KINH THỦ LĂNG NGHIÊM LƯỢC GIẢNG
ŚŪRAMGAMA-SŪTRA
Tuyên Hoá Thượng Nhân giảng thuật
QUYỂN 7
Phật phóng hào quang nói thần chú
A Nan đảnh lễ chân Phật và bạch rằng: Từ khi xuất gia, con ỷ lại nơi lòng thương của Phật, ham cầu đa văn, chưa chứng quả vô vi, nên bị kẹt vào tà thuật của Phạm Thiên, tâm dù rõ ràng, nhưng sức chẳng tự do, nhờ gặp Văn Thù, khiến con được giải thoát.
Giảng:
Sau khi Anan nghe đức Phật thuyết giảng, ngài “đảnh lễ chân Phật và bạch rằng: Từ khi xuất gia, con ỷ lại nơi lòng thương của Phật.” Anan ỷ lại tình thương của đức Phật dành cho ngài. “Ham cầu đa văn, chưa chứng quả vô vi” Anan lúc nào cũng quan tâm về việc hơn thua với mọi người. Tôi muốn hơn mọi người. và như vậy ông ta nghĩ rằng: “Các người không thể nhớ tụng bộ kinh, nhưng tôi có thể. Các người không có thể giảng giải kinh, nhưng tôi có thể nhớ từng chữ trong kinh.” Anan luôn tranh giành để thành số một hay đệ nhất. Ngài quyết định dùng trí nhớ uyên bác để đắc quả vị. Đúng thật, Anh đã trở thành thông minh đệ nhất, nhưng ông ta không chứng được quả vị vô vi. Ông ta vẫn chưa đạt được tứ quả A La Hán, không còn luân hồi. Ông ta còn chưa được quả vị vô học. Đó là nguy hiểm đối với ông ta.
“Nên bị kẹt vào tà thuật của Phạm Thiên, tâm dù rõ ràng, nhưng sức chẳng tự do.” Anan bị thôi miên bởi chú tà chú, tà thuật của Phạm Thiên. Thân tâm bị ràng buột bởi tà chú. Thân bị thôi miên, nhưng tâm trí vẫn còn chúc tĩnh táo. Tuy tâm trí không hoàn toàn tỉnh táo, nhưng ông ta chưa hẳn mê loạn. Ông ta đang bị thôi miên, giống như nữa ngủ nữa thức. Ông ta như người say rượu nhưng ông ta không uống rượu. Tình trạng lúc đó giống như người bị say rượu. Khi quý vị hỏi người say rượu ngày hôm sau đã làm gì, người đó nhớ vài chuyện và cũng quên vài chuyện. Đó là tình trạng Anan trong lúc bị tà thuật mê hồn. Giống như ông ta là người sắp bị mê ngũ, nhưng chưa ngũ, và như ông ta đang mơ hay giống như một cơn mơ. Ông ta không còn sức để giải thoát. Giống như gặp một ác mộng khi ngủ ban đêm, một con ma đè, dùng tà thuật để làm tê cứng bạn. Khi chuyện đó xảy ra, quý vị thức dậy và nhìn, nhưng không thể cự động. Quý vị bị ma thuật khống chế. Đó là những gì mà Anan đã trải qua. Tuy rằng Anan còn tỉnh, nhưng ông ta không thể tự kiềm chế mình và không được tự do.
“Nhờ gặp Văn Thù, khiến con được giải thoát.” Đức Phật sai Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đi tới và cứu Anan. Anan nhờ đức Phật kêu Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đến cứu, và Bồ Tát đã giải thoát cho Anan.
Dù thầm nhờ sức thần chú của Như Lai, nhưng còn chưa nghe chú ấy. Xin nguyện Đức Thế Tôn Đại Từ tuyên thuyết lại cho, thương xót cứu giúp các hàng tu hành trong hội này và những người đời sau còn trong luân hồi, nhờ mật âm của Phật mà thân tâm được giải thoát. Bấy giờ, đại chúng trong hội thảy đều đảnh lễ, chờ nghe thần chú bí mật của Phật.
Giảng:
“Dù thầm nhờ sức thần chú của Như Lai, nhưng còn chưa nghe chú ấy.” Đức Phật đã dùng thần chú tuyên thuyết của các Như Lai. Khi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi tới chỗ của con và trì tụng chú Lăng Nghiêm, Anan đã thầm nhờ sức lực của chú Lăng Nghiêm. Đó có nghiã là khi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi tới đó, ngài không có tụng chú lớn tiếng, ngài chỉ tụng chú trong tâm để giải thoát Anan. Khi đứng trước tượng Phật, quý vị có thể tụng lớn tiếng tại chùa, nhưng khi quý vị đi ra ngoài đường, quý vị có thể trì tụng âm thầm trong tâm, và nó cũng có đủ sức lực như lớn tiếng.
Nếu quý vị ra ngoài đường và bắt đầu la lớn: “Tát Đát Đa Bát Đát La”. Mọi người sẽ nghĩ rằng bạn là người điên. Quý vị không cần phải trì tụng như nghi lễ trong chùa để rồi làm cho người khác nói xấu Phật Pháp, đó là điều mà người sẽ làm nếu người ta nghĩ quý vị điên khùng. Khi nói xấu Phật Pháp, họ sẽ mang tội. Quý vị không muốn nói rằng: Nếu họ phạm tội, đó là lỗi của họ. Tôi sẽ trì tụng càng lớn tiếng hơn và để cho người đó chê càng nhiều và người đó càng phạm nhiều tội lỗi, và người đó sẽ rơi vào địa ngục. Nếu quý vị có những ý thức như vậy và có tình gây tội lỗi cho người khác để rồi họ phải rớt vào địa ngục, vậy quý vị không nên học Phật Pháp.
Những người học Phật Pháp có lòng đại từ đại bi cho chúng sanh. Những gì họ làm là không làm những gì mà có thể làm cho chúng sanh phải rơi vào địa ngục, cho đến chổ họ thè bị rơi vào địa ngục còn hơn là làm cho người khác rơi vào địa ngục. Quý vị phải có tư tưởng như vậy. Không nên nghĩ rằng: Họ che cười tôi, vậy để họ rơi vào địa ngục.” Hay là nghĩ rằng: Nếu tôi phải chạy tới người đó, tôi sẽ chạy tới và trì tụng chú Lăng Nghiêm, và người đó sẽ nói xấu tôi, vậy thì người đó sẽ rơi vào địa ngục. Nếu quý vị có ý nghĩ như vậy, quý vị nên dừng trì tụng chú Lăng Nghiêm ngay lập tức, và dừng lại tu học Phật Pháp. Đó là lý do tại sao chúng ta học Phật Pháp phải không có hận thù với chúng sanh, phải không có ghen tuông với kẻ khác, không cản trở người, không ích kỷ qua tư cách này. Không nên có cái tánh nầy. Phật Pháp được tồn tại bởi vì muốn cứu sống chúng sanh. Nó không phải để làm cho người khác bị tổn thức. Quý vị phải minh sáng tại điểm này.
Xin nguyện Đức Thế Tôn Đại Từ tuyên thuyết lại cho, thương xót cứu giúp các hàng tu hành trong hội này và những người đời sau còn trong luân hồi, nhờ mật âm của Phật mà thân tâm được giải thoát. Bấy giờ, đại chúng trong hội thảy đều đảnh lễ, chờ nghe thần chú bí mật của Phật.”
