LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 3
Phẩm thứ 2: PHÂN BIỆT CĂN, phần 1
Như vậy là nhân nơi giới đã nêu ra các căn. Tức ở trong đây, căn nghĩa là gì? Tối thắng, tự tại, sáng rõ, hiển bày gọi là căn. Do đấy đã thành tựu chung nghĩa tăng thượng của căn. Nghĩa tăng thượng này là cái gì đối chiếu với cái gì?
* Tụng viết:
Truyền nói năm nơi bốn
Bốn căn nơi hai thứ
Năm, tám trong nhiễm tịnh
Đều riêng là tăng thượng.
* Luận nêu: Năm căn như nhãn v.v… đều ở nơi bốn sự, có thể là tăng thượng. (1) Trang nghiêm thân. (2) Dẫn dắt nuôi sống thân. (3) Sinh khởi thức. (4) Sự không chung.
Lại như nhãn, nhĩ căn trang nghiêm thân: Nghĩa là như mù điếc, thân thô xấu. Dẫn dắt nuôi sống thân: Nghĩa là nhân nơi thấy nghe khiến tránh các thứ hiểm nạn. Sinh khởi thức: Nghĩa là phát khởi hai thức cùng tương ưng. Sự không chung: Nghĩa là có thể thấy sắc nghe âm thanh riêng. Ba căn tỷ thiệt thân trang nghiêm thân: Tức như nói về nhãn nhĩ. Dẫn dắt nuôi sống thân: Nghĩa là đối với đoạn thực có thể thọ dụng. Sinh khởi thức: Nghĩa là phát sinh ba thức cùng pháp tương ưng. Sự không chung: Nghĩa là ngửi, nếm, nhận biết về hương vị xúc.
Các căn nữ, nam, mạng, ý đều ở nơi hai sự, có thể là tăng thượng. Như nữ căn, nam căn có hai tăng thượng: (1) Hữu tình khác. (2) Phân biệt khác. Hữu tình khác: Là do hai căn này khiến các hữu tình có nam nữ loại khác. Phân biệt khác: Tức do hai căn này, nên hình tướng, ngôn âm, sinh sản, chỗ ở v.v… có khác. Có thuyết nói: Ở đây, đối với nhiễm tịnh có tăng thượng nên nói nơi hai thứ. Vì sao? Vì bản tánh là tổn hoại. Như những người Phiến dĩ, Bán trạch cùng hai hình là không có bất luật nghi, như các pháp tạp nhiễm, vô gián đoạn thiện. Cũng không có luật nghi như các pháp thanh tịnh, được quả lìa nhiễm. Mạng căn có hai: Nghĩa là ở nơi chúng đồng phần có thể nối tiếp cùng có thể giữ vững. Ý căn có hai: Là có thể nối tiếp hữu sau cùng tự tại tùy hành. Có thể nối tiếp hữu sau: Nghĩa là như Khế kinh nói: Lúc này, Kiện-đạt-phược ở trong một tâm, tùy theo một hiện tiền. Tức là hoặc ái cùng hợp, hoặc giận cùng hợp. Tự tại tùy hành: Là như Khế kinh nói:
Tâm hay dẫn thế gian
Tâm hay thâu nhận khắp
Một pháp tâm như thế
Đều tự tại tùy hành.
Năm thọ như lạc (Năm căn: Lạc, khổ, hỷ, ưu, xả), tám căn như tín v.v… ở trong nhiễm tịnh, như thứ lớp có tăng thượng. Năm thọ như lạc căn v.v… là nhiễm tăng thượng. Là chỗ tùy tăng của các tùy miên như tham v.v… Tám căn như tín v.v… là tịnh tăng thượng. Là các pháp thanh tịnh theo đấy sinh trưởng. Có Sư khác nói: Lạc căn v.v… ở nơi tịnh cũng là tăng thượng. Như Khế kinh nói: Do lạc nên tâm định. Khổ là chỗ dựa của tín. Cũng có xuất ly dựa nơi hỷ cùng ưu xả. Sư Tỳ-bà-sa truyền nói như thế. Có Sư khác cho: Có thể dẫn dắt nuôi sống thân, không phải là dụng của nhãn v.v… mà là thức tăng thượng. Thức phân biệt nhận biết mới có thể tránh nơi hiểm nạn, thọ dụng đoạn thực. Dụng như thấy sắc v.v… cũng không phải là thức khác. Nên sự không chung đối với các căn như nhãn v.v… là không thể lập làm dụng tăng thượng riêng. Tức không phải do nhãn v.v… này thành căn. Nếu vậy thì thế nào?
* Tụng viết:
Rõ tự cảnh tăng thượng
Lập chung nơi sáu căn
Từ thân lập hai căn
Nữ nam tánh tăng thượng.
Nơi đồng trụ tạp nhiễm
Nên thanh tịnh tăng thượng
Tức biết mạng, năm thọ
Tín cũng lập làm căn.
