LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 

 

QUYỂN 14

Phẩm thứ 4: PHÂN BIỆT NGHIỆP, phần 2

Luận thêm đã xong. Lại nên biện về tướng của hữu biểu vô biểu ở trước.

* Tụng viết:

Vô biểu ba: Luật nghi

Bất luật nghi, phi hai.

* Luận nêu: Ở đây, vô biểu lược nói có ba: (1) Luật nghi. (2) Bất luật nghi. (3) Phi hai, nghĩa là phi luật nghi, phi bất luật nghi. Có thể ngăn chận, có thể diệt trừ giới ác nối tiếp nên gọi là luật nghi. Luật nghi như thế, sai biệt có bao nhiêu thứ?

* Tụng viết:

Luật nghi biệt giải thoát

Tĩnh lự cùng đạo sinh.

* Luận nêu: Luật nghi sai biệt lược có ba loại: (1) Luật nghi biệt giải thoát. Nghĩa là giới hệ thuộc cõi dục. (2) Luật nghi tĩnh lự sinh. Nghĩa là giới hệ thuộc cõi sắc. (3) Luật nghi đạo sinh. Nghĩa là giới vô lậu.

Tướng sai biệt của luật nghi thứ nhất (Luật nghi biệt giải thoát) là thế nào?

* Tụng viết:

Luật nghi đầu tám thứ

Thể thật chỉ có bốn

Hình chuyển nên danh khác

Đều riêng, không trái nhau.

* Luận nêu: Tướng sai biệt của luật nghi biệt giải thoát có tám: (1) Luật nghi của Bí-sô. (2) Luật nghi của Bí-sô-ni. (3) Luật nghi của Chánh học. (4) Luật nghi của Cần sách. (5) Luật nghi của Cần sách nữ. (6) Luật nghi của Cận sự. (7) Luật nghi của Cận sự nữ. (8) Luật nghi của Cận trụ.

Tướng sai biệt của tám thứ luật nghi như thế gọi chung là Luật nghi biệt giải thoát thứ nhất. Tuy có tám danh hiệu, nhưng về Thể thật chỉ có bốn: (1) Luật nghi của Bí-sô. (2) Luật nghi của Cần sách. (3) Luật nghi của Cận sự. (4) Luật nghi của Cận trụ. Chỉ bốn luật nghi biệt giải thoát này đều có Thể thật, do tướng đều riêng. Vì sao? Vì lìa luật nghi Bí-sô thì không có luật nghi Bí-sô-ni riêng. Lìa luật nghi Cần sách thì không có luật nghi Cần sách nữ, luật nghi Chánh học riêng. Lìa luật nghi Cận sự thì không có luật nghi Cận sự nữ riêng. Vì sao nhận biết như thế? Do hình đổi chuyển, Thể tuy không bỏ để được nhưng danh hiệu thì có khác. Hình là hình tướng, tức căn nam, nữ. Do hai căn này nên hình nam nữ riêng khác. Song do hình chuyển nên khiến danh hiệu của các luật nghi gọi là Bí-sô, Bí-sô-ni v.v… Nghĩa là chuyển phần vị của căn khiến luật nghi Bí-sô gốc gọi là luật nghi Bí-sô-ni. Hoặc luật nghi Bí-sô-ni gọi là luật nghi Bí-sô. Khiến luật nghi Cần sách gốc gọi là luật nghi Cần sách nữ. Hoặc luật nghi Cần sách nữ cùng luật nghi Chánh học gọi là luật nghi Cần sách. Khiến luật nghi Cận sự gốc gọi là luật nghi Cận sự nữ. Hoặc luật nghi Cận sự nữ gọi là luật nghi Cận sự. Không phải chuyển phần vị của căn thì có thể bỏ nhân duyên của luật nghi trước đã được để đạt được luật nghi trước chưa được. Nên bốn luật nghi không phải là khác với ba Thể. Nếu từ luật nghi Cận sự thọ luật nghi Cần sách. Lại từ luật nghi Cần sách thọ luật nghi Bí-sô, thì ba luật nghi này là do đã tăng thêm đủ phương tiện xa lìa nên riêng lập danh hiệu riêng. Như một, hai đồng tiền vàng cùng với năm, mười, hai mươi đồng. Hay là Thể đều riêng khác, đầy đủ liền sinh, ba thứ luật nghi, Thể không lìa nhau? Do tướng kia đều riêng khác nên đầy đủ liền sinh. Trong ba luật nghi nêu trên đều có đủ ba giới lìa sát sinh, cho đến đầy đủ ba giới lìa uống rượu. Số còn lại nhiều ít tùy theo chỗ ứng hợp. Đã như thế thì cùng đối chiếu nơi đồng loại, vì sao có khác? Do nhân duyên khác nên cùng đối chiếu có khác. Sự việc ấy là thế nào? Như cầu thọ nhiều thứ Học xứ (Giới luật) thì như thế như thế, tức có thể lìa được nhiều thứ xứ kiêu mạn phóng dật, lúc ấy tức lìa rất nhiều nhân duyên sinh khởi sát sinh v.v… Do các thứ xa lìa dựa nơi nhân duyên phát khởi, nhân – duyên khác nên sự xa lìa có khác. Nếu ở đây không có sự việc xả bỏ luật nghi Bí-sô, bấy giờ tức ba luật nghi đều nên xả bỏ. Do hai thứ trước gồm thâu trong một thứ sau. Đã không thừa nhận như vậy nên ba thứ luật nghi kia đều riêng khác. Tuy nhiên ba thứ ấy đều cùng không trái nhau. Ở trong một thân cùng thời mà chuyển. Không phải do thọ luật nghi sau thì xả bỏ luật nghi trước. Chớ cho là khi xả bỏ giới Bí-sô thì liền không còn luật nghi Cận sự v.v…

Bốn thứ luật nghi Cận sự, Cận trụ, Cần sách, Bí-sô được an lập như thế nào?

* Tụng viết:

Thọ lìa năm, tám, mười

Tất cả thứ nên lìa

Lập Cận sự, Cận trụ

Cần sách cùng Bí-sô.

* Luận nêu: Nên biết ở đây, như thứ lớp của số, dựa nơi bốn thứ xa lìa, lập bốn thứ luật nghi. Nghĩa là thọ giới luật lìa năm thứ nên xa lìa, an lập luật nghi thứ nhất là luật nghi Cận sự. Những gì gọi là năm thứ nên lìa bỏ? (1) Sát sinh. (2) Không cho mà lấy. (3) Hành dục tà. (4) Lời nói hư dối. (5) Uống các thứ rượu.

Nếu thọ giới luật lìa tám thứ nên xa lìa thì an lập luật nghi thứ hai, là luật nghi Cận trụ. Những gì gọi là tám thứ nên lìa bỏ? Đó là: (1) Sát sinh. (2) Không cho mà lấy. (3) Phi phạm hạnh. (4) Lời nói hư dối. (5) Uống các thứ rượu. (6) Xoa các thứ hương, đeo mang tràng hoa, xem nghe ca múa. (7) Ngồi, nằm ngủ trên các giường tòa cao rộng sang đẹp. (8) Ăn uống phi thời.

