Lời tựa khắc in lại sách Hộ Pháp Lục của Tống Văn Hiến Công đời Minh

Năm Kỷ Mùi, ông Tôn Ngọc Tiên ở Phụng Hóa khắc xong bộ Tống Văn Hiến Công[1] Toàn Tập. Lại đem những trước tác chuyên xiển dương Phật học, cũng như y theo bản Hộ Pháp Lục đã được ngài Liên Trì và ông Mục Trai giảo đính in riêng ngoài Toàn Tập. Có những phần không liên tục, cũng khắc in riêng. Hai tập sách ấy, mỗi thứ đều gởi cho pháp sư Đế Nhàn ở chùa Quán Tông một bộ, Quang đến chùa Quán Tông trông thấy, hoan hỷ khôn cùng, cầu Ngài thỉnh cho mình một bộ Hộ Pháp Lục. Trước kia, ông Tôn tính khắc riêng bộ Hộ Pháp Lục, xin ngài Đế Nhàn viết tựa. Sư do hằng ngày phải diễn giảng giáo nghĩa Thiên Thai cho học chúng nên chẳng rảnh rỗi để viết. Do vậy, bởi Quang thỉnh sách, ông Tôn bèn cầu ngài Đế Nhàn sai Quang gượng viết. Quang tâm như bị nút chặt, kiến giải như nhìn vào vách, sao có thể phát huy đạo của bậc thừa nguyện tái lai, hiện thân tể quan văn chương lừng lẫy, dùng thân – khẩu – ý tam nghiệp để chép Hoa Nghiêm Đại Kinh nhằm hoằng truyền tâm yếu của Phật, Tổ? Nhưng đã được ủy thác, nào dám nại cớ kém hèn để thoái thác! Do vậy, đại lược nêu lên những điều quan trọng liên quan đến mối nghi ngờ bàn luận của cả cõi đời mà thôi. Còn như văn chương của tác giả hùng hồn, biện bác, viên dung, thẳng chóng, phát minh tâm tông của Nho và Phật, vĩnh viễn là con mắt của trời – người, khác nào mặt trời chói ngời giữa hư không, ai có mắt đều thấy, thật chẳng cần đến Quang lấy sự hiểu biết hạn hẹp bàn chen vào nữa!

Lời tựa rằng: A Di Đà Phật chứng Bồ Đề đã lâu, an trụ Thường Tịch Quang Tịnh Độ, thường hưởng pháp lạc tịch diệt, nhưng vì chúng sanh vô tận, nguyện của ta vô tận nên chẳng lìa Tịch Quang Tự Thọ Dụng Độ, vào khắp mười phương vô tận thế giới hiện đủ mọi sắc thân độ thoát chúng sanh, hoặc hiển hiện hay thầm kín, hoặc chiết phục, hoặc nhiếp thọ, ắt sao cho rốt ráo lìa khỏi hai thứ sanh tử mới thôi! Đó gọi là đối với những kẻ thiện căn chưa gieo, chưa chín, chưa thoát liền làm cho họ gieo, chín, thoát, nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy thuyết pháp. Đạo lớn, sự rộng ấy dù dùng hết biển mực cũng chẳng thể viết hết được; đành nhờ vào chuyện của Văn Hiến Công để trình bày đại khái.

Cứ dựa theo lời tựa khen ngợi của ông Văn Hiến đối với việc ngài Thích Huyễn Diệt trích máu chép kinh Hoa Nghiêm, cuối bài ông tự nêu túc nhân như sau: “Vô Tướng cư sĩ (đạo hiệu của Văn Hiến Công) khi chưa ra khỏi thai mẹ, mẹ nằm mộng thấy một ông Tăng lạ lùng, tay viết kinh này, đến bảo với mẹ: ‘Ta chính là Vĩnh Minh Diên Thọ, ở nhờ nhà này để viết cho xong quyển này’. Bà mẹ tỉnh giấc, liền sanh ra cư sĩ. Nay gặp được nhân thù thắng này, chợt nhớ lại chuyện cũ”. Trong các trước tác khác cũng tự thuật sự này, nhưng những kẻ câu nệ, hư giả trong đời thường hay nghi, nói: “Vĩnh Minh chính là hóa thân của Phật Di Đà, hóa thân của Di Đà chưa liễu thoát sanh tử hay sao? Đã vì chép kinh mà ở nhờ nơi nhà người, nhưng xét trong văn tập, chưa hề nhắc nhở đến, chẳng phải là uổng thọ thân này, chẳng thỏa được nguyện cũ hay sao?” Tôi nói: Đây chính là dùng phàm tình để suy lường thánh trí, chẳng những không biết Văn Hiến Công, mà còn là chưa hiểu ngài Vĩnh Minh và Phật Di Đà nữa!