Vị đương tri, dĩ tri
Cụ tri căn cũng thế
Đối đắc sau sau đạo
Niết-bàn cùng tăng thượng v.v…
* Luận nêu: Rõ tự cảnh: Nghĩa là sáu thức thân. Năm căn như nhãn ở nơi chủ thể phân biệt nhận biết đều có dụng tăng thượng của thức thuộc cảnh riêng. Ý căn là thứ sáu, ở nơi chủ thể phân biệt nhận biết cũng có dụng tăng thượng của thức nơi tất cả cảnh, nên sáu thức như nhãn v.v… đều lập làm căn. Há không như sắc v.v… ở nơi thức của chủ thể kia cũng có tăng thượng tức nên lập làm căn? Cảnh ở trong thức không có dụng tăng thượng. Tức mất dụng tăng thượng nghĩa là tự tại thắng. Nhãn ở nơi đối tượng phân biệt nhận biết đã phát khởi sắc trong thức, là tự tại tối thắng, nên gọi là tăng thượng. Đối với việc phân biệt nhận biết các sắc là nhân chung, nên thức tùy theo nhãn căn có sáng có tối. Sắc thì không như vậy. Hai thứ cùng trái nhau. Cho đến ý căn đối với pháp cũng thế. Từ thân lại lập nữ căn nam căn: Do trong tánh của nữ nam có tăng thượng. Nữ căn nam căn, về Thể không lìa thân căn, nên trong một phần thân lập tên gọi ấy. Như theo thứ lớp đó: Tức ở trong thân nữ nam. Nữ căn nam căn này đều có dụng tăng thượng. Xứ ấy ít dị biệt so với xứ thân căn còn lại, nên từ thân căn lập riêng làm hai. Nữ thân với hình loại, âm thanh, tạo nghiệp, chí nguyện, ưa thích có sai biệt, gọi là nữ tánh. Nam thân với hình loại, âm thanh, tạo nghiệp, chí nguyện, ưa thích chẳng đồng, gọi là nam tánh. Hai tánh có sai biệt do nữ căn, nam căn, nên nói nữ căn nam căn ở nơi hai tánh là tăng thượng. Đối với chúng đồng phần đã trụ trong ấy. Mạng căn có dụng tăng thượng. Ở nơi năm thọ như lạc căn v.v… trong phần tạp nhiễm đã có dụng tăng thượng. Vì sao? Do như Khế kinh nói: Đối với lạc thọ có tham tùy tăng, đối với khổ thọ có sân tùy tăng, đối với bất khổ bất lạc thọ có vô minh tùy tăng. Ở trong thanh tịnh, năm căn như tín v.v… có dụng tùy tăng. Vì sao? Là do uy lực ấy nên điều phục các phiền não dẫn đến Thánh đạo. Nói Nên biết: Là khuyên thuận mỗi mỗi đều có thể làm căn. Ba căn vô lậu (Ba căn sau cùng) ở nơi đắc đạo càng về sau là Niết-bàn v.v… có dụng tăng thượng. Nói Cũng như vậy: Là đối chiếu làm rõ mỗi mỗi đều có thể là căn. Nghĩa là vị tri đương tri căn ở nơi đắc đạo của dĩ tri căn có dụng tăng thượng. Dĩ tri căn ở nơi đắc đạo của cụ tri căn có dụng tăng thượng. Cụ tri căn ở nơi đắc Niết-bàn có dụng tăng thượng. Chẳng phải tâm chưa giải thoát mà có thể bát Niết-bàn. Chữ vân vân (Đắng: Nơi câu Niết-bàn đẳng tăng thượng) là làm rõ lại có môn khác. Thế nào là môn khác? Nghĩa là ở trong kiến đạo đoạn trừ phiền não diệt, vị tri đương tri căn có dụng tăng thượng. Ở trong tu đạo đoạn trừ phiền não diệt, dĩ tri căn có dụng tăng thượng. Ở trong hiện pháp lạc trụ, cụ tri căn có dụng tăng thượng. Do đấy, nên có thể lãnh nhận hỷ lạc của giải thoát. Nếu do tăng thượng nên lập làm căn, thì tánh như vô minh v.v… tức nên lập làm căn. Vô minh v.v… là nhân, đối với hành v.v… là quả, mỗi mỗi đều riêng có dụng tăng thượng. Lại, ngôn ngữ v.v… tức nên lập làm căn. Ngôn ngữ cùng tay chân, xứ đại tiểu tiện, ở trong sự việc ngôn ngữ, chấp hành, dứt bỏ, vui thích, như thứ lớp ấy là có tăng thượng. Những sự việc như vậy không nên lập làm căn, do chỗ thừa nhận căn có tướng như thế.
* Tụng viết:
Tâm sở dựa, riêng ấy
Trụ ấy, tạp nhiễm ấy
Tư lương ấy, tịnh ấy
Do lượng ấy lập căn.
* Luận nêu: Tâm sở dựa: Là sáu căn như nhãn v.v… Sáu xứ nội này là gốc của hữu tình. Tướng ấy có sai biệt do nữ căn nam căn. Lại do mạng căn, ở đây là một kỳ hạn được trụ. Ở đây thành tạp nhiễm là do năm thọ căn. Ở đây tư lương tịnh là do năm căn như tín. Ở đây thành tựu thanh tịnh là do ba căn sau. Do đấy sự việc lập căn đều rốt ráo. Như thế tức không nên cho vô minh v.v… cũng ngôn ngữ cũng lập làm căn. Vì các thứ kia ở đây không có dụng tăng thượng. Lại có Sư khác nói riêng về tướng của căn.
* Tụng viết:
Hoặc chỗ dựa lưu chuyển
Cùng sinh trụ thọ dụng
Kiến lập mười bốn trước
Hoàn diệt sau cũng thế.
* Luận nêu: Chữ Hoặc ở đây là làm rõ: Đây là ý của Sư khác. Căn cứ theo lưu chuyển, hoàn diệt để lập hai mươi hai căn. Chỗ dựa của lưu chuyển nghĩa là sáu căn như nhãn v.v… Sinh do nữ căn nam căn từ sự lưu chuyển kia sinh. Trụ do mạng căn dựa nơi kia để trụ. Thọ dụng do năm thọ, nhân nơi kia để lãnh nhận. Căn cứ theo đấy để kiến lập mười bốn căn trước. Trong phần vị hoàn diệt, tức căn cứ theo bốn nghĩa giống khác ấy nên lập tám căn sau. Chỗ dựa của hoàn diệt nghĩa là năm căn như tín. Đối với ba căn vô lậu, do đầu tiên nên sinh, do tiếp theo nên trụ, do sau nên thọ dụng. Lượng của căn do đấy không giảm không tăng. Tức do nơi duyên này nên kinh lập thứ lớp. Không nên cho tiếng nói ở nơi ngôn ngữ làm căn, vì phải chờ đợi học có sai biệt thì ngôn ngữ mới thành. Tay chân không nên ở nơi sự việc chấp hành (Cầm nắm đi lại) đều lập làm căn, do không có tánh khác. Nghĩa là tức tay chân nơi xứ khác có tướng khác sai biệt, lúc sinh gọi là chấp hành. Lại, lìa tay chân cũng có chấp hành, như loại đi bằng bụng. Vì thế tay chân không thể ở nơi kia kiến lập làm căn. Xứ xuất đại tiện, ở nơi sự việc có thể trừ bỏ, không nên lập làm căn, do vật nặng ở nơi không rơi rớt khắp. Lại do sức của gió dẫn dắt khiến xuất. Xứ xuất tiểu tiện, ở nơi sự việc sinh lạc, không nên lập làm căn. Tức do nữ căn nam căn sinh khởi lạc ấy. Lại, các chi phần như yết hầu, răng, vỏ bọc mắt v.v… tức nên lập làm căn, vì đối với khả năng nhai nuốt, mở nhắm, co duỗi đều có lực dụng, tức đều nên lập làm căn. Những thứ kia tuy có lực dụng nhưng không tăng thượng nên không lập làm căn. Ở đây, ngôn ngữ v.v… cũng không phải là tăng thượng, tức không thể lập làm căn. Về nhãn căn v.v… cho đến nam căn như trước đã nói. Thể của mạng căn là không tương ưng, trong phần không tương ưng tự sẽ biện rộng. Thể của năm căn như tín v.v… là tâm sở pháp, trong phần nói về tâm sở pháp cũng sẽ biện rộng. Năm thọ căn như lạc căn v.v… và ba căn vô lậu, vì lại không có xứ biện tức nay nên giải thích.