Nếu thọ giới luật lìa mười thứ nên xa lìa thì an lập luật nghi thứ ba, là luật nghi Cần sách. Những gì gọi là mười? thứ nên lìa bỏ? Nghĩa là nơi tám thứ trước: Giới không được xoa các thứ hương, mang đeo tràng hoa, xem nghe ca múa chia ra làm hai là chín thứ. Lại thêm giới: Không được nắm giữ tính chứa các báu như vàng bạc, là mười.

Nếu thọ giới luật, lìa bỏ các thứ nơi thân ngữ nghiệp nên lìa bỏ, thì an lập luật nghi thứ tư, là luật nghi Bí-sô.

Danh hiệu sai biệt của luật nghi biệt giải thoát là gì?

* Tụng viết:

Đều được gọi Thi la

Hạnh điệu, nghiệp, luật nghi

Chỉ biểu, vô biểu đầu

Gọi nghiệp đạo, biệt giải.

* Luận nêu: Có thể tạo được sự bình yên đối với những hành vi hiểm ác nên gọi là Thi la. Theo nguyên ngữ, Thi la nghĩa là trong lành mát mẻ. Như có kệ nói:

Thọ trì giới vui

Thân không nóng bức

Nên gọi Thi la.

Người trí tán thán nên gọi là hạnh diệu. Đối tượng tạo tác là tự thể nên gọi là nghiệp. Há không thấy: Vô biểu cũng là không tạo tác. Vì sao nay nói đối tượng tạo tác là tự thể? Do kẻ có hổ thẹn, thọ giới, vì sức mạnh của vô biểu khiến không tạo các thứ ác, nên gọi là không tạo tác. Biểu tư đã tạo được mang tên của đối tượng tạo tác. Có giải thích khác: Là nhân tạo tác, là quả tạo tác, nên gọi tạo tác là không lỗi. Có thể phòng giữ thân ngữ nên gọi là luật nghi. Như thế nên biết, giới biệt giải thoát là chung cho phần vị trước sau theo danh hiệu không sai biệt. Chỉ biểu và vô biểu của sát-na đầu được mang tên là biệt giải thoát cùng nghiệp đạo. Nghĩa là lúc thọ giới, biểu và vô biểu đầu tiên, riêng từ bỏ các thứ xấu ác. Dựa nơi nghĩa xả bỏ riêng đầu tiên nên lập tên gọi biệt giải thoát. Tức vào bấy giờ, đối tượng tạo tác đã rốt ráo. Dựa vào nghĩa thông suốt của nghiệp để lập tên gọi nghiệp đạo. Nên sát-na đầu gọi là biệt giải thoát, cũng được gọi là luật nghi biệt giải thoát, cũng được gọi là nghiệp đạo căn bản. Từ niệm thứ hai cho đến khi chưa xả bỏ giới, không gọi là biệt giải thoát, chỉ gọi là luật nghi biệt giải thoát. Không gọi là nghiệp đạo, chỉ gọi là hậu khởi.

Người nào thành tựu những luật nghi nào?

* Tụng viết:

Tám thành biệt giải thoát

Đắc tĩnh lự, Thánh giả

Thành tĩnh lự, đạo sinh

Hai sau, tùy tầm chuyển.

* Luận nêu: Tám chúng đều thành tựu luật nghi biệt giải thoát. Nghĩa là từ Bí-sô cho đến Cận trụ.

Ngoại đạo không có thọ giới này chăng? Tuy có nhưng không gọi là giới biệt giải thoát, do ngoại đạo kia thọ giới không có công năng vĩnh viễn thoát khỏi các ác dựa gắn nơi sinh tử.

Tĩnh lự sinh: Nghĩa là luật nghi này từ nơi tĩnh lự sinh, hoặc dựa nơi tĩnh lự sinh. Nếu người đắc tĩnh lự, nhất định thành tựu luật nghi này. Các tĩnh lự biên cũng gọi là tĩnh lự. Như gần với thôn ấp được gọi là thôn ấp. Có người nói: Ở nơi thôn ấp này có ruộng lúa. Đây cũng như thế. Luật nghi đạo sinh thì Thánh giả thành tựu. Luật nghi ấy lại có ba thứ là học, vô học. Ở trước trong phần phân biệt về nhân câu hữu đã nói hai thứ luật nghi là tùy tâm chuyển. Đối với ba thứ luật nghi này thì hai thứ kia là gì? Nghĩa là hai thứ tĩnh lự sinh và đạo sinh, không phải là biệt giải thoát. Vì sao? Vì tâm khác, không tâm cũng luôn chuyển.

Hai thứ luật nghi tĩnh lự, vô lậu (Đạo sinh) dựa nơi phần vị gì để kiến lập?

* Tụng viết:

Vị chí chín vô gián

Cùng sinh hai gọi đoạn.

* Luận nêu: Chín đạo vô gián trong định vị chí cũng sinh hai thứ luật nghi tĩnh lự và luật nghi vô lậu. Do có thể vĩnh viễn đoạn trừ giới ác thuộc cõi dục cùng các thứ Hoặc (Phiền não) được sinh khởi từ giới ác kia, nên gọi là luật nghi đoạn. Do ở đây hoặc có luật nghi tĩnh lự không phải là luật nghi đoạn, nên tạo ra bốn trường hợp: Trường hợp 1: Luật nghi tĩnh lự không phải là luật nghi đoạn: Là trừ luật nghi hữu lậu nơi chín đạo vô gián trong định vị chí, còn lại là luật nghi tĩnh lự hữu lậu. Trường hợp 2: Luật nghi đoạn không phải là luật nghi tĩnh lự: Là luật nghi vô lậu dựa nơi chín dạo vô gián trong định vị chí. Trường hợp 3: Luật nghi tĩnh lự cũng là luật nghi đoạn: Là luật nghi hữu lậu dựa nơi chín đạo vô gián trong định vị chí. Trường hợp 4: Không phải luật nghi tĩnh lự cũng không phải là luật nghi đoạn: Là trừ luật nghi vô lậu nơi chín đạo vô gián trong định vị chí, còn lại là tất cả luật nghi vô lậu.

Như thế hoặc có luật nghi vô lậu không phải là luật nghi đoạn, nên tạo ra bốn trường hợp, dựa theo bốn trường hợp trước, như chỗ ứng hợp nên biết. Như vậy, nên Đức Thế Tôn đã nói lược nói về giới:

Lành thay! Thân luật nghi

Lành thay! Ngữ luật nghi

Lành thay! Ý luật nghi

Lành thay! Luật nghi khắp.

Lại như Khế kinh nêu: Nên khéo bảo vệ. Nên khéo an trụ nơi luật nghi của nhãn căn.

Ở đây, luật nghi của ý và luật nghi của căn dùng gì làm tự tánh? Tự tánh của hai thứ này không phải là vô biểu. Nếu như vậy là nghĩa gì?

* Tụng viết:

Chánh tri, chánh niệm hợp

Gọi luật nghi ý căn.

