SỐ 1672/1
LONG THỌ BỒ TÁT VỊ THIỀN ĐÀ CA VƯƠNG THUYẾT PHÁP YẾU KỆ
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Ma.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).
Vua Thiền Đà Ca phải nên biết
Sinh tử khổ não rất nhiều lỗi
Thảy đều bị vô minh ngăn che
Tôi muốn vì vua khởi lợi ích.
Ví như chạm vẽ làm tượng Phật
Người trí thấy tượng phải cung kính
Ta nương Như Lai nói chánh pháp
Đại vương cũng nên tín thọ sâu.
Vua tuy trước nghe lời Mâu-ni
Nay nếu nghe nhận chuyển phân biệt
Cũng như ao hoa sắc thanh tịnh
Trăng sáng chiếu xuống càng rực rỡ.
Phật dạy sáu niệm nên tu tập
Đó là Tam bảo, Thí, Giới, Thiên
Tu hành mười thiện tịnh ba nghiệp
Lìa rượu, phóng dật và tà mạng.
Quán thân, tài sản, mau nguy hoại
Phải thí phước điều giúp kẻ nghèo
Thí là bền chắc không gì bằng
Cũng là người thân cận bậc nhất.
Siêng tu Tịnh giới trừ lỗi cấu
Cũng chẳng mong cầu được các hữu
Thí như đại địa sinh muôn vật
Giới cũng như thế sinh các thiện.
Tu Nhẫn, nhu hòa bỏ sân hận
Phật nói hạnh này thật vô thượng
Như thế Tinh tấn và Thiền,
Trí Đủ sáu hạnh ấy vượt sinh tử.
Nếu hay tại nhà hiếu cha mẹ
Đây gọi là phước điền thù thắng
Hiện đời lưu hành đại danh xưng
Vị lai phước báo chuyển vô lượng.
Giết, trộm, dâm dối, tham đắm rượu
Giường chạm, cao rộng và hương xông
Ca hát, xướng kỹ, ăn phi thời
Các ác như thế phải xa lìa.
Nếu lúc tuổi trẻ tu giới này
Tất thọ thiên lạc, đạt Niết-bàn
Keo ganh, tham dục và dua nịnh
Dối trá, điên đảo cùng biếng nhác.
Các pháp ác bất thiện như thế
Đại vương nên quán mau xả bỏ
Đoan nghiêm, tôn quý và năm dục
Nên biết nguy hoại như bọt nước.
Chớ cậy pháp không bền như vậy
Kiêu căng, phóng túng, sinh các khổ
Muốn lớn các thiện, chứng cam lộ
Cần phải xa lìa như dứt độc.
Nếu hay nỗ lực bỏ sân, mạn
Ví như mây tan trăng thu tỏ
Giống như Chỉ-man với Nan-đà
Cũng như Sai-ma, các Hiền Thánh.
Như Lai nói có ba loại ngữ
Ngữ vào ý, chân thật, hư dối
Vào ý như hoa, thật như mật
Hư dối hèn xấu như phẩn uế.
Phải nên tu tập hai ngữ trước
Phải mau trừ dứt người hư vọng
Từ sáng vào sáng, bốn loại pháp
Vua nên phân biệt tư duy kỹ.
Hai loại vào sáng là nên tu
Nếu theo ngu tối phải mau bỏ
Quả Am-bà-la, bốn cách biến
Người khó phân biệt cũng như thế.
Nên dùng trí tuệ quán xét sâu
Nếu thật hiền thiện nên thân cận
Tuy thấy nữ nhân thật đoan nghiêm
Nên khởi tưởng mẹ, chị gái mình.
Nếu dấy tâm tham dục nhiễm ái
Phải nên chánh tu quán bất tịnh
Tâm ấy động loạn nên ngăn chận
Như giữ thân mạng và châu báu.
Tâm dục nếu khởi nên kinh sợ
Như sơ đao kiếm, các thú dữ
Dục thì không lợi như oán độc
Đây chính là lời Mâu-ni dạy.
Sinh tử luân hồi hơn ngục buộc
Nên phải siêng tu cầu giải thoát
Sáu nhập tán động đuổi các cảnh
Cần phải thâu giữ chớ phóng dật.
Nếu hay thâu các căn như thế
Hơn cả dũng tướng thắng giặc dữ
Thân này bất tịnh chín nơi chảy
Không có cạn kiệt như sông biển.
