LUẬN CỨU CÁNH NHẤT THỪA BẢO TÁNH
SỐ 1611
Hán dịch: Tam Tạng Lặc-Na-Ma-Đề Đời Hậu Ngụy
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
QUYỂN 1
I. PHẦN LUẬN BỔN
Phẩm thứ 1: GIÁO HÓA
Nay con đều quy mạng,
Tất cả Đấng Vô thượng,
Vì mở tạng Pháp vương,
Lợi rộng chư quần sinh.
Pháp Thắng diệu Chư Phật,
Chê bai là phi pháp,
Ngu si không Trí tuệ,
Mê cả tà và chánh.
Người Trí tuệ đầy đủ,
Khéo phân biệt tà chánh,
Người soạn luận như vậy,
Không trái với chánh pháp.
Thuận Bồ-đề ba thừa,
Trị phiền não ba cõi,
Tuy là đệ tử tạo,
Chánh lấy, tà thì bỏ.
Khéo thuyết nghĩa, danh, cú,
Công đức đầu, giữa, sau,
Người trí nghe nghĩa nầy,
Không lấy các pháp khác.
Như con biết ý Phật,
Trụ vững sâu nghĩa chánh ,
Người tu hành như thật,
Thì đồng như lời Phật.
Tuy không lời trau chuốt,
Nhưng có nghĩa chân thật,
Pháp kia nên thọ trì,
Như lấy vàng, bỏ đá.
Nghĩa mầu như vàng thật,
Lời khéo như gạch ngói,
Y Danh không y nghĩa,
Người đó vô minh mù.
Nương nghiệm chướng tội mình,
Chê bai pháp mầu Phật,
Những hạng người như vậy
Đều bị Chư Phật quở.
Hoặc lấy tâm người khác,
Hủy chê pháp mầu Phật,
Những hạng người như vậy,
Đều bị Chư Phật quở.
Vì các thứ cúng dường,
Chê bai pháp mầu Phật,
Những hạng người như vậy
Đều bị Chư Phật quở.
Ngu si và ngã mạn,
Ưa thành pháp tiểu thừa,
Chê pháp và pháp Sư,
Đều bị Chư Phật quở.
Hiện oai nghi bên ngoài,
Không biết Như lai giáo,
Chê pháp và pháp sư,
Đều bị Chư Phật quở.
Vì mong cầu tiếng tăm,
Nên khởi các dị thuyết,
Chê pháp và pháp sư,
Đều bị Chư Phật quở.
Nói trái nghịch với kinh,
Cho là nghĩa chân thật,
Chê pháp và pháp sư,
Đều bị Chư Phật quở.
Cầu lợi dưỡng nhiếp chúng,
Người cuồng hoặc không biết,
Chê pháp và pháp sư,
Đều bị Chư Phật quở.
Phật quán sát như vậy,
Chúng sinh tội cực ác,
Tâm Từ Bi tự tại,
Vì nói pháp trừ khổ.
Trí sâu từ bi lớn,
Làm lợi ích như thế,
Con nói không cầu lợi,
Vì chánh pháp trụ lâu.
Phẩm thứ 2: PHẬT BẢO
Thể Phật không mé trước,
Và mé sau cũng không,
Cũng không có mé sau,
Vắng lặng tự chứng biết.
Đã tự giác biết rồi,
Vì muốn cho người biết,
Cho nên nghe người nói,
Đạo Vô úy thường hằng.
Phật giữ chắc đạo ấy,
Dao trí tuệ Từ bi,
Và chày Kim cương mầu,
Cắt đứt các mầm khổ.
Phá các núi kiến chấp,
Che khuất ý điên đảo,
Và tất cả rừng rậm,
Nên nay con kính lễ.
Phẩm thứ 3: PHÁP BẢO
Chẳng có cũng chẳng không,
Cũng lại chẳng có không,
Cũng chẳng tức là kia,
Lại cũng không lìa pháp.
Suy lường không thể đắc,
Chẳng phải cảnh Văn tuệ,
Lìa ngoài đường ngôn ngữ,
Nội tâm biết mát mẻ.
Mặt trời pháp mầu kia,
Thanh tịnh không bụi nhơ,
Trí tuệ sáng rực rỡ,
Chiếu phá các thế gian.
Xua tan các ám chướng,
Giác quán tham sân si,
Tất cả phiền não thảy
Nên nay con kính lễ.
Phẩm thứ 4: TĂNG BẢO
Bậc Chánh giác Chánh tri,
Thấy tất cả chúng sinh,
Thanh tịnh không có ngã,
Mé vắng lặng chân thật.
Vì biết chúng sinh kia,
Tâm tự tánh thanh tịnh,
Thấy phiền não không thật,
Nên lìa các phiền não.
Người trí tịnh vô chướng,
Thấy chúng sinh như thật,
Tự tánh tánh thanh tịnh,
Cảnh giới Phật pháp Tăng.
Người trí tịnh vô ngại,
Thấy tánh các chúng sinh,
Khắp vô lượng cảnh giới,
Nên nay con kính lễ.
Hỏi: Dựa vào pháp gì mà có Tam bảo nầy?
Đáp: Kệ rằng:
Chân như có tạp cấu,
Và xa lìa các cấu,
Phật vô lượng công đức,
Và Nghiệp mà Phật làm.
Cảnh giới mầu như vậy,
Sở tri của Chư Phật,
Nương Pháp thân mầu nầy,
Mà sinh ra Tam bảo.
Phẩm thứ 5: TẤT CẢ CHÚNG SANH CÓ NHƯ LAI TẠNG
Hỏi: Làm sao biết được tất cả chúng sinh có Như lai tạng ?
Đáp: Kệ rằng:
Tất cả cõi chúng sinh,
Không lìa trí Chư Phật,
Vì tịnh vô cấu kia,
Thể tánh vốn không hai.
Nương tất cả Chư Phật,
Thân pháp tánh bình đẳng,
Biết tất cả chúng sinh,
Đều có Như lai tạng.
Lại nữa, nói lược kệ rằng:
Thể và nghiệp nhân quả,
Tương ưng và do hành,
Thời sai khác khắp xứ,
Không đổi không sai khác.
Thứ lớp nghĩa mầu ấy,
Chân pháp tánh bậc nhất,
Ta nói lược như thế,
Nay ông nên khéo biết.
Hỏi: Kệ nầy nói nghĩa gì ?
Đáp Kệ rằng:
Tự tánh thường không nhiễm,
Như báu không tịnh thủy,
Tín pháp và Bát-nhã,
Tam-muội đại bi thảy.
Tịnh, ngã, lạc thường thảy,
Quả công đức bờ kia,
Chán khổ cầu Niết-bàn,
Các nghiệp mong cầu thảy.
Nước vật báu biển cả,
Vô lượng không thể hết,
Như đèn sáng soi sắc,
Tánh công đức như vậy.
Bậc kiến thật nói ra,
Phàm phu, Thánh, Nhân, Phật,
Chúng sinh Như lai tạng,
Chân như không sai khác.
Có bất tịnh, tạp tịnh,
Cho đến thiện tịnh thảy,
Nói thứ lớp như vậy,
Chúng Sinh, Bồ-tát, Phật.
Như hư không trùm khắp,
Nhưng không, chẳng phân biệt,
Tâm tự tánh vô cấu,
Cũng khắp vô phân biệt.
Như hư không đến khắp,
Thể bất nhiễm hạt bụi,
Phật tánh khắp chúng sinh,
Các phiền não không nhiễm .
Như tất cả thế gian,
Nương hư không sinh diệt,
Nương vào cõi vô lậu,
Có các căn sinh diệt.
Lửa chẳng đốt hư không,
Nếu đốt không việc ấy,
Như vậy già, bệnh, chết,
Không thể đốt Phật tánh.
Đất nương vào nước trụ,
Nước lại nương vào gió,
Gió nương vào hư không,
Hư không chẳng nương đất.
Như vậy ấm, giới, căn,
Trụ trong nghiệp phiền não,
Các nghiệp phiền não thảy,
Nương tư duy bất thiện.
Hành tư duy bất thiện,
Trụ trong tâm thanh tịnh,
Tự tánh tâm thanh tịnh,
Không trụ các pháp đó.
Ấm, nhập, giới như đất,
Nghiệp phiền não như nước,
Không chánh niệm như gió,
Cõi tâm tịnh như không.
Nương tánh khởi niệm tà,
Niệm khởi nghiệp phiền não,
Dựa nhân nghiệp phiền não
Khởi lên ấm, giới, nhập.
Nương dựa vào ngũ ấm,
Các pháp giới, nhập thảy,
Mà các căn sinh diệt,
Như thế giới thành hoại.
Tâm tịnh như hư không,
Không nhân lại không duyên,
Không có nghĩa hòa hợp,
Cũng không sinh trụ diệt.
Tâm tịnh như hư không,
Thường sáng không chuyển biến,
Vì phân biệt luống dối,
Khách trần phiền não nhiễm.
Đại Bồ-tát,
Biết Phật tánh như thật ,
Chẳng sinh cũng chẳng diệt,
Cũng không già, bệnh thảy…
Bồ-tát biết như vậy,
Được lìa khỏi sinh tử,
Vì thương xót chúng sinh,
Nói về có sinh diệt.
Thân Phật không đổi khác,
Vì đắc pháp vô tận,
Chỗ chúng sinh quy y,
Vì không có bờ mé.
Thường trụ pháp không hai,
Vì lìa phân biệt vọng,
Hằng không chấp, không làm,
Vì lực tâm thanh tịnh.
Pháp thân và Như lai,
Thánh đế và Niết-bàn,
Công đức không lìa nhau,
Như sáng không lìa nhật.
Phẩm thứ 6: VÔ LƯỢNG PHIỀN NÃO TRÓI BUỘC
Chư Phật trong hoa héo,
Mật ngọt trong bầy ong,
Ruột quả bọc trong vỏ,
Vàng ròng trong phân uế.
Kho báu trong lòng đất,
Mầm non trong hạt quả,
Áo cũ mục bẩn rách,
Trong gói tượng vàng ngọc.
Cô gái nghèo xấu xí,
Mang thai Vua Chuyển Luân,
Trong khuôn bị nướng đen,
Có tượng báu qúy giá.
Chúng sinh tham sân si,
Vọng tưởng phiền não thảy,
Trong các cấu trần lao
Đều có Như lai tạng.
Hoa ong bao phẩn uế,
Đất, quả, áo cũ rách,
Cô gái nghèo, khuôn bùn,
Tương tự phiền não cấu.
Phật, mật, thật vàng ròng,
Ngà báu, kim tượng vương,
Tượng báu thượng diệu thảy,
Tương tự Như lai tạng.
Hỏi: Dụ “Hoa” và “Phật” để nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói “Hoa héo” là dụ cho phiền não. Nói “Chư Phật” là dụ cho Như lai tạng. Kệ rằng:
Công đức trang nghiêm Phật,
Trụ trong nụ hoa héo,
Thiên nhãn tịnh thì thấy,
Bỏ hoa hiển Chư Phật.
Phật nhãn quán Tự Pháp,
Khắp tất cả chúng sinh,
Xuống đến ngục A-tỳ ,
Đầy đủ Như lai tạng.
Tự ở cõi thường trụ ,
Dùng phương tiện từ bi,
Khiến tất cả chúng sinh,
Xa lìa các chướng ngại.
Như trong hoa héo úa,
Có Chư Phật Như lai,
Người thiên nhãn thấy biết,
Trừ bỏ hoa lá héo.
Như lai cũng như vậy,
Kiến, tham phiền não cấu,
Trong chúng sinh bất tịnh,
Đầy đủ Như lai tạng,
Dùng tâm đại từ bi,
Thương xót khắp thế gian.
Vì tất cả chúng sinh,
Trừ hoa lá phiền não.
Hỏi: Thí dụ “mật ong” để nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói “bầy ong” là dụ cho các phiền não, nói “mật ngọt” là dụ cho Như lai tạng. Kệ rằng:
Mật vị ngon thượng diệu,
Bị bầy ong vây quanh,
Người cần lập phương tiện,
Đuổi ong mà lấy mật.
Như lai cũng như vậy,
Dùng mắt Nhất thiết trí,
Thấy các ong phiền não,
Vây quanh mật phật tánh.
Dùng sức phương tiện lớn,
Xua tan ong phiền não,
Hiển bày Như lai tạng,
Như lấy mật thọ dụng.
Giống như trăm ngàn ức,
Na-do-tha côn trùng,
Che ngăn mật thơm ngon,
Không ai đến gần được.
Người có trí cần mật,
Xua tan bầy ong kia,
Lấy mật ngọt thượng vị,
Tùy ý mà thọ dụng.
Trí vô lậu như mật,
Ở trong thân chúng sinh,
Phiền não như ong độc,
Bị Như lai giết hại.
Hỏi: “Ruột quả bọc trong vỏ”, thí dụ để nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói “bọc trong vỏ” là dụ các phiền não. Nói “ruột bên trong của quả” là dụ cho Như lai tạng. Kệ rằng:
Hạt gạo trong vỏ trấu,
Không ai thọ dụng được,
Khi có người cần dùng,
Tìm cách lột bỏ vỏ.
Phật thấy các chúng sinh,
Thân có tánh Như lai,
Vỏ phiền não bao bọc,
Không thể làm Phật sự.
Dùng sức phương tiện thiện,
Khiến chúng sinh ba cõi,
Trừ các vỏ phiền não,
Tùy ý làm Phật sự.
Như lúa ngũ cốc thảy,
Không lìa các vỏ bọc,
Ruột bên trong chưa sạch,
Không tùy ý ăn dùng.
Như vậy Như lai tạng,
Không lìa vỏ phiền não,
Khiến tất cả chúng sinh,
Bị phiền não đói khát.
Phật, Pháp vương tự tại,
Ở trong thân chúng sinh,
Hiển thị dùng vị ái,
Trừ khổ đói khát kia.
Hỏi: Thí dụ “Vàng” trong “Phẩn” để nói về nghĩa gì?
Đáp: Thí dụ về “phẩn uế” là nói các tương tự phiền não. Thí dụ “vàng ròng” là nói tương tự Như lai tạng. Kệ rằng:
Như người đi đường xa,
Làm rơi vàng trong phẩn,
Trải qua trăm ngàn năm,
Vẫn như xưa không đổi.
Thiên nhãn tịnh thấy rồi,
Bảo cho mọi người biết,
Trong đó có vàng ròng,
Ông hãy lấy về dùng.
Phật quán tánh chúng sinh,
Chìm trong phân phiền não,
Vì muốn cứu vớt họ,
Mà mưa pháp vi diệu.
Như tại đất bất tịnh,
Làm rơi khối vàng ròng,
Thiên nhãn thấy rõ,
Chúng sinh không thể biết.
Chư thiên đã thấy rồi,
Nói cho ai nấy biết,
Dạy cách trừ dơ bẩn,
Được dùng vàng ròng sạch.
Vàng Phật tánh cũng vậy,
Rơi trong phiền não nhơ,
Như lai quán sát rồi,
Nói pháp tịnh cho nghe.
Hỏi: Thí dụ kho Báu trong Đất để nói về nghĩa gì?
Đáp: Thí dụ “Đất” là nói về tương tự phiền não, thí dụ “kho Báu” là nói tương tự Như lai tạng. Kệ rằng:
Thí như nhà người nghèo,
Đất có kho châu báu,
Người đó không biết được,
Báu cũng không nói được.
Chúng sinh cũng như vậy
Trong ngôi nhà tự tâm,
Có chẳng thể nghĩ bàn,
Kho Pháp bảo vô tận.
Tuy có kho báu nầy,
Nhưng không thể tự biết,
Do không hề hay biết,
Chĩu khổ nghèo sinh tử.
Ví như kho châu báu,
Trong nhà người nghèo kia,
Người không nói mình nghèo,
Báu không nói tôi đây.
Kho Pháp báu như vậy,
Trong tâm của chúng sinh,
Chúng sinh như người nghèo,
Phật tánh như kho báu.
Vì muốn giúp chúng sinh,
Có được châu báu ấy,
Chư Phật, Như lai kia
Xuất hiện ở thế gian.
Hỏi: Thí dụ “Mầm trong Quả” để nói về nghĩa gì?
Đáp: Thí dụ “vỏ quả” là nói về tương tự phiền não. Thí dụ “hạt mầm” là nói về tương tự Như lai tạng. Kệ rằng:
Như các cây có trái,
Hạt mầm không hư thối,
Gieo xuống đất, tưới nước,
Sinh trưởng thành cây to.
Tất cả các chúng sinh,
Trong các thứ phiền não,
Đều có Như lai tánh,
Da Vô minh ràng buộc.
Gieo vào đất gốc lành,
Nẩy mầm Bồ-đề kia,
Thứ lớp dần thêm lớn,
Thành Thọ Vương Như lai.
Nương đất nước lửa gió,
Hư không và nhật nguyệt,
Trong hạt Đa-la thảy,
Sinh ra Đại thọ vương.
Tất cả các chúng sinh,
Đều cũng giống như vậy,
Trong vỏ quả phiền não,
Có hạt mầm Chánh giác.
Nương Pháp bạch tịnh thảy,
Vì có các thứ duyên,
Thứ lớp dần thêm lớn,
Thành Phật, Đại pháp vương.
Hỏi: Thí dụ Tượng vàng trong áo để nói về nghĩa gì?
Đáp: Thí dụ “áo cũ” là nói về tương tự phiền não, “Tượng vàng” là dụ cho tương tự Như lai tạng. Kệ rằng: Áo cũ gói tượng vàng,
Nằm ở giữa đường đi,
Chư Thiên nói với người,
Trong đó có tượng vàng.
Các thứ phiền não cấu,
Bao bọc Như lai tạng,
Mắt Phật thấy vô chướng,
Dưới đến ngục A-tỳ,
Đều có thân Như lai,
Vì khiến người kia được,
Rộng bày các phương tiện,
Nói các thứ pháp mầu.
Tượng vàng gói trong áo,
Đánh rơi giữa đường vắng,
Người có thiên nhãn thấy,
Nói cho mọi người biết,
Chúng sinh, Như lai tạng,
Phiền não, bao bọc,
Tại đường hiểm thế gian,
Mà không tự hay biết.
Phật nhãn quán chúng sinh,
Đều có Như lai tạng,
Nói cho nghe các pháp,
Khiến chúng sinh giải thoát.
Hỏi: Thí dụ “Cô gái nghèo và Luân vương” để nói về nghĩa gì?
Đáp: Thí dụ Cô gái nghèo là nói về các phiền não tương tự. Trong Ca-la-la bốn đại, có thân Vua chuyển luân là nói. Trong tạng Ca-la-la Sinh tử là có Như lai tạng Vua chuyển luân tương tự. Kệ rằng:
Như người nữ cô độc,
Ở tại nhà nghèo cùng,
Mang thai Vua chuyển luân,
Mà không tự hay biết.
Căn nhà nghèo cùng kia,
Ba cõi cũng như vậy,
Cô gái mang thai ấy,
Dụ chúng sinh bất tịnh.
Thai nhi ẩn trong thai,
Tánh chúng sinh cũng vậy,
Trong có tánh vô cấu ,
Gọi là chẳng cô độc.
Cô gái nghèo, áo bẩn bọc,
Rất hôi hám, chịu khổ,
Ở trong nhà cô độc,
Gánh nặng mang thai Vua.
Các phiền não như vậy,
Nhiễm ô chúng tánh sinh,
Chịu vô lượng khổ não,
Không có chỗ nương tựa.
Thật có chỗ nương tựa,
Mà không tâm nương tựa,
Không biết trong tự thân,
Vốn có Như lai tạng.
Hỏi: Thí dụ “tượng trong khuôn ” để nói về nghĩa gì?
Đáp: Thí dụ “khuôn bùn” là nói tương tự các phiền não, thí dụ “Tượng báu” là nói về tương tự Như lai tạng. Kệ rằng:
Như người nấu chảy vàng ,
Đúc vào trong khuôn đất,
Bên ngoài bùn cháy đen,
Trong có tượng vàng thật.
Thợ kia chờ khuôn nguội,
Bỏ lớp đất bên ngoài,
Mở khuôn khiến hiển hiện,
Lấy tượng báu bên trong.
Phật tánh thường sáng sạch,
Khách bụi cấu làm nhiễm,
Chư Phật khéo quán sát,
Dứt chướng khiến hiển hiện.
Tượng sáng sạch lìa cấu,
Ngay trong đất bẩn kia,
Thợ đúc biết hết nóng,
Sau đó trừ chướng đất.
Như lai cũng như vậy,
Thấy Phật tánh chúng sinh,
Rõ ràng trong phiền não,
Như tượng báu trong khuôn.
Dùng phương tiện khéo,
Khéo dùng chày nói pháp,
Phá vỡ khuôn phiền não,
Hiển bày Như lai tạng.
Phẩm thứ 7: VÌ SAO NÓI
Hỏi: Trong các Tu-đa-la (kinh) khác đều nói tất cả không, trong luận nầy vì sao nói có Chân như, Phật tánh? Kệ rằng:
Kinh chỗ nào cũng nói,
Trong ngoài tất cả không,
Pháp hữu vi như mây,
Và như mộng huyễn thảy.
Vì sao trong đây nói,
Tất cả các chúng sinh,
Đều có tánh Chân như ,
Mà không nói “vắng lặng”.
Đáp: Kệ rằng:
Vì có tâm yếu đuối,
Khinh mạn các chúng sinh,
Chấp trước pháp luống dối,
Chê Chân như thật tánh.
Chấp thân có Thần ngã,
Vì khiến chúng sinh nầy,
Xa lìa năm lỗi lầm,
Nên nói có Phật tánh.
Phẩm thứ 8: THÂN CHUYỂN THANH TỊNH THÀNH BỒ ĐỀ
Tịnh đắc và xa lìa,
Tự tha lợi tương ưng,
Nương vào rất vui sướng,
Nghĩa như kia đã làm.
Thứ nhất nói Bồ-đề của Phật và phương tiện chứng đắc Bồ-đề.
Kệ rằng:
Trước nói pháp thân Phật,
Thể tự tánh thanh tịnh,
Vì các phiền não cấu,
Bị khách trần ô nhiễm,
Thí như trong hư không
Nhật nguyệt lìa cấu tịnh,
Bị mây dầy che kín,
Bủa lưới giăng che khuất.
Công Đức Phật không dơ,
Thường hằng không thay đuổi,
Vô phân biệt các pháp,
Đắc chân trí vô lậu.
Kế là nói thể thanh tịnh vô cấu. Kệ rằng:
Như ao nước thanh tịnh,
Không có các bụi đục,
Các thứ cây tạp hoa,
Thường bao bọc xung quanh.
Như trăng rời La Hầu,
Mặt trời không mây che.
Có công đức vô cấu,
Hiển hiện ngay thể kia.
Mật Ong chúa ngon ngọt,
Vàng ròng tịnh chắc thật,
Cây quả to kho báu,
Tượng vàng thật vô cấu.
Thân vua thánh Chuyển luân,
Tượng Như lai báu diệu,
Những pháp như vậy thảy,
Tức là thân Như lai.
Kế là nói thành tựu tự lợi lợi tha. Kệ rằng:
Vô lậu và đến khắp
Pháp bất diệt thường hằng,
Mát mẻ không thay đổi,
Sống vắng lặng không lui.
Thân Chư Phật Như lai,
Như hư không vô tướng,
Vì các bậc Thắng trí,
Làm cảnh giới sáu căn.
Nói về sắc mầu nhiệm,
Xuất từ âm thanh mầu,
Khiến ngửi hương giới Phật,
Cùng nếm pháp mầu, Phật .
Khiến giác tam-muội Xúc,
Giúp biết pháp sâu mầu,
Tư duy kĩ rừng rậm,
Phật lìa tướng hư không.
Kế là nói tương ưng Đệ nhất nghĩa. Kệ rằng:
Như Không chẳng nghĩ bàn
Thường hằng và mát mẻ,
Bất biến và vắng lặng,
Lìa khắp các phân biệt.
Tất cả xứ không đắm,
Lìa thô ngại nhám rít,
Cũng không thể Kiến Thủ,
Tâm Phật tịnh vô cấu.
Kế là, nói pháp thân Phật. Kệ rằng:
Chẳng đầu, chẳng giữa sau,
Không hư hoại, Không hai,
Xa lìa cả ba cõi,
Vô cấu, vô phân biệt.
Cảnh giới sâu xa nầy,
Nhị thừa chẳng biết được,
Đủ tuệ Tam-muội thắng ,
Người như vậy thấy được.
Vượt hơn cát sông hằng,
Công đức chẳng nghĩ bàn,
Chỉ Như lai thành tựu,
Không chung với người khác.
Sắc thân Như lai đẹp,
Thể thanh tịnh không nhơ,
Xa lìa các phiền não,
Và tất cả tập khí.
Các thứ pháp thắng diệu,
Lấy ánh sáng làm Thể,
Giúp chúng sinh giải thoát,
Thường không có ngơi nghỉ.
Việc làm chẳng nghĩ bàn,
Như bảo Vương Ma-ni,
Hiện ra các thứ hình,
Nhưng Thể đó chẳng thật.
Vì thế gian nói pháp,
Nói về xứ vắng lặng,
Giáo hóa khiến thuần thục,
Thọ ký giúp nhập đạo.
Thân gương ảnh Như lai,
Nhưng không lìa bản thể,
Giống như tất cả sắc,
Chẳng lìa khỏi hư không.
Kế là nói thân Như lai thường trụ. Kệ rằng:
Thể Thế Tôn thường trụ,
Vì tu vô lượng nhân,
Chúng sinh bất tận,
Tâm Từ bi như ý.
Trí thành tựu tương ưng,
Được tự tại đối pháp đắc ,
Hàng phục các ma oán,
Thể vắng lặng nên thường.
Kế là nói tự Thể không thể nghĩ bàn. Kệ rằng:
Ngôn ngữ không nói được,
Thuộc Đệ nhất nghĩa Đế,
Lìa các địa giác quán,
Không thí dụ để nói.
Pháp thắng diệu trên hết
Không chấp có Niết-bàn,
Ba thừa không biết được,
Chỉ là cảnh giới Phật.
Phẩm thứ 9: CÔNG ĐỨC CỦA NHƯ LAI
Tự lợi cũng lợi tha,
Thân Đệ nhất nghĩa Đế,
Nương thân Chân Đế kia,
Có thể Thế đế này.
Quả thuần thục xa lìa ,
Trong đây có đầy đủ,
Sáu mươi bốn thứ pháp,
Các công đức sai khác.
Nói lược Kệ:
Phật Lực chày Kim cương,
Phá chướng người vô trí,
Như lai không sợ hãi,
Trong chúng như Sư Tử.
Pháp bất cộng Như lai .
Thanh tịnh như hư không,
Như trăng đấy nước kia,
Hai thứ kiến chúng sinh.
Thứ nhất nói mười Lực. Kệ rằng:
Quả báo xứ, phi xứ,
Nghiệp cùng với các căn,
Tánh tín đến xứ đạo,
Các thiền định lìa cấu.
Nhớ lại đời quá khứ ,
Thiên Trí nhãn vắng lặng ,
Các câu như vậy thảy,
Gọi là mười thứ Lực.
Kế là nói về chày Kim cương. Kệ rằng:
Nghiệp tánh xứ, phi xứ ,
Các Tín Căn chúng sanh ,
Các thứ tùy địa tu ,
Hơn túc mạng sai khác.
Thiên nhãn, lậu tất cả,
Phật Lực chày Kim cương,
Có thể đập vỡ nát,
Si dày như núi cao.
Kế là nói về bốn Vô úy. Kệ rằng:
Giác như thật các pháp,
Ngăn các chướng ngại đạo,
Nói đạo đắc vô lậu,
Là bốn thứ không sợ.
Đối cảnh giới nhận biết,
Rốt ráo rõ tự tha,
Tự biết dạy người biết,
Đây chẳng chướng ngại đạo.
Chứng được quả thắng diệu,
Tự đắc giúp người đắc,
Nói Đế lợi tự tha,
Là các xứ Vô úy.
Kế là nói như Sư tử đầu đàn. Kệ rằng:
Như Sư tử đầu đàn,
Tự tại trong các thú,
Thường ở trong núi rừng,
Không sợ hãi các thú.
Phật, Nhân vương cũng vậy,
Ở trong các chúng sanh,
Không sợ và khéo trụ,
Vững chắc hăng hái thảy.
Kế là nói mười tám pháp Bất Cộng của Phật. Kệ rằng:
Phật không lỗi, không tranh,
Không lỗi vọng niệm thảy,
Không chẳng định, tâm tán,
Không có các thứ tưởng.
Không tác ý hộ tâm,
Dục, tinh tấn không lui,
Niệm tuệ và giải thoát,
Tri kiến thảy không lùi.
Các nghiệp, trí là gốc,
Biết ba đời vô chướng,
Mười tám công đức Phật,
Và còn lại không nói.
Thân miệng Phật không lỗi,
Nếu người đến phá hoại,
Nội tâm tướng bất động,
Không khởi tâm, xả tâm.
Thế Tôn Dục, tinh tấn,
Niệm, trí tịnh giải thoát,
Tri kiến thường không lỗi,
Nói về cảnh nhận biết.
Tất cả các nghiệp, thảy
Trí làm gốc xiay vần,
Ba đời vô chướng ngại,
Trí rộng lớn hành thường.
Gọi là thể Như lai,
Tương ưng trí tuệ lớn,
Biết rõ Đại Bồ-đề,
Pháp thắng diệu trên hết.
Vì tất cả chúng sinh,
Xoay bánh xe pháp lớn,
Pháp vô úy thắng diệu,
Khiến chúng sinh giải thoát.
Kế là, nói nghĩa Hư không chẳng tương ưng. Kệ rằng:
Địa thủy hoả phong thảy,
Không có trong Hư không,
Trong sắc cũng không có,
Hư không chẳng ngại Pháp.
Chư Phật vô chướng ngại,
Cũng như tướng hư không,
Như lai ở thế gian,
Như địa thủy hoả phong.
Nhưng Chư Phật Như lai,
Tất cả các công đức,
Cho đến không một pháp,
Có chung với thế gian.
Kế là, nói ba mươi hai tướng Đại Nhân. Kệ rằng:
Lòng bàn chân bằng đầy,
Có hình xe nghìn căm,
Gót, lưng bàn chân dầy,
Chân nai chúa Y-ni.
Tay chân đều mềm mại,
Các ngón đều thon dài,
Có màng như ngỗng chúa,
Cánh tay thon trên xuống .
Hai vai trước sau bằng,
Phải trái đều tròn đầy,
Buông tay quá đầu gối,
Tướng âm tàng ngựa chúa.
Thân tướng cao thanh nhã,
Như cây chúa Ni-câu ,
Thể tướng bảy chỗ đầy,
Nửa trên như Sư tử,
Thế oai đức vững chắc
Giống như Na-la-diên,
Thân sắc tươi tịnh diệu,
Da mịn, sắc vàng ròng.
Sạch, mềm mại trơn láng,
Mỗi lỗ sinh mỗi lông,
Lông mềm mại hướng lên,
Đều nhỏ xoáy bên phải.
Thân sạch toả ánh sáng ,
Tướng trên Đảnh nhô cao,
Cổ như cổ chim công,
Má vuông như Sư tử.
Tóc sạch thuần sắc mượt,
Dụ như Nhân-đà-la,
Tướng lông trắng trên trán,
Toả sáng chung khuôn mặt.
Miệng có bốn mươi răng
Răng nanh trắng như tuyết,
Sâu kín, sáng trong ngoài,
Răng trên dưới bằng đều.
Tiếng Ca-lăng-tần-già.
Tiếng âm mầu sâu xa,
Thức ăn đều trôi qua
Đắc vị trung và thượng
Lưỡi mỏng rộng và dài,
Hai mắt thuần sắc xanh,
My mắt như trâu chúa,
Công đức như hoa sen,
Như vậy, gọi nhân tôn ,
Ba mươi hai tướng đẹp ,
Từng thứ không lộn lạo,
Khắp thân không thể chê.
Kế là, nói như trăng đáy nước. Kệ rằng:
Trời Thu không mây che,
Trăng trên trời đáy nước,
Tất cả người thế gian,
Đều thấy trăng sáng mạnh.
Trong vầng Phật thanh tịnh ,
Có thế lực công đức,
Phật tử thấy Như lai,
Thân công đức cũng vậy.
Phẩm thứ 10: PHẬT NGHIỆP TỰ NHIÊN KHÔNG DỪNG NGHỈ
Chúng sinh đáng hóa độ,
Dùng phương tiện giáo hóa,
Khởi nghiệp hóa chúng sinh,
Giáo hóa cõi chúng sinh.
Chư Phật, bậc tự tại,
Chúng sinh đáng hóa độ,
Thường chờ thời, chờ xứ,
Tự nhiên làm Phật sự.
Hay biết khắp Đại thừa,
Tụ công đức tối diệu,
Báu như nước biển cả,
Trí Như lai cũng vậy.
Bồ-đề rộng vô biên,
Như thế giới hư không,
Phóng vô lượng công đức,
Nhật quang trí tuệ lớn.
Chiếu khắp các chúng sinh,
Có Pháp thân Phật diệu
Chứa công đức vô cấu,
Như thân ta không khác.
Phiền não chướng, trí chướng,
Mây, sương giăng che lấp,
Gió Từ bi Chư Phật,
Thổi khiến cho tan hết.
Kế là nói thí dụ về nghiệp Đại thừa. Nói lược Kệ:
Mây trống của Đế thích,
Nhật Ma-ni Phạm thiên,
Vang đến cõi hư không,
Thân Như lai cũng vậy.
Thứ nhất nói thí dụ về Gương và bóng của Đế-thích. Kệ rằng:
Như Tỳ-lưu-ly kia,
Trong mặt đất thanh tịnh,
Thân Đế Thích Thiên Chủ,
Gương bóng hiện trong đó.
Như vậy tâm chúng sinh,
Trong mặt đất thanh tịnh,
Thân Chư Phật Như lai,
Gương bóng hiện trong đó.
Đế Thích hiện, không hiện,
Nương địa tịnh, bất tịnh,
Như vậy các thế gian,
Gương bóng hiện, không hiện.
Như lai có khởi, diệt,
Nương tâm đục, không đục,
Như vậy các chúng sinh,
Gương tgượng hiện, không hiện.
Thân Đế thích Thiên chủ,
Gương bóng có sinh diệt,
Không thể nói là có,
Chẳng thể nói là không.
Thân Như lai cũng vậy,
Gương bóng có sinh diệt,
Không thể nói là có,
Chẳng thể nói là không.