* Luận nêu: Vì làm rõ hai thứ luật nghi như thế đều dùng chánh tri, chánh niệm làm Thể, nên nêu ra tên gọi rồi, lại nói về hợp: Nghĩa là luật nghi của ý do tuệ (Chánh tri), niệm (Chánh niệm) làm Thể, tức hợp hai thứ ấy (Tuệ niệm) cũng là luật nghi của căn. Nên lìa chữ hợp đã làm rõ như thế, chớ nên hiểu như thứ lớp kia.

Nay nên xét chọn: Biểu cùng vô biểu, những nào đã thành tựu? Ngang tới mức nào, trong thời gian nào? Tức lại biện về luật nghi, bất luật nghi vô biểu đã thành tựu.

* Tụng viết:

Trụ biệt giải: Vô biểu

Chưa xả luôn thành hiện

Sau sát-na thành quá

Bất luật nghi cũng thế.

Được luật nghi tĩnh lự

Luôn thành tựu quá vị

Thánh đầu trừ quá khứ

Trụ trong định đạo thành.

* Luận nêu: Bổ-đặc-già-la trụ nơi biệt giải thoát, từ lúc chưa xả bỏ trở đi thì luôn thành tựu nơi đời hiện tại. Luật nghi biệt giải thoát này là vô biểu. Sau sát-na thứ nhất cũng thành tựu vô biểu nghiệp quá khứ. Chưa xả bỏ trước và nói truyền khắp đến sau. Vô biểu không phân tán cũng có thành tựu vị lai. Không tùy tâm do thế mạnh của sắc quá yếu kém. Như nói an trụ nơi luật nghi biệt giải thoát. thì trụ nơi bất luật nghi nên biết cũng thế. Nghĩa là cho đến chưa xả bỏ giới ác, thì luôn thành tựu nơi đời hiện tại. Giới ác này là vô biểu. Sau sát-na thứ nhất cũng thành tựu quá khứ. Các hữu tình đạt được luật nghi tĩnh lự, cho đến kia chưa xả bỏ, thì luôn thành tựu quá khứ vị lai. Nơi đời khác đã mất luật nghi tĩnh lự quá khứ, thì nay nơi sát-na đầu tiên tất trở lại được luật nghi kia. Luật nghi vô lậu của tất cả Thánh giả nơi quá khứ vị lại cũng luôn thành tựu. Có sai biệt: Nghĩa là nơi sát-na đầu tiên tất thành tựu vị lai, không phải là thành tựu quá khứ. Do loại này, Thánh đạo trước chưa khởi. Nếu hữu tình hiện trụ nơi tĩnh lự thuộc đạo kia, thì như thứ lớp, thành tựu luật nghi đạo sinh tĩnh lự nơi hiện tại, không phải xuất quán mới có thành tựu hiện tại.

Đã biện về việc an trụ nơi luật nghi thiện ác. Vậy trụ trung thì thế nào?

* Tụng viết:

Trụ trung có vô biểu

Đầu thành trung, sau hai.

* Luận nêu: Nói trụ trung: Nghĩa là phi luật nghi phi bất luật nghi. Nghiệp đã khởi kia chưa hẳn tất cả đều có vô biểu. Nếu có vô biểu tức là thuộc vô chủng loại giới thiện hoặc là giới ác. Kẻ kia nơi sát-na đầu chỉ thành tựu hiện tại, nhưng đời hiện tại ở giữa quá khứ, vị lai, nên dùng từ thành trung nói là thành hiện tại. Sau sát-na thứ nhất, từ lúc chưa xả bỏ trở đi, là luôn thành tựu vô biểu của hai đời quá khứ, hiện tại.

Nếu có hữu tình an trụ nơi luật nghi, bất luật nghi, cũng có thành tựu vô biểu thiện ác chăng? Nếu như có thành tựu thì trải qua thời gian bao lâu?

* Tụng viết:

Trụ luật, bất luật nghi

Khởi vô biểu nhiễm tịnh

Đầu thành trung sau hai

Đến thế nhiễm tịnh hết.

* Luận nêu: Nêu trụ nơi luật nghi, do phiền não mạnh hơn nên khiến tạo các nghiệp bất thiện như sát sinh, trói buộc v.v…, vì đấy nên phát khởi vô biểu bất thiện. Trụ nơi bất luật nghi, do tín thuần tịnh khiếm tạo các nghiệp thù thắng như lễ Phật v.v…, vì đấy nên cùng phát khởi các vô biểu thiện. Cho đến khi hai tâm này chưa đoạn dứt, thì vô biểu đã phát khởi kia cũng luôn nối tiếp. Nhưng nơi niệm đầu chỉ thành tựu hiện tại. Từ đấy trở về sau nơi thành tựu chung quá khứ hiện tại.

Đã biện về vô biểu. Thế nào là thành tựu biểu?

* Tụng viết:

Biểu đang tạo thành trung

Sau thành quá, không vị

Hữu phú cùng vô phú

Chỉ thành tựu hiện tại.

* Luận nêu: Các hữu tình an trụ nơi luật nghi, bất luật nghi, cùng với loại trụ trung, cho đến khi đang tạo tác các biểu nghiệp, thì luôn thành tựu biểu nghiệp nơi hiện tại. Sau sát-na thứ nhất, cho đến khi chưa xả bỏ thì luôn thành tựu quá khứ. Tất không thành tựu biểu nghiệp của vị lai, như nơi vô biểu đã giải thích. Hai biểu nghiệp vô ký hữu phú, vô phú, nhất định không có thể thành tựu nơi quá khứ vị lai. Do lực của pháp đã yếu, mà lực đạt được cũng kém, nên không thể chuyển ngược trở lại để thành tựu. Lực của pháp này yếu kém thì do cái gì tạo nên? Là do tâm tạo nên. Nếu vậy thì tâm hữu phú vô ký v.v… chớ cho là thành tựu quá khứ vị lai? Vấn nạn này là phi lý. Do biểu nghiệp này là tối, chậm, là dựa nơi thứ khác khởi. Còn tâm v.v… thì không như thế. Biểu nghiệp vô ký từ tâm yếu kém khởi, tức lực của nó yếu kém hơn so với tâm yếu kém kia có thể khởi. Nên biểu nghiệp cùng với tâm thành có sai biệt.

Như trước đã nói về trụ nơi bất luật nghi. Vậy bất luật nghi này, về tên gọi có sai biệt gì?

* Tụng viết:

Hạnh ác, giới ác, nghiệp

Nghiệp đạo, bất luật nghi.

* Luận nêu: Năm thứ dị danh như hạnh ác v.v… này là tên gọi sai biệt của bất luật nghi. Bị các bậc trí chê trách chán bỏ cùng quả không yêu thích, nên lập tên là hạnh ác. Chướng ngại Thi la tịnh nên gọi là giới ác. Do thân ngữ tạo tác nên gọi là nghiệp. Thuộc về phần căn bản nên gọi là nghiệp đạo. Không ngăn giữ thân ngữ nên gọi là bất luật nghi. Nhưng tên gọi nghiệp đạo chỉ nói về niệm thứ nhất. Bốn tên gọi còn lại là chung cho phần vị trước sau. Hoặc thành biểu nghiệp không phải là vô biểu v.v…, nên tạo ra bốn trường hợp. Sự việc này là thế nào?