Da mỏng đậy che tợ như sạch
Như nhờ anh lạc tự trang điểm
Những người có trí nên phân biệt
Biết kia hư dối bèn xả bỏ.
Như người ghẻ lở gần lửa cháy
Mới tuy dễ chịu, sau thêm khổ
Tưởng tham dục cũng lại như thế
Trước tuy hoan lạc, sau lo nhiều.
Thấy thật tướng thân đều bất tịnh
Tức là quán nơi không, vô ngã
Nếu có thể tu tập quán này
Ở trong lợi ích vô thượng nhất.
Tuy có sắc tộc và kiến thức
Nếu không giới, trí như cầm thú
Tuy chốn xấu hèn, ít hiểu biết
Hay tu giới, trí, gọi Thắng sĩ.
Tám pháp lợi, suy không thể tránh
Nếu có đoạn trừ thật không sánh
Các vị Sa-môn, Bà-la-môn
Cha mẹ, vợ con và quyến thuộc.
Chớ vì ý họ nhận lời ấy
Rộng tạo hành phi pháp bất thiện
Nếu vì chúng đấy khởi các lỗi
Vị lại khổ lớn chỉ thân chịu.
Phàm tạo các ác không báo liền
Chẳng như đao kiếm đấu gây tổn
Tướng tội lâm chung mới cùng hiện
Sau vào địa ngục buộc các khổ.
Tín, thí, giới, văn, tuệ, hổ thẹn
Bảy pháp như thế gọi Thánh tài
Lời Phật chân thật không gì sánh
Siêu việt các châu báu thế gian.
Đại vương nếu chứa thắng tài này
Không lâu cũng chứng quả đạo tràng
Cờ bạc, rượu chè, mê đàn địch
Biếng trễ, kiêu mạn và bạn ác.
Phi thời, vội vã nhiều loạn động
Bảy pháp như thế nên xa lìa
Tri túc là tài sản tối thắng
Đức Thế Tôn nói lời như vậy.
Tri túc tuy nghèo đáng gọi giàu
Có của nhiều dục đấy gọi nghèo
Nếu giàu sản nghiệp thêm các khổ
Như rồng nhiều đầu thêm sầu não.
Phải xem vị ngon như thuốc độc
Dùng nước trí tuệ rảy khiến sạch
Vì nuôi thân này tuy phải ăn
Chớ tham sắc vị thêm kiêu mạn.
Đối các dục nhiễm phải sinh chán
Siêng cầu đạo Niết-bàn vô thượng
Điều hòa thân này khiến an ổn
Sau đấy phải nên tu trai giới.
Một đêm phân biệt có năm thời
Ở trong hai thời cần ngủ nghỉ
Đầu, giữa, cuối đêm quán sinh tử
Phải siêng cầu thoát, chớ luống qua.
Bốn định vô lượng nên tu tập
Đây gọi mở đường nơi Phạm thiên
Nếu tâm chuyên buộc niệm bốn thiền
Mạng chung tất sinh xứ trời kia.
Hữu vi dời động đều vô thường
Khổ không hư hoại chẳng bền chắc
Vô ngã, vô lạc, không thanh tịnh
Như thế đều gọi pháp đối trị.
Nếu có quán sâu pháp môn này
Vị lai thường ở vị tôn quý
Tu hành năm giới đoạn năm tà
Đây cũng điều Đại vương nên nghĩ.
Như bỏ chút muối xuống sông Hằng
Không thể khiến nước có vị mặn
Một chút ác nhỏ gặp các thiện
Tan hoại, diệt mất cũng như thế.
Năm tà nếu tăng, cướp công đức
Vua phải trừ diệt chớ khiến lớn
Năm căn như tín v.v… nguồn các thiện
Đây nên tu tập khiến tăng thạnh.
Tám khổ như sinh v.v… thường thiêu đốt
Luôn dùng nước tuệ rảy khiến diệt
Muốn cầu thiên lạc và Niết-bàn
Phải siêng tu tập chánh tri kiến.
Tuy có trí sáng vào nẻo tà
Công đức vi diệu, trọn không còn
Bốn loại điên đảo hại các thiện
Thế nên quán xét chớ khiến sinh.
Là sắc chẳng ta, ta chẳng sắc
Trong ngã không sắc, sắc không ngã
Nơi sắc sinh bốn loại tâm này
Các ấm còn lại đều như thế.
Hai mươi tâm ấy gọi điên đảo
Nếu hay trừ diệt là tối thượng
Pháp chẳng tự khởi, minh sinh trước
Chẳng Tự Tại tạo đúng thời có.