Giảng:
Anan chỉ xin nguyện Đức Thế Tôn Đại Từ tuyên thuyết chú Lăng Nghiêm thêm một lần nữa để con có thể nghe chú và “thương xót cứu giúp các hàng tu hành trong hội này và những người đời sau còn trong luân hồi, nhờ mật âm của Phật mà thân tâm được giải thoát.” Qua lời mật chú của đức Phật, chúng sanh được giải thoát. Họ sẽ không còn đảo lộn và mê muội. Quý vị trì tụng chú Lăng Nghiêm mỗi ngày để giúp cho chúng sanh không còn đảo lộn mê muội và giúp cho họ xa lánh những việc mà họ biết đó là sai lầm.
Thí dụ, họ biết thuốc phiện là sai lầm, một việc phí thì giờ và làm tổn sức con người. Nhưng họ vẫn cứ tiếp tục hút. Biết rằng thuốc phiện là việc trái phép luật, nhưng họ cứ tiếp tục thử. Biết rằng sát sanh là việc không đúng, nhưng họ vẫn cứ lấy mạng của chúng sanh. Biết chắc chắn rằng dâm dục là chuyện không đúng, nhưng họ vẫn cứ tiếp tục hành dâm dục. Biết rằng ăn cắp là việc không đúng, nhưng họ suốt ngày đêm ăn cắp đồ đạt của người khác. Nếu không phải ăn cắp xe hơi, thì là máy thâu băng, radio. Người ăn cắp biết rằng họ đang phá luật, và hiểu rằng nếu bị bắt, cảnh sát sẽ bỏ vào tù, nhưng họ vẫn cứ tiếp tục ăn cắp. Đó là việc làm biết trước là sai lầm.
Ngay lúc đó, mọi người trong hội, một số người khác đông trong hội pháp, đảnh lễ và chờ nghe thần chú bí mật của chư Phật. Họ đảnh lễ đức Phật và họ đứng chờ nghe đức Phật nói mật chú và những đệ trong chú. “Những đệ” đây là năm đệ trong chú. Những “câu” là những câu chú ngắn trong mật chú, như câu “Nam mô tát đát tha, tô già đa da, a ra ha đế tam miệu tam bồ đà tỏa.” Những đệ và câu chú là mật chú, có nghiã là không phải là dễ dàng để cho người thường dễ hiểu. Đó là “mật chú” trong ý nghiã con người không chia sẽ những ý nghiã về chúng. Khi quý vị trì tụng chú, quý vị không biết những lợi ích quý vị sẽ hưởng. Chúng tôi cũng không biết những lợi ích mà chúng tôi sẽ nhận. Tuy lợi ích được nhận lấy, nhưng không có sự hiểu biết của những lợi ích mà mình đã hưởng, hay một sự hiểu biết giữa kinh chú.
Khi ấy, Thế Tôn từ nơi nhục kế phóng ra trăm thứ hào quang, trong hào quang hiện ra bửu liên hoa ngàn cánh có hóa thân Phật ngồi trong liên hoa, trên đảnh phóng ra mười tia ánh sáng, trong mỗi tia đều hiện ra mười hằng sa Hộ Pháp Kim Cang, đội núi, cầm chày, khắp cõi hư không. Đại chúng ngó thấy đều kính mến, cầu Phật gia hộ, một lòng nghe Phóng Quang Như Lai nơi Vô Kiến Đảnh Tướng của Phật tuyên thuyết thần chú.
Giảng:
“Khi ấy, Thế Tôn từ nơi nhục kế phóng ra trăm thứ hào quang, trong hào quang hiện ra bửu liên hoa ngàn cánh có hóa thân Phật ngồi trong liên hoa”. Hoá thân của đức Phật an tọa trên ngàn cánh hoa sen trong ánh hào quang.
“Trên đảnh phóng ra mười tia ánh sáng.” Đảnh nói tới từ đảnh đầu của các vị hóa thân Phật. Thêm 10 sánh sáng hào quang phóng từ đảnh đầu của các hoá thân Phật. Những tia sánh đó tỏa sáng trên mặt đất nhiều như cát hạt bụi của 10 sông Hà. Những hào quang chiếu sáng mọi nơi, trên toàn các nước.
“Trong mỗi tia đều hiện ra mười hằng sa Hộ Pháp Kim Cang, đội núi, cầm chày, khắp cõi hư không” Và trong lúc ấy, những tia sáng hào quang hiện ra các vị Kim Cang Hộ Pháp, một tay cầm núi, một tay cầm chày, giống như cái chày của Vi Đà Bồ Tát. Các ngài hiện thân ở khắp mọi nơi, đầy cả hư không.
“Đại chúng ngó thấy đều kính mến, cầu Phật gia hộ.” Tất cả các vị đại Bồ Tát, đại A La Hán, đại Tỳ Kheo, và tất cả mọi người tại pháp hội, ngưởng đầu và nhìn lên các hoá thân Phật ở trên đảnh đầu của đức Phật. Vài vị cảm thấy sợ hải khi thấy các hóa thân Phật. Và cũng ngay lúc đó, họ cảm mến các vị chư Phật. Họ thương đức Phật, nhưng đó không phải là tình thương giữa đàn ông và đàn bà. Cái mà họ cảm nhận là tình thương chân thật, không luyến ái hay quấn quích. Họ có cả 2 cảm nhận cùng một lúc. Họ ngạc nhiên sợ, nhưng vẫn bị lôi cuốn bởi tình thương của đức Phật. Và họ mong rằng đức Phật sẽ thương mến và gia hộ cho họ.
“Một lòng nghe Phóng Quang Như Lai nơi Vô Kiến Đảnh Tướng của Phật tuyên thuyết thần chú.”. Các người trong pháp hội đều một lòng. Họ đều muốn nghe đức Phật. Cái nhục kế trên đảnh đầu của đức Phật được gọi là đảnh đầu vô hình, bởi vì người thường không thể thấy được. Những ai thấy được trăm hào quang sáng chiếu và các vị hóa thân Phật là những Phật tử đã được đức Phật thọ ký. Các hóa thân Phật xuất từ đảnh đầu chư Phật hiện ra khắp hư không và tuyên thuyết chú Lăng Nghiêm
Vậy chú Lăng Nghiêm không phải được tuyên thuyết bởi nhục thân của đức Phật, mà là từ các hóa thân Phật hiện thân khắp hư không.
Về phần chú Lăng Nghiêm, không ai hiểu nó. Và cũng không thể nào giảng giải chú từng chữ từng câu. Nếu quý vị muốn hiểu mật chú, tôi có thể có gắng giảng giải chú cho quý vị nghe. Nhưng bây giờ không phải là lúc giảng, bởi vì chúng ta đang ở phần giữa của bộ kinh Lăng Nghiêm, và giảng giải chú Lăng Nghiêm cũng không thể giảng giải trong một năm, hay 3 năm, hay 10 năm. Vì vậy, ngay bây giờ, chú Lăng Nghiêm không thể giảng giải đầy chi tiết. Tôi chỉ giải thích tổng quát chú.