* Tụng viết:

Thành biểu, không vô biểu

Trụ trung, tư kém tạo

Thánh xả chưa xong biểu

Thành vô biểu không biểu.

* Luận nêu: Chỉ thành tựu biểu nghiệp không phải là vô biểu: Nghĩa là trụ nơi phi luật nghi, phi bất luật nghi. Do tư yếu kém tạo thiện tạo ác, chỉ phát khởi biểu nghiệp hãy còn không có vô biểu, huống chi là tư vô ký đã phát khởi biểu nghiệp! Trừ phước có nương dựa cùng thành nghiệp đạo. Chỉ thành tựu vô biểu không phải là biểu nghiệp: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la, Thánh, dị sinh, biểu nghiệp chưa sinh, hoặc sinh rồi bỏ. Hai trường hợp sau: Cùng thành, cùng không thành: Như chỗ ứng hợp nên biết.

Nói về trụ nơi luật nghi, bất luật nghi, cùng thành tựu biểu nghiệp vô biểu nghiệp. Vậy các luật nghi này do gì đạt được?

* Tụng viết:

Định sinh đắc địa định

Thánh kia đắc đạo sinh

Luật nghi biệt giải thoát

Đạt được do tha giáo v.v…

* Luận nêu: Luật nghi tĩnh lự đắc do tâm hữu lậu, tâm nơi địa thuộc tĩnh lự căn bản, tĩnh lự cận phần, bấy giờ liền đạt được, do luôn cùng hợp với tâm. Luật nghi vô lậu (Đạo sinh) đắc do tâm vô lậu, tâm nơi địa thuộc tĩnh lự căn bản, tĩnh lự cận phần, bấy giờ liền đạt được, do cũng cùng với tâm kết hợp. Chữ kia (Bỉ: Bỉ Thánh) là làm rõ về tâm của tĩnh lự trước. Lại nói từ Thánh là phân biệt về chỗ đạt được vô lậu. Sáu địa tĩnh lự có tâm vô lậu: Nghĩa là định vị chí, định trung gian và bốn định căn bản, không phải là ba cận phần, như phần sau sẽ biện. Luật nghi biệt giải thoát do tha giáo v.v… đạt được. Người khác có thể chỉ giáo nên gọi là tha. Từ lực dụng của tha giáo như thế khiến phát khởi giới, nên nói giới này do tha giáo đắc. Ở đây lại có hai loại: Là từ Tăng già đắc, từ Bổ-đặc-già-la đắc, có sai biệt.

Từ Tăng già đắc: Nghĩa là giới của Bí-sô, Bí-sô-ni, cùng Chánh học. Từ Bổ-đặc-già-la đắc: Nghĩa là năm thứ giới còn lại. Các Sư chuyên về luật của phái Tỳ-bà-sa nói là có mười thứ đắc gồm đủ giới pháp. Vì để gồm thâu mười thứ đắc ấy nên nơi câu tụng thứ tư đã dùng chữ v.v… (Đẳng: Đắc do tha giáo đẳng). Những gì là mười thứ đắc? (1) Đắc do tự nhiên. Nghĩa là như Phật, Độc giác. (2) Đắc do nhập chánh tánh ly sinh. Nghĩa là năm Bí-sô đầu tiên. (3) Đắc do lời Phật bảo: Thiện lai Bí-sô! Nghĩa là như Da-xá v.v… (4) Đắc do tin thọ Phật là Đại sư. Nghĩa là như Đại Ca-diếp. (5) Đắc do khéo léo thưa đáp lại câu hỏi của Phật. Nghĩa là như Tô-đà-di. (6) Đắc do kính thọ tám pháp tôn trọng. Nghĩa là như Di mẫu Đại Sinh Chủ. (7) Đắc do sứ giả được sai đến. Nghĩa là như ni Pháp Thọ. (8) Đắc do trì luật là người thứ năm. Nghĩa là ở nơi vùng biên giới. (9) Đắc do mười chúng. Nghĩa là giới đàn nơi vùng giữa nước. (10) Đắc do ba lần nói quy y Phật Pháp Tăng. Nghĩa là như sáu mươi Hiền Bộ cùng tập hợp thọ cụ giới. Như vậy là đắc luật nghi biệt giải thoát không phải tất định dựa nơi biểu nghiệp để phát khởi. Lại, ở đây đã nói về luật nghi biệt giải thoát. Vậy khi nào thì có thể thọ trì và thọ trì trong thời gian bao lâu?

* Tụng viết:

Luật nghi biệt giải thoát

Suốt đời hoặc ngày đêm.

* Luận nêu: Bảy chúng thọ trì giới biệt giải thoát chính là nên trọn đời thọ trì. Giới biệt giải thoát do hang cận trụ thọ trì thì chỉ thọ trì trong thời gian một ngày đêm. Thời gian ấy đã định như thế. Vì sao? Vì biên vực về thời gian của giới chỉ có hai loại: (1) Biên vực của thọ mạng. (2) Biên vực của ngày đêm. Nói lần nữa về ngày đêm là nửa tháng v.v…

Danh hiệu thời là pháp gì? Là tăng ngữ của các hành. Ở trong bốn châu, theo phần vị ánh sáng, bóng tối, như thứ lớp ấy để lập tên gọi ngày đêm. Nơi hai biên vực như đã nêu thì suốt đời là có thể như thế. Nhưng sau khi mạng chung, tuy có thời gian quy định mà lại không thể sinh giới biệt giải thoát. Vì chỗ dựa là thân, khác. Chỗ dựa riêng trong thân không có gia hạnh, không có nhớ nghĩ. Trong một ngày đêm, hoặc trong năm, mười ngày đêm v.v… thọ giới cận trụ, thì pháp nào đã chướng ngại, khiến rất nhiều luật nghi cận trụ kia, không phải cũng được khởi? Tất nên là có pháp có thể tạo chướng ngại. Do Đức Bạc-già-phạm ở trong Khế kinh đã nói: Luật nghi Cận trụ chỉ thọ trì trong một ngày đêm. Tức đối với nghĩa như thế phải nên cùng tìm xét. Do Đức Phật chánh quán về một ngày đêm, sau đấy thì lý không thể khởi luật nghi Cận trụ nữa, nên ở trong kinh nói chỉ một ngày đêm? Hay là Đức Thế Tôn đã quán xét căn trí của đối tượng được hóa độ là khó điều phục, chỉ nên trao cho họ giới một ngày đêm? Dựa nơi lý giáo nào để nói như thế? Vì nếu vượt quá giới này thì cũng không trái lý. Phái Tỳ-bà-sa nói như vầy: Từng không có Khế kinh nói luật nghi Cận trụ được thọ riêng hơn một ngày đêm. Vì thế Tông phái này không thừa nhận nghĩa kia.

Dựa vào biên vực nào để đắc bất luật nghị?

* Tụng viết:

Giới ác không ngày đêm

Là không như thọ thiện.

