Từ cõi Diêm-phù-đề trở lên ba ức hai vạn do-tuần là trú xứ cõi trời Đâu suất đà. Từ cõi Diêm-phù-đề trở lên sáu ức bốn vạn do-tuần là trú xứ cõi trời Hóa lạc. Từ cõi Diêm-phù-đề trở lên mười hai ức tám vạn do-tuần là trú xứ của cõi trời Tha Hóa Tự Tại.
Có Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: “Bạch Thế Tôn! Từ cõi trời Diêm-phùđề đến trời Phạm xứ là bao xa?” Đức Phật đáp: “Này Tỳ-kheo! Từ cõi Diêm-phù-đề đến Phạm xứ rất xa, rất cao, khác nhau, xa nhau. Này Tỳ-kheo! Ví như có người vào ngày mười lăm tháng chín, lúc trăng tròn ném một hòn đá vuông một trăm trượng (một trượng khỏang 3,2mét) xuống giữa không trung không ngăn chướng của Hạ giới thì đến lúc trăng tròn tháng chín năm sau mới đến Diêm-phù-đề. Phạm xứ và Diêm-phùđề cách xa như vậy. Từ Phạm xứ đến trời Thiểu Quang lại cách nhau gấp đôi ở trước. Từ cõi trời Thiểu Quang đến cõi trời Vô Lượng Quang lại xa gấp bội. Từ trời Vô Lượng Quang đến trời Biến Thắng Quang lại xa gấp bội. Từ trời Biến Thắng Quang đến trời Thiểu Tịnh lại xa gấp bội. Từ trời Thiểu Tịnh đến trời Vô Lượng Tịnh lại xa gấp bội. Từ trời Vô Lượng Tịnh đến trời Biến Tịnh lại xa gấp bội. Từ trời Biến Tịnh đến trơi Vô Vân lại xa gấp bội. Từ trời Vô Vân đến trời Sinh Phước lại xa gấp bội. Từ trời Sinh Phước đến trời Quảng Quả lại xa gấp bội. Từ trời Quảng Quả đến trời Vô Tưởng lại xa gấp bội. Từ trời Vô Tưởng đến trời Thiện Hiện lại xa gấp bội. Từ trời Thiện Hiện đến trời Thiện Kiến lại xa gấp bội. Từ trời Thiện Kiến đến trời Bất Phiền lại xa gấp bội. Từ trời Bất Phiền đến trời Bất Thiêu lại xa gấp bội. Từ trời Bất Thiêu đến trời A-ca-nị-tra lại xa gấp bội. Đức Phật nói kệ:
Từ A-ca-nị-tra
Đến cõi Diêm-phù-đề
Ném đá núi Đại Mật
Sáu vạn năm nghìn năm
Năm trăm ba mươi lăm
Hư không không chướng ngại
Mới đến nơi Diêm-phù.
Người Diêm-phù-đề nếu lìa thần thông và công lực khác thì không thể vào ra vô ngại nơi rừng cây và vách núi. Nếu người Diêm-phù-đề du hành thì chỉ có thể đến ở Hắc Sơn lớn nhỏ, nếu lìa thần thông và công lực khác thì không thể vượt qua Tây Cù-da-ni này. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể lên xuống vô ngại nơi vách núi. Nếu người dạo chơi thì chỉ có thể đến nơi đất liền bờ biển. Nếu lìa thần thông và công lực khác thì không thể vượt qua Đông Phấtbà-đề này. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể lên xuống vô ngại nơi vách núi, nếu dạo chơi thì có thể đến nơi đất liền của núi ấy và bờ biển. Nếu lìa thần thông và công lực khác thì không thể vượt qua Uất-đơn-việt này. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể lên xuống vô ngại nơi vách núi, nếu du hành thì chỉ có thể đến vùng xung quanh của núi ấy. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể vượt qua chỗ cung điện của Tứ Đại Thiên vương này. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể vào ra vô ngại nơi vách núi, nếu người dạo chơi thì chỉ có thể đến trong núi Thiết Vi. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể vượt qua chỗ cung điện chư thiên Đao Lợi này. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể vào ra vô ngại nơi vách núi, nếu người du hành thì chỉ đến vùng núi Thiết Vi. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể vượt qua chỗ cung điện chư thiên Dạ Ma, Đâu suất Đà, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại và Phạm Tiên Hành, Phạm Chúng. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể vào ra vô ngại nơi đường vào vách núi, nếu người du hành thì chỉ đến trong một thế giới. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể đến chỗ cung điện của Đại Phạm Thiên Vương. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể lên xuống vô ngại nơi rừng cây vách núi, nếu người du hành thì chỉ ở trong một nghìn thế giới. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể vượt qua chỗ cung điện từ trời Đệ nhị thiền đến trời A-nị-tra, cũng nói như trên, nếu người du hành thì chỉ ở trong một nghìn thế giới. Nếu người nào lìa thần thông và công lực khác thì không thể vượt qua trong đại địa ngục, lấy đại ngục tốt làm vua Phú tự tại. Tất cả cầm thú và thủy La sát lấy vua Bà-lâu-na làm vua Phú tự tại. Các rắn, rồng… lấy long vương Bà-tu-cát làm vua Phú tự tại. Các Đại Long lấy Long Vương Ma-na-tư làm vua Phú tự tại. Các voi, rồng lấy Tượng vương Lâu-xà-kỳ-lợi làm vua Phú tự tại. Các phi điểu lấy vua Ca-lâu-la làm vua Phú tự tại. Chúng sinh đi bốn chân lấy vua sư tử làm vua Phú tự tại. Tất cả Quỷ đạo lấy vua Quỷ tôn làm vua Phú tự tại. Tất cả Tu-la đạo lấy vua Tứ Tu la làm vua Phú tự tại. Trong cõi Diêm-phù-đề: Một là La-hầu, hai là Ba-la-đà, ba là Tỳ-ma-chất-đa, bốn là Bà-lợi-tỳ-lô-giá lấy vua Chuyển luân làm vua Phú tự tại, vua một xứ làm vua Phú tự tại, bậc tôn lão của quốc chúng làm vua Phú tự tại, có lúc không có vua như mới lập kiếp. Tây Cù-da-ni lấy vua Chuyển Luân làm vua Phú tự tại , bậc tôn lão của quốc chúng làm vua Phú tự tại, có lúc không có vua như mới lập kiếp. Cõi Đông Phất-bà-đề lấy vua Chuyển Luân làm vua Phú tự tại, bậc trưởng lão của quốc chúng làm vua Phú tự tại, có lúc không có vua như mới lập kiếp. Cõi Bắc Uất-đơn-việt lấy vua Chuyển luân làm vua Phú tự tại, có lúc không có vua. Cõi Tứ thiên vương lấy Tứ Đại Thiên Vương làm vua Phú tự tại. Cõi trời Đao Lợi lấy vua trời Ba mươi ba làm vua Phú tự tại. Cõi trời Dạ-ma lấy vua Tu-dạ-ma làm vua Phú tự tại. Cõi trời Đâu-suất-đà lấy vua Thiện Túc Ý làm vua Phú tự tại. Cõi trời Tha Hóa Tự Tại lấy vua Tự Tại làm vua Phú tự tại. Trong tất cả Dục giới lấy vua Hữu Ác Ma làm vua Phú tự tại. Trong một nghìn thế giới lấy Thiên Vương Đại Phạm làm vua Phú tự tại. Thế gian và ma vương chư thiên chỗ Đại Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn và nhân thiên lấy pháp Như Lai A-ma-la Tam Miệu Tam Phật Đà làm vua Phú tự tại. Nếu hài nhi đã sinh tròn bốn tháng ở Diêm-phù-đề như trẻ sơ sinh lớn ở Tây Cù-da-ni, trẻ sơ sinh ở Đông Phất-bà-đề như trẻ lớn năm tháng ở Diêm-phù-đề . Nếu trẻ sơ sinh tròn sáu tháng ở Diêm-phù-đề thì như trẻ sơ sinh ở Uất-đơn-việt, như trẻ sáu năm ở Diêm-phù-đề; trẻ ở Tứ Thiên Vương cũng như vậy, trẻ sinh đến ngày thứ bảy lớn như cha mẹ, như trẻ bảy năm ở Diêm-phù-đề. Trẻ sơ sinh ở cõi trời Đao Lợi cũng như vậy, sinh đến ngày thứ bảy… đã thành người , như trẻ sinh tám năm ở Diêm-phù-đề. Trẻ sơ sinh ở cõi trời Dạ-ma cũng vậy, sinh đến ngày thứ bảy… đã thành người lớn, như trẻ năm thứ chín ở Diêm-phù-đề. Trẻ sơ sinh ở trời Đâu-suất-đà cũng như vậy, đến bảy ngày… đã thành người. Từ trời Hóa Lạc đến trời A-ca-nị-tra sinh ra xứng với hình tướng ở đó và liền đầy đủ, ở Diêm-phù-đề một tầm rưỡi thì ở Tây Cù-da-ni một tầm; ở Tây Cù-da-ni một tầm rưỡi thì ở Đông Phất-bà-đề một tầm: Ở Đông Phật-bà-để một tầm rưỡi thì ở Bắc Uất-đơn-việt một tầm; ở trời
Tứ Thiên Vương một già-phù-địa một và một phần tư do-tuần; thân Tứ Thiên Vương dài hai già-phù-địa thì ở Chư thiên Đao Lợi dài nửa do-tuần; thân Đế Thích dài ba già-phù địa Chư thiên Dạ-ma dài một do-tuần; thân trời Đâu-suất-đà dài hai do-tuần thì Chư thiên Hóa Lạc dài bốn do-tuần; thân trời Tha Hóa Tự Tại dài tám do-tuần thì tất cả Sắc giới đến trời A-ca-nị-tra đều dài mười hai do-tuần; trời Diêm-phù-đề đến trời A-ca-nị-tra tự thân đều dài bốn khuỷu tay. Sắc thân của chúng sanh cõi Diêm-phù-đề có vô số không đồng: chúng sinh da trắng là như nước Da-bà-na, Bà-lợi-kha-chỉ-na…, có chúng sinh da đen như ở nước: Bạtbà-la, Kiếm-phổ-xà… chúng sinh da xanh như ở nước Đà-mi-la, Tâmha-la… Có chúng sinh da đỏ trắng như ở nước Thủ-đà-ha, Tỳ-la…; Có chúng sinh da vàng như ở nước Cơ-la-đa, Kế-tân… Ở Đông Phất-bà-đề và Tây Cù-da-ni chỉ trừ da đen, ngoài ra đều như Diêm-phù-đề. Tất cả nhân dân ở Bắc Uất-đơn-việt đều sáng trong. Cõi trời Tứ Thiên Vương có bốn lọai sắc có xanh thẩm, vàng, đỏ, trắng. Sắc của tất cả Chư thiên Dục giới đều như vậy.
Vì sao sắc chư thiên có bốn lọai? Lúc mới thọ sinh, nếu thấy thân rực rỡ màu xanh thì là sắc xanh, sắc khác cũng như vậy. Y phục người Diêm-phù-đề có áo ca-ba-bà-xô-ma, áo kiêu-xa-da, áo lông, áo vải gai, áo gai, áo cỏ, áo vỏ cây, áo da thú, áo ván gỗ, áo Kiếp-ba-thụ-tử. Y phục người Tây Cù-da-ni, có áo ca-ba-bà, áo xô-ma, áo kiêu-xà-da,áo lông, áo vải gai, áo gai, áo cỏ, áo vỏ cây, áo da thú, áo ván gỗ, áo kiếp-bathụ-tử. Người Đông Phất-bà-đề có áo ca-bà-ba, áo xô-ma, áo kiêu-xada, áo lông, áo vải gai, áo gai. Người Uất-đơn-việt có áo kiếp-ba-thụ-tử, dài hai mười khuỷu tay, rộng mươi khuỷu tay, nặng một bà-la (một lạng). Trời Tứ Thiên Vương cũng có áo kiếp-bà, dài bốn mươi khuỷu tay, rộng hai mươi khuỷu tay, nặng nửa bà-la. Cõi trời Đao Lợi cũng có áo trước-kiếp-bà, dài tám mươi khuỷu tay, rộng bốn mươi khuỷu tay, nặng một và một phần tư bà-la. Trời Dạ-ma có áo trước-kiếp-ba dài một trăm sáu mươi khuỷu tay, rộng tám mươi khuỷu tay, nặng một một phần tám bà-la. Cõi trời Đâu-suất-đà có áo trước-kiếp-ba dài ba trăm hai mươi khuỷu tay, rộng một trăm sáu mươi khuỷu tay, rộng một một phần mười sáu bà-la. Cõi trời Hóa Lạc cho đến Tha Hóa Tự Tại có y phục lớn nhỏ tùy ý, nặng nhẹ cũng vậy. Y phục người Diêm-phù-đề trang sức vô số không đồng, hoặc có người tóc dài làm hai búi (tóc), hoặc có người cạo râu tóc, hoặc có người giữ lại một búi tóc ở trên đỉnh đầu, ngoài ra đều cạo hết gọi là Chu-la-kế, hoặc có người nhổ bỏ râu tóc, hoặc có người cắt râu cắt tóc, hoặc có người bện tóc, hoặc có người trùm đầu tóc, hoặc có người cắt trước trùm sau cho tròn, hoặc có người khỏa hình, hoặc có người mặc áo quần che trên hở dưới, hoặc có người hở trên che dưới, hoặc trên dưới đều che, hoặc trước sau không chướng. Người Tây Cùda-ni trang sức đều trùm đầu tóc, mặc áo quần trên dưới. Như người ở nước Thủ-đà-a-tỳ-la, Đông Phất-bà-đề trang sức đầu tóc bằng cách cắt trước trùm sau, hai áo trên dưới: mặc áo dưới, áo trên chỉ quấn mà thôi, như sự trang sức của hai nước Ương-già-ma, Già-đà. Người ở Bắc Uấtđơn-việt trang sức tóc râu, tô điểm lông mày, thường như cắt lụa mỏng, năm ngày tự nhiên đầu tóc dài, dài ra bảy lóng tay không có tăng giảm. Ở cõi trời Tứ Thiên Vương trang sức vô số lọai không đồng, hoặc có người phân tóc ra làm hai búi, hoặc có người cạo hết râu tóc, hoặc để lại một búi tóc trên đỉnh đầu, tóc còn lại đều cạo hết, gọi là Chu-la-kế, hoặc nhổ bỏ râu tóc, hoặc có người cắt tóc cắt râu, hoặc có người bện tóc, hoặc có người trùm đầu tóc, hoặc có người cắt trước trùm sau cho tròn, hoặc có người khỏa hình, hoặc có người mặc áo quần che trên hở dưới, hoặc có người hở trên che dưới, hoặc trên dưới đều che, hoặc trước sau không chướng. Chư thiên Dục giới trang sức cũng như vậy, chư thiên sắc giới không mặc nhưng cũng như mặc áo quần không sót, đầu tuy không để búi tóc trên đỉnh nhưng tợ như mũ trời, vượt qua tướng nam nữ, thân hình chỉ một lọai. Người Diêm-phù-đề ăn thức ăn: gạo, nếp, lúa mì, bột mì, thịt, cá, tế-khư-đà-ni, quả-khư-đà-ni. Thức ăn uống người Tây Cù-da-ni: lúa nếp, lúa mì, bột mì, cá, thịt, tế-khư-đà-ni, cănkhư-đà-ni, quả-khư-đà-ni, trong đó pho-mát là nhiều nhất. Người Đông Phất-bà-đề ăn thức ăn: gạo nếp, lúa mì, bột mì, cá, thịt, tế-khư-đà-ni, căn-khư-đà-ni, quả-khư-đà-ni, trong đó ăn nhiều nhất là gạo nếp xa-lợi. Người ở Bắc Uất-đơn-việt ăn thức ăn: gạo nếp xa-lợi, không trồng mà tự mọc, không lép không vụn, cũng không có cám, gạo tự nhiên sạch, sắc, hương, vị, xúc đều rất tuyệt diệu, như mùi vị mật ong dịu ngọt. Trong đó có một cây tên là Đôn-trị-chỉ-la, cây này sinh trái, hình như cái nồi. Nếu người nào muốn ăn thì lấy quả này đổ nước đầy. Lại có đá tên là Thụ-đề, lấy quả này đặt tên đá, đá tự sinh ra lửa, người này đem gạo xa-lợi bỏ vào trong nồi, không nhọc phải đong lường mà tự nhiên đầy nồi, lúc thức ăn chín, đá tự trở lại lạnh, nhưng dùng cái nồi trước mà đựng đầy tuần tự. Nếu người khác đến cần thức ăn thì tùy ý mà lấy, không cần phải tác ý: “Người kia thí cho, ta là người ăn”, cũng không cần tác ý: “Nay ta bố thí cho kẻ kia”. Lúc thức ăn làm xong thì bỏ đó mà đi, đất nứt ra nhận những vật dụng và đồ ăn thừa rồi khép lại như cũ. Trời Tứ Thiên Vương đều ăn vị Tu-đà, sáng ăn một bữa, chiều ăn một bữa, ăn vào cơ thể rồi hoán chuyển các thân phần. Vườn rừng, ao hồ đều tự nhiên sinh vị Tu-đà này, vị Tu-đà này cũng có thể hóa làm tám lọai thức ăn như khư-đà-ni… Thức ăn của tất cả chư thiên Dục giới cũng như vậy, chư thiên Sắc giới từ trong Sơ thiền cho đến cõi Biến Tịnh lấy hỷ lạc làm thức ăn, chư thiên từ đó trở lên dùng ý làm thức ăn. Người Diêm-phù-đề mua bán rộng rãi hàng hóa như: vàng bạc, lúa gạo…, hoặc vô số sản phẩm, chân kim, ma-ni, vô số các báu, hoặc dùng chúng sinh mà mua bán. Mua bán hàng hóa ở Tây Cù-da-ni chỉ dùng bò làm ngân lượng. Ở Đông Phất-bà-đề dùng lúa gạo để trao đổi, mua bán hàng hóa; Ở Bắc Uất-đơn-việt không có mua bán, đổi chác. Ở trời Tứ Thiên Vương cũng có mua bán sản vật rộng rãi như: vàng bạc, lúa gạo… hoặc các hàng hóa trao đổi: chân châu, ma-ni, vô số các báu, hoặc dùng chúng sinh làm vật mua bán, đổi chác. Tất cả Chư thiên Dục giới lại cũng như vậy, Sắc giới thì không đồng với Uất-đơn-việt. Người Diêm-phù-đề hoặc tự sát sinh, hoặc bảo người khác giết để ăn thịt, ở Tây Cù-da-ni cũng lại như vậy. Người Đông Phất-bà-đề tự mình không sát sinh, không bảo người khác sát, nếu có tự chết thì ăn thịt. Người ở Bắc Uất-đơn-việt không tự mình sát sinh, không bảo người khác sát sinh và cũng không ăn thịt. Cõi trời Tứ Thiên Vương tự mình sát sinh, bảo người khác giết mà không ăn thịt. Chư thiên Đao Lợi tự mình có sát, khiến người khác sát mà không ăn thịt. Từ cõi trời Dạ-ma đến trời A-ca-nị-tra không tự mình giết, không bảo người giết và cũng không ăn thịt. Người Diêm-phù-đề nếu quyến thuộc chết, tống táng vào núi thiêu tử thi, hoặc đặt trong nước, hoặc chôn trong đất, hoặc rãi vào hư không; ở Tây Cù-da-ni và Đông Phất-bà-đề cũng lại như vậy. Người ở Bắc Uất-đơn-việt nếu quyến thuộc chết, không tống táng, không thiêu, không bỏ, như ánh sáng lặn thì không thấy có hình hài, tất cả chư thiên trên ấy đều như vậy. Trong Diêm-phù-đề có năm loại cây: cây vàng, cây bạc, cây pha-lê-kha, cây lưu ly, cây ha-lợi-da; cây ở Tây Cù-da-ni và Đông Phất-bà-đề cũng lại như vậy. Bắc Uất-đơn-việt chỉ có cây Lalợi-đa, còn bốn cây khác thì không có. Cõi trời Tứ Thiên Vương cũng có năm lọai cây báu đều nói như trên; tất cả chư thiên Dục giới có năm lọai cây cũng như vậy. Trong cõi trời Sắc giới đều không có cây. Trong Diêm-phù-đề có năm lọai hoa: vàng, bạc, pha-lê-kha, lưu-ly, ha-lị-đa; ở Tây Cù-da-ni và Đông Phất-bà-đề cũng như vậy.
Ở Bắc Uất-đơn-việt có cây tên là Tán-đa-na, hoa của cây này đều bằng báu ha-lị-đa. Trời Tứ Thiên Vương đều có năm loại hoa; tất cả Dục giới cũng lại như vậy, sắc giới đều không. Trong Diêm-phù-đề có cung điện: vàng, bạc, lưu-ly, pha-lê-kha, ha-lị-đa, có cung điện rừng cây, hoặc có động đá, nhà đất; ở Tây Cù-da-ni cũng như vậy. Cung điện ở Đông Phất-bà-đề đều bằng vàng, không có lọai khác. Ở Bắc Uất-đơnviệt có cây tên là Mạn-thù-sa, cao như đại điện, từng lớp lá che nhau, gió sương không xâm tổn được, tất cả mọi người dùng là, trụ nhà. Trời Tứ Thiên Vương có năm loại cung điện: vàng, bạc, lưu-ly, pha-lê-kha, ha-lị-đa; tất cả chư thiên Dục giới cũng lại như vậy. Chư thiên Sắc giới có các cung điện đều bằng báu sắc trắng. Trong đó có chư thiên thuở xưa tại nhân địa, với tâm keo kiệt mà hành bố thí để vọng cầu quả báu, nay ở nơi quả địa có cung điện tối tăm, không thể sáng sủa. Nếu chư thiên này ở trong nhân địa không có tâm keo kiệt mà hành bố thí, không vọng cầu quả báo tương lai và suy nghĩ: “Ta không có tâm keo kiệt kia, ta có làm chủ được việc kia chăng!”. Đó là đạo lý chân chánh, là tương ưng với pháp. Hoặc người làm chủ bố thí cho người không làm chủ, hoặc hành bố thí với tâm tịnh, an ổn, vì tâm trang nghiêm, vì tâm sáng trong, vì hành bố thí với tâm này nên ở trong quả địa được cung điện ánh sáng vi diệu, không có u tối. Người Diêm-phù-đề nếu lìa thần thông và nhân của công lực khác thì không thể thấy rõ sắc thành rào cây bên ngoài của vách núi… Người ở Tây Cù-da-ni, Đông Phất-bà-đề, Bắc Uất-đơn-việt nếu lìa công lực khác thì không thể rõ sắc thành rào cây bên ngoài của vách núi… Trời Tứ Thiên Vương nếu lìa thần thông và công lực khác thì ở nơi chỗ của mình không thể thấy sắc của tường và cây rào bên ngoài của vách núi… nếu lúc nhìn xa, thì chỉ thấy sắc trong núi Thiết Vi. Chư thiên Đao Lợi ở trong cung điện của mình nếu lìa thần thông và công lực khác thì không thể thấy hết bên ngoài núi này. Nếu lìa thần thông và công lực khác thì không thể thấy màu tường rào bằng cây bên ngoài của vách núi, nếu lúc nhìn xa chỉ thấy bên trong núi Thiết Vi. Nếu lìa thần thông và công lực khác thì không thể thấy núi bên ngoài Thiết Vi, từ trời Dạ-ma cho đến trời Phạm chúng đều như vậy. Đại Phạm Thiên Vương ở chỗ cung điện của mình nếu lìa thần thông và công lực khác thì không thể thấy được màu sắc tường rào bằng cây bên ngoài của vách núi…, nếu lúc nhìn xa thì chỉ thấy trong một nghìn thế giới. Nếu lìa thần thông và công lực khác thì không thể thấy hết người Diêmphù-đề, nếu tìm người nữ khác, nhà người nữ hứa khả mới được đón tiếp, hoặc có mua thiếp, hoặc có bán nô tỳ. Ở Tây Cù-da-ni và Đông Phất-bà-đề cũng lại như vậy. Người Bắc Uất-đơn-việt không tìm người nữ khác, cũng không đón vợ, không mua, không bán. Nếu người nam lúc muốn cưới vợ thì phải nhìn kỹ người nữ kia, nếu lúc người nữ mến chuộng người nam cũng cần nhìn kỹ. Nếu người nữ không thấy người nam nhìn, người nữ khác nói: “Người nhìn bạn, tức là vợ chồng”. Nếu người nam không thấy người nữ nhìn, người nam khác đáp: “Người này nhìn bạn, cũng là vợ chồng rồi”. Nếu tự thấy nhau liền theo nhau đến một chỗ khác. Trời Tứ Thiên Vương nếu tìm Thiên nữ, nhà người nữ hứa khả mới được nghinh tiếp, hoặc đổi, hoặc bán. Tất cả chư thiên Dục giới cũng lại như vậy. Trong cõi Diêm-phù-đề lấy căn nam và nữ để hòa hợp nhau. Ở Đông Phất-bà-đề, Tây Cù-da-ni, Bắc Uất-đơn-việt cũng đều như vậy, nam nữ trời Tứ Thiên Vương và trời Đao Lợi hòa hợp cũng lại như vậy. Chư thiên Dạ ma lấy tướng bế ẵm làm dục, chư thiên Đâu-suất-đà lấy sự nắm tay làm dục, chư thiên Hóa Lạc lấy sự cùng cười làm dục, chư thiên Tha Hóa Tự Tại lấy sự nhìn nhau làm dục. Người Tây Cù-da-ni thọ các dục lạc lại gấp hai lần người Diêm-phùđề, cho đến dục của chư thiên Tha Hóa Tự Tại gấp đôi trời Hóa Lạc. Người nữ Diêm-phù-đề ăn thức ăn dở có mang thai, có sinh sản, có cho con bú, ở Tây Cù-da-ni và Đông Phất-bà-đề cũng lại như vậy. Người nữ Bắc Uất-đơn-việt ăn thức ăn dở, có mang thai, có sinh sản, chỉ có không cho con bú. Nếu sinh con trai và con gái thì đem đặt ngoài ngã tư đường, người mẹ dùng ngón tay chỉ vào trong miệng đứa trẻ ấy, người qua đường cũng dùng tay chỉ vào trong miệng đứa trẻ, nhờ ngón tay này chạm vào thân mà thân được lớn lên. Người nam và nữ ở Uất-đơn-việt sống riêng, không sống lẫn lộn với nhau. Nếu lúc người nam sinh bảy ngày sẽ trở thành người nhập vào cộng đồng người nam, nếu người nữ sinh bảy ngày sẽ trở thành người nhập vào nhóm nữ. Nếu người nam và nữ mới khởi dục ý dắt nhau đến dưới cây, cây Mạn-thù-sa này liền che chở, việc dục liền thành, nếu không che chở thì mỗi một liền xa cách nhau, biết việc này là tà dâm liền không dám phạm. Các Thiên nữ ở chỗ Tứ Thiên Vương không có ăn đồ dở, không có mang thai, cũng không sinh đẻ, cũng không cho trẻ con bú. Chư thiên nam nữ, hoặc ở trên đầu gối, hoặc ở chỗ mắt đều sinh ra con được. Nếu sinh ở nơi đầu gối và nơi mắt người mẹ thì Thiên nữ tác ý: “Đây là con của ta”, Thiên tử cũng nói: “Đây là con của ta” thì chỉ có một cha một mẹ. Nếu sinh ở trên đầu gối và ở chỗ mắt người cha thì chỉ có một cha mà các thê thiếp đều là mẹ. Người Diêm-phù-đề có dục sự một đời vô số vô lượng, cũng có những người tu hạnh thanh tịnh đến chết cũng không có dục. Ở Tây Cù-da-ni, người đa dục thì có số dục trong một đời là mười hai, người dục hạng trung có số lần là mười, cũng có những người tu hành hạnh thanh tịnh, đến lúc chết cũng không có dục. Người đa dục ở Đông Phấtbà-đề trong một đời có số lần dục là bảy lần, hạng bậc trung khỏang năm, sáu lần, cũng có những người tu hành hạnh thanh tịnh đến lúc chết vẫn vô dục. Ở Uất-đơn-việt, người đa dục ở trong một đời có số lần dục chỉ năm, hạng trung khoảng ba bốn lần, cũng có những người tu hành hạnh thanh tịnh đến lúc chết vẫn vô dục. Cõi trời Tứ Thiên Vương có dục sự trong một đời đến vô lượng vô số, cũng có những người tu hành hạnh thanh tịnh đến lúc chết vẫn vô dục. Tất cả chư thiên Dục giới cũng như vậy. Phàm tất cả người nữ lấy xúc làm vui, tất cả người nam lúc xuất sự bất tịnh làm vui, hoặc tất cả người nam lấy sự bất tịnh làm dục, hoặc dục của chư thiên lấy sự bất tiết khí làm vui. Người Diêm-phù-đề có ba nhân duyên hơn người Uất-đơn-việt và trời Đao Lợi. Những gì là ba? Một là dũng mãnh, hai là ghi nhớ, ba là trong đó có người trú Phạm hạnh. Người Uất-đơn-việt có ba nhân duyên hơn người Diêm-phù-đề và trời Đao Lợi: một là không có ngã sở, không tích chứa, hai là tuổi thọ vững chắc một nghìn năm, ba là về sau sẽ được lên trời Đao Lợi. Chư thiên có ba nhân duyên vượt trội ở Diêm-phù-đề và Uất-đơn-việt: một là thọ lượng dài lâu, hai là hình tướng đặc biệt, ba là vui thích rất nhiều. Nghĩa này chư Phật Thế Tôn đã dạy, tôi nghe như vậy.