Đều từ nghiệp ái, vô minh khởi
Nếu không nhân duyên liền diệt hoại
Đại vương đã biết những nhân này
Nên đốt đèn tuệ phá si ám.
Thân kiến, giới thủ và nghi kiết
Ba thứ hay ngăn đạo vô lậu
Vua nếu hủy hoại khiến tan diệt
Pháp Thánh giải thoát sẽ hiển hiện.
Ví như người mù hỏi tướng nước
Trăm ngàn vạn kiếp không thể rõ
Muốn cầu Niết-bàn cũng như thế
Phải tự tinh tấn sau mới chứng.
Muốn nhờ quyến thuộc và tri thức
Mà được điều này thật khó có
Vì vậy Đại vương phải tinh tấn
Về sau mới chứng đạt tịch diệt.
Thí, giới, đa văn và thiền định
Nhân đấy dần gần bốn Chân đế
Nhân chủ phải nên tu tuệ sáng
Hành ba pháp ấy cầu giải thoát.
Nếu có thể tu thừa tối thượng
Tất gồm hết thảy thiện còn lại
Đại vương phải quán thân niệm xứ
Thế Tôn nói là đạo thanh tịnh.
Nếu không niệm này, tăng giác ác
Do thế phải nên siêng tu tập
Mạng người ngắn ngủi không dừng lâu
Như bọt trên nước khởi liền diệt.
Thở ra, thở vào trong giấc ngủ
Niệm niệm luôn qua thường suy giảm
Không lâu tức sẽ thấy mài diệt
Da thịt hôi thối thật đáng ghét.
Xanh, ứ, trướng, hoại, máu mủ chảy
Giòi trùng cắn rúc đến cạn khô
Tóc lông, răng móng đều phân tán
Gió thổi, nắng phơi dần khô kiệt.
Nên biết thân này không bền chắc
Vô lượng các khổ đã chứa nhóm
Cho nên Hiền Thánh, những người trí
Đều quán lỗi này cùng xả bỏ.
Tu Di, biển lớn và sông suối
Bảy mặt trời chiếu đều tan cạn
Bền chắc như thế còn hủy diệt
Huống gì thân mạng mỏng manh này.
Vô thường đã đến không ai cứu
Không thể nương cậy và tìm cầu
Do đấy Đại vương thường quán kỹ
Mau sinh chán lìa, cầu thắng pháp.
Thân người khó được, pháp khó nghe
Như rùa mù gặp bọng cây nổi
Đã được thân hy hữu như thế
Cần phải dốc tâm nghe chánh pháp.
Được thân diệu này, tạo các ác
Ví như bình báu đầy những độc
Sinh nơi giữa nước gặp bạn lành
Chuyên niệm phát tâm khởi chánh nguyện.
Công đức trồng lâu đủ các căn
Vua nay đầy đủ các thiện ấy
Nếu lại gần gũi người hiểu biết
Phật nói đây là phạm hạnh tịnh.
Thế nên phải vui thích tùy thuận
Chư Phật do đấy chứng Niết-bàn
Đã gặp pháp thanh tịnh vi diệu
Phải dốc chí cầu đạo lìa dục.
Sinh tử hiểm nạn khổ không lường
Cùng kiếp nêu bày không thể hết
Tôi nay vì vua lược phân biệt
Cần phải lắng nghe, khéo suy nghĩ.
Ba cõi chuyển biến không biên vực
Cha mẹ, vợ con lại cùng nhân
Oán thân, yêu ghét, xứ vô thường
Như vòng lửa xoay, há cùng tận!
Thế giới sinh tử vô thủy nay
Sữa mẹ uống tính nhiều biển lớn
Nếu không tinh tấn chứng không trí
Vị lai lại uống không cùng hạn.
Trôi nổi năm đường, trải người, trời
Nếu chứa xương thân cao Tu-di
Ái biệt buồn thương lệ sánh kia
Cũng chẳng sông suối so đối được.
Nếu tính cha mẹ của một người
Số cây cỏ thế gian chẳng bằng
Tuy thọ năm dục vui xứ trời
Rốt lại rơi vào khổ nẻo ác.
Chư thiên thọ mạng rất dài lâu
Diệu lạc xứ ấy khó nói hết
Ca múa, hát xướng thanh diệu tuôn
Tiếng buồn hòa nhã cùng vang xa.