* Tụng viết:
Thân không vui gọi khổ
Tức vui ấy gọi lạc
Cùng ba định tâm vui
Xứ khác đấy gọi hỷ.
Tâm không vui gọi ưu
Giữa xả, hai không khác
Đạo kiến, tu, vô học
Dựa chín lập ba căn.
* Luận nêu: Thân: Nghĩa là thân thọ, là dựa nơi thân khởi, tức thọ tương ưng với năm thức. Nói không vui là nghĩa tổn não. Ở trong thân thọ có thể tổn não gọi là khổ căn. Nói là vui, là nghĩa gồm thâu lợi ích. Tức bên trong thân thọ có thể gồm thâu lợi ích gọi là lạc căn. Cùng tâm của định thứ ba tương ưng với thọ có thể gồm thâu lợi ích, cũng gọi là lạc căn. Trong định thứ ba không có thân thọ, năm thức cũng không, nên tâm vui gọi là lạc. Tức tâm vui này, trừ ở định thứ ba, ở nơi ba địa dưới gọi là hỷ căn. Tâm vui của tĩnh lự thứ ba, vì an tĩnh, lìa hỷ tham nên chỉ gọi là lạc căn. Tâm vui trong ba địa dưới, vì thô trọng có hỷ tham nên chỉ gọi là hỷ căn. Ý thức tương ưng có thể tổn não thọ, tâm ấy không vui gọi là ưu căn. Giữa, nghĩa là chẳng phải vui chẳng phải không vui, tức là thọ không khổ không lạc. Thọ trong xứ này gọi là xả căn. Như vậy thì xả căn là thân thọ hay là tâm thọ? Nên nói là chung cả hai. Do đâu hai thứ này lập chung một căn? Do thọ này tại nơi thân tâm đồng không phân biệt. Tại tâm, khổ lạc có nhiều phân biệt sinh. Tại thân thì không như thế. Vì tùy theo sức của cảnh. A-la-hán v.v… cũng sinh như vậy. Ở đây lập căn nơi thân tâm đều riêng. Xả thì không phân biệt, tự nhiên mà sinh, thế nên lập căn nơi thân tâm hợp làm một. Lại, khổ thọ lạc thọ tại thân tại tâm, là tổn não là gồm thâu lợi ích, về tướng đều khác nên lập riêng. Xả ở tại thân tâm cũng không phân biệt, không phải tổn, không phải ích, về tướng là không khác nên lập chung làm căn. Ý, lạc, hỷ, xả, năm căn như tín v.v… tức chín căn như thế, ở tại ba đạo, như thứ lớp kiến lập ba căn vô lậu. Nghĩa là tại kiến đạo, dựa nơi chín căn như ý căn v.v… lập vị tri đương tri căn. Hoặc ở tại tu đạo, tức dựa nơi chín căn ấy lập dĩ tri căn. Ở tại vô học đạo cũng dựa nơi chín căn ấy lập cụ tri căn. Ba tên căn như thế, nhân nơi gì để lập? Nghĩa là tại kiến đạo có hành chuyển chưa từng nhận biết, sẽ nhận biết nên nói tên căn kia là vị tri đương tri. Hoặc tại tu đạo, không có chưa từng nhận biết, chỉ vì đoạn trừ tùy miên còn lại. Tức ở nơi cảnh kia lại thường nhận biết rõ. Vì vậy nói tên căn kia là dĩ tri. Tại vô học đạo, nhận biết mình là đã nhận biết nên gọi là tri. Người có tri này gọi là cụ tri (Nhận biết đủ). Hoặc hành tập tri này đã thành tánh, gọi là cụ tri. Nghĩa là đạt được tận trí, vô sinh trí, nên tự nhận biết như thật: Ta đã nhận biết khắp về khổ, không còn nhận biết khắp nữa. Cho đến nói rộng. Căn hiện có kia gọi là vị tri đương tri căn v.v… Như thế là đã giải thích về Thể của căn chẳng đồng. Nên biện về nghĩa loại sai biệt của các môn. Trong hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?
* Tụng viết:
Chỉ vô lậu ba sau
Có sắc, mạng ưu khổ
Nên biết chỉ hữu lậu
Chung hai, chín căn khác.
* Luận nêu: Tiếp theo phần đã nói ở trước: Ba căn sau, Thể chỉ là vô lậu, là nghĩa không cấu uế. Cấu cùng với lậu, tên gọi khác, nhưng thể là đồng. Bảy căn có sắc cùng mạng căn, ưu căn, khổ căn hoàn toàn là hữu lậu. Bảy căn có sắc: Là năm căn như nhãn v.v… cùng nữ căn, nam căn, tức thuộc về sắc uẩn. Các căn ý, lạc, hỷ, xả cùng năm căn như tín v.v…, chín căn này đều chung cả hữu lậu vô lậu. Có Sư khác nói: Năm căn như tín v.v… cũng chỉ là vô lậu, vì như Đức Thế Tôn nói: Nếu hoàn toàn không có năm căn như tín v.v… này, Ta nói kẻ kia trụ nơi bên ngoài, thuộc phẩm dị sinh. Nêu dẫn ở đây không phải là chứng thật. Do Đức Thế Tôn chỉ dựa nơi căn vô lậu để nói lời ấy. Vì sao nhận biết được? Vì trước đây Đức Thế Tôn dựa nơi năm căn như tín v.v… là vô lậu để kiến lập các Thánh vị có sai biệt, tức đã nói lời ấy. Hoặc các dị sinh lược có hai loại: Là trong và ngoài. Trong nghĩa là không đoạn căn thiện. Ngoài nghĩa là căn thiện đã đoạn. Dựa nơi dị sinh ngoài nên nói như thế. Nếu hoàn toàn không có năm căn như tín v.v… này, Ta nói kẻ kia trụ nơi bên ngoài thuộc phẩm dị sinh. Lại như Khế kinh nói: Trước khi Đức Phật chuyển pháp luân, có các hữu tình ở tại thế gian, hoặc sinh hoặc trưởng, có các căn thượng trung hạ có sai biệt. Nên biết năm căn như tín v.v… cũng chung nơi hữu lậu. Lại như Đức Thế Tôn nói: Ta nếu đối với năm căn như tín v.v… này, chưa nhận biết như thật là tập, là vị ẩn mất, là lỗi lầm tai hại, là xuất ly, thì chưa có thể vượt khỏi hàng trời người nơi thế gian này cùng Ma, Phạm v.v…, cho đến chưa có thể chứng đắc Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng. Cho đến nói rộng. Không phải là pháp vô lậu có thể tạo nên phẩm loại quan sát như vậy. Nên năm căn như tín v.v… là chung cho hữu lậu vô lậu. Như thế là đã nói về hữu lậu vô lậu. Trong hai mươi hai căn ấy, có bao nhiêu thứ là dị thục? Bao nhiêu thứ không phải là dị thục?