LUẬN LẬP THẾ A TỲ ĐÀM
QUYỂN 7
Phẩm 21: THỌ SANH
Người tạo mười nghiệp ác cực trọng thì sanh đại địa ngục A-tỳ. Nếu tạo nghiệp ác tuần tự nhẹ hơn thì tuần tự sanh địa ngục nhẹ hơn. Nếu người tạo ác nhẹ hơn tuần tự sanh ở tám địa ngục nhẹ Diêm-la. Nếu người tạo tác nhẹ hơn thì tuần tự sanh cầm thú. Nếu nhẹ hơn thì tuần tự sanh quỷ đạo. Nếu tạo mười nghiệp thiện ít nhất thì sanh nhà hạ phẩm nhất ở Diêm-phù-đề, hoặc sanh nhà dọn phân, hoặc sanh nhà đồ tể, hoặc sanh nhà sáng tác nhạc, hoặc sanh nhà làm thợ, hoặc sanh nhà binh lính. Nếu làm việc thiện hơn thì sanh nhà trưởng giả; hơn nữa thì sanh nhà Bà-la-môn; người làm thiện hơn nữa được sanh nhà Sát-lợi. Nếu người tạo việc thiện hơn nữa thì sanh ở Tây Cù-da-ni; hơn nữa thì sanh ở Đông Phất-bà-đề; tạo việc thiện hơn nữa sanh ở Bắc Uất-đơnviệt; hơn nữa sanh ở trời Tứ Thiên Vương; hơn nữa sanh ở trời Đao Lợi; hơn nữa sanh ở trời Dạ-ma; hơn nữa sanh ở trời Đâu-suất-đà; người tạo việc thiện hơn nữa thì sanh ở trời Hóa Lạc. Nếu người tạo mười thiện nghiệp tối thắng thì sanh ở trời Tha Hóa Tự Tại. Nếu người phàm phu thì được tu tập bốn loại thiền định thì mỗi một lọai đều có ba phẩm: thượng, trung, hạ. Người này nghiệp tương ưng với nhân Sơ thiền Hạ phẩm sinh cõi trời Phạm Tiên Hành. Nhờ nghiệp này mà được sanh ở thiên đạo này, được thọ mạng cõi trời, được trú cõi trời, được đồng loại cõi trời. Đã sanh ở đó thì thọ quả báo của nghiệp có hai loại vui: một là lạc không có bức não, hai là vui của thọ (lạc thọ), lúc nghiệp này đã chín thì được thọ dụng hết trong cõi đó không sót. Nếu nghiệp tương ưng với nhân Sơ thiền Trung phẩm thì sanh ở cõi trời Phạm Chúng, tương ưng với nhân Thượng phẩm thì cũng sanh ở cõi trời này. Nhờ nghiệp này mà được thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được ở và đồng loại cõi trời. Đã sanh ở đó thì thọ quả báo của nghiệp có hai loại an vui: một là vui (lạc) không có bức não, hai là vui của thọ. Lúc nghiệp này đã chín thì thọ dụng không sót. Nếu nghiệp tương ưng với nhân Nhị thiền Hạ phẩm, nhờ nghiệp này nên sanh cõi trời Thiểu Quang. Nếu nghiệp tương ưng với nhân Nhị thiền Trung phẩm thì sinh ở cõi trời Vô lượng quang, nghiệp tương ưng với nhân Nhị thiền Thượng phẩm thì sinh ở cõi trời Thắng Biến Quang. Do nghiệp này mà được thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú cõi trời và được đồng loại cõi trời. Đã sanh ở đó thì thọ quả báo của nghiệp có hai loại an vui: một là vui không có bức não, hai là vui của thọ. Lúc nghiệp này đã chín thì được thọ dụng như vậy không sót. Nếu nghiệp tương ưng với nhân Tam thiền Hạ phẩm thì sinh ở cõi trời Thiểu Tịnh, nghiệp tương ưng với nhân Tam thiền Trung phẩm thì sinh ở cõi trời Vô Lượng Tịnh, nghiệp tương ưng với nhân Tam thiền Thượng phẩm thì sinh cõi trời Biến Tịnh. Do nghiệp này mà được thiên đạo ấy, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Đã sinh ở đó thì thọ quả báo của nghiệp có hai loại an vui: một là vui không có bức não, hai là vui của thọ. Lúc nghiệp này đã chín thì được thọ dụng như vậy không sót. Nếu nghiệp tương ưng với nhân Tứ thiền Hạ phẩm thì sinh cõi trời Vô Vân, nghiệp tương ưng với nhân Tứ thiền Trung phẩm thì sinh cõi trời Thọ Phước, nghiệp tương ưng với nhân Tứ thiền Thượng phẩm thì sinh cõi trời Quảng Quả. Do nghiệp này nên được thiên đạo ấy, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Đã sinh ở đó thì thọ quả báo của nghiệp: có vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín thì được thọ dụng như vậy không sót. Các kẻ phàm phu tùy theo những nghiệp khác nhau mà thọ sanh những chỗ khác nhau. Nếu người phàm phu tu tập Bốn vô lượng tâm, thì mỗi một đều có ba phẩm: thượng, trung, hạ. Từ vô lượng là thường tu tập như vậy, thường hành như vậy, như bốn loại thiền định. Hỷ vô lượng là tu tập như vậy, thường hành như vậy, như Sơ thiền và Nhị thiền. Bi vô lượng là thường tu tập như vậy, thường hành như vậy như Đệ Tứ thiền. Xả vô lượng là thường tu tập như vậy, thường hành như vậy như Đệ Tam thiền và Đệ Tứ thiền. Phàm phu tu tập quán bất tịnh, đều có ba phẩm thượng, trung, hạ không chống trái việc hành quán bất tịnh tu tập như vậy thường hành như vậy, như bốn loại thiền định có chống trái việc quán bất tịnh tu tập như vậy và thường hành như vậy, như đệ Tứ thiền. Người phàm phu tu tập niệm A-na-ba-na, đều có ba phẩm thượng, trung, hạ: Tu tập như vậy và thường hành như vậy như ba loại thiền định trước. Người phàm phu tu tập năm hữu tưởng, đều có ba phẩm thượng, trung, hạ. Những gì là năm?
Một là tưởng bất tịnh.
Hai là tưởng lỗi lầm.
Ba là tưởng tử đọa.
Bốn là tưởng chán ăn.
Năm là tưởng tất cả thế gian bất an.
Tưởng bất tịnh không chống trái là tu tập như vậy, thường hành như vậy như Bốn loại thiền định. Tưởng bất tịnh có trái ghét và bốn loại tưởng sau như Đệ Tứ thiền thường hành như vậy, tu tập như vậy.
Người phàm phu tu tập tám loại biến nhập, mỗi loại đều có ba phẩm thượng, trung, hạ. Những gì là tám?
Một là tưởng có sắc bên trong, quán ít sắc ngoài: ít này là hoặc vi diệu hoặc là thô: “Tưởng biến khắp này của ta mà được biết, được thấy có tưởng như vậy”.
Hai là tưởng có sắc bên trong, quán vô lượng sắc bên ngoài: khởi tưởng hoặc vi diệu hoặc thô phù như vậy: “Ta biến khắp tưởng này mà có thể biết, có thể thấy tưởng như thế”.
Ba là tưởng không có sắc bên trong, quán ít sắc ngoài như trước.
Bốn là tưởng không có sắc bên trong quán vô lượng sắc ngoài cũng như trước.
Năm, sáu, bảy, tám là đều tưởng Vô sắc bên trong quán bốn sắc là xanh, vàng, đỏ, trắng và khởi tưởng như vậy: “Tưởng biến khắp này của ta có thể biết, có thể thấy.
Trong tám loại tưởng này, loại thứ nhất và thứ hai là như Bốn thiền định tu tập như vậy, thường hành như vậy; sáu tưởng sau là như Đệ Tứ thiền tu tập như vậy, thường hành như vậy. Người phàm phu tu tập mười nhất thiết nhập, mỗi một có ba phẩm thượng, trung, hạ: tám Nhất thiết nhập này là tu tập như vậy, thường hành như vậy như Đệ Tứ thiền; hai Nhất thiết nhập sau là tu tập như vậy, thường hành như vậy như tự địa của nó; Không nhất thiết nhập, Thức nhất thiết nhập như Không vô biên nhập; là như Thức vô biên nhập. Người phàm phu tu tập bốn Vô sắc Tam-ma-bạt-đề, mỗi một đều có ba phẩm thượng, trung, hạ. Người này do nghiệp tương ưng với Không xứ Hạ phẩm mà sanh cõi trời Không Vô Biên Nhập; do nghiệp tương ưng với Không Vô Biên Nhập Trung phẩm cũng sinh cõi trời này; do nghiệp tương ưng Không Vô Biên Nhập Thượng phẩm cũng sinh cõi trời này. Nhờ nghiệp này nên được thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Đã sanh ở đó thì thọ quả báo của nghiệp có vui không có bức não, vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín thì được thọ dụng như vậy không sót. Nếu nghiệp tương ưng với Thức Vô Biên Nhập Hạ phẩm thì sinh cõi trời Thức Vô Biên Nhập; do nghiệp tương ưng với Thức Vô Biên Nhập Trung phẩm nên cũng sinh cõi trời này; vì nghiệp tương ưng với Thức Vô Biên Nhập Thượng phẩm nên cũng sinh cõi trời này. Do nghiệp này nên được thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại với cõi trời. Đã sanh ở đây thì thọ quả báo của nghiệp chỉ có vui không có bức não, và vui không có thọ. Nghiệp này đã chín thì thọ dụng như vậy không sót. Do nghiệp tương ưng với Vô Sở Hữu Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Vô Sở Hữu Nhập; vì nghiệp tương ưng với Vô Sở Hữu Nhập Trung phẩm nên cũng sinh cõi trời này; vì nghiệp tương ưng với Vô Sở Hữu Nhập Thượng phẩm nên cũng sinh cõi trời này. Do nghiệp này nên được thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và đồng loại cõi trời. Đã sanh ở đây thì thọ quả báo nghiệp, chỉ có vui không có bức não và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín thì được thọ dụng như vậy không sót. Vì nghiệp tương ưng với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Nhập; vì nghiệp tương ưng với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Nhập Trung phẩm nên cũng sinh cõi trời này; vì nghiệp tương ưng với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Nhập Thượng phẩm nên cũng sinh cõi trời này. Do nghiệp này nên đắc thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại với cõi trời. Đã sanh ở đây thì quả báo thọ nghiệp chỉ có vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín thì được thọ dụng như vậy không sót. Người phàm phu này tùy theo nghiệp báo về sau mà thọ sinh chỗ khác. Người phàm phu này đã sinh, đã đắc nhập định Sơ thiền, từ đây tất cả lại bị thối thất, người này trú trong Sơ thiền Hạ phẩm. Người này do nghiệp tương ưng với Sơ thiền Hạ phẩm nên sinh cõi trời Phạm Tiên Hành. Đã sinh ở đây sẽ thọ báo Sơ thiền Hạ phẩm, được vui không có bức não và được vui của thọ. Thọ quả báo nghiệp Sơ thiền và Nhị thiền Trung phẩm, Thượng phẩm, sinh ở trong đó được vui không có bức não cho đến vui của thọ; Đệ Tam thiền và Đệ Tứ thiền cũng sinh ở trong đó thọ qủa báo của nghiệp, nhưng là vui không có bức não và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót, tùy theo nghiệp hậu báo mà thọ sinh chỗ khác. Sơ thiền Trung phẩm, Thượng phẩm khác cũng như vậy. Người phàm phu tu tập đã sinh đã đắc định Tứ thiền, từ đây tất cả lại bị thối thất, người này trú trong Nhị thiền Hạ phẩm. Người này do nghiệp tương ưng với Nhị thiền Hạ phẩm nên sinh cõi trời Thiểu Quang. Đã sinh ở đó sẽ thọ nghiệp báo Nhị thiền Hạ phẩm, được vui không có bức não và được vui cùng với thọ. Thọ nghiệp báo Nhị thiền và Sơ thiền Trung phẩm và Thượng phẩm, sinh ở trong đó được vui không có bức não và được vui cùng với thọ; Đệ Tam thiền và Đệ Tứ thiền sinh trong đó thọ quả báo, nhưng là vui không có thọ và vui không có bức não. Lúc nghiệp này đã chín sẽ thọ dụng không sót, tùy theo nghiệp hậu báo mà thọ sanh chỗ khác; Nhị thiền của Trung phẩm, Thượng phẩm khác cũng như vậy. Người phàm phu đã sinh đã đắc sự tu tập Tứ thiền, từ đây tất cả lại bị thối thất, người này trú trong Tam thiền Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Tam thiền Hạ phẩm nên sinh cõi trời Thiểu Tịnh. Đã sinh ở đó rồi sẽ thọ nghiệp báo Tam thiền Hạ phẩm, được vui cùng với thọ và vui không có bức não. Thọ nghiệp báo Đệ tam thiền Trung phẩm, Thượng phẩm, sinh ở trong đó được vui cùng với thọ và vui không có bức não; nghiệp báo Sơ thiền, Nhị thiền và Đệ tứ thiền thọ vui không có bức não và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót, tùy theo nghiệp hậu báo mà thọ sinh chỗ khác; Tam thiền Trung phẩm, Thượng phẩm khác cũng như vậy. Người phàm phu tu tập đã sinh, đã đắc Tứ thiền, từ đây tất cả lại bị thối thất, người này lại trú trong Tứ thiền Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Tứ thiền Hạ phẩm mà sinh cõi trời Vô Vân. Sinh ở đây rồi sẽ thọ nghiệp báo Tứ thiền Hạ phẩm, được vui không có bức não và vui không có thọ. Thọ nghiệp báo Đệ Tứ thiền và Tam thiền khác ở Trung phẩm, Thượng phẩm, sinh ở trong đó sẽ được an vui không có bức não, không có niềm vui của thọ. Lúc nghiệp đã chín sẽ thọ dụng như vậy. Người phàm phu tùy theo nghiệp hậu báo mà thọ sinh chỗ khác; Tứ thiền Trung phẩm, Thượng phẩm khác cũng như vậy. Người phàm phu tu tập đã sinh đã đắc định Tứ thiền và định
Tứ Vô sắc, từ đây tất cả lại bị thối thất người này trú ở Không Vô Biên Nhập Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Không Vô Biên Nhập Hạ phẩm thì sẽ sinh cõi trời Không Vô Biên Nhập. Đã sinh ở đó rồi sẽ thọ quả báo Không Vô Biên Nhập Hạ phẩm, được vui không có bức não, và vui không có thọ. Thọ quả báo của Không Vô Biên Nhập và ba định Vô sắc trở lên của Trung phẩm, Thượng phẩm, sinh ở trong đó được thọ vui không có bức não và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Người phàm phu tùy theo nghiệp hậu báo mà sẽ thọ sinh chỗ khác; Không Vô Biên Nhập của Trung phẩm, Thượng phẩm khác cũng như vậy. Người phàm phu tu tập đã sinh đã đắc định Tứ thiền và định Tứ Vô sắc, nhưng tất cả từ đây đã bị thối thất, người này trú ở Thức Không Vô Biên Nhập Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Thức Vô Biên Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Thức Vô Biên Nhập. Sinh ở chỗ đó rồi sẽ thọ quả báo Thức Vô Biên Nhập Hạ phẩm, được vui không có bức não, và vui không có thọ. Thọ nghiệp báo đầu và sau của Tam Vô sắc cùng Thức Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm, sinh ở trong đó sẽ đắc an vui không có bức não, không có niềm vui của thọ. Lúc nghiệp đã chín rồi sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Người phàm phu tùy theo nghiệp hậu báo mà thọ sinh chỗ khác; Thức Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm khác cũng lại như vậy. Người phàm phu đã sinh đã đắc sự tu tập Tứ thiền và Tứ không định, tất cả từ đây lại bị thối thất, người này trú ở Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập, sinh ở đó rồi sẽ thọ nghiệp báo Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Hạ phẩm, được vui không có bức não, và vui không có thọ. Thọ nghiệp báo của ba Vô sắc đều cùng Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm sẽ sinh ở trong đó được vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này chín rồi sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Người phàm phu này tùy theo nghiệp hậu báo mà thọ sanh chỗ khác; Trung phẩm và Thượng phẩm khác cũng như vậy. Người phàm phu này đã sinh đã đắc sự tu tập định Tứ thiền và Tứ Vô sắc, tất cả từ đây lại bị thối thất, người này trú ở Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập, sinh ở đó rồi thọ quả báo Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập Hạ phẩm, được vui không có bức não, và vui không có thọ. Thọ nghiệp báo Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập và tiền Tam Vô sắc Trung phẩm, Thượng phẩm sẽ sinh ở trong đó, được vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Người phàm phu này tùy nghiệp hậu báo mà thọ sinh chỗ khác; Trung phẩm và Thượng phẩm khác cũng như vậy.
Thánh đệ tử của Phật Thế Tôn tu tập tứ thiền, mỗi một đều có ba phẩm thượng, trung, hạ. Người này do nghiệp tương ưng với Sơ thiền Hạ phẩm sẽ sinh cõi trời Phạm Tiên Hành. Nhờ nghiệp này mà đắc thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Đã sinh ở đó sẽ thọ quả báo của nghiệp, có hai loại vui: một là vui không có bức não, hai là vui của thọ (lạc thọ). Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Vì nghiệp tương ưng với Sơ thiền Trung phẩm nên sinh cõi trời Phạm chúng; vì nghiệp tương ưng với Sơ thiền Thượng phẩm cũng sinh cõi trời này. Do nghiệp này mà được thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Đã sinh ở đó thọ quả báo của nghiệp có hai loại vui: một là vui không có bức não, hai là được vui của thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Do nghiệp tương ưng với Nhị thiền Hạ phẩm nên sinh cõi trời Thiểu Quang; do nghiệp tương ưng với Nhị thiền Trung phẩm nên sinh cõi trời Vô Lượng Quang; vì nghiệp tương ưng với Nhị thiền Thượng phẩm nên sinh cõi trời Thắng Biến Quang. Nhờ nghiệp này nên được thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại với cõi trời. Đã sinh ở đó sẽ thọ quả báo của nghiệp có hai loại vui: một là vui không có bức não, hai là vui của thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng không sót. Do nghiệp tương ưng với Tam thiền Hạ phẩm nên sinh cõi trời Thiểu Tịnh; do nghiệp tương ưng với Tam thiền Trung phẩm nên sinh cõi trời Vô Lượng Tịnh; do nghiệp tương ưng với Tam thiền Thượng phẩm nên sinh cõi trời Biến Tịnh. Do nghiệp ấy nên đắc thiên đạo này, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Đã sinh ở đó sẽ thọ quả báo của nghiệp có hai loại vui: một là vui không có bức não, hai là vui của thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Vì nghiệp tương ưng với Tứ thiền Hạ phẩm nên sinh cõi trời Vô Vân; vì nghiệp tương ưng với Tứ thiền Trung phẩm nên sinh cõi trời Thọ Phước; vì nghiệp tương ưng với Tứ thiền Thượng phẩm nên sinh cõi trời Quảng Quả. Do nghiệp ấy nên đắc thiên đạo này, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại với cõi trời. Đã sinh ở đó sẽ thọ quả báo của nghiệp là vui không có bức não và vui không có thọ nữa. Đã sinh ở đó, do nghiệp tương ưng với Tứ thiền Tối thượng phẩm nên cung kính siêng tu, thường tu hành không trái nghịch, xen kẽ huân tập các Giác phần. Nhờ nghiệp này nên sinh cõi trời Thiện Hiện; gấp mười lần nghiệp này sẽ sinh cõi trời Thiện Kiến; lại gấp mười lần như vậy sinh cõi trời Bất Phiền; lại gấp mười lần tuần tự như vậy sẽ sinh cõi trời Bất Thiêu; tuần tự lại gấp mười lần như vậy sinh cõi trời A-ca-nị-tra. Nhờ nghiệp này nên được thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Đã sinh ở đó sẽ thọ quả báo của nghiệp là vui không có bức não và vui không thọ nữa. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Dẫn thuyết về nghiệp các cõi giới trên mà diệu dụng hết ở trong đó, tức ở trong đó đắc Bát Niết bàn.
Đệ tử Đức Phật Thế Tôn tu tập định Tứ vô lượng, mỗi một đều có ba phẩm thượng, trung, hạ: Từ vô lượng nghĩa là tu tập như vậy, thường hành như vậy như bốn loại thiền định; Hỷ vô lượng là tu tập như vậy, thường hành như vậy như Sơ thiền và Nhị thiền; Bi vô lượng nghĩa là tu tập như vậy, thường hành như vậy như Đệ tứ thiền; Xả vô lượng là tu tập như vậy, thường hành như vậy như Đệ tam thiền và Đệ tứ thiền.
Thánh đệ tử Đức Phật tu tập Quán bất tịnh, mỗi một đều có ba phẩm thượng, trung, hạ: Quán bất tịnh về hành không trái ghét là tu tập như vậy, thường hành như vậy như bốn loại thiền định; Quán bất tịnh về hành có trái ghét là tu tập như vậy, thường hành như vậy như Đệ tứ thiền. Thánh đệ tử Phật tu tập niệm A-na-ba-na, mỗi một đều có ba phẩm thượng, trung, hạ: tu tập như vậy, thường hành như vậy như ba loại thiền định trước.
Thánh đệ tử Phật tu tập mười tưởng, mỗi một đều có ba phẩm thượng, trung, hạ. Những gì là mười? Một là tưởng vô thường, hai là tưởng vô ngã, ba là tưởng diệt trừ, bốn là tưởng ly dục, năm là tưởng tịch diệt, sáu là tưởng bất tịnh, bảy là tưởng lỗi lầm, tám là tưởng tử đọa, chín là tưởng chán ăn, mười là tưởng tất cả thế gian bất an. Năm loại tưởng trước và tưởng bất tịnh không trái ghét là tu tập như vậy, thường hành như vậy như bốn loại thiền định; bốn loại tưởng sau và tưởng bất tịnh có trái ghét là tu tập như vậy, thường hành như vậy như Đệ tứ thiền. Thánh đệ tử Phật tu tám Biến nhập, mỗi một đều có ba phẩm thượng, trung, hạ. Những gì là tám? Một là tưởng có sắc bên trong quán ít sắc ngoài: ít này là có tưởng hoặc vi diệu hoặc thô phù như vậy: “tưởng này của ta biến khắp mà được biết, được thấy”. Hai là tưởng có sắc bên trong, quán vô lượng sắc ngoài: khởi tưởng hoặc vi tế hoặc thô phù như vậy: “Tưởng này của ta biến khắp mà có thể biết, có thể thấy”. Ba là tưởng không có sắc bên trong, quán ít sắc ngoài: vi tế và thô phù như trước. Bốn là tưởng không có sắc bên trong, quán vô lượng sắc ngoài: loại này cũng như trước. Năm, sáu, bảy, tám là đều tưởng nơi không có sắc bên trong quán bốn sắc bên ngoài là xanh, vàng, đỏ, trắng và khởi tưởng như vậy: “Tưởng này ta biến khắp mà có thể biết, có thể thấy”. Trong tám loại này, loại thứ nhất, thứ hai là tu tập như vậy, thường hành như vậy như bốn loại thiền định. Sáu loại tưởng sau là tu tập như vậy, thường hành như vậy như Đệ tứ thiền.
Thánh đệ tử Phật tu tập tám giải thoát, mỗi một đều có ba phẩm thượng, trung, hạ. Một là giải thoát tưởng có sắc bên trong quán sắc ngoài, hai là giải thoát tưởng không có sắc bên trong quán sắc ngoài, ba là giải thoát tịnh, bốn là giải thoát Không vô biên nhập, năm là giải thoát Thức vô biên nhập, sáu là giải thoát Vô sở hữu vô biên nhập, bảy là giải thoát Phi tưởng phi phi tưởng vô biên nhập, tám là giải thoát tưởng thọ diệt. Giải thoát thứ nhất là tu tập như vậy, thường hành như vậy như bốn loại thiền định. Giải thoát thứ hai là tu tập như vậy, thường hành như vậy như đệ tứ thiền. Giải thoát thứ ba là như tưởng có sắc bên trong quán sắc ngoài: tu tập như vậy, thường hành như vậy như bốn loại thiền định; hoặc tưởng không có sắc bên trong quán sắc ngoài là tu tập như vậy, thường hành như vậy như Đệ tứ thiền. Bốn loại sau là giải thoát Vô sắc, mỗi mục như địa của nó. Thứ tám là giải thoát diệt thọ tưởng là chỉ do trú nên vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng, không do ly dục nên vượt qua, cho nên địa của nó là Phi phi tưởng.
Thánh đệ tử Phật tu tập mười nhất thiết nhập, mỗi mục đều có ba phẩm thượng, trung, hạ: Tám Nhất thiết nhập trước là tu tập như vậy, thường hành như vậy như Đệ tứ thiền; hai Nhất thiết nhập sau là như địa của nó. Thánh đệ tử Phật tu tập bốn Vô sắc Tam-ma-bạt-đề, mỗi một đều có ba phẩm thượng, trung, hạ. Người này do nghiệp tương ưng với Không Vô Biên Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Không Vô Biên Nhập; do nghiệp tương ưng với Không Vô Biên Nhập Trung phẩm cũng sinh cõi trời này; do nghiệp tương ưng Không Vô Biên Nhập Thượng phẩm cũng sinh cõi trời này. Vì nghiệp này nên đắc thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Đã sinh ở đây sẽ thọ quả báo của nghiệp chỉ có vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Do nghiệp tương ưng với Thức Vô Biên Nhập Hạ phẩm thì sinh cõi trời Thức Vô Biên Nhập Hạ phẩm; do nghiệp tương ưng với Thức Vô Biên Nhập Trung phẩm nên sinh cõi trời Thức Vô Biên Nhập; do nghiệp tương ưng với Thức Vô Biên Nhập Thượng phẩm nên cũng sinh cõi trời này. Vì nghiệp này nên đắc thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Đã sinh ở đây nên thọ quả báo của nghiệp chỉ có vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Vì nghiệp tương ưng với Vô Sở Hữu Nhập Hạ phẩm nên sanh cõi trời Vô Sở Hữu Nhập; vì nghiệp tương ưng với Vô Sở Hữu Nhập Trung phẩm cũng sanh cõi trời này; vì nghiệp tương ưng với Vô Sở Hữu Nhập Thượng phẩm nên cũng sinh cõi trời này. Vì nghiệp này nên đắc thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Sinh ở đây rồi sẽ thọ nghiệp qủa báo chỉ có vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Vì nghiệp tương ưng với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Nhập; do nghiệp tương ưng với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Nhập Trung phẩm nên cũng sinh cõi trời này; do nghiệp tương ưng với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Nhập Thượng phẩm nên cũng sinh cõi trời này. Vì nghiệp này nên đắc thiên đạo, được thọ mạng cõi trời, được trú và được đồng loại cõi trời. Sanh ở đó rồi sẽ thọ quả báo của nghiệp chỉ có vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót, trong đó Bát Niết-bàn.
Thánh đệ tử Phật đã sinh đã đắc sự tu tập định Tứ thiền, từ đây tất cả lại bị thối thất, người này trú trong Sơ thiền Hạ phẩm. Người này do nghiệp tương ưng với Sơ thiền Hạ phẩm nên sinh cõi trời Phạm Tiên Hành. Sanh ở đây sẽ thọ quả báo Sơ thiền Hạ phẩm, đắc vui không có bức não và vui của thọ; thọ quả báo nghiệp của Sơ thiền và Nhị thiền Trung phẩm, Thượng phẩm sẽ sinh ở trong đó sẽ thọ được vui không có bức não và được vui cùng với thọ; Đệ Tam thiền và Đệ tứ thiền cũng sinh trong đó được thọ quả báo, thọ vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót.
Thánh đệ tử Phật Bát Niết bàn ở trong đó, ngoài ra Sơ thiền, Trung phẩm, Thượng phẩm cũng như vậy.
Thánh đệ tử Phật đã sinh đã đắc sự tu tập Tứ thiền, từ đây tất cả lại bị thối thất, người này trú trong Nhị thiền Hạ phẩm. Người này do nghiệp tương ưng với Nhị thiền Hạ phẩm nên sinh cõi trời Thiểu Quang. Sinh ở đây rồi sẽ thọ quả báo Nhị thiền Hạ phẩm, được vui không có bức não và được vui của thọ; thọ nghiệp báo củo Đệ nhị thiền và Sơ thiền Trung phẩm, Thượng phẩm sẽ sinh ở trong đó được nhận vui không có bức não và được vui cùng với thọ; Đệ tam thiền và Đệ tứ thiền cũng sinh trong đó thọ quả báo: được nhận vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót.
Thánh đệ tử Phật Bát Niết bàn ở trong đó, ngoài ra Nhị thiền Trung phẩm, Thượng phẩm cũng như vậy.
Thánh đệ tử Phật đã sinh đã đắc sự tu tập Tứ thiền, từ đây tất cả lại bị thối thất, người này trú trong Tam thiền Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Tam thiền Hạ phẩm nên sinh cõi trời Thiểu
Tịnh. Sinh ở đó rồi sẽ thọ quả báo Tam thiền Hạ phẩm, nhận vui không có bức não và được vui của thọ; thọ nghiệp báo Tam thiền Trung phẩm, Thượng phẩm sẽ sinh ở trong đó nhận vui không có bức não và được vui của thọ; thọ nghiệp báo Sơ thiền, Nhị thiền và Đệ tứ thiền sẽ nhận vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót.
Thánh đệ tử Phật Bát Niết bàn ở trong đó, ngoài ra Tam thiền Trung phẩm, Thượng phẩm cũng như vậy.
Thánh đệ tử Phật đã sinh đã đắc sự tu tập Tứ thiền, từ đây tất cả lại bị thối thất, người này trú trong Tứ thiền Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Tứ thiền Hạ phẩm nên sinh cõi trời Vô Vân. Sinh ở đó rồi sẽ thọ nghiệp báo Tứ thiền Hạ phẩm, được vui không có bức não, và vui không có thọ. Thọ nghiệp báo Đệ tứ thiền và Tam thiền khác của Trung phẩm, Thượng phẩm sẽ sinh ở trong đó nhận vui không có bức não, và vui không có thọ.Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót.
Thánh đệ tử Phật Bát Niết bàn ở trong đó, ngoài ra Tứ thiền Trung phẩm, Thượng phẩm cũng như vậy.
Thánh đệ tử Phật đã sinh đã đắc sự tu tập định Tứ thiền và Tứ Vô sắc, từ đây tất cả lại bị thối thất, người này trú ở Không Vô Biên Nhập Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Không Vô Biên Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Không Vô Biên Nhập Hạ phẩm. Sinh ở đây rồi sẽ thọ quả báo Không Vô Biên Nhập Hạ phẩm, được vui không có bức não, và vui không có thọ. Thọ quả báo ba định Vô sắc trở lên và Không Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm sẽ sinh ở đây nhận vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót.
Thánh đệ tử Phật Bát Niết bàn ở trong đó, ngoài ra Không Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm cũng như vậy.
Thánh đệ tử Phật đã sanh đã đắc sự tu tập Tứ thiền và Tứ Vô sắc, từ đây tất cả lại bị thối thất, người này trú ở Thức Vô Biên Nhập Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Thức Vô Biên Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Thức Vô Biên Nhập. Sinh ở đây rồi sẽ thọ quả báo Thức Vô Biên Nhập Hạ phẩm, được vui không có bức não, và vui không có thọ. Thọ nghiệp báo đầu và sau của Tam Vô sắc và Thức Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm sẽ sinh ở đây được nhận vui không có bức não, và vui không có thọ. Thánh đệ tử Phật Bát Niết Bàn ở trong đó, ngoài ra Thức Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm cũng như vậy.
Thánh đệ tử Phật đã sinh đã đắc sự tu tập Tứ thiền và Tứ Vô sắc, tất cả từ đây lại bị thối thất, người này trú ở Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập. Sinh ở đây rồi sẽ thọ quả báo Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Hạ phẩm, được vui không có bức não, và vui không có thọ. Thọ quả báo của ba Vô sắc đầu và Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm sẽ sinh ở đây được nhận vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót. Thánh đệ tử Phật Bát Niết-bàn ở trong đó, ngoài ra Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm cũng như vậy.
Thánh đệ tử Phật đã sinh đã đắc Tứ thiền và Tứ Vô sắc, tất cả từ đây lại bị thối thất, người này trú ở Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập Hạ phẩm. Do nghiệp tương ưng với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập Hạ phẩm nên sinh cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập. Đã sinh ở đây sẽ thọ quả báo Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập Hạ phẩm, được vui không có bức não, và vui không có thọ. Thọ quả báo ba Vô sắc trước và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm sẽ sinh ở trong đó được vui không có bức não, và vui không có thọ. Lúc nghiệp này đã chín sẽ được thọ dụng như vậy không sót.
Thánh đệ tử Phật Bát Niết bàn ở trong đó, ngoài ra Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Vô Biên Nhập Trung phẩm, Thượng phẩm cũng như vậy. Thượng lưu sanh A-na-hàm có ba loại: một là mới sanh cõi trời Phạm Tiên Hành, tuần tự sanh như vậy cho đến cõi trời Quảng quả, sinh ở trong đó rồi sẽ đắc Bát Niết bàn; hai là mới sanh cõi trời Quảng Quả, tuần tự sanh như vậy cho đến cõi trời A-ca-nị-tra, đã sinh ở đó đắc Bát Niết bàn; ba là mới sanh cõi trời Không Vô Biên Nhập, tuần tự sanh như vậy cho đến cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, đã sanh trong đó đắc Bát Niết bàn.
Lại nữa thượng lưu sanh A-na-hàm có hai loại: một là ở Sắc giới, hai là ở Vô sắc giới. Nếu ở Sắc giới Bát Niết bàn, nghĩa là từ cõi trời Phạm Tiên Hành tuần tự sanh như vậy cho đến cõi trời A-ca-nị-tra, đã sanh ở đó đắc Bát Niết bàn. Nếu ở Vô sắc giới nghĩa là mới sinh cõi trời Không Vô Biên Nhập, tuần tự sanh như vậy cho đến cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, đã sinh ở đó đắc Bát Niết bàn.
Lại nữa có một loại Thượng lưu sanh A-na-hàm: sinh từ cõi trời Phạm Tiên Hành, tuần tự sanh như vậy cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, đã sanh ở đó đắc Bát Niết bàn. Nghĩa này Đức Phật Thế Tôn đã dạy, tôi nghe như vậy.