Dáng ký, sắc diệu cực đoan nghiêm
Kẻ hầu vây quanh thảy vui vẻ
Trăm món thịnh soạn đều đầy đủ
Theo ý vui thích tự nhiên đến.
Ao báu luôn đầy nước thơm trong
Nhiều hoa đẹp vây quanh che phủ
Muôn chim sắc lạ đậu bên trên
Véo von cùng hót tiếng bay khắp.
Chư thiên dạo chơi tắm trong ấy
Vui thú như vậy không thể nêu
Phước tận, lâm chung, năm suy hiện
Lúc ấy sinh khổ hơn vui trước.
Cho nên tuy có vui thiên nữ
Người trí thấy đó sinh nhàm chán
Tuy ở trên lầu gác châu báu
Cũng tất thoái đọa xứ cấu uế.
Dù dạo vườn Nan-đà trên trời
Rốt cũng lại vào rừng đao kiếm
Tuy tắm ao Mạn-đà chư thiên
Sau rồi tất đọa ngục Sông tro.
Tuy lại ở ngôi Chuyển luân vương
Sau làm tôi tớ bị sai khiến
Tuy thọ Phạm thiên vui lìa dục
Sau đọa Vô gián khổ thiêu đốt.
Tuy ở cung trời đủ quang minh
Sau vào trong địa ngục Hắc ám
Là ngục Hắc thằng, ngục Đẳng hoạt
Thiêu, cắt, lột, đâm và Vô gián.
Tám địa ngục này luôn thiêu đốt
Đều là báo nghiệp ác chúng sinh
Hoặc nhận khổ lớn như ép dầu
Hoặc nghiền thân thể như bụi bặm.
Hoặc xẻ tứ chi thành nhiều mảnh
Hoặc lại lột da và đốt nấu
Hoặc dùng đồng sôi rót vào miệng
Hoặc dùng sắt ép xé thân hình.
Chó sắt đến tranh giành ăn nuốt
Chim sắt đậu lên cùng mổ kéo
Các loại trùng độc đều rúc rỉa
Hoặc đốt cột đồng xuyên thân ấy.
Lửa dữ hừng hực cùng cháy suốt
Do vì nghiệp tội, không trốn được
Nước sôi sùng sục vọt lên cao
Trút ngược tội nhân ném vào trong.
Mạng người suy hoại thật mau chóng
Ví như khoảnh khắc chư thiên thở
Nếu người ở trong mạng ngắn này
Nghe các khổ trên không kinh sợ.
Nên biết tâm ấy thật vững chắc
Cũng như kim cương khó hủy hoại
Nếu thấy tranh vẽ, nghe tiếng kia
Hoặc theo kinh sách, tự nghĩ nhớ.
Biết như thế thời đã khó nhẫn
Huống lại thân mình tự trải qua
Địa ngục lớn Vô gián không cứu
Các khổ trong ấy khó cùng tận.
Nếu lại có người trong một ngày
Dùng ba trăm giáo ném thân kia
So một niệm khổ ngục A-tỳ
Trăm ngàn vạn phần không bằng một.
Thọ khổ lớn này qua một kiếp
Duyên nghiệp tội hết sau mới khỏi
Khổ não như thế từ gì sinh?
Đều do ba nghiệp bất thiện khởi.
Đại vương nay tuy không lo này
Nếu không tu nhân rốt đọa lạc
Trong loài súc sinh khổ không lường
Hoặc bị trói buộc cùng đánh đập.
Vì không tín, giới và hiểu biết
Thường ôm tâm ác ăn nuốt nhau
Hoặc vì ngọc châu, lông, sừng, ngà
Xương, lông, da, thịt nên bị giết.
Bị người ngự cỡi, không tự tại
Luôn chịu khổ gạch ngói, dao gậy
Trong đường ngạ quỷ khổ cũng thế
Những vật cần muốn không theo ý.
Đói khát bức bách do lạnh nóng
Các khổ thiếu ốm thật vô lượng
Bụng to như núi, cổ như kim
Phẩn tiểu, máu mủ không thể nói.
Lõa hình tóc che thật xấu ác
Như cây Đa-la bị chặt đốt
Trong miệng ban đêm lửa dữ cháy
Các trùng tranh nhau cùng rúc rỉa.
Phẩn tiểu cấu uế, các bất tịnh
Trăm ngàn vạn kiếp chẳng thể được
Ví như tìm cầu được chút ít
Lại cùng cướp đoạt, liền tan mất.