Như đất rộng cùng khắp,
Xa lìa uế cao thấp,
Đại lưu ly sáng sạch,
Công đức bình lìa cấu.
Vì Tỳ-lưu-ly kia,
Là thanh tịnh vô cấu,
Gương bóng Thiên chủ hiện,
Và vật trang nghiêm sinh.
Hoặc nam, hoặc nữ thảy,
Trong đó thấy Thiên chủ,
Và vật trang nghiêm diệu,
Khởi sinh nguyện xứ kia.
Chúng sinh vì sinh kia,
Tu hành các hạnh lành,
Trì giới và bố thí,
Rải hoa xả châu báu.
Về sau công đức tận,
Địa diệt, kia cũng diệt,
Đất tâm lưu ly tịnh,
Gương bóng Chư Phật hiện.
Các Phật tử, Bồ-tát,
Thấy Phật, tâm vui mừng,
Vì cầu đắc Bồ-đề,
Khởi nguyện tu các hạnh.
Kế là nói Bất sinh bất diệt tức là Như lai. Kệ rằng:
Như Tỳ-lưu-ly diệt,
Gương bóng kia cũng diệt,
Không thể độ chúng sinh,
Như lai không ra đời.
Đất báu Lưu ly địa tịnh,
Nói về tượng diệu Phật,
Tâm tịnh kia không hoại,
Mầm Tín căn thêm lớn.
Pháp bạch tịnh sinh diệt,
Bóng Phật cũng sinh diệt,
Như lai không sinh diệt,
Giống như vua Đế thích.
Nghiệp nầy tự nhiên có,
Thấy bình đẳng hiện tiền,
Pháp thân không sinh diệt,
Thường trụ tận các cõi.
Kế là, nói thí dụ về trống vi diệu trong Chư Thiên. Kệ rằng:
Tiếng trống pháp mầu trời,
Nương tự nghiệp mà có,
Pháp âm của Chư Phật,
Chúng sinh tự nghiệp nghe.
Như tiếng diệu xa lìa,
Công dụng trong thân tâm,
Khiến tất cả chư thiên,
Lìa sợ được vắng lặng.
Tiếng Phật cũng như vậy,
Lìa công dụng thân tâm,
Khiến tất cả chúng sinh,
Được chứng đạo vắng lặng.
Khi chúng thiên chiến đấu,
Phá sức mạnh Tu-la,
Nhờ trống phát âm thanh,
Khiến Tu-la lui tan.
Như lai vì chúng sinh,
Diệt các khổ phiền não,
Vì thế gian nói pháp,
Dạy đạo thiền định thắng.
Kệ kế là nói tất cả người thế gian không biết tội lỗi của mình. Kệ rằng:
Điếc không nghe tiếng nhỏ,
Thiên Nhĩ nghe không khắp,
Day cảnh giới bậc trí,
Do nghe tâm không nhiễm.
Kế là nói thí dụ về mây và mưa. Kệ rằng:
Biết có khởi tâm Bi,
Đầy khắp ở thế gian,
Trì định, tạng vô cấu,
Phật mưa tưới nhân tịnh.
Thế gian nương nghiệp thiện,
Nương vào sanh mây mưa
Nương bi thảy thêm lớn,
Mây mưa pháp mầu Phật.
Kế là nói nương vào Khí thế gian, vị nước mưa biến hoại. Kệ rằng:
Ví như trong hư không,
Mưa nước tám công đức,
Đến trụ xứ mặn thảy,
Sinh các vị khác nhau.
Mây Từ bi Như lai,
Mưa nước tám Thánh đạo,
Đến chỗ tâm chúng sinh,
Sinh các vị giải thoát.
Kế là nói tâm sai khác. Kệ rằng:
Tin vào Đại thừa mầu,
Và Trung thừa chê pháp,
Người ngăn nhiều chim, quỷ,
Ba nhóm nầy tương tự.
Chúng sinh nhóm chánh định,
Nhóm tập khí Bất định,
Nhóm thân kiến tà định,
Tà kiến trôi sinh tử.
Mùa thu không mây mưa,
Người không chim chịu khổ,
Mùa Hạ nhiều nước mưa,
Đốt quỷ khiến chịu khổ
Phật hiện đời, không hiện,
Mây Bi tuôn mưa pháp,
Tin pháp khí năng đắc,
Chê pháp có không nghe.
Kế là nói về Bất hộ chúng sinh. Kệ rằng:
Trời mưa như trục xe,
Mưa xuống khắp mặt đất,
Mưa đá, sét nổ đá,
Kim cương nổ nhá lửa.
Không hộ trùng nhỏ nhít,
các cây quả núi rừng,
Cỏ lúa, lương thực thảy,
Người đi nên không mưa.
Như lai cũng như vậy,
Đối chúng sinh thô tế,
Tương ưng các phương tiện,
Mây mưa Bát-nhã Bi.
Các tập khí phiền não,
Chúng sinh Ngã, tà kiến ,
Chủng loại như vậy thảy,
Nhất thiết trí không hộ.
Kế là, nói dập tắt lửa khổ. Kệ rằng:
Biết bệnh, lìa nhân bệnh,
Chọn tu thuốc vô bệnh,
Khổ Nhân Diệt Đạo kia,
Biết lìa xúc tu thảy.
Sinh tử đời vô thỉ,
Trôi lăn trong năm đường,
Trong năm đường thọ vui,
Như phẩn thối mục rã.
Xúc nóng lạnh bức thảy,
Các khổ rốt ráo có,
Vì khiến trừ diệt khổ,
Trên mưa to pháp mầu lớn.
Biết chư Thiên lui, khổ,
Trong loài người cầu khổ,
Người có trí không cầu,
Trời, người tự tại vui.
Người tuệ tin lời Phật,
Đã tin thì biết khổ,
Lại cũng biết nhân khổ,
Quán diệt và biết đạo.
Kệ kế là nói thí dụ về Phạm Thiên. Kệ rằng:
Phạm thiên Quá khứ nguyện,
Nương nghiệp tịnh chư Thiên,
Phạm Thiên tự nhiên hiện,
Thân Hóa Phật cũng vậy.
Trong Phạm Cung bất động,
Thường hiện ở cõi Dục,
Chư Thiên thấy sắc mầu,
Mất cảnh giới năm dục.
Pháp thân Phật bất động,
Mà thường hiện thế gian,
Chúng sinh thấy vui mừng,
Không thích vui các cõi.
Kế là nói Hữu hiện và bất hiện. Kệ rằng:
Từ Trời lui nhập thai,
Hiện đời có cha mẹ,
Tại gia hiện trẻ thơ,
Học tập các kỹ nghệ.
Vui đùa và dạo chơi,
Xuất gia hành khổ hạnh,
Hiện đến học ngoại đạo,
Hàng phục các Thiên ma.
Thành Phật xoay pháp luân,
Dạy đạo, nhập Niết-bàn,
Các chúng sinh phước mỏng,
Không thể thấy Như lai.
Kế là, nói thí dụ về mặt trời. Kệ rằng:
Như mặt trời mới mọc,
Chiếu khắp các hoa sen,
Có hoa đồng thời nở,
Cũng có khép cùng lúc.
Phật nhật cũng như vậy,
Chiếu tất cả chúng sinh,
Có trí như hoa nở,
Có tội như hoa khép.
Mặt trời chiếu hoa nước,
Mặt trời vô phân biệt,
Mặt trời Phật cũng vậy,
Soi chiếu vô phân biệt.
Kế tiếp Kệ rằng:
Mặt trời hiện thế gian,
Ngàn tia lần lượt chiếu,
Trước chiếu trên núi cao ,
Sau đó vừa và thấp.
Mặt trời Phật cũng vậy,
Lần lượt chiếu thế gian,
Trước chiếu các Bồ-tát,
Sau đó các chúng sinh.
Kế là, nói vầng ánh sáng không đồng. Kệ rằng:
Hai pháp Thân Sắc, Trí,
Thân đại bi như không,
Chiếu khắp các thế gian,
Phật không đồng mặt trời.
Mặt trời không chiếu khắp,
Các cõi nước Hư không,
Không phá tối Vô minh,
Không bày, sao biết cảnh!
Phóng các thứ màu sắc,
Mây ánh sáng giăng lưới,
Hiển Thể đại từ bi,
Cảnh giới Chân như diệu.
Phật vào thành, xóm làng,
Người không mắt được mắt,
Thấy Phật được lợi lớn,
Cũng diệt các pháp ác.
Vô minh trùm các cõi,
Tà kiến, chướng đen tối,
Mặt trời Phật chiếu sáng,
Thấy Tuệ chưa thấy Xứ.
Kế là, nói thí dụ về châu Ma-ni. Kệ rằng:
Cùng lúc ở một chỗ,
Đầy đủ ý mong cầu,
Báu Ma-ni vô tâm,
Nhưng mãn nguyện chúng sinh.
Đại pháp vương tự tại ,
Đồng trụ trong tâm Bi ,
Chúng sinh nghe các thứ,
Tâm Phật vô phân biệt.
Kế là, nói thí dụ về tiếng vang. Kệ rằng:
Vị như các tiếng vang,
Nương cái khác được khởi,
Tự nhiên vô phân biệt,
Không trụ trong trụ ngoài.
Tiếng Như lai cũng vậy,
Tâm y tha mà khởi,
Tự nhiên vô phân biệt,
Không trụ trong trụ ngoài.
Kế là, nói thí dụ về Hư không. Kệ rằng:
Không vật chẳng thể thấy,
Không quán, chẳng nương dựa,
Vượt cảnh giới Nhãn thức,
Vô sắc, chẳng thể thấy.
Trong Không thấy cao thấp,
Mà Không, chẳng như vậy,
Trong Phật thấy tất cả,
Nghĩa đó cũng như vậy.
Kế là, nói thí dụ về địa. Kệ rằng:
Tất cả các thảo mộc,
Nương dựa mặt đất mọc,
Đất không tâm phân biệt,
Mà thêm lớn thành tựu.
Gốc lành tâm chúng sanh,
Nương vào đất Phật sinh,
Tâm Phật vô phân biệt,
Mà thêm rộng thành tựu,
Tiếng Phật giống tiếng vang,
Lấy không danh tự nói,
Thân Phật như hư không,
Khắp không thể thường thấy.
Như các pháp nương đất,
Tất cả các thuốc hay,
Vì khắp các chúng sinh,
Không giới hạn người nào.
Các pháp nương đất Phật ,
Pháp dược bạch tịnh diệu,
Khắp vì các chúng sinh,
Không giới hạn người nào.
Phẩm thứ 11: GIẢO LƯỢNG TÍN CÔNG ĐỨC
Phật tánh, Bồ-đề Phật,
Pháp Phật và nghiệp Phật,
Những người xuất thế Tịnh,
Điều không thể nghĩ bàn.
Cảnh giới Chư Phật này,
Nếu có người tin được,
Được vô lượng công đức,
Hơn tất cả thế gian,
Nếu có người xả được,
Các châu báu ma-ni
Thí khắp mười phương cõi
Vô lượng cõi nước Phật.
Vì cầu Bồ-đề Phật,
Cúng dường các Pháp Vương,
Người đó thí như vậy,
Vô lượng Hằng sa kiếp.
Nếu lại có người nghe,
Một câu cảnh giới mầu,
Nghe rồi có thể tin,
Phước vô lượng hơn Thí.
Nếu có người trí tuệ,
Vâng giữ giới Vô thượng,
Nghiệp thân miệng ý tịnh,
Tự nhiên thường hộ trì.
Vì cầu Bồ-đề Phật,
Vô lượng kiếp như vậy,
Phước mà người đó được,
Là không thể nghĩ bàn.
Nếu lại có người nghe,
Một câu cảnh giới mầu,
Nghe rồi có thể nói,
Phước vô lượng hơn giới.
Nếu người nhập Thiền định,
Đốt phiền não ba cõi,
Hơn trời hành giải thoát,
Không phương tiện Bồ-đề.
Nếu lại có người nghe,
Một câu cảnh giới mầu,
Nghe rồi có thể tin,
Phước vô lượng hơn Thiền.
Người không Tuệ hay xả,
Chỉ được báo giàu sang,
Người tu trì giới cấm,
Được sinh trong trời, người.
Tu hành dứt các chướng,
Bi tuệ không thể trừ,
Tuệ trừ phiền não chướng,
Cũng khéotrừ trí chướng.
Nghe pháp thành nhân tuệ,
Nên nghe pháp cao siêu,
Huống chi nghe pháp rồi,
Mà sinh được tâm tín.
Pháp mà ta nói đây,
Là tự tâm thanh tịnh,
Nương vào Như lai giáo,
Tương ưng Tu-đa-la.
Nếu có người trí tuệ,
Nghe hiểu và tin nhận,
Pháp mà Ta nói đây,
Cũng vì độ người đó.
Nương đèn chớp Ma-ni,
Các ánh sáng trời trăng,
Tất cả người có mắt,
Đều thấy được cảnh giới.
Nương ánh sáng pháp Phật ,
Người Tuệ nhãn thấy được,
Cho pháp hữu là lợi,
Nên ta nói pháp nầy
Nếu tất cả đã nói
Có nghĩa, có pháp cú,
Khiến cho người tu hành,
Đều xa lìa ba cõi,
Và bày pháp vắng lặng,
Đạo Vô thượng trên hết,
Phật nói chánh Kinh nầy,
Ngoài ra, nói điên đảo.
Tuy nói nghĩa pháp cú,
Dứt phiền não ba cõi,
Vô minh che mắt Tuệ,
Cấu tham thảy… trói buộc.
Lại ở trong pháp Phật,
Lấy phần ít mà nói,
Sách đời khéo nói năng,
Ba thứ kia hãy thọ.
Huống chi các Như lai,
Xa lìa cấu phiền não,
Người Trí tuệ vô lậu,
Tu-đa-la đã nói.
Vì xa lìa nơi Chư Phật,
Trong tất cả thế gian,
Lại không trí tuệ cao,
Người biết pháp như thật,
Như lai nói liễu nghĩa,
Pháp chẳng thể nghĩ bàn,
Người suy tư chê pháp,
Không biết ý của Phật.
Chê Thánh và hoại pháp,
Các tư duy tà ấy,
Người Ngu Si phiền não,
Vọng thấy điều chấp trước,
Vậy không nên chấp trước,
Các pháp cấu, tà kiến,
Đem áo sạch nhuộm màu,
Cấu bẩn không thể nhiễm.
Hỏi: Vì sao có sự hủy chê pháp nầy?
Đáp: Kệ rằng:
Ngu không tin pháp bạch,
Tà kiến và kiêu mạn,
Chướng chê Quá khứ pháp,
Chấp trước bất liễu nghĩa.
Đắm cúng dường, cung kính,
Chỉ có thấy pháp tà,
Xa lìa thiện tri thức,
Gần gũi người chê pháp.
Ưa theo pháp Tiểu thừa,
Chúng sinh như vậy thảy,
Không tin pháp Đại thừa,
Nên chê bai pháp Phật.
Người trí không nên sợ,
Kẻ thù, rắn, lửa, độc,
Nhân-đà-la, sấm sét,
Dao, gậy các thú dữ.
Cọp sói sư tử thảy,
Nó chỉ hay hại mạng,
Không khiến người bị đọa,
Ngục A-tỳ đáng sợ!
Nên sợ chê pháp sâu,
Và chê pháp tri thức,
Chắc chắn khiến đọa vào,
Ngục A-tỳ đáng sợ!
Tuy gần tri thức ác,
Làm thân Phật chảy máu,
Và giết hại cha mẹ,
Dứt mạng sống các Thánh.
Phá hoại Tăng hòa hợp,
Và dứt các gốc lành,
Do hệ niệm chánh pháp,
Giải thoát được xứ kia.
Nếu lại có người khác,
Phỉ chê pháp sâu xa,
Người đó vô lượng kiếp,
Không thể được giải thoát.
Hoặc người khiến chúng sinh,
Biết tín pháp như vậy,
Kia là cha mẹ ta,
Cũng là thiện tri thức.
Người đó là bậc Trí,
Sau khi Như lai diệt,
Bỏ tà kiến, điên đảo,
Khiến nhập vào chánh đạo.
Tánh Tam bảo thanh tịnh,
Nghiệp công đức Bồ-đề,
Ta nói lược bảy thứ,
Tương ưng với kinh Phật ,
Nương các công đức nầy,
Nguyện đến khi qua đời,
Thấy Phật Vô Lượng Tho,
Thân vô biên công đức.
Ta và người tin khác,
Đã thấy Đức Phật rồi,
Nguyện được mắt hết nhơ,
Thành Bồ-đề Vô thượng.
Luận nói: Phẩm giáo hóa thứ nhất, như trong Kệ trước đã nói, phải biết môn bàn rộng của Luận nầy có mười một phẩm, đích xác thì bảy phẩm, sơ lược thì chỉ có một phẩm.
II. PHẦN GIẢI THÍCH
Phẩm thứ 1: GIÁO HÓA
Trước giải thích một phẩm, thâu nhiếp đủ pháp nghĩa và thể tướng của Luận nầy. Nên biết. Kệ nêu:
Pháp Phật và chúng Tăng,
Tánh đạo công đức nghiệp,
Nói lược thể luận nầy,
Bảy thứ câu Kim cương.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói Kim cương, là vật khó có thể bị hủy hoại. Nghĩa chứng cũng giống như vậy, nên gọi là Kim cương. Nói câu, vì các câu của luận nầy có thể cùng với sự chứng nghĩa làm căn bản.
Hỏi: Chữ Cú nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Thể của nội thân chứng pháp là vô ngôn, dùng trí của Văn và Tư khó có thể chứng được, giống như Kim cương. Danh tự, chương câu thì dùng năng thuyên để chứng trí trong lý kia thuận theo chánh đạo, vì có thể làm căn bản nên gọi là câu. Chữ cú nầy lại có nghĩa gì? Có hai nghĩa: 1. Nghĩa khó chứng đắc. 2. Là nghĩa của nhân. Đó gọi là nghĩa, phải biết chữ câu của Kim cương là như vậy.
Hỏi: Lại nữa, thế nào gọi là nghĩa, thế nào gọi là tự?
Đáp: Nghĩa thì có bảy thứ chứng nghĩa. Thế nào là bảy nghĩa? 1. Nghĩa Phật. 2. Nghĩa pháp. 3. Nghĩa Tăng. 4. Nghĩa chúng sinh. 5. Nghĩa Bồ-đề. 6. Nghĩa công đức. 7. Nghĩa nghiệp. Đó gọi là nghĩa, cho nên trong Kinh nói: “Lại nữa, Đệ Nhất nghĩa đế, điều gọi tâm duyên cũng không thể biết được, huống chi là danh tự, chương cú”.
Hỏi: Nói chữ tự, là dùng những danh tự gì? Là dùng bảy thứ nghĩa chương cú, Ngôn ngữ, Phong thanh (tiếng gió), Năng biểu, Năng thuyết, Năng minh, Năng Thị, gọi là Tự. Cho nên kinh nói: “Lại nữa, Thế Đế, là các sự ứng dụng trong thế gian, là đã nói danh tự, chương cú, ngôn ngữ”. Lại nữa, bảy thứ nghĩa của câu Kim Cương, phải biết như trong các kinh có nói rộng.
Hỏi: Làm sao biết nương vào nghĩa Phật?
Đáp: trong Kinh Như lai bảo Tôn giả A-Nan: “Này A-Nan! gọi là Như lai, không phải là pháp có thể thấy nên nhãn thức không thể thấy được”.
Nương vào nghĩa Pháp, trong kinh Như lai bảo Tôn giả A-Nan:
“Này A-Nan ! Điều gọi là pháp, không phải là các sự có thể giảng thuyết, vì không phải sự nghe của nhĩ thức”.
Nương vào nghĩa Tăng, trong kinh Như lai bảo Tôn giả A-Nan: “Này A-Nan ! cái gọi là Tăng, tức là vô vi, cho nên thân tâm không thể cúng dường, lễ bái, khen ngợi”.
Nương vào nghĩa chúng sinh, trong kinh Như lai bảo Tôn giả Xálợi-phất: “Xá-lợi-phất! Nói chúng sinh, tức là cảnh giới của Chư Phật Như lai, tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật… dùng chánh trí tuệ cũng không thể quán sát nghĩa của chúng sinh, huống chi phàm phu có thể chứng được đạo Lý gì! Trong nghĩa nầy, thì chỉ có tin Như lai, cho nên nầy Xá-lợi-phất, tùy theo Như lai mà tin nghĩa chúng sinh nầy. Xá-lợiphất! Nói chúng sinh, tức là Đệ nhất nghĩa đế. Xá-lợi-phất! Nói Đệ nhất nghĩa đế, tức là thế giới chúng sanh. Xá-lợi-phất! Nói thế giới chúng sanh, tức là Như lai tạng. Xá-lợi-phất! Nói Như lai tạng, tức là pháp thân”.
Nương vào nghĩa Bồ-đề, trong Kinh nói: “Thế Tôn nói Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, tức là Thế giới Niết-bàn. Thế Tôn nói Thế giới Niết-bàn, tức là pháp thân”.
Nương vào nghĩa công đức, Trong kinh Như lai bảo Tôn giả Xálợi-phất: “Này Xá-lợi-phất ! Như lai nói nghĩa pháp thân, là nhiều hơn số cát sông Hằng công đức trí tuệ của Như lai không lìa không thoát, pháp Phật không thể nghĩ bàn. Này Xá-lợi-phất! Như ngọn đèn của thế gian, chiếu sáng sắc và xúc không lìa không thoát. Lại như ngọc báu Ma-ni, chiếu sáng sắc và hình tướng không lìa không thoát. Xá-lợiphất! Nghĩa của pháp thân cũng giống như vậy, công đức trí tuệ của Như lai nhiều hơn số cát sông Hằng không lìa không thoát, pháp Phật không thể nghĩ bàn”.
Nương vào nghĩa nghiệp, Trong kinh Như lai bảo Bồ tát Văn-thùsư-lợi: “Này Văn-thù-sư-lợi! Như lai vô phân biệt, chẳng phân biệt là vô phân biệt mà tự nhiên vô phân biệt, vì như sự tạo nghiệp tự nhiên hiện hành”. Những thứ như vậy gọi là nói lược bảy thứ Kim cương tự cú, nên biết là thâu nhiếp Thể, tướng của luận nầy. Vì thế nói Kệ:
Thứ lớp bảy thứ Tướng,
Tổng trì tự tại vương,
Bồ-tát, Tu-đa-la,
Phần tựa có ba câu,
Còn thừa lại bốn câu,
Tại Bồ-tát, Như lai,
Phần trí tuệ sai khác,
Phải nên biết như vậy.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Là do bảy thứ Kim cương tự cú thâu nhiếp chung luận nầy, nên tất cả pháp Phật đều nói rộng về tướng của nó, như có ba câu trong Phần Tựa của Kinh Đà-la-ni tự tại vương, còn lại bốn câu thì ở tại Tuđa-la Bồ-tát Phần pháp sai khác của Như lai.
Hỏi: Nên biết thế nào là Phần Tựa có ba câu đầu?
Đáp: Trong Phần Tựa của Tu-đa-la ấy nói: “Đức Bà-già-bà bình đẳng chứng tất cả pháp, khéo bánh xe pháp, khéo có thể điều phục giáo hóa vô lượng các chúng đệ tử”. Như vậy ba thứ lớp cú căn bản, lần lượt nói về Tam bảo là Pháp Phật Tăng. Nói Tam bảo là theo thứ lớp sinh khởi thành tựu. Phải biết bốn câu còn lại là nói thuận theo nhân của Tam bảo.
Hỏi: Thành tựu nhân của Tam bảo, là nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì các Bồ-tát trong tám địa, lấy mười tự tại làm đầu, chứng đắc đầy đủ tất cả tự tại, nên Bồ-tát ngồi nơi đạo tràng thắng diệu, trong tất cả pháp đều chứng đắc tự tại, nên Kinh nói “Đức Bà-già-bà bình đẳng chứng tất cả pháp”. Khi các Bồ-tát trụ nơi chín địa, thì đối với tất cả pháp được làm Đại pháp sư Trên hết, khéo biết tất cả tâm chúng sinh, đến bờ kia bậc nhất của tất cả căn cơ chúng sinh, có thể dứt trừ phiền não tập khí của tất cả chúng sinh, do đó Bồ-tát thành tựu Đại Bồ-đề, nên kinh nói là “khéo bánh xe pháp”. Các Bồ-tát trong Địa thứ mười được trụ nơi Vị pháp vương Vô thượng, sau đó có thể đối với sự tác nghiệp của Chư Phật, tự nhiên hiện hành, thường không ngơi nghỉ, nên Kinh nói “Khéo có thể điều phục giáo hóa vô lượng các chúng đệ tử”.
Tức trong kinh ấy thứ lớp chỉ rõ, nên kinh nói: “Cùng đồng với chúng đại Tỳ-kheo…” Như thế cho đến “Lại có vô lượng chúng Bồ-tát đồng hội đủ. Thứ lớp như vậy là khéo có thể giáo hóa quả vị của Thanh Văn và Bồ-đề của Phật, khéo có thể điều phục tất cả phiền não, như thế là rốt ráo có vô lượng công đức. Lại nữa, đã nói các công đức của Thanh Văn và Bồ-tát rồi, kế là nói cảnh giới Tam-muội không thể nghĩ bàn của Chư Phật, Như lai. Lại nữa, đã nói cảnh giới Tam-muội của Như lai rồi, kế là nói Đại Bảo điện trang nghiêm vô cấu đã thành tựu. Lại nữa, đã nói Đại Bảo điện trang nghiêm vô cấu thành tựu rồi, kế là nói đại chúng nhóm họp với vô số các thứ cúng dường, khen ngợi Như lai, mưa các thứ y, mưa các thứ hoa, mưa các thứ hương”. Những thứ như vậy phải biết là nói về các sự không thể nghĩ bàn của Phật Bảo. “Lại nữa, kế là nói về pháp tòa pháp mầu trang nghiêm. Đã nói pháp toà rồi trang nghiêm, kế đến là nói pháp môn danh tự và nói về công đức”. Phải biết đây là nói về công đức sai khác của Pháp bảo. “Kế là nói về các Đại Bồ-tát thay đổi chung cảnh giới của hạnh Tam-muội, nói về các thứ công đức”. Phải biết đây là nói về công đức sai khác của Tăng bảo.
“Lại nữa, kế là nói Như lai phát ra ánh sáng rực rỡ truyền trao cho các Đại Bồ-tát chức vị Thái tử pháp vương. Lại nữa, kế là nói biện tài đại vô úy không yếu đuối, lại cũng khen ngợi công đức bậc nhất của Chư Phật, Như lai. Lại nữa, kế là nói pháp của thừa Đệ nhất trên hết, nói về tu hành Đại thừa như thật”. Trong pháp chứng quả tức là thứ lớp sai khác của công đức Tam bảo Vô thượng. Nghĩa trong phần Tựa đại khái đã nói xong, phải biết như vậy. Đã nói Tam bảo trong Phần Tựa Tu-đa-la của Bồ-tát Tự Tại Vương. Kế là nói nghĩa Phật tánh, có sáu mươi thứ pháp làm thanh tịnh công đức kia. Vì sao vậy? Vì có tánh công đức thanh tịnh vô lượng làm cho tánh ấy thanh tịnh, tu sáu mươi thứ pháp là nghĩa nầy. Trong Kinh Thập Địa thường nói về vàng làm thí dụ, về nghĩa Phật tánh thanh tịnh. Lại nữa, ngay trong Kinh Đà-la-ni Tự Tại Vương nầy, đã nói nghiệp Như lai, kế là nói thí dụ về báu Đại Tỳ-lưu-ly, Ma-ni, nên trong Kinh nói: “Này người Thiện Nam! Ví như các nhà chuyên về nghề mài giũa ngọc báu Ma-ni, khéo biết làm tinh sạch ngọc báu Đại Ma-ni vào, khéo biết hướng theo tánh của báu Đại Ma-ni trong núi lấy các báu Đại Ma-ni chưa tinh sạch, lấy rồi, dùng tro tẩy rửa kỹ, sau đó dùng áo màu đen như tóc đầu để lau chùi, cũng chưa cho là xong, siêng năng không ngơi nghỉ… lại dùng nước nhựa Đại dược để rửa. Đại dược rửa xong rồi, sau đó lại dùng vải nhuyễn mịn lau chùi, lau chùi xong, lại lìa các khóang chất đồng, sắt… thì Tỳ-lưu ly cấu mới có thể gọi là báu Tỳ-lưu-ly. Này người Thiện Nam! Chư Phật Như lai cũng giống như vậy, khéo biết tánh bất tịnh của các chúng sinh, biết như vậy rồi, mới vì các chúng sinh giảng nói về vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, làm cho các chúng sinh ưa thích thế gian kia sợ hãi, khiến nhàm chán thế gian nhập vào pháp Thanh Văn, nhưng Phật, Như lai cũng chưa cho là xong. Siêng năng không hề ngơi nghỉ, kế đó vì chúng sinh mà giảng nói về Không, Vô tướng, Vô nguyện, khiến cho các chúng sinh hiểu chút ít về việc bánh xe pháp của Như lai, nhưng Phật, Như lai cũng chưa cho là xong. Siêng năng không hề ngơi nghỉ, kế đó vì chúng sinh giảng nói Pháp luân không lui sụt, kế đó thuyết hạnh Ba-la-mật thanh tịnh, là ba việc không thấy được, khiến cho chúng sinh nhập vào cảnh giới Như lai”. như vậy nương vào vô số nhân, nương vào đủ loại chủng tánh mà nhập vào pháp Phật. Vì đã nhập pháp Phật rồi nên gọi là rộng phước rộng lớn Vô thượng. Lại cũng nương vào tự tánh thanh tịnh tánh Như lai. Kệ trong Kinh có bài kệ rằng:
Ví như trong mỏ đá
Không thấy được vàng ròng,
Người thanh tịnh thấy được,
Thấy Phật cũng như vậy.
Vừa nói Phật tánh có sáu mươi thứ nghiệp tịnh công đức, sáu mươi thứ là?
Đó là bốn thứ trang nghiêm của Bồ-tát, tám thứ ánh sáng của Bồtát, mười sáu thứ đại bi của Đại Bồ-tát và ba mươi hai thứ nghiệp của các Bồ-tát.
Đã nói nghĩa Phật tánh. Kế là nói Bồ-đề của Phật, có mười sáu thứ tâm Đại Từ bi của Bồ-đề Vô thượng.
Đã nói Bồ-đề của Phật, kế đó nói công đức của Chư Phật, Như lai, đó là mười lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp bất cộng.
Đã nói công đức, kế đó nói ba mươi hai thứ Đại nghiệp vô thượng của Như lai. như vậy bảy thứ Câu kim cương nghĩa, Tu-đa-la ấy đã nói rộng về Thể Tướng, nên biết như vậy.
Hỏi: Bảy thứ cú nghĩa ấy có thứ lớp gì ?
Đáp: Kệ rằng:
Từ Phật kế có Pháp
Kế Pháp lại có Tăng,
Kế Tăng, tánh vô ngại
Từ tánh lại có trí.
Công đức mười lực thảy…
Vì tất cả chúng sinh,
Mà làm việc lợi ích,
Có thứ lớp như vậy.
Đã nói một phẩm thâu nhiếp đủ về nghĩa pháp và Thể, Tướng của luận nầy. Kế đó nói bảy phẩm thâu nhiếp đủ nghĩa về pháp và Thể, Tướng của luận.
Hỏi: Giải thích nghĩa của kệ nên biết quy kính Tam bảo, đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Là tất cả Như lai giáo hóa chúng sinh, thì các chúng sinh ấy phải quy y đối với Phật, tôn kính Như lai quy y pháp, tôn kính Như lai, quy y Tăng, nương về Tam bảo, nói mười hai bài Kệ, phần đầu nói về Phật Bảo, nói bốn Kệ.
LUẬN CỨU CÁNH NHẤT THỪA BẢO TÁNH
QUYỂN 2
Phẩm thứ 2: PHẬT BẢO
Thể Phật không mé trước,
Và không mé trung gian,
Cũng lại không mé sau,
Vắng lặng tự giác biết.
Đã tự chứng biết rồi,
Vì muốn người khác biết,
Nên vì chúng sanh nói,
Đạo vô úy thường hằng.
Phật nắm giữ Đạo ấy,
Dao Trí tuệ, Từ bi,
Và chày Kim cương diệu,
Chặt đứt các mầm khổ.
Phá các núi kiến chấp
Che lấp ý điên đảo,
Và tất cả rừng rậm
Nên nay con kính lễ.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Thể vô vi tự nhiên,
Không Y tha mà biết,
Trí Bi và năng lực,
Lợi tự tha đầy đủ.
Kệ nầy nói lược sự thâu nhiếp tám thứ công đức của Phật Bảo. Tám thứ là: 1. Thể vô vi . 2. Tự nhiên. 3. Không y tha biết. 4. trí. 5. Bi. 6. Lực. 7. Tự lợi ích. 8. Tha lợi ích, nên Kệ nói rằng:
Không đầu, không giữa, sau,
Tự Tánh Thể vô vi,
Và Thể pháp vắng lặng,
Phải biết là tự nhiên.
Chỉ nội thân tự chứng,
Không Y tha mà biết,
Như vậy ba giác biết,
Tâm Từ vì nói đạo.
Trí, Bi và lực thảy,
Nhổ gai khổ phiền não,
Ba câu đầu tự lợi,
Ba câu sau lợi tha.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Phải biết xa lìa Hữu vi, gọi là Vô vi. Lại nữa, Hữu vi là pháp Sinh trụ diệt. Vì không có Hữu vi kia, do đó Thể Phật không phải đời trước trung gian và đời sau, do đó được gọi là Pháp thân Vô vi, nên biết kệ rằng: “Thể Phật không mé trước, và không có đời Trung Gian. Cũng lại không mé sau”.
Lại nữa, xa lìa tất cả hý luận, phân biệt luống dối, Thể Vắng lặng, nên gọi là tự nhiên, phải biết kệ rằng: “Vắng lặng”, tức không nương vào pháp khác mà biết, không nương vào nhân duyên khác mà chứng biết.
“Không nương vào Nhân duyên khác mà chứng biết”: Là không nương vào Nhân duyên khác mà sinh. “Không nương vào Nhân duyên khác sinh”, là Tự giác, không phải nương vào tha giác, như vậy nương vào thân tướng pháp Vô vi của Như lai, thì tất cả Phật sự từ vô thỉ đến nay tự nhiên thực hành, thường không ngơi nghỉ. Như vậy cảnh giới không thể nghĩ bàn của Chư Phật, không từ người khác mà nghe.
