Lời tựa in tặng tranh Cực Lạc (viết thay)

Giáo pháp của pháp môn Tịnh Độ lớn lao thay! Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, pháp Trực Chỉ Nhân Tâm còn phải nhường phần kỳ đặc (lạ lùng, đặc biệt). [So với cách tu] “dùng ngay cái tâm này niệm Phật, niệm niệm thành Phật” thì lợi ích đạt được do trải bao kiếp tu chứng vẫn phải kém hơn. Độ khắp thượng trung hạ căn, thống nhiếp Luật, Giáo, Thiền Tông, như mưa đúng thời nhuần thấm muôn vật, như biển cả dung nạp các sông. Hết thảy các pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu xuất; hết thảy hạnh Đại – Tiểu, Quyền – Thật, không hạnh nào chẳng quy về pháp giới này. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà được dự vào Bổ Xứ, ngay trong một đời này viên mãn Bồ Đề. Chúng sanh trong chín pháp giới lìa môn này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo; mười phương chư Phật bỏ pháp này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần manh. Do vậy, Hoa Nghiêm hải chúng hết thảy đều tuân theo mười đại nguyện vương. Pháp Hoa xưng niệm một tiếng[1] đều chứng Thật Tướng các pháp.

Hạnh phương tiện tối thắng, ngài Mã Minh dạy trong luận Khởi Tín. Đạo dễ hành chóng đến, ngài Long Thọ xiển dương trong luận Tỳ Bà Sa. Ngài Trí Giả là hậu thân của Phật Thích Ca, nói Thập Nghi Luận, chuyên chí Tây Phương. Ngài Vĩnh Minh là Phật Di Đà thị hiện, soạn Tứ Liệu Giản, suốt đời niệm Phật. Hội tam thừa ngũ tánh[2] cùng chứng chân thường, dẫn thượng thánh hạ phàm cùng lên bờ kia. Vì thế, [pháp này] được chín pháp giới cùng quy về, mười phương cùng khen ngợi. Ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên nói. Thật có thể gọi là lời bàn luận tột cùng trong giáo pháp cả một đời [đức Phật], là đại giáo Nhất Thừa vô thượng vậy! Chẳng gieo cội đức, dù trải bao kiếp vẫn khó thể gặp gỡ. Đã được thấy nghe, hãy nên siêng năng tu tập!

Bất Huệ sanh nhằm đời Mạt, may mắn gặp được môn này, thẹn không có sức tự lợi lợi tha, nhưng hơi có tâm tự lập, lập người, muốn cho sang, hèn, trí, ngu, Tăng, tục, nam, nữ, bỏ nẻo khách trở về nước mình, buông cõi uế sanh về Liên Bang; do vậy, vẽ bức hình y báo chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc để nêu bày cảnh tịnh, nhằm phát sanh lòng tin tưởng. Cạnh bức vẽ ghi Niệm Phật Khởi Chỉ Nghi (nghi thức niệm Phật) và pháp môn Thập Niệm để ai nấy tùy phần tùy sức tu trì hằng ngày. Đầu đời Minh, ở Cẩn Giang có một vị đại thiền sư tên là Diệu Hiệp triệt ngộ Thiền Tông, thông hiểu sâu xa giáo lý, tự hành, dạy người chuyên chú trọng Tịnh Tông. Tác phẩm Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ[3] của Ngài văn lẫn lý đều hay, hay tuyệt xưa nay! Thiên sách luận về y báo, chánh báo Cực Lạc của Ngài trình bày rõ diệu cảnh của Lạc Bang, bao quát các kinh Tịnh Độ, cùng bức tranh Cực Lạc nói trên chiếu rọi lẫn nhau không sót chút nào. Do vậy, bèn y theo nguyên bản, chép lại ở dưới, ngõ hầu người thấy nghe lễ tụng biết đạo trọng yếu để thoát khổ, biết cái nhân thật sự để tu thành Phật. Tín nguyện tùy ý phát sanh, chấp trì Phật hiệu không ngơi.

Từ đây, cùng lìa cõi uế, cùng sanh về nước tịnh, cùng hầu Di Đà nơi chín phẩm sen, cùng viên mãn Chủng Trí trong một niệm. Lợi ích như vậy làm sao diễn tả được nổi? Ấy là dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm (cái tâm để tu nhân) cho nên nhân trùm biển quả, quả thấu nguồn nhân. In thạch bản (lithography) một vạn tấm để kết tịnh duyên. Lại mong thiện tín xoay vần lưu thông để hết thảy hữu tình trong mười phương pháp giới cùng về lại quê nhà sẵn có của chính mình, luôn trụ trong Tịch Quang Tịnh Độ vậy!

***

[1] Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, có câu: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng nam-mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo” (Nếu ai tâm tán loạn, vào trong nơi tháp miếu, niệm mô Phật một tiếng, đều đã thành Phật đạo)

[2] Tam thừa ngũ tánh: Tam thừa là Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Ngũ tánh: Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ, chúng sanh có năm chủng tánh thành Phật bất đồng:

1) Bất định tánh: Tức căn tánh không nhất định, gần gũi Thanh Văn thì tu pháp Thanh Văn, gần Duyên Giác bèn tu pháp Duyên Giác v.v…

2) Vô chủng tánh tức hạng người không có chánh tín, thiện căn, bác không nhân quả, chẳng cầu giải thoát.

3) Thanh Văn Tánh.

4) Duyên Giác tánh.

5) Bồ Tát tánh.

Duy Thức Học lại phán định Ngũ Tánh như sau:

1) Bồ Tát Định Tánh

2) Thanh Văn Định Tánh

3) Duyên Giác Định Tánh

4) Tam Thừa Bất Định Tánh

5) Vô Tánh Hữu Tình.

Ba chủng tánh đầu quyết định thành tựu thánh quả, hai chủng tánh sau không nhất định.

[3] Bộ luận này được xếp vào tập 47 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, đánh số 1.974. Nội dung gồm hai mươi hai môn, môn đầu tiên chính là phần Y Báo Chánh Báo Cực Lạc được Tổ nhắc đến trong lời tựa trên đây. Quyển đầu gồm chín môn như Cực Lạc Y Chánh, Phá Vọng Hiển Chân, Ha Mậu Giải (quở trách kiến giải sai lầm) v.v… chú trọng về phương diện lý luận, đả phá quan điểm hẹp hòi, chấp trước vào Thiền, vào Lý, biện giải Cực Lạc là cõi chân thật không phải là hóa thành v.v… Quyển thứ hai gồm 13 môn, phân tích tỉ mỉ đường lối, phương pháp, khắc trừ chướng ngại, cũng như lược nêu công hạnh của chư Tổ Tịnh Độ tông. Bài “mười điều tâm niệm” thường thấy trong các tùng lâm Việt Nam được trích từ tác phẩm này.