Chú Lăng Nghiêm có năm bộ, phân làm năm hướng: Đông Tây Nam Bắc và chính giữa. Phương đông Kim Cang Bộ, Phật A Súc là giáo chủ, tức cũng là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. Phương nam là Bảo Sinh Bộ, Phật Bảo Sinh là giáo chủ. Chính giữa là Phât Bộ, Phật Tỳ Lô Giá Na là giáo chủ. Phương tây là Liên Hoa Bộ, Phật A Di Ðà là giáo chủ. Phương bắc Yết Ma Bộ, Phật Thành Tựu là giáo chủ. Cộng thành năm bộ. Thế gian này có năm bộ giáo chủ đến quản lý và trấn áp năm đại ma quân ở khắp 5 phương hướng. Vì có đến 5 đại ma quân, chớ không phải 5 con ma. Cho nên các vị chư Phật cai quản khắp 5 hướng để trấn áp ma quân. Nếu không có các vị chư Phật, các ma quỷ sẽ hiện thân khắp thế gian. Trong năm bộ chú, có hơn 30 chú và nó có hơn cả 100 chú có thể nói ra chi tiết. Có tổng cộng 5 loại chú:
1. Pháp thành tựu – có nghiã là với chú nầy, quý vị sẽ thành tựu trong những gì quý vị tìm kiếm hay những nguyện hay món gì mong cầu
2. Pháp tăng ích – có nghiã là khi quý vị trì tụng chú, quý vị sẽ được tăng thêm lợi ích cho những gì quý vị tìm kiếm và quý vị cũng tăng thêm lợi ích cho những người chung quang.
3. “Pháp câu triệu”. Câu tức cũng như dùng lưỡi câu, câu nó lại, giống như câu cá lại vậy. Triệu tức là triệu (vời) lại, là ra lệnh bạn phải lại, không lại không được! Không kể nó bao xa từ nơi quý vị, quý vị có thể mang nó tới và bắt chúng
4. Pháp hàng phục – ma quỷ có thần thông và ma chú mà chúng thường dùng. Khi quý vị trì tụng thần chú, ma quỷ cũng tụng ma chú. Nhưng nếu quý vị trì tụng chú Lăng Nghiêm, quý vị có thể phá tan các ma chú, những ma chú mà tôi đã nhắc tới về hàng phục ma vương. Chú nầy cũng rất hiệu quả khi phá tan những ma chú hay bùa thuật. Những ao chưa học qua chú Lăng Nghiêm, nên lưu ý. Tại sao khi chú Lăng Nghiêm đã trì tụng, những vị chư ma vương tại cõi trời Tha Hoá mất hết ma lực. Tại vì 5 đại tâm chú: Tất Ðà Nễ, A Ca Ra, Mật Rị Trụ, Bát Rị Ðát Ra Gia, Nảnh Yết Rị.
Năm câu Chú này gọi là năm đại tâm Chú. Nó là tâm chú để phá vỡ các ma chú và ma thuật của các ma vương ngoại đạo. Không cần biết những ma chú gì chúng sử dụng, quý vị cũng có thể phá tan với tâm chú. Những ma chú sẽ mất hết ma lực
5. Pháp tiêu tai – Bất cứ tai ương hoạnh tử gì cũng được giải hay ngăn chận. Thí dụ như một người bị rớt xuống biển và chìm, nhưng nếu trì tụng chú Lăng Nghiêm, anh ta tránh được tai họa. Anh ta có thể té rớt vào biển, nhưng anh ta không bị chìm. Có thể quý vị ở trên một chiếc thuyền đáng lẽ sẽ bị chìm, nhưng quý vị trì tụng chú Lăng Nghiêm, chiếc thuyền lại không bị chìm.
CHÚ LĂNG NGHIÊM
Kệ và Giảng Giải
HOÀ THƯỢNG TUYÊN HOÁ
Thích Minh Định – Việt dịch
Lăng Nghiêmlà tiếng Phạn dịch là “Tất cả sự cứu kính kiên cố”, cũng có nghĩa là “định », định này là vua trong tất cả các định.
“Cứu kính kiên cố định trung vương
Trực tâm tu học chí đạo tràng
Thân, miệng, ý nghiệp tu thanh tịnh
Tham, sân, si niệm yếu tảo quang
Thành tắc cảm ứng hoạch hiện chứng
Chuyên năng thành tựu đại thần thông
Hữu đức ngộ tư vinh diệu cú
Thời khắc mạc vong thiệu long xương”.
“Cứu kính kiên cố định trung vương.’’
Lăng Nghiêm là vua trong tất cả các định.
‘’Trực tâm tu học chí Ðạo tràng.’’Tu đạo phải dùng tâm ngay thẳng, đừng dùng tâm cong vạy. Tâm ngay thẳng mới đạt được mục đích. Nếu bạn dùng tâm cong vạy ngoằn ngoèo tu Phật Pháp, thì tu chẳng thành tựu.
‘’Thân, miệng, ý nghiệp tu thanh tịnh,’’Tu pháp này thì miệng không nói dối, không nói lời thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không chưởi mắng. Thân thì không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.
‘’Tham, sân, si niệm yếu tảo quang.’’– Ý niệm thì không tham, sân, si. Khi thân, miệng, ý ba nghiệp thanh tịnh tức là tổng trì.
‘’Thành tắc cảm ứng hoạch hiện chứng.’’Phải thành tâm thì mới có cảm ứng. Hiện tại thì chứng được năng lực không thể nghĩ bàn của Chú này. Lực lượng của Chú không thể nghĩ bàn.
‘’Chuyên năng thành tựu đại thần thông.’’Nếu bạn chuyên tâm, tâm không phóng túng, không có tạp niệm, thì sẽ thành tựu đại thần thông. Chú Lăng Nghiêm có năm hội (năm đệ), có trên ba mươi đoạn pháp. Trong Chú lại có : Pháp hàng phục, pháp câu triệu, pháp tiêu tai, pháp tăng ích, pháp thành tựu, pháp cát tường .v.v… rất nhiều loại pháp.
‘’Hữu đức ngộ tư linh diệu cú.’’Có đức hạnh mới gặp được pháp này. Người không có đức hạnh, thì có gặp được cũng không hiểu. Những câu Chú thâm diệu này, thâm sâu không thể nghĩ bàn.
‘’Thời khắc mạc vong thiệu long xương.’’Thời thời phút phút đừng quên pháp này, hay thành tâm chuyên nhất, thì rạng rỡ hưng thạnh Phật Pháp. Ðó là lược nói đại khái về Chú Lăng Nghiêm. Nếu nói tỉ mỉ thì nói không hết được. Bạn muốn minh bạch, thì phải tự mình nghiên cứu kỹ càng. Ðây là diệu pháp trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, đừng để lỡ mất cơ hội.
PHƯƠNG TIỆN TRÌ CHÚ
Trì tức là thọ trì, thọ nơi tâm, trì nơi thân. ‘’Trì‘’ cũng giống như dùng tay cầm vật gì. Trì niệm thần Chú thì đừng quên nó, đừng thiếu nó, phải niệm từ từ, thời thời phút phút tụng trì Chú này.