Phẩm 22: THỌ LƯỢNG
Phật Thế Tôn nói: Trong cõi người hai vạn năm là ở địa ngục A-tỳ một ngày một đêm. Do ngày đêm này nên ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Do số năm này nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều nghìn năm, nhiều trăm nghìn năm ở trong địa ngục này thọ qủa báo chín muồi. Sinh ở trong đó thời gian dài tối cực, nghĩa là một kiếp thọ mạng trong cõi người sáu nghìn năm thì ở địa ngục Diêm-la một ngày một đêm. Do ngày đêm này mà ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Do số năm này nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều nghìn năm, nhiều trăm nghìn năm ở trong địa ngục này thọ nghiệp báo chín muồi. Có chúng sinh súc sinh trong một ngày một đêm qua sáu bảy lần sống chết, lại có các súc sinh thọ mạng một kiếp. Một tháng trong cõi người là một ngày một đêm ở trong Quỷ thần, lại ở trong cõi người một ngày một tháng là một ngày một đêm trong Quỷ thần, do ngày đêm này mà ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Do số năm này mà năm trăm năm là thọ mạng của họ. Năm trăm năm này ở trong cõi người là mười lăm nghìn năm. Người Diêm-phùđề có thọ mạng ở giữa mười năm và a-tăng-kỳ năm, dài dần hoặc ngắn dần. Dài nhất là tám vạn năm, ngắn nhất là mười năm. Người Tây Cùda-ni có thọ mạng là hai trăm năm mươi năm. Người Đông Phất-bà-đề thọ năm trăm năm, người Bắc Uất-đơn-việt thọ một nghìn năm. Trong cõi người năm mươi năm là ở trời Tứ thiên vương một ngày một đêm. Do ngày đêm này mà ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Do số năm này mà năm trăm năm cõi trời là thọ mạng của họ thì số năm ở trong cõi người phải là chín trăm vạn năm. Trong cõi người một trăm năm là cõi trời Dao Lợi một ngày một đêm. Do ngày đêm này mà ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Do số năm này, thọ mạng một nghìn năm thì ở trong cõi người phải là ba nghìn sáu trăm vạn năm. Trong cõi người hai trăm năm là một ngày một đêm trong cõi trời Dạ ma. Do ngày đêm này mà ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Do số năm này mà thọ mạng hai nghìn năm thì trong cõi người phải là mười bốn nghìn vạn bốn trăm vạn năm. Trong cõi người bốn trăm năm là một ngày một đêm ở cõi trời Đâu-suất-đà. Do ngày đêm này mà ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Do số năm này mà thọ mạng bốn nghìn năm thì ở trong cõi người phải là năm nghìn bảy trăm sáu mươi ức năm. Trong cõi người tám trăm năm là một ngày một đêm ở cõi trời Hóa Lạc. Do ngày đêm này mà ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Do số năm này mà thọ mạng tám nghìn năm thì trong cõi người phải là hai vạn ba nghìn bốn mươi ức năm. Trong cõi người một nghìn sáu trăm năm là một ngày một đêm ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Do ngày đêm này mà ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Do số năm này mà thọ mạng một vạn sáu nghìn năm thì trong cõi người phải là chín vạn hai nghìn một trăm sáu mươi ức năm. Vì thọ mạng A-tu-la dưới đỉnh núi Càn đà như cõi trời Tứ Thiên Vương, thọ mạng A-tu-la dưới đỉnh núi Tu-di như trời Đao Lợi. Một tiểu kiếp gọi là một kiếp, hai mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp, bốn mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp, sáu mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp, tám mười tiểu kiếp gọi là một đại kiếp. Vì sao một kiếp gọi là tiểu kiếp? Lúc Tỳ-kheo Đề-bàđạt-đa trú trong địa ngục thọ nghiệp báo chín muồi, Đức Thế Tôn nói là trú thọ một kiếp, một tiểu kiếp như vậy gọi là kiếp. Vì sao hai mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp? Như cõi trời Phạm Tiên Hành có thọ mạng hai mươi tiểu kiếp, các Phạm thiên này Đức Thế Tôn nói trú thọ một kiếp, hai mươi kiếp như vậy cũng gọi là một kiếp. Vì sao bốn mươi tiểu kiếp gọi là một kiếp? Như thọ mạng cõi trời Phạm Chúng là bốn mươi tiểu kiếp, Đức Phật nói trú thọ một kiếp, bốn mươi kiếp như vậy cũng gọi là một kiếp. Vì sao sáu mươi tiểu kiếp gọi là một kiếp? Như thọ mạng cõi trời Đại Phạm là sáu mươi kiếp, Đức Phật nói trú thọ một kiếp, sáu mươi tiểu kiếp như vậy cũng gọi là một kiếp. Vì sao tám mươi tiểu kiếp gọi là một đại kiếp? Như thọ mạng cõi trời Thiểu Quang là một trăm hai mươi tiểu kiếp, Đức Phật nói thọ lượng một đại kiếp rưỡi, tám mươi tiểu kiếp như vậy gọi là một đại kiếp. Thọ lượng cõi trời Vô Lượng Quang một trăm bốn mươi tiểu kiếp, trú thọ cõi trời Thắng Biến Quang một trăm sáu mươi tiểu kiếp, đó là hai đại kiếp. Cõi trời Thiểu Tịnh có thọ lượng hai đại kiếp rưỡi; cõi trời Vô Lượng Tịnh có thọ lượng ba đại kiếp rưỡi; cõi trời Biến Tịnh có thọ lượng bốn đại kiếp; cõi trời Vô Vân có thọ lượng ba trăm đại kiếp; cõi trời Thọ Phước có thọ lượng bốn trăm đại kiếp; cõi trời Quảng Quả có thọ lượng năm trăm đại kiếp; cõi trời Vô Tưởng có thọ lượng một nghìn đại kiếp; cõi trời Thiện Kiến có thọ lượng một nghìn năm trăm đại kiếp; cõi trời Thiện Hiện có thọ lượng hai nghìn đại kiếp; cõi trời Bất Phiền có thọ lượng bốn nghìn đại kiếp; cõi trời Bất Thiêu có thọ lượng tám nghìn đại kiếp; cõi trời Aca-nị-tra có thọ lượng một vạn sáu nghìn đại kiếp; cõi trời Không Vô Biên Nhập Hạ phẩm là một vạn bảy nghìn năm trăm đại kiếp; cõi trời Không Vô Biên Nhập Trung phẩm có thọ lượng là một vạn tám nghìn năm trăm đại kiếp; cõi trời Không Vô Biên Nhập Thượng phẩm có thọ lượng hai vạn đại kiếp; cõi trời Thức Vô Biên Nhập Hạ phẩm có thọ lượng ba vạn đại kiếp; cõi trời Thức Vô Biên Nhập Trung phẩm có thọ lượng ba vạn năm nghìn đại kiếp; cõi trời Thức Vô Biên Nhập Thượng phẩm có thọ lượng bốn vạn đại kiếp; cõi trời Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Hạ phẩm có thọ lượng năm vạn đại kiếp; cõi trời Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Trung phẩm có thọ lượng năm vạn năm nghìn đại kiếp; cõi trời Vô Sở Hữu Vô Biên Nhập Thượng phẩm có thọ lượng sáu vạn đại kiếp. Cõi trời Phi Tưởng Hạ phẩm có thọ lượng bảy vạn đại kiếp; cõi trời Phi Tưởng Trung phẩm có thọ lượng bảy vạn năm nghìn đại kiếp; cõi trời Phi Tưởng Thượng phẩm có thọ lượng tám vạn đại kiếp.
Nghĩa này Đức Phật đã dạy, tôi nghe như vậy.
LUẬN LẬP THẾ A TỲ ĐÀM
QUYỂN 8
Phẩm 23: ĐỊA NGỤC
1. ĐỊA NGỤC CÁNH SANH (Địa ngục chết đi sống lại)
Phật Thế Tôn chứng thấy:
Đời quá, hiện, vị lai,
Chúng sinh sinh trở lại,
Sống chết và luân chuyển,
Các nghiệp không hư dối,
Có quả báo không mất,
Tùy thời, xứ thành thục.
Bậc Thánh trí tự biết,
Thế Tôn đều chứng thấy,
Thành tựu các pháp nhãn,
Cù Đàm biết thuyết này
Tám loại đại địa ngục:
Cánh sanh và Hắc thằng
Sơn khái, hai Khiếu hoán,
Hai Thiêu Nhiệt lớn, nhỏ
Và Đại A-tỳ-chỉ
Tám địa ngục như vậy
Phật nói: khó thể qua
Người ác thường đầy khắp
Mỗi ngục mười sáu ngăn,
Bốn góc và bốn cửa
Mỗi phần đều bằng thẳng
Chiều cao trăm do-tuần,
Bốn phương trăm do-tuần;
Có thành sắt vây quanh,
Lưới sắt che ở trên,
Dưới đất đều là sắt,
Lửa rực cháy đầy khắp
Đốt người ác đáng sợ,
Thường cháy không thể gần.
Người thấy sởn gai ốc,
Thống khổ không thể nhìn.
Nay ta sẽ vì ngươi
Tuần tự nói như pháp
Một lòng nghe cung kính
Về những điều ta nói.
Có một địa ngục tên là Cánh Sinh, tất cả đều làm bằng sắt, ngày đêm thiêu đốt, thường có ánh lửa dài rất nhiều do-tuần, rộng cũng như vậy. Tội nhân trong đó, ngục tốt cầm chân treo lên trên, đầu quay ngược xuống, dùng rìu chặt ra như ngục Hắc Thằng. Lúc bị chặt ra rồi chỉ còn xương nối liền với nhau bằng gân, tuyệt dứt đường sống và phải tạm chết, ngục tốt ném vào chỗ khốn khổ lớn nhất. Lúc ấy gió lạnh thổi đến liền sống trở lại. Nhờ gió này nên da thịt trở lại bình thường. Lúc ấy, móng tay tội nhân tự dài nhọn ra như kiếm và cùng khởi oán tâm với đồng loại, lại suy nghĩ như vậy: “Lúc xưa, người này đã bị ta làm ác như vậy, cho nên nay ta trước tiên phải nhanh chóng giết hại kẻ này”. Người kia khởi tâm oán thù cũng lại như vậy, lại vằm chặt lẫn nhau nát bấy như bụi. Người ở địa ngục này chịu sự tàn hại lẫn nhau như vậy. Nỗi khổ tột cùng, bền bỉ khốc liệt khó có thể chịu được, cho đến nghiệp ác thọ dụng chưa hết, thì cầu chết không được. Vì hành nghiệp gì mà sinh quả báo này, khiến cho các chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Xưa kia ở trong loài người, nhiều người nữ cùng lấy một người chồng nên luôn sân si, đố kỵ lẫn nhau; rất nhiều người nam cùng tranh một người nữ nên sanh tâm oan gia; hoặc tà dâm vợ người khác; hoặc tranh giành ruộng vườn, xe cộ… hoặc vua hai nước cùng tranh nước láng giềng; hoặc cướp trộm tiền của người nên bị người ấy trừng trị, cùng kết oan gia như người ở chiến trận, tàn sát lẫn nhau. Đã kết oan gia chưa được giải quyết thì ôm mối thù này mà chết, do nghiệp báo này nên thọ sinh ở trong đó, đã sinh trong đó thì thọ dụng vô số quả báo ác nghiệp. Vì nghiệp nhân gì mà làm cho các tội nhân tàn hại lẫn nhau? Vì xưa kia ở trong kiếp người, lại cầm dao kiếm, gậy gộc… chặt chém mạng chúng sinh, cho nên thọ báo chém chặt ở trong đó. Lại nữa, vì tội gì mà bị gió lạnh thổi đến thì sống lại? Vì xưa kia nuôi dưỡng các loài: bò, nai, heo, dê, gà, vịt ăn uống được béo tốt, được nhiều thịt rồi lại đem đi giết ăn. Do nghiệp này nên chiêu cảm quả báo gió lạnh kia thổi đến làm cho tạm sống trở lại. Vì nghiệp báo gì mà sinh móng tay dài nhọn như kiếm? Vì xưa kia ở trong kiếp người, đưa dao gậy cho người, bảo người làm như vậy: “Các người hãy đến chỗ ấy… châu, quận và các huyện ấp ấy… giết người hoặc giết súc vật, làm việc sát hại”. Do nghiệp này nên sinh móng tay như kiếm. Vì sao địa ngục này gọi là Cánh Sanh? Tội nhân ở khởi ý nghĩ này: “Nay ta lại sanh thân như cũ” nên gọi là Cánh sanh lại nữa, địa ngục này vốn gọi là Cánh Sanh. Lúc ấy Thế Tôn muốn nói rõ nghĩa này nên thuyết kệ:
Trong địa ngục Cánh Sanh:
Đầu dưới, chân ở trên,
Ngục tốt cầm búa rìu…
Treo lên tùy ý chặt.
Lúc bị chém chặt xong,
Chỉ còn đống xương tàn,
Máu, thịt, da, gân mạch…
Sinh trở lại như cũ.
Móng tay nhọn như kiếm,
Do nghiệp tự nhiên sinh
Tùy tâm sân, oán xưa,
Mà chém chặt lẫn nhau.
Chịu chém chặt nhau xong,
Gió lạnh lại thổi vào,
Nghiệp cảm gió, đấu tranh
Sanh tất cả phần thân
Như Lai-Nhân Thiên Sư
Thấy như thật việc này,
Nên nói ngục Cánh Sanh,
Nơi người tạo ác ở.
2. ĐỊA NGỤC HẮC THẰNG
Lại có địa ngục tên là Hắc Thằng, tất cả đều làm bằng sắt, ngày đêm lửa thiêu đốt, thường đỏ hừng hực, chiều dài rất nhiều do-tuần, rộng cũng như vậy. Tội nhân trong đó bị ngục tốt đem đánh khiến cho ngã xuống đất, rồi dùng rìu chặt, như hình phạt ở Hắc Thằng, hoặc chặt làm tám mảnh, hoặc làm sáu mảnh, hoặc làm bốn mảnh. Có các tội nhân từ chân đến cổ, đầu bị chặt bằng rìu dài như từng lóng mía. Người ở địa ngục này chịu sự hành hạ chặt chém như vậy. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong ấy? Xưa kia ở trong loài người, họ cũng làm nghiệp như vậy, tùy theo luật chế và mức hình phạt trong một thời đại nào đó mà họ làm việc giết hại, hoặc bảo người giết hại, như những trọng hình, chặt tay, chặt chân, hoặc cắt thịt sau lưng, hoặc cắt hai đùi, hoặc cắt năm lạng, hoặc cắt mười lạng. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó, đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Ở trong đó, có lúc ngục tốt chửi mắng, tội nhân sợ hãi chịu tội, chẳng dám động đậy, có lúc vô lượng tội nhân với tâm rất hoảng hốt, có lúc đứng lặng như rừng cờ, có lúc mặc áo sắt, cà sa sắt, lửa thường thiêu đốt hừng hực, vô lượng nghìn vạn áo sắt đỏ. Có lúc áo trên không bay xuống, các tội nhân la hét thất thanh: “Áo đến, áo đến…”. Áo đã đến rồi thì tùy theo mỗi người mà bị quấn vào, da thịt gân cốt đều bị cháy rụi. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì thuở xưa ở trong kiếp người thường cầm roi gậy đánh đập chúng sinh, hoặc dùng gậy da, hoặc dùng roi mây, hoặc dùng đuôi cá tra tấn chúng sinh. Lại có kẻ xuất gia phá giới thọ dụng áo quần và khăn đai của dân chúng. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Lại có tội nhân bị ngục tốt lột da từ chân đến cổ thì dừng, lớp da vẫn còn dính mà không lìa ra được; lại có ngục tốt lột da từ cổ đến chân rồi dừng mà không lìa lớp da ấy ra được; hoặc có tội nhân bị lột da từ cổ đến thắt lưng thì thôi; có người bị lột từ thắt lưng đến chân thì dừng, làm cho các tội nhân phải mang lớp da dính trên thân; lớp da này rủ xuống đến đất, tự mình và người khác dẫm đạp lên, đau khổ quằn quại khó thể tả nổi. Ví như người mặc áo quần mà ngang dọc dài ngắn không thể gọn gàng, lớp da ở trên thân tội nhân ấy cũng vậy. Tội nhân ở địa ngục này chịu hình phạt lột da. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh phải thọ sinh ở trong đó? Thuở xưa ở trong kiếp người tạo nghiệp như vậy: lột da của các loài chúng sinh, làm cho da không rứt ra được giống như lớp áo mặc trên thân rồi lấy đó làm vui… Lại nữa, xưa kia ở trong kiếp người lại đánh đập chúng sinh, hoặc tự làm, hoặc bảo người làm. Lại có kẻ xuất gia phá giới thọ dụng áo quần, giường chiếu… của thí chủ. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Trong địa ngục này vô cùng tối tăm, khói tỏa mù mịt, khói xông hơi cay, đến lột da, xé thịt, róc xương đến tủy. Khói độc này vào khắp trong ngoài thân. Ngục tốt đuổi chạy khiến cho tội nhân vào trong khói này, sau đó mới bỏ. Các tội nhân sợ trốn khói này, bỏ chạy khắp vô số do-tuần; nhưng hư hại đến thân da lại càng khốc liệt hơn nhiều. Người ở địa ngục này chịu khói độc ấy. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì thuở xưa ở trong kiếp người làm mật thất cao, dùng khói giết người, hoặc dùng khói tra tấn người lao ngục, hoặc dùng khói lửa xông đốt trong hang các loài: Nhím, cá chép, cá rái, cáo, chồn, chuột, ong cho đến dùng khói xông giết loài muỗi. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Vì sao địa ngục này gọi là Hắc Thằng? Vì tội nhân trong đây bị trói buộc tùy tiện, chém chặt thống khổ, nên gọi là hắc thằng. Lại vì tính chất của nó xưa nay nên gọi là Hắc Thằng.
Đức Phật muốn nói rõ lại nghĩa này nên thuyết kệ:
Ngục tốt trong Hắc Thằng
Dựng tội nhân như cây
Tùy cõi ngục Hắc Thằng,
Cầm rìu, đao chém chặt.
Lại còn áo sắt đỏ,
Ngày đêm thường thiêu đốt,
Quấn quanh các tội nhân,
Máu thịt chảy rồi khô,
Lột da chân đến cổ,
Cổ, thắt lưng cũng vậy.
Tội nhân trong Hắc Thằng,
Nhiều thịt đỏ không da,
Trong tối tăm đáng sợ,
Khói độc đều đầy khắp.
Ngục tốt đuổi chạy vào,
Vào rồi mới hết đuổi
Chạy khắp nhiều do-tuần,
Khói tối không thể thấy,
Đạp da lột của nhau,
Mình, người đều khốn khổ.
Nhân và quả trong đó
Phật tự biết như thật,
Nói Hắc Thằng như vậy
Là chỗ người ác ở.
3. ĐỊA NGỤC ĐẠI HẠNG
Ở giữa hai địa ngục Hắc Thằng và Cánh Sanh, có một địa ngục tên là Đại Hạng. Tội nhân trong đó, có lúc bị nằm ngữa, có lúc bị nằm sấp, hoặc đặt trong cối bị chày sắt đâm giã, hoặc từ chân đến cổ của tội nhân bị cắt chặt từng phần, hoặc có tội nhân bị lột da trãi xuống đất, rồi đến cắt xẻo thịt bỏ lên trên da đó. Lại có tội nhân, hạ kiếm xuống thì tay bị chặt, chặt đứt, nhấc kiếm lên thì tay sinh lại trên lại sinh; vì vậy mà tay chất như ngọn núi cao; chân, tai, mũi, đầu, kiếm hạ xuống thì dứt, nhấc kiếm lên lại sinh. Cho đến khi thọ báo nghệp ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà phải thọ quả báo này, khiến cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì thuở xưa ở trong kiếp người, làm nghề đồ tể, lấy việc giết heo, dê, trâu, nai… để sinh sống, hoặc giăng lưới bắt cá, chim, hoặc làm cai ngục, hoặc tự trộm cướp, hoặc dùng đại hình, chém giết tội nhân. Do nghiệp báo này nên thọ sinh trong đó; lại có vô số nghiệp báo ác nên thọ sinh trong đó, lại có nghiệp cảm tăng thượng thọ sinh trong đó. Đã sinh trong đó thì thọ dụng vô số nghiệp báo bất thiện. Người ở địa ngục này có đầu như đầu voi, thân tợ thân người; lại có tội nhân đầu trâu, thân cũng tợ thân người, vô số những loại như vậy không đồng. Ngục tốt trong đó đóng tội nhân vào xe sắt để cỡi đi, ngày đêm thiêu đốt, thường đỏ hừng hực, dùng sắt đỏ làm ách, làm dây. Đường xá ở đó đều làm bằng sắt, chiều dài nhiều do tuần, rộng cũng như vậy. Ngục tốt trong đó cầm dùi sắt đỏ đuổi tội nhân chạy lui tới, chịu những khổ hại như vậy. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì thuở xưa ở trong kiếp người hoặc làm người điều khiển voi, ngựa, trâu, các loài cưỡi chạy… do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Trong đó lại có chúng sinh, đầu là đầu ngựa, thân là thân người, cũng có người đầu nai thân người, có kẻ đầu heo thân người. Vô số những loại khác nhau như vậy, rất nhiều ngục tốt tụ tập xung quanh, cầm cung đao, vô số gậy gộc đâm chém tội nhân. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì thuở xưa ở trong kiếp người cầm dao gậy, lưới, săn bắt nhiều loài chúng sinh; có nhiều người vây quanh, hoặc chặt hoặc đâm, hoặc giết. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Ở đó có một cây tên là Nghịch-thích-siểm-đề-lợi, tất cả đều làm bằng sắt, ngày đêm thiêu đốt, ánh lửa hừng hực. Cây này cao một do-tuần, gai dài mười sáu tấc. Ngục tốt trong đó bắt tội nhân kéo lên cây gai rồi lại kéo xuống; lúc kéo lên thì gai hướng xuống dưới, lúc kéo xuống thì gai hướng lên trên. Lúc kéo lên xuống, nếu ở bụng thì da thịt bị tước xé hết, bạ vào thân cây gai, nếu ở lưng thì da thịt cũng bạ vào hết thân cây. Lát sau da thịt sinh ra trở lại cũng vậy. Do việc này nên tùy theo bụng hoặc lưng mà kéo lên, kéo xuống. Tội nhân phải chịu các hình phạt như vậy. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì thuở xưa ở trong kiếp người tà dâm vợ người, hoặc có người vợ phản bội lại chồng. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Trong địa ngục ấy lại có rất nhiều núi than sắt cháy đỏ, ngày đêm thiêu đốt, ánh lửa hừng hực, ngục tốt trong đó nắm tay tội nhân kéo lên kéo xuống. Nếu bụng áp vào núi thì da thịt cháy rực, nếu lưng áp vào núi, da thịt cũng thiêu rụi. Da, thịt ở bụng sinh trở lại như cũ; rồi đến da thịt lưng cháy rụi rồi sanh trở lại cũng vậy. Do vậy nên lưng và bụng luân phiên nhau cháy rồi sinh nên tùy theo đó mà kéo lên kéo xuống, tội nhân phải thọ sự hành hạ này. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Thuở xưa ở trong kiếp người, do đem sinh mạng của chúng sinh ném vào trong lửa, hoặc cháy trong cát bỏng, hoặc cháy trong than tro, hoặc ném vào chỗ uế, hoặc đóng vào xe trâu, ngựa cỡi trên cát nóng. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện.
4. ĐẠI NGỤC TỤ KHÁI
Lại có địa ngục tên là Tụ Khái, hình dạng của nó giống như ở giữa hai núi. Ngục tốt trong đó cầm vô số khí trượng khủng bố tội nhân, lúc ấy tội nhân rất hoảng hốt, vô số người vào giữa hai núi, vào giữa hai núi rồi, có lửa lớn tụ lại bít lấp đường trước. Tội nhân thấy lửa lớn liền chạy lui, lại thấy ở sau có lửa lớn tụ lại, bao bọc xung quanh, hai núi liền khép lại với nhau. Lúc hai núi khép lại, tất cả tội nhân gào thét như vậy: “Núi này đến rồi, núi này đến rồi”. Núi liền khép lại với nhau như bánh dầu ép, núi ép tội nhân cũng như vậy. Đã khép rồi, núi mở ra phía trên, các tội nhân liền nhảy lên, tranh nhau nhảy lên thì lại rớt xuống dưới núi này rồi thân bị ép lại, như ép các loài thú, máu chảy thành sông, chỉ còn xương gân không còn da thịt. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Thuở xưa ở trong kiếp người, dùng mành tre trải lên thân người khác rồi cho voi dẫm đạp, hoặc lúc chiến đấu dùng các áp xa ép người chết, lại treo máy đá thả xuống để giết người; lại ở trong các đường hẽm làm các hầm bẫy để hãm hại chúng sinh, hoặc dùng móng răng cào cắn trùng bọ. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó, đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Tội nhân ở trong đó chỉ còn gân xương, không còn máu thịt. Lúc ấy ngục tốt bảo với đồng bọn: “Nay ta cùng với ngươi trong khoảnh khắc, đâm giã tội nhân”. Họ liền bắt các tội nhân vào trong thuyền sắt nóng đỏ, dùng chày sắt nóng rực giã vụn thân tội nhân. Thời gian khoảnh khắc ấy thì ở trong cõi người phải là năm trăm năm tuổi thọ, chịu sự tra tấn thống khổ này còn nhiều sự khốc liệt hơn nữa cũng nói đầy đủ như trước. Xưa kia vì nghiệp cảm gì mà thọ quả báo này, làm cho các chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Thuở xưa ở trong kiếp người hoặc cầm mâu, giáo… đâm hại chúng sinh, hoặc giã côn trùng lẫn với gạo nếp, lúa mì. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Vì sao gọi địa ngục này là Tụ Khái? Vì tội nhân tụ tập một chỗ ở trong ấy, hai núi khép lại với nhau nên gọi là Tụ Khái; lại nữa, ngục này xưa gọi là Tụ Khái nên gọi là Tụ Khái. Đức Phật nói lại bằng kệ:
Trong địa ngục Tụ Khái,
Ở giữa hai núi lớn.
Vô số các tội nhân
Vào trong như đàn nai.
Do nghiệp báo xưa kia,
Hai núi này khép lại,
Ép chết nhiều chúng sinh.
Lửa bít đường trước sau
Từ thân các tội nhân,
Máu chảy thành sông suối,
Chịu khốn khổ như vậy,
Cầu chết không thể được,
Để trong thuyền sắt nóng
Cầm chày giã vỡ nát.
Thọ các nghiệp báo xưa,
Khoảnh khắc-năm trăm năm.
Như Lai, Nhân Thiên Sư
Thấy như thật việc này,
Nên nói ngục Tụ Khái,
Chỗ người làm ác ở.
5. ĐỊA NGỤC KHIẾU HOÁN
Lại có địa ngục tên là Khiếu Hoán, hình tướng giống như vô lượng nghìn số nhà nhỏ. Tội nhân trong đó, mỗi người một nhà, thân lớn phòng nhỏ, khốn khổ bức bách, không thể đi đứng nằm ngồi, chịu lửa thiêu đốt, lửa rực cháy ở dưới tội nhân này, nếu ngọn lửa quá lớn thì cất tiếng: Kêu dữ dội, nếu lửa yếu thì cất tiếng: kêu giảm xuống. Chịu sự thiêu đốt. Cho đến những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Thuở xưa ở trong loài người, không cứu tế những chúng sinh không nơi nương tựa; tự làm hoặc bảo người làm trọng hình; tự làm hoặc bảo người làm đốt cháy rụi cả cánh đồng; hoặc làm phòng kín dùng lửa giết chúng sinh; hoặc làm lao ngục, dùng lửa tra tấn người; hoặc dùng lửa thiêu đốt các loài trong hang chuồng: heo, cá chép, cá rái, cáo, chồn, chuột, ong, cho đến dùng lửa xông đuổi các loài muỗi. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện.
6. ĐỊA NGỤC ĐẠI KHIẾU HOÁN
Lại có địa ngục tên là Đại Khiếu Hoán, hình dáng như hầm lớn, rộng và dài vô số do-tuần, đều làm bằng sắt nóng đỏ, nói đầy đủ như trước. Ngục tốt trong đó tay cầm phách sắt khủng bố tội nhân, tội nhân thấy vậy sanh lòng hoảng hốt, hoặc chạy trốn hoặc không chạy trốn, hoặc chạy hoảng loạn khắp cùng, hoặc quay mặt vào vách, hoặc nhìn thẳng, hoặc gặp ngục tốt cúi chào, khen ngợi, hoặc xin lui. Có lúc ngục tốt hỏi người mới gặp cúi chào: “Các ngươi vì sao dám đến chào đón ta”, liền dùng phách sắt đánh bể đầu nát bấy như pho mát; người không nói lời chào hỏi nghinh tiếp thì ngục tốt nói: “Vì sao các ngươi dám không đến nghinh đón”, ngục tốt cũng liền đập nát đầu của tội nhân như nói ở trước. Người chạy tán loạn, không chạy, xoay mặt vào vách, nhìn thẳng, phản loạn, không phản loạn đều bị hỏi đánh tra tấn như vậy. Vì lý do này nên đều bị vỡ đầu, không thể tránh khỏi. Chịu sự vỡ đầu này rồi còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì thuở xưa ở trong kiếp người đào hầm làm ngục, nếu người phạm tội thì bị đày ở trong đó, khiến không thấy ánh sáng, mặt trăng. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Lại vì hành nghiệp gì mà phải thọ quả báo vỡ đầu? Thuở xưa trong kiếp người đã từng đánh vỡ đầu chúng sinh, hoặc vô số chúng sinh: cá, rắn, rít do những nghiệp này nên thọ quả báo vỡ đầu. Sự khốn khổ nạn lửa thiêu đốt của địa ngục này cũng kịch liệt như trước, lại thêm có nỗi thống khổ vỡ đầu… Vì sao địa ngục này gọi là: Đại Khiếu Hoán? Vì tội nhân ở trong đó bị đánh, lửa đốt, kêu to, thét lớn, chỉ nghe tiếng gọi thất thanh mà không thuyên giảm, cho đến không thể kêu cha, gọi mẹ. Cho nên địa ngục này gọi là Đại Khiếu Hoán, lại do tính chất là tiếng gào thét lớn nên gọi là Đại Khiếu Hoán.
Đức Phật nói rõ lại nghĩa này bằng bài kệ:
Trong địa ngục Khiếu Hoán,
Nhiều người bị đè ép.
Nếu lửa lớn đốt dưới,
Tiếng kêu gào đáng sợ.
Nếu ngọn lửa yếu đi
Tiếng kêu cũng giảm theo.
Không được đứng nằm ngồi
Khổ vì lửa thiêu đốt.
Đại Khiếu Hoán thứ hai,
Sâu tối sởn gai ốc,
Vách đứng không thể lên,
Rộng to vô số lượng.
Ngục tốt ở trong đó,
Cầm phách sắt nóng đỏ,
Đập đầu như oan gia.
Vô lượng trăm nghìn năm
Như Lai Thiên Nhân Sư,
Thấy như thật việc này
Nói hai ngục Khiếu Hoán:
Chỗ người làm ác ở.
7. ĐỊA NGỤC THIÊU CHÍCH
Lại có một địa ngục nữa tên gọi là Thiêu Chích, hình của nó giống như lò bếp, tất cả đều làm bằng sắt, ngày đêm thiêu đốt, ánh lửa hừng hực, dài và rộng vô lượng do-tuần. Tội nhân trong ấy vô số nghìn vạn, bị đóng lại để thiêu đốt, đốt chín rồi, trong ngoài đều cháy rụi, khô dòn, như thịt để khô. Lúc ấy cửa ngục tự nhiên mở, bên ngoài cửa ấy có vô số chó, hoặc chim, hoặc ngựa vằn, thân cao lớn. Người hầu ngục mở cửa tranh nhau vào ngục vác tội nhân ra, cáu xé thân ấy, như cây bị đổ, mặc sức mà ăn. Bị ăn xong da thịt hết, chỉ còn đống xương; lúc ấy người thọ nạn khốn khổ hôn mê, gió lạnh thổi đến, da thịt sinh trở lại. Lúc ấy ngục tốt đuổi vào trở lại, lại thọ cái khổ thiêu đốt và nhai nghiến như trước. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn đều nói đầy đủ như trước. Xưa kia vì làm nghiệp gì mà thọ quả báo này, làm cho các chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì thuở xưa ở trong kiếp người làm ra lao ngục, không có cửa ngỏ, vách làm bằng đất bùn trộn phân voi và dùng dầu lam-hòa-cùđàm-ba-thọ để tô quét, rồi ném tội nhân vào trong ngục đó, ánh sáng mặt trời thiêu nướng, qua một đêm, xác chết phình trướng và thối rữa; hoặc giết hại tội nhân bằng cách hấp, hoặc nấu hoặc giết bằng cách đặt lửa thiêu nướng, hoặc nấu tằm kén, hoặc rang nướng chúng sinh. Vì những nghiệp này nên thọ sinh ở trong đó; lại có vô số nghiệp báo các ác và nghiệp báo tăng thượng nên thọ sinh ở trong đó, đều nói đầy đủ như trên. Lại do nghiệp gì mà bị chó ăn thịt? Vì thuở xưa ở trong kiếp người, nuôi các loài vật: Sư tử, hổ, báo, chó sói… và làm thịt nhai nuốt mạng các chúng sinh này. Vì những nghiệp này nên thọ sinh ở trong đó, ngoài ra đều nói như trên. Xưa kia vì tạo nghiệp gì mà bị gió lạnh thổi vào thân? Vì xưa kia lấy thịt chúng sinh làm nem chả, vì nghiệp này nên bị gió lạnh thổi vào thân. Vì sao ngục này gọi là Thiêu Chích? Vì tội nhân ở trong đó bị nướng đốt thân tâm nên gọi là Thiêu Chích, lại do tính chất thiêu nướng của ngục này nên gọi là Thiêu Chích. Đức Phật nói lại nghĩa này bằng kệ:
Trong địa ngục Thiêu Chích,
Nhà lửa sắt rực đỏ
Khí nóng thật khủng khiếp,
Giống như đống lửa cháy.