Muốn phát huy đến cùng cực, thẹn chẳng có tài văn chương khéo léo, nhưng lời lẽ cốt đạt được ý, nào ngại bàn thẳng vào chuyện này. Phật Di Đà đã chứng cùng tột pháp giới, đối với mọi chuyện trong pháp giới, không gì Ngài chẳng tùy ý hóa hiện. Chánh báo là thân Phật, thân Bồ Tát, thân Nhị Thừa, thân lục đạo, tùy loại hiện khắp để giáo hóa. Y báo là lầu, đài, điện, gác, thức ăn, y phục. Chỉ cần có lợi ích thì không gì chẳng hóa hiện. Ngài Di Sơn nói: “Đời tật dịch hiện làm dược thảo, lúc đói kém hóa làm thóc gạo”. Do trong cõi Thường Tịch Quang thân và cõi nước chẳng hai, Lý và Trí như một; thân có thể hiện cõi nước, cõi nước có thể hiện thân, thân lại hiện thân, cõi lại hiện cõi. Kinh Di Đà nói: “Các con chim ấy đều do A Di Đà Phật biến hóa ra”. Ngài Duy Ma Cật nói: “Do hết thảy chúng sanh bệnh cho nên ta bệnh”. Phật Di Đà thân và cõi hiện lẫn nhau, nào ngại gì hiện thân Vĩnh Minh rồi lại hiện thân Văn Hiến!

Thêm nữa, ngài Vĩnh Minh hiện thân Văn Hiến chính là nương vào bi nguyện thị hiện hóa sanh, há có nên nói ngài Vĩnh Minh chưa liễu thoát sanh tử, vẫn phải theo nghiệp lực thọ sanh ư? Do chúng sanh bệnh nên Bồ Tát cũng bệnh. Muốn độ thoát chúng sanh nhưng không thuận theo cơ nghi, thị hiện sanh trong thế gian hòa quang đồng sự để hành giáo hóa, thì vì phàm – thánh khác nẻo, không cách gì thí giáo được! Những loài chim nhiều màu kỳ diệu như hạc, chim công v.v… Phật còn chịu biến hóa ra, huống gì hiện thân làm vua trong chốn văn chương, phong nhã, tài hoa, làm bậc thuần Nho chế lễ, soạn nhạc, phù tá thánh chúa mà lại có trở ngại gì ư?

Ngài Vĩnh Minh là Phật Di Đà hóa hiện, Văn Hiến Công do ngài Vĩnh Minh hóa hiện, chính là chứng theo chiều dọc thân lại hiện thân. Những kinh như kinh Vô Lượng Thọ… nói “trong quang minh hóa Phật và các Bồ Tát vô lượng vô biên” chính là gồm thâu trọn khắp hai nghĩa dọc và ngang, vì Phật quang trọn khắp chiều ngang, cùng tột chiều dọc, không lúc nào, không nơi đâu chẳng trọn khắp. Ngài Vĩnh Minh ở nhờ nhà họ Tống để chép kinh Hoa Nghiêm chính là dùng thân để chép, dùng nghĩa để chép; chớ nên câu nệ vào văn tự ngôn ngữ để luận! Phàm những chuyện cả đời Văn Hiến Công đã làm và những gì ông ta trước thuật đều nhằm chép kinh Hoa Nghiêm. Đức hạnh cùng tột, hạnh hay đẹp của ông đã được chép trong Minh Sử nhưng vẫn chỉ là chép đại lược một hai điều, còn bị thiếu sót nhiều lắm; văn ông được truyền tụng trong đời chỉ có bộ Toàn Tập và tập sách này mà thôi! Đọc đến ắt có thể hình dung được đạo đức, tu dưỡng của ông. Bộ Toàn Tập tuy chẳng chuyên nói về Phật pháp, nhưng văn tự thế gian chưa hề chẳng bao gồm tông yếu Phật pháp.