* Tụng viết:
Mạng chỉ là dị thục
Ưu cùng tám sau: không
Sắc ý bốn thọ khác
Mỗi mỗi đều chung hai.
* Luận nêu: Chỉ một mạng căn nhất định là dị thục. Nếu như vậy thì các A-la-hán đã giữ lại nhiều thọ hành, đây tức là mạng căn. Mạng căn như thế thì cái gì là dị thục? Như Bản luận nói: Thế nào là Bí-sô lưu giữ nhiều thọ hành? Nghĩa là các A-la-hán thành tựu thần thông, được tâm tự tại. Hoặc ở nơi Tăng chúng, hoặc đối với người riêng khác, dùng các vật cần thiết cho cuộc sống như y bát v.v… theo phần bố thí. Thí rồi phát nguyện. Tức nhập nơi biên vực tĩnh lự thứ tư, từ định khởi xong, tâm nhớ nghĩ miệng nói: Chư vị! Tôi có thể chiêu cảm nghiệp dị thục giàu có, xin đều chuyển đổi chiêu cảm quả dị thục thọ mạng. Bấy giờ, vị kia có thể chiêu cảm nghiệp dị thục giàu có, tức đều chuyển thành chiêu cảm quả dị thục thọ mạng. Lại có vị muốn khiến dẫn nhận lấy quả dị thục tàn dư của nghiệp đời trước. Vị kia nói đời trước đã từng thọ nhận nghiệp có dị thục tàn dư, do nay đã tu biên vực định, từ lực của định ấy dẫn khởi nên nhận lấy thọ dụng. Thế nào là Bí-sô xả bỏ nhiều thọ hành? Nghĩa là các A-la-hán thành tựu thần thông, được tâm tự tại, ở nơi Tăng chúng v.v… bố thí như trước. Thí xong thì phát nguyện. Tức nhập nơi biên vực tĩnh lự thứ tư, từ định khởi rồi, tâm nhớ nghĩ miệng nói: Chư vị! Tôi có thể chiêu cảm nghiệp dị thục thọ mạng, xin đều chuyển thành chiêu cảm quả dị thục giàu có. Bấy giờ, vị kia có thể chiêu cảm nghiệp dị thục thọ mạng, tức đều chuyển thành chiêu cảm quả dị thục giàu có. Tôn giả Diệu Âm cho rằng: Vị kia khởi biên vực định thứ tư, do lực ấy dẫn phát đại chủng của sắc giới khiến hiện tiền trong thân. Nhưng đại chủng kia hoặc thuận theo thọ hành, hoặc trái với thọ hành, do nhân duyên ấy, hoặc lưu giữ thọ hành, hoặc xả bỏ thọ hành. Nên nói như thế này: Vị A-la-hán kia, do lực của Tamma-địa tự tại ấy nên chuyển bỏ thế phần lúc trụ, do đại chủng của các căn được sinh từ nghiệp đời trước đã từng được để riêng nhận lấy thế phần lúc trụ do đại chủng của các căn đã khởi từ lực của định chưa từng được, nên mạng căn này không phải là dị thục. Ngoài ra, tất cả đều là dị thục. Nhân luận sinh luận: Vị A-la-hán kia có nhân duyên gì nên giữ lại nhiều thọ hành? Nghĩa là vì tạo lợi ích an lạc cho kẻ khác, hoạc vì khiến cho Thánh giáo trụ lâu ở đời. Quán biết tự thân thọ hành sắp hết. Quán kẻ khác không có hai thứ ấy, có thể đạt được. Lại, do nhân duyên gì xả bỏ nhiều thọ hành? Vị A-la-hán kia tự quán về trụ thế của mình, đối với sự việc đem lại lợi ích an lạc cho kẻ khác là ít ỏi. Hoặc bị các khổ như bệnh tật bức bách tự thân. Như có Tụng nói:
Phạm hạnh diệu thành lập
Thánh đạo đã khéo tu
Lúc thọ hết, hoan hỉ
Cũng như bỏ các bệnh.
Ở đây nên biết: Dựa vào xứ sở nào, người nào có thể lưu giữ, xả bỏ thọ hành như thế? Nghĩa là người của ba châu, nữ nam cũng nối tiếp. Chư vị A-la-hán bất thời giải thoát được định biên vực. Do trong thân của chư vị kia có định tự tại, không có phiền não. Như kinh nói: Đức Thế Tôn giữ lại nhiều mạng hành, xả bỏ nhiều thọ hành. Mạng, thọ có gì sai biệt? Có người cho là không khác nhau. Như Bản luận nói: Thế nào là mạng căn? Nghĩa là thọ mạng của ba cõi. Có Sư khác nói: Quả của nghiệp đời trước gọi là thọ hành. Quả của nghiệp hiện tại gọi là mạng hành. Có thuyết nêu: Do chúng đồng phần này trụ, gọi là thọ hành. Do sự việc ấy chỉ là tạm trụ gọi là mạng hành. Phần nhiều nói là làm rõ việc lưu giữ, xả bỏ mạng hành, thọ hành, là trong nhiều niệm, không phải là một sát-na, nên mạng hành, thọ hành có lưu giữ, xả bỏ. Có thuyết nói: Ở đây nói là nhằm ngăn chận các thuyết cho là có một mạng sống lâu, Thể thật sự trải qua nhiều thời gian trụ. Có thuyết nêu rõ: Ở đây nói là nhằm hiển bày không có Thể của một mạng thật, sống lâu, chỉ ở nơi nhiều hành giả lập hai tên gọi mạng hành thọ hành như vậy. Nếu cho là không đúng thì không nên nói là hành. Đức Thế Tôn vì sao xả bỏ nhiều thọ hành, lưu giữ nhiều mạng hành? Là vì nhằm làm rõ đối với sự chết được tự tại nên xả bỏ nhiều thọ hành. Vì nhằm hiển bày dối với sự sống được tự tại nên lưu giữ nhiều mạng hành. Chỉ lưu giữ trong ba tháng không tăng giảm. Vì vượt thời hạn ấy thì lại không có sự việc được hóa độ. Nếu giảm thời hạn ấy thì sự việc lợi sinh không rốt ráo. Lại vì lời xưng nêu ở trước đã được thành lập: Ta khéo tu tập bốn thần túc, nên muốn trụ một kiếp hoặc hơn một kiếp. Như tâm đã kỳ vọng tức liền có thể trụ. Sư Tỳ-bà-sa cho: Là hiển bày hiện nay có thể hàng phục hai thứ ma là Ma uẩn và Ma tử. Đức Thế Tôn trước ở nơi cội Bồ-đề đã hàng phục thiên ma, ma phiền não.