Người tạo tội trong đó,
Bị nhốt chịu thiêu nướng,
Như hành nghiệp thuở xưa
Chịu quả báo trong đó.
Lúc thân đã chín rồi,
Bầy chó tranh cấu xé,
Da thịt đều ăn hết
Chỉ còn xương để lại.
Lúc gió lạnh thổi đến
Da thịt sinh trở lại,
Ngục tốt lại đuổi vào,
Chịu thống khổ như trước.
Như Lai Nhân Thiên Sư,
Thấy như thật việc này,
Nên nói ngục Thiêu Chích
Chỗ người làm ác ở.
8. ĐỊA NGỤC ĐẠI THIÊU CHÍCH
Lại có một địa ngục tên là Đại Thiêu Chích, hình dáng của nó cao rộng như núi, tất cả đều làm bằng sắt nóng đỏ, ngày đêm thiêu đốt, ánh lửa hừng hực, có vòng chuỗi sắt đỏ đốt nóng kịch liệt, thường phát quanh khắp, trên dưới đều bao quanh. Hoặc có tội nhân bị một xâu quấn vào liền bị núi lửa thiêu cháy, hoặc hai ba xâu, hoặc mười, hai mươi xâu cho đến trăm nghìn xâu quấn vào ngang dọc. Nếu một bên chín thì xâu chuỗi ấy tự chuyển sang thiêu đốt một bên khác. Có tội nhân vòng sắt tự xâu vào, nhổ ra, chỗ chưa bị thương thì liền cháy. Lại có tội nhân do nghiệp báo ác hơn nữa nên vô số các vòng này tự đến chạm vào và đâm chích thân thể, tội nhân trong đó bị thiêu nướng bởi vòng chuỗi này. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì thuở xưa ở trong kiếp người xâu vòng lửa để thiêu nướng chúng sinh. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Vì sao địa ngục này gọi là Thiên Chích? Vì sầu ưu khổ não nên gọi là Thiêu Chích, lại do tính chất vốn có của nó nên gọi là Thiêu Chích. Đức Phật nói rõ lại nghĩa này bằng kệ:
Địa ngục Đại Thiêu Chích,
Xâu chuỗi nhọn bằng sắt
Núi lửa sắt vây quanh,
Thọ nghiệp ác đời trước.
Ở trong đó người ác,
Vô số bị quấn xâu,
Như lăn, trở nướng cá,
Tùy nghiệp khiến thọ vậy
Như Lai Nhân Thiên Sư,
Thấy như thật việc này,
Nên nói Đại Thiêu Chích,
Chỗ của người ác ở.
9. ĐỊA NGỤC A-TỲ-CHỈ.
Lại có một địa ngục tên là A-tỳ-chỉ, hình tướng của nó giống như thành lớn, tất cả đều làm bằng sắt đỏ nóng, ngày đêm thiêu đốt, ánh lửa hừng hực. Bức tường phía Đông của địa ngục này tất cả đều bằng sắt đỏ, ngày đêm thiêu đốt, thường phát ra ánh lửa hừng hực. Bức tường phía Tây, Nam, Bắc, trên, dưới đều đốt cháy. Bức tường phía Tây rực lửa giao nhau hoàn toàn với tường phía Đông; tường Đông rực lửa cũng giao nhau hoàn toàn với tường phía Tây. Lửa cháy rực của tường Nam giao thoa hoàn toàn với tường Bắc, tường Bắc với tường Nam, trên với dưới, dưới với trên cũng như vậy. Bốn phương rực lửa khắp cùng trong ngục, tội nhân vô lượng vô số trong đó đạp đi đạp lại chịu thiêu đốt như củi cháy. Có tội nhân do những phẩm nghiệp ác khốn khổ hơn nữa nên thân to lớn, hư rỗng, mềm nhũn, lại dẫm đạp lên nhau, thân đầu rơi xuống; không thể đi đứng nằm ngồi. Có những tội nhân do phẩm nghiệp đời trước mức trung, hạ nên thường chạy tán loạn khắp, tìm cách ra khỏi, hoặc có lúc cửa Đông của Đại địa ngục tự mở, các tội nhân đều la lên: “Cửa mở rồi, chạy ra!”. Chưa đến cửa thì cửa tự đóng lại. Lúc đó cửa Tây lại mở, cửa Nam, cửa Bắc cũng lại tự mở, các tội nhân này la lên: “Cửa mở, chạy mau đến cửa”, chưa kịp đến cửa, cửa đã tự đóng. Các tội nhân này thọ khổ địa ngục Vô Gián này khó có thể chịu được, rất kiên cố, rất dữ tợn, vô cùng thống khổ, cho đến nghiệp ác chưa thọ báo hết thì cầu chết không được. Xưa kia vì làm việc gì mà thọ quả báo này? Xưa kia ở trong loài người vì giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, khởi tâm sát hại làm Phật rỉ máu, phá hòa hợp tăng, giết người chánh định, hoặc mẹ của họ đã thành Thánh nhân mà sinh tâm bức dâm, hoặc giết Bồ tát, chúng sinh, hoặc phá bốn loại Chi Đề của Như Lai, hoặc cướp đoạt nhân duyên tụ tập vật bốn phương tăng, hoặc làm việc sát sinh, trộp cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, hoặc các phẩm ác tối thượng tham ái, sân nhuế, tà kiến… Tùy theo một, hai hay đầy đủ các tội như vậy, do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Vì sao địa ngục này gọi là A-tỳ-chỉ? Vì tội nhân ở trong đó thường chịu thống khổ, không hề gián đoạn. Còn những nỗi khỗ của địa ngục trên nữa thì không như vậy. Vì sao? Vì trong địa ngục khác, ngục tốt có lúc đến, có lúc không đến, hoặc do gió lạnh mà khổ lớn tạm ngừng, trong địa ngục này thì không như vậy. Từ đầu đến cuối, thọ những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa khó thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, vô cùng thống khổ. Thọ mạng của tội nhân trong đó một kiếp, cho đến nửa kiếp, cho đến bất định. Ví như lò đúc kim loại nung sắt cuối ngày, các mảnh sắt nóng bay tung toé, thân tội nhân bị thiêu cháy cũng như vậy, nên gọi là A-tỳ-chỉ, lại do tính chất của nó nên gọi là A-tỳ-chỉ. Đức Phật nói lại nghĩa này bằng kệ:
Địa ngục A-tỳ-chỉ,
Thật thống khổ vô cùng,
Ngày đêm thiêu cháy rụi,
Đống lửa cháy khắp nơi.
Ví như đốt một ngày
Sắt đỏ rực ánh lửa.
A-tỳ-chỉ như vậy,
Tất cả toàn lửa cháy.
Thân tội nhân trong đó
Giống như đống lửa lớn.
Các ngươi thấy nghiệp lực,
Như lửa than không tàn.
Hoặc lúc thấy cửa mở,
Tranh nhau chạy ra khỏi,
Chưa đến cửa đã đóng
Nghiệp đời trước chưa hết,
Như người thọ vui trời,
Cầu sống không muốn chết.
Người thọ khổ trong đó
Cầu chết không cầu sống.
Như Lai Nhân Thiên Sư,
Thấy như thật việc này
Nên nói ngục A-tỳ
Chỗ người làm ác ở.
10. ĐỊA NGỤC NGOẠI VIÊN CÁCH
Bốn bên vây quanh bên ngoài của tám địa ngục này là bốn địa ngục Ngoại Viên Cách. Những gì là bốn? Một là địa ngục Nhiệt Khôi, hai là địa ngục Phấn Thỉ, ba là địa ngục Kiếm Diệp, bốn là địa ngục Liệt Khôi Trấp. Bốn lớp địa ngục tuần tự vây quanh như vậy, mỗi một địa ngục nên biết như vậy. Nếu nói tuần tự thì có địa ngục tên là Nhiệt Khôi, các tội nhân trong đây đi ra từ Đại địa ngục, thấy bên ngoài lửa tàn như đất bằng trống. Thấy tướng này rồi thường khởi tâm như vậy: “Nay ta phải quyết đến đó”. Lúc ấy tội nhân liền đi đến đó, chân dẫm lên tro nóng thì da thịt liền tiêu nát, như ngọn nến quăng vào lửa lớn, tùy theo chân bước mà da thịt tái phục, hoặc có lúc đến gối, có lúc đến đùi, có lúc đến cổ, hoặc chìm luôn không hiện. Tội nhân chạy tán loạn khắp vô số do-tuần trong đó. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì thuở xưa ở trong kiếp người đem chúng sinh ném vào lửa, hoặc trong tro nóng, hoặc trong cát nóng, hoặc tà dâm vợ người, lúc qua đời thì vào cảnh giới khác; hoặc trong Tăng già lam xuất gia phá giới đi, đứng, nằm, ngồi; hoặc khởi tâm ác, hoặc dẫm lên cảnh giới bốn Chi-đề, hoặc dẫm lên ảnh Chi-đề. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện.
Địa ngục thứ hai tên là Phấn Thỉ, tội nhân trong đó ra khỏi địa ngục Nhiệt Khôi thì thấy phẫn như ao sen trong. Thấy rồi liền khởi tâm như vậy: “Ta nay phải quyết định đến chỗ kia”. Lúc ấy tội nhân đi vào trong đó, vào trong đó rồi thì có vô số loài trùng. Miệng của loài trùng sắc như kiếm nhọn, ngấu nghiến da thịt cho đến gân xương, ăn hết thân tội nhân. Lại có các loài trùng từ lỗ mũi đi vào ăn năm tạng phủ, hoặc từ tai vào, hoặc từ mắt vào, từ miệng vào, từ đường đại tiểu tiện đi vào ăn năm tạng phủ. Lại có trùng lớn nhai nuốt tội nhân, máu thịt đã hết ói ra xương như bỏ hạt. Thọ đầy đủ những nỗi khổ cùng cực như vậy, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì xưa kia trong kiếp người đem mạng chúng sinh ném vào hầm phẫn, hoặc chỗ bất tịnh, cho đến cống rãnh. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Xưa kia vì hành nghiệp gì mà thọ quả báo khốn khổ bị trùng nhai nuốt? Vì thuở xưa ở trong cõi người ngấu nghiến các loài: rắn, chó, ốc, cá…, hoặc khởi ác tâm thọ dụng năm trần. Do nghiệp báo này nên sinh ở trong đó, thọ những thống khổ nhai nghiến đục khoét như vậy. Đức Phật nói lại nghĩa này bằng kệ:
Đã qua ngục Phấn Thỉ
Thấy rừng-cây đáng yêu
Cành, nhánh, lá sum xê
Đến kia muốn cầu vui.
Trong rừng như vậy có: chim đen cổ trắng, quạ, chim ưng, chim ó, diều hâu…; đất này lại có: hổ, báo, chó sói, sư tử… thân đều to lớn. Các cầm thú này đều ăn thịt tội nhân: ngấu nghiến, nhai nuốt hết cả da thịt máu, chỉ còn lại xương. Tội nhân ở đây phải chịu sự nhai nuốt này. Còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Lúc ấy, gió lạnh thổi đến, da thịt được sinh ra trở lại, lại chịu cái nỗi khổ ngấu nghiến, thọ báo chưa hết thì cầu chết cũng không được. Xưa kia vì hành nghiệp gì mà lãnh chịu sự nhai nuốt này? Xưa kia ở trong kiếp người, vì ăn các loài chúng sinh như: hổ, chó, sư tử…; hoặc thả chim ưng, cho săn bắt các loài cầm thú. Do nghiệp này nên sinh ra quả báo bị ngấu nghiến, lại có vô số các báo ác nghiệp nên thọ sinh ở trong đó. Xưa kia vì hành nghiệp gì mà bị gió lạnh thổi? Thuở xưa ở trong kiếp người, nuôi các loài chúng sinh để cho thân thịt mập lên (để giết ăn). Vì nghiệp này nên bị gió lạnh thổi.
Địa ngục thứ ba gọi là Kiếm Diệp, các tội nhân này đã đi qua địa ngục Phấn Thỉ, thấy địa ngục Kiếm Diệp tâm khởi ưa thích; như rừng Yêm-la, đường của rừng kiếm này đều là mũi nhọn: đao, đoản đao, đao nhọn bày khắp trên đất. Lúc các tội nhân đi trên đường rừng này thì phải nhận chịu những nỗi khổ: mũi nhọn đâm thọc. Vô số chúng sinh đã vào rừng ấy, do nhân duyên ác nghiệp mà bị gió lớn thổi mưa các loại khí cụ: mưa kiếm, mưa mũi tên, mưa đao phủ… tùy theo mỗi phần thân mà bị chặt đứt, đầu cổ chia lìa, nằm la liệt trên đất; hoặc mưa xuống giáo sắt xuyên từ đỉnh đến chân, không cử động được. Thọ sự tàn khốc này còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó. Xưa kia ở trong kiếp người vì làm việc chiến đấu với người khác, dùng dao trượng để chiến đấu và nói như vậy: “Các ngươi hãy dùng khí trượng này để dành lấy đất nước kia!”. Họ tụ tập nhiều người vây quanh tứ phía, tùy tiện chém giết. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện.
Địa ngục thứ tư gọi là Liệt Khôi Trấp. Các tội nhân này từ rừng cây Kiếm Diệp đi ra, thấy ngục Liệt Khôi Trấp cho là nước sông trong mát, tâm khởi ưa thích vào trong sông đó. Các tội nhân này trước đây ở trong rừng kiếm đó, thân bị tan nát trăm nghìn mảnh, rồi vào trong sông đó, thân bị tiêu hoại, máu thịt đều hết, chỉ còn xương gân liền nhau nổi dưới mặt nước. Thọ sự tàn khốc này còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó. Vì xưa kia ở trong kiếp người dùng dầu nóng hoặc sáp, hoặc cồn chiên, hoặc luộc thân chúng sinh, hoặc đem thân uế bất tịnh vào ao giếng của vườn người khác mà tẩy rửa. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó. Đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Hai bên bờ sông Khôi này có vô lượng nghìn số ngục tốt, thân đều to cao, cầm nĩa giáo… giữ tội nhân. Có lúc tội nhân nói với ngục tốt: “Thưa phán quan! Tôi nay quá đói”. Ngục tốt liền dùng nĩa ba đâm tội nhân ném lên bờ hoặc dùng móc câu móc vào miệng, móc viên sắt nóng với ánh lửa hừng hực ném vào miệng tội nhân làm cho miệng lưỡi đều thiêu rụi, yết hầu, ngực, tim, bụng, ngũ tạng đều cháy rụi, hoàn sắt nóng vào trong miệng và ra ở dưới cùng. Thọ nhận sự tàn khốc này còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó? Vì xưa kia ở trong kiếp người dùng thức ăn độc cho người khác ăn, hoặc dùng rượu độc giết người, hoặc kẻ xuất gia phá giới thọ của tín thí, hoặc vọng ngữ, hoặc ác khẩu. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó, đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện. Có lúc tội nhân nói với ngục tốt: “Thưa phán quan! Tôi nay rất khát!”. Ngục tốt liền dùng nĩa ba đâm và ném tội nhân lên bờ, hoặc dùng móc sắt nóng móc vào miệng, hoặc dùng nước đồng đốt nóng rực rót vào miệng, làm cho miệng lưỡi, yết hầu, tim ngực, bụng, ngũ tạng đều cháy rụi, nước đồng nóng ấy chảy từ trên miệng xuống dưới cùng. Tội nhân thọ sự tàn khốc này còn những nỗi khổ khốc liệt hơn nữa, khó có thể chịu nỗi, rất kiên cố, rất dữ tợn, rất thống khổ; cho đến lúc thọ nghiệp báo ác chưa hết thì cầu chết cũng không được. Vì nghiệp gì mà chịu quả báo này, làm cho chúng sinh thọ sinh ở trong đó. Vì xưa kia ở trong kiếp người, người này dùng nước tiểu của ngưạ, voi… rót vào miệng, mũi người khác, hoặc dùng nước ngũ vị tân rót vào mũi miệng kẻ khác, hoặc bỏ độc vào thức uống và ép bức người uống, hoặc bảo người uống nhiều các loại rượu, hoặc vì lợi bán rượu, hoặc tự uống rượu, hoặc xuất gia thọ của tín thí vô số phẩm vật cúng dường mà phá giới, không tu hành, hoặc ngồi uống với người khác nơi không thể ngồi uống. Do nghiệp này nên thọ sanh trong đó; lại do vô số nghiệp báo các ác nên thọ sanh trong đó; lại có nghiệp báo tăng thượng chiêu cảm nên thọ sanh trong đó, đã sanh trong đó thì sẽ thọ dụng nghiệp báo bất thiện.
Đức Phật nói lại nghĩa này bằng kệ:
Tội nhân ra đại ngục,
Thấy trong tro nóng này,
Giống như đất bằng rộng,
Khởi ưa thích đến đó.
Đến rồi, chạy tán loạn,
Vô số các do-tuần,
Dẫm, cất chân đều cháy,
Chịu đủ khổ khốc liệt.
Đã ra ngục tro nóng,
Liền thấy hầm phân nhơ,
Rộng dài sâu trăm trượng,
Tưởng ao sen, thích đến.
Vô số trùng trong đó,
Miệng sắc bén như tên,
Khoét da ăn máu thịt,
Đục gân cốt ăn tủy.
Lại ra hầm phẫn rồi,
Thấy rừng kiếm ưa thích,
Tưởng cành lá tươi tốt,
Muốn đến đó tìm vui.
Vô số chim trong rừng,
Miệng lưỡi nhọn như kim,
Người nằm như cây đổ,
Cấu xé xác tội nhân.
Lúc trùng đã ăn xong,
Chỉ còn lại xương gân,
Khi gió lạnh thổi đến,
Da thịt sinh trở lại.
Sợ hãi liền chạy trốn,
Nơi khổ tưởng là an,
Giữa đường bị tàn hại
Vào rừng kiếm đáng sợ.
Lúc ấy thân rã nát,
Thống khổ máu thành sông,
Ra khỏi rừng này rồi,
Liền vào sông tro nóng.
Như đậu trong nước sôi,
Luộc nhào lộn, nổi chìm,
Sục sôi trong sông tro,
Tội nhân cũng như vậy.
Các ngục tốt hai bờ,
Cầm nĩa đâm vào thân,
Đem lên để trên đất,
Cưỡng bức uống sắt nóng.
Hoặc uống nước đồng nóng,
Xin uống rót vào miệng,
Đốt cháy khắp thân thể,
Sau đó chảy xuống dưới.
Người làm ác như vậy,
Chịu khổ địa ngục này.
Xưa không tu thiện nghiệp
Tu hành đường tà vạy,
Do khởi chánh tư duy,
Có thể lìa các ác,
Một lòng hành thiện hạnh,
Người này vượt đường ác.
Biết hai nghiệp thiện, ác,
Có quả báo sai khác,
Người trí nên lìa ác,
Phải trồng các căn lành.
Lại tu hành pháp khác,
Tám chánh Thánh đạo phần
Để diệt tất cả khổ,
Quán bốn pháp không sót.
Như Lai Nhân Thiên Sư,
Thấy như thật việc này
Nên nói ngục Viên Cách,
Chỗ người làm ác ở.
11: ĐỊA NGỤC DIÊM LA
Như Đức Phật, Thế tôn cùng A la hán đã giảng nói. Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật, Thế tôn dạy: Tỳ khưu! Ta dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn mắt thường, thấy các chúng sanh chết đi rồi lại sanh khởi, sắc dữ sắc lành, hoặc thô hoặc diệu, hoặc trụ nơi đường thiện, hoặc trụ nơi đường tùy nghiệp, thọ sanh, ta đều nhận biết đúng như thật và nói kệ:
Tâm khởi tạo ác, tà
Cùng với lời tà vạy
Hoặc thân nghiệp hành tà
Do xưa vốn buông thả.
Ít nghe, không phước đức
Mạng ngắn ngủi làm ác
Người nầy sau khi chết
Tức đọa ngục Diêm la.
Đức Phật bảo Tỳ khưu: Nếu người nào đời trước không cung kính cha mẹ, cùng các vị Sa-môn, Bà-la-môn, không cung kính các bậc Tôn trưởng, thân hữu, không tu tập chánh thiện và hành phước đức, không sanh sợ hãi các việc ác hiện tại và tội lỗi của vị lai không hành bố thí, không tu phước đức, không thọ bát trai, không trì năm giới. Kẻ ấy xả bỏ thọ mạng rồi, sanh trong địa ngục, ngục tốt thâu nạp xong bèn dẫn đến trước Diêm la, thưa:
– Người nầy xưa kia không cung kính cha mẹ cùng các Sa-môn, Bà-la-môn, không cung kính các bậc tôn trưởng, thân hữu, không tu tập chánh thiện và hành phước đức, không sanh sợ hãi các việc ác của đời hiện tại và tội lỗi của đời vị lai; không hành bố thí, không tu phước đức, không thọ bát trai, không trì năm giới. Xin Diêm vương dạy khuyên kẻ nầy khiến nhận biết về nhân quả thiện ác.
Lúc nầy vua Diêm-la dựa vào năm Thiên sứ để khuyên dạy về chánh thiện, bảo chúng sanh kia:
– Ngươi trước không thấy vị Thiên sứ thứ một đi đến trong cõi người ư?
– Thưa đại vương! Con trước không thấy.
Diêm vương bảo:
– Xưa, ngươi ở trong cõi người không thấy hình tướng đứa bé, đồng tử, rồi niên thiếu chăng? Lúc mới sanh, nằm ngửa không thể tránh chỗ ẩm ướt, tìm tới chỗ khô ráo chăng?
Chúng sanh thưa:
– Dạ thưa pháp vương! Con ngày xưa đã thấy.
Diêm vương nói:
– Ngươi thấy đã hiểu biết sao không suy xét? Ta nay còn phải sanh chưa vượt qua pháp sanh, ta nên tùy theo khả năng dựa nơi thân khẩu ý tu hành pháp thiện để được an lạc lợi ích trong chánh đạo dài lâu?
Chúng sanh thưa:
– Đại vương! Con xưa vốn buông thả nên không thể hành thiện.
Diêm vương nói:
– Ngươi hành nghiệp tà ác, tự tạo tác, tự tăng trưởng. Nghiệp ấy không phải do cha mẹ tạo, không phải do quốc vương tạo, không phải do chư Thiên tạo, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn, trước kia nay đã qua đời tạo ra, mà là chính ngươi tự tạo, tự thọ nhận, tuy không mong cầu nhưng quả báo quyết định sẽ đến.
Vua Diêm-la, nhân với vị Thiên sứ nầy, quở trách khuyên dạy chúng sanh kia rồi, lại nhân với vị Thiên sứ thứ hai, dạy khuyên về chánh thiện, bảo với chúng sanh;
– Ngươi, xưa kia không thấy vị Thiên sứ thứ hai đi đến trong cõi người?
– Dạ thưa đại vương! Con, ngày trước không thấy.
Vua nói:
– Ngươi ngày xưa, ở trong cõi người không thấy, hoặc kẻ nam, người nữ tuổi tác lớn rồi già yếu chăng? Hoặc lại lưng còng, khác nào nút cong của chiếc sừng, phải dựa vào gậy để bước đi, thân hình run rẩy?
Chúng sanh thưa:
– Dạ thưa đại vương! Con xưa kia đã thấy.
Diêm vương bảo:
– Ngươi đã hiểu biết, sao không suy xét? Ta nay còn phải già chưa biết pháp vượt qua già. Ta nên tùy theo khả năng dựa vào thân khẩu ý tu hành pháp thiện, để được lợi ích an lạc trong chánh đạo dài lâu.
Chúng sanh thưa:
– Đại vương! Con xưa do buông thả nên không thể hành thiện.
Diêm vương bảo:
– Ngươi hành nghiệp tà các, tự tạo tự tăng trưởng. Nghiệp ấy không phải do cha mẹ tạo, không phải do quốc vương tạo, không phải do chư Thiên tạo, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn trước đây nay đã qua đời tạo ra, mà chính là ngươi tự tạo, tự thọ nhận, tuy không mong cầu nhưng quả báo nhất định sẽ đến.
Vua Diêm la nhân nơi vị Thiên sứ thứ hai nầy, quở trách, dạy khuyên chúng sanh kia rồi, lại nhân nơi vị Thiên sứ thứ ba, dạy bảo về chánh thiện nói với chúng sanh rằng.
– Ngươi trước không thấy vị Thiên sứ thứ ba đi đến trong cõi người ư?
– Thưa đại vương! Con trước không thấy.
Vua nói: – Ngươi ngày xưa ở trong cõi người, không thấy hoặc kẻ nam người nữ bị bệnh tật khốn khổ, vô cùng khó khăn, hoặc nằm liệt nơi giường chiếu, hoặc bước đi phải dựa đỡ, hoặc nằm ngủ trên đất, thân ấy thọ khổ dữ ác thật khó kham, khó nhẫn, các khổ bức bách, tổn hại thọ mạng?
– Thưa đại vương! Con ngày xưa đã thấy.
Diêm vương bảo: – Ngươi đã hiểu biết sao không suy xét? Ta nay còn phải bệnh chưa biết pháp vượt qua bệnh, ta nên tùy theo khả năng dựa nơi thân khẩu ý tu hành pháp thiện, để được lợi ích an lạc trong chánh đạo lâu dài.
Chúng sanh thưa:
– Thưa đại vương! Con ngày xưa do buông thả nên không thể hành thiện.
Vua bảo: – Ngươi hành nghiệp tà ác, tự tạo tự tăng trưởng. Nghiệp ấy không phải do cha mẹ tạo, không phải do quốc vương tạo, không phải do chư Thiên tạo, không phải do các Sa môn, Bà la môn, quá cố tạo ra, mà chính là ngươi tự tạo tác, tự thọ nhận, tuy không mong cầu nhưng nghiệp báo quyết định phải đến.
Vua Diêm la, nhân nơi vị Thiên sứ thứ ba nầy, để quở trách, chỉ dạy kẻ kia xong, lại nhân nơi vị Thiên sứ thứ bốn, dạy khuyên về chánh thiện, bảo chúng sanh nọ:
– Các ngươi trước kia không thấy vị Thiên sứ thứ bốn đã đi đến trong cõi người ư?
– Thưa đại vương! Con trước kia không thấy.
Diêm vương bảo:
– Ngươi, ngày xưa ở trong cõi người, không thấy hoặc kẻ nam, người nữ bị chết, hoặc chết đã một ngày hoặc chết đã hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, hoặc sình trương, hoặc đen sẫm, hoặc hôi thối, hoặc bị cầm thú xé, rỉa.
Chúng sanh thưa:
– Dạ thưa đại vương! Con ngày xưa đã thấy.
Vua bảo:
– Ngươi đã hiểu biết, sao không suy xét: Ta nay còn phải sẽ chết chưa biết pháp vượt qua chết, ta nên tùy theo khả năng dựa nơi thân khẩu ý tu hành pháp thiện, được lợi ích an lạc để trong chánh đạo lâu dài.
Chúng sanh thưa:
– Thưa đại vương: Con ngày xưa do buông thả nên không thể hành thiện.
Diêm vương bảo:
– Ngươi hành nghiệp tà ác, tự tạo tự tăng trưởng. Nghiệp ấy không phải cha mẹ tạo, không phải do quốc vương tạo, không phải do chư Thiên tạo, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn quá cố tạo ra, mà chính là ngươi tự tạo tác tự thọ nhận, tuy không mong cầu nhưng quả báo quyết định phải đến.
Vua Diêm-la, nhân nơi vị Thiên sứ thứ tư nầy để quở trách chỉ dạy chúng sanh kia xong, lại nhân nơi vị Thiên sứ thứ năm, dạy khuyên về chánh thiện, bảo chúng sanh nọ:
– Các ngươi trước đây không thấy vị Thiên sứ thứ năm, đã đi đến trong cõi người ư?
– Thưa đại vương trước đây con không thấy.
Diêm vương nói:
– Người, ngày xưa ở trong cõi người, không thấy các trường hợp người đời phạm tội như sát sanh hoặc trộm cắp, tà dâm, cho đến hoặc vọng ngữ, hoặc nói lời thô ác, bị người của vua theo dõi, bắt bớ, cột trói, đánh đập, mắng nhiếc nơi ngã tư đường rồi dẫn ra khỏi thành, theo cửa phía nam tới chỗ hành hình, đặt ngồi cạnh cây nêu, tùy theo tội nặng nhẹ mà có những cách trị phạt thích hợp. hoặc đánh bằng gậy hoặc đánh bằng roi, hoặc chặt tay chân, hoặc cắt tai, mũi, cho đến xử tử.
Chúng sanh thưa:
– Dạ thưa đại vương! Ngày xưa con đã thấy.
Vua Diêm la bảo:
– Ngươi đã hiểu biết sao không suy xét: Quả báo hiện tại của tất cả nghiệp ác có thể thấy rõ, ta nay phụ thuộc nghiệp tùy vận hành của nghiệp lực, với các nghiệp hoặc nghiệp hoặc ác đã tạo, nơi đời vị lai như nhân mà thọ sanh.
Chúng sanh thưa:
– Đại vương! Con ngày xưa do buông thả nên không thể hành thiện.
Vua Diêm la bảo:
– Ngươi hành nghiệp tà ác, tự tạo tự tăng trưởng. Nghiệp ấy không phải do cha mẹ tạo, không phải do quốc vương tạo, không phải do chư Thiên tạo, không phải do các Sa môn, Bà la môn, quá cố tạo ra, mà chính là ngươi tự tạo tác tự thọ nhận, tuy không mong cầu, nhưng quả báo quyết định phải đến.
Vua Diêm la nói như vậy rồi, trụ nơi tâm xả.
Lúc ấy ngục tốt liền bắt tội nhân nầy treo ngược, hướng xuống phía dưới vào địa ngục Cánh sanh (chết đi sống lại). Địa ngục có bốn cửa nơi bốn góc, thành sắt bao quanh trên dưới đều là sắt, ngày đêm thiêu đốt, luôn phát ra ánh lửa sáng rực, trong địa ngục nầy, tội nhân tùy theo sự ngăn cách của sợi dây đang bị các thứ búa nhọn dao lớn đâm chém, máu thịt đều hết, chỉ còn lại xương gân, khốn khổ khó chịu nổi, bất tỉnh liền chết, khi đó, có ngọn gió lạnh thổi tới, máu thịt của tội nhân trở lại như cũ. Tội nhân nhận lấy sự tàn hại ấy với nỗi khổ não mỗi lúc càng tăng thêm, cho đến chỗ thọ báo của nghiệp ác chưa hết thì dù cầu mong chết cũng không được.
Ngày trước hành nghiệp gì mà phải nhận lấy quả báo nầy, khiến các chúng sanh trong địa ngục kia? Do ngày trước ở trong cõi người khinh mạn cha mẹ, cùng các vị Sa-môn, Bà-la-môn, không cung kính các bậc tôn trưởng thân hữu, không tu chánh thiện và nghiệp phước đức, không sanh sợ hãi các việc ác của hiện tại, và tội lỗi của vị lai, không hành bố thí, không tu phước đức, không thọ bát trai, không trì năm giới. Do các nghiệp thuộc phẩm hạ như vậy, nên sanh trong địa ngục nầy, nhận lấy sự tàn hại ấy với vô số khốn khổ.