“Không từ người mà nghe”, là không từ Sư mà nghe, từ Thể của trí tự tại vô ngôn mà tự nhận biết, nên kệ nói: “Tự chứng biết”, nên đã tự chứng biết rồi. Sau đó vì những chúng sinh tăm tối mê muội giúp cho họ chứng biết. Vì chúng sinh đó mà chứng đắc pháp thân Vô vi, giảng nói đạo Vô thượng, nên gọi là trí Bi Vô thượng, phải biết Kệ rằng: “Đã tự chứng biết rồi. Vì muốn người khác biết”, tức vì những người đó giảng nói đạo Vô úy thường hằng, nói về đạo Vô úy là thường là hằng, vì là pháp bất thoái chuyển xuất thế gian. Thứ lớp như vậy cũng là dứt trừ khổ phiền não căn bản của người khác. Trí tuệ Từ bi và thần lực của Như lai, ba câu như vậy thí dụ về “đao, chày Kim cương” là để chỉ rõ ra.
Hỏi: Cái gì được cói là khổ căn bản?
Đáp: Nói lược chính là sinh Danh sắc trong ba cõi.
Hỏi: Lại cái gì là phiền não căn bản ?
Đáp: thân kiến… Luống dối, tà kiến, Nghi, Giới thủ, Kiến thủ. Lại nữa, “Danh sắc” là sự thâu nhiếp của phiền não căn bản sinh các mầm khổ, phải biết tâm trí tuệ Từ bi của Như lai, có thể cắt đứt mầm khổ đó. Vì nghĩa đó nên nói “Dao” để thí dụ, vì vậy Kệ rằng: “Phật nắm giữ đạo kia, con dao trí tuệ Từ bi, cắt đứt các mầm khổ”.
Lại nữa, sự thâu nhiếp phiền não của Tà kiến và Nghi, do Kiến đạo xa lìa, điều mà trí thế gian không thể biết , rừng rậm phiền não không thể phá trừ, như rừng cây hoặc tường thành… trong thế gian, các pháp tương tự đó nhờ năng lực của Như lai có thể phá trừ được. Vì nghĩa ấy nên nêu “chày Kim cương” để thí dụ, do đó kệ nói: “Và chày Kim cương diệu, phá các núi Kiến chấp, che lấp ý điên đảo và tất cả phiền não”. Phải biết sáu câu nầy (Phật nắm giữ đạo kia, Đao trí tuệ Từ bi, và chày Kim cương diệu, cắt đứt các mầm khổ, phá các núi Kiến chấp, che lấp ý điên đảo), trong Kinh Như lai Trang Nghiêm Trí Tuệ Quang Minh Nhập Nhất Thiết Phật Cảnh Giới lần lượt hiển bày.
Hỏi: Làm sao biết được?
Đáp: Trong Kinh đó nói: “Này Bồ tát Văn-thù-sư-lợi! Như lai là bậc Ứng chánh biến Tri bất sinh bất diệt”. Đây là nói về tướng vô vi của Như lai. Lại nữa, kế là nói trong Địa Vô cấu thanh tịnh Lưu Ly , gương và bóng của vua Đế thích hiển hiện, như vậy cho đến chín loại thí dụ, đều nói về Như lai Bất Sinh Bất Diệt. Lại nữa, Kinh đó nói rằng: “Này Văn-thù-sư-lợi! Như lai Ứng chánh biến Tri. Pháp thân thanh tịnh cũng giống như vậy. Bất Động, Bất Sinh, tâm không hý luận, vô phân biệt vô phân biệt, Bất tư, Vô tư, Bất tư nghì, Vô niệm vắng lặng, Vắng lặng, Bất sinh, Bất diệt, Bất khả kiến, Bất khả văn, Bất khả khứu (ngửi), Bất khả thường (nếm), Bất khả xúc không có các tướng, Bất khả giác, Bất khả tri”, những câu như vậy đều nói về tướng vắng lặng sai khác.
Hỏi: Tướng nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói trong tất cả hành nghiệp của Phật, đều xa lìa tất cả hý luận phân biệt, đều vắng lặng tự nhiên. Kế đó nói các Tu-đa-la còn lại. Trong ấy nói: “Như thật chứng biết tất cả pháp môn”, là nói Như lai không nương vào tha pháp mà chứng đại Bồ-đề.
Lại nữa, kế là nói Bồ-đề của Như lai có mười sáu loại, nên Kinh nói: “Này Văn-thù-sư-lợi! Như lai như thật chứng biết tất cả các pháp như vậy, quán sát pháp tánh của tất cả chúng sinh là bất tịnh, hữu cấu, có chút hăng hái. Đối với các chúng sinh tâm đại bi thường hiện tiền”.
Đây là nói trí Bi Vô thượng của Như lai. “Này Văn-thù-sư-lợi! Như lai như thật Giác biết tất cả các pháp như vậy”, là như trước đã nói, lấy vô thể làm thể. “Như thật giác biết”, là Trí Phật biết như thật vô phân biệt. “Quán sát pháp tánh của tất cả chúng sinh”, cho đến chúng sinh nhóm tà, như pháp tánh, pháp Thể, pháp giới, Như lai tạng… trong thân ta. Các chúng sinh kia cũng giống như vậy, không có khác nhau. Mắt trí của Như lai hiểu biết rất rõ. “Bất tịnh” là do các phiền não chướng của phàm phu. “Hữu cấu” là vì Thanh Văn, Bích Chi Phật đều có trí chướng. “Hữu điểm” là vì các Đại Bồ-tát đều nương vào hai thứ chướng của tập khí. “Hăng hái” là có thể như thật biết các thứ phương tiện để hóa độ chúng sinh, nhập vô số môn phương tiện nhằm hóa độ chúng sinh. “Đại Bi” là thành Đại Bồ-đề, đắc tâm đại từ bi đối với tất cả chúng sinh bình đẳng, vì muốn cho tất cả chúng sinh kia chứng trí như Phật, và giác biết chứng Đại Bồ-đề như vậy, kế đó đối với tất cả chúng sinh bình đẳng xoay bánh xe đại pháp thường không ngơi nghỉ, do đó phải biết ba câu có thể làm lợi ích cho người khác, nên gọi là lực.
Lại nữa, thứ lớp của sáu câu nầy, ba câu trước, là công đức Vô vi, Pháp thân Như lai tương ưng nói về tự lợi ích. Ba câu còn lại, gọi là trí… nói về tha lợi ích.
Lại nữa, cũng có nghĩa là vì có trí tuệ nên đắc pháp thân vắng lặng bậc nhất, nên gọi là tự lợi ích. Lại nữa, nương vào hai câu lực Từ bi … là chuyển đại Pháp luân, nói về tha lợi ích. Đã nói về Phật bảo rồi, kế là nói về Pháp bảo.
Phẩm thứ 3: PHÁP BẢO
Luận nói: Nương vào Phật bảo mà có Pháp bảo chân thật. Vì nghĩa đó nên kế là sau Phật Bảo là nói về Pháp bảo. Dựa vào Pháp bảo đó mà nói bốn Kệ:
Chẳng có cũng chẳng không,
Cũng lại chẳng có không,
Cũng không phải tức pháp,
Cũng lại không lìa pháp.
Lường xét không thật có,
Chẳng phải cảnh Văn tuệ,
Xa lìa đường ngôn ngữ,
Nội tâm biết, mát mẻ.
Mặt trời Pháp chân diệu,
Thanh tịnh không bụi bẩn,
Ánh sáng Đại trí tuệ lớn,
Chiếu khắp các thế gian.
Phá được các chướng tối,
Giác quán tham sân si,
Tất cả phiền não thảy.
Nên nay Ta kính lễ.
Hỏi: Kệ nầy nói lên nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Bất tư nghì, không hai,
Vô phần tịnh hiện đối,
Nương đâu? Đắc pháp gì?
Lìa tướng pháp hai đế.
Kệ nầy nói lược sự thâu nhiếp tám thứ công đức của Pháp bảo. Tám thứ công đức là: 1. không thể nghĩ bàn. 2. Không hai. 3. Vô phân biệt. 4. tịnh. 5. Hiển hiện. 6. Đối trị. 7. Lìa quả. 8. Lìa nhân. Nghĩa chữ lìa, Kệ nói rằng:
Diệt đế đạo đế thảy,
Hai đế nhiếp giữ lìa,
Đều có ba công đức,
Thứ lớp nói nên biết.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Ba công đức đầu trong sáu công đức trước: Bất khả tư nghì, không hai, và vô phân biệt, chỉ rõ Diệt Đế thâu nhiếp lìa phiền não, phải biết ba câu còn lại, là tịnh, hiển hiện và đối trị, là chỉ rõ đạo Đế nhiếp lấy, dứt trừ nhân phiền não.
Lại nữa, tất cả lìa của chứng pháp gọi là Diệt Đế, dùng những pháp gì tu hành dứt trừ phiền não thì gọi là đạo đế, hợp hai đế nầy hợp lại làm pháp tịnh, phải biết là lấy tướng của hai đế gọi là pháp lìa. Kệ rằng:
Bất tư lường, Vô ngôn,
Trong trí người trí biết,
Vì là nghĩa như vậy,
Không thể được nghĩ bàn.
Pháp Không hai mát mẻ,
Và pháp vô phân biệt,
Tịnh, hiển hiện, đối trị,
Ba câu như mặt trời.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược Diệt Đế có ba pháp, vì nghĩa đó nên không thể nghĩ bàn, phải biết vì sao không thể nghĩ bàn. Có bốn nghĩa: 1. Là không. 2. Là có. 3. Là không có. 4. Là hai, nên kệ nói: “Chẳng có cũng chẳng không. Cũng lại chẳng có không, cũng chẳng phải pháp kia, cũng không lìa pháp kia”.
Hỏi: Diệt đế có ba pháp nên biết, đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Diệt Đế không thể biết, có ba pháp. Ba pháp là: 1. Phi tư lương cảnh giới (cảnh giới không thể suy xét), nên kệ nói: “không thể nào Suy xét, không phải cảnh giới Văn tuệ”. 2. Xa lìa tất cả thanh hưởng (tiếng vang), danh tự, chương cú, ngôn ngữ và tướng mạo, nên kệ nói: “Xa lìa đường ngôn ngữ”. 3. Pháp nội chứng của bậc Thánh, nên kệ nói: “Nội tâm biết”.
Hỏi: Lại nữa, thế nào Diệt Đế là pháp Không hai ? Thế nào là vô phân biệt?
Đáp: Như trong Kinh Bất Tăng Bất Giảm, Như lai nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Pháp thân Như lai là mát mẻ, vì là pháp Không hai, vì pháp vô phân biệt”, nên kệ nói: “Mát mẻ”.
Hỏi: Cái gì là nhị mà nói Không hai?
Đáp: Điều nói “nhị” là nghiệp và phiền não. Nói “phân biệt”, là nhân tập khởi nghiệp phiền não và tà niệm… vì biết nghiệp phiền não kia, tự tánh xưa nay vắng lặng không hai, không có hai hành, biết khổ xưa nay bất sinh, gọi đó là khổ Diệt Đế, chẳng phải pháp Diệt nên gọi là khổ Diệt Đế. Vì thế trong Kinh nói: “Này Văn-thù-sư-lợi! Những pháp gì là hành của vô tâm, ý, ý thức? Là vô phân biệt trong pháp kia. Vì vô phân biệt nên không khởi tà niệm. Vì có chánh niệm nên không khởi Vô minh. Vì không khởi Vô minh, tức là không khởi mười hai Hữu chi, tức gọi là Vô sinh, do đó trong Kinh Thánh Giả Thắng man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Không phải pháp Diệt nên gọi là Khổ Diệt Đế. Bạch Đức Thế Tôn! Điều nói khổ diệt, gọi là vô thỉ vô tác, vô khởi, vô tận, ly tận, thường hằng. Mát mẻ, Bất biến, tự tánh thanh tịnh, lìa tất cả sự trói buộc của phiền não tạng. Bạch Đức Thế Tôn! Nhiều hơn số cát sông Hằng, bất ly, bất thoát, không hai, không thể nghĩ bàn pháp Phật thành tựu cứu cánh mà nói Pháp thân Như lai. Bạch Đức Thế Tôn! Như vậy Pháp thân Như lai không lìa sự trói buộc của phiền não tạng, gọi là Như lai tạng”. Những pháp như vậy phải biết trong Kinh Thắng-man rộng nói là Diệt đế.
Hỏi: Lại nữa, làm sao đắc Diệt Đế Pháp thân Như lai?
Đáp: Là ba thứ thí dụ mặt trời của trí Vô phân biệt trong Kiến đạo và Tu đạo, phải biết là pháp tương tự tương đối, nên kệ nói: “mặt trời Pháp chân diệu”. Ba thí dụ là: 1. Vầng mặt trời thanh tịnh là pháp tương tự, tương đối, vì xa lìa tất cả phiền não cấu nhiễm nên kệ nói: “Thanh tịnh không bụi bẩn”. 2. Hiển hiện tất cả sắc là pháp tượng tương tự tương đối, vì Nhất thiết chủng Nhất thiết trí có thể soi biết, nên kệ nói: “ánh sáng trí tuệ lớn”. 3. Đối trị ám chướng là pháp tương tự tương đối, vì khởi Nhất Thiết chủng trí làm pháp đối trị, nên kệ nói: “Chiếu khắp các thế gian”.
Hỏi: Lại nữa, cái gì là pháp đối trị?
Đáp: Là nương lấy sự tướng không thật, niệm phân biệt luống dối, sinh tham sân si và phiền não kiết sử.
Hỏi: Đây là nói nghĩa gì?
Đáp: Phàm phu ngu si nương vào phiền não kiết sử, chấp lấy niệm sự tướng không thật mà khởi tâm tham, nương vào sân giận mà khởi tâm sân, nương vào niệm vô minh luống dối mà khởi tâm si.
Lại nữa, nương vào phân biệt luống dối của tham sân si kia chấp lấy niệm sự tướng chẳng thật khởi tâm tà niệm. Nương vào tâm tà niệm mà khởi kiết sử. Nương vào kiết sử mà khởi tham sân si. Vì nghĩa đó, thân miệng ý tác nghiệp tham, nghiệp sân, nghiệp si, nương vào các nghiệp nầy, lại có khi đời đời không đoạn dứt. Như vậy tất cả phàm phu ngu si, nương vào phiền não kiết sử mà tập khởi tà niệm, nương vào tà niệm mà khởi các phiền não, nương vào phiền não mà khởi tất cả nghiệp, nương vào nghiệp mà khởi sinh (sự sống).
Như vậy tất cả phiền não nhiễm, nghiệp nhiễm, sinh nhiễm nầy, phàm phu ngu si không biết như thật, không thấy như thật về tánh giới nhất thật, cũng như tánh như thật kia, quán sát tánh như thật mà không chấp tướng, vì không chấp tướng nên có thể thấy thật tánh, thật tánh như vậy là chứng biết bình đẳng của Chư Phật, Như lai.
Lại nữa, không thấy pháp tướng luống dối như vậy, nên tri kiến như thật, như thật có pháp chân như, pháp giới. Vì thấy Đệ nhất nghĩa đế, nên hai pháp không thêm không bớt như vậy, do đó gọi là chứng trí bình đẳng, gọi là Nhất thiết chủng trí. Pháp chướng ngại của sở đối trị phải như vậy mà biết. Vì phát khởi trí Chân như là pháp đối trị, nên pháp của đối tượng được đối trị kia rốt ráo không còn sinh khởi hiện tiền, nên kệ nói: “phá được các ám chướng, giác quán tham sân si, tất cả các phiền não”.
Lại nữa, đây là đắc Diệt Đế là Pháp thân Như lai, nhân theo Trí vô phân biệt trong Kiến đạo và Tu đạo, nói rộng như trong các Tu-đa-la Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật: “Này Tu-bồ-đề! Chân như Như lai và Chân như bình đẳng không có sai khác, các pháp như vậy phải biết”. Đã nói xong Pháp bảo, kế là nói về Tăng bảo.
Phẩm thứ 4: TĂNG BẢO
Luận nói: Nương vào Pháp bảo Đại thừa, có Bồ-tát Bất Thoái chuyển là Tăng bảo, vì nghĩa đó, kế là sau Pháp bảo lại nói về Tăng bảo, nương vào Tăng bảo nói bốn Kệ:
Người chánh giác, chánh tri,
Thấy tất cả chúng sinh,
Thanh tịnh không có ngã,
Vắng lặng, mé chân thật.
Vì biết chúng sinh kia,
Tự tánh tâm thanh tịnh,
Thấy phiền não không thật,
Nên lìa các phiền não.
Người tịnh trí vô chướng,
Như thật thấy chúng sinh,
Tự tánh, tánh thanh tịnh,
Cảnh giới pháp Phật Tăng.
Mắt trí tịnh vô ngại,
Thấy tánh các chúng sinh,
Khắp vô lượng cảnh giới,
Nên Ta nay kính lễ.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Như thật biết nội thân,
Dùng trí thấy thanh tịnh,
Gọi là Tăng vô thượng,
Là Phật Như lai nói.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Như thật thấy chúng sinh,
Chân Pháp thân vắng lặng,
Vì thấy tánh vốn tịnh,
Phiền não xưa nay không.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì thấy như thật về bản tế, phải biết xưa nay ngã không, pháp không, nên Kệ nói: “Người chánh giác chánh tri, thấy tất cả chúng sinh, thanh tịnh không có ngã, Vắng lặng mé Chân thật”. Lại nữa, như thật biết từ vô thỉ đến nay, bản tế vắng lặng, không ngã, không pháp, chẳng hải khi chứng diệt phiền não mới có.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Đây là thấy tự tánh Pháp thân thanh tịnh. Nói lược có hai pháp. Những gì là hai: 1. Thấy tánh xưa nay tự tánh thanh tịnh. 2. Thấy phiền não xưa nay vắng lặng, nên kệ nói: “Vì biết chúng sinh kia, tự tánh tâm thanh tịnh. Thấy phiền não không thật, nên lìa các phiền não”.
Lại nữa, tự tánh tâm thanh tịnh xưa nay thanh tịnh, lại xưa nay cũng thường bị phiền não làm nhiễm. Hai pháp nầy đối với Chân như vô lậu kia, có tâm thiện và tâm bất thiện trong pháp giới, đều không có tâm thứ ba. Nghĩa như vậy khó có thể hiểu biết, nên trong Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Sát-ni-ca tâm thiện, chẳng bị phiền não nhuộm bẩn nơi Sát-ni-ca tâm bất thiện, cũng không phải bị phiền não nhuộm dơ, phiền não không xúc tâm, tâm không xúc phiền não. Làm sao không xúc với pháp mà tâm có thể bị nhiễm? Bạch Đức Thế Tôn! Nhưng có phiền não và có tâm nhiễm phiền não. Tự tánh tâm thanh tịnh mà có nhiễm, là khó có thể biết rõ”! như vậy trong Kinh Thánh Giả Thắng-man đã nói rộng, phải biết là tự tánh tâm thanh tịnh và sự nhiễm của phiền não.
Lại nữa, có hai thứ tu hành: 1. Như thật tu hành. 2. Biến tu hành. Hai thứ nầy rất khó chứng biết nghĩa của nó. như thật tu hành, là thấy cảnh giới Phật tánh tự tánh thanh tịnh của chúng sinh, nên kệ nói: “Người tịnh trí Vô chướng, như thật thấy chúng sinh, tự tánh tánh thanh tịnh, cảnh giới pháp Phật Tăng”.
Biến tu hành, là tất cả cảnh giới khắp mười Địa, thấy tất cả chúng sinh có Nhất thiết trí, cũng khắp tất cả cảnh giới. Vì khắp tất cả cảnh giới, nương vào tuệ Xuất thế gian, phải biết là thấy tất cả chúng sinh cho đến súc sinh đều có Như lai tạng. Tuệ kia thấy tất cả chúng sinh có Chân như, Phật tánh, Bồ-Tát-ma-ha-tát Sơ địa lấy đó để chứng khắp tất cả pháp giới Chân như, nên kệ nói: “Mắt trí tịnh vô ngại, thấy tánh các chúng sinh, khắp vô lượng cảnh giới”. Như vậy nội thân tự giác biết, pháp giới vô lậu kia không có chướng, không có ngại.
Hỏi: Nương vào hai pháp như thật Tu hành và biến tu hành, đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Là nội chứng như thật về pháp trí chân như Xuất thế gian, phải biết không chung với người Nhị thừa phàm phu.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Chứng trí thanh tịnh Xuất thế gian của Bồ-tát-ma-ha-tát, nói lược có hai thứ vượt hơn chứng trí của Thanh-văn Bích Chi Phật. Hai thứ ấy là: 1. Vô chướng. 2. Không ngại. Không chướng là như thật tu hành, thấy cảnh giới tự tánh thanh tịnh của chúng sinh, nên gọi là vô chướng. Vô ngại là biến tu hành, vì biết như thật cảnh giới vô biên, nên gọi là vô ngại.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Như thật thấy biết đạo,
Thấy trí Phật thanh tịnh,
Nên bậc Thánh bất thối,
Làm chỗ chúng sinh nương.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Lại nữa, nương vào chứng trí của Đại Bồ-tát Sơ địa, đạt Kiến đạo thanh tịnh không thoái chuyển các Địa thừa, phải biết có thể khởi thấy nhân thắng thanh tịnh của Bồ-đề Vô thượng kia, nên kệ nói: “Thấy biết đạo như thật, thấy Phật trí thanh tịnh”. chứng trí của Sơ địa nầy, thù thắng hơn công đức Bố thí, Trì giới… Ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Vì nghĩa đó, nên Đại Bồ-tát nương vào Chân như chứng trí của như thật kiến, có thể ban cho tất cả chúng sinh, tám bộ chúng trời, rồng, Thanh-văn, Bích Chi Phật… làm chỗ qui y, nên kệ nói: “Nên bậc Thánh bất thối. Làm chỗ chúng sinh nương”.
Hỏi: Vì sao không nói rõ qui y Tăng bảo Thanh-văn?
Đáp: Tăng bảo Bồ-tát công đức vô lượng, do đó là bậc Ứng Cúng, vì là Ứng Cúng nên xứng đáng lễ bái khen ngợi cúng dường. Người Thanh-văn không có nghĩa như vậy, vì nghĩa đó nên không nói rõ qui y Tăng bảo Thanh-văn.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Cảnh giới các công đức,
Chứng trí và Niết-bàn,
Các địa tịnh, vô cấu,
Đầy đủ Đại Từ bi.
Sinh vào nhà Như lai,
Đầy đủ thông tự tại,
Quả trên hết Vô thượng,
Là nghĩa qui y thắng.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược mười thứ thắng nghĩa của Bồ-tát, vượt hơn Thanhvăn và Bích Chi Phật. Những gì là mười: 1. Quán thắng. 2. Công đức thắng. 3. chứng trí thắng. 4. Niết-bàn thắng. 5. Địa thắng. 6. Thanh tịnh thắng. 7. tâm bình đẳng thắng. 8. Sinh thắng. 9. Thần lực thắng. 10. Quả thắng.
1. Quán thắng: Quán cảnh giới Chân như đó là quán thắng, nên kệ nói: “Cảnh giới”.
2. Công đức thắng: Là Bồ-tát tu hành không chán đủ, không đồng với nhị thừa mong được chút ít, đó là công đức thắng, nên kệ nói: “Các công đức”.
3. Chứng trí thắng: Là hai thứ Vô ngã, đó là chứng trí thắng, nên kệ nói: “Chứng trí”.
4. Niết-bàn thắng: Giáo hóa chúng sinh, gọi đó là Niết-bàn thắng, nên kệ nói: “Niết-bàn”.
5. Địa thắng: Mười địa gọi đó là địa thắng, nên kệ nói: “Các Địa”.
6. Thanh tịnh thắng: Bồ-tát xa lìa trí chướng đó là thanh tịnh thắng, nên kệ nói: “Tịnh vô cấu”.
7. Tâm bình đẳng thắng: Là đại bi của Bồ-tát trùm khắp, đó là tâm bình đẳng thắng, nên kệ nói: “Đầy đủ Đại Từ bi”.
8. Sinh thắng: Các Bồ-tát sinh vô sinh đó là sinh thắng, nên kệ nói: “Sinh vào nhà Như lai”.
9. Thần lực thắng: Là lực thù thắng của Tam muội thần thông tự tại, đó là thần năng lực thắng, nên kệ nói: “Đầy đủ tự tại Thông”.
10. Quả thắng: Là cứu cánh Bồ-đề Vô thượng đó là quả thắng, nên kệ nói: “Quả thắng Tối Vô thượng”.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Người có trí tuệ, biết công đức vô lượng của các Bồ-tát tu tập Bồ-đề, vô lượng vô biên công đức rộng lớn, có trí tuệ lớn, Từ bi tròn đầy, là chiếu soi biết tánh hạnh như rừng rậm của vô lượng chúng sinh, cũng như trăng non, chỉ trừ Chư Phật Như lai như trăng tròn đầy.
Đại Bồ-tát, biết các Thanh-văn cho đến chứng được đạo A-la-hán, là người thiếu trí tuệ không có tâm đại bi, vì chiếu soi tự thân, cũng như các sao. Đã biết như vậy, muốn dùng thân đại mãn nguyệt của Như lai để tu đạo Bồ-đề, nhưng phải từ bỏ sơ nguyệt (trăng khuyết) nên Bồ-tát khởi tâm lễ bái cúng dường. Ngoài ra, Tinh Tú Thanh-văn và Bích Chi Phật, thì không có việc đó.
Hỏi: Điều nầy lại là nghĩa gì?
Đáp: Đây là nói về các Bồ-tát mới phát khởi tâm Bồ-đề làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, đã có thể hàng phục người không vì lợi ích của các chúng sinh khác, chỉ vì tự lợi tu trì giới cấm vô lậu thanh tịnh, cho đến người chứng đắc quả A-la-hán, huống chi là những người khác. Bồ-tát ma-ha-tát vô lượng vô biên công đức của mười thứ lớp tại, mà đồng với người ít công đức như Thanh-văn và Bích Chi Phật là không có việc đó! Vì nghĩa đó, trong Kinh có bài kệ rằng:
Nếu vì bản thân mình,
Tu hành các giới cấm,
Xa lìa tâm Đại từ,
Bỏ chúng sinh phá giới.
Chỉ vì tự thân mình,
Giữ tài sản giới cấm,
Người giữ giới như vậy,
Phật nói không thanh tịnh.
Nếu vì thân người khác,
Tu hành giữ giới cấm,
Làm lợi ích chúng sinh,
Như Địa, Thủy, Hoả, Phong.
Chỉ vì chúng sinh khác,
Khởi tâm bi bậc nhất,
Đó là Trì giới tịnh,
Ngoài ra chẳng thanh tịnh.
Hỏi: Nương vào nghĩa gì, vì người gì mà Chư Phật, Như lai nói Tam bảo?
Đáp: Kệ rằng:
Nương Năng điều, Sở chứng,
Đệ tử, là ba thừa,
Tin ba ngôi cúng dường,
Cho nên nói Tam bảo.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược nương vào ba nghĩa, vì sáu hạng người mà nói Tam bảo. Ba nghĩa gồm: 1. Điều ngự sư. 2. pháp của Điều ngự sư. 3. Đệ tử của Điều ngự sư, nên kệ nói: “Nương năng điều. Sở chứng là đệ tử”.
Sáu hạng người là: 1. Đại thừa. 2. Trung thừa. 3. Tiểu thừa. 4. Tin Phật. 5. Tin Pháp. 6. Tin Tăng, nên kệ nói: “Vì ba thừa, tin ba ngôi cúng dường”. Trước hết giải thích nghĩa thứ nhất, hạng người thứ nhất và thứ tư, là quy y Phật là bậc tôn quí trên hết bậc nhất trong loài lưỡng túc, là nói về nghĩa Điều ngự sư, Đại Trượng Phu, nên kệ nói: “Nương năng điều”. Vì chọn lấy Bồ-đề của Phật và hạng các Bồ-tát, nên kệ nói: “Vì Đại thừa”. Vì hạng tin cúng dường rộng phước của Chư Phật, Như lai, nên kệ nói: “Tin Phật cúng dường”. Vì nghĩa đó mà nói lập Phật Bảo, nên kệ nói: “Cho nên nói Phật Bảo”. Đã giải thích nghĩa thứ nhất, hạng người thứ nhất và thứ tư.
Kế là giải thích nghĩa thứ hai, hạng thứ hai và người thứ năm, là qui y pháp trên hết bậc nhất trong lìa phiền não, nói về sự chứng pháp công đức của Điều ngự sư, nên kệ nói: “Nương sở chứng”. Vì hạng người Bích Chi Phật tự nhiên biết, không nương vào người khác mà biết sâu về nhân duyên, nên kệ nói: “Vì Trung thừa”. Vì hạng người tin cúng dường rộng phước của pháp mầu bậc nhất, nên kệ nói: “Tin pháp cúng dường”. Vì nghĩa đó nên nói lập Pháp bảo, Kệ nêu: “Cho nên nói Pháp bảo”. Đã giải thích nghĩa thứ hai, hạng người thứ hai và thứ năm.
Kế là giải thích nghĩa thứ ba, hạng thứ ba và người thứ sáu, là quy y các Bồ-tát Tăng trên hết bậc nhất trong các chúng, nói về đệ tử của Điều ngự sư, trong sự thuyết pháp của Chư Phật, Như lai tu hành như thật không trái ý nghĩa, nên kệ nói: “Nương đệ tử”. Vì người Thanh-văn vì từ người khác nghe, nên kệ nói: “Vì Tiểu thừa”. Vì người tin cúng dường rộng phước của Thánh chúng bậc nhất, nên kệ nói: “Tin Tăng cúng dường”. Vì nghĩa ấy mà nói lập Tăng bảo, do đó kệ nói: “Cho nên nói Tăng bảo”. Đó là nói lược nương vào ba nghĩa, vì sáu hạng người mà Chư Phật, Như lai nói Tam bảo nầy. Vì thế Kệ rằng: “Nương năng điều, sở chứng, đệ tử, là ba thừa, Tin ba ngôi cúng dường. Cho nên nói Tam bảo”.
Lại vì chúng sinh đáng được hóa độ, khiến cho thứ lớp tiến nhập, vì nghĩa đó mà nương vào Thế Đế để nói rõ việc lập ba Qui y.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Nên bỏ các luống dối,
Vô vật và sợ hãi
Hai thứ pháp và Tăng,
Chẳng qui y rốt ráo.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: pháp có hai thứ: 1. Pháp được nói. 2. Pháp được nói. Sở thuyết pháp, là sự thâu nhiếp về danh tự, chương cú thân mà Như lai nói Tu-đa-la. Pháp được nói đó khi chứng đạo thì diệt như bỏ thuyền bè, nên kệ nói: “Nên bỏ”. Pháp Sở chứng, lại có hai thứ sai khác là nương vào nhân và nương vào quả, tức là nương vào pháp gì để chứng pháp gì!
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Cái gọi là Hữu đạo là thuộc về Tướng Hữu vi. Nếu là thuộc về tướng Hữu vi thì đó là pháp Luống dối, nên kệ nói: “Và Luống dối”. Nếu là Luống dối thì pháp kia không thật, nếu không phải thật thì pháp kia chẳng phải là Chân đế. không phải Chân đế thì tức là vô thường, nếu là pháp vô thường thì không đáng qui y.
Lại nữa, nếu nương vào Diệt đế mà đạo Thanh-văn có được, thì đạo ấy giống không có vật, cũng như đèn tắt, chỉ đoạn phần ít phiền não khổ. Nếu pháp như vậy thì đó là vô vật. Nếu vô vật thì làm sao làm chỗ qui y cho người khác? Nên kệ nói: “Vô vật”. Tăng, gồm có người của ba thừa, nương vào Tăng Thanh-văn trong ba thừa, thường có sợ hãi, thường cầu qui y Chư Phật, Như lai để mong lìa thế gian. Đây là điều nên làm của người học, nhưng chưa rốt ráo, vì còn tiến đến đạo quả chánh đẳng chánh giác Vô thượng.
Hỏi: Cái gọi là Sợ hãi, là sợ hãi cái gì?
Đáp: Vì A-la-hán tuy dứt hết Hữu lậu nhưng chưa dứt hết tập khí của phiền não. Đối với tất cả hành tướng Hữu vi ấy, thì tâm hết sức sợ hãi thường hiện tiền, nên trong Kinh Thánh giả Thắng man nói: “A-lahán có sợ hãi. Vì sao vậy? Vì A-la-hán đối với tất cả hành vô sợ hãi tưởng dừng trụ, như người cầm gươm muốn đến hại mình, cho nên A-lahán không có lạc cứu cánh. Vì sao vậy? Bạch Đức Thế Tôn ! Nương vào chỗ không cầu dựa, như chúng sinh không có quy y các thứ sợ hãi. Vì lo sợ nên cầu qui y. Như vậy A-la-hán có sợ hãi, vì sợ hãi nên qui y Như lai, vì A-la-hán kia nếu có sợ hãi như vậy, thì người đó rốt ráo muốn xa lìa sự sợ hãi mà tìm nơi không sợ hãi . Vì nghĩa đó nên nương vào sự xa lìa sợ hãi kia gọi là người tu học, phải có điều muốn chứng đắc đạo Chánh đẳng, Chánh giác Vô thượng, nên Pháp bảo và Tăng bảo của Thanh-văn là quy y thiểu phần, không phải là quy y rốt ráo, nên kệ nói:
“Hai loại pháp và Tăng, không quy y rốt ráo”.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì ?
Chúng sinh quy Nhất xứ,
Pháp thân Phật giải thoát,
Nương thân Phật, Hữu pháp,
Nương pháp, Tăng cứu cánh.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Như đã nói trước, Chư Phật, Như lai là Bất sinh, Bất diệt, Vắng lặng Không hai pháp thân lìa cấu, vì chỉ có duy nhất một xứ thanh tịnh rốt ráo của pháp thân. Lại nữa, người của ba thừa không có cứu giúp, không có quy y, vì chỉ có bản tế giải thoát rốt ráo vô tận từ vô thỉ, là có thể qui y, thường có thể qui y, gọi là chỉ có Chư Phật, Như lai. Như vậy là thường hằng mát mẻ bất biến nên có thể Qui Y. Phải biết trong Kinh Thánh Giả Thắng man có nói rộng.
Hỏi: vì sao Phật, Pháp và chúng Tăng gọi là Bảo?