Luận thêm đã xong. Luận chính nên biện. Ưu căn cùng với tám căn sau như tín v.v… đều không phải là dị thục, vì là hữu ký. Số còn lại đều chung cả hai. Nghĩa chuẩn đã thành. Tức là bảy sắc căn, ý căn, trừ ưu căn, bốn thọ căn còn lại là mười hai căn, mỗi mỗi thứ căn đều chung nơi hai loại. Bảy căn có sắc, nếu là được nuôi lớn thì không phải là dị thục. Ngoài ra đều là dị thục. Ý căn cùng với bốn thọ căn, nếu là thiện nhiễm ô, hoặc là đường oai nghi, xứ công xảo cùng có thể biến hóa, tùy theo chỗ ứng hợp, cũng không phải là dị thục. Còn lại đều là dị thục. Nếu nơi ưu căn không phải là dị thục, thì như nơi kinh này đã nói nên làm sao thông hợp? Như Khế kinh nói: Có ba thứ nghiệp: Nghiệp thuận hỷ thọ, nghiệp thuận ưu thọ và nghiệp thuận xả thọ. Dựa nơi thọ tương ưng để nói về thuận không có lỗi. Nghĩa là nghiệp cùng với ưu tương ưng nên gọi là nghiệp thuận ưu thọ. Như xúc cùng với lạc tương ưng thì gọi là xúc thuận lạc thọ. Nếu vậy, tức nghiệp thuận hỷ thọ, nghiệp thuận xả thọ cũng nên như thế. Chỉ là một kinh nói, tùy theo chỗ mong muốn của ông, nhưng đối với tôi thì không trái. Lý tương ưng của dị thục đều không có lỗi. Không tránh xứ vấn nạn, nhưng tạo sự không hợp nơi kinh này, lý thật là do đâu? Ưu không phải là dị thục, do ưu là từ nơi phân biệt có sai biệt sinh ra, dừng dứt cũng vậy. Còn dị thục thì không như thế. Nếu vậy thì hỷ căn tức nên không phải là dị thục, vì cũng do từ phân biệt sinh cùng dừng dứt. Nếu cho ưu căn là dị thục, thì tạo nghiệp vô gián rồi, nhân đấy tức sinh ưu. Nghiệp ấy bấy giờ nên gọi là quả đã thục. Cũng nên nêu vấn nạn như thế về hỷ căn. Nếu thừa nhận hỷ căn là dị thục, thì tạo nghiệp phước thù thắng rồi, nhân đấy tức sinh hỷ. Thì nghiệp ấy bấy giờ nên gọi là quả đã thục. Sư Tỳ-bà-sa đều nói như vầy: Người đã lìa dục thì không có ưu căn. Dị thục thì không như thế, nên ưu căn không phải là dị thục. Nếu vậy tức nên nói hữu tình lìa dục thì hỷ căn là dị thục. Do tướng gì để nhận biết là có? Tức tùy theo căn kia có tướng. Tướng ở đây cũng như vậy. Nghĩa là hỷ căn thiện thì vị này nhận là có. Dị thục của vô ký nên so sánh chẳng phải là không. Ở trong phần vị này, tất cả các thứ ưu không được nhận là có, nên nhất định không phải là dị thục. Tám căn như nhãn v.v…, nếu ở tại nẻo thiện là dị thục thiện, nếu ở nơi nẻo ác là dị thục ác. Ý căn thì tùy ở nơi nẻo thiện nẻo ác, là cùng dị thục với nẻo ấy. Ba căn hỷ lạc xả, tùy ở nơi xứ nào, đều là dị thục thiện. Khổ căn thì tùy ở nơi nẻo thiện nẻo ác, đều là dị thục ác. Ở trong nẻo thiện, người có hai hình, chỉ là căn nơi xứ sở, do nghiệp bất thiện chiêu cảm sắc căn của nẻo thiện, do nghiệp thiện dẫn dắt. Như vậy là đã nói về dị thục. Trong hai mươi hai căn: Bao nhiêu thứ là có dị thục? Bao nhiêu thứ là không dị thục?
* Tụng viết:
Ưu định có dị thục
Tám trước ba sau không
Ý, thọ khác và tín v.v…
Mỗi mỗi đều chung hai.
* Luận nêu: Như trước đã tranh biện về ưu căn, nên biết nhất định có dị thục. Chỗ dựa chỉ là nghĩa vượt nên Tụng dùng chữ định. Tức là làm rõ ưu căn chỉ có dị thục gồm luôn có đủ hai nghĩa, nên vượt thứ lớp để nêu. Có đủ hai nghĩa: Là ưu căn không phải là vô ký, vì tư duy mạnh dấy khởi. Cũng không phải là vô lậu, do chỉ là địa phân tán. Vì đấy nên vượt thứ lớp nói trước là ưu căn nhất định có dị thục. Tám căn trước như nhãn v.v… và ba căn sau cùng nhất định là không dị thục, do tám thứ là vô ký, ba thứ là vô lậu. Các căn còn lại đều chung cả hai. Nghĩa chuẩn đã thành. Nghĩa là ý căn cùng bốn thọ căn còn lại và năm căn như tín v.v… do căn này mỗi mỗi đều chung cả hai loại. Ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, nếu là bất thiện, thiện hữu lậu thì có dị thục, nếu là vô ký, vô lậu thì không dị thục. Khổ căn nếu là thiện bất thiện thì có dị thục, nếu là vô ký thì không dị thục. Năm căn như tín v.v…, nếu là hữu lậu thì có dị thục, nếu là vô lậu thì không dị thục. Đã nói về có dị thục, không dị thục. Trong hai mươi hai căn: Bao nhiêu thứ là thiện, bất thiện, vô ký?
* Tụng viết:
Tám căn sau chỉ thiện
Ưu chung thiện bất thiện
Ý thọ khác, ba thứ
Tám trước chỉ vô ký.
