DIỆU ÂM NHÂN QUẢ
LỜI CHỨNG CỦA SƯ HUỆ THÂM
(Trích đọc tác phẩm Hạnh Đoan dịch)
Diễn đọc: Tạng Thư Phật Học
LỜI CHỨNG CỦA SƯ HUỆ THÂM
Ni sư Huệ Thâm chủ trì tiết mục “Từ quang phổ chiếu” trên đài truyền hình, có trình độ Phật pháp uyên thâm. Nhờ có nhiều kinh nghiệm thực tế nên lúc giảng, sư luôn trích dẫn những câu chuyện có thật để chứng minh, rất được thính chúng hoan nghênh.
Gần đây tôi may mắn được quen với sư, được thỉnh giáo trao đổi ý kiến… thu được rất nhiều lợi ích. về những chuyện liên quan đến nhân quả, Sư cũng cung cấp cho tôi nhiều câu chuyện hay cùng với kiến giải quý báu. Tôi cảm thấy những chuyện này rất có giá trị, đáng để chúng ta tham khảo. Giờ xin kể lại, chia sẻ cùng độc giả.
Cả đời Ni sư nghiên cứu Phật pháp hơn 30 năm. Hiện tượng Nhân quả báo ứng là tự nhiên không có gì đề hoài nghi.
Sư nói, đức Phật có đủ lục thông, (thiên nhãn, thiên nhĩ, túc mệnh, tha tâm, thần túc, lậu tận thông) Ngài dư biết tất cả mọi chuyện trong tam thiên đại thiên thế giới, thấu suốt hết các cõi, từ quá khứ, hiện tại, vị lai, hiểu rõ tất cả pháp tướng và lịch trình biến hóa của chúng sinh và vũ trụ, Ngài có khả năng tiên tri thông tuệ cao siêu, từng giảng giải cho chúng sinh hiểu rõ về lý nhân quả báo ứng.
Tất nhiên đây là quy luật chính xác tồn tại hiển nhiên, nhưng do nhiều nhân duyên, yếu tố mà quả báo đôi lúc không ứng hiện liền và thấy có vẻ rất phức tạp, không thể vừa nhìn là hiểu ngay. Điều này khiến nhiều người hoài nghi, cảm thấy mù mịt, khó tin.
Ngay cả nhiều người trong giới trí thức còn cho thuyết nhân quả là bịa đặt vô căn cứ, là hoang đường! Thậm chí họ chỉ trích đây là mê tín, chẳng chịu dùng thái độ khách quan vô tư để tìm hiểu, nghiên cứu.
Kiểu “thế trí biện thông” như vầy (là 1 trong 8 điều chướng ngại để tin Phật) là tự đoạn tuyệt với hiện tượng có thực của chân lý, rất đáng tiếc.
Sư Huệ Thâm thẳng thắn kể ra kinh nghiệm tích chứa cả đời, thố lộ vô số chuyện có thật chứng minh thế gian này nằm trong vòng nhân quả.
Sư kể ở Gia Nghĩa có một nam tử (xin được giấu tên) tạm gọi là ông z. ông từng hướng bà sám hối, ông kể thời trung học rất ưa xem các loại sách nhảm nhí, bạo lực, dung tục, ăn chơi (những sách bôi bác người tu và ca ngợi tình dục hoặc những có nội dung tương tự).
Sau đó bị ảnh hưởng những điều trong sách viết, ông hoàn toàn ngộ nhận và có cái nhìn lệch lạc, cho rằng các ni cô tu trong chùa là hành vi không đúng, không hợp lý. Vì thế đang tuổi còn cắp sách nhưng ông thường chạy tới chùa để rình rập quan sát, soi mól tìm khuyết điểm của các nữ tu. Hễ thấy có chút biểu hiện khả nghi, thì lập tức quay về, rêu rao bôi bác làm lớn chuyện, ông z cố tình hủy báng những điều hay của các tu sĩ cho bằng được (thật là việc làm bất nhân thất đức).