Đáp: Kệ rằng:
Chân Bảo, đời ít có,
Trong sáng và thế lực,
Năng trang nghiêm thế gian,
Trên hết và Bất biến.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Điều gọi Bảo là có sáu thứ tương tự, nương vào sáu thứ tương tự pháp tương đối nầy mà Phật, Pháp và chúng Tăng gọi là Bảo. Những gì là sáu tương tự:
1. Tương tự thế gian nan đắc pháp tương đối: Vì các chúng sinh không có Gốc lành nên trăm ngàn vạn kiếp cũng khó đắc, do đó kệ nói: “Chân Bảo, đời hy hữu”.
2. Tương tự vô cấu pháp tương đối: Vì lìa tất cả pháp Hữu lậu, nên kệ nói: “trong sáng”.
3. Tương tự oai đức pháp tương đối: Vì đầy đủ sáu thông không thể nghĩ bàn oai đức tự tại, nên kệ nói: “Thế lực”.
4. Tương tự trang nghiêm thế gian pháp tương đối: Vì có thể trang nghiêm Xuất thế gian, nên kệ nói: “Năng trang nghiêm thế gian”.
5. Tương tự thắng pháp mầu tương đối: Vì pháp Xuất thế gian, nên kệ nói: “trên hết”.
6. Tương tự bất khả cải dị pháp tương đối: Vì đắc tám pháp không thể động của pháp vô lậu thế gian, nên kệ nói: “Bất biến”.
Hỏi: Nương vào pháp nào có Tam bảo nầy ? Hay nương vào pháp nầy mà có thanh tịnh thế gian và Xuất thế gian sinh khởi Tam bảo?
Đáp: Vì nghĩa ấy nên nói hai Kệ:
Chân như có tạp cấu,
Và xa lìa các cấu,
Vô lượng công đức Phật,
Và tác nghiệp của Phật.
Như vậy cảnh giới mầu,
Là sở tri Chư Phật,
Nương pháp thân diệu nầy,
Xuất sinh ra Tam bảo.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì ?
Đáp: Kệ rằng:
Như vậy tánh Tam bảo,
Chỉ cảnh giới Chư Phật,
Vì thứ lớp bốn pháp,
Không thể nghĩ bàn được.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: “Chân như có tạp cấu”, là Chân như Phật tánh chưa lìa các phiền não trói buộc Như lai tạng.
“Và xa lìa các cấu”: Tức Như lai tạng kia chuyển thân đến Phật địa, chứng đắc Pháp thân, gọi là Pháp thân Như lai.
“Vô lượng công đức Phật”: Tức là công đức kia Chuyển thân trong tướng của Pháp thân Như lai, tất cả mười lực, bốn Vô úy Xuất thế gian tất cả các công đức vô lượng vô biên.
“Và Tác nghiệp của Phật”: Tức là mười lực… pháp của tất cả Chư Phật tự nhiên thường khởi nghiệp Phật Vô thượng, thường không ngơi nghỉ thường không lìa bỏ, thường thọ ký các Bồ-tát, xứ đó thứ lớp có bốn pháp không thể nghĩ bàn, nên gọi là cảnh giới của Như lai.
Hỏi: Bốn xứ gồm?
Đáp: Kệ rằng:
Xứ nhiễm, tịnh, tương ưng,
Không nhiễm mà thanh tịnh,
Pháp không lìa bỏ nhau,
Tự nhiên vô phân biệt.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Chân như có tạp cấu: Là trong cùng một lúc có tịnh có nhiễm. Đây là chỗ không thể nghĩ bàn. Không thể nghĩ bàn là tin sâu pháp nhân duyên. Thanh-văn và Bích Chi Phật đối với pháp đó thì không phải cảnh giới, nên trong Kinh Thánh Giả Thắng-man Phật bảo Thắng-man: “Này Thiên Nữ! Tự tánh tâm thanh tịnh mà có nhiễm ô thì khó biết rõ được. Có hai pháp khó có thể biết rõ: 1. Tự tánh tâm thanh tịnh khó có thể biết rõ. 2. Tâm đó bị nhiễm của phiền não cũng khó có thể biết rõ. Này Thiên nữ! Như hai pháp nầy, người và các Đại Bồ-tát thành tựu đại pháp mới có thể nghe thọ, còn các Thanh-văn và Bích Chi Phật kia thì chỉ nương vào lời Phật dạy mà tin hai pháp này”. Nên Kệ rằng: “Xứ nhiễm tịnh tương ưng”. “Và xa lìa các cấu”, là Chân như vốn không phải trước có nhiễm rồi sau đó nói thanh tịnh, chỗ này không thể nghĩ bàn, nên Kinh nói: “Tâm tự tánh tâm thanh tịnh”. Tự tánh tâm thanh tịnh xưa nay thanh tịnh, như bản thể của tâm kia, Như lai biết như vậy, nên Kinh nói: “Một niệm tâm nối tiếp tương ưng tuệ của Như lai, thì đắc đạo quả đẳng Chánh giác Vô thượng, vì thế Kệ rằng: “Không nhiễm mà thanh tịnh”. Vô lượng công đức Phật, là mé trước mé sau hoàn toàn nhiễm ô trong giai đoạn phàm phu, vẫn thường không lìa pháp thân Chân như. Tất cả pháp của Chư Phật chẳng khác chẳng sai biệt. Đây là chỗ không thể nghĩ bàn, nên Kinh nói: “Lại nữa, nầy Phật Tử! Trí tuệ Như lai không chỗ nào không đạt. Vì sao vậy? Vì trong tất cả giới chúng sinh rốt cuộc không một thân chúng sinh nào lại không có đầy đủ công đức và trí tuệ của Như lai, nhưng chúng sinh điên đảo, không biết trí Như lai xa lìa điên đảo mà khởi Nhất thiết trí, trí Vô sư và trí vô ngại. Này Phật tử! Ví như có một quyển Kinh rất lớn, bằng một Tam thiên đại thiên thế giới, tất cả tất cả trong Đại thiên thế giới, không chuyện gì mà không được ghi chép. Nếu dựa vào thế giới Nhị thiên, thì đều ghi chép các sự việc trong Nhị thiên thế giới, nếu cho thế giới Tiểu thiên , thì đều ghi chép các sự trong Tiểu thiên thế giới, bốn cõi Thiên Hạ thì đều ghi chép tất cả sự việc trong bốn cõi Thiên hạ. Tu Di Sơn vương… thì đều ghi chép tất cả sự trong núi chúa Tu-di, Địa thiên cung… thì đều ghi chép tất cả việc trong Điện địa thiên cung, Dục thiên cung… thì đều ghi chép các việc trong Điện dục thiên cung. Sắc thiên cung… thì đều ghi chép các sự trong điện Sắc Thiên cung. Nếu dựa vào Vô sắc thiên cung… thì đều ghi chép các việc trong Điện Vô sắc Thiên Cung. Quyển Kinh rất lớn bằng Tam Thiên Đại Thiên Thế giới kia, ở trong một hạt bụi rất nhỏ, tất cả hạt bụi đều cũng như vậy, lúc đó có một người ra đời, trí tuệ thông đạt, thành tựu đầy đủ thiên nhãn thanh tịnh, thấy quyển Kinh nầy trong hạt bụi, nghĩ rằng: Vì sao quyển Kinh lớn như thế, ở trong hạt bụi mà không làm lợi ích cho các chúng sinh? Nay ta cần phải tạo phương tiện phá vỡ hạt bụi kia, lấy quyên Kinh nầy ra làm lợi ích cho chúng sinh! Nghĩ đoạn, người kia liền tìm cách, phá vỡ hạt bụi đem quyển Kinh ra để làm lợi ích cho chúng sinh. Này Phật tử! Trí tuệ của Như lai, trí tuệ vô tướng, trí tuệ vô ngại, đầy đủ trong thân chúng sinh, nhưng chúng sinh ngu si bị vọng tưởng điên đảo che lấp, không biết không thấy không sinh tâm kính tín. Bấy giờ, Như lai dùng Thiên nhãn thanh tịnh vô chướng ngại, quán sát tất cả thân chúng sinh, đã quán sát rồi nghĩ rằng: Lạ thay! Lạ thay! Vì sao trí tuệ của Như lai đầy đủ trong thân mà không biết không thấy? Ta phải dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh giác ngộ Thánh đạo, đều giúp cho họ xa lìa hẳn tất cả vọng tưởng điên đảo trói buộc, khiến cho thấy biết đầy đủ trí tuệ Như lai trong thân họ không khác với Phật! Như lai liền giáo hóa chúng sinh đó tu tám Thánh đạo, lìa bỏ tất cả điên đảo luống dối, lìa điên đảo rồi thì thấy trí Như lai, cùng với Như lai bình đẳng làm lợi ích cho chúng sinh”. Cho nên kệ nói: “Pháp chẳng lìa bỏ nhau”. “Và việc do Phật làm”, là đồng một thời, tất cả xứ, tất cả thời, tự nhiên vô phân biệt, thuận theo tâm chúng sinh, thuận theo căn tánh chúng sinh có thể giáo hóa, không lỗi, không sai lầm thuận theo khởi nghiệp Phật, đây là chỗ không thể nghĩ bàn, nên kinh nói: “Này người Thiện nam! Như lai vì khiến cho tất cả nhập vào pháp Phật, trong nghiệp vô lượng của Như lai dấy khởi hữu lượng để nói. Này người Thiện nam! Sự tác nghiệp có thật của Như lai, đối với tất cả chúng sinh thế gian kia, không thể so lường, không thể đếm, không thể nghĩ bàn, không thể biết, không thể dùng danh tự để nói. Vì sao vậy? Vì khó có thể được đối trước chúng sinh, vì đối với tất cả cõi nước của Chư Phật không ngơi nghỉ, vì tất cả Chư Phật đều bình đẳng, vì vượt qua sự tạo tác sự của tất cả tâm thế gian, vì vô phân biệt giống như hư không đều bình đẳng, vì thể pháp tánh không khác, không sai khác”. Các pháp như vậy đã nói rộng.
Lại nói thí dụ về châu báu Đại Tỳ-lưu-ly, Ma-ni bất tịnh: “này người Thiện nam! Ông nương vào thí dụ nầy, phải biết nghiệp Như lai là không thể nghĩ bàn, vì bình đẳng khắp tất cả. Vì tất cả xứ không thể chê trách, vì ba đời bình đẳng, không dứt hạt giống Tam bảo, nên Chư Phật, Như lai tuy trụ trong hành nghiệp không thể nghĩ bàn như vậy, nhưng không lìa bỏ pháp thân hư không. Tuy không lìa bỏ pháp thân hư không, nhưng đối với chúng sinh, tùy theo chỗ thích ứng nghe danh tự, chương, cú thì thường vì các chúng sinh đó mà nói pháp. Tuy vì chúng sinh nói pháp như vậy, nhưng thường xa lìa điều niệm quán của tất cả tâm chúng sinh. Vì sao? Vì biết như thật các tâm hành của tất cả chúng sinh, nên kệ nói: “Tự nhiên vô phân biệt. Nương pháp thân diệu nầy.
Xuất sinh ra Tam bảo”. Kệ rằng:
Pháp Bồ-đề sở ác,
Nương phần Giác mà biết,
Bồ-đề phần giáo hóa,
Chúng sinh giác Bồ-đề.
Câu đầu là chánh nhân,
Ba câu sau, duyên tịnh,
Hai câu đầu tự lợi,
Hai câu sau lợi tha.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Bốn câu nầy thâu nhiếp chung tất cả cảnh giới sở tri.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Câu thứ nhất, phải biết là pháp được chứng đắc, vì pháp chứng đó gọi là Bồ-đề, nên kệ nói: “Pháp Bồ-đề sở giác”.
Câu thứ hai là Bồ-đề nương vào Bồ-đề phần mà biết, vì công đức Bồ-đề của Chư Phật có thể làm nhân Bồ-đề của Phật, nên kệ nói: “Nương phần Bồ đề mà biết”. Câu thứ ba là “Bồ-đề phần giáo hóa”, vì Bồ-đề phần khiến cho mọi người giác ngộ. Câu thứ tư là “Chúng sinh giác Bồ-đề”, vì chúng sinh được giáo hóa giác ngộ Bồ-đề. Bốn câu nầy là thứ lớp không chấp tướng, nương vào hạnh nầy, phải biết Bồ-đề thanh tịnh sinh ra Tam bảo, nên kệ nói: “pháp Bồ-đề sở giác, Nương phần Bồđề mà biết, Bồ-đề phần giáo hóa, chúng sinh giác Bồ-đề”. Lấy một câu Nhân, ba câu Duyên, hiển thị Như lai đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Vì đắc Bồ-đề, nên mười lực, bốn Vô Úy… các pháp của Chư Phật, Như lai, ba mươi hai chủng tướng của Chư Phật, Như lai tạo nghiệp, nương vào nghiệp của Như lai mà chúng sinh nghe tiếng nương vào pháp ấy, phải biết đắc nhân duyên thanh tịnh sinh ra Tam bảo, nên kệ nói: “Câu đầu làm chánh nhân, ba câu sau là duyên của tịnh”.
LUẬN CỨU CÁNH NHẤT THỪA BẢO TÁNH
QUYỂN 3
Phẩm thứ 5: TẤT CẢ CHÚNG SINH CÓ NHƯ LAI TẠNG
Luận nói: Từ đây về sau, Kệ còn lại của Luận, phải biết là lần lượt nương vào bốn câu để nói rộng về sự sai khác.
Hỏi: Đây là nói nghĩa gì?
Đáp: Hướng về kệ trước mà nói:
Chân như có tạp bẩn,
Và xa lìa các bẩn,
Phật vô lượng công đức,
Và việc Phật đã làm.
Cảnh giới mầu như vậy ,
Là điều chư Phật biết,
Nương pháp thân mầu nầy,
Xuất sinh ra Tam bảo.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Như đã nói ở trước, tất cả chúng sinh có Như lai tạng, Như lai tạng kia nương vào nghĩa gì. Kệ rằng:
Pháp thân Phật cùng khắp,
Chân như không khác nhau,
Đều thật có Phật tánh,
Cho nên nói thường có.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Có ba nghĩa, nên Như lai nói: “Tất cả thời, tất cả chúng sinh đều có Như lai tạng”. Ba nghĩa gồm:
1. Pháp thân Như lai trụ khắp tất cả thân của các chúng sinh, nên kệ nói: “Pháp thân Phật đầy khắp”.
2. Chân như Như lai không sai khác, nên kệ nói: “Chân như không sai khác”.
3. Tất cả chúng sinh đều thật có Chân như, Phật tánh, nên kệ nói:
“Đều thật có Phật tánh”, do nghĩa của ba câu nầy. Từ đây trở xuống nương vào Tu-đa-la nói về Như lai tạng, phải biết sau đó tôi mới nói.
Như Kệ vốn nói:
Tất cả cõi chúng sanh,
Không lìa trí các Phật,
Vì trí tịnh vô cấu,
Nêu thể tánh không hai.
Nương tất cả Chư Phật,
Thân Pháp tánh bình đẳng,
Biết tất cả chúng sinh,
Đều có Như lai tạng.
Thể và nghiệp nhân quả,
Tương ưng đều do Hành,
Thời sai khác khắp xứ,
Bất biến, không sai khác.
Thứ lớp diệu nghĩa kia,
Chân Pháp tánh bậc nhất,
Ta nói lược như vậy,
Nay Ông nên khéo biết.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược Kệ nầy có mười nghĩa, nương vào mười nghĩa nầy mà nói sự sai khác của Phật tánh nơi cảnh giới của thật trí bậc nhất nghĩa. Những gì là mười nghĩa: 1. Thể. 2. nhân. 3. Quả. 4. nghiệp. 5. Tương ưng. 6. Hành. 7. Thời sai khác. 8. Biến Nhất thiết xứ. 9. Bất biến. 10. Không sai khác. nghĩa thứ nhất dựa vào nhân của thể nên nói một bài kệ rằng:
Tự tánh thường bất nhiễm,
Như báu đựng tịnh thủy,
Tin pháp và Bát nhã,
Tam-muội đại bi thảy.
Hỏi: Nửa Kệ đầu nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Lực tự tại bất biến,
Tư thật thể, nhu hòa,
Đựng báu nước đức,
Pháp tương tự tương đối.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Trước đã nói ba nghĩa, ba nghĩa đó thứ lớp nương vào ba thứ công đức thanh tịnh của tự tướng, đồng tướng và Pháp thân Như lai, như hư không tịnh Thủy của ngọc báu Như ý, phải biết là Pháp tương tự tương đối.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Tư, nương vào Pháp thân Như lai, thì điều nghĩ điều tu đều thành tựu.
Hỏi: Nửa bài Kệ sau nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Có bốn thứ chướng ngại,
Chê bai pháp và chấp ngã,
Sợ hãi khổ thế gian,
Lìa bỏ các chúng sinh.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Xiển-đề và ngoại đạo
Thanh-văn và Tự giác,
Bốn pháp như tin thảy,
Phải biết nhân thanh tịnh.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược trong tất cả thế giới chúng sanh có ba loại chúng sinh. Ba loại chúng sanh là: 1. Cầu hữu. 2. Xa lìa cầu hữu. 3. Không cầu hai thứ kia.
a) Cầu hữu có hai thứ:
1. Chê bai đạo giải thoát, không có tánh Niết-bàn, thường cầu trụ thế gian, không cầu chứng Niết-bàn.
2. Xiển-đề đồng vị trong pháp Phật, vì chê bai Đại thừa, nên trong Kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc khởi nhất Kiến, hoặc khởi nhị kiến, cho “Chư Phật, Như lai không phải là Thế Tôn”, những hạng người như vậy không phải là đệ tử của ta. Xá-lợi-phất! Người đó vì khởi nhân duyên nhị kiến, là từ chỗ tối đi vào chỗ tối, từ chốn u minh đi vào chốn u minh, ta nói những người đó là Nhất-xiển-đề”. Nên Kệ rằng:
“Chê bai pháp là… Xiển-đề”.
b). Xa lìa cầu hữu cũng có hai thứ:
1. Không có phương tiện cầu đạo.
2. Có phương tiện cầu đạo.
– Không phương tiện cầu đạo cũng có hai thứ:
1. Các thứ tà chấp của nhiều loại ngoại đạo, là Tăng-khư, Vệ-thế-sư, Ni-kiền-đà-nhã-đề-tử… không có phương tiện cầu đạo.
2. Trong pháp Phật mà đồng hạnh ngoại đạo, là tuy tin pháp Phật mà điên đảo chấp trước.
Hỏi: Những hạng người đó là thế nào?
Đáp: Là Độc-tử… thấy trong thân có ngã… không tin Đệ nhất nghĩa đế, không tin Chân như, pháp không, nên Phật nói những người đó chẳng khác ngoại đạo. Lại có người chấp không là hữu, vì tướng ngã kiêu mạn. Vì sao vậy? Vì cho là Như lai nói môn giải thoát không khiến cho được giác ngộ liễu biết, nhưng người đó chấp chỉ có Không chẳng có thật. Vì hạng người đó, trong Kinh Bảo Tích nói: “Phật bảo: Này Ca-diếp! Thà chấp ngã như núi Tu-di, không nên thấy chúng sinh kiêu mạn chấp không là hữu, Ca-diếp! Tất cả tà kiến hiểu về không sẽ được lìa. Nếu thấy không là có thì những người đó không thể hóa độ khiến lìa thế gian”. Cho nên kệ nói: “Và chấp ngã… và ngoại đạo”.
– Có phương tiện cầu đạo cũng có hai thứ:
1. Thanh-văn. Kệ rằng: “Sợ hãi khổ thế gian, là Thanh-văn”.
2. Bích Chi Phật. Kệ rằng: “Lìa bỏ các chúng sinh, và tự giác”.
c) Không cầu hai thứ kia: Gọi là các Đại Bồ-tát là hàng chúng sinh lợi căn bậc nhất. Vì sao? Vì các Bồ-tát không cầu Hữu như Nhất-xiểnđề, lại cũng không đồng các thứ ngoại đạo không phương tiện cầu đạo, lại cũng không đồng với Thanh-văn và Bích Chi Phật có phương tiện cầu đạo. Vì sao? Vì các Bồ-tát thấy thế gian và đạo Niết-bàn bình đẳng, vì tâm không trụ Niết-bàn, vì pháp thế gian không thể nhiễm, nhưng tu hành hạnh thế gian để làm vững chắc tâm Từ bi và Niết-bàn, vì khéo trụ trong pháp căn bản thanh tịnh.
Lại, chúng sinh cầu hữu kia là Nhất-xiển-đề, và người Xiển-đề đồng vị trong pháp Phật, gọi là chúng sinh tụ tà định.
Lại, trong chúng sinh xa lìa cầu hữu, bị rơi vào chúng sinh không phương tiện cầu đạo gọi là chúng sinh nhóm Bất định.
Lại nữa, trong chúng sinh xa lìa cầu Hữu, có phương tiện cầu đạo lìa thế gian là Thanh-văn và Bích Chi Phật, tức không cầu hai thứ kia, là đạo trí bình đẳng của Đại Bồ-tát, gọi là chúng sinh nhóm chánh định.
Lại, ngoại trừ đối với chúng sinh cầu đạo vô chướng ngại đối với Đại thừa, còn có bốn thứ chúng sinh: 1. Xiển-đề. 2. Ngoại đạo. 3. Thanh-văn. 4. Bích Chi Phật. Bốn chúng sinh nầy có bốn loại chướng, nên không thể chứng, không thể lãnh hội, không thể thấy tánh của Như lai. Bốn chướng là:
a) Chướng của Nhất-xiển-đề, chê bai Pháp Đại thừa. Đối trị chướng nầy là các Đại Bồ-tát tin Đại thừa, nên kệ nói: “Tin pháp”.
b) Chướng của các ngoại đạo, chấp ngang trái trong thân có ngã, đối trị chướng nầy, là các Đại Bồ-tát tu hạnh Bát-nhã Ba-la-mật, nên kệ nói: “và Bát-nhã”.
c) Chướng của Thanh-văn, sợ hãi các khổ của thế gian. Đối trị chướng nầy, là các Đại Bồ-tát tu hành các Tam-muội như hư không tạng, Thủ lăng nghiêm… nên kệ nói: “Tam-muội”.
d) Chướng của Bích Chi Phật: Do bỏ việc đem lại lợi ích tất cả chúng sinh, bỏ tâm đại bi. Đối trị chướng nầy là các Đại Bồ-tát tu hạnh đại bi, làm lợi ích cho các chúng sinh, vì vậy kệ nói: “Đại Bi”.
Vì bốn thứ chướng nầy gây chướng ngại cho bốn loại chúng sinh. Vì để đối trị bốn chướng ấy các Đại Bồ-tát tín tu bốn pháp đối trị của hạnh Đại thừa chứng đắc pháp thân thanh tịnh Vô thượng, đến bờ kia bậc nhất. Vì sao? Vì nương vào bốn loại pháp giới thanh tịnh nầy mà tu tập pháp thiện. Đây là Chư Phật thuận theo pháp Tử (con của pháp Phật) sinh vào nhà Phật, nên kệ nói:
Đại thừa Tín làm con,
Bát-nhã dùng làm mẹ,
Thiền thai sữa đại bi,
Chư Phật như con thật.
Kệ rằng: “Bốn thứ pháp như Tín… Phải biết là nhân thanh tịnh.
Lại nương vào quả nghiệp nên nói một bài kệ:
Tịnh, ngã, lạc thường thảy,
Quả công đức bờ kia,
Chán khổ cầu Niết-bàn,
Mong nguyện đồng các nghiệp.
Hỏi: Nửa, đầu kệ nầy, nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Nói lược nghĩa bốn câu,
Bốn thứ pháp điên đảo,
Điên đảo trong pháp thân,
Tu hành pháp đối trị.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Bốn pháp như tín…kia, Pháp thân Như lai theo đấy có thể được thanh tịnh. Trước đã nói bốn pháp, bốn pháp đó thứ lớp nói lược việc đối trị bốn thứ điên đảo, phải biết là bốn thứ công đức Ba-la-mật quả của Pháp thân Như lai, nên kệ nói: “Nói lược nghĩa bốn câu”.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Là trong các việc vô thường như sắc… mà khởi tưởng thường, trong pháp khổ mà khởi tưởng lạc, trong Vô ngã mà khởi tưởng ngã, trong Bất tịnh mà khởi tưởng tịnh, những thứ đó gọi là bốn thứ điên đảo phải biết, vì thế Kệ rằng: “Bốn thứ pháp điên đảo”. Để đối trị bốn thứ điên đảo nầy, phải biết có bốn thứ pháp Phi điên đảo.
Những gì là bốn thứ Phi điên đảo: 1. Trong sự vô thường của sắc… mà nghĩ là vô thường. 2. Trong pháp khổ nghĩ là khổ. 3. Trong Vô ngã nghĩ làVô ngã. 4. Trong Bất tịnh nghĩ là Bất tịnh. Đó là bốn thứ không điên đảo nhằm đối trị phải biết, nên kệ nói: “Tu hành pháp đối trị”. như vậy bốn thứ đối trị điên đảo, dựa vào Pháp thân Như lai thì trở lại là điên đảo, phải biết, nên kệ nói: “Trong pháp thân điên đảo”. Đối trị điên đảo nầy có nói bốn thứ công đức quả Ba-la-mật của Pháp thân Như lai.
Những gì là bốn công đức: 1. Thường Ba-la-mật. 2. Lạc Ba-lamật. 3. Ngã Ba-la-mật. 4. Tịnh Ba-la-mật. Cho nên Kệ nói : “Tu hành pháp đối trị”. Do đó Kinh Thánh giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! chúng sinh phàm phu đối với pháp Ngũ Ấm khởi tưởng điên đảo, là vô thường tưởng thường, khổ tưởng hữu lạc tưởng, Vô ngã tưởng ngã, Bất tịnh nghĩ là tịnh. Bạch Đức Thế Tôn! Không trí của tất cả A-lahán và Bích chi Phật, đối với cảnh giới của Nhất thiết trí và Pháp thân Như lai vốn là cái mà họ không thấy được. Nếu có chúng sinh tin lời Phật, đối với Pháp thân Như lai nghĩ là thường, nghĩ là lạc, nghĩ là ngã, tưởng tịnh. Bạch Đức Thế Tôn! Các chúng sinh kia không phải là Kiến điên đảo, mà gọi là Chánh kiến. Vì sao? Vì chỉ có Pháp thân Như lai là thường Ba-la-mật, Lạc Ba-la-mật, ngã Ba-la-mật, tịnh Ba-la-mật. Bạch Đức Thế Tôn! Nếu chúng sinh đối với pháp thân Phật mà khởi thấy như vậy, thì đó là Chánh kiến. Bạch Đức Thế Tôn! Chánh kiến thật là con của Phật, từ nơi miệng Phật sinh, từ chánh pháp sinh, từ pháp hóa sinh, mà đắc pháp và các tài bảo khác…”.
Lại nữa, bốn thứ công đức Ba-la-mật của Pháp thân Như lai nầy từ nhân hướng đến quả, thứ lớp mà nói phải biết là tịnh, ngã, lạc, thường.
Hỏi: Vì sao thứ lớp từ nhân hướng đến quả?
Đáp: Là chướng của Nhất-xiển-đề phỉ báng Đại thừa, thật không có tịnh mà tâm thích nhiễm chấp lấy thế gian tịnh. Để đối trị chướng nầy, phải biết là các Đại Bồ-tát tin Đại thừa tu hành chứng đắc quả tịnh Ba-la-mật bậc nhất. Các chướng của ngoại đạo thấy có thần ngã trong năm ấm. Thật không có thần ngã mà thích chấp trước ngã. Để đối trị chướng nầy, phải biết là các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật, chứng đắc quả Ba-la-mật là ngã bậc nhất.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Tất cả ngoại đạo chấp trước sắc… không phải sự chân thật, cho là có ngã, mà ngoại đạo kia chấp lấy tướng ngã, nhưng không có tướng ngã điên đảo như vậy, tất cả thời vô ngã, vì nghĩa đó nên nói: “Trí như thật của Như lai biết tất cả pháp Vô ngã cho đến bờ kia bậc nhất, nhưng Như lai không có tướng ngã và tướng vô ngã. Vì sao vậy? Vì mọi lúc đều thấy biết như thật không có luống dối, không có điên đảo.
Hỏi: Đây là dùng nghĩa gì?
Đáp: Là Vô ngã gọi là Hữu ngã. “Là Vô ngã”: Là không có thần ngã luống dối của ngoại đạo kia. “Gọi là Hữu ngã”, tức là Như lai đạt được ngã tự tại, nên kệ nói:
Như chân không thanh tịnh,
Đắc vô ngã bậc nhất,
Chư Phật đắc Thể tịnh,
Gọi là đắc Đại thân.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Đắc Đại thân, là Như lai đắc pháp thân chân như thanh tịnh bậc nhất của Như lai. Thân đó là thật ngã của Chư Phật, Như lai, vì đắc Thể tự tại, vì đắc thân thanh tịnh Đệ Nhất, nên kệ nói: “Chư Phật đắc Thể tịnh”. Vì nghĩa đó mà Chư Phật gọi là đắc tự tại thanh tịnh, nên kệ nói: “Gọi là đắc Đại thân”. Vì nương vào nghĩa nầy mà Chư Phật, Như lai, trong giới vô lậu đạt được ngã tự tại bậc nhất trên hết. Lại cũng nương vào nghĩa như vậy, Pháp thân Như lai không gọi là Hữu, vì tướng vô ngã và tướng vô pháp. Vì nghĩa đó nên không được nói là Hữu, vì như tướng kia, như vậy là Vô. Lại cũng nương vào nghĩa như vậy, Pháp thân Như lai không gọi là Vô, vì chỉ có Thể của Chân như nơi ngã kia, nên chẳng được nói là không có Pháp thân, vì như tướng kia như vậy là Hữu. Dựa vào nghĩa ấy, các ngoại đạo hỏi Như lai sau khi Niết-bàn, là hữu thân hay vô thân? Có các nghĩa như vậy, Như lai không ghi nhận, không đáp.
Các Thanh-văn sợ khổ thế gian, để đối trị sự sợ khổ thế gian đó, các Đại Bồ-tát tu hành các Tam-muội của tất cả thế gian và xuất thế gian, chứng đắc quả Ba-la-mật quả vui số một. Các Bích Chi Phật từ chối đem lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh, họ trụ trong vắng lặng. Để đối trị sự từ bỏ chúng sinh ấy, các Đại Bồ-tát tu hành đại bi, trụ vô hạn đồng thế gian, thường làm lợi ích cho chúng sinh, chứng đắc quả Ba-lamật thường bậc nhất. Đó là Tín, Bát-nhã, Tam-muội, đại bi, là bốn thứ tu hành của các Đại Bồ-tát. Như vậy theo thứ lớp đắc được tịnh, ngã, lạc, thường là bốn thứ công đức quả Ba-la-mật của thân Như lai. Lại cũng có nghĩa là nương vào bốn thứ Pháp thân Như lai nầy gọi là rộng lớn, như pháp giới cứu cánh, như hư không tận cùng đời vị lai.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì Tín tu hành Đại thừa, nên Chư Phật, Như lai thường đắc pháp giới thanh tịnh cho đến bờ kia bậc nhất. Do đó nói: “Rộng lớn như Pháp giới, tu Bát-nhã Ba-la-mật. Do đó Chư Phật, Như lai thành tựu pháp thân hư không , vì khí thế gian rốt ráo vô ngã, vì tu hành vô lượng Tam-muội hư không tạng”. Vì nghĩa đó, trong tất cả xứ tất cả pháp đều được tự tại, nên nói: “Rốt ráo như hư không”. Vì tu hạnh đại bi, khi đối với tất cả chúng sinh không có giới hạn, đắc tâm Từ bi bình đẳng, nên nói: “Tận đời vị lai”
Lại bốn thứ Ba-la-mật nầy trụ trong cõi vô lậu, Thanh-văn và Bích Chi Phật được sức mạnh tự tại, Bồ-tát vì chứng công đức Pháp thân bậc nhất bờ kia của Như lai, có bốn thứ chướng: 1. Tướng duyên. 2. Tướng nhân. 3. Tướng sinh. 4. Tướng hoại.
1. Tướng duyên, là Vô minh trụ địa, tức là vô minh trụ địa nầy làm duyên với hành , như vô minh duyên hành. Vô minh trụ địa duyên cũng như vậy.
2. Tướng nhân, là vô minh trụ địa duyên hành, tức là vô minh trụ địa nầy duyên hành làm nhân, như hành duyên thức. Nghiệp vô lậu duyên cũng như vậy.
3. Tướng sinh, là vô minh trụ địa duyên theo nhân của nghiệp vô lậu sinh ba thứ ý sanh thân, như bốn thứ thủ duyên theo nhân của nghiệp hữu lậu sinh nơi ba cõi, ba thứ ý sanh thân sinh khởi cũng như vậy.
4. Tướng hoại, là ba thứ ý sanh thân duyên nơi đổi khácch tử không thể nghĩ bàn, như nương vào sinh mà duyên nên có già chết. Ba thứ ý sanh thân duyên theo đổi khách tử không thể nghĩ bàn cũng như vậy.
Lại nữa, tất cả phiền não nhiễm đều nương vào vô minh trụ địa căn bản của. Vì không lìa vô minh trụ địa nên Thanh-văn, Bích Chi Phật và Bồ-tát Đại lực, chưa thể xa lìa cấu nhiễm của vô minh trụ địa, nên chưa đạt được vô vi cứu cánh tịnh Ba-la-mật. Cũng vì nương vô minh trụ địa kia mà duyên, vì tướng tế nơi hý luận huân tập chưa được dứt trừ hẳn, nên chưa đạt được vô vi cứu cánh ngã Ba-la-mật. Cũng vì duyên vô minh trụ địa kia mà có tướng tế hý luận huân tập, do nghiệp vô lậu sinh nơi ý, ấm chưa được diệt hẳn, nên chưa đạt vô vi cứu cánh Lạc Bala-mật. Vì các phiền não nhiễm, nghiệp nhiễm, sinh nhiễm, chưa được diệt hẳn, nên chưa chứng cam lồ cứu cánh Pháp thân Như lai. Vì chưa xa lìa đổi khácch sinh tử chẳng thể nghĩ bàn thường chưa rốt ráo, nên chưa đắc thể bất đổi khác, nên chưa đạt được vô vi cứu cánh thường Ba-la-mật. Cũng như phiền não nhiễm, vô minh trụ địa cũng vậy. Như nghiệp nhiễm, hành nghiệp vô lậu cũng vậy. Như Sinh nhiễm, ba thứ Ý Sanh thân và Đổi khách Sinh Tử chẳng thể nghĩ bàn cũng vậy. Như Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn ! Thí như nghiệp Thủ duyên Hữu Lậu, nhân đấy mà sinh ba cõi. Như vậy Bạch Đức Thế Tôn ! Nương vào vô minh trụ địa duyên nơi nhân của nghiệp vô lậu sinh ra ba thứ ý sanh thân của A-la-hán, Bích Chi Phật và Bồ-tát Đại lực. Bạch Đức Thế Tôn ! Ba thứ Ý Sanh thân nơi địa của ba thừa nầy sinh khởi, và nghiệp vô lậu sinh khởi, nương vào vô minh trụ địa là có duyên chẳng phải không duyên”. Các pháp như vậy trong Kinh Thắng-man nói rộng, phải biết.