Trì Chú nên có một đàn tràng, gọi là Chú đàn, cũng giống như truyền giới, cần có giới đàn. Chú đàn phải thanh tịnh, không cho người vào hỗn tạp, chỉ có người trì Chú, tu pháp ở trong đó. Nghi kiến lập đàn là phương tiện trước khi trì Chú, kiến lập đàn vốn có quy củ nhất định, trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến, đây là vì người tụng Kinh hành đạo, cầu hiện chứng mà thiết lập. Hiện chứng là đời này đắc được lợi ích của Chú. Nếu “truy tố” phát tâm tán trì. “Truy” là người xuất gia ; “tố” là người tại gia, tán trì tức là không có đàn tràng, như vậy phải chuyên nhất tâm ý kiền thành cung kính. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói : ‘’Nếu có chúng sinh, tâm khởi tán loạn, thì chẳng phải là Tam Ma Ðịa (định lực). Tâm nhớ miệng trì là Kim Cang Vương, thường tùy tùng theo các người thiện nam, hà huống người quyết định phát đại tâm bồ đề.’’ ‘’Tán tâm trì Chú không ở trong định, thì có tám vạn bốn ngàn Kim Cang Vương hộ pháp thường theo bạn, hà huống quyết định phát đại tâm bồ đề !‘’ Trong Kinh lại nói : ‘’Nếu không làm đàn, không nhập đạo tràng, cũng không hành đạo, tụng trì Chú này, vẫn đồng công đức nhập đạo tràng không khác. Cho đến đọc tụng biên chép Chú này, có ở trong người, thì ở đâu cũng yên nhà cửa vườn tược, tích nghiệp như thế không lâu sẽ ngộ vô sinh nhẫn.’’
Chỉ nói đơn giản chỗ chính yếu. Trì Chú phải “ba mật” tương ưng mới đắc được cảm ứng. Ba mật tức là : Miệng tụng thần Chú, tâm tưởng chữ Phạn, tay kết ấn tướng, cũng gọi là ba đàn. Tại sao gọi là thần Chú ? Vì diệu không thể tả. Tâm tưởng chữ Phạn, là quán tưởng mặt sau tâm Chú của mỗi chữ Phạn. Ba mật tương ưng tức là phương tiện trước khi trì Chú.
Thứ nhất là ‘’Chú ngữ đàn.’’ Trì Chú thì tự nhiên kết thành đàn, đây là nói mỗi ngày, hoặc mỗi lần trước tiên niệm Chú Lăng Nghiêm một biến, sau đó trì tâm Chú một trăm lẻ tám biến. Tâm
Chú tức là:
‘’Ðát điệt tha. Án a na lệ tì xá đề, bệ ra bạt xa ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàng ni, phấn hổ hồng đô lô ung, phấn ta bà ha.’’
Tâm Chú này diệu không thể tả. Nếu trên thế gian không còn ai niệm Chú Lăng Nghiêm, thì tất cả yêu ma quỷ quái đều xuất hiện ra đời. Tâm Chú này có hai câu : ‘’A na lệ, tì xá đề.’’ Một câu nghĩa là “dọc cùng tam tế”, một câu nghĩa là “ngang khắp mười phương”. Một khi niệm hai câu Chú này, thì thiên ma ngoại đạo không có chỗ đào thoát. Chúng sẽ lão lão thực thực nghe vẫy kêu. Chỉ sức lực của hai câu Chú này, thật không thể nghĩ bàn. Nếu sáng sớm bạn tụng niệm Chú Lăng Nghiêm một lần, sau đó tụng tâm Chú 108 lần, thì sẽ được phước báu vô lượng vô biên. Cho nên nói, nếu bạn trì tụng Chú Lăng Nghiêm, thì đời sau sẽ đắc được giàu sang phú quý bảy đời. Ðây là nói bạn muốn cầu phước báu trời người, nếu không muốn cầu, thì đương nhiên không cần. Nếu bạn muốn cầu quả báo xuất thế, thì sẽ đạt được mục đích. Ðây là ‘’Chú ngữ đàn.’’
Thứ hai là: ‘’Tâm tưởng đàn.’’ Nghĩa là khi tụng tâm Chú, thì quán tưởng từng chữ Phạn. Nói đến chữ Phạn, có lúc sự tình không nhất định minh bạch, nếu minh bạch thì nhuệ khí cảm thấy đã đủ rồi. Nếu không minh bạch, thì cảm thấy có chút ý nghĩa trong đó. Không minh bạch thì ví như ăn thức ăn, chưa ăn thì cảm thấy ngon, ăn rồi thì nếm qua : chua, ngọt, đắng, cay, tâm tham ăn đã dừng lại, cảm thấy chẳng còn ngon nữa. Tu hành cũng như thế.
Nếu bạn không biết ý nghĩa của Chú, ý nghĩa chữ Phạn, thì cảm thấy diệu không thể tả. Tâm niệm luôn luôn nghĩ muốn biết, nếu bạn biết rồi thì không chú ý. Quán tưởng chữ Phạn cũng lại như thế, vì chữ Phạn chúng ta chưa học qua, nên không biết ý nghĩa của nó, không giống như chữ Tàu. Ðây là chữ‘’đại‘’ kia là hai chữ ‘’Bồ Tát.‘’ Quán tưởng chữ Phạn sẽ đắc được ngũ nhãn lục thông, phải quán tưởng từng chữ rõ ràng, mở mắt nhắm mắt đều thấy rõ ràng, lâu dần thì chỗ diệu dụng sẽ phát sinh, có thể khiến cho bạn khai mở ngũ nhãn lục thông, thông nhân đạt quả, là vì chúng ta không minh bạch chữ Phạn, thì có một sức lực thần diệu.
Quán tưởng chữ Phạn cũng là phương pháp khóa tâm lại, chế tâm tại một chỗ, đừng cho khởi vọng tưởng, ấn nhập từng chữ Phạn vào trong tâm, bất cứ mở hoặc nhắm mắt đều rõ ràng. Như thế lâu dần sẽ đắc được tam muội.
Thứ ba là: ‘’Thủ ấn đàn.’’ Thủ ấn cũng gọi là thủ quyết. Một số cho rằng Kháp quyết niệm Chú tức là Sáp quyết. Ðã minh bạch Chú ngữ đàn và quán tưởng đàn rồi, thì Thủ ấn đàn cũng phải minh bạch. Trong quyển Nhứt Tự Phật Ðảnh Luân Vương Niệm Tụng Nghi Quy cũng nói rõ : ‘’Bạch tản cái Phật đỉnh ấn‘’, dùng hai ngón cái, mỗi ngón bắt lấy đầu ngón thứ tư, chạm nhau, hai đầu ngón cong như hình cái lọng, hai ngón giữa cong một chút chạm nhau, hai ngón út dựng thẳng chạm nhau tức thành đại bạch tản cái Phật đỉnh luân vương. (Xem hình ở dưới).
Kháp quyết niệm Chú, tức là bạn phải tập trung tinh thần, bạn làm động tác này, thì không nên khởi vọng tưởng gì khác. Chẳng phải ý nghĩa gì khác, chẳng phải nói một khi Kháp quyết thì linh. Nếu bạn không có vọng tưởng gì khác, không Kháp quyết cũng là ba mật tương ưng. Nên biết chân lý, tại sao phải có ba mật tương ưng ? Vì Chú ngữ đàn, quán tưởng đàn, thủ ấn đàn, đều muốn bạn đừng khởi bất cứ vọng tưởng gì. Cho nên chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán loạn.
