KINH THỦ LĂNG NGHIÊM LƯỢC GIẢNG
ŚŪRAMGAMA-SŪTRA
Tuyên Hoá Thượng Nhân giảng thuật

QUYỂN 7

A Nan! Ngươi hỏi cách nhiếp tâm, trước ta đã nói về pháp môn vi diệu, tu tập Tam Ma Địa. Người cầu đạo bồ đề trước tiên phải giữ bốn thứ luật nghi kể trên, trong sáng như băng tuyết để làm căn bản, tự nhiên chẳng sanh tất cả nhánh lá; nhờ đó, ba ý nghiệp và bốn khẩu nghiệp ắt chẳng có nhân để sanh khởi.

Giảng:

“A Nan! Ngươi hỏi cách nhiếp tâm, trước ta đã nói về pháp môn vi diệu, tu tập Tam Ma Địa.” Pháp môn vi diệu là pháp môn nhĩ căn viên thông, hồi quang phản chiếu quán tự tại.

“Người cầu đạo bồ đề trước tiên phải giữ bốn thứ luật nghi kể trên, trong sáng như băng tuyết để làm căn bản”. Việc đầu tiên quý vị phải làm là phải giữ tứ chủng thanh tịnh minh hối: không sát, không trộm, không dâm và không dối. Giới không dâm dục không phải chỉ giữ giới tà dâm qua thân thể, mà luôn cả tâm trí. Quý vị phải từ bỏ ý niệm ngay tại thân và tâm thì mới thoát ra cõi trần lao. Nếu quý vị không trừ khử ý niệm dâm dục trong tâm thì không thể ra khỏi bụi trần. Ý niệm này cũng phải lìa trong giới sát, trộm và dối. Tứ thanh tịnh minh hối này rất quan trọng. Quý vị phải làm cho thân tâm thanh tịnh trong sánh như băng tuyết. Quý vị phải sáng như lưu ly, không một chúc dơ bẩn, không một đóm đen. Nếu quý vị có thể thanh tịnh như vậy

“Tự nhiên chẳng sanh tất cả nhánh lá; nhờ đó, ba ý nghiệp và bốn khẩu nghiệp ắt chẳng có nhân để sanh khởi.” Ba ý nghiệp là Tham sân si và bốn khẩu nghiệp là nói dối, nói hai chiều, nói lời ác độc và nói xấu. Khi ba ý nghiệp và bốn khẩu nghiệp đã không còn phạm thì những ác nghiệp không còn nhân để sanh khởi, bởi vì quý vị giữ giới và nuôi dưỡng tứ thanh tịnh minh hối

A Nan, nếu giữ kỹ bốn giới chẳng bỏ sót, tâm còn chẳng duyên theo Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, thì tất cả ma sự làm sao còn sanh khởi được?

Giảng:

“A Nan, nếu giữ kỹ bốn giới chẳng bỏ sót.” Nếu quý vị không đánh mất hoặc quên đi tứ thanh tịnh: sát, trộm, dâm, dối và “tâm còn chẳng duyên theo Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, thì tất cả ma sự làm sao còn sanh khởi được?” Nếu quý vị không đeo đuổi theo Sắc, Thanh, Hương, Vị, và quý vị không bám vào chúng, thì tất cả ác nghiệp sẽ tự nhiên biến mất. Khi ác nghiệp đã biến mất, chúng không còn nhân để phát sanh.

Nếu có tập khí xưa chẳng thể diệt trừ, ngươi dạy người ấy nhất tâm tụng trì Phật Đảnh Quang Minh, Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát La Vô Thượng Thần Chú của ta, ấy là cái tâm chú do Vô Kiến Đảnh Tướng Như Lai, từ nơi đảnh đầu hiện ra Vô Vi Tâm Phật, ngồi trên bửu liên hoa mà thuyết tâm chú.

Giảng: 

“Nếu có tập khí xưa chẳng thể diệt trừ, ngươi dạy người ấy nhất tâm tụng trì.” Điều quan trọng là nhất tâm. Đừng để tâm chi phối như là miệng thì tụng chú, và tâm thì nữa tin nữa nghi ngờ về chức năng của chú. Quý vị đừng có phân tâm rồi tụng chú và nghĩ: Nam mô, Nam mô, Nam mô gì đó? Một bên thì tụng chú, và một bên thì không muốn tụng “Nam mô”. Đây là trường hợp bị vướng mắc vào tình trạng tin và nghi ngờ. Quý vị tuy là một thân, nhưng lại có hai tâm trí. Một tâm thì nghĩ rằng có một lợi ích gì đó khi tụng chú, trong khi một bên thì nghĩ rằng: “Tôi đang làm những chuyện tụng chú mà chính tôi cũng không hiểu nó?” Những chi phối như vậy rất đáng sợ. Quý vị phải nhất tâm tụng trì.

