LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ THẬT NGHĨA SỚ
Tác giả: Tôn giả Tất-địa-la-mạt-để (An Huệ)
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản
QUYỂN 5
Phẩm 2: PHÂN BIỆT CĂN
Tụng nói:
Truyền thuyết năm đối bốn
Bốn căn đối hai thứ
Năm, tám trong nhiễm, tịnh
Đều riêng làm tăng thượng.
Luận nói: Vì năm căn như Nhãn v.v…. đến tiếng đều nghe riêng biệt. Tụng nói:
Ví như người mắt sáng
Tránh được nạn trước mắt
Đời có kẻ thông minh
Có thể lìa khổ huệ
Đa văn biết được pháp
Đa văn lìa được tội
Đa văn lìa vô nghĩa
Đa văn đắc Niết-bàn.
Lại tụng nói:
Thân do ăn sống
Mạng nhờ ăn còn
Ăn rồi khiến tâm
Yên vui, thư thái.
Nếu là con trai khi nhập thai sinh tâm ái với mẹ, giận với cha, là con gái khi nhập thai sinh tâm ái với cha, giận với mẹ. Do thế nên biết năng lực dẫn đến đời sau đều là tâm nhiễm, là do ý căn mà nối tiếp đến đời sau.
Kinh thuyết: “Nhập thai cùng với tinh huyết cha mẹ, có thức gìn giữ mới thành tựu yết-thích-lam”.
Giải thích: Đây nêu rõ ý nghĩa thân, ngữ theo tâm chuyển. Như Khế kinh nói: “Tâm dẫn dắt thế gian, tâm thâu nhận khắp, như thế một pháp tâm tự tại đều tùy hành”.
Tụng nói:
Rõ cảnh mình tăng thượng
Lập chung ở sáu căn
Từ thân lập hai căn
Nữ, nam tình tăng thượng
Đồng trụ nơi tạp nhiễm
Vì tăng thượng thanh tịnh
Nên biết mạng, năm thọ…
Cùng tín… lập làm căn
Vị đương tri, dĩ tri
Cụ tri căn cũng vậy
Sau khi đã đắc đạo
Niết-bàn cùng tăng thượng.
Tụng Luận lại nói:
Thân không an là khổ
Vừa ý, ấy là vui
Ba định, tâm an vui
Nơi khác gọi là hỷ
Tâm chẳng vui là ưu
Trung đạo bỏ cả hai
Kiến, tu, đạo vô học
Dựa chín lập ba căn.
Tụng nói:
Ba căn sau vô lậu
Có sắc, mạng sầu khổ
Thường biết chỉ hữu lậu
Chín căn khác chung hai.
Nói ba căn sau cùng, nhất định là vô lậu, ngoài ra, không căn nào chung làm vô lậu. Khế kinh nói: Khi Đức Thế Tôn thành Chánh giác có suy nghĩ thế này: “Pháp của ta chứng đắc rất sâu xa mầu nhiệm, khó biết, khó hiểu, không thể tư duy, bàn luận, suy xét, tìm tòi. Người trí có thể biết, phàm phu không thể lãnh hội. Các chúng sinh này từ lâu quen giáo lý tà, tham đắm các hữu, các kiến giải mê hoặc, nhiễu loạn, không thể hiểu thấu giáo lý này. Do không hiểu rõ nên không tin, nhận, sinh ra kiêu mạn, não loạn, những lời ta nói trở thành vô ích, uổng phí công sức, vì không nhận vui giải thoát, pháp tịch tĩnh như lý”. Nghĩ thế xong, Đức Thế Tôn yên lặng trụ trong định. Bấy giờ, chủ cõi Sa-bà, vua Đại Phạm Thiên, biết Thế Tôn nghĩ như thế, bèn tư duy: “Đúng là chúng sinh nơi cõi này phần nhiều lầm lỗi, hủy hoại, nay Phật chứng pháp vô thượng sâu rộng vi diệu, lo lắng chúng sinh không thể tin nhận, nên ở chốn nhàn tịch thọ vui hiện pháp. Ta nên đến cầu thỉnh Phật chuyển diệu pháp luân”. Vừa suy nghĩ xong, chớp mắt từ Phạm cung hiện đến bên Phật, nhanh như cánh tay co duỗi của đại lực sĩ. Đến Phật đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi quỳ một bên chắp tay cung kính bạch Phật: “Thưa Đức Thế Tôn! Các chúng sinh ở cõi này từ lâu huân tập giáo lý tà, dị, kiến hoặc trói buộc lưu chuyển sinh tử, không chỗ quay về nương tựa, không nơi cứu giúp. Đức Thế Tôn đã bao kiếp vì chúng tu hành hóa độ, nay đã thành tựu Chánh giác Vô thượng, chứng pháp vô thượng, xuất hiện ở đời, như hoa Ưu-đàm hiếm có mà không vì chúng hữu tình tùy cơ diễn thuyết, lại ở nơi nhàn tịch, im lặng nhập định! Cúi mong Phật rũ lòng đại bi, thương xót thế gian vì các hữu tình, nói căn bản chánh pháp. Như có chúng sinh nào kết sử mỏng yếu, căn cơ thích nghi, thuần thục, thông minh dễ dạy vì không nghe pháp tất có lỗi lầm tự nhiên thiếu sót mất lợi nghe pháp. Cúi mong Đức Thế Tôn vì thương chúng sinh, mở cửa cam lộ, nói pháp vi diệu, khiến các hữu tình được an vui lợi ích”.