Tiếp theo, do tội thêm nặng nên sanh vào các địa ngục.
Địa ngục thứ hai là Hắc thằng. Địa ngục thứ ba là Tụ khái
Địa ngục thứ tư là Khiếu Hoán
Địa ngục thứ năm là Đại Khiếu Hoán
Địa ngục thứ sáu là Thiêu Nhiệt Địa ngục thứ bảy là Đại Thiêu Nhiệt Địa ngục thứ tám là A-tỳ-chỉ.
Ngục A-tỳ chỉ nầy có bốn cửa nơi bốn góc, thành sắt bao quanh, trên dưới đều là sắt, ngày đêm thiêu đốt, lửa sáng rực đầy khắp. Trong ấy tội nhân chồng chất vô lượng trăm ngàn lớp để nhận lấy sự thiêu đốt, cũng như đống củi bị đốt cháy, cũng như nung luyện sắt. Qua một ngày đêm thì thân của các tội nhân kia bị thiêu đốt cũng lại như thế.
Đức Phật bảo các Tỳ khưu
– Địa ngục A-tỳ chỉ ấy, hoặc nơi cửa phía Đông vừa mở ra, tội nhân thấy rồi, liền hướng về phía cửa ấy mà chạy đến, nhằm tìm nơi chốn nương dựa, tìm nơi chốn cứu giúp, cầu tìm nẻo ra khỏi, nhưng chạy chưa tới thì cửa lại đóng kín. Các cửa phía Tây Nam, Bắc cũng lại như thế. Tội nhân thấy sự việc ấy rồi, mọi thứ hy vọng đều dứt hết, thân tâm khổ não, kêu gào thảm thiết, vô lượng ngàn năm luôn phải nhận lấy các thứ thống khổ dữ dội như thế, khó có thể nhẫn chịu, vô cùng kịch liệt, cho đến chỗ thọ nhận quả báo của nghiệp ác chưa hết thì dù cầu chết cũng không được.
Ngày trước hành nghiệp gì mà phải nhận lấy quả báo ấy?
Ngày trước ở trong cõi người phỉ báng cười cợt các bậc Tiên nhân tinh tấn, hoặc phụ bạc ân nghĩa, hoặc phản nghịch sát hại bạn thân luôn yêu mến mình. Địa ngục đại A-tỳ nầy là nơi chốn theo đúng nghiệp đã tạo, là nhân phương tiện nên thọ sanh trong đó. Lại có vô số quả báo của nghiệp ác, nên thọ sanh ở đấy.
Lại nữa, các nghiệp tăng thượng chiêu cảm nên sanh trong địa ngục ấy. Sanh nơi cõi đó rồi thì nhận lấy vô số báo bất thiện. Nhận lấy chánh báo xong ra khỏi địa ngục lớn, do nghiệp tàn dư, nên phải vào bốn viên cách. Trước tiên là vào ngục Nhiệt khôi, tro nóng ngập tới đầu gối, phần dưới đầu gối bị thiêu đốt rữa nát như sáp ong ném vào lửa. Nếu khi đưa chân lên thì da thịt trở lại như cũ.
Trong địa ngục nầy các tội nhân tìm kiếm chỗ nương dựa, nơi cứu vớt để nhằm ra khỏi, nên rảo chạy khắp chốn, qua vô số do tuần, thấy hầm sâu đầy phân dơ, khắp mặt đất đều đầy dẫy xác chết, phân dơ. Ở đấy có loại trùng tên là Nhương-cưu-trá, nhiều vô số kể, hình dạng giống như rắn dài, thân trắng đầu đen, miệng như lưỡi kiếm nhọn, luôn ngẩng đầu há to miệng chờ các tội nhân tới. Tội nhân vào nơi này rồi thì bị trùng đâm thủng da xuyên qua thịt, phá vỡ xương để hút tủy. Thời gian nhận chịu khổ ấy là vô số ngàn năm, luôn kêu gào lớn tiếng, cho đến nghiệp ác chưa hết thì dù cầu chết cũng không được. Ra khỏi ngục nầy rồi thì gặp phải Rừng lá đao, do tìm cầu nơi nương dựa, chốn cứu vớt để mong ra khỏi, nên các tội nhân hướng về phía rừng kia, vội vàng chạy đến. Dọc đường họ đã bị vô số gai nhọn đâm thủng da thịt nơi hai chân, tới rừng đao kiếm, khi ấy có ngọn gió nóng thổi tới rung động các cây kiếm. Gió chạm vào như lửa đốt khiến toàn thân cháy khô, rừng kiếm lại mưa xuống vô số đao kiếm đâm chém thân thể tội nhân, theo chỗ đi đến, da thịt đều tan nát. Nhận chịu sự tàn hại như vậy trải qua vô số ngàn năm, luôn gào thét kêu la, cho đến nếu nghiệp ác chưa dứt thì dù chết cũng không được. Lại có đủ loại cầm thú cắn xé rúc rỉa nơi thân, đều như trước đã nói.
Ra khỏi Ngục nầy rồi thì gặp phải dòng sông đầy ắp tro nóng đang sục sôi dâng trào, đám tội nhân vì tìm kiếm nơi nương nhờ, cứu vớt, mong muốn ra khỏi, nên vội vã chạy về phía dòng sông, ào xuống nước, lặn hụp dập dềnh như những hạt đậu bị đun chín, trên bờ có các ngục tốt, tay cầm chặt lưới sắt, chận bắt các tội nhân muốn ra khỏi nơi đây, dồn đống nơi bờ sắt. Ngục tốt hỏi tội nhân:
– Ngươi đang cần thứ gì?
Tội nhân thưa:
– Tôi đang đói lắm, không thể chịu nổi!
Tức thì Ngục tốt dùng kìm sắt tách miệng tội nhân ra rồi ấn viên sắt nóng vào, viên sắt nóng nuốt vào đến đâu thì môi, lưỡi, tim, gan, ruột, dạ dày v.v… thảy đều cháy khô. Viên sắt nóng lại rơi xuống hậu môn rồi ra ngoài. Trường hợp tội nhân kêu khát, ngục tốt cho uống nước sắt nung chảy cũng lại như vậy. Vô số hàng hàng năm luôn kêu la gào thét. Nhận chịu sự khốn khổ ấy, cho đến nếu quả báo của nghiệp ác chưa hết thì dù cầu chết cũng không được.
Ra khỏi ngục nầy thì gặp phải ngục Trung gian hạng, cũng như khu chợ lớn, bên trong có rừng cây tên là Thiểm Phù lê, ở đấy có ngục tốt nắm chặt cánh tay tội nhân kéo lên kéo xuống, đều như trước đã nói. Lại có cái vạc sắt lớn chứa đầy nước nhựa sôi sùng sục. Ngục tốt bắt tội nhân quẳng vào trong vạc, tội nhân bị đun sôi như thế đủ năm trăm năm, mới được tạm ngoi ra mặt nước, lúc ấy, vừa được nghe gọi sao không hẹn gọi mỗi lần như thế lại bị chìm sâu trong nước.
Lại có tội nhân, hoặc nằm ngửa, nằm sấp, ngục tốt dùng đinh sắt nóng đỏ rực đóng khắp thân thể, rồi kéo bỏ nơi đất sắt nóng, hoặc kéo lưỡi tội nhân như kéo miếng da bò lớn, còn thân thể thì nằm dài trên đất dùng vô số đinh đỏ rực đóng vào người.
Lại có tội nhân khắp thân bị chặt, chém như những lóng mía lại có tội nhân, ngục tốt vừa chém, chặt, đưa đao xuống thì đầu đứt, giơ đao lên thì đầu sanh, do cách chém giết nầy nên số lượng đầu chất đống như núi, số lượng tay chân cũng thế.
Lại có tội nhân da bị lột vung vài khắp mặt đất, thịt bị đao cắt xé tụ thành đống trên da.
Lại có tội nhân nằm đầy trong thuyền nhỏ, ngục tốt bèn bắt ra, dùng chày đâm giã cho nát vụn.
Lại có tội nhân bị các ngục tốt dùng gậy đánh đập vây quanh, giống như săn bắt thú.
Đó là các tội nhân nhận chịu sự tàn hại với các thứ khổ não hết sức dữ dội khó có thể chịu nổi, cho đến quả báo của nghiệp ác chưa hết thì dù cầu mong chết cũng không được.
Ngày trước hành nghiệp gì mà phải nhận chịu tội báo như thế?
Ngày trước ở trong cõi người tạo tác mười ác, do phẩm nhẹ nên không chiêu cảm nơi ngục lớn, mà sanh ở đây. Hoặc đã thọ quả báo nơi địa ngục lớn xong, do nghiệp tàn dư nên thọ sanh ở đây, sanh vào đây rồi thì thọ nhận đủ vô số quả báo của nghiệp tàn dư ấy.
Bấy giờ, Đức Phật nói với các Tỳ khưu:
– Vua Diêm la luôn phát nguyện: Ta vào thời gian nào sẽ ra khỏi chốn nầy, được sanh vào cõi người, đồng loại với con người, sanh nơi nhà giàu sang có nhiều của cải, vật báu, thân hình đẹp đẽ, đủ tướng an lạc, xe cộ đầy đủ, chân không giẫm đất. Tuổi tác càng lớn, sáu căn thành thục, đã hành bố thí, tạo các công đức, cạo bỏ râu tóc, mặc đủ pháp y, do Trí chánh tín nên lìa bỏ nhà ở, nhận pháp không nhà. Đã xuất gia rồi, nguyện ta chứng đắc phạm hạnh rốt ráo, giống như các thiện nam thời trước, xuất gia đắc đạo, phạm hạnh trọn đủ. Lúc nầy đức Thế tôn nói kệ:
Vì sao tạo nghiệp nầy
Hiện đời sanh ưu hối
Vị lai phải kêu la
Nhận vô số quả khổ.
Nghiệp ác lúc chưa chín
Người ngu nói vị ngon
Nghiệp ấy đã chín rồi
Mới biết là khổ nạn
Lúc mới tạo nghiệp ác.
Không như lửa liền đốt
Như tro phủ tên lửa
Theo đuổi thiêu tội nhân.
Tội nhân nhiều tuệ sáng
Tất cả bị tổn hại
Đần tổn tự thiện căn
Như cây chuối kết trái.
Trí ác hành tự tổn
Cũng như trị oán gia
Khởi tạo các nghiệp ác
Năng cảm khổ vị lai
Hành khổ, nghiệp thiện tốt.
Hiện tại tâm không hối
Vị lai nhận quả báo
Luôn hoan hỷ, an lạc.
Như Lai, thầy trời, người.
Thấy như thật ấy rồi
Nên nói Ngục Diêm la
Trụ xứ kẻ tạo ác.
Phẩm Địa ngục xong
LUẬN LẬP THẾ A TỲ ĐÀM
QUYỂN 9
Phẩm 24 thứ 1: TIỂU TAM TAI TẬT DỊCH
Đức Phật Thế tôn nói: Một tiểu kiếp đó gọi là một kiếp. Hai mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp, bốn mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp, sáu mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp; Tám mươi tiểu kiếp gọi là một đại kiếp. Vì sao một tiểu kiếp gọi là một kiếp? Là lúc Tỳ khưu Đề bà đạt đa, trụ trong địa ngục nhận chịu nghiệp báo thiêu đốt. Đức Phật Thế tôn nói: Trụ thọ một kiếp. Như vậy, một tiểu kiếp gọi là một kiếp. Vì cớ sao hai mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp? Giống như cõi trời Phạm Tiên Hạnh Thiên, hai mươi tiểu kiếp là thọ lượng của họ. Các Phạm Thiên ấy Đức Phật nói trụ thọ một kiếp như vậy hai mươi kiếp cũng gọi là một kiếp. Vì cớ sao bốn mươi tiểu kiếp gọi là một kiếp, cũng như cõi trời Phạm Chúng thọ lượng bốn mươi tiểu kiếp Phật nói: Trụ thọ một kiếp. Như vậy bốn mươi tiểu cũng gọi là một kiếp. Vì cớ sao sáu mươi tiểu kiếp gọi là một kiếp, ví như cõi trời Đại Phạm thọ lượng sáu mươi tiểu kiếp. Đức Phật nói trụ thọ một kiếp. Như vậy sáu mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp. Vì cớ sao tám mươi tiểu kiếp gọi là Đại kiếp Đức Phật nói kiếp trung thế giới tan hoại; kiếp trung thế giới tan hoại, rồi thì trụ lại, kiếp trong thế giới khởi lên thành; kiếp trung thế giới khởi lên thành rồi trụ lại, thế giới tan hoại v.v… thì số kiếp đó như thế nào? Phật nói này Tỳ khưu trãi quả hai mươi tiểu kiếp thế giới tan hoại, kế đến trãi qua hai mươi tiểu kiếp, thế giới tan hoại rồi trụ lại, kế đến trải qua hai mươi tiểu kiếp thế giới khởi lên rồi thành, cũng kế đến trải qua hai mươi tiểu kiếp thế giới khởi lên thành rồi trụ lại, là Hai mươi tiểu kiếp thế giới khởi lên thành rồi trụ lại đó, bao nhiêu đã qua, rồi bao nhiêu chưa qua! Tám tiểu kiếp đã qua, mười một tiểu kiếp chưa đến, kiếp thứ chín mươi mốt hiện tại chưa hết. Đây là thứ kiếp chín mươi mốt, bao nhiêu đã qua, bao nhiêu còn chưa đến, chưa đến định có dư hơn sáu trăm chín mươi năm, (đến đời Nhà Lương năm tỵ mão, quá xa xăm độ chừng khoảng đây là đoạn hết), là trong giữa hai mươi tiểu kiếp, có ba tiểu tai khởi lên, thứ tự luân chuyển xoay vần mãi. Một là tai ách tật bệnh dịch lớn tràn lan; Hai là tai ách đao binh, gây chiến tranh, Ba là tai ách lớn đói khát. Nay kiếp thứ chín tức là tai ách thứ ba; kiếp này do đói khát triền miên không dứt. Phật nói: Tỳ khưu đây là hai mươi tiểu kiếp. Thế giới khởi lên thành và được trụ trong đó, kiếp thứ nhứt khi tiểu tai ách, nổi lên; có các đại tật dịch, các thứ bệnh tất cả đều khởi lên ở Diêm-phù-đề, tất cả Quốc độ chỗ có nhơn dân điều phải mắc tật bệnh, tai dịch, ách nạn; tất cả quỷ, thần, khởi lên sân giận ác tâm làm tổn hại thế nhân, đó là lúc tất cả nhơn dân, thọ mạng ngắn ngủi thúc bách bức ngặt. Chỉ trụ tuổi thọ mười tuổi, thân hình nhỏ bé, thấp kém, hoặc hai tay co quắp, hoặc là ba tay co quấp. Ở nơi thân tự lượng thì có tám tay co quấp, chổ có thể ăn thì là thức ăn lúa thóc xấu, kém không ngon làm trên hết. Con người chỉ có lấy lông tóc làm y phục là duy nhứt ngoài ra không có gì trên thân cả, và chỉ có đao trượng, dao gậy làm tự trang nghiêm nơi thân; như vậy là lúc mọi người không hành theo chánh pháp, mà trái lại hành theo phi pháp tham trước sâu nặng, hằng ôm ấp chỗ nhiễm ô, chổ phi lý tham ái bức bách sai khiến. Tà pháp khinh khi lừng lẫy gây các tội lỗi xấu ác khốc liệt, khó mà khuyên can, khó mà dạy bảo cho họ làm điều thiện, cũng không biết làm phước không thể cứu nổi khổ nạn, họ cùng với pháp tà ác ngày đêm tương ưng; hoặc là thân, khẩu, ý khởi lên ba tà hạnh, họ không thể xa lìa sát-sanh, giết hại, trộm cướp tà dâm làm những điều xằng bậy. Vọng ngữ ác khẩu, nói hai lưỡi, chuyện có nói không, chuyện không có nói, nói thêu dệt. Tham ái sân nhuế. Tà kiến không biết cung kính cha mẹ sư tăng; Sa-môn, Bàla-môn và bạn bè tôn trưởng tâm họ buông lung phúng túng khởi lên các thứ ác nghiệp. Nghiệp nầy có thể chiêu cảm thọ mạng ngắn ngũi, có thể chiêu cảm nhiều bệnh tật, có thể chiêu cảm đến hình sắc xấu xa, có thể chiêu cảm đến thân không có uy đức, có thể chiêu cảm đến sanh vào nhà ty tiện hèn hạ, có thể chiêu cảm đến nghèo hèn bần cùng khốn khổ, có thể chiêu cảm đến ngu si, tà kiến. Như thế các nghiệp ngày đêm tăng trưởng, như vậy con người đó cùng với các chủng tử phiền não, ác nghiệp tương ứng, do đây mà nghiệp tà hạnh rất nặng, vì thế mà nước tràn ngập gió nổi lên, sóng nước mênh mông, trong lúc đó thời tiết chống trái nhau thất thường không thể đoán hay lường được. Do vậy mà gió và nước không ngang nhau có khi gió thổi mạnh, có khi nước dâng cao. Cho nên trời mưa không thể rơi xuống được, đúng thời tiết nên mưa thì Tứ thiên vương nổi giận người làm hạnh ác nên nước không đem tới cho mưa không giáng xuống, vua A Tu La cũng nổi giận, muốn cho người ở cõi Diêm phù đề chịu khổ. Hoặc là dùng ngón tay, hoặc là dùng sau lưng tiếp chổ mưa giáng xuống mà cho vào trong biển đông. Lại nữa có quỷ thần muốn cho người trong cõi Diêm-phù-đề chịu khổ, nên dùng thần lực nổi lửa lên che trời mưa, khiến cho mưa phải cạn kiệt thành tiêu hết; hoặc khi đúng thời phải mưa mà gió lớn, nổi lên thổi dạt vào trong biển đông. Bởi nhân duyên như vậy cho nên trời mưa không thể được. Tất cả hạt giống cây cỏ thuốc, đều khô héo, không thể kết trái thật giả sử có kết trái thật cũng giảm mất màu sắc hương vị, không được tăng trưởng lớn lên, không có thế lực sức sống, nếu như con người nhận lấy dùng thì không có năm chủng nghiệp là không có sắc, lực, an lạc, thọ mạng, thông minh lanh lợi. Do vậy mà ăn nuốt tà ác trong tự thân, khởi lên các bệnh nặng, hoặc là bệnh hũi, lông tóc rụng hết, hoặc là bệnh gầy ốm, hoặc là bệnh điên cuồng hoặc là bệnh ung nhọt, hoặc là bệnh trùng cắn rút hoặc là trúng chất độc hại, máu huyết, hoặc là bị ói ra máu, hoặc là tiết ra nước hôi tanh, hoặc là bị sưng thủng chứa nước, hoặc là bệnh ho, hoặc là hơi đi ngược trở lên, hoặc là bị phong tê thân hình khô gầy, hoặc là mõi mệt hoặc là nóng sốt, sốt rét hoặc là bệnh ác nghiệp ung thư lỡ loét, tật bệnh ăn uống không tiêu, như vậy bệnh nặng và bệnh nhẹ đều đúng thời khởi phát khi mà đến thời khởi phát bệnh, con người nhỏ bé mà lại mang bệnh khổ lớn lao. Lại bị ác quỷ làm xúc não, muốn, cầu cát tường bảo hộ thân mạng cho nên cúng tế thiên thần đọc tụng chú thuật, hoặc là dựa vào tà kiến, khởi lên các loại ác hạnh, giết hại chúng sanh, vọng chú quỷ thần, cầu cho khỏi bệnh làm như mưu kế đây, tất cả lợi dưỡng làm sao tránh khỏi không bệnh, chỉ một ngày một đêm có vô lượng chúng sanh mắc phải tật bệnh ôn dịch chết đi, chúng sanh ở đời mạt kiếp như thế mắc phải lỗi lầm tự nhiên sinh ra, vì cớ sao như vậy? Vì người hành bất thiện pháp, pháp không bình đẳng, nhân như vậy mà thọ quả báo, bởi thế trong khi hành pháp, bình đẳng, hành thiện thì không thể được vậy.
Tất cả chúng sanh ở trong đây sinh vào kiếp ô trược, tự nhiên mà khởi lên, con người lúc này dựa vào thô kiến, thô nghiệp; tạo tác các loại ác nghiệp, khi bỏ thân mạng này về sau lại thọ sanh nhầm chổ ác, đi vào con đường khổ, thối đọa, rơi vào hố sâu tội lỗi, không an lạc, như phần nhiều chúng sanh đọa trong đường địa ngục, khổ thứ, súc sanh, ngã quỷ A-tu-la. Lúc này, đại quốc vương, các nước đều băng hà. Tất cả quốc độ theo thứ tự phế bỏ, trống rỗng, chỉ còn quận, huyện nhỏ là chỗ còn thừa dư lại hoang phế, xa xa các nơi, mới có ở một chỗ. Lúc bấy giờ, nhân dân không hành theo chánh pháp; mà hành phi pháp, tham trước luôn bị nhiễm ô, phi lý tham ái bức bách sai khiến hành tà pháp khinh khi, kiêu mạn khởi lên làm các điều tội lỗi xấu ác rất khốc liệt, khó mà khuyên bảo, khó mà can ngăn, không thể hành thiện. Họ không biết làm phước đức, không cứu được khổ nạn, cùng với tà ác pháp ngày đêm tương ưng với nhau. Hoặc thân, khẩu ý khởi lên ba tà hạnh, không thể xa lìa sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, nói lời thô ác, miệng nói hai lưỡi thêu dệt thêm nhiều điều, tham ái, sân nhuế, tà kiến rất sâu nặng.
Không biết cung kính cha mẹ, sư tăng, Sa-môn, Bà-la-môn và thân hữu tôn trưởng, tâm buông lung phóng túng khởi lên các thứ ác nghiệp này có thể chiêu cảm đến mạng sống ngắn ngũi, bức bách, có thể chiêu cảm nhiều bệnh tật, có thể chiêu cảm đến hình sắc xấu xa, cũng có thể chiêu cảm đến thân không có uy đức; cũng có thể chiêu cảm đến sanh vào nhà ty tiện hèn hạ; cũng có thể chiêu cảm đến bần cùng khốn khổ; lại cũng có thể chiêu cảm đến ngu si tà kiến, như thế các nghiệp ngày đêm sanh trưởng. Loại người như vậy thì tật bệnh khốn khổ, không có người bố thí cho thuốc thang cơm nước. Bởi nhân duyên thế, thọ mạng chưa hết mà đã chết cô đơn, lạnh kẻo vô số, một ngày, một đêm có vô lượng chúng sanh tật bệnh mà chết. Đời mạt kiếp chúng sanh mắc lỗi lầm như thế tự nhiên mà sinh ra, vì cớ sao lại như vậy? Do hành ác pháp, pháp không bình đẳng nên thọ nhận quả báo. Bởi thế lúc ấy muốn hành pháp bình đẳng, cũng không thể được vậy! Tất cả chúng sanh, sanh trong kiếp ô trược nầy tự nhiên quả báo thô ác xấu xa mà cảm nên như vậy. Lúc bấy giờ mọi người dựa vào thô kiến, thô nghiệp, tạo tác các thứ các, nên xả bỏ thân mạng, về sau thọ sanh trong hàng A Tu-la, ngạ quỷ, súc sanh, ở trong địa ngục, còn lại Quận huyện nhỏ bé lại hoang vu, nhà cửa thưa thớt, cách nhau xa xôi, mỗi chỗ một nơi. Lúc bấy giờ nhơn dân không hành theo chánh pháp khởi lên các ác nghiệp có thể chiêu cảm đến thọ mạng ngắn ngủi, cho đến ngu si tà kiến. Như vậy các ác nghiệp ngày đêm tăng trưởng, bởi thế nhân dân mang lấy bệnh tật, dịch hại mà chết đi, cho đến không có người đưa đi mai táng và thiêu đốt bỏ đi; lúc bấy giờ mặt đất xương trắng che phủ. Một ngày một đêm vô số chúng sanh tật bệnh dịch mà chết, bởi thế mà nhà ở lần lượt bỏ trống, vì vậy cho nên đời mạt kiếp chỉ có trong vòng bẩy ngày, mà trong bảy ngày đó có vô lượng chúng sanh mắc bệnh dịch, chết hết. Giả sử có còn chúng sanh nào sống sót cũng phải di tản lưu lạc các nơi. Khi bấy giờ có một người tập hợp tìm kiếm trong cõi Diêm-phù-đề, nam nữ chỉ còn sót lại một vạn người duy trì giống nòi loài người, vì trong lúc đó đều hành phi pháp, chỉ trong vạn người này có thể duy trì thiện hạnh, nên các thiện quỷ thần lại muốn khiến cho nòi giống loài người không đoạn tuyệt mất hẳn, mới ủng hộ cho loài người điều tốt lành, khiến cho mùi thơm trơn mịt tốt lành vào lổ chơn lông của loài người, đây là dùng nghiệp ở giữa kiếp trung, lưu giữ lại nòi giống loài người tự nhiên không mất. Quá bảy ngày, sau, đại dịch bùng phát bệnh tật đồng loạt chấm dứt tất cả ác quỷ đều xả bỏ đi hết, tùy theo mong muốn của các loại chúng sanh và các ý niệm cần dùng ăn uống, y phục v.v…, đều được như ý; làm trời mưa xuống, âm dương điều hòa mùi vị thơm ngon xuất sinh, nơi thân hình khả ái, tướng tốt được hoàn phục trở lại, tất cả thiện pháp tự nhiên mà khởi trong mát, thanh lương, tịch tĩnh, an lạc không bệnh, đại bi được nhập vào tâm từ đạii bi nên đại từ cũng nhập vào tâm do đại từ. Vì vậy, ý không não hại, do ý không não hại, nên gặp nhau thường, sinh tâm vui mừng, nhẫn nhục, không chán ghét, cùng nhau dìu dắt không xa lìa. Ví như, bạn thân, lâu ngày không gặp, bổng nhiên được họp mặt lại sinh tâm vui mừng, tâm nhẫn chịu, tâm không nhàm chán, cùng nhau dìu dắt không muốn xa lìa. Lúc bấy giờ, con người gặp mặt nhau cũng lại như vậy, nhân đó yêu thương, nhớ nghĩ nam nữ cùng ở chung một nhà. Những người kiếp trước đây thọ mạng có mười tuổi, nhơn dân sau đó thọ sanh, thì thọ mạng dài lâu, hình sắc đẹp kỳ lạ, uy đức tối thắng, thần lực tự tại, của báu tài sản sinh ra đầy đủ thọ mạng đến hai mươi ngàn tuổi. Lúc ấy, công đức của chúng sanh như vậy tự nhiên được thành, vì cớ sao như vậy? Vì loài người lúc bấy giờ hành pháp bình đẳng, hành thiện, biết làm điều tốt lành nên thọ quả báo như thế, là lúc nhơn dân cùng với các pháp lành tương ưng. Thân hành thiện, miệng nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện, khi xả bỏ thọ mạng rồi về sau sinh nơi đường lành và thiên đạo, hoặc xả bỏ thọ mạng rồi lại sinh vào loài người. Khi sinh vào loài người tự nhiên được hiền thiện, tự tánh thanh tịnh, tự tánh có đạo đức, tâm tánh hòa nhã giới phẩm đầy đủ, thường hành thắng thiện vượt trội, xa lìa sát sanh, trộm cướp tà dâm, vọng ngữ, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, thêu dệt, tâm không tham dục, tâm không sân nhuế, xả bỏ tà kiến, tu hành chánh kiến, cung kính cha mẹ, Sa-môn. Bà-la-môn, bạn bè tôn trưởng và cùng với các pháp lành tương ưng. Với nghiệp ấy có thể chiêu cảm đến trường thọ, có thể cảm đến không bệnh, có thể cảm đến hình sắc đoan chánh, có thể cảm đến thân có uy đức, có thể cảm đến sanh vào nhà giàu sang phú quý và cũng có thể cảm đến đại trí. Thiện nghiệp như vậy, ngày đêm tăng trưởng. Nhân dân lúc đó dựa vào phước đức, luôn sanh ra vô lượng công đức. Khi xả bỏ thọ mạng về sau sinh vào cõi trời, và lấy thiện đạo trụ trong thiện đạo, lâu lâu thời tiết là như vậy. Giữa kiếp đầu do đại dịch bệnh rốt ráo cùng tận, kế đến kiếp thứ hai liên tục hai mươi ngàn năm Giữa kiếp này, thứ nhứt là thọ lượng, là người từ hai mươi ngàn tuổi trước đây khi sinh ra là con người thọ mạng dài lâu, hình sắc xinh đẹp lạ kỳ, uy đức tối thắng thần lực tự tại, của báu sinh ra đầy đủ thọ mạng bốn mươi ngàn năm. Khi đó các chúng sanh uy đức như vậy, tự nhiên được thành, vì cớ sao như vậy? Vì các chúng sanh đó hành pháp bình đẳng hành pháp thiện nên thọ quả báo như vậy. Khi bây giờ mọi người cùng với các pháp thiện tương ưng. Thân hành thiện, miệng nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện. Xả bỏ thân mạng rồi sinh vào đường lành và cõi trời. Lại khi xả bỏ thân mạng rồi lại sinh trong loài người, sinh trong loài người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tánh thanh tịnh tự tánh có đạo đức, tâm tánh hòa nhã, giới phẩm đầy đủ, thường hành điều thiện vượt trội hơn cả, lại xa lìa sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, nói lời thêu dệt. Tâm không tham dục, tâm không sân hận, xả bỏ tà kiến, tu hành chánh kiến, cung kính cha mẹ, Sa-môn và Bà-la-môn, thân bằng quyến thuộc, và các bậc tôn trưởng, cùng với các pháp thiện tương ưng, với nghiệp đó, thường cảm đến thọ mạng lâu dài có thể cảm đến không bệnh tật, có thể cảm đến hình sắc đoan chánh, có thể chiêu cảm thân có uy đức, có thể chiêu cảm sinh vào nhà giàu sang, và có thể có đại trí hơn người. Như thế, thiện nghiệp ngày đêm sinh trưởng là khi mọi người dựa vào phúc đức luôn sanh vô lượng công đức, xả bỏ thọ mạng, về sau lại sinh về cõi trời cho đến đường thiện, trong con đường thiện trụ trong thời gian lâu dài. Như vậy là nói gọi là giữa kiếp thứ hai.
Thứ hai là thọ lượng bốn mươi ngàn năm, là những người thọ bốn mươi ngàn tuổi trước đây, nay sinh ra là người thọ mạng rất lâu dài, hình sắc đẹp kỳ lạ, uy đức tối thắng, thần lực tự tại của báu, tài vật sinh sản đầy đủ, thọ mạng đến sáu mươi ngàn tuổi, là lúc mọi người cùng với thứ món thiện pháp tương ưng. Thân hành thiện, miệng nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện, khi xả bỏ thọ mạng rồi sinh vào đường lành và sinh vào cõi trời. Xả thọ mạng ở cõi trời, rồi lại sinh vào cõi người sinh trong cõi người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tánh thanh tịnh, tự tánh đạo đức, tâm tánh hòa nhã giới phẩm đầy đủ thường hành thắng thiện; xa lìa sát sanh trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, nói hai lưỡi nói lời ác độc, thiêu dệt hoa mỹ, tâm không tham dục, tâm không sân hận, xả bỏ tà kiến, tu hành chánh kiến, cung kính cha mẹ Sa-môn và Bà-la-môn, gần gũi bạn lành, kính trọng tôn trưởng, cùng với các pháp thiện tương ưng. Với nghiệp này thường cảm đến không bệnh tật, có thể cảm đến hình sắc xinh đẹp đoan chính, hay cảm đến thân có uy đức và có thể cảm đến sinh vào nhà phú quý giàu sang, và có tài năng trí tuệ. Như thế thiện nghiệp ngày đêm tăng trưởng là lúc mọi người dựa vào phước đức, luôn sinh vô lượng công đức. Xả bỏ thọ mạng về sau lại sinh về cõi trời cho đến đường thiện trong đường thiện trụ trong thời gian lâu dài. Như thế gọi là giữa kiếp thứ ba. Trung Kiếp thứ ba thọ lượng sáu mươi ngàn tuổi. Khi họ sinh ra kiếp kế tiếp thọ mạng lâu dài nhất, hình sắc xinh đẹp kỳ lạ, uy đức tối thắng thần lực tự tại của báu sinh ra đầy đủ, thọ mạng đến tám mươi ngàn tuổi, như thế chúng sanh sinh giữa các kiếp ở cõi Diêm-phù-đề thọ mạng dài lâu, cao nhất đến tám mươi ngàn năm. Lúc này, người nữ đến năm năm trăm tuổi thì mới xuất giá theo chồng; cũng là lúc mọi người chỉ có bảy thứ bệnh đó gọi là đại tiểu tiện, lợi hàn, nhiệt tâm dâm dục, đói khát, già nua. Trong một thời gian như thế tất cả quốc độ, giàu sang, phong túc, vui sướng, không có oán tặc, thù hận, giặc cướp, và trộm cướp trong các châu thổ quận huyện nhơn dân trong thành ấp thôn xóm đều an vui thái bình. Lại nghe tiếng gà gáy, chim hót nhơn dân cày ruộng gieo trồng, tuy ít nhưng đến khi thâu hoạch rất nhiều, là lúc mọi người thọ nhận công dụng nghiệp ít, mà công dụng túc nghiệp thiện quả nhiều đời thì lại rất nhiều, nhà cửa ruộng vườn, xe cô, y phục của báu, cả đời sanh ra vừa lòng xứng ý đầy đủ cả, tuy thọ dụng suốt đời cũng không hư hoại, là lúc mọi người an vui, ngồi một chỗ hưởng, không bôn ba tìm cầu. Thọ mạng tám mươi ngàn năm trụ trong A tăng kỳ niên. Nhẫn đến chúng sanh chưa tạo mười điều ác. Theo thời tiết mười điều ác nghiệp khởi lên, thọ mạng nhân đây mười điều ác này giảm. Độ khoảng một trăm năm thì giảm mười tuổi, một trăm năm tiếp, lại giảm mười tuổi, thứ tự lần lần giảm còn hơn mười tuổi, sau cùng mười năm thì trụ lại không giảm nữa. Từ tám vạn đến mười năm ngắn ngũi, nếu Phật không xuất thế ra đời, thứ tự như đây. Nếu như Đức Phật xuất hiện, nơi đời như chánh pháp trụ, thì chúng sanh thọ mạng tam thời trụ lại không giảm tùy theo chánh pháp tiêu diệt thì thọ mạng lần lần giảm. Đức Phật Thế tôn đã nói Tôi nghe như vậy.