* Luận nêu: Thời gian kéo dài suốt đời tạo các nghiệp ác để đắc bất luật nghi, không phải là một ngày đêm như giới của Cận trụ. Vì sao? Vì ở đây không phải như thọ giới thiện. Nghĩa là tất không có sự việc lập nguyện đời nơi thầy thọ bất luật nghi như thọ giới Cận trụ: “Tôi nơi một ngày đêm quyết định thọ bất luật nghi”. Đây là nghiệp đã bị người trí chê trách, lìa bỏ. Nếu như thế thì cũng không có việc lập nguyện đối nơi thầy: Tôi cho đến mạng chung quyết định thọ giới ác. Nên cũng không có việc suốt cả đời đắc bất luật nghi? Tuy không có đối nơi thầy nêu thời hạn suốt cả đời tạo các nghiệp ác, nhưng do khởi tâm hủy hoại hoàn toàn ý lạc thiện, nên được bất luật nghi, không phải chỉ khởi tâm hủy hoại tạm thời ý lạc thiện. Do không thầy khiến hữu tình kia đắc bất luật nghi, nên bất luật nghi không có thời hạn một ngày đêm như giới của Cận trụ. Rõ ràng là giới Cận trụ, do hiện đối nơi thầy nêu thời hạn theo sức thọ nhận, tuy không khởi tâm hủy hoại hoàn toàn ý lạc xấu ác, nhưng đã đắc luật nghi. Nếu như có hữu tình đối nơi thầy nêu thời hạn tạm thời thọ nhận bất luật nghi, thì hữu tình kia cũng tất nên đắc. Tuy nhiên chưa từng thấy nên không nói là có. Sư Kinh Bộ nói: Như luật nghi thiện không có vật thật riêng gọi là vô biểu, bất luật nghi này cũng nên không phải là thật. Tức ý muốn tạo ý lac ác bất thiện nối tiếp không dứt bỏ, gọi là bất luật nghi. Do đấy, thời gian sau tâm thiện tuy khởi, nhưng vẫn gọi là kẻ tạo thành bất luật nghi, do không xả bỏ thứ A-thế-da (ý lạc) này.

Nói luật nghi Cận trụ thọ trong một ngày đêm, vậy lúc sắp chính thức thọ thì sẽ thọ như thế nào?

* Tụng viết:

Cận trụ nơi sáng sớm

Tòa dưới theo thầy thọ

Tùy giáo nói đủ chi

Ngày đêm lìa trang sức.

* Luận nêu: Luật nghi Cận trụ thọ vào sáng sớm. Nghĩa là thọ giới này chính là lúc mặt trời mọc. Giới này cần trải qua một ngày đêm. Các hữu tình trước đã khởi tác thời hạn quy định như vầy: Tôi thường ở nơi tám ngày của tháng, tất sẽ thọ luật nghi cận trụ này. Nếu vào buổi sáng sớm có sự việc trở ngại, thì thọ trai xong cũng được thọ. Nói tòa dưới: Nghĩa là ở trước thầy, ngồi nơi tòa thấp hơn, kém hơn. Hoặc ngồi xổm, hoặc quỳ mọp, thân cúi xuống, cung kính chấp tay, chỉ trừ có bệnh.

Nếu không cung kính thì không phát khởi luật nghi. Đây tất từ nơi thầy, không thể tự thọ. Về sau nếu gặp phải các duyên phạm giới, thì do hổ thẹn đối với thầy truyền giới, nên có thể không trái phạm. Người thọ giới này, nên tùy theo lời thầy dẫn dạy, người thọ nói sau, không được nói trước, nói cùng lúc. Như thế mới thành “Theo thầy giáo thọ”. Khác với đây thì hai việc trao giới thọ giới đều không thành. Thọ đủ tám chi mới thành Cận trụ. Theo đấy có chỗ thiếu thì giới Cận trụ không thành. Thọ luật nghi này tất lìa mọi thứ trang sức, vì đấy là xứ khởi kiêu mạn phóng dật. Các vật dụng thường để trang nghiêm thân thì không cần phải bỏ. Vì duyên nơi các thứ ấy không thể sinh khởi tâm kiêu mạn, phóng dật như những thứ mới khác. Thọ luật nghi này tất phải trải qua một ngày đêm. Nghĩa là kéo dài đến sáng ngày hôm sau, lúc mặt trời mới mọc. Nếu không dựa nơi pháp thọ như vậy, thì chỉ sinh hạnh diệu chứ không được luật nghi. Lại nếu trọn một ngày đêm thọ giới như thế, tức đủ để chế ngự các hữu tình giết mổ, săn bắn, gian trộm, thì luật nghi Cận trụ thành tựu hữu dụng rất đáng kể. Nói Cận trụ: Nghĩa là luật nghi này trụ gần với bậc A-lahán, do tùy thuận học theo chư vị kia. Có thuyết cho: Cận trụ này là trụ gần với giới thọ nhận suốt đời. Luật nghi như thế hoặc gọi là nuôi lớn, tức nuôi lớn căn thiện còn mỏng ít nơi hữu tình, khiến căn thiện ấy dần dần tăng nhiều. Như có Tụng nói:

Do đấy hay nuôi lớn

Tâm thiện tịnh tự tha

Vì thế Bạc-già-phạm

Nói đấy gọi nuôi lớn.

Vì sao thọ giới ấy tất gồm đủ tám chi?

* Tụng viết:

Giới không dật, chi cấm

Bốn, một, ba thứ lớp

Vì ngăn các tánh tội

Thất niệm cùng kiêu dật.

* Luận nêu: Trong tám chi, thì bốn chi trước là chi Thi la. Nghĩa là lìa sát sinh, cho đến lìa nói dối. Do bốn thứ này là lìa tánh tội. Tiếp theo có một thứ là chi không phóng dật. Nghĩa là lìa uống các thứ rượu, vì đấy là xứ sinh phóng dật. Tuy thọ Thi la, nếu uống các thứ rượu thì tâm phóng dật, thì phạm Thi la. Sau có ba thứ là chi ngăn cấm. Nghĩa là lìa bôi xoa hương, mang đeo tràng hoa, cho đến ăn phi thời. Do các chi này tùy thuận với tâm chán lìa. Vì sao phải thọ đủ ba chi như thế? Nếu không thọ đủ tám chi thì không thể lìa tánh tội, lìa các lỗi lầm do thất niệm, kiêu dật. Nghĩa là đầu tiên lìa sát sinh, đến lìa nói dối, là có thể ngăn phòng tánh tội. Là lìa tham sân si sinh khởi các nghiệp ác như sát sinh v.v… Tiếp theo là lìa uống rượu, tức có thể ngăn chận thất niệm (Mất niệm = Quên). Do lúc uống rượu có thể khiến quên mất hết các sự việc nên làm không nên làm. Sau lìa ba thứ kia có thể ngăn trừ kiêu dật. Do nếu thọ dụng các thứ hương tràng hoa, giường tòa cao rộng, quen gần với ca múa thì tâm liền kiêu ngạo, tức liền hủy giới. Do xa lìa chúng nên tâm lìa bỏ kiêu mạn. Nếu có thể giữ giới ăn đúng thời, do có thể ngăn dứt sự việc ăn phi thời, tức liền nhớ nghĩ về luật nghi Cận trụ đã tự thọ. Có thể đối với thế gian sinh chán lìa sâu xa. Nếu không có chi thứ tám thì cả hai sự việc vừa nêu đều không. Luôn ăn phi thời khiến tâm phóng dật.