“Ma Ha” có nghiã là đại. “Tát Đát Đa Bát Đát La” là cái lọng trắng. Khi quý vị tụng trì câu “Tát Đát Đa Bát Đát La”, một cái lọng trắng sẽ hiện giữa hư không tại khu quý vị . Kích thước của lọng trắng sẽ tùy theo công đức của quý vị. Nếu công đức vĩ đại và cao cả, khi quý vị trì tụng câu này, sẽ không có tai họa trong khu vực ngàn dặm. Nếu công đức còn yếu nhỏ, cái lọng trắng chỉ đủ che trên đầu và che chở quý vị. Nếu một vị tu hành có đức hạnh to lớn và thanh tịnh cao quý, khi trì tụng câu này, cả nước nhà được lợi ích. Cả nước được thoát tránh các thiên tai. Những tai họa lớn sẽ biến thành tai họa nhỏ, những tai họa nhỏ sẽ biến mất.

Bây giờ chúng ta đang giảng giải bộ kinh Lăng Nghiêm, và có rất nhiêu người đang tu tập Pháp môn bí mật của chư Phật, tôi tin rằng cả nước Mỹ sẽ được hưởng lợi ích từ nó. Người dân Mỹ có thể không biết chuyện này, nhưng quý vị đang cứu sống cho họ. Mọi chuyện xảy ra trong vô hình, và họ cũng không thể nào biết được ai đã cứu sống họ và đã cứu sống họ. Và họ cũng không muốn hiểu biết. Đây là trong ý nghĩa không có người cho và không có người nhận. Cả 3 thứ: vật cho, người cho và người nhận. Khi chúng ta cứu người, chúng ta không cần có người cám ơn. Đây là sự mầu nhiệm trong Phật pháp.

“Vô Thượng Thần Chú của ta, ấy là cái tâm chú do Vô Kiến Đảnh Tướng Như Lai, từ nơi đảnh đầu hiện ra.” Con mắt thường không thể thấy được. Trong kinh ở phần sau ghi rằng:
“Khi ấy, Thế Tôn từ nơi nhục kế phóng ra trăm thứ hào quang, trong hào quang hiện ra bửu liên hoa ngàn cánh có hóa thân Phật ngồi trong liên hoa, trên đảnh phóng ra mười tia ánh sáng, trong mỗi tia đều hiện ra mười hằng sa Hộ Pháp Kim Cang, đội núi, cầm chày, khắp cõi hư không. Đại chúng ngó thấy đều kính mến, cầu Phật gia hộ, một lòng nghe Phóng Quang Như Lai nơi Vô Kiến Đảnh Tướng của Phật tuyên thuyết thần chú.”

Tôi ghi nhớ câu này trong tâm trí. Tôi không bao giờ quên nó. “Vô Vi Tâm Phật, ngồi trên bửu liên hoa mà thuyết tâm chú.” Những ai có thể gặp được chú Lăng Nghiêm này là do đã tạo nhiều phước đức trong kiếp trước. Nếu không thì khi có cơ hội thấy được chú nầy, họ cũng không thể học được. Họ không thể nào nhớ thuộc lòng nó. Đó là tại sao tôi đang thử kiểm tra quý vị qua bộ kinh nầy. Trong đây có hai người đã đạt qua bài kiểm này, còn mọi người khác nên siêng năng học hỏi.

Ngươi và Ma Đăng Già, do tập khí ân ái từ nhiều kiếp, ta vừa tuyên thuyết thần chú, liền khiến Ma Đăng Già thoát hẳn lòng yêu, đắc quả A La Hán. Nàng kia là dâm nữ, chẳng có tâm tu hành, nhờ thần lực thầm giúp, được mau chứng vô học, huống là hàng Thanh Văn các ngươi trong hội, cầu tối Thượng Thừa, nhất định thành Phật, cũng như bụi bay theo chiều gió, đâu có ngăn ngại gì?

Giảng: 

“Ngươi và Ma Đăng Già, do tập khí ân ái từ nhiều kiếp.” Những ái lực đã từ nhiều kiếp. Người đã là vợ chồng với nhau trên 500 lần. Những tập khí ân ái của hai người không phải chỉ trong một lần, một đời hay trong một kiếp, mà trong nhiều kiếp.

“Ta vừa tuyên thuyết thần chú, liền khiến Ma Đăng Già thoát hẳn lòng yêu.” Khi Ma Đăng Già nghe Phật tuyên thuyết thần chú, cô ta thoát hẳn lòng yêu mến, và đắc quả vị A La Hán. Khi cô ta nghe chú Lăng Nghiêm và đi gặp đức Phật giảng Pháp, cô ta thấu hiểu và đạt được tam quả A La Hán. Khi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát uyển chọn 25 viên thông, cô ta đắc được tứ quả A La Hán. Sự thành tựu của cô ta rất là nhanh chóng. Trong khi Anan vẫn đang ở sơ quả, quả vị đầu tiên.