Thưa xong, vua Đại Phạm Thiên nói kệ như sau:
Phật ra đời như hoa Ưu-đàm
Bao kiếp khó gặp, nay được gặp
Cúi xin mở ra cửa cam lộ
Khắp được nghe pháp lợi chúng sinh.
Phật nghe thỉnh kệ xong, khởi tâm đại bi, dùng đạo nhãn quán các hữu tình có đủ loại căn cơ: Hoặc có căn ngu độn cố chấp các hữu, có căn trung bình mà ít chán sinh tử; có căn linh lợi mà không buông lung… Như thế, tất cả ở tại thế gian hoặc căn mới sinh, hoặc đang lớn mạnh có ngu độn, có thông minh và có dễ hóa độ đắc đạo… Quán biết như thật rồi Phật bèn nhận lời thỉnh của Đại Phạm Thiên mà chuyển pháp luân.
Kệ nêu:
Đại phạm khéo thỉnh, ta khéo nghe!
Pháp ta vi diệu lại sâu xa
Nay vì các ngươi ta diễn nói
Khiến nơi đêm dài được yên vui.
Tụng nói:
Mạng chỉ là Dị thục
Ưu và tám sau phi
Sắc ý, còn bốn thọ
Mỗi một đều thông hai.
Luận nói: “Duy nhất mạng căn nhất định là dị thục”.
Giải thích: Không một mạng căn nào không phải dị thục.
Tụng nói:
Châu Bắc định ngàn năm
Tây, Đông nửa ngày giảm
Châu này thọ bất định
Mười sau, đầu chẳng lường.
Thế gian hữu tình do các phước nghiệp còn lại đều mong muốn: “Xin cho con trường thọ”, cũng không muốn chín xác ở độ tuổi chín mươi hoặc tám mươi v.v… Hoặc có bè bạn, Người cao tuổi thường chúc nhau: “Mong cho ông trường thọ” Cũng không nhất định nói mong sống lâu chừng ấy thôi. Vì người châu này làm việc gì, mong ước điều gì đều có với tâm tham đi kèm.
Trong Kinh nói: “Bí sô nên biết! Người sống ở thời Phật Tỳ-bàthi thọ tám vạn tuổi… đến thời Phật Ca-diếp-ba thọ hai vạn tuổi. Khi ta ra đời con người thọ một trăm tuổi, ít người vượt qua, phần đông giảm đi”. Tuổi thọ nếu không hạn định, vì sao Đức Thế Tôn lại nói như thế? Trong kiếp đầu các căn đại chủng của hữu tình rất thù thắng nên tuổi thọ lâu dài. Thời nay, dần dần yếu đi nên tuổi thọ khó ai kéo dài đến mười năm. Phước hết bèn chết, không nhân ở mạng sống. Vì tu sửa chùa, tháp cũ mà có thể kéo dài thêm tuổi thọ.
Tụng nói:
Phạm hạnh khéo thành lập
Thánh đạo đã khéo tu
Khi thọ tận, hoan hỷ
Giống như khỏi các bệnh.