* Luận nêu: Tám căn sau như tín v.v… hoàn toàn là thiện. Số theo thứ lớp tuy ở sau, nhưng nhân nơi trước nên nói trước. Ưu căn tánh chỉ chung nơi thiện bất thiện. Ý căn cùng các thọ căn còn lại mỗi mỗi đều chung cả ba. Tám căn như nhãn v.v… tánh chỉ là vô ký. Như thế là đã nói về thiện, bất thiện, vô ký. Trong hai mươi hai căn: Bao nhiêu thứ là hệ thuộc cõi dục, hệ thuộc cõi sắc, hệ thuộc cõi vô sắc?
* Tụng viết:
Thuộc dục, sắc, vô sắc
Thứ lớp trừ ba sau
Gồm nữ nam ưu khổ
Cùng trừ sắc hỷ lạc.
* Luận nêu: Thuộc cõi dục trừ ba căn vô lậu sau, do ba căn này là không hệ thuộc. Căn cứ theo đấy để biết hệ thuộc cõi dục chỉ có mười chín căn. Thuộc cõi sắc như trước: Trừ ba căn vô lậu, gồm trừ bốn căn là nữ căn, nam căn, ưu căn, khổ căn. Tức có mười lăm căn hệ thuộc cõi sắc. Trừ nữ căn, nam căn: Do nơi cõi sắc đã lìa pháp dâm dục. Do nữ căn, nam căn nơi thân là thô xấu. Nếu thế thì vì sao nói cõi kia là nam? Nơi xứ nào nói? Là trong Khế kinh nói. Như Khế kinh nói: Không có xứ không dung nạp nữ thân là phạm. Có xứ có dung nạp nam thân là phạm. Tức là riêng có tướng nam. Nghĩa là trong cõi dục nam thân hiện có. Không có khổ căn: Do nơi cõi sắc, thân là tịnh diệu. Lại, cõi sắc không có pháp bất thiện, cũng không có ưu căn: Do Xa-ma-tha (Chỉ) luôn thấm nhuần nối tiếp. Lại, định nơi cõi kia không có sự việc não hại. Cõi vô sắc như trước. Trừ ba căn vô lậu, nữ căn nam căn, ưu căn khổ căn, cùng trừ năm sắc căn và hai căn hỷ lạc. Căn cứ theo đấy nên biết có tám căn hệ thuộc cõi vô sắc, là ý căn, mạng căn, xả căn cùng năm căn như tín v.v… Như vậy là đã nói về các căn hệ thuộc ba cõi v.v… Trong hai mươi hai căn: Bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn? Bao nhiêu thứ do tu đạo đoạn? Bao nhiêu thứ không đoạn?
* Tụng viết:
Ý, ba thọ chung ba
Ưu: Kiến tu cùng đoạn
Chín chỉ do tu đoạn
Năm tu phi ba không.
* Luận nêu: Bốn căn ý hỷ lạc xả mỗi mỗi đều chung cả ba: Đều chung do kiến đạo, tu đạo đoạn và không đoạn. Ưu căn chỉ chung do kiến đạo và tu đạo đoạn, vì không phải là vô lậu. Bảy sắc căn, mạng căn, khổ căn chỉ do tu đạo đoạn, vì không nhiễm ô, vì không phải do sáu sinh, vì đều là hữu lậu. Năm căn như tín v.v… hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không đoạn, vì chúng là không nhiễm ô, đều chung cả hữu lậu và vô lậu. Ba căn sau cùng thì không đoạn, do chúng đều là vô lậu, đều không phải là pháp có lỗi lầm để đoạn. Đã nói về nghĩa đoạn của các môn có sai biệt. Vậy cõi nào đầu tiên được bao nhiêu căn dị thục?
* Tụng viết:
Dục: Thai noãn thấp sinh
Đầu được hai dị thục
Hóa sinh sáu, bảy, tám
Sắc sáu, trên chỉ mạng.
* Luận nêu: Nơi cõi dục: Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, phần vị thọ sinh đầu tiên chỉ được hai căn dị thục là thân căn, mạng căn.
Do ba loài này (Thai, noãn, thấp) căn dần khởi. Chúng vì sao không được hai căn là ý căn, xả căn? Do lúc nối tiếp sinh ấy nhất định là nhiễm ô. Hóa sinh nơi phần vị đầu tiên được sáu, bảy, tám. Nghĩa là người vô hình thì đầu tiên được sáu căn. Như vào thời kiếp sơ. Những gì là sáu căn? Đó là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, mạng. Nếu là một hình thì đầu tiên được bảy căn, như chư thiên v.v… Nếu là hai hình thì dầu tiên được tám căn. Há có kẻ hai hình thọ hóa sinh chăng? Nẻo ác cho là có hai hình hóa sinh. Nói trong cõi dục đầu tiên được căn rồi, tiếp theo là nói về hai cõi sắc, vô sắc. Nơi cõi dục thì dục là hơn nên chỉ nói dục. Cõi sắc thì sắc là hơn nên chỉ nói sắc. Khế kinh cũng nói: Giải thoát tịch tĩnh vượt quá sắc là vô sắc. Nơi cõi sắc đầu tiên được sáu căn dị thục, như nói về loài hóa sinh vô hình nơi cõi dục. Trên chỉ là mạng. Nghĩa là nơi cõi vô sắc nhất định thắng sinh là hơn, nên nói là trên. Trong cõi vô sắc, đầu tiên được căn dị thục, chỉ là mạng căn. Nói về căn dị thục đầu tiên được xong. Vậy ở cõi nào, nơi phần vị chết, có bao nhiêu căn diệt sau cùng?
* Tụng viết:
Các căn đang chết, diệt
Vô sắc ba, sắc tám
Dục tức mười, chín, tám
Dần bốn thiện tăng năm.
* Luận nêu: Tại cõi vô sắc, lúc sắp mạng chung, ba căn mạng, ý, xả là diệt sau cùng. Nếu tại cõi sắc, lúc sắp mạng chung, tức ba căn nêu trước, cùng với năm căn như nhãn v.v…, tám thứ như thế là diệt sau cùng. Hết thảy loài hóa sinh tất gồm đủ các căn cùng hành trong sinh tử. Nếu tại cõi dục, lúc tức thì mạng chung, thì có mười, chín, tám căn là diệt sau cùng. Nghĩa là kẻ hai hình: Diệt sau cùng là mười căn: Nữ căn, nam căn cùng tám thứ trước. Kẻ một hình: Thì diệt sau cùng là chín căn. Tức trong hai căn nữ nam, theo đấy trừ một thứ. Nếu là loài vô hình, thì diệt sau cùng là tám căn. Nghĩa là không có hai căn nữ nam, chỉ có tám căn trước. Đây là nói về phần tức thì mạng chung. Nếu là dần dần mạng chung thì sau cùng chỉ xả bốn. Nghĩa là nơi cõi dục, lúc dần dần mạng chung, thì bốn căn thân, mạng, ý, xả là diệt sau cùng. Bốn căn này tất không có nghĩa diệt trước sau. Đã nói như thế, nên biết là chỉ dựa nơi tâm nhiễm, vô ký mà mạng chung. Nếu ở nơi ba cõi, tâm thiện lúc mạng chung, thì năm căn như tín v.v… tất đều có đủ. Nên trong tất cả phần vị đã nói ở trước, về số lượng đều nên thêm năm căn như tín v.v… Nghĩa là nơi cõi vô sắc thì tăng lên tám căn. Cho đến cõi dục, dần dần mạng chung thì tăng đến chín. Trung gian nhiều ít, như lý nên nhận biết. Trong phần phân biệt căn, tất cả các pháp căn đều nên xét chọn.