Trăng thu trong mát sợ lửa nóng
Ngày xuân ấm áp chuyển khổ lạnh
Nếu đến vườn rừng, cây trái hết
Sông trong đi tới thành khô cạn.
Vì duyên nghiệp tội, thọ dài lâu
Trải có một vạn năm ngàn tuổi
Thọ các khổ độc không hề thiếu
Đều là quả báo của ngạ quỷ.
Bậc Chánh giác nói nhân khổ này
Gọi là nghiệp xan tham, ganh ghét
Nếu phước trời hết, thiện còn lại
Nhân đấy được làm vua nẻo người.
Sau nếu biếng nhác, phước đều tận
Tất đọa ba đường ác, không nghi
Hoặc sinh Tu-la, khởi cao ngạo
Sân, ganh, tham hại thêm phiền não.
Chư thiên tuy có hành căn thiện
Do vì xan, ganh mất lợi lạc
Vì thế nên biết kiết ganh ghét
Là pháp ác sâu cần xả bỏ.
Đại vương! Ông nay đã biết đủ
Sinh tử lỗi lầm rất nhiều khổ
Cần phải siêng tu thiện xuất thế
Như khát nghĩ uống, cứu cháy đầu.
Nếu thêm tinh tấn đoạn các hữu
Ở trong các thiện thật vô thượng
Phải siêng trì giới, hành thiền trí
Điều phục tâm vọng, cầu Niết-bàn.
Niết-bàn vi diệu dứt các tướng
Không sinh, già, chết và suy não
Cũng không núi sông cùng nhật nguyệt
Cho nên cần phải mau chứng biết.
Nếu muốn chứng được trí vô sư
Phải nên chuyên tu bảy giác pháp
Nếu hay cỡi thuyền giác phần này
Biển lớn sinh tử dễ vượt qua.
Mười bốn pháp Phật đã không nói
Chỉ sinh tín tâm chớ nghi hoặc
Chính phải chánh tâm siêng tinh tấn
Quyết định tu tập các pháp thiện.
Vô minh duyên hành, thức, danh sắc
Lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu
Hữu thì duyên sinh, sinh duyên tử
Nếu hết sinh tử nhân duyên diệt.
Như thế chánh quán mười hai duyên
Người này tất thấy Thánh Sư tử
Nếu muốn lần lượt thấy bốn đế
Phải siêng tu tập bát chánh đạo.
Tuy ở chốn tôn quý năm dục
Cũng được Thánh đạo, đoạn các kiết
Quả này không thể cầu kẻ khác
Tự tâm phải ngộ mới chứng được.
Tôi nói các khổ và Niết-bàn
Vì muốn thấm nhuần lợi ích vua
Không nên sinh khởi tâm sợ hãi
Chỉ siêng tụng tập hành các thiện.
Tâm là căn bản của các pháp
Nếu trước điều phục làm việc này
Tôi nói pháp yếu lược phân biệt
Vua chớ nên sinh tâm là đủ.
Nếu có đại trí lại quảng diễn
Cũng nên chí tâm siêng nghe nhận
Vua nay gọi là đại pháp khí
Nếu rộng nghe pháp tất lợi lớn.
Nếu thấy người tu ba nghiệp thiện
Phải sinh tâm tùy hỷ trợ giúp
Việc thiện mình làm cùng tùy hỷ
Công đức như thế thảy hồi hướng.
Vua phải kính học các Hiền Thánh
Như Quan Âm cứu độ chúng sinh
Vị lai tất sẽ thành Chánh giác
Nước không sinh, già, ba thứ độc.
Đại vương nếu tu các thiện trên
Danh xưng được lưu hành rộng khắp
Về sau dùng đấy giáo hóa người
Khiến khắp tất cả thành Chánh giác.
Sông phiền não trôi cuốn chúng sinh
Vì sợ hãi sâu khổ lửa đốt
Muôn diệt các trần lao như thế
Phải tu đế giải thoát chân thật.
Lìa các pháp giả danh thế gian
Liền được xứ bất động thanh tịnh
Nếu có phụ nhân ôm tâm hại
Vợ như thế nên phải xa lìa.
Nếu người trinh hòa, yêu kính chồng
Khiêm tốn siêng năng như người ở
Luôn nghĩ là chị, mẹ, bạn thân
Đấy nên tôn kính như thần nhà.
Pháp tôi đã nói chính như thế
Vua nên đêm ngày siêng tu tập.
Long Thọ Bồ Tát Vị Thiền Đà Ca Vương Thuyết Pháp Yếu Kệ.
HẾT.