Sau đó không lâu, ông z bị xe đụng, đôi mắt bị mảnh vỡ của kính xe đâm vào, khiến ông mù hẳn. Lúc này ông sực tỉnh và hiểu ra – đây chính là ác báo dành cho hành vi thất đức của ông –
Dù lúc đó ông hết sức ăn năn hối hận, nhưng đã quá muộn.
Trả nghiệp tiền khiên
Thuở xưa, Lương Vũ Đế dốc lòng quy hướng Phật, thường qua lại với các tu sĩ. Có lần vua cùng hòa thượng chơi cờ trong cung, nửa chừng vua chột bụng, trước khi đi nhà xí ông nhìn thấy nước cờ mình có thề ăn đối phương một con, bèn hô to lên “Giết!” rồi vua bỏ đi giải quyết “tâm sự”. Sau khi xong việc, vua về lại bàn cờ, không thấy hòa thượng đâu, ông liền hỏi người chung quanh:
– Hòa thượng đi đâu rồi?
Lính hầu liền thưa:
-Vừa rồi hoàng đế vừa ra lệnh bảo “Giết”, chúng tôi lập tức tuân lịnh hành sự, đã đem hòa thượng đi xử trảm rồi.
Võ Đế thấy lính hiểu lầm mà ngộ sát, lòng quá kinh ngạc và cảm thấy mình thập phần có lỗi. ổng hỏi vệ sĩ:
– Hòa thượng lúc sắp thọ hình có nói gi chăng?
Vệ sĩ thưa: -Hòa thượng rất bình thản, chỉ thỏ’ dài nói: -“Đời trước giết oan người, đời này bị giết lầm trả lại… Tất cả là nhân quả, phàm việc gi cũng có định số”…
Sự kiện này ứng hợp VỚI câu nói trong kinh phật: “Giả sử ngàn vạn kiếp, nghiệp đã tạo không mất, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo đến tự thọ‘’.
Có nhiều thính chúng viết thư kể cho sư nghe những kinh nghiệm bản thân liên quan đến nhân quả, chứng minh rằng nhân quả tuyệt không hư vọng. Sau đây là câu chuyện điển hình:
Một thính chúng tại miền bắc (xin giấu tên), gởi thư tới kể, bà làm nghề đồ tể, bán thịt heo.
Bình thuờng buôn bán thì ham có lợi nhuận nhiều, vì vậy mà bà thường xối nước lên nội tạng heo, khiến quả thận từ giá 60 tiền, có thể bán được hơn 100 tiền.
Giá một cân thịt chỉ có 50 lượng, nhưng có lúc ham lợi, đối với heo nái sắp sinh bà cũng ra tay giết mổ, ngay cả các heo con trong bụng nó bà cũng không tha, giờ nghĩ đến thật là quá sức tàn nhẫn.
Những năm gần đây bà buôn bán rất phất và giàu to, nhưng điều khiến bà khổ nhất chính là các chứng bịnh trên thân hầu như càng lúc càng nặng, không ngớt hành hạ bà.
Hồi hai mươi mấy tuổi, bà cảm thấy bao tử mình bịnh rất khó chịu, nghe như có tiếng nước ở trong, chữa chạy thế nào cũng vô hiệu, đi khám mới biết mình bị sa dạ dày nghiêm trọng.
Từ ba mươi mấy tuổi trở đi thì toàn thân bà đều nhức nhối đau đớn, nhất là lúc bịnh thận phát tác, cảm giác giống như bị xối đầy nước, tưởng chừng da sắp nứt ra, thống khổ vô cùng. Mức độ thống khổ này nếu nói là địa ngục trần gian cũng không quá, khó mà diễn tả cho hết được.
Do nhiều năm bị bịnh hoạn đau đớn giày vò, hiện giờ mặt mày bà tiều tụy, biến dạng, nhìn chẳng ra hình dáng người nữa.