Nơi hai mươi hai căn: Có bao nhiêu thứ có thể chứng đắc quả Sa-môn nào?
* Tụng viết:
Chín đắc biên hai quả
Bảy, tám, chín: hai giữa
Dựa một nên thuyết có.
* Luận nêu: Biên: Nghĩa là quả Dự lưu và quả A-la-hán. Tức đối với quả Sa-môn ở nơi đầu và sau. Trong: Nghĩa là quả Nhất lai và quả Bất hoàn, đây là quán tại trung gian của đầu, sau. Đầu là quả Dự lưu, do chín căn đạt được. Nghĩa là ý căn cùng xả căn, năm căn như tín v.v… và vị tri đương tri căn, dĩ tri căn là chín. Vị tri đương tri căn ở nơi đạo vô gián, dĩ tri căn ở nơi đạo giải thoát. Hai đạo này cùng hỗ trợ để đắc quả đầu tiên. Như thứ lớp ấy, ở nơi lìa hệ thuộc đạt được, có thể làm nhân dẫn khởi, dựa nơi tánh của nhân. Quả A-la-hán cũng do chín căn đạt được. Nghĩa là ý căn, năm căn như tín v.v…, dĩ tri căn, cụ tri căn cùng trong ba căn hỷ lạc xả theo đấy lấy một là chín. Dĩ tri căn ở nơi đạo vô gián. Cụ tri căn ở nơi đạo giải thoát. Hai đạo này cùng hỗ trợ để đắc quả sau cùng. Như thứ lớp ấy, ở nơi lìa trói buộc chứng đắc, có thể làm theo nhân dẫn khởi, vì dựa nơi tánh của nhân. Trung gian hai quả (Nhất lai, Bất hoàn) theo chỗ ứng hợp đều do bảy, tám, chín căn đạt được. Vì sao? Vì như quả Nhất lai thứ lớp chứng đắc. Dựa nơi đạo thế gian, do bảy căn đạt được. Nghĩa là ý căn, xả căn cùng năm căn như tín v.v… Dựa nơi đạo xuất thế, do tám căn đạt được. Nghĩa là bảy căn trước, thêm dĩ tri căn là thứ tám. Lìa dục tham gấp bội, siêu vượt chứng đắc, như quả Dự lưu do chín căn đạt được. Hoặc quả Bất hoàn theo thứ lớp chứng đắc. Dựa nơi đạo thế gian, do bảy căn đạt được. Dựa nơi đạo xuất thế, do tám căn đạt được. Như thứ lớp nêu trước, chứng đắc quả Nhất lai. Hoàn toàn lìa dục tham, là siêu vượt chứng đắc, do chín căn đạt được, như trước nói về siêu vượt chứng đắc quả Nhất lai. Nói chung là như thế, tuy nhiên có sai biệt: Ở đây dựa nơi địa có khác nhau. Tức trong ba căn lạc hỷ xả theo đấy có thể chọn lấy một. Quả trước siêu vượt chỉ là một xả căn. Lại như thứ lớp chứng đắc quả Bất hoàn: Nếu ở trong đạo giải Thoát thứ chín, nhập địa căn bản, dựa nơi đạo thế gian thì do tám căn đạt được. Đạo vô gián kia tương ưng với xả thọ, nên trong đạo giải thoát lại có hỷ thọ. Hai đạo này cùng hỗ trợ nên đắc quả thứ ba. Ở nơi lìa trói buộc, đạt được hai nhân như trước. Dựa nơi đạo xuất thế do chín căn đạt được. Tám căn như trước, thêm dĩ tri căn là thứ chín. Đạo vô gián giải thoát ở đây cùng có, há không là A-tỳ-đạtma căn bản?
Hỏi: Do bao nhiêu căn đạt được quả A-la-hán?
Đáp: Do mười một căn. Vì sao chỉ nói là do chín căn đạt được? Thật sự đạt được quả thứ tư chỉ do chín căn. Nhưng Bản luận nói mười một căn, là dựa nơi sự dung nạp có trong một thân, nên nói như thế. Nghĩa là dung nạp thừa nhận có một Bổ-đặc-già-la, từ nơi vị vô học thường xuyên thoái chuyển rồi, do ba căn lạc hỷ xả tùy một hiện tiền, nên trở lại chứng đắc quả A-la-hán, do đấy nên Bản luận nói là mười một căn. Nhưng không phải nơi một lúc ba thọ căn cùng khởi. Vì vậy nay nói nhất định do chín căn. Ở trong quả Bất hoàn, vì sao không nói như thế? Vì không có lạc căn chứng quả Bất hoàn, nhưng ở nơi thời gian sau có được nghĩa thoái chuyển, cũng không thoái chuyển. Rồi do lạc căn nên lại đạt được, không phải như trước lìa dục vượt chứng quả thứ ba có nghĩa trở lại thoái chuyển. Quả lìa dục này do hai đạo đã đạt được nên rất kiên cố. Nay nên xét chọn. Căn nào thành tựu, tức trong các căn kia, có bao nhiêu thứ nhất định thành tựu?
* Tụng viết:
Thành tựu mạng ý xả
Đều định thành tựu ba
Nếu thành tựu thân lạc
Đều định thành tựu bốn.
Thành nhãn v.v… cùng với hỷ
Đều định thành năm căn
Nếu thành tựu khổ căn
Kia định thành tựu bảy.
Nếu thành nữ nam ưu
Tín cùng đều thành tám
Hai vô lậu, mười một
Vô lậu đầu mười ba.