Lại có Thủ ấn Kim Cang quyền, Kim Cang chưởng, Kim Cang phược. Không giống ‘’Bạch tản cái Phật đỉnh ấn’’ rất phức tạp. Hai bàn tay nắm lại, gọi là Kim Cang chưởng, nhưng đừng trợn mắt, bằng không thì thành Kim Cang trợn mắt. Mười ngón tay bắt chéo với nhau ngửa lên, gọi là thủ ấn Kim Cang chưởng, úp xuống gọi là thủ ấn Kim Cang phược. (Xem hình ở dưới) Hết thảy pháp Tam muội đều do Kim Cang quyền, Kim Cang chưởng, Kim Cang phược sinh ra. Khi bạn niệm Chú thì ba đàn tương ưng. Ba thủ ấn này muốn kết ấn nào cũng được, đều thành ‘’Lăng Nghiêm vương đại bạch tản cái Phật đỉnh tâm Chú ấn.’’ Sau đó quán tưởng tụng niệm Chú này, thì ba mật sẽ tương ưng. Ðược như thế thì sẽ đắc được thân, miệng, ý, tam luân không thể nghĩ bàn của mười phương chư Phật. Bất cứ sở cầu thế gian, xuất thế gian, không có gì mà chẳng được như ý, nhưng tốt nhất vẫn là vô sở cầu. Vì có sở cầu thì có tâm tham, có tâm tham thì chẳng đắc được cảm ứng hiện thời, không thể được vô lượng công đức. Nếu vô sở cầu thì công đức mới lớn.
Nếu bạn không thể bắt ấn, thì trong bộ mật có ba bài Chú, tùy ý niệm cũng thành đàn. Thứ nhất là Pháp Giới Chân Ngôn : “Án phạ nhật la đà đổ một.’’ Niệm rồi thì pháp giới đều thanh tịnh. Thứ hai là Thanh Tịnh Chân Ngôn : ‘’Án lam sa ha.’’ Thứ ba là khi Phóng Diệm Khẩu thì niệm Ba Ðàn Chân Ngôn : ‘’Án hạ hồng.’’ Ba đàn tức là Phật, Pháp, Tăng.
Chữ “Án” là trên đỉnh Tỳ Lô làm Phật đàn.
Chữ “Hạ” là trong miệng Di Ðà làm Pháp đàn.
Chữ “Hồng” là trong tâm A Súc làm Tăng đàn.
Ba câu Chú này mỗi câu niệm bảy biến, thì ba mật cũng tương ưng. Trước khi niệm Chú, niệm ba bài Chú này cũng rất tốt.
Nam Mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát
Nam Mô là tiếng Phạn, dịch là “quy mạng”, “cung kính”. Tức là đem thân tâm tính mạng của chúng ta đều quy y cho Phật. Cung kính Phật năm thể sát đất. Chỉ có Phật là chúng ta tin. Lăng Nghiêm tức là tất cả sự việc, tức không phải là một thứ việc, mà là bất cứ sự việc gì cũng đều bao quát trong đó, cứu kính đạt đến mức không thể phá hoại được. Câu này là quy mạng tất cả chư Phật trong hội Lăng Nghiêm, tất cả các Bồ Tát. Tụng Chú Lăng Nghiêm thì trước hết phải quy mạng Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát, đọc ba lần.
Diệu trạm tổng trì Bất Động Tôn
Thủ Lăng Nghiêm vương thế hi hữu.
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng.
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Nguyện kim đắc quả thành Bảo vương
Hoàn độ như thị hằng sa chúng,
Tương thử thâm tâm phụng trần sát,
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh,
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập,
Như nhứt chúng sinh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê-hoàn.
Đại hùng đại lực đại từ bi,
Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc,
Linh ngã tảo đăng Vô Thượng Giác,
Ư thập phương giới tọa đạo tràng.
Thuấn nhã đa tánh khả tiên vong,
Thước ca la tâm vô động chuyển.
Kinh văn:
Diệu trạm tổng trì Ðấng Bất Ðộng, Chú Thủ Lăng Nghiêm hiếm có trong đời.
Giảng giải:
“Diệu trạm”, diệu tức là không thể nghĩ bàn, không thể tưởng tượng được. Nếu tưởng tượng được, biết được, thì không nói đến diệu. Diệu là vượt ra ngoài ý dự đoán. Tư tưởng không đạt đến được, cho nên gọi là ‘’Không thể nghĩ bàn.’’ Trạm là trạm thâm, tức là sâu dày thậm thâm. Không những là diệu, mà còn diệu sâu dày thậm thâm, không thể nghĩ bàn.
“Tổng trì” là “tổng tất cả Pháp, trì vô lượng nghĩa”. Tổng tất cả Pháp tức là bao quát hết thảy các Pháp. Trì vô lượng nghĩa, tức là thọ trì nghĩa vô lượng, đều bao quát ở trong đó. Cho nên ‘’diệu trạm‘’ là hiển mật viên dung. Tổng trì là tùy duyên phổ ứng, tất cả tận hư không biến pháp giới, cảnh giới có sự mong cầu, không thể không cảm ứng. Bổn thể thường trụ tức bất động, bổn thể là tịch nhiên bất động, cảm mà toại thông. Diệu trạm, Tổng trì và Bất động cả ba đều là diệu trạm, ba mà một. Cả ba đều là tổng trì, một mà ba. Cả ba đều là bất động, chẳng phải ba, chẳng phải một, cũng ba cũng một. Phân tích kỹ thì ý nghĩa trong mỗi một cái đều có ba ý nghĩa.
“Ðấng Bất Ðộng” tức là danh hiệu chỉ cho Phật.
“Hiếm có trong đời” là thế, xuất thế đều tốt hơn hết.
“Chú Thủ Lăng Nghiêm hiếm có trong đời.’’ Câu này là khen ngợi Lăng Nghiêm đại định. Tu hành Lăng Nghiêm vương đại định này, sẽ sinh ra tất cả các định, tất cả các định đều từ định này mà sinh ra. Hiếm có trong đời là nói trên thế gian không dễ gì có, khó gặp khó thấy nhất. Câu kệ này là do Ngài A Nan bị Chú Phạm Thiên mê hoặc, Phật nói Chú Lăng Nghiêm rồi phái Bồ Tát Văn Thù dùng ‘’Chú‘’ đi cứu Ngài A Nan đem về. Ngài A Nan cảm tạ thâm ân của Phật, cho nên nói bài kệ hình dung sự cảm thọ của Ngài.
Kinh văn:
Tiêu diệt tưởng điên đảo của con, trong trăm ngàn ức kiếp, không phải trải qua số kiếp A Tăng Kỳ, mà chứng được pháp thân.