Lại nữa, vì trước ba thứ Ý Sanh thân của Thanh-văn, Bích Chi Phật và Bồ-tát Đại lực, không có thân công đức giải thoát tịnh, ngã, lạc, thường Ba-la-mật, nên Kinh Thánh giả Thắng-man nói: “Chỉ có Pháp thân Như lai là thường Ba-la-mật, Lạc Ba-la-mật, ngã Ba-la-mật và Tịnh Ba-la-mật.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì tự tánh thanh tịnh của Pháp thân Như lai lìa tất cả tập khí của chướng phiền não và trí chướng nên gọi là tịnh, vì vậy nói: “Chỉ có Pháp thân Như lai là tịnh Ba-la-mật”. Vì đắc ngã tự tại vắng lặng bậc nhất, lìa Vô ngã hý luận Vắng lặng cứu cánh nên gọi là ngã, do đó nói: “Chỉ có Pháp thân Như lai là Ngã Ba-la-mật”. Vì đắc xa lìa nhân ý sanh ấm thân nên gọi là lạc, vì vậy nói: “Chỉ có Pháp thân Như lai là Lạc Bala-mật”. Vì thế gian và Niết-bàn bình đẳng chứng nên gọi là thường, do đó nói: “Chỉ có Pháp thân Như lai là thường Ba-la-mật”.
Lại nói lược có hai pháp, nương vào hai pháp nầy mà Pháp thân Như lai có Tịnh Ba-la-mật phải biết. Hai pháp là: 1. Tự tánh xưa nay thanh tịnh, vì tướng nhân. 2. Thanh tịnh lìa cấu, vì tướng thắng.
Có hai pháp, nương vào hai pháp nầy mà Pháp thân Như lai có Ngã Ba-la-mật, phải biết. Hai pháp là: 1. Xa lìa các Biên ngoại đạo, vì lìa hý luận luống dối về ngã. 2. Xa lìa Biên các Thanh-văn, vì lìa hý luận về Vô ngã.
Có hai pháp, nương vào hai pháp nầy mà Pháp thân Như lai có Lạc Ba-la-mật phải biết. Hai pháp là: 1. Xa lìa tất cả khổ. 2. Xa lìa tất cả tập khí phiền não.
Hỏi: Đây là nói nghĩa gì? Vì sao xa lìa tất cả khổ?
Đáp: Vì dứt trừ tất cả các thứ khổ, vì dứt trừ tất cả ý sanh thân.
Hỏi: Vì sao xa lìa tập khí phiền não?
Đáp: Vì chứng tất cả pháp.
Có hai pháp, nương hai pháp nầy mà Pháp thân Như lai có Thường Ba-la-mật phải biết. Hai pháp là: 1. Không dứt trừ tất cả hành Hữu vi, vì lìa bên chấp đoạn. 2. Không chấp giữ Niết-bàn vô vi, vì lìa bên chấp Thường . Vì nghĩa đó, nên trong Kinh Thánh giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Thấy các Hành vô thường, là Đoạn kiến không phải chánh kiến. Thấy Niết-bàn thường, là thường Kiến không phải chánh Kiến, vì vọng tưởng mà thấy, vì khởi thấy như vậy. Do nghĩa đó, nên nương theo như trước đã nói pháp môn pháp giới bậc nhất nghĩa đế, nói: “Tức pháp thế gian là Niết-bàn”. Vì hai pháp nầy vô phân biệt, vì chứng thế gian, Niết-bàn Bất Trụ, nên kệ nói:
Người hành vô phân biệt,
Vô phân biệt thế gian,
Vô phân biệt Niết-bàn,
Niết-bàn có bình đẳng.
Hỏi: Nửa Kệ sau nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Nếu người không Phật tánh,
Không nên chán các khổ,
Không cầu vui Niết-bàn,
Cũng không muốn không nguyện.
Vì nghĩa này nên Kinh Thánh Giả Thắng-man Kinh nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu không có Như lai tạng, thì không được chán khổ, vui thích cầu Niết-bàn, cũng không muốn Niết-bàn, cũng không mong cầu.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược Phật tánh thanh tịnh là chánh nhân đối với chúng sinh nhóm Bất định có thể khởi hai thứ nghiệp. Hai thứ nghiệp là:
1. Y theo thấy các thứ khổ não của thế gian, vì chán các khổ nên sinh tâm muốn lìa tất cả khổ não trong các thế gian. Kệ rằng: “Người nếu không Phật tánh, không nên chán các khổ”.
2. Y theo thấy Niết-bàn vui, vì mong cầu vui Vắng lặng sinh mà tâm cầu, tâm mong, tâm Nguyện. Kệ rằng: “Người nếu không Phật tánh, không cầu lạcNiết-bàn”, vì không mong muốn không nguyện. Lại Dục là cầu Niết-bàn. Cầu là hy vọng Niết-bàn, hy vọng là trong mong cầu pháp không yếu đuối. Mong muốn đạt được là phương tiện tìm cầu trong pháp được cầu và thăm hỏi. Nguyện, là pháp được kỳ hẹn. Pháp được kỳ hẹn, là Tâm nối tâm cùng hành, nên kệ rằng:
Thấy quả khổ, quả lạc,
Đây nương tánh mà có,
Nếu người vô Phật tánh,
Không khởi tâm như vậy.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Hễ ai thấy có quả khổ thế gian, thì thấy có quả vui Niết-bàn. Hai pháp nầy là gốc lành của chúng sinh, có tất cả dựa nơi nhân là Phật tánh Chân như, không phải lìa Phật tánh không có nhân duyên, nên khởi tâm như vậy. Kệ rằng: “Thấy quả khổ, quả vui. Đây nương tánh mà có”. Nếu không có nhân duyên sinh tâm như vậy, thì Nhất-xiển-đề đều không có tánh Niết-bàn, phải phát tâm Bồ-đề, nên kệ nói: “Nếu người không Phật tánh, Không khởi tâm như thế”. Vì tánh chưa lìa các cấu của tất cả phiền não khách trần, trong ba thừa không hề có tu tập tín tâm của Nhất thừa cũng chưa gần gũi thiện tri thức, cũng chưa tu tập nhân duyên thân cận thiện tri thức, nên trong Luận Hoa Nghiêm tánh Khởi nói: “Kế là có cho đến nhóm tà Kiến, trong thân chúng sinh đều có ánh sáng chiếu soi của vầng mặt trời Như lai, làm cho chúng sinh kia được lợi ích, làm nhân Gốc lành của vị lai nuôi lớn các pháp thiện.
Hỏi: Vừa nói Nhất-xiển-đề thường không nhập Niết-bàn, không có tánh Niết-bàn, đây là nói nghĩa gì?
Đáp: Vì muốn nói về nhân chê bai Đại thừa.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì muốn hồi chuyển tâm chế nhạo Đại thừa và tâm không cầu Đại thừa, vì y theo vô lượng thời mà nói như vậy, vì Nhất-xiển-đề kia thật có tánh thanh tịnh, không nên nói: “Nhất-xiển-đề kia thường rốt ráo không có tánh thanh tịnh”. Lại cũng nương vào nghĩa Tương Ưng, nên nói một bài kệ rằng:
Biển cả, đựng nước báu,
Vô lượng không thể hết,
Như đèn sáng chiếu sắc,
Tánh công đức như vậy.
Nửa đầu bài Kệ nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Pháp thân Phật tuệ định,
Bi nhiếp tánh chúng sinh,
Nước biển châu báu thảy,
Pháp tương tự tương đối.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì có ba Xứ, thứ lớp có ba thứ pháptương tự tương đối của biển cả. Phải biết trong tánh Như lai nương vào nhân tất cánh mà thành tựu nghĩa tương ưng. Ba Xứ là: 1. Nhân pháp thân thanh tịnh. 2. Nhân Tập Phật trí. 3. Nhân Đắc Như lai đại bi.
1. Nhân pháp thân thanh tịnh, là tin tu hành Đại thừa là pháp khí tương tự tương đối, vì nhân kia vô lượng không thể cùng tận, nên kệ nói: “Pháp thân Phật”, là biển pháp tương tự tương đối.
2. Nhân Phật trí, là châu báu của Bát-nhã Tam-muội là pháp tương tự tương đối, nên kệ nói: “Tuệ định”, là châu báu nơi pháp tương tự tương đối.
3. Nhân Đắc đại bi Như lai, vì nước của tâm đại từ bi là pháp tương tự tương đối, nên kệ nói: “Bi thâu tánh chúng sinh”, nước là pháp tương tự tương đối.
Lại tu hành môn trí tuệ Tam Muội báu là pháp tương tự tương đối, trí tuệ kia là vô phân biệt chẳng thể nghĩ bàn do tương ưng thế lực lớn.
Lại tu hành nước Đại bi Bồ-tát là pháp tương tự tương đối, vì đối với tất cả chúng sinh, tâm Đại Bi nhu hòa đắc vị cùng hành trong một vị. Như vậy ba pháp kia, hòa hợp với ba nhân nầy, rốt ráo không lìa nhau, nên gọi là tương ưng.
Hỏi: Nửa Kệ sau nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Thông, trí và vô cấu,
Không xa lìa Chân như,
Như đèn sáng, sắc ấm,
Cõi vô cấu tương tự.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Có ba xứ thứ lớp với ba loại đèn là pháp tương tự tương đối. Trong pháp giới của Như lai, phải biết nương vào nghĩa của quả Tương Ưng. Ba Xứ là: 1. Thông. 2. Trí biết rõ về lậu tận . 3. Lậu tận.
Hỏi: Đây là lấy nghĩa gì?
Đáp: Thông, có năm Thông quang minh là pháp tương tự tương đối, vì sự thọ dụng có thể tan diệt. Pháp tương tự tương đối kia trái với trí , vì pháp của sự đối trị tối tăm có thể trị pháp tương tự tương đối, nên kệ nói: “Thông”, minh.
Trí biết rõ về lậu tận: Là Trí vô lậu Noãn thuộc pháp tương tự tương đối, vì có thể đốt cháy nghiệp phiền não không còn sót , vì có thể đốt cháy pháp tương tự tương đối, nên kệ nói: “Trí”, Noãn.
Lậu Tận là chuyển thân lậu tận của sắc thuộc pháp tương tự tương đối, vì thường vô cấu thanh tịnh, ánh sáng đầy đủ tướng vô cấu là pháp tương tự tương đối, nên kệ nói: “Vô cấu”, sắc. Lại nữa, vô cấu, vì lìa phiền não chướng. Thanh tịnh là vì lìa trí chướng. Ánh sáng là như của tự tánh thể thanh tịnh. Hai thứ phiền não chướng và trí chướng kia là phiền não khách trần. như vậy đã nói lược sáu thứ vô lậu trí, lìa phiền não là sự thâu nhiếp pháp của thân Vô học, trong pháp Vô lậu thì đây kia đắp đổi qua lại không hề lìa nhau, pháp giới không sai khác, bình đẳng rốt ráo, phải biết gọi là nghĩa tương ưng.
Lại nương vào nghĩa hành mà nói một Kệ:
Lời nói người thấy thật,
Phàm phu, bậc Thánh, Phật,
Chúng sinh Như lai tạng,
Chân như không sai khác.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Phàm phu tâm điên đảo,
Thấy thật thì lại khác,
Như thật không điên đảo,
Chư Phật lìa hý luận.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Vừa nói tất cả pháp trong pháp giới của Như lai, Chân như thanh tịnh hiển rõ đồng tướng, nương vào pháp môn Bát-nhã Ba-la-mật Trí Vô phân biệt, vì các Đại Bồ-tát mà nói.
Hỏi: Đây là nghĩa gì?
Đáp: Nói lược nương vào ba hạng người. Ba hạng người là: 1. Phàm phu không thật thấy. 2. Bậc Thánh thật thấy. 3. Thành tựu rốt ráo Pháp thân Như lai. Phải biết đó là ba Hạnh.
Hỏi: Làm sao biết được?
Đáp: Là chấp điên đảo, lìa điên đảo, lìa hý luận, thứ lớp như vậy.
Hỏi: Đây là nghĩa gì?
Đáp: Chấp điên đảo, là ba tưởng Luống dối mà tâm của các phàm phu thấy, nên kệ nói: “Phàm phu tâm điên đảo”. Lìa điên đảo, là bậc Thánh xa lìa Luống dối tưởng tâm mà thấy, nên kệ nói: “Thấy thật khác bậc Thánh”. Lìa hý luận, chính là lìa điên đảo và các hý luận, vì phiền não chướng, trí chướng và tập khí phiền não, Chư Phật, Như lai đã dứt hết hẳn, nên kệ nói: “Như thật không điên đảo, Chư Phật lìa hý luận”.
Từ đây trở xuống còn lại bốn thứ nghĩa nói rộng về sự sai khác, phải biết. Lại nương ngay nơi ba hạng người kia, nương vào thời sai khác mà nói một Kệ:
Có bất tịnh, có tịnh,
Và lấy thiện tịnh thảy,
Như vậy thứ lớp nói,
Chúng sinh, Bồ-tát, Phật.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Sáu câu nghĩa thể thảy,
Nói lược Thể pháp tánh,
Thứ lớp trong ba thời,
Nói ba thứ Danh Tự.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Là nói về pháp tánh vô lậu ở trước, Như lai nói rộng các thứ pháp môn, các pháp môn nói lược nương vào sáu cú nghĩa, điều gọi là thâu nhiếp về nhóm thể, nhân quả, nghiệp, tương ưng và hành, nên kệ nói: “Sáu câu nghĩa của thể, nói lược Thể pháp tánh”, trong ba thời thứ lớp nương theo ba thứ danh tự rốt ráo phải biết, nên kệ nói: “Thứ lớp trong ba thời. Nói ba thứ danh tự”.
Hỏi: Đây là lấy nghĩa gì?
Đáp: Là lúc bất tịnh gọi là chúng sinh, nên kệ nói: “Có bất tịnh”. Khi có cả bất tịnh và tịnh gọi là Bồ-tát, nên kệ nói: “Có tịnh”. Đối với lúc hoàn toàn tịnh gọi là Như lai, nên kệ nói: “Và lấy các thiện tịnh”. Vì ý nghĩa đó nên Kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Nầy Tôn giả Xá-lợiphất! Ngay pháp thân nầy nhiều hơn số cát sông Hằng, là sự trói buộc của vô lượng phiền não, từ vô thỉ đến nay thuận theo sóng dữ sinh tử của thế gian trôi nổi qua lại, gọi là chúng sinh. Nầy Xá-lợi-phất! Ngay pháp thân nầy chán lìa khổ não sinh già của thế gian, xả bỏ tất cả Dục, tu hành mười Ba-la-mật thâu nhiếp tám vạn bốn ngàn pháp môn, tu Hạnh Bồ-đề, gọi là Bồ-tát. Nầy Xá-lợi-phất! Ngay pháp thân nầy được lìa các sai sử vây buộc của tất cả phiền não, vượt qua tất cả khổ, lìa tất cả phiền não cấu mà được tịnh, được thanh tịnh, được trụ trong pháp thanh tịnh bờ kia, đến địa được quán của tất cả chúng sinh, trong tất cả cảnh giới lại không còn có người nào cao qúy hơn, lìa tất cả chướng, lìa tất cả Ngại, trong tất cả pháp chứng đắc lực tự tại, gọi là Như lai Ứng chánh biến Tri”. Kệ rằng: “Như vậy thứ lớp nói, chúng sinh, Bồ-tát, Phật”. Từ đây trở xuống dựa vào ba thời để nói về pháp tánh Như lai khắp tất cả Xứ, nên nói một Kệ:
Như hư không trùm khắp,
Mà không, vô phân biệt,
Tự tánh tâm không nhơ,
Cũng khắp vô phân biệt.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Hơn công đức cứu cánh,
Biến chí và đồng tướng,
Hơn chúng sinh hạ trung,
Như sắc trong hư không.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Tất cả phàm phu, bậc Thánh Chư Phật, Như lai, tự tánh tâm thanh tịnh, bình đẳng vô phân biệt, tâm thanh tịnh kia trong ba thời thứ lớp đối với thời Tội Lỗi, đối với thời công đức, đối với thời công đức thanh tịnh rốt ráo. Đồng Tướng không sai khác cũng như hư không trong ba khí vật Gạch, bạc, vàng bình đẳng không sai khác, tất cả thời đều có. Vì nghĩa đó, trong Kinh nêu rõ có ba thời thứ lớp, như Kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Nầy Xá-Lợi-Phất ! Không lìa thế giới chúng sanh mà có pháp thân, không lìa pháp thân mà có thế giới chúng sanh. Thế giới chúng sanh tức là pháp thân, pháp thân tức là thế giới chúng sanh. XáLợi-Phất! Hai pháp nầy, nghĩa một mà danh khác”.
Từ đây trở xuống, nương ngay ba thời nầy để nói về Pháp tánh Như lai trùm khắp tất cả Xứ, nương vào thời nhiễm tịnh không đổi khác, có mười lăm bài Kệ, phải biết các bài Kệ trong mười lăm bài Kệ nầy nói lược về nghĩa chính yếu. Kệ rằng:
Các lỗi khách trần đến,
Tương ưng tánh công đức,
Thể chân pháp bất biến,
Như đầu, cuối cũng thế.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Mười một kệ và hai,
Thứ lớp thời bất tịnh,
Lỗi phiền não khách trần,
Thứ mười bốn, mười lăm.
Ở trong thời thiện tịnh,
Hơn Hằng sa pháp Phật,
Không lìa thoát nghĩ bàn,
Công đức tự tánh Phật.
Khoảng cách trong bản tế,
Và cùng hậu tế thảy,
Chân như tánh Như lai,
Thể không biến, không khác.
Kệ thứ nhất nương vào không biến, không khác khi bất tịnh, mười một bài kệ là:
Như hư không đến khắp,
Thể tế, trần bất nhiễm,
Phật tánh khắp chúng sinh,
Các phiền não bất nhiễm.
Như tất cả thế gian,
Nương hư không sinh diệt,
Nương vào giới vô lậu,
Có các căn sinh diệt.
Lửa chẳng đốt hư không,
Nếu đốt, không việc đó,
Như vậy già bệnh chết
Không thể đốt Phật tánh.
Đất nương nước mà trụ,
Nước lại nương vào gió,
Gió nương vào hư không,
Hư không chẳng nương đất…
Như vậy ấm, giới, căn,
Trụ trong nghiệp phiền não,
Các nghiệp phiền não thảy,
Trụ bất thiện tư duy.
Hành tư duy bất thiện,
Ở trong tâm thanh tịnh,
Tâm tự tánh thanh tịnh,
Không trụ các pháp kia.
Ấm nhập giới như đất,
Nghiệp phiền não như nước,
Niệm bất chánh như gió,
Cõi tâm tịnh như không.
Nương tánh khởi niệm tà,
Niệm khởi nghiệp phiền não,
Y theo nghiệp phiền não,
Năng khởi ấm, nhập, giới.
Nương dựa vào năm ấm,
Các pháp giới nhập thảy,
Có các căn sinh diệt,
Như thế giới thành hoại.
Tâm tịnh như hư không,
Vô nhân lại vô duyên,
Và nghĩa không hòa hợp,
Cũng không sinh trụ diệt.
Tâm tịnh như hư không,
Thường sáng không chuyển biến,
Vì phân biệt luống dối,
Phiền não khách trần nhiễm.
Hỏi: Kệ Thí dụ về hư không nầy, kệ nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói về tánh Như lai, nương vào thời bất tịnh mà pháp thể bất biến. Kệ rằng:
Gió tư duy bất chánh,
Nước các nghiệp phiền não,
Hư không tâm tự tánh,
Không bị hai kia sinh.
Tâm Tự tánh thanh tịnh,
Tướng nó như hư không,
Gió tư duy tà niệm,
Đều không thể tan hoại.
Nước các nghiệp phiền não,
Đều không thể thấm rã,
Lửa rực già bệnh chết,
Đều không thể thiêu đốt.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Như nương vào Phong luân tà niệm mà dấy khởi nhóm nước nghiệp phiền não. Nương vào nhóm nước nghiệp phiền não mà sinh ấm giới nhập nơi thế gian, nhưng tâm tự tánh hư chẳng phải không sinh không khởi, nên kệ nói: “Gió tư duy bất chánh, nước các nghiệp phiền não, tự tánh tâm hư không, chẳng bị hai kia sinh”. Như vậy nương vào Phong Tai tà niệm, Thủy Tai nghiệp hành phiền não, Hỏa Tai, già bệnh chết mà thổi thấm, đốt hoại ấm nhập giới thế gian, nhưng tự tánh tâm thanh tịnh như hư không thường trụ không hoại. Như vậy khí thế gian trong thời bất tịnh là pháp tương tự tương đối, các phiền não nhiễm, nghiệp nhiễm, Sinh nhiễm đều có Tập có Diệt. Còn tánh vô vi của Chư Phật, Như lai cũng như hư không, bất sinh, bất diệt, thường không thay đổi, nói về Thể pháp. Pháp môn tự tánh thanh tịnh nầy là thí dụ về hư không.
Như trong kinh Đà-la-ni Tự Tại vương Bồ-tát có nói rộng, phải biết trong Kinh đó nói: “Nầy các người Thiện Nam! phiền não vốn không có tự Thể, Chân tánh vốn sáng sạch. Tất cả phiền não yếu mỏng, là Tỳ-bàxá-na (quán) có thế lực lớn, tất cả phiền não khách trần, là căn bản của tâm tự tánh thanh tịnh. Tất cả các phiền não phân biệt luống dối, là tự tánh tâm thanh tịnh như thật vô phân biệt. Này các Phật tử! Ví như đất nương nước mà trụ, nước nương gió mà trụ, gió nương hư Không mà trụ, nhưng hư không kia thì không nương vào đâu để trụ. Nầy các thiện nam! Bốn Đại như vậy, Địa Đại, nước Đại, gió Đại, không Đại, trong bốn Đại nầy chỉ có không Đại là trên hết, làm Đại lực, là vững chắc, là bất động, là bất tán, là bất sinh, là bất diệt, tự nhiên mà trụ. Này các thiện nam! Ba thứ đại kia tương ưng sinh diệt, không có thể tánh thật, sát-na không trụ. Này các Phật tử! Ba đại nầy đổi khác, vô thường. Này các Phật tử! Nhưng thế giới hư không thường không đổi khác. Này các Phật tử! Như vậy Ấm, Giới, Nhập nương nghiệp phiền não mà trụ, các nghiệp phiền não nương tư duy bất chánh mà trụ, tư duy bất chánh nương tánh tự Phật tánh tâm thanh tịnh mà trụ”.
Vì nghĩa đó nên trong kinh nói: “Tự tánh tâm thanh tịnh bị phiền não khách trần nhiễm. Này các thiện nam! Tất cả tà niệm, tất cả nghiệp phiền não, tất cả Ấm, Giới, Nhập, các pháp như vậy tùy theo nhân duyên hòa hợp mà sinh, vì các nhân duyên tan hoại mà diệt. Này các thiện nam! Như giới hư không, tâm tự tánh thanh tịnh cũng giống như vậy. Như thế giới phong Đại, tư duy bất chánh cũng giống như vậy. Như giới thủy Đại, các nghiệp phiền não cũng giống như vậy. Như giới địa đại, Ấm, Giới, Nhập cũng giống như vậy”. Cho nên nói: “Tất cả các pháp đều không có căn bản, đều không chắc thật, không có trụ, không có gốc trụ, căn bản thanh tịnh, không có căn bản”.
Đã nói trong thời bất tịnh nương tướng vô phân biệt, tự tánh tâm thanh tịnh như thế giới hư không là pháp tương tự tương đối. Đã nói nương tự tánh tâm thanh tịnh khởi Phong giới không chánh niệm là pháp tương tự tương đối. Đã nói nương nơi niệm bất chánh khởi thủy giới nghiệp phiền não làm nhân tướng, là pháp tương tự tương đối; đã nói nương theo chỗ sinh Ấm, Giới, Nhập là tướng quả, chuyển biến Địa là pháp tương tự tương đối; chưa nói già, bệnh, chết thiêu đốt v.v… các tướng lửa, là pháp tương tự tương đối, nên kế là nói Kệ:
Có ba lửa thứ lớp,
Cướp đốt người, địa ngục,
Tạo ra các thứ khổ,
Thành thục các hành căn.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói về ba pháp nầy là lửa già bệnh chết, trong thời bất tịnh không thể đổi khác Như lai tạng kia, nên Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Sinh tử, là nương Thế Đế nên nói có sinh tử. Bạch Đức Thế Tôn ! Chết thì các căn hoại. Bạch Đức Thế Tôn! Sinh thì các căn dấy khởi. Bạch Đức Thế Tôn! Nhưng Như lai tạng thì ch sinh chẳng già chẳng tử chẳng biến. Vì sao? Bạch Đức Thế Tôn! Như lai tạng, là lìa cảnh giới của tướng Hữu vi. Bạch Đức Thế Tôn! Như lai tạng, là thường hằng, mát mẻ không thay đổi”.
Đã nói nương vào không thay không đổi của thời bất tịnh, kế là nương không thay không đổi của thời tịnh, bất tịnh mà nói hai Kệ:
Đại Bồ-tát,
Biết Phật tánh như thật,
Chẳng sinh cũng chẳng diệt,
Cũng không già bệnh thảy.
Bồ-tát biết như vậy,
Được lìa khỏi sinh tử,
Vì thương xót chúng sinh,
Thị hiện có sinh diệt.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Các khổ, già, bệnh, chết
Bậc Thánh dứt trừ hẳn,
Nương nghiệp phiền não sinh,
Các Bồ-tát không có.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói về lửa khổ của già, bệnh, chết… trong thời bất tịnh, nương vào bản sinh của nghiệp phiền não, như lửa thế gian nương vào bản Sinh là củi, vì các Bồ-tát được sinh Ý Sanh thân, đối với thời tịnh, bất tịnh rốt ráo diệt hẳn. Vì nghĩa đó, nên các nghiệp phiền não thường không thể thiêu đốt, nhưng vì nương vào lực Từ bi, nói về sinh già, bệnh, chết, mà xa lìa Sinh già, bệnh, chết, vì thấy như thật. Do nghĩa đó, nên các Đại Bồ-tát nương vào gốc lành nơi kiết sử mà sinh, không phải nương lực của tâm tự tại mà sinh. Dù nương vào nơi kiết sử của nghiệp mà sinh, dù nương vào lực đại bi hiện đối với ba cõi để nói về sinh, nói về già, nói về bệnh, thị hiện chết, nhưng Bồ-tát kia không có các pháp khổ của sinh, già, bệnh, chết, vì thấy Chân như như thật, Phật tánh bất sinh bất diệt, nên gọi là thời tịnh, bất tịnh phải biết, như trong kinh nói đã nói rộng là nương vào Ái nghiệp vô lậu phiền não căn bản.
Như đức Trong kinh Như lai Đại Hải Tuệ Bồ-tát, nói: “Nầy Đại Hải tuệ ! Pháp gì có thể trụ vào thiện căn thế gian tương ưng phiền não? Đó là nhóm hợp các gốc lành không có chán đủ, vì tâm nguyện sinh thâu lấy các hữu, vì cầu thấy tất cả Chư Phật, Như lai, vì giáo hóa tất cả chúng sinh, tâm không mỏi mệt, nhiếp lấy tất cả pháp mầu của Chư Phật, đối với tất cả chúng sinh thường làm lợi ích, thường không lìa bỏ Kiết sử của các pháp lạc tham, thường không lìa bỏ Kiết sử của các Ba-la-mật. Đại Hải tuệ! Đó là các Đại Bồ-tát với các gốc lành thế gian tương ưng phiền não, nương vào phiền não nầy, các Đại Bồ-tát sinh vào ba cõi chịu các thứ khổ, nhưng không bị phiền não tội lỗi của ba cõi làm nhiễm ô.
Đại Hải Tuệ Bồ-tát bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Các gốc lành nầy vì sao nói là phiền não? Phật bảo Bồ-tát Đại Hải Tuệ: Này Đại Hải Tuệ! Do phiền não như vậy mà các Đại Bồ-tát có thể sinh vào ba cõi thọ các thứ khổ, là vì nương vào phiền não nầy mà có ba cõi, chẳng phải nhiễm phiền não trong ba cõi mà sinh. Đại Hải Tuệ! Bồ-tát dùng phương tiện trí lực, nương vào lực gốc lành mà tâm sinh ra ba cõi, nên gọi là gốc lành tương ưng phiền não sinh ba cõi, không phải do tâm nhiễm mà sinh. Đại Hải Tuệ! Thí như trưởng giả hoặc cư sĩ… chỉ có một đứa con, rất yêu rất nhớ, thấy mặt thì vui mừng, nhưng người con kia dựa vào nhân là tâm ngu si mà vui đùa, bị rơi vào hố phẩn rất sâu trong nhà xí. Khi cha mẹ và các thân thuộc, thấy người con kia bị rơi vào hố phẩn rất sâu trong nhà xí lớn, liền kêu la, xót thương khóc lóc, nhưng không ai nhảy xuống chỗ ấy để cứu đứa con.
“Bấy giờ, trong đám người đó có con của Trưởng giả, hoặc con của cư sĩ, thấy đứa trẻ kia rớt xuống hố sâu liền sinh khởi tưởng người con, sinh tâm ái niệm, không khởi tâm ác, liền nhảy xuống đó kéo người con kia lên. Này Đại Hải Tuệ! Vì nói lên nghĩa ấy mà nêu thí dụ nầy.
Này Đại Hải Tuệ ! Thế nào là nghĩa kia? Đại Hải Tuệ! Hố sâu phẩn uế trong nhà xí, là ba cõi. Đại Hải Tuệ! Con một, là tất cả chúng sinh. các Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh mà nghĩ là đứa con một. Này Đại Hải
Tuệ ! Lúc đó, Cha mẹ và các thân thuộc, là hạng Thanh-văn và Bích Chi Phật, vì người Nhị thừa thấy các chúng sinh rơi xuống hầm xí rất sâu rất lớn của thế gian, liền xót thương khóc lóc, nhưng không thể cứu độ các chúng sinh kia. Đại Hải Tuệ! Lúc đó, lại có con của một Trưởng giả hoặc con của một cư sĩ, là Đại Bồ-tát, vì lìa các phiền não mà vô cấu thanh tịnh, vì lìa tâm cấu mà hiện thấy Chân như, pháp giới Vô vi, vì tâm tự tại mà hiện sinh nơi ba cõi, để giáo hóa các chúng sinh kia. Này Đại Hải Tuệ! Đó là đại bi của Đại Bồ-tát, rốt ráo xa lìa các Hữu, rốt ráo xa lìa các trói buộc, mà lại sinh vào ba cõi, vì nương phương tiện là lực Bát-nhã mà lửa phiền não không thể thiêu đốt. Muốn giúp cho tất cả xa lìa các trói buộc, mà nói Pháp cho họ nghe. Này Đại Hải Tuệ! Nay Ta nói về câu kinh nầy, nương vào tâm của các Bồ-tát, vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, đắc lực tự tại sinh nơi ba cõi; nương vào các gốc lành và năng lực của tâm Từ bi, nương vào phương tiện là lực Bát-nhã, nên nói về thời tịnh và thời bất tịnh. Lại Đại Bồ-tát dùng trí như thật để biết Pháp thân Như lai là Bất Sinh Bất Diệt, mà đắc công đức vì Thể pháp của Đại Bồ-tát như vậy”.
Từ đây trở xuống, kế là nói thí dụ về châu báu Đại-tỳ-lưu-li Mani.
“Phật nói: Này Đại Hải Tuệ ! Ví như châu báu Đại-tỳ-lưu-li Mani vô giá, khéo Trị, khéo tịnh, khéo tỏa sáng, bị rơi trong bùn,một ngàn năm. Báu Ma-ni kia trải qua một ngàn năm sau mới ra khỏi chốn bùn, rồi dùng nước tẩy rửa, mới được rất sạch, sau đó mới rất trong sáng, liền không mất Thể thanh tịnh vô cấu của báu Ma-ni trước kia. Này Đại Hải Tuệ! Đại Bồ-tát cũng giống như vậy. Thấy biết như thật về tự tánh thanh tịnh, tâm tịnh sáng tỏ của tất cả chúng sinh, nhưng bị phiền não khách trần làm nhiễm ô. Này Đại Hải Tuệ! Các Bồ-tát tâm nghĩ rằng: Các phiền não kia không nhiễm tự tánh tâm thanh tịnh của chúng sinh. Đó là các tâm do phiền não khách trần phân biệt luống dối dấy khởi. Các Bồ-tát tâm lại nghĩ rằng: Ta nay dốc lòng khiến cho các chúng sinh rốt ráo xa lìa các phiền não cấu uế của khách trần, nói pháp họ nghe. Như vậy Bồ-tát không sinh tâm yếu đuối, chuyển tất cả chúng sinh phát sinh lực tăng thượng, Ta phải rốt ráo khiến cho họ được giải thoát. Bồtát bấy giờ tâm lại nghĩ rằng: Các phiền não nầy không có tự thể, các phiền não mỏng yếu, các phiền não đó không có chỗ ở. Như vậy Bồ-tát biết như thật các phiền não do phân biệt luống dối mà có, nương vào tà kiến và tà niệm mà có, vì những người có chánh kiến, thì các phiền não cấu uế không thể khởi được. Lúc nầy Bồ-tát tâm lại suy nghĩ rằng: Ta phải quán sát đúng như thật các phiền não khiến chúng không sinh lại nữa. Vì không sinh phiền não nên sinh các pháp thiện. Nếu ta tự khởi phiền não, thì làm sao vì chúng sinh bị các phiền não trói buộc thuyết pháp khiến họ lìa các phiền não ấy được? Vì ta không nhiễm các phiền não, nên vì các chúng sinh bị phiền não trói buộc thuyết pháp. Ta phải tu hành các Ba-la-mật, khiến các Kiết sử phiền não tương ưng gốc lành, vì muốn giáo hóa các chúng sinh”.
