LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ THẬT NGHĨA SỚ
Tác giả: Tôn giả Tất-địa-la-mạt-để (An Huệ)
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 3

Ba khoa, một tụ, hai sinh môn, ba chủng tộc:

Tụ là nghĩa uẩn (tích tụ). Nghĩa sinh môn là nghĩa của cánh cửa để tâm, tâm sở pháp sinh trưởng. Như phát sinh Nhãn thức lấy căn mắt làm cửa vào. Ở đây, Kinh chứng minh nghĩa của môn có sáu, nhưng tâm sở pháp có mười hai, nên Khế kinh nói: “Mắt, sắc làm duyên sinh nhãn thức, cả ba hòa hợp. Xúc khởi cùng với thọ, tưởng, tư cũng như thế, cho đến ý pháp làm duyên sinh ý thức cả ba hòa hợp. Chủng tộc là nghĩa của giới. Như trong một ngọn núi có nhiều chủng loại (giới) như vàng, bạc, đồng, thiếc v.v… Tộc nghĩa là nói rất nhiều giới. Như thế một thân người, hoặc một sự sống tương tục có mười tám loại. Loại tộc của các pháp gọi mười tám giới là nhãn căn… hiện tại, quá khứ, vị lai.

Về vô minh điên đảo, tụng có nói:

Như cá ở trong bùn

Vẫy vùng khiến nước nhơ

Tưởng điên đảo vô minh

Nhiễm ô cũng như thế.

Về danh tưởng uẩn, tụng nói:

Mâu-ni nói pháp uẩn

Số có tám mươi ngàn

Thế uẩn ngữ hoặc danh

Đây thuộc về hành uẩn.

Tụng luận nói:

Không giới là lỗ thông

Truyền thuyết là sáng tối

Thức giới: Thức hữu lậu

Chỗ dựa sinh hữu tình.

Luận quyển thứ hai nói: Trong mười tám giới có bao nhiêu thấy,

bao nhiêu không thấy, bao nhiêu đối, bao nhiêu không đối, bao nhiêu thiện, bao nhiêu bất thiện và bao nhiêu vô ký?

Tụng nói:

Một có thấy là sắc

Mười có sắc là đối

Đây tám trừ sắc, thanh

Vô ký được ba loại

Nói năm không phân biệt

Do kế đạo tùy niệm

Vì ý địa, tán tuệ

Các niệm làm thể ý.

Luận thuyết: Nói phân biệt lược có ba loại:

  1. Phân biệt tự tánh.
  2. Phân biệt kế đạc.
  3. Phân biệt tùy niệm.

Do thân năm thức chỉ có tự tánh phân biệt mà không có hai loại kia, nên nói có tám loại phân biệt là không đúng. Chỉ có phân biệt tự tánh mà không có phân biệt kế đạc và tùy niệm. Chỉ có một loại phân biệt gọi là vô phân biệt.

Pages: 1 2 3 4 5