Giảng giải:
Con người từ vô lượng kiếp đến nay, có những vọng tri vọng kiến, tà tri tà kiến, điên đảo mộng tưởng. Tưởng điên đảo tức là chẳng phải thường cho là thường, chẳng phải đoạn cho là đoạn, chẳng có cho là có, chẳng không cho là không ; chạy theo cảnh giới không thật, không thể chuyển được cảnh giới không thật, tức cũng là người bị cảnh chuyển, mà không thể chuyển được cảnh, tức cũng thường bị gió nghiệp dắt đi. Sự sai lầm chỉ là chút chút không nhiều, nhưng chỉ một chút chút này, mà khác biệt với chân chánh thường trụ chân tâm, tính tịnh minh thể, sai lầm hàng ngàn dặm. Ðiên đảo tức là không nên tưởng mà tưởng, không nên tham mà tham, không nên sân mà sân, không nên mê hồ mà mê hồ. Nói rõ ra là tưởng điên đảo trong tự tánh. Không thể đại công vô tư, tức là điên đảo. Thứ tưởng điên đảo này, là nguyên nhân khiến cho chúng ta thọ sinh tử, trong sáu nẻo luân hồi. Tu thì phải tiêu trừ tưởng điên đảo. Như Ngài A Nan là người thông minh như thế, mà vẫn có tưởng điên đảo giống nhau. Sức trí nhớ của Ngài rất phi thường. Phật nói hết thảy Kinh điển, một khi lọt qua tai thì vĩnh kiếp không quên. Nhưng khi Ngài thấy nữ Ma Ðăng Già, thì Ngài bị giao động, liền theo cô ta vào trong nhà ngoại đạo. Ðây là tưởng điên đảo của Ngài. Người nam thì tham, người nữ thì ái, tức là tưởng điên đảo. Ðây là từ vô lượng kiếp đến nay đều có. Cho nên nói Thủ Lăng Nghiêm Vương đại định, đại pháp này rất hiếm có trong thế gian, sẽ tiêu trừ tưởng điên đảo đời đời kiếp kiếp, từ vô lượng kiếp đến nay.
‘’Không phải trải qua số kiếp A tăng kỳ mà chứng được pháp thân.’’ Ðức Phật tu hành trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp mới thành Phật. Cho nên :
Tam kỳ tu phước huệ,
Bách kiếp chủng tướng hảo.
Nghĩa là :
“Ba A Tăng kỳ tu phước huệ
Trăm kiếp trồng tướng tốt”.
Tu phước một trăm đại kiếp, mới đắc được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. A tăng kỳ kiếp tức vô lượng số, ba A tăng kỳ kiếp tức là ba vô lượng số. Số mục này có bao nhiêu ? Dùng máy điện toán cũng đếm không được. Bây giờ Ngài A Nan nói : ‘’Không phải trải qua số kiếp A tăng kỳ, mà chứng được pháp thân.’’ Tôi đắc được đại định kiên cố của Chú Lăng Nghiêm, không cần trải qua ba A tăng kỳ kiếp, mà có thể đắc được pháp thân, cũng sẽ thành Phật, chứng được pháp thân tự tại, thần thông biến hóa. Thành tâm tụng Chú Lăng Nghiêm, thì không cần trải qua thời gian lâu dài cũng sẽ đắc được pháp thân.
Kinh văn:
Nay con nguyện khi đắc được quả Bảo Vương, trở lại độ chúng sinh nhiều như số cát sông Hằng, đem thân tâm này phụng sự chúng sinh, khắp các cõi nhiều như số hạt bụi, đó mới là báo ơn Phật. Lại thỉnh Ðức Thế Tôn chứng minh : Vào đời ác năm trược, con thề xin vào trước. Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật, con sẽ không thủ chứng quả vị Nê Hoàn.
Giảng giải: Ngài A Nan ở trước nói : ‘’Tiêu diệt tưởng điên đảo của con trong trăm ngàn ức kiếp, không phải trải qua số kiếp A tăng kỳ mà chứng được pháp thân.’’ Bây giờ lại nói : ‘’Nay con nguyện khi đắc được quả Bảo vương.’’ Nay tôi phát nguyện, nguyện trước khi thành Phật, đắc quả tức là đắc Phật quả, Bảo Vương tức là Phật.
“Trở lại độ chúng sinh nhiều như số cát sông Hằng”. Tôi thành Phật không phải vì chính mình, còn phải trở lại thế giới Ta Bà, giáo hóa chúng sinh nhiều như số cát sông Hằng. Tất cả chúng sinh tôi đều phải giáo hóa.
‘’Ðem thân tâm này phụng sự chúng sinh, khắp các cõi nhiều như số hạt bụi.’’ Tâm tức trí huệ Bát nhã. ‘’Phụng sự chúng sinh khắp các cõi, nhiều như số hạt bụi.’’ Biến hóa đến mười phương thế giới để giáo hóa chúng sinh. Tôi dùng nguyện lực phổ biến khắp mười phương cõi nước, nhiều như số hạt bụi thế giới, để giáo hóa chúng sinh.
‘’Ðó mới là báo ân Phật.’’ Dùng tâm chí thành khẩn thiết, mới báo đáp được ân đức của Phật đối với tôi.
‘’Lại thỉnh Ðức Thế Tôn chứng minh.’’ Lại kiền thành thỉnh cầu Thế Tôn chứng minh nguyện lực này của A Nan.
‘’Vào đời ác năm trược con thề xin vào trước.’’ Chúng sinh trong đời ác năm trược rất khó độ, tôi phải độ trước. Năm trược là : Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược, chúng sinh cang cường khó điều, khó phục. Tôi phải vào trước thế giới Ta Bà tội ác để độ chúng sinh.
‘’Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật, con sẽ không thủ chứng quả vị Nê Hoàn.’’ Tôi thủy chung không thể thủ chứng quả A La Hán. Sơ quả Tu Ðà Hoàn, nhị quả Tư Ðà Hàm, tam quả A Na Hàm, tứ quả A La Hán, cũng không thể thủ quả vị Niết Bàn của Phật. Nếu còn chúng sinh chưa thành Phật, thì tôi ở tại đây đợi để giáo hóa họ, khiến cho họ đều thành Phật, rồi sau tôi mới thủ chứng quả vị Nê Hoàn. Quả vị Nê Hoàn của nhị thừa, tức quả vị A La Hán, Phật thì quả vị Niết Bàn, tức cũng là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðây là sự phát nguyện của Ngài A Nan, đến giúp Phật hoằng dương, trợ giúp Phật Thích Ca Mâu Ni để giáo hóa Chúng sinh.
Kinh văn:
Ðại hùng đại lực đại từ bi. Nguyện cầu trừ sạch hết hoặc vi tế, khiến cho con sớm thành Vô thượng giác. Kiến lập đại đạo tràng trong khắp mười phương.
Giảng giải: ‘’Ðại hùng‘’, tức là đại anh hùng, cũng bao quát đại trí, đại huệ, đại hạnh, đại nguyện trong đó.
‘’Ðại lực’’, càng không thể so sánh thứ sức lực to lớn này. Tức có đại hùng lực, lại có đại từ bi. Dùng đại hùng đại lực để chủ trì tâm đại từ bi. Từ là ban cho chúng sinh hết thảy sự vui sướng, bi là cứu hết thảy khổ của chúng sinh. Thương chúng sinh không thể cùng tận, tất cả nguyện của chúng sinh đều đầy đủ. Chúng sinh có nguyện cầu gì với Phật, Phật đều làm cho họ được như ý.
‘’Nguyện cầu trừ sạch hết hoặc vi tế’’. Ở trên đã thỉnh Phật ‘’Tiêu diệt tưởng điên đảo của con, trong trăm ngàn ức kiếp‘’, là chỉ tiêu trừ kiến hoặc, tư hoặc, bây giờ lại tiêu trừ trần sa hoặc. Trần sa hoặc là một thứ hoặc vi tế, chỗ mà bạn cảm giác không đến được, chìm ở dưới đáy tâm của bạn, vọng niệm vi tế, vô minh. Nguyện cầu đại hùng đại lực của Phật Thế Tôn trừ khử mê hoặc vi tế của tôi.
‘’Khiến cho con sớm thành vô thượng giác.’’ Khiến cho con sớm thành Phật đạo.