Hỏi: Lại nữa, Thế nào gọi là thế gian?
Đáp: Vì ba cõi là pháp tương tự hình bóng trong gương.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Nương vào pháp giới vô lậu phải biết có ba thứ Ý Sanh thân, thân đó dựa theo sự sanh khởi của gốc lành vô lậu gọi là thế gian, vì lìa sự khởi pháp thế gian của các nghiệp phiền não Hữu Lậu, cũng gọi là Niết-bàn. Nương vào nghĩa nầy mà Kinh Thánh giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn ! Có thế gian Hữu vi, có thế gian vô vi. Bạch Đức
Thế Tôn! Có Niết-bàn Hữu vi, có Niết-bàn vô vi”. Lại nữa, vì Hữu vi, Vô vi, pháp tâm, tâm Sở tương ưng với pháp, nên gọi là thời tịnh và thời bất tịnh. Nghĩa nầy là nói theo Bồ-tát Địa Hiện Tiền thứ sáu. Các lậu dứt hết Bát-nhã-ba-la-mật vô chướng ngại, giải thoát hiện tiền, tu hành đại bi kia, dùng để cứu giúp tất cả chúng sinh, không chấp lấy sự chứng đắc, như trong Kinh Bảo Man nêu rõ, vì nương vào sự dứt hết lậu mà nói thí dụ đi vào thành.
Kinh ấy nói: “Này Thiện nam! Ví như có ngôi thành, rộng mỗi bề một do-tuần, có nhiều cửa vào, đường đi hiểm trở tối tắm đáng sợ, có nhiều người vào thành để thọ hưởng an vui. Lại có một người, chỉ có một đứa con, rất thương yêu quí trọng, từ xa nghe ngôi thành ấy có nhiều hoan lạc như vậy, liền bỏ con, muốn vào thành. Người đó tìm cách vượt qua quãng đường hiểm trở, đến cửa thành, một chân đã bước vào, một chân chưa, liền nhớ đến con, lại nghĩ: Ta chỉ có một đứa con, đến bây giờ vì sao không sống chung? Ai có thể dưỡng nuôi giúp đỡ khiến cho con ta lìa khổ? Liền bỏ thành trở về chỗ con mình. Nầy người thiện nam! Đại Bồ-tát cũng giống như vậy, vì thương xót chúng sanh nên tu tập năm Thông, đã tu tập rồi, sắp được dứt Lậu nhưng không chứng đắc. Vì sao? Vì thương xót các chúng sinh nên xả lậu tận Thông cho đến tu hành trong địa phàm phu này người thiện nam! Thành đó dụ cho Đại Bát Niết-bàn. Có nhiều cửa vào, là dụ cho tám vạn các môn Tam-muội. Đường đi hiểm trở tối tăm đáng sợ, là dụ cho các nghiệp ma. Đến cửa thành đó, là dụ cho năm Thông. Một chân đã vào, là dụ cho trí tuệ còn Một chân chưa, là dụ cho các Bồ-tát chưa chứng giải thoát. Một con, là dụ cho tất cả chúng sinh trong năm đường. Liền nhớ đến con, là dụ cho tâm đại bi. Trở về chỗ con mình, là dụ cho sự điều phục chúng sinh. Sắp được dứt Lậu nhưng không chứng đắc, tức là phương tiện. Thiện Nam! Đại Bồ-tát có tâm Đại Từ đại bi không thể nghĩ bàn. Như vậy, nầy Này Thiện Nam! Đại Bồ-tát có năng lực phương tiện lớn, phát Đại tinh tấn, khởi tâm Vững chắc, tu hành Thiền định chứng được năm Thông. Bồ-tát Như thế nương vào nghiệp thần thông, khéo tu tâm tịnh vô lậu, định Diệt tận hiện tiền, Bồ-tát liền sinh tâm đại bi, vì cứu độ tất cả chúng sinh nên trí thông vô lậu hiện tiền nên hồi chuyển, không thủ chứng Niết-bàn Vắng lặng. Vì giáo hóa chúng sinh nên trở lại lấy thế gian, cho đến nói về người nơi Địa phàm phu. Bồ-tát nơi Địa Diệm tuệ thứ bốn, vì tự lợi ích mà khéo khởi tinh tấn, vì lợi tha mà khéo khởi tâm Vững chắc, lậu dứt sạch hiện tiền. Bồ tát trong địa Nan thắng thứ năm, nương vào năm Thông mà tự Lợi lợi tha, khéo thành thục tâm hạnh vô lậu, định Diệt tận hiện tiền, nên trong Địa Bồ-tát thứ sáu, không có chướng ngại đối với Bát-Nhã Ba-la-mật khởi lậu tận hiện tiền, nên trong Địa Hiện Tiền thứ sáu, Bồ tát chứng được lậu tận tự tại, gọi là thanh tịnh. Bồ-tát đó tự thân tu hành chân chánh như vậy, giáo hóa chúng sinh khiến đạt đến xứ kia, đắc tâm đại từ bi, đối với chúng sinh điên đảo sinh tâm cứu giúp không chấp mắc Niết-bàn vắng lặng, khéo khởi phương tiện nên hiện tiền nơi môn thế gian, vì chúng sinh nên hiện tiền môn Niết-bàn, khiến cho Bồ-đề Phần tròn đầy; tu hành bốn thiền sinh lại cõi Dục, làm lợi ích cho các loài chúng sinh nơi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, phàm phu, nói về nhiều thân, vì chứng được tự tại”.
Đã nói nương vào thời tịnh, bất tịnh không thay không đổi. Kế là nói nương vào thời thiện tịnh không đổi, nên nói hai bài Kệ:
Thân Phật không đổi khác,
Vì đắc pháp vô tận,
Chỗ chúng sinh qui y,
Là vì không bờ mé.
Thường trụ pháp không hai,
Vì lìa phân biệt vọng,
Hằng không giữ không tạo,
Năng lực tâm thanh tịnh.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Bất sinh và bất tử,
Không bệnh cũng không già,
Vì thường hằng mát mẻ,
Và không thay đổi thảy.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Vì thường nên chẳng sinh,
Vì lìa ý sanh thân,
Vì hằng nên chẳng chết,
Lìa thoái khó nghĩ bàn.
Mát mẻ nên không bệnh,
Không tập khí phiền não,
Bất biến nên chẳng già,
Không có hành vô lậu.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói về tánh Như lai đang ở Phật Địa thanh tịnh không bẩn sáng tỏ thường trụ tự tánh thanh tịnh. Vì từ bản tế đến nay là thường nên bất sinh. Vì lìa ý sanh thân, vì cõi vị lai là thường nên chẳng chết. Vì lìa đổi khách sanh tử chẳng thể nghĩ bàn, vì bản từ hậu tế luôn mát mẻ nên không bệnh. Vì lìa sự thâu nhiếp của vô minh trụ Địa. Nếu vậy, tức không bị rơi vào ba đời, vì tánh kia là bất biến nên chẳng già, vì lìa nghiệp vô lậu hồi chuyển. Lại Kệ rằng:
Hữu hai, lại có hai,
Lại có hai, hai câu,
Thứ lớp như thường, thảy
Trong cảnh giới vô lậu.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Thường, hằng, mát mẻ và bất biến, bốn câu nầy trong pháp giới vô lậu thứ lớp từng một câu có từng cặp hai câu để giải thích nghĩa sai khác, như trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Nầy Xá-lợi-phất! Pháp thân Như lai là thường, vì là pháp không hai, vì là pháp bất tận. Xá-lợi-phất! Pháp thân Như lai là hằng, vì thường có thể qui y, vì đời vị lai bình đẳng. Xá-lợi-phất! Pháp thân Như lai là mát mẻ, vì là pháp không hai, vì là pháp vô phân biệt. Xá-lợi-phất! Pháp thân Như lai là bất biến, vì là pháp bất diệt, vì là pháp không tạo tác”.
Đã nói Bất biến, không hai, kế là nói không sai khác. Không sai khác, tức là nương vào thời thiện tịnh từ bản tế đến nay, vì tự Thể rốt ráo hoàn toàn không sai khác với Như lai tạng thiện tịnh, nên nói một Kệ:
Pháp thân và Như lai,
Thánh Đế và Niết-bàn,
Công đức không lìa nhau,
Như ánh sáng mặt trời.
Nửa đầu Kệ nầy nói về nghĩa gì ?
Đáp: Kệ rằng:
Nói lược về Pháp thân,
Nghĩa một mà danh khác,
Nương vào giới vô lậu,
Bốn thứ nghĩa khác nhau.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược trong pháp giới vô lậu, nương vào Như lai tạng có bốn nghĩa, phải biết nương vào bốn nghĩa đó mà có bốn danh.
Hỏi: Bốn nghĩa là?
Đáp: Kệ rằng:
Phật, Pháp không lìa nhau,
Và tánh Chân như kia,
Thể Pháp không luống dối,
Tự tánh xưa nay tịnh.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: “Phật, Pháp không lìa nhau”, là nương vào nghĩa nầy mà Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Như lai tạng bất không, vì nhiều hơn số cát sông Hằng, là pháp, Phật, không lìa không thoát, chẳng thể nghĩ bàn.
“Và tánh Chân như kia”: Là nương theo nghĩa nầy mà Kinh Lục Căn Tụ nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Sáu căn như vậy, từ vô thỉ đến nay thể của các pháp là hoàn toàn rốt ráo.
“Thể Pháp không luống dối”: Là nương vào nghĩa nầy, trong Kinh nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Đệ nhất nghĩa đế, chính là Niết-bàn không luống dối. Vì sao? Thế Tôn! Vì tánh kia từ bản tế đến nay thường dùng thể pháp Bất biến.
“Tự tánh xưa nay tịnh”: Dựa vào nghĩa nầy, nên trong Kinh Phật bảo Bồ tát Văn thù sư lợi: “Như lai Ứng chánh biến tri từ bản tế đến nay luôn nhập Niết-bàn”.
Lại nương vào bốn nghĩa nầy, thứ lớp có bốn thứ danh. Bốn danh là: 1. Pháp thân. 2. Như lai. 3. Đệ nhất nghĩa đế. 4. Niết-bàn. Vì nghĩa đó, Kinh Bất Tăng Bất Giảm chép: “Tôn giả Xá-lợi-phất nói: Như lai tạng tức là pháp thân”.
Lại nữa, Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “ Bạch Đức Thế Tôn! Không lìa pháp thân mà có Như lai tạng. Thế Tôn! Không lìa Như lai tạng mà có pháp thân. Thế Tôn! Nương vào một khổ Diệt Đế mà nói là Như lai tạng. Thế Tôn! Như vậy nói Pháp thân Như lai có vô lượng vô biên công đức. Thế Tôn nói: Niết-bàn, tức là Pháp thân Như lai”.
Hỏi: Nửa Kệ sau nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Giác Nhất thiết chủng trí,
Lìa tất cả tập khí,
Phật và thể Niết-bàn,
Không lìa bậc nhất nghĩa.
Bốn thứ danh nầy, một Vị một nghĩa trong cõi vô lậu của Pháp thân Như lai không có lìa nhau, nên tuy có bốn danh, nhưng bốn nghĩa kia không lìa một pháp môn nào, không lìa một pháp thể nào!
Hỏi: Đây là nghĩa gì?
Đáp: Tất cả pháp đã chứng, là giác ngộ về Nhất thiết trí, lìa tập khí của chướng Nhất thiết trí và phiền não chướng. Hai pháp nầy trong pháp giới vô lậu là không khác, không sai khác, không đoạn, không lìa nhau. Vì nghĩa đó, trong Kinh Đại Niết-bàn, có bài kệ rằng:
Vô lượng thứ công đức,
Tất cả không nghĩ bàn,
Giải thoát không sai khác,
Giải thoát tức Như lai.
Do nghĩa đó, Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Thanh-văn và Bích Chi Phật được Niết-bàn, là phương tiện của Phật”.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Thanh-văn, Bích Chi Phật có Niết-bàn, đây là phương tiện của Chư Phật, Như lai, thấy các chúng sinh vì đường dài, đồng rộng, đi xa mệt mỏi, sợ có thoái chuyển, để ngừng dứt mệt mỏi nên tạo ra hóa thành, Như lai trong tất cả pháp như vậy được đại tự tại, đại phương tiện, nên nói nghĩa như vậy.
Hỏi: Thế Tôn Như lai Ứng chánh biến tri chứng đắc Niết-bàn bình đẳng, tất cả công đức vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn đều thanh tịnh hoàn toàn rốt ráo. Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Nương vào bốn thứ nghĩa: 1. Chư Phật, Như lai, công đức rốt ráo không sai khác. 2. Phật trong quả Vô thượng của tướng Niết-bàn và Niết-bàn. 3. Niết-bàn trong quả Vô thượng của tướng Niết-bàn. 4. Tất cả công đức không lìa nhau, nếu lìa chứng trí trong quả Phật Địa, thì chẳng có người nào khác có pháp Niết-bàn, tức nói về nghĩa như vậy.
Hỏi: Nương vào Nhất thiết chủng trí, thí dụ nói về trong pháp giới vô lậu của Chư Phật, Như lai. Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Dụ về hoạ sĩ trong Kinh Bảo Man, phải biết nói về đầy đủ tất cả công đức. Kệ rằng:
Như vô số họa sĩ
Sự thấy biết đều khác,
Phần biết của người kia,
Phần không biết người nầy.
Có Quốc vương tự tại,
Ra lệnh các họa sĩ:
“Tại nơi nhà vẽ kia,
Vẽ thân ta đầy đủ”.
Các họa sĩ đáy nước,
Tất cả đều ra tay,
Hoặc không thiếu một người,
Mới thành tượng Quốc vương.
Họa sĩ nhận lệnh rồi,
Cùng vẽ tượng Quốc vương,
Trong các hoạ sư đó,
Có một người vắng mặt,
Do vắng mặt người đó,
Tượng Quốc vương không thành,
Tượng đó không đầy đủ,
Tất cả các phần thân.
Điều nói các họa sĩ,
Dụ hạnh thí giới thảy
Nói tượng của Quốc vương,
Là Nhất thiết chủng trí.
Nói họa sĩ vắng mặt,
Là còn thiếu một hạnh,
Nói tượng vua không thành,
Không trí, chưa đầy đủ.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì nghĩa đó, Kinh Bảo Man nói: “Nầy người thiện nam! Hãy lắng nghe! Ta nay nói thí dụ này cho ông nghe! Nầy Thiện nam! Ví như chúng sinh hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới đều có tài vẽ khéo, trong đó có người khéo đắp tượng, hoặc có người khéo tạo sơn, hoặc có người biết vẽ thân mà không biết vẽ tay chân, hoặc có người biết vẽ tay chân mà không biết vẽ khuôn mặt. Bấy giờ có Quốc vương, đem một tờ giấy cho những người đó, nói: “Người nào có thể vẽ được thì đều phải hợp lại, trên trang giấy nầy vẽ thân tướng ta”. Lúc đó các họa sĩ, đều nhóm họp, tùy theo khả năng cùng nhau thực hiện. Có một họa sĩ, vì duyên sự nên rốt cuộc không đến được, mọi người vẽ rồi cùng đem dâng lên vua. Nầy người thiện nam! Có thể nói rằng mọi đều hợp tác vẽ được hay không? Bạch Đức Thế Tôn, không được! Nầy người thiện nam! Nay ta nói ví dụ nầy chính là để dụ cho nghĩa đó chưa hiển hiện. Này Thiện nam! Vì một người vắng mặt, nên không thể nói là tất cả hợp tác làm được, cũng không thể nói tượng đã thành tựu”. Người tu hành pháp Phật cũng giống như vậy. Nếu có một hạnh không thành tựu, thì không gọi là đầy đủ chánh pháp Như lai, nên cần phải gồm các hạnh mới gọi là thành tựu Bồ-đề Vô thượng.
Lại nữa, các Ba-la-mật như Thí, Giới… mỗi ba-la-mật đều sai khác, chỉ là cảnh giới sở tri của Như lai, phải biết Như lai thấu tỏ các thứ sai khác kia là vô lượng vô biên, dùng năng lực tự tại để tính toán đều không thể nghĩ bàn, vì nhằm đối trị các cấu nhiễm của san, Tham… nên được thành tựu Đàn Ba-la-mật, Giới Ba-la-mật thanh tịnh…
Lại nữa, vì tu hành Nhất Thiết Chủng, Nhất Thiết Không trí và vô số môn Tam-muội. Trong địa Bất Động thứ tám của Bồ tát, vô phân biệt tất cả Địa Bồ-tát, không ngăn không cách, mà tự nhiên nương vào đạo trí, tu hành chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, thành tựu đầy đủ giới vô lậu của Như lai, thành tựu tất cả công đức.
Trong địa Thiện tuệ thứ chín của Bồ tát, nương vào A-tăng-kì môn Tam-muội vô lượng môn Đà-la-ni, thâu lấy vô lượng vô biên pháp nương dựa của Chư Phật, nên hiểu tất cả căn trí của chúng sinh, thành tựu vô lượng vô biên công đức Không trí, đắc Pháp Nhẫn vô sinh.
Trong Địa Pháp Vân thứ mười của Bồ tát nương vào tất cả trí mật trí hiện tiền, thành tựu vô lượng vô biên công đức Tụ, Đắc pháp Nhẫn vô sinh không, sau đó chứng đắc các Tam -muội, dứt trừ tất cả phiền não chướng và trí chướng. Y theo các môn giải thoát trí, thành tựu công đức thanh tịnh giải thoát, chứng đắc đầy đủ Nhất thiết chủng, Nhất thiết không trí.
Trong bốn thứ Địa trí như vậy, không phải là Địa của Thanh-văn và Bích Chi Phật, vì Thanh-văn và Bích Chi Phật kia đã ly cách rất xa. Do nghĩa đó, nói bốn thứ thành tựu kia không khác cõi Niết-bàn, nên kệ nói:
Tuệ trí và giải thoát,
Không lìa thể pháp giới,
Cõi Niết-bàn không khác,
Gọi Tương tự tương đối.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì? Lấy gì làm tuệ? Lấy gì làm trí? Lấy gì làm giải thoát?
Đáp: Ba thứ đó không lìa Thật Thể của pháp giới, để nói về bốn thứ công đức thành tựu Thế giới Niết-bàn không sai khác, nên kệ nói: “Không khác Thế cõi Niết-bàn”. Vì bốn nghĩa kia theo thứ lớp, phải biết có bốn pháp tương tự tương đối. Những gì là bốn pháp tương tự tương đối:
1. Trong pháp thân của Phật nương vào tuệ không phân Xuất thế gian biệt, có thể phá trừ Vô minh tối tăm bậc nhất ánh sáng chiếu soi phải biết là pháp tương tự tương đối, nên kệ nói: Gọi Tương tự tương đối”, là tuệ.
2. Nương vào trí, nên đắc trí Nhất thiết trí, biết tất cả chủng loại, chiếu soi tất cả sự, phát ra ánh sáng như như lưới rộng, phải biết là pháp tương tự tương đối, nên kệ nói: “Gọi tương tự tương đối”, là trí.
3. Nương vào hai tự tánh tâm thanh tịnh giải thoát kia, vầng ánh sáng thanh tịnh không cấu lìa cấu, phải biết là pháp tương tự tương đối, nên kệ nói: “Gọi Tương tự Tương Đối”, là giải thoát.
4. Ngay trên ba thứ không lìa pháp giới, không lìa thật thể, không cùng lìa nhau, phải biết là pháp tương tự đối. nên kệ nói: “Không lìa thể pháp giới”. Gọi Tương tự tương đối, do đó Kệ rằng:
Không chứng thân Chư Phật,
Niết-bàn không thủ đắc,
Nếu lìa bỏ ánh sáng,
Mặt trời không thấy được.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì như vừa nói, trong pháp giới vô lậu, thế giới từ vô thỉ đến nay, tất cả công đức của các pháp vô lậu trong pháp thân Chư Phật, là không rời nhau. Vì nghĩa đó, nên xa lìa vô chướng không ngại của Như lai, lìa tất cả chướng của pháp thân, trí tuệ, thì thể tướng của Niết-bàn không thể thấy được, không thể chứng được, như lìa ánh sáng của mặt trời thì không có vầng mặt trời có thể thấy được. Do nghĩa đó, nên Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Pháp không có hơn kém, nên đắc Niếtbàn, biết trí bình đẳng của các pháp, nên đắc Niết-bàn. Vì trí bình đẳng nên đắc Niết-bàn, vì giải thoát bình đẳng cho nên đắc Niết-bàn, vì giải thoát Tri Kiến bình đẳng nên đắc Niết-bàn”. Vì vậy, Đức Thế tôn nói: “Cõi Niết bàn một vị như nhau”, là nói một vị giải thoát.
LUẬN CỨU CÁNH NHẤT THỪA BẢO TÁNH
QUYỂN 4
Phẩm thứ 6: VÔ LƯỢNG PHIỀN NÃO TRÓI BUỘC
Luận chép: Kệ nói.
Vừa nói Như lai tạng,
Mười nghĩa đã hiện rõ,
Kế nói phiền não buộc,
Dùng chín thứ thí dụ.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Vừa rồi nương Như lai tạng mà nói Thế giới từ vô thỉ đến nay, pháp kia hằng thường trụ nơi Thể pháp không chuyển biến, là nói Như lai tạng có mười nghĩa. Từ đây trở xuống nương vào thế giới từ vô thỉ đến nay bị phiền não trói buộc, nói thế giới ấy, tự tánh tâm thanh tịnh đầy đủ pháp thân, dùng chín thí dụ để nói về Như lai tạng, nhiều hơn số cát sông Hằng sự buộc của Tạng phiền não, phải biết kinh nêu chín thứ thí dụ, như Kệ rằng:
Chư Phật trong hoa héo,
Mật ngọt trong bầy ong,
Ruột quả bọc trong vỏ,
Vàng ròng trong phân nhơ
Châu báu trong lòng đất,
Mầm non trong hạt quả,
Áo cũ mục dơ rách,
Trong đó gói tượng vàng.
Cô gái nghèo xấu xí,
Mang thai Vua chuyển luân,
Trong khuôn bùn cháy đen,
Có Tượng báu tốt đẹp.
Chúng sinh tham sân si,
Vọng tưởng phiền não thảy,
Trong trần Lao các cấu,
Đều có Như lai tạng.
Hỏi: Kệ nầy nghĩa gì?
Đáp: Từ đây trở xuống dựa vào đó để nói lược về câu nghĩa của bốn kệ nầy, thí dụ còn lại, trong năm mươi bốn bài kệ đã nói rộng, nên biết bốn kệ nầy là nói lược chung về nghĩa trong kệ rộng kia, nên biết, lại cũng nương vào nghĩa đó nói lược hai bài kệ:
Hoa, ong, bao phẩn uế,
Đất, quả, áo cũ rách,
Cô gái nghèo, khuôn bùn,
Tương tự phiền não cấu.
Phật, mật, thật vàng ròng,
Ngà báu Kim tượng vương,
Các Tượng báu tốt đẹp,
Tương tự Như lai tạng.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Các dụ Hoa va Ong,
Nói trong thân chúng sinh,
Vô thỉ thế giới nay,
Có các phiền não bẩn
Các dụ Phật Mật thảy,
Nói trong thân chúng sinh,
Vô thỉ nay đầy đủ
Thể tự tánh vô cấu.
Lại nữa, nói lược Như lai tạng nầy, trong kinh nói về tâm bị phiền não của khách trần làm nhiễm của tất cả cõi chúng sanh từ Thế giới vô thỉ đến nay. Từ Thế giới vô thỉ đến nay, pháp thân tịnh diệu và Như lai tạng không lìa nhau, nên Kinh nói: “Nương vào tâm tự luống dối nhiễm mà chúng sinh nhiễm, nương vào tự tánh tâm thanh tịnh mà chúng sinh tịnh”.
Hỏi: Thế nào là tự tâm nhiễm?
Đáp: Nương vào tự tâm nhiễm có chín thứ thí dụ, như là hoa héo… Kệ rằng:
Tham sân si nối tiếp,
Và Kiết sử huân tập,
Kiến, Tu đạo bất tịnh,
Và Địa tịnh có cấu.
Các dụ Hoa héo thảy
Nói chín thứ đối nhau,
Vô biên phiền não buộc,
Nên nói tướng sai khác.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược có chín thứ phiền não, trong tự tánh thanh tịnh của cõi Pháp thân Như lai, tức chín thứ thí dụ như Hoa héo… đối với tánh thường của Chư Phật… Ngoài ra, các phiền não cấu của tướng khách cũng giống như vậy, là đối với tướng khách trần của Chân như, Phật tánh thường hằng. Chín thứ phiền não là: 1. Phiền não tham sử. 2. Phiền não sân sử. 3. Phiền não si sử. 4. Phiền não tham sân si kiết sử tăng thượng. 5. Sự thâu nhiếp phiền não của vô minh trụ địa. 6. Sự dứt trừ phiền não của Kiến đạo. 7. Sự dứt phiền não của Tu đạo. 8. Sự thâu nhiếp phiền não của địa bất tịnh. 9. Sự thâu nhiếp phiền não của địa tịnh . như vậy chín thứ phiền não nầy, phải biết là dùng chín thứ thí dụ kia để hiển bày.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Tham sân si thế gian… là sự thâu nhiếp phiền não trong thân chúng sinh, có thể sở duyên của nghiệp ở địa Bất động, thành tựu quả báo của cõi sắc và cõi Vô Sắc, trí xuất thế gian có công năng dứt trừ, gọi là phiền não tham sân si sử, Kệ rằng: “Tham sân si nối tiếp”.
Lại sự thâu nhiếp phiền não trong thân tham sân si tăng thượng của chúng sinh, có thể làm hành duyên của phước nghiệp và tội nghiệp, chỉ có thể thành tựu quả báo cõi dục, chỉ có trí quán bất tịnh mới có thể dứt, gọi là Kiết sử phiền não tham sân si tăng thượng. Kệ rằng: “Và Kiết sử”. Lại nữa, sự thâu nhiếp phiền não trong thân A-la-hán, có thể làm hành duyên cho các nghiệp vô lậu, có thể sinh quả báo của ý sanh thân vô cấu, chỉ có trí Bồ-đề của Như lai mới dứt trừ được, gọi là sự thâu nhiếp phiền não Vô minh trụ địa, nên kệ nói: “huân tập”.
Lại nữa, có hai thứ Học nhân: 1/. phàm phu. 2/. bậc Thánh.
Sự thâu nhiếp phiền não trong thân phàm phu. Tâm xuất thế gian ban đầu thấy pháp trí Xuất thế gian mới có thể dứt gọi là sự gồm nhiếp phiền não Kiến đạo, nên kệ nói: “Kiến đạo”. Sự thâu nhiếp phiền não trong thân bậc Thánh, như trước kia thấy Xuất thế gian trí Tu đạo của pháp xuất thế gian mới có thể dứt, gọi là phiền não do Tu đạo mà dứt, nên kệ nói: “Tu đạo”.
Lại nữa, sự thâu nhiếp phiền não của Bồ-tát không cứu cánh, là từ Sơ địa cho đến địa thứ bảy, đối trị pháp được ở bảy Trụ địa, từ tám địa trở lên tức trong ba Trụ địa, còn lại trí tu đạo mới có thể đoạn, gọi là chỗ thâu nhiếp phiền não của địa bất tịnh, nên kệ nói: “Bất tịnh”.
Lại nữa, sự thâu nhiếp phiền não trong thân của Bồ-tát cứu cánh. Tám địa trở lên gồm ba địa, là chỗ pháp được đối trị của trí Tu đạo, trí của Tam-muội Kim cương mới có thể đoạn, gọi là sự thâu nhiếp phiền não của địa tịnh, nên kệ nói: “Và địa tịnh có cấu”. Đó là nói lược thứ lớp về chín thứ phiền não, và chín thứ thí dụ như Hoa héo… phải biết là đã nói rộng.
Lại nữa, ngay nơi chín thứ phiền não nầy, dựa vào tám vạn bốn ngàn hạnh của chúng sinh, có tám vạn bốn ngàn phiền não sai khác, như trí Như lai vô lượng vô biên, có vô lượng vô biên phiền não như vậy trói buộc Như lai tạng, do đó nói “Sự buộc Như lai tạng của vô lượng Tạng phiền não”, nên kệ nói:
Ngu si và La-hán,
Các Hữu Học Đại trí,
Thứ lớp bốn loại bẩn,
Và một, hai lại hai.
Thứ lớp nói như vậy,
Bốn phàm một bậc Thánh,
Hai Học, hai đại trí,
Gọi là địa bất tịnh.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì ?
Đáp: Chín thí dụ ấy, trong giới vô lậu thứ lớp như vậy nói về bốn thứ thí dụ, và thí dụ thứ năm, sau đó là từng cặp hai phiền não, các cấu nương vào, vì phiền não cấu nhiễm nên nói “Không thanh tịnh”.
Hỏi: Lại làm sao biết chín phiền não Tham Sân… nầy, đối với chín thí dụ như Hoa héo… là tương tự tương đối? Lại làm sao biết Như lai tạng đối với chín thí dụ của Chư Phật… là tương tự tương đối?
Đáp: Kệ rằng:
Nương thần lực của Phật,
Có các Hoa tốt kia,
Khi còn đẹp thì yêu
Lúc héo úa chẳng yêu,
Hoa nương vào tươi héo,
Mà có yêu chẳng yêu,
Phiền não tham cũng vậy,
Trước thích, sau chẳng thích.
Bầy ong làm thành mật,
Tâm sân cắn các hoa,
Khi tâm giận nổi lên,
Sinh các thứ khổ não.
Lúa trong ruột chắc thật,
Bên ngoài vỏ bao bọc,
Tâm si bao như vậy,
Không thấy trong chắc thật.
Giống như mùi phân nhơ,
Trí quán tham cũng vậy,
Khởi các tướng tâm Dục,
Kiết sử như phẩn nhơ.
Ví như trong đất kia,
Có kho thứ báu,
Chúng sinh chẳng thiên nhãn,
Cho nên không thể thấy.
Trí tự tại như vậy,
Bị đất Vô minh che,
Chúng sinh không mắt trí,
Cho nên không thể thấy.
Như hạt lìa vỏ bọc,
Lần lượt nẩy mầm mộng,
Thấy đạo dứt phiền não,
Thứ lớp sinh các địa.
Vì dứt thân Kiến thảy,
Nhiếp lấy đạo Thánh mầu,
Tu đạo dứt phiền não,
Cho nên nói áo rách.
Các cấu trong bảy địa,
Giống như thai bị bao,
Trí xa lìa Thai tạng,
Thuần thục vô phân biệt.
Ba địa biết các cấu,
Như tượng trong khuôn bùn,
Các Bồ-tát Đại trí,
Trí Định Kim cương dứt.
Hoa héo đến khuôn bùn,
Chín thí dụ như vậy,
Hiển thị tham sân si…
Chín thứ phiền não cấu.
Như lai tạng trong cấu,
Phật… là pháp tương đối,
Chín thứ nghĩa như vậy,
Ba loại thuộc về thể.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Là nương vào pháp thân, tự tánh tâm thanh tịnh và Như lai tạng, là ba thứ thật thể, phải biết có Chư Phật… nơi chín thứ thí dụ là pháp tương tự tương đối. Ba thứ thật thể đó, Kệ rằng:
Pháp thân và Chân như,
Tánh Như lai thật thể,
Ba thứ và một thứ,
Năm thứ dụ hiện bày,
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Phải biết ba thí dụ đầu nói về Pháp thân Như lai. Ba thí dụ đầu là: 1. Chư Phật. 2. Mật ngọt. 3. Vững chắc, là thị hiện pháp thân, nên kệ nói: “Pháp thân”. Một loại thí dụ, là vàng ròng để nói về Chân như, nên kệ nói: “Chân như”.
Lại năm thí dụ là?
1. Đất chứa. 2. Thọ (cây). 3. Tượng vàng. 4. Vua Thánh Luân vương. 5. Tượng báu. Có thể sinh ba thứ thân Phật, nói về tánh Như lai, nên kệ nói: “Tánh Như lai”. Lại pháp thân, là như Kệ rằng:
Pháp thân có hai thứ,
Chân pháp giới thanh tịnh,
Và nương tập khí kia,
Nói về nghĩa sâu cạn.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Chư Phật, Như lai có hai thứ pháp thân, hai thứ pháp thân là:
1. Thân pháp giới vắng lặng, vì là cảnh giới của trí vô phân biệt, như vậy Pháp thân của Chư Phật, Như lai, phải biết chỉ có từ pháp giới Nội thân mới có thể chứng đắc, nên kệ nói: “Chân pháp giới Thanh tịnh”.
2. Là vì chứng đắc nhân của Chân pháp giới thanh tịnh kia, là từ pháp giới vắng lặng pháp, dựa vào chúng sinh đáng hóa độ mà nói, phải biết sự nói pháp đó, là nương vào Chân như, Pháp thân nên sự nói pháp đó, gọi là tập khí, vì thế Kệ rằng: “Và nương tập khí kia”, sự nói pháp nầy có hai thứ: a. Tế. b. Thô.
a) Tế là nói pháp tạng sâu xa bí mật của các Đại Bồ-tát, vì nói theo bậc nhất nghĩa đế mà nói
b) Thô là sự nói các thứ khế kinh, Kì-dạ, Hòa-già-la-na, Già-đà, Ưu-đà-na, Ni-đà-na… với những danh, tự, chương, cú có các thứ sai khác, vì nương vào thế đế, nên kệ nói:
Vì pháp Xuất thế gian,
Trong đời không thí dụ,
Cho nên nương tánh kia,
Lại nói tánh thí dụ.
Như mật ngọt một vị,
Pháp sâu kín cũng vậy,
Nói khế kinh vân vân,
Như các thứ vị khác.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Chư Phật, mật ngọt và vững chắc, ba thí dụ, đây là nói về Như lai, Pháp thân Chân như có hai nghĩa: 1. Trùm khắp tất cả chúng sinh. 2. Khắp trong thân hữu dư và vô dư, nói về tất cả chúng sinh có Như lai tạng.
Hỏi: Đây nói về nghĩa gì?
Đáp: Trong thế giới chúng sanh không có một chúng sinh nào lìa Pháp thân Như lai, ở ngoài Pháp thân, lìa trí Như lai ở ngoài trí Như lai, như các thứ sắc tượng chẳng lìa hư không, nên kệ nói:
Ví như các sắc tượng,
Chẳng xa lìa hư không,
Như vậy thân chúng sinh,
Không lìa trí Chư Phật.
Lấy những nghĩa như vậy,
Nói tất cả chúng sinh,
Đều có Như lai tạng,
Như sắc trong hư không.