Phẩm 24 thứ 2: TIỂU TAM TAI ĐAO BINH
Đức Phật Thế tôn nói: Một tiểu kiếp đó gọi là một kiếp, ngoài ra như trước đã nói, cho đến tám mươi tiểu kiếp gọi là đại kiếp. Vì cớ sao tám mươi tiểu kiếp gọi là một đại kiếp Đức Phật nói: Kiếp trung thế giới tán hoại kiếp trung thế giới tán hoại rồi trụ lại, kiếp trung thế giới bắt đầu thành. Kiếp trung thế giới thành rồi trụ lại. Đức Thế tôn nói các kiếp tán hoại nhiều vô số vì cớ sao? Đức Phật nói: Này các Tỳ khưu, trãi qua hai mươi tiểu kiếp, thế giới tán hoại, kế đến trãi qua hai mươi tiểu kiếp thế giới tán hoại rồi trụ lại. Kế nữa trãi qua hai mươi tiểu kiếp thế giới bắt đầu thành. Thứ nữa, trãi qua hai mươi tiểu kiếp thành rồi trụ lại, như vậy hai mươi tiểu kiếp thế giới bắt đầu thành rồi trụ trong đó.
Khi tiểu tai kiếp thứ hai nổi lên, do đại đạo binh là kiếp, cuối cùng lúc bấy giờ trong cõi Diêm phù đề, tất cả quốc độ, tất cả nhân dân chịu nạn đại đao binh, tàn hại lẫn nhau; lại nửa tất cả quỷ thần khởi lên nạn tật dịch khởi ác tâm sân giận làm tổn hại người đời, khi lúc bấy giờ tất cả nhân dân thọ mạng ngắn ngũi chỉ trụ lại có mười tuổi, thân hình xấu xí, bé nhỏ thấp kém, hoặc là hai tay cong quẹo, hoặc là ba tay cong quẹo, chỗ cỏ thể gọi là thức ăn của báu thì thấp kém là trên hết, lấy lông tóc làm y phục là thứ nhứt, chỉ có đao binh làm giáp tự trang nghiêm, lúc bấy giờ là mọi người không hành chánh pháp, mà hành phi pháp tham trước sâu nặng nhiễm ô, phi lý chỗ tham ái bức bách sai khiến, tà pháp khinh khi nổi lên các lỗi lầm xấu ác, rất thảm khốc, đối xử với nhau như kẻ thù, không thể hành thiện, không biết làm phúc, không biết cứu khổ cứu nạn, cùng với tà ác pháp ngày đêm tương ưng. Hoặc là thân khẩu ý khởi lên ba tà hạnh; không thể xa lìa sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, nơi hai lưỡi, ác khẩu thêu dệt lời nói tham ái, sân hận tà kiến, không biết biết cung kính cha mẹ, sư tăng, Sa-môn. Bà-la-môn và thân hữu tôn trường. Tâm buông lung, khởi lên các thứ ác nghiệp này thường cảm đến thọ mạng ngắn ngũi, có thể chiêu cảm tật bệnh có thể chiêu cảm hình sắc xấu xí, có thể chiêu cảm đến thân hình không có uy đức, có thể chiêu cảm sanh vào nhà bần cùng, hèn hạ, cũng có thể chiêu cảm đến nghèo khó, khốn khổ, cũng có thể chiêu cảm đến ngu si tà kiến, như vậy các nghiệp ngày đêm tăng trưởng như vậy, con người đó cùng với các món phiền não, ác nghiệp tương ưng. Do đây, mà hành tà nghiệp cực trọng, cha mẹ con cái đấu tranh lẫn nhau. Anh em, chị em, thân hữu quyến thuộc tự đấu tranh lẫn nhau, huống chi là người khác. Lúc bấy giờ mọi người khởi lên đấu tranh rồi, nhẫn đến dùng tay múa, hoặc là dùng ngói đá ném với nhau, hoặc dùng gậy làm tổn hại lẫn nhau, kế đến dùng dao gậy cùng tàn hại lẫn nhau, sợ sệt đến nổi phải sát hại lẫn nhau. Lúc bấy giờ mọi người khởi lên sân hận rất nặng, cho rằng làm các việc sát hại là trò vui. Quốc
vương phương Đông đến chinh phạt phương Tây, quốc vương phương Tây đến định phạt phương Đông chiến tranh qua lại, các vua Nam Bắc cũng lại như thế là các vua dùng pháp mắng nhiếc khinh miệt lẫn nhau, nói con người này là phương thức phạm tội, lỗi lầm, dùng lời chia cách hiềm khích ly gián lẫn nhau làm chánh sự, hành đấu tranh rồi khởi lên nghĩ tưởng oan gia, cừu oán với nhau, mới cầm nắm, dao gậy cùng nhau tiêu diệt, chỉ trong một ngày, một đêm bị hại chết, con người chết vô số vô lượng, không thể kể xiết. Chúng sanh trong đời mạt kiếp mắc lỗi lầm như thế tự nhiên sinh ra, vì cớ sao như vậy? Vì con người hành pháp bất thiện, pháp không bình đẳng nên cảm thọ báo như vậy, trong lúc đó muốn hành pháp thiện, pháp bình đẳng thì không thể được. Tất cả chúng sanh. Sanh trong kiếp ô trược này tự nhiên mà khởi lên. Lúc bấy giờ mọi người dựa vào thô kiến thô nghiệp, tạo tác các thứ ác, khi xả bỏ thân mạng rồi, sau thọ sanh chỗ ác, đi vào con đường khổ đọa lạc không được an vui, khi bấy giờ chúng sanh phần nhiều, sanh vào địa ngục, ngã quỷ súc sinh, A-tu-la. Khi ấy các đại Quốc vương đều băng hà, tất cả quốc độ thứ tự phế bỏ chỉ còn quận huyện nhỏ là chỗ còn sót lại, bởi thế vô cùng, vô tận nói sao cho đủ, cùng nhau xa lìa hàng xóm, mỗi nơi phân tán mà ở. Lúc bấy giờ mọi người không hành chánh pháp, mà hành phi pháp, tham trước sâu nặng, thường bị nhiễm ô, phi lý, tham ái bức bách sai khiến và tà pháp, khinh khi các nghiệp ác nổi lên, rất tàn khốc khó có thể khuyên can, khó có thể giáo hóa, lại không thể hành thiện, không biết làm phúc không biết cứu khổ, cứu nạn, cùng với tà ác pháp ngày đêm tăng trưởng tương ưng hoặc là thân, khẩu ý khởi lên ba tà hạnh không thể xa lìa sát sinh, trộm cướp tà dâm, vọng như, ác khẩu, lưỡng thiệt nói thêu dệt, tham ái, sân hận. Tà kiến. Không thể cung kính, cha mẹ. Sư tăng, Sa-môn, Bà-la-môn và thân hữu, tôn kính, tâm buông lung khởi lên các loại ác nghiệp. Nghiệp này có thể chiêu cảm đến thọ mạng ngắn ngũi, có thể chiêu cảm nhiều bệnh tật, có thể chiêu cảm đến hình sắc xấu xa, có thể cảm đến sanh vào nhà nghèo hèn ty tiện xấu xa, có thể cảm đến bần cùng khốn khổ, có thể cảm đến ngu si, tà kiến, như vậy các nghiệp ngày đêm sanh trưởng. Người nước phương Đông đến chinh phạt người nước phương Đông, các người Nam, Bắc cũng lại như vậy. Lúc bấy giờ các người dùng phương pháp mắng nhiết lẫn nhau; nói người phạm tội lỗi, rình rập ly gián cho rằng việc đúng.
Gây đấu tranh rồi khởi tưởng oan gia, cừu địch cầm nắm đao binh, gậy vũ khí mà tàn hại lẫn nhau, chỉ trong một ngày một đêm tàn phá, hại chết số thây người, vô số kể, không thể lường được. Đời mạt kiếp chúng sanh, chúng sanh mắc lỗi lầm như vậy tự nhiên mà sanh. Vì cớ sao như vậy? Bởi vì con người không hành pháp thiện, pháp bình đẳng mà cảm thọ quả báo. Lúc bấy giờ muốn hành pháp thiện, pháp bình đẳng cũng không thể được. Tất cả chúng sanh trong đây, sanh trong kiếp ô trược tự nhiên mà khởi, là lúc con người dựa vào thô nghiệp, tạo tác, các loại nghiệp ác xấu xa đến khi xả bỏ thân mạng về sau lại sanh vào chỗ ác, đường khổ đọa lạc vào con đường không an lạc. Như vậy, lúc bấy giờ chúng sanh sanh vào phần nhiều, địa ngục, ngã quỷ, súc sanh. A-tu-la, các quận huyện, từ từ lại trống rổng, hết sạch bóng người, chỉ còn lại ít nhà trong đó lại chuyển đi nơi chỗ xa vắng, lúc bấy giờ nhà phía Đông đến sát hại nhà phía Tây. Nhà phía Tây sát hại nhà phía Đông, các nhà Nam, Bắc cũng lại như thế. Khi bấy giờ các người dùng phương pháp mắng nhiếc lẫn nhau, nói người này dùng phương pháp tội lỗi. Theo dõi rình rập, ly gián là việc chính gây ra đấu tranh rồi, khởi tưởng oan gia, rồi cầm nắm dao gậy, cùng nhau tiêu diệt, trong một ngày đêm sát hại chết số thây người vô số không thể kể xiết, chúng sanh trong đời mạt kiếp mắc phải lỗi lầm tự nhiên mà sanh ra, vì cớ sao như vậy? Bởi vì con người không hành thiện không hành chánh pháp. Lúc bấy giờ muốn thực hành pháp thiện pháp bình đẳng không thể được, vì nghiệp ác mà cảm thọ quả báo, tất cả chúng sanh sanh trong kiếp này là kiếp ô trược tự nhiên mà sinh khởi, đó là lúc mọi người dựa vào thô kiến, thô nghiệp, tạo tác các loại ác, xả bỏ thân mạng về sau lại sanh chỗ ác, đọa lạc vào đường khổ không an vui, là lúc chúng sanh phần nhiều đọa vào đường địa ngục súc sanh, ngã quỷ, A-tu-la. Lúc ấy, mà người người, nhà nhà cùng một lúc, chết hết, diệt, vì dù còn sống sót lại thì phân tán, nơi này nơi khác, đó là lúc con người không hành chánh pháp, mà khởi lên các thứ ác nghiệp, cho nên cảm đến thọ mạng ngắn ngũi nhẫn đến ngu si, tà kiến. Lúc này mạt kiếp chỉ còn hơn bảy ngày, trong bảy ngày đó, trong tay cầm cây cỏ tức thì thành đao trượng, do đây lấy làm binh khí, đao gậy cùng nhau tàn hại cùng khắp sợ sệt mà chết. Lúc bấy giờ mọi người lo sợ đao gậy chạy chốn trong rừng sâu, hoặc là vượt sông ẩn trốn nơi vắng vẻ, hoặc là vào trong hang sâu trốn tránh tai nạn hoặc là khi gặp người kinh sợ giựt mình chạy sợ đến nổi mất hết hồn phách, hoặc là đi đến nơi xa xôi hẻo lánh bải tha ma, giống như con hươu con nai gặp phải thợ săn lúc bấy giờ mọi người gặp nhau sợ sệt cũng như vậy. Trong bảy ngày này đao binh nỗi lên, chết oan uổng bất ngờ vô số không đếm xiết. Giả sử còn sống thì mỗi người phân tán mỗi nơi. Khi đó, có một người tập hợp người nam nữ cõi Diêm phù đề, chỉ hơn một vạn người còn sót lại duy trì nòi giống loài người sau này, họ là trong số mọi người đều hành phi pháp, có thể dạy dỗ, khuyên răn hành pháp thiện, lại các thiện quỷ thần đều muốn cho nòi giống người không đoạn tuyệt hẳn mới ủng hộ loài người, dùng mùi vị thơm ngon khiến cho vào lỗ chơn lông vì nghiệp lực cho nên giữa kiếp còn lưu lại giống người tự nhiên không đoạn mất. Sau bảy ngày thì đại đao binh đồng loạt chấm dứt tất cả ác quỷ đều bỏ đi, tùy theo mong muốn của chúng sanh, như y phục, các thứ đồ uống ăn, theo ý nghĩ đều được như ý. Trời làm mưa xuống, âm dương điều hòa, vị ngon sanh ra thân hình khả ái, tướng tốt hoàn phục lại như cũ, tất cả thiện pháp tự nhiên mà sanh khởi, mát mẽ, tịch tĩnh an vui, không bệnh, đại bi nhập vào tâm, do có đại bi nên có đại từ nhập vào tâm, do có đại từ cho nên ý không não hại, do ý không não hại lẫn nhau nên gặp nhau sanh tâm vui mừng, sanh tâm nhẫn thọ, sanh tâm không nhàm chán, nên cùng nhau dìu dắt nâng đở không muốn lìa xa nhau, giống như bạn bè yêu thương nhau lâu ngày không gặp, bổng nhiên được tụ tập sanh tâm vui mừng, sanh tâm nhẫn thọ sanh tâm không nhàm chán, cùng nhau dìu dắt không muốn xa lìa. Lúc bấy giờ con người gặp mặt nhau cũng như vậy, nhân đó yêu thương, nhớ nghĩ nên nam nữ ở chung với nhau. Con người thọ mạng mười tuổi, của kiếp trước đây, khi sanh ra kiếp này, thọ mạng rất dài nhan sắc đẹp kỳ lạ, uy đức tối thắng, thần lực tự tại vật báu đầy đủ, tự nhiên sinh. Thọ mạng hai mươi ngàn tuổi chúng sanh lúc này như công đức đó tự nhiên được thành, vì cớ sao như vậy? Vì hành pháp bình đẳng hành pháp thiện cho nên thọ nhận quả báo như vậy, đó là lúc mọi người cùng với các pháp thiện tương ưng. Thân hành thiện, miệng nói điều thiện ý nghĩ thiện, khi xả bỏ thân mạng về sau sanh vào đường lành, và Thiên đạo. Xả bỏ thân mạng rồi trở lại sanh vào cõi người, khi sanh vào cõi người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tánh trong sạch tự tánh đạo đức, tâm tánh hòa nhã, giới phẩm đầy đủ, thường hành thắng thiện; xa lìa sát sanh, trộm cướp tà dâm, vọng ngữ, nói hai lưỡi, ác khẩu thiêu dệt, không tham dục tâm không sân nhuế, xả bỏ tà kiến, tu pháp chánh kiến, cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, bạn bè, tôn trưởng, cùng với các pháp lành tương ưng, và với nghiệp này chiêu cảm đến thọ mạng lâu dài, có thể cảm đến không bệnh tật, có thể cảm hình sắc đoan chánh, chiêu cảm thân có uy đức và chiêu cảm sinh vào nhà giàu có chiêu cảm làm người đại trí. Như thế thiện nghiệp ngày đêm sinh trưởng là lúc mọi người dựa vào phước đức, sinh ra vô lượng công đức, khi xả bỏ thân mạng về sau lại sinh cõi trời và đường lành, trong đường lành trụ lại lâu đời, và thời tiết cũng tốt cũng lâu, như thế kiếp đầu và kiếp giữa do đại đao binh rốt cuộc cùng tận diệt hết. Kế đến là kiếp thứ ba, vẫn tiếp tục hai mươi ngàn tuổi trong kiếp này, thọ lượng thứ nhứt là con người từ hai mươi ngàn tuổi trước đây, nay sinh ra, thọ mạng rất lâu dài hình sắc đẹp kỳ lạ, uy đức tối thắng thần lực tự tại, của báu sinh ra đầy đủ, thọ mạng đến bốn mươi ngàn tuổi. Khi bây giờ, mọi người theo công đức đây tự nhiên được thành, vì cớ sao như vậy? Là do hành pháp bình đẳng hành pháp thiện, cho nên cảm nhận quả báo như vậy; là lúc mọi người cùng các pháp lành tương ưng. Thân hành thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện, xả bỏ thọ mạng rồi sanh vào đường lành và cõi trời xả bỏ thọ mạng cõi trời trở lại sanh trong cõi người sanh trong cõi người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tánh trong sạch, tự tánh đạo đức, tâm tánh hòa nhã giới phẩm đầy đủ, thường hành thắng thiện, xa lìa sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, nói thêu dệt, tâm không tham dục, tâm không sân giận, xả bỏ tà kiến, tu hành chánh kiến, cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, bạn bè, Tôn trưởng, cùng với các pháp lành tương ưng với nghiệp này thường chiêu cảm đến thọ mạng dài lâu cảm đến thọ mạng không bệnh tật, có thể chiêu cảm đến hình sắc đoan chánh, chiêu cảm thân có uy đức chiêu cảm đến sanh vào nhà phú quý, chiêu cảm đến con người có đại trí, như thế con người ngày đêm tăng trưởng pháp lành dài lâu, cũng là lúc mọi người dựa vào phước đức mà tăng trưởng vô lượng công đức. Xả bỏ thân mạng về sau lại sanh vào cõi trời và đường lành trong đường lành trụ lâu dài, thời tiết tốt cũng lâu dài. Như vậy gọi là giữa kiếp thứ ba. Thọ lượng thứ hai là. Mọi người từ bốn mươi ngàn tuổi sinh ra là người thọ mạng lâu dài nhất, thân hình xinh đẹp kỳ lạ, uy đức tối thắng, thần lực tự tại của báu sinh ra đầy đủ, thọ mạng tiến đến sáu mươi ngàn tuổi. Là lúc mọi người cùng với các pháp lành tương ưng. Thân làm thiện, miệng nói thiện ý nghĩ thiện, khi xả bỏ báo thân rồi sanh vào đường lành và cõi trời, xả bỏ ở cõi trời lại sinh xuống nhân gian trong cõi người, sinh trong cõi người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tánh trong sạch, tự tánh đạo đức tâm tánh hòa nhã, giới phẩm đầy đủ thường hành thắng thiện lại cũng xa lìa sát sinh trộm cướp tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu nói thêu dệt, tâm không tham dục, tâm không sân hận; xa lìa tà kiến, tu hành pháp chánh kiến. Cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, bạn bè, tôn trưởng, cùng với các loại thiện pháp tương ưng. Với nghiệp này có thể chiêu cảm đến thọ mạng lâu dài, có thể chiêu cảm đến không bệnh, chiêu cảm đến hình sắc đoan chánh, có thể chiêu cảm đến thân có uy đức, có thể chiêu cảm đến sanh vào nhà giàu sang và cảm đến con người có đại trí, như vậy nghiệp lành ngày đêm sanh trưởng. Là lúc mọi người dựa vào phước đức mà sanh vô lượng công đức. Xả bỏ thọ mạng về sau lại vào cõi trời và sinh vào đường lành, trong con đường lành trụ rất lâu, thời tiết tốt cũng lâu, như thế là nói gọi là trong kiếp thứ ba. Với thọ lượng sáu mươi ngàn tuổi. Kế đến là mọi người từ sáu mươi ngàn tuổi sanh ra, là con người thọ mạng rất dài lâu, hình sắc xinh đẹp lạ thường uy đức tối thắng; thần lực tự tại, của báu, sanh sản đầy đủ, thọ mạng tiến đến tám mươi ngàn tuổi. Như vậy trong kiếp ở cõi Diêm phù đề, chúng sanh thọ lượng lâu dài, cao nhất là tám mươi ngàn tuổi. Lúc này, người nữ năm trăm tuổi mới xuất giá theo chồng, lúc đó mọi người chỉ có bảy thứ bệnh. Gọi là đại, tiểu tiện lợi, nóng, lạnh, tâm ham muốn, đói khát và già, như thế trong thời gian này tất cả quốc độ đều an lạc giàu có, phong túc, thịnh vượng, không có oán thù giặc cướp và trộm cướp, đất đai châu thổ quận huyện, ấp, thôn xóm nhân dân an lạc. Lại còn gà gáy, chim kêu đều nghe, cày ruộng gieo giống tuy ít mà thu hoạch thật nhiều, mọi người công dụng quả đời này ít, mà nhận công dụng quả thiện nghiệp đời trước nhiều. Nhà cửa, xe cộ, y phục tài báu luôn luôn sanh ra gọi là đầy đủ như ý muốn như thế lại thọ dụng suốt đời cũng không hư hoại, cũng là lúc mọi người an vui ngồi một chỗ, không phải chạy đi tìm cầu. Thọ mạng tám mươi ngàn tuổi trụ A tăng kỳ niên, cho đến mọi người chưa tạo mười điều ác, từ khi khởi lên mười điều ác nghiệp. Lúc bấy giờ thọ mạng do đây mà mười điều ác giảm, độ khoảng một trăm năm thì giảm mười tuổi, một trăm năm tiếp lại giảm mưới tuổi, cứ thế lần lượt đến còn mười tuổi, sau cùng mười tuổi trụ lại, không giảm nữa. Từ tám vạn dài lâu đến ngắn nhất là mười tuổi, nếu như Đức Phật không xuất thế thì thứ tự như vậy, còn nếu như Đức Phật xuất thế là chánh pháp trụ nơi đời, là lúc chúng sanh thọ mạng tạm thời trụ lại không giảm, theo chánh pháp tiêu mòn giảm thì thọ mạng lần lần giảm. Đó là lời Thế tôn nói, mà tôi được nghe như vậy.
Phẩm 24 thứ 3: TIỂU TAM TAI ĐÓI KHÁT TAI ÁCH
Đức Phật Thế tôn nói: Một tiểu kiếp đó gọi là một kiếp hơn như trước đã nói, nhẫn đến tám mươi tiểu kiếp gọi là một đại kiếp. Vì cớ sao tám mươi tiểu kiếp gọi là một đại kiếp. Đức Phật nói kiếp trung thế giới tán hoại, kiếp trung thế giới tán hoại, trụ lại, kiếp trung thế giới khởi thành, kiếp trung thế giới khởi thành rồi trụ lại. Đức Thế tôn nói các kiếp số tán hoại nhiều vô số không thể xiết. Vì cớ sao? Đức Phật nói: Này các Tỳ khưu trải qua hai mươi tiểu kiếp thế giới tán hoại, kế đến trãi qua hai mươi tiểu kiếp thế giới tán hoại rồi trụ lại, kế đến trãi qua hai mươi tiểu kiếp thế giới khởi lên thành, lại nữa trãi qua hai mươi tiểu kiếp thế giới khởi lên được trụ trong đó. Kiếp thứ ba, tiểu tam tai lúc khởi lên, do kiếp đói khát lớn là kiếp sau cùng. Bởi thế trong lúc tai ách ban đầu khởi lên, do đói khát, do khốn khổ, do trời hạn hán, không mưa. Là lúc trong cõi Diêm phù đề, tất cả quốc độ tất cả nhơn dân phải chịu tật dịch lớn, tất cả quỷ thần khởi tâm sân hận làm tổn hại người đời, là lúc tất cả nhơn dân thọ mạng ngắn ngũi chỉ trụ lại có mười tuổi, thân hình thấp bé, hoặc là hai tay cong quẹo, hoặc là ba tay cong quẹo, chỗ sản sinh của báu thấp hèn thóc gạo ngon nhất phần nhiều lúa lép, dùng tóc con người làm y phục, chỉ có dao gậy tự trang nghiêm mình, là lúc mọi người không hành chánh pháp mà hành phi pháp tham trước, thường bị nhiễm ô phi lý chỗ tham ái bức bách sai khiến, tà pháp khinh khi, ngã mạn nổi lên mắc phải lỗi lầm, xấu ác rất khốc liệt, khó mà khuyên can, không thể hành thiện, không biết làm phúc, không cứu khổ cức nạn, cùng với tà pháp ngày đêm tương ưng; hoặc là thân khẩu ý khởi lên ba tà hạnh, không thể xa lìa sát sanh trộm cướp tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, nói thêu dệt tham ái, sân hận, tà kiến, không biết cung kính cha mẹ sư tăng, Sa-môn, Bà-la-môn, và bạn bè tôn trưởng, tâm tình buông lung phóng túng, khởi lên các thứ ác nghiệp, với nghiệp này có thể chiêu cảm đến thọ mạng ngắn ngũi, cảm đến bệnh tật, cảm đến cảm đến hình sắc xấu xí, cảm đến thân không có uy đức, có thể chiêu cảm đến sinh vào nhà ty tiện hèn hạ, có thể chiêu cảm đến bần cùng khốn khổ, cảm đến ngu si tà kiến, như vậy các nghiệp ngày đêm sanh trưởng, như vậy người đó cùng với các lớp phiền não nghiệp ác tương ưng, do cực trọng tà hạnh, trong hai, ba năm trời không mưa, do đại hạn hán cho nên thóc lúa, ngũ cốc hiếm hoi, đói khát nhà cửa rách nát, gồng gánh nhau mà đi. Lúc bấy giờ nhơn dân sức lực yếu ớt, thấy người khác có chút ít lương thực bèn đến đoạt lấy mà ăn, là đều do đói khát bức bách thúc đẩy, tất cả các chứng bệnh đói khác mà sinh ra như trên. Bởi do nhân duyên như vậy, chỉ trong một ngày đêm đói khát mà chết đó nhiều vô số không thể kể xiết. Đời mạt kiếp chúng sanh mắc phải lỗi lầm tự nhiên sinh ra, như thế vì cớ sao như vậy? Bởi vì con người không hành thiện, mà hành pháp bất thiện, hành pháp không bình đẳng nên cảm thọ quả báo như vậy, khi bấy giờ muốn hành pháp thiện, pháp bình đẳng cũng không thể được. Tất cả chúng sanh trong đây, trong kiếp dơ uế ô trược tự nhiên mà khởi thì bấy giờ chúng sanh dựa vào thô kiến thô nghiệp, tạo tác các thứ ác, đến khi xả bỏ thân mạng, về sau lại sanh vào chỗ xấu ác, đọa lạc vào đường khổ không an vui, phần lớn đọa vào địa ngục súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la. Lúc bấy giờ, các nước cường quốc, lần lượt hoang tàn chỉ còn quận huyện nhỏ là nơi còn sót lại, nói không thể hết, người bỏ làng mạc ra đi nơi xa xôi, hoặc phân tán mỗi nơi. Mọi người , không hành chánh pháp, mà hành phi pháp tham trước, luôn bị nhiễm ô, phi lý tham ái bức bách sai khiến và pháp, khinh khi, ngã mạn nổi lên phạm các tội lỗi xấu ác rất khốc liệt, khó mà khuyên can dạy bảo, không thể hành thiện pháp, không biết làm phước, không cứu khổ, cứu nạn cùng với các pháp tà ác ngày đêm tương ưng. Hoặc thân, khẩu, ý khởi ba nghiệp tà hạnh, không thể xa lìa sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, nói lời thô ác, thêu dệt, tham ái sân hận, tà kiến không cung kính cha mẹ, sư tăng, Samôn, Bà-la-môn, và bạn bè tôn trưởng. Tâm buông lung phóng túng dục tình khởi lên các loại ác nghiệp. Với nghiệp nầy chiêu cảm đến thọ mạng ngắn ngủi, chiêu cảm nhiều bệnh tật chiêu cảm đến hình sắc xấu xa, chiêu cảm đến thân không có uy đức, chiêu cảm đến sinh trong nhà hèn hạ, có thể chiêu cảm đến bần cùng, khốn khổ có thể chiêu cảm đến ngu si tà kiến, như thế các nghiệp ngày đêm tương ưng. Trời không làm mưa xuống trong vòng bốn, năm năm. Do đại hạn cho nên cõi Diêm phù đề mất đi các giống thảo mộc, rau cỏ không thể mọc được, không sống được, huống chi là lúa thóc ngũ cốc. Tiếp tục đến các chúng sanh, kế đến con người do oán ghét, không chịu nổi ăn uống, chỗ gọi là quạ, diều hâu, chim ưng, chó dã can, các loại cầm thú này, tất nhiên bắt lấy mà ăn do đói khát bức bách. Tất cả các bệnh, đói khát làm trên hết. Bởi do nhân duyên như vậy trong một ngày đêm chết thây nhiều vô số kể. Bấy giờ trong quận huyện nhỏ lại hết sạch bóng người, trống rỗng, chỉ còn có số ít nhà còn bỏ đi, chuyển nơi xa xôi, phân tán mỗi nơi. Là lúc mọi người không hành chánh pháp, mà lại hành phi pháp, bị tham trước nhiễm ô, phi lý, tham ái bức bách sai khiến, và tà pháp khinh khi nổi lên, mắc phải lỗi lầm xấu ác, rất khốc liệt, khó mà khuyên can, khó mà dạy bảo. Lại không thể hành thiện pháp không biết làm phước đức, không cứu khổ, cứu nạn, cùng với pháp tà ác ngày đêm tương ưng. Hoặc là thân khẩu ý khởi lên ba tà hạnh, không thể xa lìa sát sinh, trộm cướp, tà dâm lưỡng thiệt, nói lời thô ác, thêu dệt nói dối, tham ái, sân hận tà kiến, không cung kính cha mẹ sư tăng, Sa-môn, Bà-la-môn và bạn bè tôn trưởng tâm tình buông lung, phóng dật, khởi lên các thứ ác nghiệp. Với nghiệp này chiêu cảm đến thọ mạng ngắn ngũi, chiêu cảm đến nhiều bệnh tật, cảm đến hình sắc xấu xí, chiêu cảm đến thân không có uy đức; chiêu cảm đến sanh vào nhà ty tiện hèn hạ có thể chiêu cảm đến bần cùng khốn khổ chiêu cảm đến ngu si tà kiến, như thế các nghiệp ngày đêm tương ưng. Lúc này sáu bảy năm trời không làm mưu xuống do đại hạn hán nên người cõi Diêm-phù-đề suy nghĩ muốn thấy nước cũng không thể được huống chi uống được nước. Chỉ có bốn con sông lớn mà nước lại sâu chảy cuồn cuộn, cùng với biển thông thương, bởi thế phải dùng thuyền mới qua sông, nhưng chỉ có con sông này nước mối có thể dùng uống được, ngoài sông này ra lại không có sông nào khác. Tiếp tục chỉ có đám tàn dân dựa vào sông này mà ở, họ hái rau, bắt cá, rùa, ba ba, thuợc loại thủy tộc lấy làm lương thực nuôi dưỡng thân mạng, do quá đói khát bức bách nên tất cả chúng sanh do bệnh đói khát là trên hết. Bởi nhân duyên như vậy trong một ngày đêm đói khát mà chết đó không thể đếm xiết kể, chúng sanh trong đời mạt kiếp là như vậy mắc phải lỗi lầm tự nhiên như vậy khởi lên. Là vì sao vậy? Bởi mọi người lúc này thường hành bất thiện phi pháp, bất bình đẳng mà thọ quả báo ấy, dù là hành thiện pháp cũng Kinh được. các chúng sanh trong đây, kiếp ô trược khởi lên tự nhiên, lúc đó mọi người dựa vào thô kiến. Thô nghiệp tạo tác các món ác nghiệp, khi xả bỏ thân mạng về sau lại sanh trong chỗ ác, đọa lạc vào đường khổ, không an vui. Lúc bấy giờ chúng sanh phần nhiều sanh vào địa ngục, súc sanh, ngã quỷ, A-tu-la. Chỉ còn sót lại thưa thớt vài nhà lần lượt cũng rỗng không hết sạch, tiếp tục lại còn sót một số người thì tứ tán mỗi nơi. Lúc bấy giờ mọi người không thực hành chánh pháp, mà hành phi pháp, bị tham trước, chỗ nhiễm ô, phi lý, tham ái bức bách sai khiến và tà pháp khinh khi khởi lên các thứ xấu ác lỗi lầm tàn khốc, khó mà dạy bảo, khó mà khuyên can, không thể hành thiện, không biết làm phước, không cứu khổ, cứu nạn, cùng với pháp tà ác ngày đêm tương ưng, hoặc thân khẩu ý khởi ba tà hạnh; không thể xa lìa sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ lưỡng thiệt, ác khẩu thêu dệt, hoa mỹ, Tham ái sân hận tà kiến. Không thể cung kính cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, và bạn bè tôn trưởng, tâm tình buông lung, khởi các thứ ác nghiệp với nghiệp này chiêu cảm đến thọ mạng ngắn ngủi, có thể chiêu cảm đến nhiều bệnh tật, và chiêu cảm đến hình sắc xấu xí, và chiêu cảm đến thân không có uy đức, chiêu cảm đến sanh vào nhà ty tiện, chiêu cảm đến bần cùng khốn khổ, cảm đến ngu si, tà kiến. Như vậy các nghiệp ngày đêm tương ưng. Trong kiếp này chỉ với bảy ngày mà một ngày một đêm trong bảy ngày, chịu đói khát chết vô số, không thể kể xiết, ví dụ còn người sống sót thì phân tán tứ xứ.