Như trẻ nhỏ bị bệnh chẳng chịu uống thuốc, bèn bôi thuốc lên vú, thì nó không uống cũng thành uống, bệnh liền lành mạnh. Những kẻ không biết Phật pháp, đọc bộ Toàn Tập của Văn Hiến Công, liền khâm phục văn chương lưu loát, rộng lớn của ông, lại khâm phục lý cao sâu, sao không đoạn nghi sanh tín, càng vào càng sâu, hiểu rõ tâm pháp của Nho và Phật, mong thoát khỏi lồng rọ sanh tử ư? Huống chi Phật pháp được phát huy trong sách ấy nhiều hơn một trăm bảy mươi thiên. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hoặc riêng dùng chú ngữ để nói Tứ Đế, hoặc khéo dùng mật ngữ để nói Tứ Đế, hoặc dùng ngay lời lẽ của con người để nói Tứ Đế, hoặc là dùng mật ngữ của chư Thiên để nói Tứ Đế”, chính là bằng chứng vậy!

Nếu bảo: “Kinh Lăng Nghiêm cấm chẳng tiết lộ mật nhân (nhân thầm kín) của Phật, ông Văn Hiến lại tự nói mình là hậu thân của Vĩnh Minh, không phải là trái nghịch lời răn dạy thanh tịnh của Phật, bày đầu cho bọn cuồng vọng đời sau, tạo thành đầu mối đem phàm lạm thánh ư?” Tôi nói: Đối với bậc xuất cách, chẳng thể dùng cách thức thông thường để phán định! Ông chẳng thấy Phó Đại Sĩ tự xưng là Di Lặc hiện thân ư? Đã chẳng coi chuyện đó là trái nghịch, sao lại chỉ coi chuyện này là trái nghịch? Hơn nữa, cuồng vọng lạm thánh sẽ tự chuốc nhục, như khắc phân người thành hình chiên-đàn, há có thể lẫn lộn cùng chiên-đàn được ư?

Nếu nói: “Như Lai trí đoạn rốt ráo, công đức, trí huệ, thần thông đạo lực chẳng thể nghĩ bàn; Vĩnh Minh tuy cao, còn cách Phật xa lắm, huống gì là Văn Hiến?” Tôi nói: Chắc ông cũng biết chuyện hoàng đế vi hành chớ? Người trí biết là hoàng đế, kẻ ngu coi là bình dân, còn có khi nghi là gián điệp, là đạo tặc nữa kia! Sao lại riêng nghi chuyện trong bí mật, bề ngoài hiện này nọ của Như Lai? Phải biết: Đây chính là phương tiện khéo léo lập cách giáo hóa của Như Lai, ngầm nêu “chúng sanh chính là Phật, Quyền chính là Thật, sanh diệt chính là tịch diệt, Đồng Cư chính là Tịch Quang”, những ngôn ngữ, xử thế, nghề nghiệp mưu sinh v.v… đều thuận theo chánh pháp, đều chẳng trái nghịch ý chỉ Thật Tướng nhỏ nhiệm. Bậc thượng căn thoạt nhìn bèn hiểu, hàng trung – hạ phải do giải thích mới có thể hiểu rõ được.