Vì tánh không thay đổi,
Thể xưa nay thanh tịnh,
Như vàng ròng bất biến,
Nên nói dụ cho chân như.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói về tánh của Chân như, Như lai, cho đến tâm tự tánh thanh tịnh trong thân chúng sinh tà nhóm không khác không sai khác, quang minh sáng tỏ. Vì lìa các khách trần phiền não, nên sau đó nói Pháp thân Như lai như vậy, dùng vàng ròng duy nhất làm thí dụ, nương vào Chân như không sai khác, chẳng lìa Pháp thân Phật, nói các chúng sinh đều có Như lai tạng, vì tâm tự tánh thanh tịnh. Tuy nói là thanh tịnh nhưng xưa nay là pháp không hai, vì thế trong Kinh Phật bảo Bồ tát Văn-thù-sư-lợi: “Văn-thù-sư-lợi! Như lai thấy biết như đúng thật về trí căn bản tự thân thanh tịnh, vì nương vào trí căn bản của tự thân, mà biết các chúng sinh có thân thanh tịnh. Nầy Văn-thù-sư-lợi! Điều gọi là tự tánh nơi thân thanh tịnh của Như lai, cho đến tự tánh trong thân thanh tịnh của tất cả chúng sinh, hai pháp nầy là không hai, không sai khác, nên kệ nói:
Tất cả các chúng sinh,
Như lai tạng bình đẳng,
Pháp Chân như thanh tịnh,
Gọi là Thể Như lai.
Nương vào nghĩa như vậy,
Nói tất cả chúng sinh,
Đều có Như lai tạng,
Phải hiểu biết như vậy.
Lại nữa, Kệ rằng:
Phật tánh có hai thứ,
Một là như lòng đất,
Hai là như quả cây,
Thế giới vô thỉ nay.
Tự tánht Tâm thanh tịnh,
Tu hành đạo Vô thượng,
Nương hai thứ Phật tánh,
Xuất hiện ba thứ thân.
Nương thí dụ thứ nhất,
Biết có Pháp thân đầu,
Nương thí dụ thứ hai,
Biết có hai thân Phật.
Chân Phật Pháp thân tịnh,
Giống như tượng vàng ròng,
Vì tánh không thay đổi,
Nhiếp thể thật công đức.
Chứng vị Đại pháp vương vị,
Như vua Thánh Chuyển Luân,
Nương Thể của gương bóng,
Có ảnh Phật hóa hiện.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Năm thí dụ còn lại, là thí dụ về tạng, Thọ (cây), tượng vàng, Vua Chuyển vua Thánh, Tượng báu, để nói về sinh ba Pháp thân Phật kia, vì nương vào tánh của tự thể là tánh Như lai nhưng các chúng sinh còn ẩn tàng, nên nói: “Nói tất cả chúng sinh, đều có Như lai tạng”.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì Chư Phật, Như lai có ba thân, được gọi là nghĩa. Năm thí dụ nầy có thể làm nhân của ba thứ Pháp thân Phật. Vì nghĩa đó nên nói năm thứ thí dụ là nhân của tánh Như lai.
Hỏi: Đây làm rõ nghĩa gì?
Đáp: Trong đây nói về nghĩa của tánh lấy làm nghĩa của nhân. Vì nghĩa đó nên Kệ trong Kinh có bài kệ rằng:
Tánh đời vô thỉ nay,
Làm chỗ nương các pháp,
Nương tánh có các đạo,
Và chứng quả Niết-bàn.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: “Tánh từ đời vô thỉ”: Như trong Kinh nói: “Chư Phật Như lai nương vào Như lai tạng, mà nói bản Tế của các chúng sinh từ vô thỉ đến nay không thể biết được”. Các gọi là tánh: Như Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Như lai nói Như lai tạng, là pháp giới tạng, Pháp thân tạng xuất thế gian, là tạng thượng thượng, xuất thế gian tự tánh thanh tịnh tạng Pháp thân, tự tánh thanh tịnh tạng Như lai” tự tánh thanh tịnh.
“Làm chỗ nương các Pháp”: Là như Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Do đó Như lai tạng là dựa, là giữ vững, là trụ trì, là tạo lập. Bạch Đức Thế Tôn! Không lìa, trí không lìa, không đoạn, không thoát, không khác vô vi, phật pháp không thể nghĩ bàn. Bạch Đức Thế Tôn! Ngoài đoạn, thoát và dị ra, cũng có lìa, lìa trí pháp hữu vi, cũng nương, cũng nắm giữ, cũng trụ trì, cũng kiến lập, vì nương vào Như lai tạng”. “Nương tánh có các đạo”, như Kinh Thánh Giả Thắngman nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Sinh tử là nương vào Như lai tạng. Bạch Đức Thế Tôn !Như lai tạng nên nói sinh tử, gọi đó là khéo nói”. “Và chứng quả Niết-bàn”, như Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: Bạch Đức Thế Tôn ! Vì nương vào Như lai tạng nên có sinh tử, vì nương vào Như lai tạng nên chứng Niết-bàn”.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói về Như lai tạng và Pháp thân Như lai rốt ráo không sai khác, Thể tướng Chân như rốt ráo quyết định Thể của Phật tánh, trong tất cả thời tất cả thân chúng sinh, phải biết thảy đều có đủ không sót.
Hỏi: Điều nầy làm sao biết?
Đáp: Nương vào pháp tướng để biết. Do đó Kinh nói: “Này người Thiện nam! Pháp tánh, thể tánh của pháp và tự tánh nầy thường trụ, Như lai ra đời hoặc không ra đời, thì tự tánh thanh tịnh xưa nay vẫn thường trụ”.
Hỏi: Tất cả chúng sinh có Như lai tạng, là nói về nghĩa gì?
Đáp: Nương vào pháp tánh, nương nơi pháp thể, nương vào pháp tương ưng, nương vào pháp phương tiện, các pháp nầy như vậy hay không như vậy, đều không thể nghĩ bàn. Tất cả xứ đều nương vào pháp, nương pháp mà xét, nương pháp mà tín, mà đắc tâm tịnh, đắc tâm định, các pháp kia không thể phân biệt, là thật hay bất thật, chỉ nương theo Như lai mà tin, nên kệ nói:
Chỉ nương Như lai tin,
Tin vào bậc nhất nghĩa,
Như người không có mắt,
Không thể thấy mặt trời.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược trong tất cả thế giới chúng sanh có bốn thứ chúng sinh, không biết Như lai tạng như người mù bẩm sinh. Những gì là bốn thứ: 1. Phàm phu. 2. Thanh Văn. 3. Bích Chi Phật. 4. Bồ-tát mới phát Bồ-đề tâm. Như Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Như lai tạng, là đối với chúng sinh thân Kiến, thì Như lai tạng không phải là cảnh giới của họ. Thế Tôn! Như lai tạng, đối với chúng sinh chấp giữ bốn điên đảo, thì Như lai tạng không phải là cảnh giới của họ. Thế Tôn! Như lai tạng, đối với chúng sinh tán loạn tâm đánh mất không, thì Như lai tạng không phải là cảnh giới của họ”.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: chúng sinh thân Kiến, là các phàm phu. Vì phàm phu thật không có các pháp năm ấm như sắc… mà chấp cho là có ngã và ngã Sở, luống dối chấp trước nơi ngã mạn và ngã Sở Mạn, đối với pháp cam lồ của tánh Diệt Đế vô lậu lìa thân kiến muốn tin cũng không được, huống chi là cảnh giới Nhất thiết trí Như lai tạng Xuất thế gian mà có thể chứng có thể hiểu, không có việc đó.
Lại nữa, chúng sinh chấp giữ bốn điên đảo, là hạng Thanh-văn, Bích Chi Phật. Vì Thanh-văn Bích Chi Phật kia lẽ ra phải tu hạnh Như lai tạng thường, nhưng không tu hạnh Như lai tạng để thành tựu thường!
Vì bón điên đảo chấp giữ tất cả pháp vô thường, tu hạnh Như lai tạng vô thường, ưa thích vô thường mà tu hành, vì không hay không biết, nên lẽ ra phải tu hạnh Như lai tạng lạc, nhưng không tu hạnh Như lai tạng để thành tựu lạc!
Vì điên đảo chấp trước tất cả pháp đều là khổ, tu hạnh Như lai tạng khổ, ưa thích khổ mà tu hành, vì không hay không biết, đáng lẽ phải tu hạnh Như lai tạng ngã, nhưng không tu hạnh Như lai tạng để thành tựu ngã!
Vì điên đảo chấp trước tất cả pháp Vô ngã, tu hạnh Như lai tạng Vô ngã, ưa thích Vô ngã mà tu hành, vì không hay không biết, đáng lẽ phải tu hạnh Như lai tạng thanh tịnh, nhưng không tu hạnh Như lai tạng thành tựu tịnh!
Vì điên đảo chấp giữ tất cả pháp bất tịnh, tu hạnh Như lai tạng bất tịnh, vì không hay không biết, Thanh-văn Bích Chi Phật như vậy, tất cả không thể như thật thuận theo Pháp thân mà tu hành!
Vì nghĩa đó, pháp bậc nhất giải thoát thường lạc ngã tịnh không phải là cảnh giới Thanh-văn và Bích Chi Phật nhận biết, như vậy ưa thích các tướng điên đảo vô thường, khổ, Vô ngã và bất tịnh, Như lai tạng kia không phải là cảnh giới của Nhị thừa. Phải biết nghĩa như vậy nơi kinh Đại Bát Niết-bàn đã nói, thí dụ ao nước nói rộng về nghĩa nầy. Trong kinh đó nói: “Nầy Ca Diếp! Ví như vào mùa xuân, nhiều người đang tắm gội trong ao nước lớn, có người ngồi thuyền dạo chơi, làm rớt viên ngọc báu Lưu-ly chìm dưới đáy ao. Lúc đó, mọi người cùng lặn xuống nước để tìm viên ngọc, tranh nhau tìm kiếm, mò được gạch đá cỏ cây cát sỏi, ai nấy đều cho mình đã được ngọc lưu-ly, mừng rỡ nắm chặt, khi lên khỏi nước mới biết chẳng phải thật, tức viên ngọc báu vẫn còn dưới nước. Do lực dụng của viên ngọc nên nước được lắng trong, do đó mọi người nhìn thấy ngọc báu nằm dưới nước, cũng như ngửa nhìn mặt trăng trên hư không. Lúc nầy trong số đó có một người khôn, dùng sức phương tiện từ từ lặn xuống nước, lấy được viên ngọc. Nầy các Tỳ-kheo! Tu tập tưởng vô thường, khổ, Vô ngã, tưởng bất tịnh cho là chân thật, như những người kia, ai nấy đều mò lấy gạch đá cỏ cây cát sỏi cho là ngọc báu! Các thầy phải khéo học tạo phương tiện, bất cứ chỗ nào cũng thường tu tưởng ngã, tưởng Thường, tưởng Lạc, tưởng Tịnh. Lại phải nên biết, trước kia sự tu tập bốn pháp tướng mạo đều là điên đảo, người tu các tưởng muốn chứng được chân thật, như người trí kia khéo lấy viên ngọc lên khỏi nước, đó là tưởng Ngã, tưởng Thường, tưởng Lạc, tưởng Tịnh”.
Lại nữa, chúng sinh tâm tán loạn, đánh mất không, là Bồ-tát mới phát tâm, là nghĩa lìa Như lai tạng không, dùng việc mất vật biến hoại mà tu hành, gọi là môn giải thoát không.
Hỏi: Đây nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì Bồ-tát mới phát tâm nghĩ rằng: “Thật có pháp đoạn diệt sau khi đắc Niết-bàn, như vậy là Bồ-tát đánh mất Như lai tạng Không mà tu hành. Lại có người lấy Không làm vật có đáng lẽ ta phải đắc Không”. Lại cũng nghĩ rằng: “Lìa các pháp như sắc… lại Không riêng có, Ta phải tu hành khiến chứng đắc Không kia”.
Hỏi: Người kia chẳng biết Không thì lấy các pháp gì làm Như lai tạng? Đáp: Kệ rằng:
Như lai tạng bất không,
Là Phật pháp Vô thượng ,
Tướng chẳng lìa bỏ tướng nhau ,
Không thêm bớt một pháp!
Thân Như lai vô vi,
Tự tánh xưa nay tịnh,
Khách trần luống dối nhiễm,
Xưa nay tự tánh không.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Không bớt một pháp nào, là không bớt phiền não. Không thêm một pháp nào, là trong tánh Chân như không tăng thêm một pháp nào, vì không xả lìa thể thanh tịnh, nên kệ nói: “Tướng chẳng xả lìa nhau, không thêm bớt một pháp”. Cho nên Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Có hai loại Như lai tạng không trí. Thế Tôn! Như lai tạng không, hoặc lìa hoặc thoát hoặc khác tất cả phiền não tạng. Thế Tôn! Như lai tạng bất không, nhiều hơn số cát sông Hằng không lìa, không thoát, không khác, là pháp Phật không thể nghĩ bàn”.
Hỏi: như vậy các phiền não nào và những xứ nào là không?
Đáp: Thấy biết như thật như vậy gọi là trí không.
Hỏi: Lại nữa, thế nào là pháp Chư Phật, nơi đâu có đầy đủ?
Đáp: Thấy biết đúng thật như vậy gọi là trí bất không. Như thế là đã nói về lìa hai Biên có không mà biết về như thật không tướng. Trong hai bài kệ ấy đã nói nghĩa như vậy.
Lại chúng sinh nếu lìa trí không như thế, thì người đó ngoài cảnh giới của Phật ra, gọi là không tương ưng, không đắc định, không đắc Nhất tâm. Vì nghĩa đó, gọi là “chúng sinh tâm tán loạn đánh mất không”. Tai sao? Vì lìa trí môn của bậc nhất nghĩa không, nên cảnh giới vô phân biệt chẳng thể chứng được, chẳng thể thấy được, nên Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Như lai tạng trí, gọi là không trí. Thế Tôn! Như lai tạng trí không, vốn là chỗ xưa nay tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật không thấy, không đắc, không chứng, không lãnh hội. Thế Tôn! Tất cả khổ Diệt chỉ có Phật chứng đắc, phá tan tất cả kho tàng phiền não. Tu tất cả đạo Diệt khổ. Như vậy Như lai tạng nầy, lấy pháp giới làm Tạng, chúng sinh thân Kiến không thể thấy được” tức nói lấy tướng thân Kiến đối trị nơi pháp giới chân thật chưa hiện tiền.
Lại Như lai tạng Pháp thân Xuất thế gian như vậy, không phải cảnh giới của chúng sinh điên đảo, đã nói lấy pháp thế gian như vô thường, khổ… đối trị nên pháp giới Xuất thế gian chưa hiện tiền.
Lại pháp giới tự tánh thanh tịnh, Như lai Tạng không như vậy, chẳng phải cảnh giới của chúng sinh tâm tán loạn, tâm mất không tức đã nói do khách trần phiền não cấu làm nhiễm, vì tự tánh không thanh tịnh pháp công đức không lìa nhau, nên được gọi là Pháp thân Xuất thế gian.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Lại dựa vào Nhất Vị nơi Đẳng Vị của trí môn pháp giới không sai khác mà quán sát tự tánh Pháp thân thanh tịnh Xuất thế gian, gọi là thấy biết như thật về Chân như, nên Kinh nói: “Bồ-tát mười Trụ chỉ có thể thấy ít phần Như lai tạng, huống chi là phàm phu và Nhị thừa.
Kệ rằng:
Ví như trong mây mỏng,
Thấy hư không mặt trời,
Các bậc Thánh tuệ tịnh,
Thấy Phật cũng như vậy.
Thanh-văn, Bích Chi Phật,
Như người không có mắt,
Không thể thấy Như lai,
Người mù không thấy trời.
Tất cả pháp đã biết,
Có vô lượng vô biên,
Khắp hư không pháp giới,
Trí vô lượng thấy được.
Pháp thân các Như lai,
Đầy khắp ở mọi nơi,
Trí tuệ Phật thấy được,
Vì là trí vô lượng.
Phẩm thứ 7: VÌ SAO NÓI
Hỏi: Nghĩa của Chân như, Phật tánh Như lai tạng trụ tại địa Bồ-tát rốt ráo vô chướng ngại, cũng chẳng hải cảnh giới Bồ-tát là bậc Thánh thứ một, vì đó là cảnh giới của bậc Nhất thiết trí. Nếu vậy, vì sao lại vì kẻ phàm phu Ngu si điên đảo mà nói?
Đáp: Vì nghĩa đó, nói lược bốn bài kệ:
Kinh chỗ nào cũng nói,
Trong ngoài tất cả không,
Pháp hữu vi như mây,
Và như mộng huyễn thảy
Vì sao trong đây nói,
Tất cả các chúng sinh,
Đều có tánh Như lai,
Mà không nói vắng lặng?
Vì có tâm yếu đuối,
Khinh mạn các chúng sinh,
Chấp trước pháp luống dối,
Chê chân như, Phật tánh.
Chấp thân có thần ngã,
Vì khiến những kẻ ấy,
Xa lìa năm thứ lỗi,
Nên nói có Phật tánh!
Phải biết bốn bài kệ nầy lấy mười một bài kệ để giải thích sơ lược.
Kệ rằng:
Trong các Tu-đa-la,
Nói các pháp hữu vi,
Là nghiệp phiền não thảy,
Luống dối như mây thảy.
Phiền não giống như mây,
Nghiệp đã làm như mộng,
Như huyễn, Ấm cũng vậy,
Vì nghiệp phiền não sinh.
Trước đã nói như thế,
Trong Luận cứu cánh nầy,
Vì lìa năm thứ lỗi,
Nói có tánh Chân như.
Vì chúng sinh không nghe,
Không phát tâm Bồ-đề,
Hoặc có tâm yếu đuối,
Các lỗi dối tự thân.
Chưa phát tâm Bồ-đề,
Sinh khởi ý khinh mạn,
Thấy người phát Bồ-đề,
Ta hơn Bồ tát kia!
Người kiêu mạn như vậy,
Không khởi tâm chánh trí,
Cho nên chấp luống dối ,
Không biết pháp như thật.
Lỗi Chúng sinh vọng chấp,
Không biết tâm khách nhiễm,
Thật không các lỗi kia,
Công đức tự tánh tịnh.
Vì lỗi chấp luống dối,
Không biết công đức thật,
Cho nên không được sinh,
Từ tự tha bình đẳng.
Nghe tánh Chân như kia,
Khởi năng lực mạnh mẽ,
Và cung kính Thế Tôn,
Trí tuệ và đại bi,
Sinh thêm lớn năm pháp,
Bình đẳng không lui sụt,
Không có tất cả lỗi,
Chỉ có các công đức.
Chấp tất cả chúng sinh,
Như thân ta không khác,
Mau chóng được thành tựu,
Bồ-đề Phật Vô thượng.
Phẩm thứ 8: THÂN CHUYỂN THANH TỊNH THÀNH BỒ ĐỀ
Luận chép: Đã nói như hữu cấu, phải biết từ đây trở xuống nói như vô cấu. Như vô cấu, là Chư Phật, Như lai, trong pháp giới vô lậu xa lìa tất cả các thứ cấu, chuyển thân tạp uế được thân tịnh diệu. Phải biết nương vào tám câu nghĩa mà nói lược sự sai khác về Pháp thân vô lậu của tánh Chân như kia. Tám câu nghĩa gồm? Kệ rằng:
Tịnh, Đắc và xa lìa,
Tự tha Lợi tương ưng,
Nương vào rất vui sướng,
Thời, Số như pháp kia.
Đó là tám câu nghĩa, thứ lớp trong một Kệ nói về tám thứ nghĩa, tám thứ nghĩa là: 1. Thật thể. 2. Nhân. 3. Quả. 4. Nghiệp. 5. Tương ưng. 6. Hành. 7. Thường. 8. Không thể nghĩ bàn.
1. Thật thể: là trước đã nói Như lai tạng không lìa sự trói buộc của phiền não Tạng, vì xa lìa các phiền não mà chuyển thân đắc thanh tịnh, phải biết đó gọi là Thật thể, nên kệ nói: “Tịnh”. Do vậy Kinh Thánh Giả Thắng-man nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu người đối với sự ràng buộc Như lai tạng của vô lượng Tạng phiền não mà không nghi ngờ, thì đối với sự ra khỏi vô lượng tạng phiền não trói buộc Pháp thân cũng không nghi ngờ.
2. Nhân: Có hai thứ Trí Vô phân biệt: a. Trí Vô phân biệt Xuất thế gian. b. Dựa vào Trí Xuất thế gian, đắc trí dựa vào hành thế gian và Xuất thế gian. Đó là nhân, nên kệ nói: “Đắc”.
3. Quả: Tức là nương vào đắc nầy mà chứng đắc quả trí, đó là quả, nên kệ nói: “Xa lìa”.
4. Nghiệp: Có hai thứ xa lìa. a. Xa lìa phiền não Chướng. b. Xa lìa trí chướng. Thứ lớp như thế, nên gọi là xa lìa, như vậy xa lìa mà tự lợi, lợi tha được thành tựu, gọi là nghiệp, vì thế Kệ rằng: “Tự lợi, lợi tha”.
5. Tương ưng, là tự Lợi lợi tha được vô lượng công đức, thường rốt ráo giữ vững, gọi là tương ưng, nên kệ nói: “Tương ưng”.
6. Hành.
7. Thường.
8. Không thể nghĩ bàn, là ba thứ Pháp thân Phật, Thế giới từ vô thỉ đến nay, làm lợi ích chúng sinh thường không dừng nghỉ. Vì không thể nghĩ bàn, nên kệ nói: “Nương vào sâu, nhanh, lớn”. Vì nghĩa đó, nói lược kệ:
Thật thể, nhân, quả, nghiệp
Và vì hành tương ưng,
Thường không thể nghĩ bàn,
Phải biết là Phật địa.
Lại nương Thật thể, nương nhân ở trong Phật địa đạt được nhân của phương tiện. Kệ rằng:
Vừa nói Pháp thân Phật,
Thể tự tánh thanh tịnh,
Bị các phiền não cấu,
Và khách trần nhiễm ô.
Ví như trong hư không,
Nhật, nguyệt, tịnh lìa cấu,
Bị mây dầy đặc kia,
Giăng lưới che phủ kín.
Công đức Phật vô cấu,
Thường hằng và bất biến,
Vô phân biệt các pháp,
Được chân trí vô lậu.
Phải biết ba bài kệ nầy dùng bốn bài kệ để lược giải thích, kệ rằng:
Thân Phật không lìa bỏ,
Pháp nhiệm mầu thanh tịnh,
Như nhật, nguyệt hư không
Trí lìa nhiễm không hai.
Hơn Hằng sa pháp Phật,
Các công đức sáng sạch,
Chẳng khởi pháp tương ưng,
Không lìa thật thể kia.
Chướng Phiền não trí chướng,
Pháp đó thật vô thể,
Thường bị khách trần nhiễm,
Nên nói thí dụ mây.
Xa lìa hai nhân ấy,
Hướng hai vô phân biệt,
Chân trí vô phân biệt,
Và nương sở đắc kia.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Vừa nói thật thể của Chuyển thân thanh tịnh. Lại thanh tịnh nói lược có hai thứ: 1. Tự tánh thanh tịnh. 2. Lìa cấu thanh tịnh.
1. Tự tánh thanh tịnh, là tánh giải thoát không có sự lìa bỏ, vì tự tánh thanh tịnh tâm thể kia không bỏ tất cả phiền não khách trần, vì tự tánh thanh tịnh tâm thể kia không tương ưng.
2. Lìa cấu thanh tịnh, là chứng đắc giải thoát. Lại nữa, giải thoát ấy không lìa tất cả pháp, như nước không lìa các bụi nhơ mà nói thanh tịnh, vì tự tánh tâm thanh tịnh xa lìa các phiền não cấu của khách trần không dư sót. Lại vì dựa vào quả lìa cấu thanh tịnh nên nói bốn bài kệ:
Như nước ao thanh tịnh,
Không có các bụi dơ,
Các thứ cây hoa chen,
Xung quanh thường vây kín.
Mặt trăng lìa La-hầu,
Mặt trời không mây che,
Đủ công đức vô cấu,
Hiển hiện ngay thể ấy.
Ong, chúa mật vị ngọt,
Chắc thật, tịnh, vàng ròng,
Vật báu ẩn, quả cây,
Tượng vàng ròng vô cấu .
Thân vua Chuyển vua thánh,
Tượng Như lai, báu diệu
Các pháp như vậy thảy,
Tức là thân Như lai.
Phải biết bài bài kệ nầy dùng chín bài kệ để lược giải thích. Kệ rằng:
Khách phiền não tham thảy
Cũng như nước dơ đục,
Thượng trí vô phân biệt,
Quả pháp như nước ao.
Nói về Pháp thân Phật,
Tất cả các công đức,
Nương chứng quả trí kia,
Cho nên nói như vậy.
Tham như nước dơ đục,
Pháp tịnh tạp cấu nhiễm,
Chúng sinh đáng hóa độ,
Như hoa sen quanh hồ.
Thiền định tập khí nhuần,
Xa lìa La hầu sân,
Dùng nước Đại Từ bi,
Lợi ích khắp chúng sinh.
Như nhật nguyệt ngày rằm,
Xa lìa mây giăng lưới,
Ánh sáng chiếu chúng sinh,
Xua tan mọi tối tăm.
Nhật nguyệt Phật vô cấu,
Lìa mây si giăng bủa,
Trí sáng chiếu chúng sinh,
Dứt trừ các tối tăm.
Đắc pháp không gì sánh,
Ban cho pháp mầu nhiệm,
Chư Phật như Mật, chắc,
Xa lìa bầy ong chướng.
Công đức chân thật, diệu,
Dứt trừ các nghèo hèn,
Ban cho lực giải thoát,
Nên nói dụ cây vàng.
Pháp bảo thân chân thật,
Lưỡng Túc Tôn tăng thượng,
Thắng sắc rốt ráo thành,
Nên nói ba dụ sau.
Lại nữa, trước đã nói lấy hai thứ trí nương vào nghiệp tự Lợi lợi tha. Hai trí là: 1. Trí vô phân biệt Xuất thế gian. 2. Dựa vào Trí vô phân biệt Xuất thế gian. Chuyển thân đắc hành nhân của thân xa lìa phiền não, được chứng quả trí.
Hỏi: Lại nữa, thế nào là thành tựu tự lợi ích?
Đáp: Là chứng đắc giải thoát, xa lìa phiền não chướng và trí chướng, đắc Pháp thân thanh tịnh vô chướng ngại, gọi là thành tựu lợi ích tự thân.
Hỏi: Lại nữa, thế nào là thành tựu lợi tha.
Đáp: Đã được thành tựu tự lợi rồi, từ đời vô thỉ đến nay, tự nhiên nương vào hai: Thứ thân Phật kia thị hiện thế gian hành lực tự tại, gọi là thành tựu lợi ích tha thân. Lại nương vào tự lợi, lợi tha, mà thành tựu nghĩa nghiệp, nên bốn bài kệ sau:
Vô lậu và đến khắp,
Pháp bất diệt thường hằng,
Mát mẻ, không đổi khác,
Chốn vắng lặng không lui.
Thân Chư Phật, Như lai,
Như hư không, vô tướng,
Vì các bậc thắng trí,
Làm cảnh giới sáu căn.
Nói về sắc nhiệm mầu,
Ra ngoài âm thanh diệu,
Khiến ngửi hương giới Phật,
Và vị diệu pháp Phật.
Khiến biết xúc Tam-muội,
Khiến rõ pháp sâu xa,
Tư duy kỹ rừng rậm,
Phật lìa tướng hư không.
Phải biết bốn bài kệ nầy đã dùng tám bài kệ để giải thích lược.
Kệ rằng:
Nói lược hai thứ pháp,
Phải nên biết nghiệp trí,
Đầy đủ thân giải thoát,
Chân Pháp thân thanh tịnh.
Thân pháp thân giải thoát,
Phải biết hai và một,
Là vô lậu đến khắp,
Và cứu cánh vô vi.
Phiền não hết, vô lậu,
Và tập khí diệt sạch,
Vô ngại và vô chướng,
Phải biết trí đến khắp.
Vô vi vì bất diệt,
Nên Thật thể không mất,
Không mất gọi là gốc,
Giải thích câu hằng thảy
Đối với câu hằng thảy
Phải biết có bốn lỗi,
Chết, vô thường và chuyển,
Không thể nghĩ bàn lui.
Vì không chết nên thường,
Vì thường nên mát mẻ,
Không chuyển nên bất biến,
Vắng lặng nên không lui.
Rốt ráo các dấu chân,
Thể tịnh trí pháp trắng,
Đầy đủ sắc, thanh, thảy
Nói về ở các căn.
Như hư không vô tướng,
Mà hiện tướng sắc, thảy
Pháp thân cũng như vậy,
Đủ cảnh giới sáu căn.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Trong Kinh nói: “Như tướng hư không, Chư Phật cũng vậy”, đây là nương vào bậc nhất nghĩa. Vì tự thể tướng nơi Pháp thân thanh tịnh của Chư Phật, Như lai là pháp bất cộng, nên nói như thế. Vì nghĩa đó, Kinh Kim cương Bát-nhã-la-mật viết: “Tu-Bồ-đề, ý ông thế nào? Có thể lấy ba mươi hai tướng mà bậc Đại nhân thành tựu để thấy Như lai hay không? Tu-Bồ-đề nói: Như con hiểu nghĩa mà Phật nói thì không thể lấy tướng thành tựu ấy để thấy Như lai. Phật bảo: Đúng vậy! Đúng vậy! Tu-Bồ-đề, không thể dùng tướng thành tựu để thấy được Như lai. Tu-Bồ-đề, nếu dùng tướng thành tựu mà quán Như lai, thì Vua Chuyển vua thánh cũng nên là Như lai. Vì thế không phải thể dùng ba mươi hai tướng thành tựu ấy để thấy Như lai”.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì nương vào Như lai và Pháp thân thanh tịnh nơi bậc nhất nghĩa đế để nói về nghĩa ấy. Lại nương vào nghĩa tương ưng, để nói hai bài kệ:
Hư không chẳng nghĩ bàn,
Thường hằng và mát mẻ,
Bất biến và tịch tịnh,
Xa lìa các phân biệt.
Tất cả xứ không nhiễm,
Lìa xúc ngại thô nhám,
Cũng không thể thấy được,
Tâm Phật tịnh, vô cấu.
Phải biết hai bài kệ nầy đã dùng tám bài kệ để giải thích tóm lược, kệ rằng:
Pháp Thân , thân giải thoát,
Hiển tự lợi, lợi tha,
Nương tự lợi, lợi tha,
Trong đó nghĩa tương ưng.
Tất cả các công đức,
Phải biết không nghĩ bàn,
Không phải cảnh ba tuệ,
Nhất thiết chủng trí biết.
Thể Phật các chúng sinh,
Cảnh tế không thể nghe,
Bậc nhất, không Tư, Tuệ,
Vì xuất thế sâu kín ,
Không biết Tu tuệ đời ,
Các phàm phu ngu si,
Xưa nay không hề thấy,
Như mù không thấy sắc.
Nhị thừa như trẻ thơ,
Không thấy trời và trăng,
Vì bất sinh nên thường,
Vì bất diệt nên hằng.
Lìa hai nên mát mẻ,
Pháp tánh trụ bất biến,
Chứng diệt nên tịch tịnh,
Tất cả giác nên khắp.
Không trụ, vô phân biệt,
Lìa phiền não, không nhiễm,
Không trí chướng, lìa ngại,
Nhu hòa, lìa thô nhám.
Vô sắc, không thể thấy,
Lìa tướng, không thể chấp,
Vì tự tánh nên tịnh,
Lìa nhiễm nên không bẩn.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Là dụ về hư không, nói về công đức vô vi của Chư Phật Như lai không lìa Pháp thân Phật, đối với tất cả các hữu mà được nghiệp Đại phương tiện cao qúy , nghiệp đại bi cao qúy nghiệp Đại trí cao qúy không thể nghĩ bàn, để ban cho tất cả chúng sinh ba thứ thân Phật với tướng an vui thanh tịnh vô cấu, gọi là thật Phật, thọ pháp lạc Phật và Hóa thân Phật, thường không ngơi nghỉ, thường không dứt mất, tự nhiên tu hành, phải biết là để đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, vì không cùng chung với các hạng người khác, chỉ tương ưng với Pháp thân Chư Phật, Như lai.
Hỏi: Đây là nói về nghĩa gì?
Đáp: Vì nương vào thân nầy, tương ưng với các hạnh sai khác, nên nói tám bài kệ:
Không phải đầu, giữa, sau
Không phá hoại không hai,
Xa lìa khỏi ba cõi,
Không cấu, vô phân biệt.
Cảnh giới nầy sâu xa,
Nhị thừa không biết được,
Đủ tuệ Tam-muội thắng
Người như vậy thấy được !
Hơn số cát sông Hằng,
Công đức không nghĩ bàn,
Chỉ Như lai thành tựu,
Không chung với người khác.
Như lai sắc thân diệu,
Thể thanh tịnh vô cấu,
Xa lìa các phiền não,
Và tất cả tập khí.
Các thứ pháp thắng diệu,
Lấy ánh sáng làm thể,
Giúp chúng sinh giải thoát,
Thường không ngưng nghỉ.
Việc làm không nghĩ bàn,
Như Ma-ni Bảo vương,
Hiện hình ra các thứ,
Nhưng thể đó chẳng thật.
Vì thế gian nói pháp,
Nói về Xứ tịch tịnh,
Giáo hóa khiến thuần thục,
Thọ ký cho nhập đạo.
Thân gương bóng Như lai,
Nhưng không lìa bản thể,
Giống như tất cả sắc,
Không lìa ngoài hư không.
Phải biết tám bài kệ nầy đã dùng hai mươi lăm kệ để giải thích sơ lược. Kệ rằng:
Vừa nói Pháp thân Phật,
Và Nhất thiết chủng trí,
Tự tại và Niết-bàn,
Và bậc nhất nghĩa đế.
Pháp không thể nghĩ bàn,
Công đức của ứng cúng…
Chỉ tự thân nội chứng,
Phải nên biết như vậy.
Ba thân kia sai khác,
Thật pháp, báo hóa thảy,
Các gọi rất vui sướng,
Thân vô lượng công đức.
Nói về thân thật thể,
Là Pháp thân Chư Phật,
Nói lược năm thứ tướng,
Phải biết năm công đức.
Vô vi không sai khác,
Xa lìa khỏi hai bên,
Ra khỏi phiền não chướng,
Chướng Trí, chướng Tam-muội.