‘’Kiến lập đại đạo tràng trong khắp mười phương.’’ Kiến lập đạo tràng lớn trong mười phương thế giới, để hoằng dương Phật Pháp. Có người nói Ngài A Nan phát nguyện này rất mâu thuẫn. Ở trước nói : ‘’Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật, con sẽ không thủ chứng quả vị Nê Hoàn.’’ Bây giờ lại hy vọng sớm thành Phật đạo, ngồi đạo tràng trong mười phương thế giới. Nguyện này không phải là mâu thuẫn chăng ? Không phải. Ở trước Ngài nói : ‘’Con sẽ không thủ chứng quả vị Nê Hoàn‘’. Là độ hết chúng sinh mới thủ chứng quả Nê Hoàn, nếu chưa độ hết thì không thủ chứng Chánh giác ! Bây giờ thỉnh Phật gia bị cho Ngài. Khiến cho thô hoặc, tế hoặc của Ngài dứt sạch, chúng sinh cũng độ hết, khiến cho nguyện lực của Ngài mau chóng được thành tựu.
‘’Khiến‘’ là sử khiến cho Ngài sớm chứng được Vô thượng giác, sớm thành Phật đạo, tức cũng thỉnh Phật giúp Ngài, Ngài phải độ hết chúng sinh. Nói : ‘’Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật‘’, là chỉ chúng sinh có duyên với Ngài, Ngài đều phải độ hết. Nếu chúng sinh không có pháp duyên với Ngài, thì đợi người khác độ, không phải tôi là luật sư biện hộ cho Ngài A Nan, chắc chắn là như thế. Nếu hết thảy tất cả chúng sinh trên thế giới đợi Ngài A Nan đi độ, thì các Bồ Tát khác làm gì ? Ðợi hương khói chăng ? Không có lý này. Phật, Bồ Tát cũng phân công hợp tác, mỗi vị tận hết khả năng, tùy duyên độ sanh. Giống như chúng ta ở đây có nhiều người khách đến, mọi người phân công hợp tác, bên đây lo phòng xá, bên kia lo quét dọn, đằng kia thì cắt cỏ.
Ðây đều là ai lo việc nấy, là vì thành tựu đạo tràng, là ý nghĩa này. Cho nên bạn đừng cho rằng Ngài A Nan phát nguyện này mâu thuẫn, bạn phê bình như thế cũng làm cho Ngài A Nan một thân tội quá. Ngài A Nan muốn độ bạn, nhưng mà bạn lại phê bình Ngài, nói Ngài mâu thuẫn. Ngài A Nan mâu thuẫn là việc của Ngài, chính bạn không mâu thuẫn thì được rồi. Các vị nghĩ xem, “đừng dùng tâm phàm phu để dò Thánh trí, dùng tâm tiểu nhân để đo bụng quân tử”, chỉ loạn thêm, phê bình là không thể được.
Kinh văn:
Tánh hư không có thể tiêu vong, tâm hư không chẳng bao giờ lay động.
Giảng giải: ‘’Thuấn nhã đa‘’ là gì ? ‘’Thước ca la ‘’ lại là gì?
’Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong.’’ Là nói tánh hư không cũng có thể không còn. Bạn nói hư không có thể không còn chăng? Không thể. Vì nó là không, còn tiêu cái gì ? Nó vốn là không có gì, có gì để tiêu ? Nhưng Ngài A Nan lại nói nó có thể tiêu vong. Ðây chỉ là từ giả thiết. Hư không không thể tiêu vong cũng có thể tiêu vong.
Nam mô thường trụ thập phương Phật.
Nam mô thường trụ thập phương Pháp.
Nam mô thường trụ thập phương Tăng.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Phật Ðảnh Thủ Lăng Nghiêm.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát.
Giảng giải:
‘’Nam mô thường trụ thập phương Phật, Nam mô thường trụ thập phương Pháp, Nam mô thường trụ thập phương Tăng.’’ Ðây là quy y Tam Bảo. Chúng ta quy y mười phương chư Phật. Lại quy y pháp của Phật nói. Lại quy y mười phương ba đời hiền Thánh Tăng. Hiền Thánh Tăng là đại Bồ Tát, đại A La Hán đều bao quát trong đó.
‘’Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật‘’. Quy y mười phương Tam Bảo rồi, lại quy y Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni theo tiếng Phạn dịch là “năng nhân tịch mặc”, “năng nhân” là phổ độ chúng sinh, “tịch mặc” là tịch nhiên bất động. Năng nhân cũng là cảm mà toại thông. Hay dùng nhân từ thí cho chúng sinh. Ðây là động tĩnh không hai. Năng nhân là động, tịch mặc là tĩnh. Ðộng tĩnh nhất như. Trong động tức là tĩnh, trong tĩnh tức là động. Ðộng không ngại tĩnh, tĩnh không ngại động. Bạn tu đạo, tu đến động tĩnh nhất như, thì tìm được bổn thể, càng không có vọng niệm gì.
‘’Nam mô Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm‘’. Lại quy y Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm đại định này.
‘’Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.‘’ Lại quy y Quán Thế Âm Bồ Tát.
‘’Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát.’’ Lại quy y tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát. Niệm Chú Lăng Nghiêm thì có tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát thường bảo hộ bạn, theo hầu hai bên. Cho nên trì tụng Chú Lăng Nghiêm không phải là sự trồng căn lành một đời, một kiếp, mà là đã trồng căn lành trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp về trước, mới có thể học và trì tụng Chú
Lăng Nghiêm. Không phải trồng căn lành nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà đã trồng căn lành với vô lượng ngàn vạn đức Phật, mới gặp được Chú Lăng Nghiêm.
Phật Ðảnh Quang Minh Ma Ha Tát Ðát Ða Bát Ðát La Vô Thượng Thần Chú
Tên Chú Lăng Nghiêm gọi là : ‘’Ma Ha Tát Ðát Ða Bát Ðát La Ðà La Ni.’’ Lại gọi là : ‘’Ma Ha Tát Ðát Ða Bát Ðát La Vô Thượng Thần Chú.’’
Ma Halà tiếng Phạn, dịch là “Ðại” (lớn). Thể, tướng và dụng đều lớn. Thể khắp mười phương, tận hư không biến pháp giới là đại dụng. Nói đến tướng, nó không có tướng. Chú có tướng gì ? Nhưng vô tướng vô bất tướng. Cũng có thể nói nó chẳng có dụng gì, nhưng vô sở bất dụng (không có dụng gì mà không dụng). Tận hư không khắp pháp giới không chỗ nào mà không dụng. Dụng này là đại dụng, tướng là đại tướng, thể là đại thể, đó là nghĩa chữ Ma Ha.