Khi bây giờ có một người tập hợp số người trong cõi Diêm-phù-đề nam, nữ gồm một vạn người, còn lưu lại để duy trì nòi giống cho loài người. Trong số giờ phần nhiều là hành phi pháp, chỉ có một vạn người này có thể hành thiện, khi ấy các thiện quỷ thần vì muốn cho loài người không đoạn tuyệt dứt hẳn, nên ủng hộ loài người, các vị ngon tốt đẹp khiến vào lỗ chân lông. Bởi vì nghiệp lực cho nên trong kiếp này còn lưu lại chủng tử giống người tự nhiên không đoạn mất sau bảy ngày đồng loạt dịch đói khát lớn tiêu diệt hết. Tất cả ác quỷ đều bỏ đi, khi bấy giờ các chúng sanh cần cầu mong muốn gì như y phục các thứ uống ăn nghĩ đến đều được như ý. Trời liền mưa xuống, âm dương hòa hợp, món ngon tự xuất sanh ra, thân hình xinh đẹp dễ thương tướng tốt hoàn phục lại, tất cả thiện pháp tự nhiên khởi dậy, mát mẽ thanh tịnh, tịch tĩnh, an vui không bệnh, đại bi nhập vào tâm, do đại bi cho nên có đại từ nhập vào tâm, do có đại từ nên ý không não hại, do ý không não hại cho nên khi gặp nhau sanh tâm vui mừng, vui vẽ, tâm sanh nhẫn thọ tâm sanh không nhàm chán, cùng nhau dìu dắt không muốn xa lìa, ví như bạn bè yêu mến nhau lâu ngày không gặp gỡ, bỗng nhiên được tụ hợp sanh tâm vui mừng, sanh tâm nhẫn thọ, sanh tâm không nhàm chán, cùng nhau dìu dắt không muốn xa lìa. Lúc bấy giờ người thấy mặt nhau cũng lại như vậy, nhân yêu thương nhớ nghĩ tới nhau nên nam nữ cùng ở chung với một chỗ với nhau. Kiếp trước con người thọ mạng mười tuổi, thì nay nhân dân từ mười tuổi mà sanh ra thọ mạng lâu dài, hình sắc xinh đẹp kỳ lạ, có uy đức tối thắng, thần lực tự tại, vật báu sinh ra đầy đủ; thọ mạng hai mươi ngàn tuổi, đó là lúc công đức chúng sanh như vậy tự nhiên mà được thành vì cớ sao như vậy? Bởi do hành pháp bình đẳng, hành pháp thiện cho nên cảm thọ quả báo như vậy. Lúc bấy giờ mọi người cùng với các pháp tương ưng, thân hành thiện, miệng nói điều thiện, ý nghĩ thiện, làm tất cả điều thiện, khi xả bỏ thân mạng về sau sanh vào đường lành và cõi trời, và xả bỏ thân mạng rồi trở lại sanh vào cõi người, sanh vào cõi người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tánh thanh tịnh tự tánh đạo đức, tâm tánh hòa nhã, giới phẩm đầy đủ, thường hành thắng pháp; xa lìa sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, nói lời thô ác, thêu dệt hoa mỹ, tâm không tham dục, tâm không sân hận, xả bỏ tà kiến tu hành chánh kiến. Cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, bạn bè, các bậc tôn trưởng, cùng với các pháp lành tương ưng. Là nghiệp lành ấy có thể, chiêu cảm đến thọ mạng dài lâu, chiêu cảm đến không bệnh, chiêu cảm đến hình sắc đoan chánh, chiêu cảm đến thân có uy đức, chiêu cảm đến sanh vào nhà tôn quý giàu sang, chiêu cảm đến có đại trí. Như thế, nghiệp lành ngày đêm sinh trưởng. Mọi người dựa vào phước đức mà sanh ra vô lượng công đức. Khi xả bỏ thân mạng về sau lại sanh vào cõi trời, và đường lành, trong đường lành trụ trong thời tiết cũng lâu dài. Như vậy trong kiếp đầu do đói khát lớn rốt cuộc cùng tận hết. Kế đến các kiếp còn lại tiếp tục từ hai mươi ngàn tuổi. Trong kiếp này thứ nhất từ thọ hai mươi ngàn tuổi họ sanh ra tiếp tục sanh ra tiếp tục thọ mạng rất dài lâu, hình sắc xinh đẹp lạ kỳ, uy đức tối thắng, thần lực tự tại, vật báu sanh ra đầy đủ, thọ mạng lên đến bốn mươi ngàn tuổi. Bấy giờ các chúng sanh như vậy công đức tự nhiên mà được thành. Vì cớ sao như vậy vì họ thực hành các pháp bình đẳng, hành pháp thiện cho nên cảm thọ quả báo như vậy, khi đó mọi người cùng với các pháp thiện tương ưng; thân hành thiện, miệng nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện, tất cả pháp lành từ đó mà sanh ra khi xả bỏ thân mạng rồi sanh vào đường lành và cõi trời, xả bỏ thân mạng cõi trời trở lại sanh trong cõi người, sanh trong cõi người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tánh thanh tịnh, tự tánh đạo đức, tâm tánh hoà nhã, giới phẩm đầy đủ, thường hành thắng pháp, pháp thiện tối thắng. Lại xa lìa sát sanh trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, nói lời thêu dệt, không tham dục, tâm không sân hận, xả bỏ tà kiến, tâm tu hành theo pháp chánh kiến. Cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, thân hữu và các bậc tôn trưởng, cùng với các pháp lành tương ưng. Với nghiệp lành ấy có thể chiêu cảm đến không bệnh tật, chiêu cảm đến hình sắc đoan chánh chiêu cảm đến sống lâu thân có uy đức, chiêu cảm đến sanh vào nhà tôn quý, giàu sang, có thể chiêu cảm đến người có đại trí. Như thế nghiệp lành ngày đêm sanh trưởng, cũng là lúc mọi người dựa vào phước đức hạnh, mà tăng trưởng vô lượng công đức. Xả bỏ thọ mạng về sau lại sanh vào cõi trời và đường lành ở trong đường lành trụ trong thời tiết lâu dài. Như vậy nói gọi là giữa kiếp thứ ba.
Thứ hai thọ mạng bốn mươi ngàn tuổi: Mọi người từ bốn mươi ngàn tuổi sanh ra, là được thọ mạng rất dài lâu, hình sắc xinh đẹp lạ thường, có uy đức tối thắng, có thần lực tự tại, vật báu sinh ra đầy, đủ thọ mạng sáu mươi ngàn tuổi, lúc này mọi người cùng với các pháp thiện tương ưng, thân hành thiện, miệng nói thiện ý nghĩ thiện, khi xả bỏ thân mạng rồi sanh vào đường lành và cõi trời xả bỏ thân mạng cõi trời, rồi trở lại sanh trong loài người sanh trong loài người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tánh thanh tịnh, tự tánh đạo đức, tâm tánh hòa nhã, giới phẩm đầy đủ thường hành thắng pháp. Lại xa lìa sát sinh, trộm cướp tà dâm, vọng ngữ, nói hai lưỡi, nói thô ác, nói thêu dệt, lại không tham dục tâm không sân nhuế, xả bỏ tà kiến, tu hành chánh kiến. Lại cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, thân hữu và các bậc tôn trưởng, cùng với các pháp lành tương ưng. Với nghiệp ấy chiêu cảm đến thọ mạng dài lâu, chiêu cảm đến không bệnh tật, chiêu cảm đến hình sắc đoan chánh, chiêu cảm đến thân có uy đức, có thể chiêu cảm đến sanh vào nhà tôn quý, giàu sang, và có thể chiêu cảm đến làm người có đại trí. Như thế, nghiệp lành ngày đêm sanh trưởng, là lúc mà mọi người dựa vào phước đức hành và sanh ra vô lượng công đức, xả bỏ thọ mạng về sau lại sanh vào cõi trời và sanh vào đường lành ở trong đường lành trụ thời tiết rất lâu dài. Như thế gọi là giữa kiếp thứ ba.
Thứ ba thọ lượng sáu mươi ngàn tuổi: Mọi người từ sáu mươi ngàn tuổi sinh ra, được thọ mạng rất lâu dài, hình sắc xinh đẹp kỳ lạ, uy đức tối thắng, thần lực tự tại, vật báu sinh ra đầy đủ, thọ mạng lên đến tám mươi ngàn tuổi. Như vậy trong kiếp ở cõi Diêm-phù-đề chỗ chúng sanh sinh ra thọ lượng dài lâu nhất là tám mươi ngàn tuổi này. Lúc đó, người nữ năm trăm tuổi mới xuất giá theo chồng, là lúc mọi người chỉ có bảy thứ bệnh. Gọi là bệnh đại tiểu tiện lợi, nóng, lạnh, tâm ham muốn, đói và già. Như vậy lúc bấy giờ trong đó tất cả quốc độ đều thịnh vượng an lạc không có oán tặc và trộm cướp, các châu thổ quận huyện, thôn ấp nhân dân đều an vui, còn nghe được tiếng gà gáy chim kêu đều rõ ràng, cày ruộng gieo giống tuy ít, mà thu hoạch rất nhiều mọi người thọ công dụng quả đời này ít mà dụng quả nghiệp lành đời trước nhiều. Nhà cửa xe cộ, y phục, tiền của, vật báu, các vật nuôi sống như ý đầy đủ, thọ dụng đến suốt đời cũng không hư hoại. Mọi người lúc này an hưởng ngồi một chỗ hưởng thụ, không phải chạy đi tìm cầu. Thọ mạng tám mươi ngàn tuổi, trụ A-tăng-kỳ niên, nhẫn đến chúng sanh chưa tạo mười điều ác.
Từ khi mọi người khởi lên mười điều ác, thì thời tiết thọ mạng do đây mà giảm sút. Cứ độ một trăm năm thì giảm mười năm, rồi một trăm năm tiếp giảm mười năm, cứ vậy dần giảm đến còn mười tuổi. Sau cùng mười tuổi trụ lại không giảm nữa, suốt từ tám vạn, đến chỉ còn mười tuổi ngắn ngũi trong thời gian này. Nếu như Phật không xuất thế thì cứ thứ tự như vậy, xoay vần. Nếu Đức Phật xuất thế thì theo như chánh pháp mà trụ, chúng sanh thọ mạng tạm thời trụ lại không giảm và tùy theo chánh pháp tiêu mòn giàm đi, thì thọ mạng dần dần cũng giảm. Tôi nghe Đức Phật Thế tôn nói như vậy.
LUẬN LẬP THẾ A TỲ ĐÀM
QUYỂN 10
Phẩm 25: ĐẠI TAM TAI, HỎA TAI
Đức Phật Thế tôn nói: Tiểu kiếp đó gọi một kiếp. Hai mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp, bốn mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp, sáu mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp, tám mươi tiểu kiếp cũng gọi là một đại kiếp, vì cớ sao một tiểu kiếp gọi là một kiếp? Là lúc mà Tỳ khưu Đề Bà Đạt Đa, trụ trong địa ngục thọ quả báo nhiệt não, Đức Phật Thế Tôn nói: Trụ thọ một kiếp như vậy một tiểu kiếp gọi là một kiếp. Vì cớ sao hai mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp? Như cõi trời Phạm Tiên hành thiện, hai mươi tiểu kiếp gọi là một kiếp thọ lượng, các chúng trời ấy. Đức Phật nói trụ thọ một kiếp, như vậy hai mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp.
Vì cớ sao! Bốn mươi tiểu kiếp gọi là một kiếp, ví như cõi trời Phạm Chúng thọ lượng bốn mười tiểu kiếp. Đức Phật nói trụ thọ một kiếp, như vậy bốn mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp. Vì cớ sao! Sáu mươi tiểu kiếp gọi là một kiếp? Ví như cõi trời Đại Phạm Thiên thọ lượng sáu mươi tiểu kiếp. Đức Phật nói trụ thọ một kiếp, như vậy sáu mươi sáu mươi tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp. Vì cớ sao! Tám mươi tiểu kiếp gọi là một đại kiếp? Đức Phật nói trong kiếp đó thế giới tán hoại; kiếp đó thế giới tán hoại rồi trụ lại, kiếp đó thế giới khởi lên thành, kiếp đó thế giới khởi thành rồi trụ lại. A-tăng-kỳ thời gian gọi là kiếp. Thế giới khởi thành A-tăng-kỳ thời gian gọi là kiếp. Thế giới khởi thành rồi trụ, tán hoại đó có ba nhân duyên. Một nhân hỏa lửa thiêu đốt nên tán hoại. Hai nhân vì nước nên tán hoại. Ba nhân vì gió tán hoại. Như vậy Đức Phật Thế tôn nói: Này các Tỳ khưu tán hoại có ba nguyên nhân. Một hỏa tán hoại. Hai nước nên tán hoại. Ba là gió nên tán hoại. Này các Tỳ khưu tán hoại trên đỉnh có ba. Một là cõi trời Thắng Biên Quang. Hai là cõi trời Biến Tịnh. Ba là cõi trời Quảng Quả. Kế đến Đức Phật Thế Tôn nói: Này các Tỳ khưu tán hoại trên đỉnh cũng có ba loại. Một là cõi trời Thắng Biên Quang. Hai là cõi trời Biến Tịnh. Ba là cõi Trời Quảng Quả. Vì cớ sao! Cõi trời Thắng Biên Quang, đến cõi trời Biến Tịnh và cõi trời Quảng Quả là đảnh phải tán hoại? Này các Tỳ khưu lúc Hỏa Diệm tan hoại, tất cả chúng sanh cõi dưới cho đến thiền thứ hai sanh lên trời Thắng Biến Quang tán loạn, lúc Thủy Tai tán hoại thì tất cả chúng sanh cõi dưới cho đến tu Thiền thứ ba sanh lên trời Biến Tịnh tán loạn, lúc phong tai tán hoại, thì tất cả chúng sanh cõi dưới cho đến tu thiền, thứ tư sanh lên trời Quảng Quả tán loạn. Đức Phật nói: Hỏa tai tán hoại là do cõi trời Thắng Biến Quang tán hoại. Thuỷ tai tán hoại là do cõi trời Biến Tịnh tán hoại. Phong tai tán hoại là do cõi trời Quảng Quả tán hoại.
Lại nữa! Này các Tỳ khưu tán hoại đó có hai: Một là chúng sanh thế giới tán hoại, Hai đó là khí thế giới tán hoại. Trong mười tiểu kiếp đầu chúng sanh thế giới tán hoại, mười tiểu kiếp sau khí thế giới tán hoại. Đức Phật bảo! Này các Tỳ khưu, tán hoại đó lúc ban đầu khởi lên là cõi trời Thắng Biến Quang tán hoại nguyên nhân từ thiền, thứ hai, tất cả chúng sanh cõi Diêm-phù-đề lúc đó đều tán hoại. Thọ mạng tám mươi ngàn năm, người nữ bấy giờ năm trăm tuổi mới xuất giá lấy chồng. Bấy giờ, mọi người chỉ có bảy thứ bệnh. Gọi là đại tiểu tiện lợi, nóng, lạnh, lòng ham muốn, đói khát và già. Như vậy trong lúc đó tất cả quốc độ thịnh vượng an lạc không có oán tặc nhẫn đến trộm cướp các châu thổ, quận, huyện, ấp thôn, xóm người dân ấm no hạnh phúc, còn nghe những tiếng chim hót, gà gáy đều nghe rõ ràng, cày ruộng, gieo giống ít mà thu hoạch thật nhiều, là lúc mọi người thọ công dụng quả đời này ít, mà dùng đầy đủ nghiệp lành đời trước rất nhiều. Nhà cửa xe cộ, y phục, tiền tài, của báu, vật báu suốt đời vừa lòng, thỏa ý đầy đủ. Là lúc mà hai giới giảm mất. Một là giới sân hận. Hai là giới ý phiền não bức bách. Hai giới khởi mạnh lên: Một là không sân hận. Hai là ý không phiền não bức bách. Lúc ấy mọi người lìa mười điều ác, tu hành mười điều thiện, an tọa thọ vui, không chạy đi tìm cầu chỗ này, chỗ kia, hoặc là tụ tập ăn uống, hoặc là vào nhà nghỉ ngơi, hoặc là tụ tập một chỗ đông người, hoặc là vui chơi dưới gốc cây. Nói như vậy là truyền đi các nơi biện luận. Thuở xưa các người sinh vào kiếp ô trược, bởi ngũ dục trần tham dục làm tăng trưởng hoặc là cha mẹ, con cái đấu tranh với nhau; anh em, chị em, bạn bè, quyến thuộc tự đấu tranh, đánh cãi nhau, huống chi là người khác. Lúc đó mọi người khởi lên đấu tranh về sau múa tay, hoặc là lấy ngói đá , hoặc lấy gậy mà đánh nhau, kế đến dùng dao gậy đánh nhau lan khắp sợ sệt khủng bố lẫn nhau, nhẫn đến sát hại lẫn nhau, bởi vậy nên ngũ trần khởi lên các món ác, vì vậy cho nên ngũ trần phải nên xả bỏ, như là oán ghét, trách mắng dục trần, các thứ hiển hiện, nói là lỗi lầm của ngũ trần. Lúc bấy giờ mọi người suy nghĩ về tai họa của ngũ trần và những quấy nhiễm của cõi dưới mà quan công đức vi diệu của định Kinh giác quán, tu tập nhị thiền sau khi xả bỏ thọ mạng sanh lên cõi trời Thắng Biến Quang, lúc đó chư thiên cõi Dục biến thân, giống như tê thu (?). Mỗi đêm ba thời du hành nơi cõi giới, truyền nói rằng: Thiện nam tử, thiện nữ nhơn, định không giác là diệu lạc nhất, là vui an lạc, cho nên các ông phải tu hành, trụ ở trong đây. Khi bấy giờ con người cứ mỗi đầu đêm và cuối đêm, nghe nói như vậy rất làm vui mừng, hớn hở, xả bỏ các việc tạp sự rồi, nhiếp tâm ngồi thiền, quán sát lỗi lầm của dục trần, quán định không giác quán có đại công đức, tức thời được nhị thiền, xả bỏ thọ mạng về sau sanh lên cõi trời Thắng Biến Thiên Quang. Khi bấy giờ có người thường làm cho người khác vui sướng, lấy đó làm sự nghiệp, hoặc là ca hát, hoặc là nhảy múa, cùng nhau ném, hoặc là luân phiên múa đao gậy, hoặc là đáng trống, thổi kèn, hoặc là hát xướng ca ngâm, lại khen ngợi tán tụng, hoặc là trang sức trên thân cho người khác. Như thế các người làm trò ca hát, ngâm vịnh truyền đi khắp, thuở xưa các người sanh vào kiếp đời ô trược, bởi, ngũ dục trần, tham dục tăng trưởng, cho nên hoặc cha mẹ, con cái cùng nhau đấu tranh, anh em chị em, thân bằng quyến thuộc tự cùng nhau đấu tranh đánh cãi nhau huống chi là người khác. Lúc bấy giờ mọi người khởi đấu tranh rồi về sau khoa tay múa chân hoặc là lấy ngói đá ném, hoặc là đánh nhau kế đến dùng dao gậy khủng bố lẫn nhau nhẫn đến sát hại nhau, nhân đây mà ngũ trần khởi lên các thứ ác, cho nên ngũ trần cần phải xả bỏ. Như thế oán ghét trách mắng dục trần, các thuyết nói rõ lỗi lầm của ngũ trần. Khi bấy giờ mọi người suy nghĩ về tai họa của ngũ trần và những quấy nhiễu, nơi cõi dưới, mà quán công đức vi diệu, của định không giác quán, sau khi tu tập nhị thiền xả bỏ thân mạng, sanh lên cõi trời Thắng Biến Quang. Lúc ấy các trời từ Thắng Biến Quang mà xuống hạ giới đi trong thế giới che ẩn thân hình tuyên lệnh nói rằng: Thiện nam tử thiện nữ nhơn, hãy quán sự tịch tĩnh diệu lạc của định không giác quán, cho nên các ông tu hành trụ trong đây. Khi đó, mọi người cứ đầu đêm đến cuối đêm, đều nghe trên trời nói, rồi hoan hỷ tụng tập khởi tâm tin ưa. Tất cả nhà cửa chỗ ở thôn ấp, châu quận nhẫn đến nhân dân ở quốc độ lớm đều, khởi tâm tinh tấn quán sát lỗi lầm dục trần nơi hạ giới. Quán công đức nhị thiền tu tập nhị thiền. Khi xả bỏ thọ mạng về sau sanh lên cõi trời Thắng Biến Quang Thiện; Khi đó có ngoại đạo xuất gia theo, giáo hóa tất cả thôn ấp, nhà cửa châu quận, nhẫn đến nhân dân ở quốc độ lớn đều khiến cho xuất gia, lại có vô số quyến thuộc vây quanh, như thế thứ tự đi khắp các quốc độ để tuyên dương giáo pháp này tuyên nói đều tương ưng. Nói thuở xưa mọi người sanh trong đời kiếp ô trược bởi ngũ dụctrần, tham dục tăng trưởng, hoặc cha mẹ con cái cùng nhau đấu tranh, anh em, chị em, thân hữu quyến thuộc, tự đấu tranh đánh cãi nhau, huống chi người khác! Khi mọi người khởi đấu tranh rồi về sau mà múa tay hoặc lấy ngói đá, hoặc lấy gậy đánh, kế đến hoặc dùng dao gậy cùng nhau khủng bố, nhẫn đến sát hại lẫn nhau, nhân đây mà ngũ trần khởi lên các thứ ác. Vì vậy cho nên ngũ trần cần phải xả bỏ như vậy nên oán ghét trách mắng dục trần, nói rõ ra những tai họa của ngũ trần. Bấy giờ, mọi người suy nghĩ về tai họa của ngũ trần, sự quấy nhiễu của hạ giới, rồi quán công đức vi diệu, của định Kinh giác quán tu tập nhị thiền, xả bỏ thân mạng về sau sanh lên cõi trời Thắng Biến Quang. Lúc bấy giờ, chúng sanh ở địa ngục suy nghĩ: Ta thuở xưa làm các điều bất thiện gieo nghiệp ác xấu, vì vậy cho nên ta nay tới đây thọ khổ, do ý nầy cho nên không sanh sân hận oán giận, ngục tốt, chúng sanh trong địa ngục không sân giận, không bị ý phiền não bức bách. tự nhiên sanh trưởng tăng thêm đầy đủ thiện tâm. Do túc nghiệp, đời sau báo thiện nghiệp, khi xả bỏ địa ngục thọ sanh vào trong loài người. Tức là sanh trong loài người rồi suy nghĩ về tai họa của dục trần, mới quan sát công đức của Nhị thiền nên tu tập nhị thiền, sau khi xả bỏ thọ mạng về sau sanh vào cõi trời Thắng Biến Quang Thiên. Khi đó có chúng sanh đọa trong địa ngục, vẫn làm ngục tốt suy nghĩ rằng: Chúng ta nhân ác nghiệp của mình nên thọ sanh đến đây, các tội nhơ kia cũng nhân nghiệp ác nên đến đây thọ khổ. Ta nay cớ sao cứ khởi lên tàn hại chúng sanh khác, nghĩ thế rồi tức thì không sanh tâm sân hận, ý không phiền não bức bách, tự nhiên sanh tăng trưởng đầy đủ thiện tâm. Bởi do túc nghiệp, đời sau thọ nghiệp báo lành, xả bỏ thân mạng rồi được sanh trong loài người, sanh trong loài người rồi suy nghĩ về lỗi lầm của ngũ trần, quán công đức của nhị thiền, tu tập nhị thiền. Sau khi xả bỏ thọ mạng sanh lên cõi trời Thắng Biến Quang Thiên, khi ấy trong nước lại sản sinh ra loài chúng sanh thuộc loại rùa, ba ba, cá, rồng. Đều sanh từ tâm không ăn thịt lẫn nhau chỉ ăn rong rêu dưới nước và rau cỏ đất, tự nhiên chết đó mới nhận lấy ăn thịt. Bởi vì có thể đói mà chết, không muốn hại kẻ khác để tự ăn thịt. Không sân hận, ý không phiền não bức bách khi bấy giờ sanh trưởng sanh các thiện tâm, sanh ra yêu thương, nhớ nghĩ. Bởi do túc nghiệp về sau thọ báo nghiệp lành, xả bỏ thân mạng đời sau sanh trong cõi người sanh trong cõi người rồi suy nghĩ ngũ trần mắc phải lỗi lầm và quấy nhiễu hạ giới. Mới quán vô giác quán định công đức vi diệu, rồi tu tập nhị thiền, xả bỏ thọ mạng về sau sanh lên cõi trời Thắng Biến Thiên. Lại có chúng sanh ở trên bờ, như sư tử hổ, lang, sói, báo, mèo, chồn, đều sanh từ tâm không ăn thịt lẫn nhau, khi đói đó là ăn cỏ non, khát uống nước suối sạch, có khi loại thú nào tự chết đó mới ăn thịt mà thôi. Thà có thể đói chết chớ không muốn sát hại loài khác tự cứu tế. Không sân giận, ý không phiền não bức bách, là lúc sanh ra các thiện tâm, sanh ra yêu thương nhớ nghĩ, do túc nghiệp đời sau thọ quả báo nghiệp lành. Xả bỏ thọ mạng về sau sanh trong loài người sanh trong loài người rồi suy nghĩ về lỗi lầm của ngũ trần và quấy nhiễu của hạ giới. Quán công đức vi diệu, của định không giác quán tu tập nhị thiền. Xả bỏ thọ mạng về sau sinh lên cõi trời Thắng Biến Quang. Tất cả chúng sanh trong đường quỷ đói lại khởi tâm yêu thương nhớ nghĩ, thảy đều sanh vào đường lành như trước đã nói. Xả bỏ thọ mạng về sau được sanh trong loài người, sinh trong loài người rồi suy nghĩ về lỗi lầm, của ngũ trần, quán định, không giác quán tu tập nhị thiền, xả bỏ thọ mạng về sau sanh lên cõi trời Thắng Biến Quang. Trong đường A-tu-la cũng lại như vậy. Lúc bấy giờ người Tây Cù-da-ni, ở nơi kia có nơi chốn để tu tập nhị thiền, nếu như ở chỗ kia tu tập đắc nhị thiền rồi theo chỗ kia để sanh lên cõi trời Thắng Biến Thiên Quang. Hoặc như đến cõi Diêm-phù-đề thọ sanh mà đắc nhị thiền đó, cũng được sanh lên cõi trời Thắng Biến Quang. Người Đông Tỳ-đề-ha, hoặc ở chỗ kia tu tập nhị thiền cũng từ chỗ kia sanh lên nhị thiền nơi cõi trời. Nếu như đến cõi Diêm-phù-đề tu tập nhị thiền cũng từ nơi đây sanh lên cõi trời thứ hai. Người Bắc Uất Đơn Việt xả bỏ thọ mạng về sau sanh cõi trời Lục dục. Hoặc là ở cõi trời tu tập nhị thiền được sanh lên nhị thiền, hoặc từ cõi trời Lục dục mà sanh vào cõi Diêm-phù-đề, tu tập nhị thiền cũng sanh về cõi trời Thắng Biến Quang. Lúc đó cõi trời Tứ Đại Thiên Vương, ba mươi ba cõi trời. Dạ Ma Thiên, cõi trời Đâu Suất Đà, cõi trời Hoá Lạc, cõi trời Tha Hoá Tự Tại, cõi trời Phạm Tiên Hành, cõi trời Phạm Chúng, hoặc ở các cõi trời này tu tập nhị thiền. Xả bỏ thọ mạng rồi sanh lên cõi trời thắng Biến Quang; hoặc từ cõi trời đến sanh vào cõi Diêm-phù-đề. Tu tập nhị thiền, cũng được sanh về cõi trời Thắng Biến Quang. Này các Tỳ khưu lúc đó tất cả Địa-ngục đều trống rổng, tất cả súc sanh cũng đều trống không, tất cả quỷ thần cũng lại trống rổng. Tất cả A-tu-la cũng lại trống rổng. Tây Cù-da-ni. Nam Diêm-phù-đề, Đông Tỳ-đề-ha, Bắc Uất-đơn-việt lại cũng đều trống rổng, cõi trời Tứ thiên vương, ba mươi ba cõi, trời Dạ Ma Thiên, Hóa Lạc Thiên-Tha hóa tự tại thiên, Phạm Tiên hành thiên. Phạm chúng thiên, cũng đều trống rổng. Đó là lúc trong một ngàn thế giới, tất cả chúng sanh thảy đều trống rỗng hết sạch, chỉ còn cõi trời Đại Phạm Vương. Bởi nhân duyên như vậy rồi thứ tự tất cả chúng sanh trong thế giới đều tán hoại hết. Như vậy trong lúc đó mười tiểu kiếp đã trãi qua.
Này các Tỳ khưu khi khí thế giới thứ hai tán hoại, tiếp tục tứ đại tán hoại hỏa tai tán hoại. Trong lúc đó thời tiết rất lâu, trời không mưa xuống một giọt, cũng không rơi xuống vì lâu quá không mưa trong cõi Diêm phù đề mộng mạ, cây cối, cỏ thuốc, tất cả hạt giống đồng một lúc héo khô hết, thứ tự thiêu đốt hết sạch không mọc lên được.