Vì lìa tất cả cấu,
Nên cảnh giới bậc Thánh,
Ánh sáng thanh tịnh chiếu,
Vì pháp tánh như vậy.
Vô lượng A-tăng-kỳ,
Không thể đếm nghĩ bàn,
Các công đức chẳng sánh,
Đến bờ kia bậc nhất.
Tương ưng Pháp thân thật,
Vì nhanh không thể đếm,
Cảnh giới chẳng lường xét,
Và xa lìa tập khí.
Pháp Phật vô biên thảy,
Thứ lớp không lìa báo,
Thọ các thứ pháp vị,
Nói về các sắc diệu.
Tập khí từ bi tịnh,
Vô phân biệt luống dối,
Lợi ích các chúng sinh,
Tự nhiên không dừng nghỉ.
Như ngọc báu Như ý,
Đầy đủ Tâm chúng sinh,
Phật thọ lạc như vậy,
Lực thần thông tự tại,
Thần lực tự tại nầy,
Nói lược có năm thứ,
Nói pháp và thấy được,
Các nghiệp không dừng dứt,
Và dừng nghỉ ẩn chìm,
Nói về thể không thật,
Đó gọi là yếu lược,
Có năm thứ lớp tại.
Như ngọc báu Ma-ni,
Nương vào các màu sắc,
Các tướng bản sinh khác,
Tất cả đều chẳng thật.
Như lai cũng như vậy,
Nói về lực phương tiện,
Từ Đâu-suất-đà xuống,
Thứ lớp nhập thai sinh.
Học tập các kỹ nghệ,
Tuổi thơ nhập cung vua,
Chán lìa các tướng dục,
Xuất gia hành khổ hạnh.
Chất vấn các ngoại đạo,
Đi đến nơi đạo tràng,
Hàng phục các chúng ma,
Thành đại diệu giác tôn.
Bánh xe pháp Vô thượng,
Nhập Niết-bàn Vô dư,
Cõi nước không thanh tịnh,
Hiện các việc như vậy.
Thế Gian không dừng nghỉ,
Giảng nói vô thường, khổ,
Là vô ngã, tịch tịnh,
Lực phương tiện trí tuệ.
Khiến các chúng sinh kia,
Chán lìa khổ ba cõi,
Sau đó nhập Niết-bàn,
Vì nhập đạo tịch tịnh.
Người Thanh-văn, Độc giác,
Có tướng luống dối đó,
Nói ta được Niết-bàn,
Các Kinh như Pháp Hoa…
Đều nói pháp như thật,
Thuộc Bát-nhã phương tiện,
Chuyển tâm luống dối trước,
Khiến thuần thục thượng thừa.
Thọ ký Bồ-đề diệu,
Thế lực lớn vi tế,
Khiến chúng sinh ngu si,
Vượt hiểm nạn đường ác.
Sâu, nhanh và rộng lớn,
Phải biết, thứ lớp nêu,
Thứ nhất Pháp thân Phật,
Thứ hai sắc thân Phật.
Ví như trong hư không,
Có tất cả sắc thân,
Trong Phật thân thứ nhất,
Thân thứ ba cũng thế.
Từ đây trở xuống, nương vào ba thân Phật như vậy, để ban vui và làm lợi ích cho chúng sinh. Nói lược hai bài kệ:
Thế Tôn thể thường trụ,
Vì tu vô lượng nhân,
Cõi chúng sanh giới bất tận,
Tâm từ bi như ý.
Trí thành tựu tương ưng,
Đối pháp được tự tại,
Hàng phục các ma oán,
Thể tịch tịnh nên thường.
Phải biết hai bài kệ nầy đã dùng sáu kệ để lược giải thích. Kệ rằng:
Buông xả thân, mạng, của,
Nhiếp lấy pháp chư Phật,
Vì lợi ích chúng sinh,
Bản nguyện rốt ráo mãn.
Được thân Phật thanh tịnh,
Khởi tâm đại từ bi,
Tu hành bốn Như ý,
Nương lực kia trụ thế.
Vì thành tựu diệu trí,
Lìa tâm hữu Niết-bàn,
Thường đắc tâm Tam-muội,
Thành tựu lạc tương ưng.
Thường sống ở thế gian,
Không bị pháp đời nhiễm,
Đắc xứ cam lồ tịnh,
Nên lìa tất cả ma.
Chư Phật vốn bất sinh,
Vì xưa nay tịch tịnh,
Thường có thể qui y,
Nên nói qui y ta.
Bảy thứ thí dụ trước,
Sắc thân Như lai thường,
Ba thứ thí dụ sau,
Pháp thân Thiện Thệ thường.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Chư Phật, Như lai nương vào Pháp thân mà chuyển đắc thân Vô thượng, phải biết là không thể nghĩ bàn, dựa vào không thể nghĩ bàn nói hai bài kệ:
Điều không thể dùng lời,
Thuộc bậc nhất nghĩa đế,
Lìa các địa giác quán,
Không dụ nào nói được!
Pháp thắng diệu trên hết,
Không thấy có Niết-bàn,
Ba thừa không thể biết
Chỉ là cảnh giới Phật.
Nên rõ là hai bài kệ nầy đã dùng năm kệ để giải thích lược. Kệ rằng:
Không thể nghĩ bàn được,
Vì lìa tướng ngôn ngữ,
Lìa tướng ngôn ngữ đó,
Vì thuộc bậc nhất nghĩa .
Thuộc về bậc nhất nghĩa,
Vượt cảnh giới xét lường,
Vượt cảnh giới xét lường,
Vì không dụ nào nhận biết .
Không dụ biết được,
Vì trên hết Vô thượng,
Vì Tối thắng Vô thượng,
Không chấp có Niết-bàn.
Không giữ hai thứ đó,
Không chấp đức và lỗi,
Năm thứ thí dụ trước,
Vi tế không nghĩ bàn.
Pháp thân Như lai thường,
Là thí dụ thứ sáu,
Vì đã được tự tại,
Sắc thân Như lai thường.
Phẩm thứ 9: CÔNG ĐỨC CỦA NHƯ LAI
Luận rằng: Đã nói Pháp thân Chân như vô cấu, kế là nương vào Pháp thân Chân như vô cấu ấy nói tất cả công đức, như báu Ma-ni không lìa các thứ ánh sáng hình sắc, công đức vô lượng vô biên của Pháp thân Như lai tự tánh thanh tịnh vô cấu, cũng giống như vậy. Vì nghĩa đó nên nương vào công đức Phật, kế là nói hai bài kệ:
Tự lợi cũng lợi tha,
Thân bậc nhất nghĩa đế,
Nương thân chân đế kia,
Có thể thế đế nầy.
Quả thuần thục xa lìa,
Trong ấy có đầy đủ,
Sáu mươi bốn thứ pháp,
Các công đức sai khác.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Kệ rằng:
Nơi tự thân thành tựu,
Trụ trì các pháp Phật,
Vì nhiếp thân bậc nhất,
Vì tha thân trụ trì.
Các Như lai, Thế Tôn,
Vì có thể thế đế,
Vô lượng công đức Phật,
Phải biết thuộc thân trước.
Mười lực, bốn vô úy,
Tướng đại trượng phu thảy,
Thể thọ lạc báo kia,
Thuộc thân Phật thứ hai.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói về sáu mươi bốn thứ công đức của thân Phật như mười lực…
Hỏi: Làm sao biết được?
Đáp: Nương vào nghĩa đó mà biết. Nói lược hai bài kệ:
Phật lực chày Kim cương,
Phá chướng của vô trí,
Như lai không sợ hãi,
Trong chúng như sư tử,
Pháp bất cộng của Phật,
Thanh tịnh như hư không,
Như trăng đáy nước kia,
Chúng sinh hai thứ kiến.
Từ đây trở xuống, trong Phẩm công đức phần còn lại nói về kệ, nương hai bài kệ nầy, thứ lớp nói về về sáu mươi bốn thứ công đức của Như lai như mười lực…, phải biết, như Kinh Đà-la-ni Tự Tại Vương có nói rộng. Trước hết, dựa vào mười lực nói hai bài kệ:
Quả báo xứ phi xứ,
Nghiệp cùng với các căn,
Tánh, tín chí, xứ đạo,
Các thiền định lìa cấu.
Nhớ nghĩ đời quá khứ,
Thiên nhãn, trí tịch tịnh ,
Những câu Kệ như vậy,
Là nói tên mười lực.
Lại dựa vào bốn Vô úy nói ba bài kệ:
Như thật giác các pháp,
Ngăn các chướng ngại đạo,
Nói đạo đắc vô lậu,
Là bốn thứ không sợ.
Đời cảnh giới sở tri,
Rốt ráo biết tự tha,
Tự biết, dạy người biết,
Điều nầy, chẳng chướng đạo.
Chứng được quả thắng diệu,
Tự chứng giúp người chứng ,
Nói Đế tự tha lợi,
Là các xứ không sợ.
Lại nương vào mười tám pháp bất cộng của Phật nói tám bài kệ:
Phật không lỗi, không tranh,
Không lỗi vọng niệm thảy,
Không bất định, tán tâm,
Không có các thứ tưởng.
Không tác ý, hộ tâm,
Dục, tinh tấn bất thoái
Niệm, tuệ và giải thoát,
Tri kiến thảy không lùi.
Các nghiệp, trí làm gốc,
Biết ba đời vô chướng,
Mười tám công đức Phật,
Và còn chưa nói hết,
Thân miệng Phật không lỗi,
Nếu người đến phá hoại,
Nội tâm tướng vô động,
Không trụ tâm xả tâm.
Thế tôn dục, tinh tấn,
Niệm, trí tịnh, giải thoát,
Tri kiến thường không mất,
Nói về cảnh nên biết.
Tất cả các nghiệp thảy,
Trí làm gốc xoay vần,
Ba đời vô chướng ngại,
Thường hành trí rộng lớn.
Gọi là thể Như lai,
Đại trí tuệ tương ưng,
Giác ngộ đại Bồ-đề,
Pháp thắng diệu trên hết.
Vì tất cả chúng sinh,
Xoay bánh xa đại pháp,
Pháp vô úy thắng diệu,
Khiến đạt đến giải thoát.
Lại nương nơi ba mươi hai tướng Đại nhân nói mười hai bài kệ:
Lòng bàn chân bằng, đầy,
Có bánh xe nghìn căm,
Gót, lưng bàn chân dày,
Chân nai chúa Y-ni.
Tay chân đều mền mại,
Các ngón đều thon dài,
Có màn như ngỗng chúa,
Cánh tay thon trên xuống.
Hai vai trước sau bằng,
Phải trái đều tròn đầy,
Thõng tay quá đầu gối,
Tướng âm tàng ngựa chúa.
Thân tướng cao thanh nhã,
Như cây Ni-câu vương,
Thể tướng bảy chỗ đủ,
Nửa trên như Sư tử,
Thế oai đức vững chắc,
Giống như Na-la-diên,
Thân sắc tươi tịnh diệu,
Da sắc vàng ròng mịn.
Sạch, nhuyễn, tế, bằng, kín,
Mỗi lỗ mọc mỗi lông,
Lông mềm mại hướng lên,
Vi tế xoáy bên phải.
Thân tịnh có vầng sáng,
Tướng trên Đảnh nhô cao,
Cổ như cổ chim công,
Má vuông như Sư tử.
Tóc sạch thuần sắc vàng,
Dụ như Nhân-đà-la,
Sợi lông trắng trên trán,
Toả sáng chung khuôn mặt.
Miệng gồm bốn mươi răng,
Răng nanh trắng hơn tuyết,
Sâu kín, sáng trong ngoài,
Răng trên dưới bằng đều.
Tiếng Ca-lăng-tần-già.
Tiếng hót hay vang xa,
Thức ăn đến cổ họng,
Được thượng vị trong vị.
Lưỡi mỏng rộng và dài,
Hai mắt thuần xanh biếc.
My như trâu đầu đàn,
Công đức như hoa sen,
Nói Nhân tôn như vậy ,
Ba mươi hai tướng diệu,
Mỗi tướng không lẫn lộn,
Khắp thân không thể chê.
Đây là mười lực, bốnVô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của Phật, ba hai tướng của bậc Đại nhân, lược tập hợp lại một chỗ, phải biết đó là sáu mươi bốn thứ công đức. Kệ rằng:
Sáu mươi bốn công đức,
Tu nhân và quả báo,
Mỗi mỗi đều sai khác,
Kinh Bảo Nữ có nói.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Trước đã nói sáu mươi bốn thứ công đức nơi nhân quả sai khác của Chư Phật, Như lai, phải biết nương vào thứ lớp nầy, trong Kinh Bảo Nữ đã nói rộng. Lại nữa, nương vào bốn xứ ấy, thứ lớp có bốn thứ Thí Dụ, là chày Kim cương, Sư tử vương, Hư không và trăng đáy nước, có chín bài kệ, nương vào chín bài kệ đó để nói lược. Kệ nêu:
Đều vượt vô từ tâm,
Không cùng người vô tâm,
Nên nói chày, Sư tử,
Hư không, trăng đáy nước.
Lại nữa, dựa vào thí dụ chày Kim cương của mười lực nói hai bài kệ:
Xứ, phi xứ, tánh quả,
Các tín căn chúng sinh,
Các thứ đạo tu địa,
Hơn túc mạng sai khác,
Thiên nhãn lậu tận thảy,
Phật lực chày Kim cương,
Năng trừ diệt phá tan,
Si giáp, núi, tường, cây.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược. Kệ nêu:
Sáu lực các Như lai,
Thứ lớp ba và một,
Trong cảnh giới sở tri,
Lìa các chướng Tam-muội.
Và lìa cấu, chướng khác,
Ví như phá dứt hết,
Giáp, tường, núi và cây,
Vừa dầy, vừa vững chắc.
Cũng không thể phá hoại,
Mười lực của Như lai ,
Giống như Kim cương kia,
Nên nói chày Kim cương.
Lại nương vào thí dụ Sư tử có bốn việc không sợ hãi nói hai bài kệ:
Như Sư tử đầu đàn,
Tự tại trong các thú,
Thường ở nơi núi rừng,
Không sợ hãi các thú.
Phật Nhân vương cũng thế,
Ở trong các chúng sanh,
Không sợ và khéo trụ,
Vững chắc hăng hái thảy.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược, Kệ nêu:
Biết bệnh khổ biết nhân,
Xa lìa nhân khổ kia,
Nói thuốc mầu Thánh đạo,
Vì lìa bệnh chứng diệt.
Xa lìa các hãi,
Khéo trụ thành hăng hái,
Phật đứng đầu đại chúng,
Không sợ như sư tử.
Vì biết tất cả pháp,
Do đó năng khéo trụ,
Tất cả không sợ gì,
Lìa phàm phu ngu si.
Nhị thừa và thanh tịnh,
Vì thấy ngã vô
Trong tất cả các pháp,
Tâm thường định vững chắc.
Vì sao gọi hăng hái?
Vượt Vô minh Trụ địa,
Tự tại chốn vô ngại,
Cho nên gọi hăng hái.
Lại nữa, nương vào thí dụ về hư không của mười tám pháp bất cộng nói ba bài kệ:
Địa, thủy, hỏa phong thảy,
Trong pháp không, chẳng có,
Trong các sắc cũng không,
Pháp Hư không vô ngại.
Chư Phật vô chướng ngại,
Giống như tướng hư không,
Như lai ở thế gian,
Như địa thủy, hỏa phong.
Nhưng Chư Phật, Như lai,
Tất cả các công đức,
Cho đến không một pháp,
Có chung với thế gian.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược Kệ:
Thanh-văn và không hành,
Người trí và tự tại,
Pháp vi tế thượng thượng,
Nên nói về năm đại.
Các chúng sinh thọ dụng,
Như đất nước lửa gió,
Lìa thế, lìa xuất thế,
Nên nói hư không lớn.
Ba mươi hai công đức,
Nương Pháp thân mà có,
Như tim đèn thế gian,
Sáng nóng và sắc tướng,
Tương ưng không sai khác,
Pháp thân của Như lai,
Tất cả các công đức,
Không sai khác cũng vậy.
Lại nương vào thí dụ trăng đáy nước của ba mươi hai tướng Đại trượng phu, nói hai bài kệ:
Trời thu không mây che,
Trăng trên trời, đáy nước,
Tất cả người thế gian,
Đều thấy trăng hiện đủ.
Trong Phật luân Thanh tịnh,
Đủ thế lực công đức,
Phật Tử thấy Như lai,
Thân công đức cũng vậy.
Hỏi: Kệ nầy nói về nghĩa gì?
Đáp: Nói lược Kệ:
Ba mươi hai công đức,
Người thấy sinh vui mừng,
Nương vào ba thứ Phật,
Pháp, báo, hóa mà có.
Pháp thân tịnh vô cấu,
Xa lìa khỏi thế gian,
Ở trong Như lai luân,
Chúng sinh thấy hai chỗ.
Như đáy nước thanh tịnh,
Thấy rõ bóng mặt trăng,
Là ba mươi hai tướng,
Nương sắc thân được tên.
Như châu báu Ma-ni,
Không lìa, tướng, ánh sáng,
Sắc thân cũng như vậy,
Không lìa ba mươi hai.
Phẩm thứ 10: NGHIỆP PHẬT TỰ NHIÊN KHÔNG DỪNG NGHỈ
Luận nói: Đã nói công đức vô cấu của Chư Phật, kế là nói về việc tác nghiệp của Chư Phật, Như lai. Phải biết nghiệp của Chư Phật kia tự nhiên vận hành, thường không dừng nghỉ, giáo hóa chúng sinh. Dựa vào đó nói lược có hai loại pháp tự nhiên hành, vì nghĩa đó nên nương vào nghiệp tự nhiên vận hành của Chư Phật, thường không dừng nghỉ, thường làm Phật sự, nói sáu bài kệ:
Chúng sinh đáng hóa độ,
Dùng phương tiện gióa hóa,
Hóa độ nghiệp chúng sinh,
Giáo hóa cõi chúng sanh.
Chư Phật, người tự tại,
Đối chúng sinh nên hóa,
Thường chờ xứ chờ thời,
Tự nhiên làm Phật sự.
Giác biết khắp Đại thừa,
Nhóm Công đức tối diệu,
Như nước báu biển cả,
Trí Như lai cũng vậy.
Bồ-đề rộng vô biên,
Cũng như cõi hư không,
Nơi vô lượng công đức,
Mặt trời Đại trí tuệ.
Chiếu khắp các chúng sinh,
Có Pháp thân mầu Phật,
Kho công đức vô cấu,
Như thân Ta không khác.
Phiền não chướng, trí chướng,
Mây sương giăng lưới che,
Gió Từ bi Chư Phật,
Thổi chúng tan diệt hết.
Nghĩa của sáu bài kệ nầy, đã dùng mươi bốn bài kệ để giải thích lược, Kệ rằng:
Dùng những tánh trí nào,
Xứ nào và thời nào,
Tác nghiệp vô phân biệt,
Cho nên nghiệp tự nhiên
Dùng những căn tánh nào,
Các chúng sinh đáng độ
Dùng những trí tuệ nào,
Năng độ các chúng sinh?
Lại dùng thứ gì làm,
Phương tiện hóa chúng sinh?
Chúng sinh lấy xứ nào,
Trong thời nào độ được?
Hướng tiến và công đức,
Làm quả, vì nhiếp lấy,
Chướng kia và Đoạn chướng,
Các duyên vô phân biệt.
Hướng tiến là mười địa,
Công đức nhân hai đế,
Quả là Đại Bồ-đề,
Nhiếp quyến thuộc Bồ-đề.
Chướng kia là vô biên,
Phiền não và tập khí,
Dứt chướng là đại từ,
Và tâm đại bi thảy.
Gọi là tất cả thời.
Thường tạo các nhân duyên,
Sáu xứ như vậy thảy,
Phải biết thứ lớp nói .
Như nước báu biển cả,
Không, nhật, đất, mây, gió,
Các địa như biển lớn,
Trí công đức nước báu.
Bồ-đề như không giới,
Rộng không mé giữa sau,
Làm lợi ích chúng sinh,
Hai nghiệp như mặt trời.
Có thể soi biết khắp,
Tất cả cõi chúng sanh,
Đều có tánh Như lai,
Như kho báu trong đất.
Giống như mặt đất kia,
Thể vững chắc bất động,
Vì lợi ích chúng sinh,
Thấy ngã kia không khác.
Khách trần phiền não thảy,
Vốn tự vô thể, tánh,
Tất cả đều luống dối,
Như mây nhóm không thật.
Khởi đại tâm từ bi,
Giống như gió thổi mạnh,
Phiền não, trí chướng tận,
Như mây kia tụ tán.
Việc giáo hóa sự chưa xong,
Nên thường ở thế gian,
Từ bản tế đến nay,
Tự nhiên không dừng nghỉ.
Hỏi: như trước đã nói, Chư Phật, Như lai bất sinh bất diệt, nếu vậy tức là Pháp vô vi. Pháp vô vi là nghiệp không tu hành, vì sao thường giáo hóa chúng sinh không dừng nghỉ?
Đáp: Vì nói về đại sự của Chư Phật dứt các nghi ngờ, nên nương vào thanh tịnh vô cấu không thể nghĩ bàn cảnh giới Chư Phật, để nói về đại sự, do đó dùng thí dụ nói một bài kệ:
Trống mây đẹp Đế thích,
Trời Ma-ni phạm thiên,
Tiếng vang và hư không,
Thân Như lai cũng vậy.
Nương vào bài kệ nầy, Kinh thâu nhiếp lấy nghĩa, chín thí dụ trong kệ, phải biết từ đây trở xuống, nói rộng về sáu mươi sáu kệ còn lại. Lại nương vào đó để nói rộng nghĩa kệ, chín thí dụ là nói lược về nghĩa của sáu mươi sáu Kệ đó, và theo thứ lớp nói rộng Như lai Vô thượng tu hành trọn vẹn, làm lợi ích cho tất cả cho chúng sinh, phải biết đã dùng mười chín kệ để giải thích. Kệ rằng:
Xa lìa tất cả nghiệp,
Không hề thấy có quả,
Vì tất cả người nghi,
Dứt các lưới nghi đó.
Mà nói chín thí dụ,
Tên Tu-đa-la kia,
Rộng nói các pháp nầy,
Trong Tu-đa-la ấy.
Rộng nói chín thí dụ,
Gọi là cảnh giới trí,
Trí vi diệu trang nghiêm,
Người có trí mau nhập.
Đầy đủ cảnh giới Phật,
Nói trời đế thích kia,
Lưu-ly, gương bóng thảy
Có chín thứ thí dụ .
Phải biết nghĩa chính yếu,
Kiến, thuyết và biến chí,
Vì lìa các tướng trí,
Thân miệng ý nghiệp mật.
Người đại từ bi được,
Lìa các tâm công dụng,
Vắng lặng vô phân biệt,
Là trí nên vô cấu.
Như Đại Tỳ-lưu-ly,
Các dụ Đế thích thảy,
Trí rốt ráo đầy đủ,
Nên vắng lặng vắng lặng.
Vì có trí tuệ tịnh,
Cho nên vô phân biệt,
Làm thành các thứ nghĩa,
Nên dụ Đế Thích thảy
Vì làm thành nghĩa kia,
Nói chín thứ Kiến thảy,
Lìa Sinh, lìa thần thông,
Chư Phật hiện sự ấy.
Đó gọi là nói lược,
Các thứ nghĩa thí dụ,
Dụ trước, giải khác sau,
Dụ sau, giải khác trước.
Thể Phật như gương bóng,
Như đất Lưu-ly kia,
Người chẳng phải không tiếng,
Như trống diệu chư thiên.
Chẳng phải không làm sự,
Như mây mưa lớn kia,
Chẳng phải không làm lợi,
Cũng chẳng phải bất sinh.
Có các thứ hạt giống,
Như Phạm thiên bất động,
Chẳng phải không thuần thục,
Như mặt trời lớn kia.
Chẳng phải không phá tối,
Như báu Như Ý ấy,
Chẳng phải không ít có,
Giống như các tiếng vang.
Chẳng phải không duyên thành,
Giống như hư không kia,
Chẳng phải không làm đủ,
Chỗ chúng sinh nương dựa.
Giống như mặt đất kia,
Chẳng phải không trụ giữ,
Tất cả các thứ vật,
Vì nương vào mặt đất.
Gánh vác các thế gian,
Vì các thứ vật ấy,
Nương Bồ-đề Chư Phật,
Pháp mầu Xuất thế gian.
Thành tựu các nghiệp thiện,
Các Thiền, bốn vô lượng,
Và lấy bốn định không,
Các Như lai tự nhiên.
Thường trụ các thế gian,
Có các nghiệp như vậy,
Cùng lúc chẳng trước sau,
Làm việc tốt đẹp ấy.
Phẩm thứ 11: GIẢO LƯỢNG TÍN CÔNG ĐỨC
Luận chép: Ở trên nói bốn thứ pháp, từ đây trở xuống, là nói về người có tuệ. Đối với pháp ấy có thể sinh tâm tin, nương vào tin là đã được công đức, nói mười bốn bài kệ:
Tánh Phật, Bồ-đề Phật,
Pháp Phật và nghiệp Phật,
Người xuất thế thanh tịnh,
Điều không thể nghĩ bàn.
Cảnh giới Chư Phật này,
Nếu có người tin được,
Được vô lượng công đức,
Hơn tất cả chúng sinh.
Vì cầu Phật Bồ-đề,
Quả báo không nghĩ bàn,
Được vô lượng công đức
Cho nên hơn thế gian.
Nếu có người xả được,
Châu báu ngọc Ma-ni,
Đầy khắp mười phương cõi,
Vô lượng cõi nước Phật.
Vì cầu Bồ-đề Phật,
Cúng dường các Pháp vương,
Người đó thí như vậy,
Vô lượng hằng sa kiếp.
Nếu lại có người nghe,
Một câu cảnh giới mầu,
Nghe rồi lại tin được,
Phước hơn thí vô lượng.
Nếu người có trí tuệ,
Vâng giữ giới Vô thượng,
Nghiệp tịnh thân miệng ý,
Tự nhiên thường hộ trì.
Vì cầu Bồ-đề Phật,
Như vậy vô lượng kiếp,
Phước mà người đó được,
Không thể nào nghĩ bàn.
Nếu lại có người nghe,
Một câu cảnh giới mầu,
Nghe rồi lại tin được,
Phước hơn giới vô lượng.
Nếu người nhập Thiền định,
Dứt phiền não ba cõi,
Hơn trời hành bỉ ngạn,
Không phương tiện Bồ-đề.
Nếu lại có người nghe,
Một câu cảnh giới mầu,
Nghe rồi lại tin được,
Phước hơn thiền vô lượng.
Người không tuệ xả được,
Chỉ được báo giàu sang,
Người tu trì giới cấm,
Chỉ được sinh trời, người.
Tu hành dứt các chướng,
Chẳng tuệ không thể dứt,
Tuệ dứt phiền não chướng,
Cũng dứt được chướng trí .
Nghe pháp làm nhân tuệ,
Nên nghe pháp thù thắng,
Huống chi nghe pháp rồi,
Lại sinh được tâm tin.
Phải biết mười bốn bài kệ nầy đã dùng mười một kệ để lược giải thích. Kệ rằng:
Thân và chỗ chuyển kia,
Công đức và thành nghĩa,
Bày bốn thứ pháp nầy,
Chỉ cảnh giới Như lai.
Người trí tin là có,
Và tin được rốt ráo,
Nhờ tin các công đức,
Mau chứng đạo Vô thượng,
Cứu cánh đến bờ kia,
Chỗ ở của Như lai.
Tin có cảnh giới ấy,
Cảnh giới chẳng nghĩ bàn,
Chúng ta có thể được!
Các công đức như vậy,
Chỉ tin sâu thắng trí,
Dục, tinh tấn, niệm, định,
Tu công đức trí thảy,
Tâm Bồ-đề Vô thượng,
Tất cả thường hiện tiền,
Vì thường hiện tiền nên,
Là Phật Tử bất thối.
Công đức tịnh giải thoát,
Rốt ráo sẽ thành tựu,
Năm độ là công đức.
Vô phân biệt ba độ,
Rốt ráo và thanh tịnh,
Vì lìa pháp đối trị,
Thí chỉ Thí công đức,
Giữ giới chỉ giữ giới,
Còn hai Độ tu hành,
Là nhẫn nhục, thiền định,
Tinh tấn khắp mọi nơi.
Pháp đối trị của xan…
Gọi là phiền não chướng,
Luống phân biệt ba pháp,
Gọi đó là trí chướng.
Xa lìa các chướng đó,
Không còn nhân nào hơn,
Chỉ trí tuệ Chân diệu,
Cho nên Bát-nhã hơn.
Trí tuệ căn bản kia,
Cái gọi là văn tuệ,
Vì văn tuệ sinh trí,
Cho nên văn là hơn.
Lại từ đây trở xuống, nói về nghĩa vừa nói ở trước, là nương vào pháp gì mà nói, nương vào nghĩa gì mà nói, nương vào tướng gì mà nói. Trước nương vào pháp kia nói hai bài kệ: Pháp mà Ta nói đây
Là tự tâm thanh tịnh,
Nương giáo các Như lai,
Tương ưng Tu-đa-la.
Nếu có người trí tuệ,
Nghe rồi tin nhận được,
Pháp mà Ta nói đây,
Cũng vì nhiếp người ấy.
Từ đây trở xuống, kế là nương vào nghĩa ấy nói hai bài kệ:
Nương đèn, chớp, Ma-ni,
Ánh sáng mặt trời, trăng,
Tất cả người có mắt,
Đều thấy được cảnh giới.
Nương ánh sáng pháp Phật,
Người tuệ nhãn thấy được,
Vì pháp có lợi đó,
Nên ta nói pháp nầy.
Từ đây trở xuống, kế là nương vào tướng kia nói hai bài kệ:
Nếu tất cả điều thuyết,
Có nghĩa, có pháp cú,
Khiến cho người tu hành,
Xa lìa khỏi ba cõi.
Và bày pháp vắng lặng,
Đạo trên hết Vô thượng,
Phật nói chánh kinh này,
Ngoài ra, thuyết điên đảo.
Từ đây trở xuống, là nương vào phương tiện Hộ pháp nói bày bài Kệ:
Tuy nói nghĩa pháp cú,
Dứt phiền não ba cõi,
Vô minh che tuệ nhãn,
Bị Tham thảy trói buộc…
Lại nữa, trong pháp Phật,
Chỉ nói chút phần thôi,
Sách đời khéo nói nêu,
Ba thứ còn nên thọ.
Huống chi các Như lai,
Xa lìa phiền não cấu,
Người trí tuệ vô lậu,
Tu-đa-la đã nói.
Do xa lìa Chư Phật,
Tất cả trong thế gian,
Không trí tuệ thù thắng,
Người biết Pháp như thật.
Như lai nói liễu nghĩa,
Nghĩa đó chẳng nghĩ bàn,
Suy tư là chê pháp,
Không biết ý của Phật.
Chê Thánh và hoại pháp,
Đây là tư duy tà,
Người ngu si phiền não,
Nên vọng kiến chấp trước.
Vì thế không nên chấp,
Tà kiến các pháp bẩn,
Áo sạch nhuộm ăn màu,
Nó bẩn không ăn màu.
Từ đây trở xuống, là nương vào việc chê bai chánh pháp nói ba bài kệ:
Ngu không tin pháp thiện,
Tà kiến và kiêu mạn,
Chướng chê pháp quá khứ,
Chấp trước bất liễu nghĩa.
Nếu cúng dường cung kính,
Chỉ thấy các pháp tà,
Xa lìa thiện tri thức,
Gần gũi người chê pháp.
Ưa thích pháp Tiểu thừa ,
Các chúng sinh như vậy,
Không tin pháp Đại thừa,
Nên chê pháp các Phật.
Từ đây trở xuống, là nương vào việc chê bai chánh pháp mà chịu quả báo xấu nói sáu bài kệ:
Người trí không nên sợ,
Kẻ thù, rắn, lửa, độc,
Nhân-đà-la, sấm sét,
Dao, gậy, các thú dữ
Sư tử cọp beo thảy
Thứ đó chỉ giết người,
không khiến người đọa vào,
Ngục A-tỳ đáng sợ !
Nên sợ chê pháp sâu,
Và tri thức chê pháp,
Nhất định khiến đọa vào,
Ngục A-tỳ đáng sợ !
Tuy gần tri thức ác,
Ác làm chảy máu Phật,
Và giết hại cha mẹ,
Giết chết các bậc Thánh.
Phá hoại Tăng hòa hợp ,
Và dứt các gốc lành,
Vì buộc niệm chánh pháp,
Có thể thoát chỗ đó.
Nếu lại có người khác,
Phỉ chê pháp sâu xa ,
Người đó vô lượng kiếp,
Không thể được giải thoát.
Từ đây trở xuống, là nương vào pháp sư nói pháp sinh tâm kính trọng nói hai bài kệ:
Nếu người khiến chúng sinh,
Tin học pháp như vậy,
Đó là cha mẹ ta,
Cũng là tri thức thiện .
Đó chính là người trí,
Sau Như lai diệt độ,
Bỏ tà kiến điên đảo,
Khiến nhập vào chánh đạo.
Từ đây trở xuống, là nương vào công đức của việc nói pháp dùng để hồi hướng nói hai bài kệ:
Tánh Tam bảo thanh tịnh,
Nghiệp công đức Bồ-đề,
Ta nói lược bảy thứ,
Tương ưng với Kinh Phật.
Nương các công đức nầy,
Nguyện khi sắp qua đời,
Thấy Phật Vô Lượng Thọ,
Thân vô biên công đức.
Tôi và tín giả khác,
Đã thấy Phật đó rồi,
Nguyện được mắt lìa cấu,
Thành Bồ-đề Vô thượng.
Từ đây trở xuống, là nói lược về cú nghĩa, kệ rằng:
Nương pháp nào mà nói,
Nương nghĩa nào mà nói ,
Nương tướng nào mà nói?
Như pháp kia mà nói.
Như nghĩa kia mà nói,
Như tướng kia mà nói,
Tất cả các pháp ấy,
Sáu bài kệ nói về.
Phương tiện hộ tự thân,
Dùng bảy bài kệ nói,
Nói Phỉ báng chánh pháp,
Thì có ba bài kệ.
Sáu kệ hiển bày nhân,
Dùng hai kệ chỉ rõ,
Đối với người nói pháp,
Sinh tâm kính trọng sâu.
Đại chúng nghe nhẫn thọ,
Chứng đắc Đại Bồ-đề,
Nói lược ba thứ pháp,
Nói về quả báo đó!