‘’Tát Ðát Ða‘’, cũng là tiếng Phạn. Dịch là “bạch sắc” (màu trắng), cũng là thanh tịnh, nghĩa là không nhiễm ô. Cho nên nói : ‘’Tướng tuyệt không nhiễm là trắng.’’ Chú Lăng Nghiêm là pháp trắng tịnh, là pháp thanh tịnh không nhiễm. ‘’Bát Ðát La‘’, cũng là tiếng Phạn. Dịch là “cái lọng”. Ðây là ví dụ. Ví dụ một cái lọng dùng để che vạn vật, che hộ hết thảy người có đức, ai có đức hạnh thì người đó gặp được pháp này. Người không có đức hạnh thì không gặp được pháp này. Cho nên nói : ‘’Tam quang phổ chiếu thấu tam tài.’’ Phần đông cho rằng : ‘’Tam quang‘’ là : Nhật, nguyệt, tinh (mặt trời, mặt trăng, và sao). Nhật, nguyệt, tinh là ba thứ ánh sáng bên ngoài. Tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì trên thân có quang minh của thân, trong miệng có quang minh của miệng, trong tâm có quang minh của tâm. Thân miệng ý ba nghiệp đều phóng quang. Bạn nghe nói qua cái này chưa ? Ðây là nghe cái chưa nghe, thấy cái chưa thấy. Quang trên thân phóng ra là hoàng quang (quang minh màu vàng). Tu thành công rồi liền thành kim quang, kim quang vạn đạo. Bắt đầu tu Chú Lăng Nghiêm là hoàng quang, lâu dần thì biến thành kim quang. Cho nên nói : ‘’Tử ma kim sắc vạn đạo quang minh sung mãn pháp giới.’’ Nghĩa là vạn luồng hào quang vàng tía đầy khắp pháp giới. Ðều do tu Chú Lăng Nghiêm mà thành. Quang minh trong miệng phóng ra là hồng quang (quang minh màu đỏ). Quang minh trong tâm phóng ra là bạch quang (quang minh màu trắng). Nhưng có khi trong miệng cũng phóng ra hoàng quang, có khi lại phóng thanh quang (quang minh màu xanh), có khi lại phóng ra hắc quang (quang minh màu đen). Có lúc quang minh xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, đều phóng ra. Bất quá phải tu thành rồi mới có được.
‘’Bát Ðát La‘’tức là uẩn ấm vạn đức (bao che vạn đức). Cây lọng trắng lớn bảo hộ che chở hết thảy chúng sinh có đức, chúng sinh thọ trì Chú Lăng Nghiêm. Cho nên nói : ‘’Tam quang phổ chiếu thấu tam tài.’’ Tam tài tức là thiên, địa và nhân (trời, đất và con người).
‘’Diêm phù thế giới nễ bất lai.’’ Tại thế giới Diêm Phù này, bạn tìm khắp nơi cũng không được, nhất định phải thọ trì Chú Lăng Nghiêm mới đắc được thứ quang minh này.
‘’Ðại đức đại thiện năng ư đắc.’’ Phải có đại đức hạnh, đại thiện, mới đắc được pháp môn này.
‘’Vô đức vô thiện bất minh bạch.’’ Nếu người không có đức hạnh, không có công đức lành, thì dù có gặp được cũng sẽ lầm lẫn, hai bên trái nhau. Nhìn thấy vàng cho là đồng, thấy vòng kim cương cho là pha lê. Thấy được Chú Lăng Nghiêm, nhưng mà cho rằng rất là tầm thường, không có gì, không biết là quý báu ! Không biết là diệu, không biết công đức của Chú Lăng Nghiêm, là không thể nghĩ bàn. Tâm quang tức là ý niệm, tức là thức thứ sáu. Nếu bạn không tu hành, thì dùng gì cũng chẳng có. Nếu tu hành thì sẽ phóng quang. Vừa mới nói quang minh, không những chỉ thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, phóng ra quang minh thanh tịnh, mà còn có quang minh mầu đỏ quấn chung quanh. Nếu bạn tụng Chú Lăng Nghiêm, thì tự nhiên có quang minh mầu đỏ quấn chung quanh. Cho nên nói : ‘’Thiên đóa hồng liên hộ trụ thân.’’ Hoa sen đỏ phóng ra quang minh màu đỏ.
‘’Tọa câu kỵ tu mặc kỳ lân.’’ Thời đại khoa học mà nói cái này, thì người học khoa học sẽ cười rụng răng, bất quá như vậy cũng tốt, bằng không chẳng thể cười rụng răng, ngày ngày còn tại đó, khoa học, khoa học !
‘’Vạn yêu nhất kiến vãng viễn đóa.’’ Khi yêu ma, quỷ quái thấy oai đức tướng pháp thân, thân ngàn đóa hoa sen đỏ, thì đều xa lánh ẩn trốn.
‘’Tế Công pháp sư hữu diệu âm.’’ Tụng Chú Lăng Nghiêm lại có quang minh màu tím, quang minh màu trắng quay chuyển. Tại sao khi tụng Chú Lăng Nghiêm, thì yêu ma quỷ quái không dám xuất hiện ? Vì sức mạnh quá lớn, khắp tận hư không biến pháp giới, không có chỗ nào mà không có tường quang khí đầy khắp. Cho nên có người tụng Chú Lăng Nghiêm, thì bổ thêm chánh khí cho trời đất. Một người tụng Chú Lăng Nghiêm là sức lực của một người, trăm người tụng Chú Lăng Nghiêm là sức lực của trăm người, như vậy thì yêu ma quỷ quái trên thế gian đều lão lão thực thực.
Chú Lăng Nghiêm là vua trong các Chú, cũng dài nhất trong các Chú. Chú này quan hệ đến sự hưng suy của Phật Giáo. Nếu trên thế giới không có người nào tụng Chú Lăng Nghiêm, thì thế giới sớm sẽ hủy diệt. Vì trên đời không còn chánh pháp. Chỉ có Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm là quan trọng nhất trong chánh pháp. Kinh Lăng Nghiêm mà nói, là vì Chú Lăng Nghiêm, là giải thích Chú Lăng Nghiêm, tán thán Chú Lăng Nghiêm. Trong Kinh Lăng Nghiêm có đoạn Kinh nói về kết pháp đàn rất tỉ mỉ. Muốn biết tỉ mỉ thì xem Kinh Lăng Nghiêm.
Chú Lăng Nghiêm gọi là Phật đảnh quang minh, là trên đảnh hóa thân của Phật nói. Cho nên là vi diệu không thể nghĩ bàn. Mỗi câu có đường lối dùng của mỗi câu, mỗi chữ đều có ảo diệu của mỗi chữ, đều không thể nghĩ bàn.
‘’Phật đảnh quang minh‘’, tức là biểu thị năng lực của Chú, phá trừ hết thảy hắc ám, thành tựu hết thảy công đức. Nếu bạn thọ trì Chú Lăng Nghiêm, thì tương lai nhất định sẽ thành Phật, nhất định sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu thường tụng niệm Chú Lăng Nghiêm, thì có thể tiêu trừ nghiệp chướng đời quá khứ. Ðây là diệu dụng của Chú Lăng Nghiêm.
Sao gọi là ‘’Vô‘’ ? Vì cao minh vô cực, quang minh đến cực điểm rồi, thì không có gì siêu hơn quang minh này.
‘’Thượng‘’, là tôn thượng chẳng gì bằng.
‘’Thần‘’, tức là không thể nghĩ bàn, cũng là oai linh không thể dò được.
‘’Chú‘’, tức là cảm ứng đạo giao, có một thứ sức mạnh. Bạn niệm Chú thì có cảm ứng.
‘’Phật Ðảnh Quang Minh, Ma Ha Tát Ðát Ða, Bát Ðát La, Vô Thượng Thần Chú.’’ Phật đảnh quang minh như cây lọng lớn, che chiếu khắp hết thảy người trì tụng Chú. Trên đây là đại khái ý nghĩa danh xưng.