Có Sư khác cho: Lìa ăn phi thời gọi là Thể của trai giới. Bảy thứ còn lại là chi trai (Bộ phạn của trai giới). Để có đủ tám chi tức nên chia: Xoa hương trang sức tràng hoa và xem nghe ca múa ra làm hai chi. Luận điểm này là không hợp với kinh. Do trong kinh nói lìa ăn phi thời xong, liền nói như thế này: Đối với chi thứ tám ấy, tôi nay tùy theo Thánh A-la-hán để học, để hành, để tạo tác. Nếu vậy thì có gì khác biệt với Thể của trai giới để nói tám thứ này thì gọi là chi trai? Nêu dẫn chung gọi là trai giới, nói riêng là chi. Do riêng thành chung, nên được mang tên chi. Như nói các phần xe, quân bốn nhánh, thuốc hòa năm thứ. Tám chi trai giới nên biết cũng thế. Sư Tỳ-bà-sa nói: Lìa ăn phi thời là trai giới, cũng là chi trai giới. Bảy chi còn lại là chi trai, không phải là trai. Như chánh kiến là đạo cũng là chi đạo. Bảy chi con lại là chi đạo, không phải là đạo. Trạch pháp giác là giác cũng là chi giác. Sáu chi còn lại là chi giác, không phải là giác. Tam-ma-địa là tĩnh lự cũng là chi tĩnh lự. Các chi còn lại là chi tĩnh lự, không phải là tĩnh lự. Những nêu bày như thế là không hợp lý. Vì không thể cho chánh kiến v.v… tức là chi như chánh kiến v.v… Nếu cho chánh kiến v.v… sinh trước là chi của chánh kiến v.v… sinh sau, thì nơi sát-na thức một, Thánh đạo v.v… tức nên không có đủ tám chi.

Chỉ Cận sự mới được thọ luật nghi Cận trụ, hay hạng khác cũng được thọ luật nghi Cận trụ?

* Tụng viết:

Cận trụ, khác cũng có

Không thọ Tam quy, không.

* Luận nêu: Các hữu tình chưa thọ luật nghi Cận trụ, trong một ngày đêm thọ quy y Tam bảo, tức nói Tam quy rồi thì thọ giới cận trụ, hữu tình ấy cũng được thọ luật nghi cận trụ. Khác với đây thì không được, trừ khi không nhận biết.

Như nơi Khế kinh nói: Đức Phật bảo Tôn giả Đại Danh: Các nam tử bạch y tại gia, nam căn thành tựu, quy kính Phật Pháp Tăng, khởi tâm ân cần thanh tịnh, phát khởi lời nói thành thật, tự xưng con là Ô-ba-sách-ca (Cận sự nam), kính xin bậc Tôn trưởng ghi nhận, từ bi hộ niệm. Được như thế gọi là Ô-ba-sách-ca. Vậy là chỉ thọ Tam quy tức thành Cận sự chăng?

Các Sư ngoại quốc cho: Chỉ như thế tức thành. Các Luận sư thuộc nước Ca-thấp-di-la nói: Lìa luật nghi cận sự thì không phải là cận sự. Nếu như vậy thì so với kinh vừa nêu là trái nhau? Ở đây là không trái nhau, vì đã phát khởi giới. Vào lúc nào thì phát khởi giới? * Tụng viết:

Xưng Cận sự phát giới

Thuyết giảng như Bí-sô.

* Luận nêu: Khởi tâm ân cần thanh tịnh, phát sinh lời nói thành thật đúng đắn, tự xưng con là Ô-ba-sách-ca, xin bậc Tôn trưởng ghi nhận, từ bi hộ niệm. Bấy giờ tức là phát khởi luật nghi Cận sự. Khi nêu xưng Cận sự v.v…, tức là phát khởi luật nghi. Do đấy, kinh lại nói: Con từ hôm nay cho đến mạng chung, là một cận sự “Xả sinh”. Kinh này ý nói: Xả sát sinh v.v…, lược bỏ chữ sát v.v…, nên chỉ nói là xả sinh, tức là ở nơi thời gian trước đã được năm giới. Người này tuy đã được luật nghi cận sự, nhưng vì khiến nhận biết rõ về học xứ cần thọ giữ, nên lại vì người ấy giảng nói năm thứ giới tướng như lìa sát sinh v.v…, khiến hiểu biết để kiên trì. Như được giới cụ túc của Bí-sô rồi thì lại giảng nói về học xứ khiến nhận biết để giữ vững. Cần sách cũng như thế. Ở đây cũng nên như vậy. Do đó, Cận sự tất đủ luật nghi.

* Tụng viết:

Nếu đều đủ luật nghi

Sao nói là một phần v.v…

Theo chủ thể trì, nói.

* Luận nêu: Nếu các Cận sự đều có đủ luật nghi, thì vì sao Đức Thế Tôn nói có bốn loại Cận sự: (1) Có thể học một phần. (2) Có thể học ít phần. (3) Có thể học nhiều phần. (4) Có thể học đủ phần. Nghĩa là căn cứ theo chủ thể thọ trì (Người thọ giới) nên nói như vậy. Chủ thể thọ trì là trước đối với giới được thọ trì, nên nói là “Có thể học…”. Nếu không như thế tức nên nói thọ một phần v.v… Lý thật là căn cứ theo sự thọ nhận v.v… gồm đủ luật nghi. Do đủ luật nghi nên gọi là Cận sự.

Những giải thích như thế là trái vượt với Khế kinh. Vì sao gọi là trái với Khế kinh? Nghĩa là không có Khế kinh nào chép câu: “Tự xưng con là Cận sự v.v…” liền phát khởi năm giới. Kinh này không nói: Con từ hôm nay cho đến mạng chung là Cận sự xả sinh. Vậy kinh nói như thế nào? Như Kinh Đại Danh, tức chỉ trong kinh này đã thuyết minh về tướng của Cận sự. Kinh khác không như thế nên là trái vượt với kinh. Rõ ràng là kinh khác nói: “Con từ hôm nay cho đến mạng chung “Xả sinh” quy tịnh”. Là quy hướng Tam bảo phát khởi lời nói tin tưởng thành thật. Ở đây là chỉ rõ về người đã kiến đế, do đắc chứng tịnh, nên đem thân mạng để tự ước nguyện. Biểu thị đối với chánh pháp đã hết lòng yêu kính, cho đến dù để cứu lấy mạng sống của chính mình, cũng không lìa bỏ chánh pháp. Không phải kinh kia là muốn nói về tướng của cận trụ nên nói câu “Xả sinh” v.v… như thế. Nếu như nói cũng không phải là lý, giáo phân minh. Ai có thể căn cứ theo lời văn không sáng rõ ấy để tin là thời gian trước đã phát khởi năm giới? Lại, căn cứ theo trì, phạm giới để nói học một phần v.v… hãy còn không nên hỏi huống là nên đáp lại. Có người nào đã giải thích luật nghi Cận sự tất đủ năm chi, nhưng không thể giải thích, đối với học xứ đã thọ trì một không phải là thứ khác. Cho đến thọ trì đủ gọi là một phần v.v… Do chưa giải thích luật nghi cận sự kia, về thọ lượng nhiều ít, tức nên thưa hỏi: Gồm có bao nhiêu loại Ô-ba-sách-ca có thể học Học xứ? Đáp: Có bốn loại Ô-ba-sách-ca. Tức là có thể học một phần v.v… Cũng còn chưa có thể rõ. Lại hỏi: Sao gọi là có thể học một phần, cho đến nói rộng? Nếu thiếu luật nghi vẫn được gọi Cận sự, thì Bí-sô, Cần sách thiếu, tức cũng nên thành. Nhưng nơi các Bí-sô, Cần sách đã không thành, thì ở đây cũng nên như thế. Vì sao Cận sự cho đến Bí-sô, về luật nghi đã thọ, chi lượng nhất định như vậy? Là do uy lực nơi giáo pháp của Phật đã thiết lập nên như thế. Nếu vậy thì sao không thừa nhận, do uy lực nơi giáo pháp của Phật, đã thiết lập tuy thiếu luật nghi nhưng vẫn gọi là Cận sự, không phải là Bí-sô v.v… Các Sư Tỳ-bà-sa của nước Ca-thấp-di-la thì không thừa nhận luận điểm này.