Ni sư từng nhắc nhở bà: “Gieo nghiệp sát sẽ không có được kết quả lành”, bây giờ bà thấy đúng là như thế.
Chồng bà cách đây không lâu đã lén lút ngoại tình với một ả đã có chồng, sau đó thì họ tự tiện chung sống cùng nhau. Cả hai người này đều có tật mê bài bạc, chẳng quản tới gia đình, bà rất buồn rầu thất vọng, khổ tâm vô cùng.
Có lần bà nghe kể một người bạn hành nghề đồ tể như bả, trước khi qua đời mặt mày sưng phù nhìn giống hệt heo chẳng khác. Hơn nữa bịnh nhân không ngừng kêu rên thảm thiết khiến ai nhìn thấy đều táng đởm kinh tâm.
Bây giờ nhớ đến chuyện này bà không khỏi lạnh lòng vì sợ. Cảm thấy đối với tội ác sát sinh mình đã tạo, không biết làm sao để bù đắp, cứu chuộc. Bà rất mong pháp sư sẽ khai thị soi sáng, hướng dẫn bà cách cứu chuộc lỗi xưa.
Ni sư cho rằng: “Một người nếu đã biết ăn năn hối lỗi, chịu buông dao đồ tể thành tâm sám hối, dốc lòng tu tâm sửa tính, nguyện triệt để hướng thiện, nỗ lực tu tri, thì nghiệp chướng dĩ vãng cho dù sâu nặng đến đâu cũng có thề giải trừ oan khiên”.
Ngoài việc ngày ngày gắng tu, nguyện hành thiện, dứt ác để tránh tăng gia nghiệp chướng ra, cần phải nỗ lực tu huệ và tu phúc. Tu huệ là học Phật pháp huân vào trí huệ quý báu, thực hành Phật pháp để viễn ly khổ não, đạt đến giải thoát. Tu phúc là dốc sức bố thí, dùng thái độ từ bi đề giải trừ tất cả thống khổ cho chúng sinh.
Bố thí có ba loại: tài thí, pháp thí và vô úy thí, và trong đây công đức lớn nhất chính là pháp thí. Bởi chỉ có khuyên người hành thiện, khiến người hiểu rõ đạo lý xử thế, mục đích và Chơn nghĩa cứu cánh nhân sinh, mới có thể khiến người có đủ trí huệ, chẳng còn ngu sỉ làm bậy. Hơn nữa cần tiến thêm một bước, phát tâm hướng thiện, nguyện làm một người tốt chân chính mãi mãi.
Tài thí cố nhiên là quý, nhưng hãy nghĩ kỹ xem, nếu không có chánh pháp hướng dẫn người ta sống tốt, thì những người được cứu tế do không biết đạo pháp có thể sẽ vô tình tạo ác, phạm đủ tội sát sinh, tà hạnh… Nếu họ gieo toàn nhân xấu, chẳng những không giúp ích được cho xã hội, mả còn tự hại mà còn di họa đến người chung quanh. Vì vậy chính pháp thí mới có công năng cứu độ triệt để giúp thức tỉnh tâm linh người. Công đức cứu giúp tinh thần đương nhiên phải lớn hơn công đức bố thí tài sản cứu cái xác thân máu thịt.
Do đó, song song với việc làm phúc, hành thiện, ta phải tận dụng cơ hội khuyên người sống lành, tu tâm, gìn giữ thân khẩu ý. Dốc sức giáo hóa chúng sinh hướng thiện, phụ đóng góp, in biếu kinh Phật và các sách thiện… nhằm giúp thăng hoa thần trí, nhân cách con người. Nghĩa là phổ biến những sách báo có ích, hoặc tài trợ các hoạt động diễn giảng giúp tịnh hóa và giáo dục nhân tâm. Chỉ có làm như thế, mục đích bố thí của chúng ta mới được xem là chân chánh, không uống phí.