Này các Tỳ khưu, tất cả các pháp hữu vi là vô thường, như vậy không thường còn, như vậy, là chỗ không an ổn ngắn ngũi, bức xúc biến đổi, phá hoại, chẳng có thể cứu tế được, chẳng phải chỗ thật để nương tựa vào, chẳng phải chỗ để che chở. Này các Tỳ khưu vì nghĩa lý ấy, cho nên pháp hữu vi rất nhàm chán, nên phải xa lìa ham muốn nên phải xả bỏ. Này các Tỳ khưu! Qua thời gian rất lâu, lúc ấy có mặt trời thứ hai xuất hiện, tỏa nhiệt và ánh sáng gấp bội ngày xưa. Do có thêm mặt trời này nên trong cõi Diêm phù đề tất cả ao nước và sông ngòi nhỏ, đều cạn kiệt, đến một giọt cũng không có. Này các Tỳ khưu! Tất cả các pháp hữu vi là vô thường như vậy đó, đủ như trước đã nói. Bởi thế nên phải xả bỏ, xa lìa. Này các Tỳ khưu! Qua thời gian rất lâu, lúc ấy có mặt trời thứ ba, xuất hiện, tỏa nhiệt chiếu sáng tăng gấp đôi so với mặt trời thứ hai, do mặt trời này, cho nên trong cõi Diêm phù đề, những sông lớn sâu, hồ sâu, lại cũng đều cạn kiệt hết một giọt nước cũng không còn. Này các Tỳ khưu! Tất cả các pháp hữu vi là vô thường như vậy, đầy đủ như trước đã nói. Bởi vậy cần phải xả bỏ, cần phải xa lìa này các Tỳ khưu! Qua thời gian rất lâu lại xuất hiện mặt trời thứ tư, tỏa nhiệt và ánh sáng ở thế gian gấp đôi mặt trời thứ ba, do có mặt trời này cho nên trong cõi Diêm-phù-đề, ao nước A Na Bà Đạt, ao mạn Đà Kỳ Ni, sông giữa rừng Thất Lâm và bốn sông lớn như là các chỗ rất lớn, rất sâu nước chảy cuồn cuộn cùng với biển tương hợp cũng đều cạn kiệt, đến nổi một giọt nước cũng không có. Này các Tỳ khưu. Tất cả các pháp hữu vi là vô thường như vậy, đầy đủ như trước đã nói. Cho đến ta phải xả bỏ xa lìa. Này các Tỳ khưu qua thời gian rất lâu, lần lượt lại có mặt trời thứ năm, xuất hiện ở nơi đời, tỏa nhiệt, ánh sáng tăng gấp đôi mặt trời thứ tư. Do có ngày này cho nên nước trong và ngoài biển giảm một trăm do tuần, kế đến giảm hai trăm, ba trăm, bốn trăm, cho đến một ngàn do tuần, nước trong biển giảm như thế, kế đến lại tổn giảm, hai ngàn, ba ngàn, bốn ngàn, nhẫn đến một vạn, giảm đến hai vạn; cho đến sáu vạn do tuần, cho đến thủy giới giảm hết. Này các Tỳ khưu, như vậy có lúc nước biển còn lại sâu đến bảy đa-la, hoặc sáu đa-la, hoặc năm đa-la, hoặc bốn, hoặc ba, hoặc hai, hoặc sâu một đa la. Này các Tỳ khưu, như vậy có lúc nước biển còn lại một biển nước, sâu bảy tầm kế đến giảm còn một tầm. Này các Tỳ khưu! Như vậy có lúc nước biển vừa bằng người đứng ngang cổ, hoặc dưới nách, hoặc ngang ngực, lưng, bụng, đầu gối, rồi tới cổ chân.
Này các Tỳ khưu. Như vậy, có lúc nước biển còn lại không bằng một lóng tay. Này các Tỳ khưu. Tất cả pháp hữu vi là vô thường như vậy, đầy đủ như trước đã nói, cho đến nên phái xả bỏ. Này các Tỳ khưu! Qua thời gian rất lâu kế đến có mặt trời thứ sáu xuất hiện tỏa nhiệt ánh sáng gấp đôi ngày thứ năm; do có mặt trời này nên thế giới đại địa, trong ngoài biển lớn và núi vua Tu di, lúc ban đầu xuất ra khói rồi tụ lại che phủ khắp giống như trong lò gốm sứ, ban đầu hum ra khói, khói tụ lại chỗ che phủ cả đại địa, biển lớn và núi Tu di, bởi do mặt trời thứ sáu mà các nơi tụ lại che phủ cũng lại như vậy, các Tỳ khưu tất cả các pháp hữu vi đều vô thường như vậy, đầy đủ như trước đã nói, cho đến nên phải xả bỏ. Này các Tỳ khưu! Qua thời gian rất lâu, tiếp có mặt trời thứ bảy xuất hiện, ở thế gian tỏa nhiệt tăng gấp đôi mặt trời thứ sáu. Do có ngày này cho nên thế giới đại địa, trong ngoài biển lớn và núi Tu Di vương đều phát ra lửa hỏa diệm, rỗng suốt, thông thành một đống lửa trãi qua thời gian rất lâu dài đình trụ lại mà không dứt. Này các Tỳ khưu! Núi Tu Di vương, ấy, bị lửa lớn thiêu đốt thông thành một đống lửa lớn, thời gian đốt cháy như vậy rất lâu, trên đãnh núi này chu vi một trăm do tuần đều vỡ vụn. Hoặc là hai trăm, ba trăm nhẫn đến một ngàn do tuần, đá rơi rớt xuống thiêu đốt cũng lại như vậy. Lúc ấy bên trong tứ đại ở ngoài đều tự nhiên phát lửa thế giới, thiên địa thiêu đốt xuất ra đống lửa trở thành một tánh lửa. Do sức thiêu đốt nên hút hết những gì thuộc tánh nước bên dưới. Ví như nồi đồng bị đốt nóng, đổ vào trong đó ít nước, nước bị hút hết. Thế giới đại địa thành một tánh lửa, hút nước bên dưới cũng lại như vậy. Ví như dầu tô bị lửa thiêu đốt, tất cả đều tiêu hết, không còn lại tro tàn. Như vậy đại địa trong ngoài biển lớn và núi Tu Di vương đều phát ra lửa thiêu đốt nung nấu, rỗng suốt, thông thành một đống lửa tất cả đều đốt cháy sạch không có chút tro than cũng lại như vậy. Khi bấy giờ địa luân đồng chuyển đều chìm vào biển lửa. Rồi đến thuận luận, phong luân cũng đều bị đốt mà diệt hết. Trên Hỏa diệm đó bắt đầu từ Thủy luân luân cho đến chỗ của Trời Đại Phạm vương, bấy giờ Trời Đại phạm đều xả bỏ thọ mạng, cho đến trụ xứ sanh về cõi trời Thắng Biến Quang ở trên. Bấy giờ cung điện của Đại Phạm rộng lớn chu vi, ánh sáng rực rỡ đáng yêu dễ nhìn, không nhàm chán sắc trắng mịn sạch sẽ trong suốt cõi này, đều cùng một lúc thiêu đốt hết không còn gì cả. Chỗ của Phạm vương ở xưa nay pháp vốn vậy, nên bị lửa tiêu diệt thời gian cũng nhiều như vậy. Tất cả khí thế giới bên ngoài tán hoại đều hết, thời gian cũng nhiều như vậy. Trãi qua hai mươi tiểu kiếp, lại hai mươi tiểu kiếp, tiếp tục như thế trong đó xứ sở của một ngàn thế giới rỗng không không có gì cả, giống như hang sâu u ám tối tăm bên trên không có gì che đậy rỗng không, như thế trụ đến hai mươi tiểu kiếp. Đức Phật nói. Này các Tỳ khưu Lúc ấy, thế giới lại muốn khởi thành. Thế gian này vốn pháp như vậy nên ban đầu khởi thành thế giới. Hoặc có chúng sanh đã sanh trưởng nghiệp có thể chiêu cảm đến quả báo sanh cõi trời Đại Phạm; xả bỏ báo trước rồi, lại đến vào trung ấm. Bởi vì sắc giới tứ đại hòa hợp, nên cung điện của Đại Phạm tự nhiên mà khởi ánh sáng trắng sạch che khuất các chỗ khác; sắc tướng đầy đủ, xem không nhàm chán, tâm sở ái lạc. Họ lúc chưa ở đây là các chúng sanh thuở xưa đã tạo nghiệp có thể cảm đến ra chỗ ở thắng diệu khả ái. Bởi vì nghiệp xưa cho nên cảm đến sắc giới tứ đại, và sắc do tứ đại tạo ra, nhân nghiệp xưa và sắc giới cung điện tứ đại, tức thành sắc giới tứ đại, ở nơi cung điện này, cũng là nhân, cũng là duyên, còn các nghiệp tạo quả đời trước chỉ là tăng thượng duyên.
Đức Phật nói: Này các Tỳ khưu! Như vậy là chỗ của Đại Phạm Vương, có nhân, có duyên mới được khởi thành xưa nay pháp vốn như vậy, do nhân duyên mà khởi. Trụ xứ của Phạm Vương giống như một thiên hạ lớn. Bấy giờ, Phạm vương ở trong trung ấm, thấy chỗ này khởi tâm ái dục: Ta nay ngồi ở trong đây. Khi khởi tâm ưa thích tức thì thọ sanh nơi này. Một mình ở trong đây đủ mười tiểu kiếp, lấy hỷ lạc làm thức ăn, sống, dựa vào hỷ lạc, ý sanh hóa thân tự nhiên sáng chói, tự tại mà trụ qua mười tiểu kiếp xong. Phạm vương lúc này lại khởi tâm dục ái, khởi tâm bất an suy nghĩ, mong có chúng sanh khác đến cùng ở với ta, khi ấy Phạm vương mong muốn rồi, chúng sanh ở cõi nhị thiền hết nghiệp xả bỏ thọ mạng đến thọ sanh cùng làm đồng loại với Phạm Vương. Các chúng sanh đó thấy Đại Phạm này, xưa nay riêng ở một mình, bèn chấp như vầy: Thuở xưa, ta sống ở trên đã thấy người đoan nghiêm sống ở một mình, nay xuống dưới đây cũng thấy sống một mình chẳng khác trước đây. Lại khởi chấp rằng: Người này là Phạm Thiên đấng tạo tác, đấng sinh ra rất là tôn quý, tạo thành chúng sanh đầu tiên do đây. Người này thành tựu thần lực tự tại, đã sinh sẽ sinh đều là Cha thứ nhất. Chúng ta ngày nay từ nơi người cha này mà sinh ra, vì cớ sao như vậy? Ta từ xưa đến nay thấy ông ta một mình ở đây, tự ta phải sinh trước thôi. Lúc ấy, Phạm vương lại suy nghĩ; Ta là Đại Phạm, đấng tạo tác, đấng sinh ra, chúng sanh bắt đầu do ta tạo tác, ta được uy thần lực tự tại đã sinh, sẽ sinh đều là Cha của họ; tất cả thế gian đều do ta hóa sinh, vì cớ sao như thế này? Bởi ta xưa suy nghĩ: Mong có chúng sanh khác đến ở cùng ta, ứng với nguyện đó, chúng sanh khác tức thì đến đây sinh ra, ta ở đây trước thấy chúng sanh này tới đây sanh. Đại Phạm vương, thọ mạng rất dài lâu, hình sắc rất xinh đẹp lạ thường so với các chúng sanh khác. Có đại danh xưng có đại thần thông và đại uy đức, còn các Phạm chúng thì thọ mạng ngắn ngũi, hình sắc danh xưng, thần lực uy đức đều không sánh kịp. Chỗ ở của Đại Phạm Vương rồi theo thứ lớp đầy khắp chỗ của tất cả Phạm chúng. Vì pháp vốn như vậy nên khi thế giới tương ưng khởi thành nhân sắc giới, tứ đại và sắc do tứ đại tạo mà cung điện riêng của Phạm vương và đất đai tự nhiên hiện khởi, hình sắc trắng mịn, sạch sẽ tịnh khiết vô cùng sánh chói, khả ái ưa nhìn. Họ trước khi chưa ở đây là các chúng sanh xưa đã tạo nghiệp, hay cảm đến những chỗ ở thắng diệu. Khả ái nên nhân nghiệp xưa mà cảm tới sắc giới tứ đại và sắc do tứ đại đạo. Do bởi nghiệp xưa và sắc giới cung điện tứ đại, tức thì thành sắc giới tứ đại. Cung điện ở nơi đây cũng là nhân cũng là duyên, còn các nghiệp do đời trước tạo chỉ là tăng thựơng duyên. Đức Phật nói: Này Tỳ khưu! Cung điện Phạm độc nhất ấy có nhân, có duyên được khởi được thành. Xưa nay pháp vốn như vậy, do nhân duyên khởi, mà chỗ ở một mình của cung Phạm vương nhân đây thứ tự đầy khắp. Các cung trời Phạm thiên. Vì bổn tánh pháp vốn như vậy, nên thế giới tương ưng khởi thành nhân sắc giới tứ đại và sắc do tứ đại tạo, các cung điện của cõi trời Phạm Tiên hạnh và đất đai tự nhiên khởi hiện lên sắc thuần màu trắng trơn mịn sáng sạch khả ái ưa nhìn không chán. Họ lúc chưa ở đây là các chúng sinh, xưa đã tạo nghiệp hay cảm tới chỗ ở tốt đẹp sanh tâm ưa thích, nhân vì nghiệp xưa cho nên cảm tới sắc giới tứ đại và sắc do tứ đại tạo. Bởi nghiệp xưa và sắc giới cung điện của tứ đại, tức liền thành sắc giới tứ đại, ở nơi cung điện nầy cũng là nhân, cũng là duyên, còn các nghiệp do đời trước tạo chỉ là tăng thượng duyên.
Đức Phật nói: Này Tỳ khưu! Chỗ của Phạm Tiên hạnh, có nhân, có duyên, được khởi, được thành. Xưa nay pháp vốn như vậy đều do nhân duyên khởi, mà chỗ ở của cõi trời Phạm Tiên hạnh và các cõi trời Phạm Tiên hạnh thứ tự biến khắp. Lại pháp vốn như vậy, khi thế giới ứng khởi nhân dục giới tứ đại và sắc do tứ đại tạo, cung điện của cõi trời Tha hóa tự tại và xứ sở tự nhiên khởi, hiện ra vàng bạc lưu ly và ngọc pha lê, ánh sáng do bốn báu tạo thành rất khả ái nhìn xem không chán. Lúc chưa ở đây các chúng sanh đó, do xưa đã tạo nghiệp hay cảm những chỗ ở tốt đẹp khả ái, nhân nghiệp xưa cho nên nay cảm được dục giới tứ đại và sắc do tứ đại tạo. Lại nhân nghiệp xưa và cung điện tứ đại của Dục giới liền thành dục giới tứ đại, ở nơi cung điện này cũng là nhân, cũng là duyên, còn tạo nghiệp đời trước chỉ là tăng thượng duyên. Đức Phật nói: Này các Tỳ khưu! cung điện cõi trời Tha hóa tự tại, có nhân, có duyên, được khởi, được thành. Lại nữa, Pháp xưa nay vốn vậy do nhân duyên khởi, nên chỗ ở của Trời Tha hóa tự tại và tất cả trời, thứ tự biến khắp. Các cõi trời bổn tánh pháp vốn vậy, khi thế giới tương ưng khởi nhân dục giới tứ đại và sắc do tứ đại tạo nên, cung điện của cõi trời Hóa lạc và đất đai tự nhiên khởi, hiện ra vàng bạc lưu ly và ngọc pha lê, chiếu ra ánh sáng khả ái, nhìn không chán. Lúc chưa ở đây, họ là các chúng sanh xưa đã tạo nghiệp thường cảm nhận chỗ ở cao quý tốt đẹp khả ái nhân nghiệp xưa cho nên cảm tới dục giới tứ đại và sắc do tứ đại tạo sắc. Bởi nghiệp xưa và dục giới tứ đại cung điện, tức liền thành dục giới tứ đại. Cung điện này cũng là nhân cũng là duyên,còn nghiệp tạo đời trước chỉ là tăng thượng duyên. Đức Phật nói: Này các Tỳ khưu! Chỗ ở của trời Hóa Lạc như thế có nhân, có duyên, được khởi, được thành. Xưa nay pháp vốn như vậy đều do nhân duyên khởi, nên chỗ ở của trời Hóa lạc, đến tất cả trời kế tiếp đầy khắp. Bổn tánh pháp nhiên vốn vậy, khi thế giới ứng khởi, nhân dục giới tứ đại và sắc do tứ đại tạo, cung điện của cõi trời Đâu suất đà, và đất đai tự nhiên khởi hiện vàng bạc lưu ly và ngọc pha lê, chiếu ra ánh sáng khả ái ưa nhìn không chán. Lúc chưa ở đây, họ là các chúng sanh thuở xưa đã tạo nghiệp hay cảm nơi chốn ở thắng diệu khả ái, do nghiệp xưa nên hay cảm tới dục giới tứ đại và sắc do tứ đại tạo thành. Lại nhân nghiệp xưa và dục giới tứ đại cung điện, tức liền thành dục giới tứ đại. Cung điện này, cũng là nhân, cũng là duyên, còn nghiệp, tạo đời trước chỉ là tăng thượng duyên, Đức Phật nói: Các Tỳ khưu! như vậy cung điện của trời Đâu xuất đà và đất đai có nhân, có duyên, được khởi được thành, vốn xưa nay pháp như vậy do nhân duyên khởi mà chỗ ở của cõi trời Đâu-suất-đà, và tất cả chư thiên thứ tự biến khắp. Lại bổn tánh pháp như vậy khi thế giới ứng khởi nhân dục giới tứ đại và sắc do tứ đại mà cung điện của cõi trời Dạ-ma và chỗ ở các trời tự nhiên khởi hiện ra vàng bạc lưu ly và ngọc pha lê chiếu ra ánh sáng khả ái ưa nhìn, không chán. Lúc họ chưa ở đây, là các chúng sanh thuở xưa đã tạo nghiệp hay cảm tới chỗ ở thắng diệu khả ái nhân nghiệp xưa cho nên hay cảm tới dục giới tứ đại và sắc do tứ đại tạo. Lại nhân nghiệp xưa và dục giới tứ đại cung điện liền thành dục giới tứ đại. Cung điện nầy cũng là nhân cũng là duyên, còn nghiệp tạo đời trước chỉ là tăng thượng duyên. Đức Phật nói: Này các Tỳ khưu! Như thế ở cõi trời Dạ-ma, có nhân, có duyên được khởi được thành. Xưa nay pháp vốn vậy do nhân duyên khởi, mà cõi trời Dạ-ma và tất cả chư thiên thứ tự biến khắp, Trời Dạ-ma lúc đó nhớ nghĩ thế giới thuở xưa như người tỉnh ngủ nhớ việc trong mộng, như được thần thông, nhớ nghĩ thế giới đời trước, Trời Dạ-ma nhớ nghĩ thế giới thuở xưa cũng lại như vậy. Lúc bấy giờ các trời suy nghĩ: Ta nay nên đi giám sát hạ giới. Nghĩ thế rồi cùng nhau bảo rằng: Chúng ta cùng nhau đi đến xem chỗ kia? Các trời khác đáp rằng: Chúng ta cùng đi thôi. Lúc bấy giờ, các trời họp thành xem xét đồng thanh nói rằng: Ngày xưa ở chỗ này có núi Tu-di vương, là trong chỗ đó là thành của trời Thiện Kiến, chỗ này là ao báu Nan-đà, chỗ này là vườn báu Nan-đà, chỗ này là ao chất Đa-la, và trong ao chất Đa la có các xe cộ vườn rừng chỗ nầy là ao ác vi, và vườn ác vi. Chỗ này là ao tạp hoa và vườn tạp hoa, chỗ này là cảnh Ba-lợi Chấtđa-la, nước dày bốn ức tám vạn do tuần, rộng mười hai ức ba ngàn bốn trăm năm mười do tuần, chu vi vây quanh ba mươi sáu ức một vạn ba trăm năm mưới do tuần, cao nhất mức này, không còn lớn nữa. Trên nước riêng có địa giới gọi là Đại vị kiếp, bắt đầu đều khởi, ngày đêm dày dần lên, cứng lên. Ví như, khi sữa chưng cất đông đặc, Phủ trên lớp váng dầy, địa giới của Địa vị lúc khởi ban đầu cũng lại như vậy, Đại địa giới trùng trùng nổi lên dài lâu nhẫn đến, đến rồi, rồi lại đến nữa, đầy rồi, rồi lại đầy nữa, đến cuối cùng rốt ráo, bề dày hai ức bốn vạn do tuần, bề rộng mười hai ức ba ngàn bốn trăm năm mười do tuần, chu vi bốn phía ba mươi sáu ức một vạn ba trăm năm mươi do tuần, trụ lại mức cao nhất này không còn lớn nữa. Dưới cõi đất đến một ức sáu vạn đều đều thành vàng thật, phía trên hơn tám vạn vàng, bạc, đồng sắt, v.v… bảy báu hợp thành, lúc ấy địa giới mền mại tùy việc mong muốn, cũng thí như đất bùn, sữa đặc, sanh tô và hòa chung với bột mì v.v… Đất này mền mại tùy theo việc cũng lại như vậy. Chính giữa địa giới (địa luân) dựa vào nghiệp của chúng sanh làm tăng thượng duyên nên bốn phía gió thổi sói vào thành biển ở bên trong nổi lên núi Tu-di, có gió vận chuyển đất, có gió tụ lại thành, có gió mới đúng làm thành hình Tu-di, có gió khởi bốn bên đảnh núi tu di, bắt đầu thành Thiện Kiến mới khởi lên thành Thiện Kiến, làm ao Nan Đà, tạo vườn nan đà, ao Chất đa la, vườn chất đa la, có các xe cộ chạy trong vườn, ao ác vi, và vườn Ác vi, ao tạp hoa vườn tạp hoa, cây ba lợi chất đa và vườn Câu-tỳ-la. Biển Docàn-đà, núi Do-càn-đà, y như núi biển Y-sa, núi niển Khư-la-để, núi biển Thiện Kiến, núi biển Mã Nhĩ, núi biển Tỳ-na-đa. Núi biển Ni dân đà và thiên hạ. Ở trong đó châu địa quật thành châu hải khởi núi Thiết vi. Như vậy, cây và vườn Câu-tỳ-la-la, trong đây xưa là Bát trụ kiếm bà la báu thạch; trong đây xưa là thì có Thiện pháp đường, thuở xưa trong đây có biển lớn bên trong; trong đây có núi Du-càn-đà và biển Du-càn- đà. Trong đây có núi Y-sa-đà và biển Y-sa-đà. Lại trong đây có núi Khư la để, và biển Khư la để. Trong đây có núi Thiện kiến và biển Thiện kiến, có núi Mã nhĩ và biển Mã Nhĩ. Trong đây có núi Tỳ-na-đa và biển Tỳ-na-đa. Trong đây có núi Ni dân đà và biển Ni dân đà. Trong đây có tứ thiên hạ, khoảng giữa trong có châu địa tức đất đai, và bên ngoài có biển lớn. Trong đây có núi Chước-kha-bà-la. Thân cõi trời Dạ Ma rất to lớn bay đi rất mau, cho nên kích động phong luân; do phong luân này làm căn bản cho phong luân Na-la-diên, nên mỗi lúc mạnh dần lên, thậm chí đến rồi lại đến, đầy rồi lại đầy; đều rốt ráo, cuối cùng, dày đến chín ức sáu vạn do tuần rộng mười hai ức ba ngàn bốn trăm năm mươi do tuần, chu vi ba mươi sáu ức một vạn ba trăm năm mươi do tuần, phong luân trụ ở mức cao nhất này, không lớn thêm nữa, gió này cứng mạnh vật không xâm tổn vào được, giống như người có sức mạnh Na-la-diên cầm chày Kim cang, dùng gậy ngăn phong luân này lại tự vỡ vụn, phong luân không tổn hoại gì. Tiếp đến trên phong luân trong không gian mưa xối xuống nước hạt mưa lớn như tòa lầu, hoặc như trụ xe, hoặc như căm xe ngày đêm không ngừng nghĩ, giống như sông nước chảy vô số ngàn năm, nước ấy tụ lại chu vi có gió gọi là nhiếp trì. Ngày đêm hằng khởi, khiến cho nước không tan ra được. Như vậy, nước tăng lên chưa từng ngơi nghĩ. Nước này lớp lớp lớn dần cho đến rồi lại đến, đầy rồi lại đầy, đều rốt ráo khởi thành Thế giới mà do túc nghiệp và phong lực cảm thành, lại có nhiều gió lớn hơn xoáy tròn mà khởi thành. Tây Cù-da-ni và Đông Phát-bà-đề, lại có nhiều gió khác từ bốn hướng bốn góc mà thành. Bắc Uất-đơn-việt lại có gió, khác như Bán-tỳ-bà thành. Nam Diêm-phù-đề, như phong luân mà thành núi. Thứ tự các núi ở trên, chính nghĩa đều có đỉnh. Như khi có gió nổi lên hoặc là chánh chính giữa hoặc là một bên, tạo thành tướng núi, hoặc là bằng phẳng, hoặc là cao vút. Lại có gió nổi lên một bên, rất mau, còn bên kia thì chậm, nên tướng núi bên lõm, bên thì bằng phẳng. Hoặc khi gió nổi lên kích sâu vào, rồi hoàn phục lại như cũ, còn tạo thành những thế núi có cao hiểm trở có hang động. Như có gió kích mạnh sâu vào dưới đáy thì không hoàn lại xuất ra nữa. Trong núi lại trống rỗng do có gió này cho nên khởi thành đất, của bốn thiên hạ, hoặc là sâu vào hoặc cao chót vót có chỗ hiển hiện, cao đến tám vạn do tuần, có chỗ rất sâu bốn vạn do tuần. Lại có chỗ khác cao bốn vạn do tuần, sâu hai vạn do tuần. Lại có chỗ khác cao hai vạn do tuần, sâu một vạn do tuần, sâu năm ngàn do tuần, hoặc lại có chỗ cao năm ngàn do tuần, sâu hai ngàn năm trăm do tuần, hoặc lại có chỗ cao hai ngàn năm trăm do tuần, sâu một ngàn hai trăm năm mươi do tuần hoặc lại có chỗ cao một ngàn hai trăm năm mươi do tuần, sâu sáu trăm hai mươi lăm do tuần hoặc lại cao sáu trăm hai mươi lăm do tuần sâu ba trăm mười hai rưỡi do tuần bằng phân nữa.
Lấy nhân duyên này tất cả khí thế giới nổi lên làm thành. Lúc ấy hai loại giới khởi mạnh là hỏa giới và địa giới. Phong giới nổi lên thổi lửa thiêu đốt lan tràn trên địa giới, gió thì hằng thổi tất cả vật khiến cho thành cứng chắc, đã cứng chắc rồi tất cả các loại báu quí đều hiển hiện, đã hiển hiện rồi thì trời mưa cam lồ lớn như tòa lầu rồi từ từ nhỏ như bánh xe, nhẫn đến như trục xe, hoặc là như nước chảy vô số ngàn năm, biến đầy khắp thành Thiện kiến, lại ao Na đà, ao Chúng xa, ao Ác vi, ao Tạp hoa, biển lớn bên trong, biển Do Càn-đà, biển Y sa đà; biển Khư la đê, biển Thiện kiến, biển Mã Nhĩ, biển Tỳ na đa, biển Ni dân đà, châu thổ giữa tứ thiên hạ ngoài biển lớn. Do nhân duyên này tất cả thế giới nước đều biến khắp. Thế là cõi trời Đao lợi và cõi trời Tứ thiên vương, xả bỏ báo trên cõi trời mà thọ sanh trong đây. Lại có chư thiên mạng chung phước hết, từ trên trời rơi xuống trong thiên hạ mà thọ sanh trong loài người. Lúc đó mọi người lấy hỷ lạc làm thức ăn, sống bằng hỷ lạc, ý sanh hóa thân tự nhiên có ánh sáng sống an lạc, bay đi trong không trung. Lúc đó mặt trăng và mặt trời chưa xuất hiện nơi thế gian, tinh tú cũng chưa có; ngày đêm chưa phân định, chưa phân biện được năm tháng, và bốn thời tám tiết. Nam nữ không khác nhau cũng không có cha mẹ, anh em chị em, vợ chồng con cái không có nô tỳ, không có chủ cả, đồng thọ dụng tự tại hoan lạc, chưa có họ tên, đều đồng một hiệu là chúng sanh. Lúc đó nước hơi hơi giảm chảy xuống chỗ dưới, khi đó trong biển lớn lúc tăng nước lên, lúc giảm nước xuống, những nơi mà sông ngòi, nguồn nước chảy giảm bớt, có đất phì nhiêu xuất ra vị rất ngon nhiều, vị cam lộ, sanh trưởng nhiều che khắp mặt đất, màu sắc, hương thơm, xúc chạm, mùi vị, các món ưa thích đó đầy đủ, ngọn ngào như mật ong. Đất không có khô cằn, mặt đất phì nhiêu có mùi thơm cũng lại như vậy. Lúc đó mùi vị hương thơm sung mãn thời có một người ngữi mùi thơm này, khởi tâm ham muốn, tâm ham muốn khởi lên rồi, chỉ nhớ nghĩ đến mùi vị thơm mà nếm thử xem ngon không! Khi ấy biết là mùi thơm ngon ngọt như mật ong, mới đi truyền lan ra cho người khác ăn loại đất thơm ngon này. Cho đến nhiều người thấy người đó ăn ngon không nhàm chán cùng nhau dốc sức truyền nhau mà ăn, khi ấy mọi người mùi vị đất thơm rồi, thân bắt đầu cứng và nặng, và từ đây về sau, không thể như trước mà bay được trong không trung, lúc đó ánh sáng khả ái trên thân nhân đây mà mất hết, đã mất hết ánh sáng rồi, thì hắc ám tối tăm lại sanh ra. Xưa nay pháp vốn như vậy, lúc tứ thiên hạ hắc ám, thì mặt trời, mặt trăng cả hai luân phiên nhau mà xuất hiện nơi đời, khi mặt trời mặt trăng xuất hiện rồi, thì sao tinh tú thứ tự xuất hiện rồi thì ngày và đêm có phân ra, ngày đêm phân ra rồi, nữa tháng, một tháng là lúc bấy giờ hiển hiện rõ ràng; nữa tháng, một tháng đã hiển hiện rồi bốn thời tám tiết và dùng niên tuế đều đầy đủ. Như thế là rất nhiều thế gian khởi thành. Như vậy trãi qua nhiều thời gian lâu sáu mươi tiểu kiếp cuối cùng cũng đã qua; khi ấy chúng sanh ăn mùi vị đất nầy dựa vào mùi vị đất mà trụ thời gian lâu dài. Chúng sanh trong đây ăn vị nhiều đất vị nên thân hình thô tục xấu xí. Ít có uy đức, ít lực thần thông Còn chúng sanh trong đó ăn ít vị đất thì hình sắc dễ thương xinh đẹp thân có uy đức, thần lực tự tại.
Do nhân duyên nầy nên tất cả chúng sanh hình sắc, có hơn kém, xấu, đẹp. Do có hơn kém sanh tâm hơn thua, nên mới nói rằng: Ta nay hơn ngươi ngươi không bằng ta, do đó pháp ác bắt đầu hành chuyển đời. Vì tính toán hơn thua nên mùi vị màu sắc, hương thơm của đất từ đây mà mất. Lúc ấy mọi người tụ họp lại buồn rầu, khổ não cất tiếng kêu khóc, than ôi pháp ác đã xuất hiện nơi đời! Nhân vì hình sắc cho nên kiêu mạn chê bai kẻ khác. Do ác pháp nầy mà ta mất đi mùi vị thắng diệu, không thể nghĩ bàn, hình sắc mùi hương, xúc chạm v.v… Mọi người lúc đó ăn mùi vị ngon khác sanh ra nhớ nghĩ mà nói rằng: Ôi! Hơi giống mùi vị đất ta ăn thuở xưa nhớ lại chỉ thêm buồn khổ. Lời nói ấy đến nay đều đã quên mất rồi, không còn người nhớ nghĩ đất có mùi vị ngon mà nói như vậy nữa. Mùi vị này mất rồi lại có mùi vị khác gọi là da của đất sắc thơm, xúc chạm nếm thử mùi vị đều ngon ngọt như mật ong, khi bấy giờ mọi người đều đến lấy ăn, dựa vào sự ăn uống được sống trong thời gian dài. Trong đó mọi người tham luyến mùi vị này, ăn nhiều da đất, nên hình dạng xấu xí, uy đức mõng mảnh. Sức thần thông kém, và sức lực kém. Trong đó lại có chúng sanh do ăn ít mùi vị đó, nên hình sắc khả ái thân có uy đức thần lực tự tại. Vì nhân duyên này mà tất cả chúng sanh hình sắc có hơn kém, do sự hơn kém, tâm có hơn thua. Cho nên nói rằng: Ta nay hơn ngươi, ngươi không sánh kịp ta; đây, pháp hành chuyển nơi đời, tính toán hơn thua. Vì vậy, màu sắc hương vị của da đất từ đây mà mất hẳn.
-HẾT-