Tất cả luật nghi như Cận sự do gì để được thành phẩm hạ trung thượng?

* Tụng viết:

Hạ trung thượng tùy tâm.

* Luận nêu: Luật nghi biệt giải thoát của tám chúng đã thọ đều tùy theo tâm thọ nhận mà có phẩm hạ trung thượng. Do lý như thế nên các vị A-la-hán hoặc có vị chỉ thành tựu luật nghi phẩm hạ, con các phàm phu hoặc có người thành tựu luật nghi phẩm thượng.

Trường hợp chỉ thọ luật nghi Cận sự, không thọ Tam quy thì có thành cận sự không? Không thành cận sự, trừ khi người truyền giới và người thọ giới đều không nhận biết. Các hữu tình quy y nơi Phật Pháp Tăng là quy y những gì?

* Tụng viết:

Quy y thành Phật Tăng

Vô học, hai thứ pháp

Cùng Niết-bàn trạch diệt

Là nói đủ Tam quy.

* Luận nêu: Quy y Phật: Nghĩa là chỉ quy y pháp vô học có thể thành Phật. Do pháp kia là thù thắng nên thân được danh hiệu Phật. Hoặc do đạt được pháp kia, là pháp khiến Phật có thể nhận biết tất cả. Những gì gọi là pháp vô học của Phật? Nghĩa là tận trí v.v… cùng những tùy hành của các trí ấy. Không phải là thân như sắc v.v…, vì trước sau là như nhau. Là quy y một Phật hay là quy y tất cả Phật? Lý thật tức nêu nói quy tất cả Phật, do tướng đạo của chư Phật là không khác.

Quy y Tăng: Nghĩa là quy y chung nơi các pháp học, vô học có thể thành Tăng. Do đạt được pháp kia nên Tăng thành tám loại Bổđặc-già-la hòa hợp không thể phá vỡ. Là quy y một Tăng Phật hay là quy y tất cả Tăng Phật? Lý thật là quy y chung nơi tất cả Tăng Phật, do tướng đạo của tất cả Tăng là không khác. Nhưng nơi Khế kinh nói: Đương lai có Tăng, ông nên quy y. Kinh kia chỉ nhằm hiển bày, chỉ rõ là nơi vị lai hiện thấy Tăng bảo.

Quy y Pháp: Nghĩa là quy y Niết-bàn. Từ Niết-bàn này chỉ làm rõ về trạch diệt. Tức phiền não cùng khổ của tự tha nối tiếp đều thành một tướng vắng lặng, nên quy y chung. Nếu cho chỉ pháp vô học tức là Phật, thì vì sao đối với Phật dấy khởi tâm ác làm thân Phật chảy máu, chỉ tổn hại sinh thân, lại thành tội vô gián? Tỳ-bà-sa đưa ra giải thích như thế này: Hủy hoại thân là chỗ dựa của pháp kia, thì pháp ấy cũng theo đó bị hoại. Nhưng xét tìm nơi Bản luận thì không thấy có câu nói: Chỉ pháp vô học tức gọi là Phật. Chỉ nói: Pháp vô học có thể thành Phật. Đã không ngăn cản Thể Phật lại cũng gồm thâu y thân, nên ở đây không cần nêu vấn nạn như trước. Nếu khác với điều này, tức nên Phật cùng với Tăng, lúc trụ nơi tâm thế tục, là không phải Tăng không phải Phật. Lại tức nên chỉ cho thành giới Bí-sô, người ấy chỉ cần cúng dường Thi la thành Bí-sô. Như vậy, có hữu tình muốn quy y Phật, cũng nên chỉ quy y pháp vô học thành Phật. Có Sư khác cho: Quy y Phật là quy y chung nơi mười tám pháp bất cộng của Đức Như Lai.

Quy y này có thể lấy pháp gì làm Thể? Lấy ngữ biểu làm Thể. Quy y như thế dùng gì làm nghĩa? Dùng cứu vớt cứu độ làm nghĩa. Do Phật Pháp Tăng kia là chỗ dựa nên có thể vĩnh viễn giải thoát khỏi tất cả khổ. Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Những người sợ bức bách

Nhiều quy dựa các núi

Khu vườn cùng rừng rậm

Cây trơ trọi, tháp miếu.

Quy y này không tốt

Quy y này không cao

Không nhân nơi quy y

Có thể thoát các khổ.

Những người quy y Phật

Cùng quy y Pháp Tăng

Ở trong bốn Thánh đế

Luôn dùng tuệ quán xét.

Biết khổ biết khổ tập

Biết vượt hẳn các khổ

Biết tám chi Thánh đạo

Hướng Niết-bàn an ổn.

Quy y này tối thắng

Quy y này tối tôn

Tất nhân quy y ấy

Có thể thoát các khổ.

Thế nên quy y khắp nơi tất cả xứ thọ luật nghi làm cửa phương tiện. Vì sao Đức Thế Tôn ở nơi xứ luật nghi khác đã lập lìa phi phạm hạnh (Lìa dâm dục) làm Học xứ, còn ở trong một luật nghi của Cận sự thì chỉ chế khiến hạnh dục tà (Lìa tà dâm):

* Tụng viết:

Hạnh tà rất đáng trách

Dễ lìa, được bất tác.