Do đại từ bi bèn dùng chuyện từ Tích hiển Bổn này để người hiểu biết nông cạn có thể biết được trọn vẹn chuyện hiện khắp các sắc thân chẳng thể nghĩ bàn của bậc Pháp Thân đại sĩ. Như chuyện trong cõi âm, dương gian chẳng biết; nhưng Thượng Đế cực lực mong muốn người đời cải ác tu thiện nên cũng thường đem người dương gian vào cõi âm, chỉ bày ngục trong cõi âm cho dương thế. Phương tiện quyền xảo dạy người của Thượng Đế tình kiến phàm phu còn chưa thể suy lường được, huống chi Bồ Tát thần biến vô phương? Do vậy, tôi nêu ra ngõ hầu ai nấy tuân hành, cùng thoát Sa Bà, cùng sanh Tịnh Độ, hòng thỏa tâm Phật Di Đà đại từ bi bao lượt hiện thân, mà cũng chẳng cô phụ ngài Văn Hiến chép kinh, một phen ông Tôn dốc lòng khắc bản. Phàm con ngựa nào mong được như ngựa Ký thì cũng là hạng ngựa Ký, người mong được như Nhan Uyên thì cũng là hạng như Nhan Uyên. Tôi chưa từng biết mặt ông Tôn. Nếu không phải đời trước ông ta từng được Phật phó chúc, thì cũng phải là đã gội ân sâu của họ Tống, cho nên mới thừa nguyện tái lai, cực lực lưu thông, khiến cho hữu tình hiện tại, vị lai cùng được đượm nhuần pháp lợi không sót. Tốt đẹp thay! Cao quý thay!

***

[1] Tống Văn Hiến Công là Tống Liêm (1310-1381), tự Cảnh Liêm, hiệu Tiềm Khê, biệt hiệu Huyền Chân Tử, là người huyện Bồ Giang, tỉnh Chiết Giang, là một đại văn học gia đầu thời Minh. Tuổi thơ bần hàn, nhưng hết sức hiếu học. Từng theo học với các bậc đại danh gia như Ngô Lai, Liễu Quán, Hoàng Tấn v.v… Ông suốt đời cần cù học hành, chưa một ngày nào tay rời sách, từng ba lần đọc hết Đại Tạng Kinh. Ông được Nguyên Thuận Đế vời ra làm Hàn Lâm Viện Biên Tu, nhưng nại cớ còn cha già phải phụng dưỡng để từ tạ. Khi Châu Nguyên Chương diệt Mông Cổ, xưng đế, lập ra nhà Minh, ông được đề cử làm người giảng kinh sách cho nhà vua. Năm Hồng Vũ thứ hai (1369), ông vâng chiếu, chịu trách nhiệm chính biên tập bộ Nguyên Sử. Quan thăng dần đến chức Hàn Lâm Viện Thừa Chỉ, chuyên soạn chiếu chỉ cho nhà vua. Năm Hồng Vũ thứ 10 (1377), cáo quan hồi hưu. Về sau, do con trưởng là Tống Thận dính líu vào vụ án Hồ Duy Dung, toàn gia bị đày đi Mậu Châu. Ông mất trên đường đi lưu đày. Trước tác của ông rất phong phú, còn để lại bộ Tống Học Sĩ Văn Tập (hoặc Tống Văn Hiến Công Toàn Tập) rất đồ sộ. Châu Nguyên Chương từng gọi ông là khai quốc công thần trong giới văn quan. Bộ Hộ Pháp Lục do chính ngài Liên Trì thâu thập những đoạn luận về Phật pháp từ những trước tác của Tống Liêm. Bộ sách này được Tiền Khiêm Ích giảo đính.

Tiền Khiêm Ích tự là Thụ Chi, hiệu Mục Trai, biệt hiệu Đông Giản Di Lão, là một văn gia nổi tiếng vào cuối đời Minh, một trong những lãnh tụ của Đông Lâm Văn Đàn Tế Tửu, ông cùng với Ngô Vĩ Nghiệp và Cung Đỉnh Tư được xưng tụng là Giang Tả Tam Đại Gia. Giang Tả là vùng hạ lưu sông Dương Tử, thuộc địa phận tỉnh Giang Tô ngày nay. Đông Lâm là một học viện lập ra thời Tống gọi là Đông Lâm Thư Viện ở thành phố Vô Tích (nay thuộc Giang Tô). Thời Vạn Lịch nhà Minh, Cố Hiến Thành tu chỉnh lại thư viện này và cùng Cao Phàn Long dạy học tại đây. Vì họ phê bình triều chính nên nhiều sĩ đại phu tụ tập, tham dự vào nhóm này. Khi thái giám Ngụy Trung Hiền thao túng triều chính, rất căm ghét đảng Đông Lâm, ra sức truy bức những lãnh tụ đảng Đông Lâm, nên Tiền Khiêm Ích từng bị đi tù.