* Luận nêu: Trong ba căn mạng ý xả, theo đấy thành tựu một, vị kia nhất định thành tựu ba căn như thế. Không phải trong ba căn này tùy theo đấy có thiếu, là có thể có thành tựu các căn còn lại. Trừ ba căn ấy, số còn lại thì không nhất định. Nghĩa là hoặc thành tựu hoặc không thành tựu. Ở đây, bốn căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt sinh nơi cõi vô sắc thì nhất định không thành tựu. Nếu sinh nơi cõi dục chưa được đã mất thì cũng không thành tựu. Thân căn chỉ có sinh nơi cõi vô sắc thì nhất định không thành tựu. Hai căn nữ nam sinh nơi hai cõi trên nhất định không thành tựu. Nếu sinh nơi cõi dục, chưa được đã mất, thì cũng không thành tựu. Lạc căn đối với dị sinh, nếu sinh nơi định thứ tư cùng cõi vô sắc, nhất định không thành tựu. Hỷ căn đối với dị sinh, sinh nơi định thứ ba, thứ tư cùng cõi vô sắc thì nhất định không thành tựu. Khổ căn nếu sinh nơi cõi sắc, vô sắc, tức nhất định không thành tựu. Ưu căn đối với tất cả người đã lìa dục tham thì nhất định không thành tựu. Năm căn như tín v.v… đối với kẻ đã đoạn căn thiện thì nhất định không thành tựu. Căn vô lậu đầu đối với tất cả dị sinh cùng người đã trụ nơi quả thì nhất định là không thành tựu. Căn vô lậu thứ hai đối với tất cả dị sinh và hàng kiến đạo vô học, thì nhất định không thành tựu. Căn vô lậu thứ b, đối với tất cả dị sinh cùng vị hữu học thì nhất định không thành tựu. Đối với phần vị không phải hiện bày khắp, nên biết là như trước đã nói về các căn đều nhất định thành tựu.
Nếu thành tựu lạc căn thì nhất định thành tựu bốn: Nghĩa là ba căn mạng, Ý, xả cùng lạc căn ấy. Nếu thành tựu thân căn thì cũng nhất định thành tựu bốn. Nghĩa là ba căn mạng, ý, xả và thân căn ấy. Nếu thành tựu nhãn căn thì nhất định thành tựu năm. Nghĩa là ba căn mạng, ý, xả cùng thân căn, nhãn căn. Các căn nhĩ, tỷ, thiệt, nên biết cũng là thành tựu năm. Bốn căn trước như nhãn, căn thứ năm là tự căn. Nếu thành tựu hỷ căn thì cũng nhất định thành tựu năm. Nghĩa là bốn căn mạng, ý, xả, lạc cùng hỷ căn.
Sinh nơi địa của tĩnh lự thứ hai, chưa được tĩnh lự thứ ba, bỏ địa dưới, chưa được địa trên, ở đây là thành tựu lạc căn nào? Nên nói là thành tựu lạc căn nhiễm ô của tĩnh lự thứ ba. Ngoài ra là chưa được. Nếu thành tựu khổ căn thì nhất định thành tựu bảy. Nghĩa là ba căn thân, mạng, ý cùng bốn thọ căn trừ ưu căn. Nếu thành tựu nữ căn thì nhất định thành tựu tám. Tức bảy căn như nói về khổ căn, căn thứ tám là nữ căn. Nếu thành tựu nam căn thì cũng nhất định thành tựu tám. Bảy căn như nói về khổ căn, căn thứ tám là nam căn. Nếu thành tựu ưu căn thì cũng nhất định thành tựu tám. Bảy căn như nói về khổ căn, căn thứ tám là ưu căn. Nếu thành tựu năm căn như tín v.v… thì cũng đều thành tựu tám. Nghĩa là ba căn mạng, ý, xả cùng năm căn như tín v.v… Nếu thành tựu cụ tri căn thì nhất định thành tựu mười một. Nghĩa là mạng căn cùng bốn căn ý, hỷ, lạc, xả, năm căn như tín v.v… và cụ tri căn. Nếu thành tựu dĩ tri căn thì cũng nhất định thành tựu mười một căn. Mười căn như trên cùng dĩ tri căn. Nếu thành tựu vị tri đương tri căn thì nhất định thành tựu mười ba căn. Nghĩa là ba căn thân, mạng, ý, bốn thọ căn khổ, lạc, hỷ, xả, năm căn như tín v.v… cùng chính nó.
Các thứ cực ít là thành tựu bao nhiêu căn?
* Tụng viết:
Cực ít tám không thiện
Thành thọ thân mạng ý
Ngu sinh cõi vô sắc
Thành thiện mạng ý xả.
* Luận nêu: Đã đoạn căn thiện gọi là không thiện. Vị kia hoặc tạo thành cực ít là tám căn. Nghĩa là năm thọ căn cùng ba căn thân mạng ý. Thọ nghĩa là có thể thọ nhận, có thể lãnh nạp. Hoặc là tánh của thọ nên gọi là thọ. Như tánh viên mãn thì lập tên gọi viên mãn. Như đoạn căn thiện tạo thành cực ít là tám, ngu sinh nơi cõi vô sắc cùng thành tựu tám căn. Ngu nghĩa là dị sinh (Phàm phu), chưa kiến đế. Những gì là tám? Tức năm căn như tín v.v… và ba căn mạng ý xả. Năm căn như tín v.v… toàn bộ là thiện, nên gọi chung là thiện. Nếu như thế tức nên gồm thâu ba căn vô lậu. Không vậy thì ở đây chỉ dựa nơi tám căn, lại nói kẻ ngu sinh nơi cõi vô sắc. Các thứ cực nhiều thì thành tựu bao nhiêu căn?
* Tụng viết:
Cực nhiều thành mười chín
Hai hình trừ ba tịnh
Thánh giả chưa lìa dục
Trừ hai tịnh, một hình.
* Luận nêu: Những kẻ hai hình gồm đủ căn như mắt v.v… trừ ba căn vô lậu, thành tựu mười chín căn còn lại. Vô lậu gọi là tịnh, do đã lìa hai thứ trói buộc. Hai hình tất là hàng dị sinh của cõi dục. Chưa lìa dục tham nên có mười chín căn. Chỉ ở đây gồm đủ mười chín hay lại còn có loại khác? Thánh giả chưa lìa dục cũng gồm đủ mười chín. Nghĩa là hàng hữu học chưa lìa dục tham, thành tựu cực nhiều cũng gồm đủ mười chín căn. Trừ hai căn vô lậu và trừ một hình. Nếu trụ nơi kiến đạo thì trừ dĩ tri căn và cụ tri căn. Nếu trụ nơi tu đạo thì trừ vị tri đương tri căn và cụ tri căn. Hai căn nữ nam theo đấy trừ một thứ, do các Thánh giả không có hai hình. Nhân phân biệt về cõi, căn phi căn có sai biệt, theo đấy biện rộng về hai mươi hai căn xong.
HẾT – QUYỂN 3