* Luận nêu: Chỉ hạnh dục tà là đáng chê trách nhất nơi thế gian, do có thể xâm hại thê thiếp của kẻ khác. Có thể chiêu cảm quả sinh nơi nẻo ác, không phải là phi phạm hạnh. Lại, hạnh dục tà dễ xa lìa. Những người tại gia tham đắm nơi dục, nên lìa bỏ phi phạm hạnh là khó có thể thọ trì. Quán xét hàng tại gia kia không thể tu học trong thời gian dài lâu, nên không chế họ giữ giới lìa bỏ phi phạm hạnh. Lại, các Thánh giả đối với hạnh dục tà, tất cả nhất định được luật nghi bất tác. Nơi đời kế tiếp, Thánh giả cũng không hành tạo. Nhưng lìa phi phạm hạnh thì không như thế. Nên ở nơi luật nghi đã thọ của hàng Cận sự, chỉ vì họ chế lập lìa hạnh dục tà. Tức chớ nên cho Thánh giả trải qua các đời có thể phạm luật nghi Cận sự. Các hữu tình trước thọ luật nghi Cận sự, sau thì cưới thê thiếp. Vậy người kia đối với thê thiếp, trước lúc thọ giới có được luật nghi không? Lý thật nên nói là được. Chớ nên cho là chỉ ở nơi một phần được luật nghi biệt giải thoát. Nếu thế thì sao về sau không phạm giới?

* Tụng viết:

Đắc luật nghi như thệ

Không gồm nơi nối tiếp.

* Luận nêu: Như thệ nguyện vốn thọ nhận mà được luật nghi. Thệ nguyện vốn thọ nhận là thế nào? Nghĩa là thệ nguyện lìa bỏ hạnh dục tà (Tà dâm). Không phải đối với sự nối tiếp của tất cả hữu tình nói: Tôi đều nên lìa bỏ phi phạm hạnh (Dâm dục). Do đấy, đối khắp sự tương tục của hữu tình chỉ được giới lìa hạnh dục tà, không phải là luật nghi lìa phi phạm hạnh. Thế nên về sau thâu nạp thê thiếp, không hủy phạm giới đã thọ trước. Vì sao chỉ chế giới lìa lời nói hư dối là luật nghi của hạng Cận sự mà không phải là lời nói ly gián v.v…? Tức cũng do ba thứ nhân như đã nói trước: Nghĩa là lời nói hư dối là đáng chê trách nhất, các người tại gia dễ xa lìa, và tất cả Thánh giả được luật nghi bất tác. Lại có nhân riêng khác.

* Tụng viết:

Do mở lời hư dối

Liền vượt các học xứ.

* Luận nêu: Vượt các học xứ, là khi bị xét hỏi, nếu mở lời hư dối liền nói: Tôi không làm sự việc ấy. Nhân đấy, đối với giới phần nhiều là đã trái vượt. Thế nên Đức Phật, vì muốn cho hàng Cận sự giữ vững giới, tức ở nơi tất cả luật nghi đã chế giới lìa lời nói hư dối. Vì sao? Vì khiến cho những Cận sự kia, lúc phạm giới liền tự phát lồ, nên có thể ngăn chận sự việc về sau.

Lại do nhân duyên gì, không ở nơi xa lìa già tội kiến lập luật nghi Cận sự? Ai cho là ở đây không lìa già tội? Lìa già tội gì? Đó là lìa uống rượu. Vì sao ở trong các già tội kia không chế lìa các thứ khác, chỉ ngăn cấm uống rượu?

* Tụng viết:

Trong già chỉ lìa rượu

Vì giữ luật nghi khác.

* Luận nêu: Những kẻ uống rượu, tâm phần nhiều là phóng dật, không giữ gìn các luật nghi khác. Vì để giữ gìn các luật nghi khác nên khiến lìa uống rượu.

Do đâu nhận biết uống rượu là thuộc về già tội? Vì trong ấy không có tướng của tánh tội. Vì các tánh tội chỉ là hành của tâm nhiễm ô. Do lúc chữa bệnh, tuy uống các rượu nhưng không bị say loạn, có thể là tâm không nhiễm. Đâu phải trước không nhận biết rượu có thể làm say loạn mà cố ý muốn uống, tức là tâm nhiễm ô. Ở đây không phải là tâm nhiễm ô, do tự nhận biết về lượng. Vì để chữa bệnh nên theo phần hạn mà uống không khiến say loạn, nên không phải là tâm nhiễm.

Chư vị Trì Luật nói: Uống rượu là tánh tội. Như Tôn giả Ô-baly kia thưa: “Con nên chăm sóc người bệnh như thế nào? Đức Thế Tôn đáp: Chỉ trừ tánh tội, ngoài ra tùy theo chỗ ứng hợp đều có thể cung cấp”. Có người thuộc họ Thích bị bệnh cần rượu nhưng Đức Thế Tôn không cho phép người ấy được uống rượu. Lại như Khế kinh nói: Các Bí-sô đã gọi Ta là thầy thì không nên uống rượu. Cả đến một lượng rượu rất nhỏ chỉ thấm ướt trên đầu ngọn cỏ cũng không nên uống. Vì vậy nên biết uống rượu là thuộc về tánh tội. Lại, các Thánh giả tuy trải qua nhiều đời cũng không phạm giới uống rượu, cũng như giới sát sinh v.v… Lại kinh còn nói uống rựợu là hành ác của thân.

Các Sư Đối Pháp thì cho: Uống rượu không phải là tánh tội. Tuy nhiên vì người bệnh, nên gồm chung là giới khai giá. Lại ở nơi thời gian khác thì ngăn cấm uống rượu, vì đề phòng nhân đấy phạm các tánh tội. Lại khiến say loạn vì lượng rượu không định rõ về giới hạn. Thế nên ngăn cấm, cho đến uống một lựợng rượu chỉ thấm ướt trên đầu ngọn cỏ. Lại, hết thảy Thánh giả đều không uống rượu, do chư vị luôn có đủ hổ thẹn. Uống rượu có thể khiến mất chánh niệm, nên cho đến phần ít cũng không uống, do như thuốc độc vì lượng là vô định. Lại như kinh nói là hành ác của thân, do rượu là nơi chốn của tất cả phóng dật. Vì vậy lập riêng tên gọi xứ phóng dật, các thứ khác thì không lập tên gọi này, vì đều là tánh tội. Nói luôn hành tập tức bị đọa nơi nẻo ác: Là làm rõ thường uống rượu có thể khiến các pháp bất thiện trong thân nối tiếp chuyển tăng, lại có thể dẫn phát nghiệp chiêu cảm nẻo ác. Hoặc có thể khiến các pháp bất thiện kia càng tăng thịnh. Như thế kinh nói: Tốt-la, Mê-lệ-da, Mạt-đà là xứ phóng dật. Dựa nơi nghĩa gì để nói như thế? Ủ men thức ăn (Cơm) thành rượu gọi là Tốt-la. Ủ men các vật khác để thành rượu gọi là rượu Mê-lệ-da. Tức hai thứ rượu trước chưa chín đã hoại, không thể khiến say, nên không gọi là Mạt-đà. Nếu lúc khiến say thì gọi là rượu Mạt-đà. Phân biệt về phần vị vô dụng nên lại lập tên gọi này. Tuy nhiên, do quả cau cùng cỏ Bại ăn vào cũng có thể khiến sau. Để phân biệt với thứ ấy nên phải nói rượu Tốt-la, Mê-lệ-da. Tuy là già tội, nhưng khiến phóng dật tạo rộng các ác. Vì để chú trọng ngăn chận, đoạn dứt nên nói là xứ phóng dật. Rượu là xứ nương dựa của phóng dật.

HẾT – QUYỂN 14