Nàng kia là dâm nữ. Trước kia cô ta không có ý nghĩ tu hành. Tuy nhiên, sức mạnh của chú Lăng Nghiêm đã âm thầm giúp cô, và cô ta đã đạt được tứ quả A La Hán rất là nhanh chóng. Huống là hàng Thanh Văn các ngươi trong hội, cầu tối Thượng Thừa, nhất định thành Phật, cũng như bụi bay theo chiều gió, đâu có ngăn ngại gì? Khi một luồng gió thổi cát bụi, thì cát bụi sẽ bay theo chiều gió. Không có gì ngăn ngại? Không có gì nguy hiểm. Không trở ngại.

Nếu người đời mạt pháp muốn ngồi đạo tràng, trước tiên phải giữ giới cấm trong sạch của Tỳ Kheo, cần phải lựa chọn vị Sa Môn giữ giới trong sạch bậc nhất để làm thầy mình, nếu chẳng gặp vị tăng thật trong sạch, thì giới luật của người ấy ắt chẳng thành tựu.

Giảng:

“Nếu người đời mạt pháp muốn ngồi đạo tràng, trước tiên phải giữ giới cấm trong sạch của Tỳ Kheo.” Việc đầu tiên của người tu hành trong thời mạt pháp phải làm nếu muốn tu hành trong một đạo tràng, tại chùa, bảo tháp hay tại một nơi xa lánh thanh tịnh. Người đó phải giữ giới cấm của một vị Tỳ Kheo và giữ giới thanh tịnh. Một người muốn rời nhà, xuất gia phải giữ giới trước khi vào đạo tràng. Khi họ đã nhận giới, họ trở thành một vị Tỳ Kheo. Họ phải luôn luôn giữ giới và quy tắc. Không được vi phạm một giới nhỏ.

Họ “cần phải lựa chọn vị Sa Môn giữ giới trong sạch bậc nhất để làm thầy mình”. Người tu hành cần phải lựa chọn một Sa Môn được mọi người tôn trọng, một bậc thầy cao quý. Họ nhận vị đó làm thầy.

“Nếu chẳng gặp vị tăng thật trong sạch, thì giới luật của người ấy ắt chẳng thành tựu.” Nếu một vị tu hành không thể kiếm được một vị Sa Môn có thể giữ giới trong sạch, con đường tu hành giữ giới và quy tắc sẽ không được trọn vẹn. Họ sẽ không được thành tựu như ý

Khi giới đã thành tựu, nên mặc y áo sạch sẽ, đốt hương an cư, tụng 108 biến thần chú do tâm Phật sở thuyết, rồi kết giới dựng lập đạo tràng, cầu xin Vô Thượng Như Lai hiện ở các quốc độ mười phương, phóng hào quang đại bi đến chiếu soi đảnh đầu mình.

Giảng: 

“Khi giới đã thành tựu, nên mặc y áo sạch sẽ.” Áo quần mới thì tốt nhất, hay một bộ áo quần sạch không bị rách. Họ nên “đốt hương an cư”. Nên đốt một nhán hương trước tượng Phật và không làm gì hết ngoại trừ “tụng 108 biến thần chú do tâm Phật sở thuyết.” Tâm Phật đề cập đến sự chuyển đổi Phật trên đỉnh cao vô hình. Đây là câu thần chú được nói bởi tâm Phật. Thần chú là tâm chú. Trì tụng phần nầy một 108 lần.

“Rồi kết giới dựng lập đạo tràng.” Kết giới là trong ranh giới khu vật đạo tràng tứ phía, đông tây nam bắc, được bảo đảm, các ma quỷ và mọi trở ngại không được bước vào ranh giới đạo tràng. Lúc đó, đạo tràng sẽ không bị quấy rầy bởi những hành động quỷ quái. Theo cách này, đạo tràng được thành lập.
Khi họ trì tụng 108 lần và kiến lập đào tràng, họ nên “cầu xin Vô Thượng Như Lai hiện ở các quốc độ mười phương, phóng hào quang đại bi đến chiếu soi đảnh đầu mình.”

A Nan! Trong đời mạt pháp, những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Bạch Y, đàn việt, tâm diệt tham dâm, giữ giới trong sạch, phát nguyện Bồ Tát, khi ra vào nơi đạo tràng, đều tắm rửa sạch sẽ, sáu thời hành đạo chẳng ngủ, đến 21 ngày, ta tự hiện thân trước người ấy, xoa đảnh an ủi, khiến được khai ngộ.

Giảng:

“A Nan! Trong đời mạt pháp, những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Bạch Y đàn việt”. Trong thời kỳ mạn pháp, các vị đó có thể là những vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, hay Phật Tử. “Đàn Việt” tiếng Phạn là “Danapti”. Tiếng Hán dịch ra làm hai chữ, một chữ đàn có nghiã là mang đến và chữ kia Việt là siêu việt. Đó là những người bảo vệ tam bảo.

Nếu các vị ấy có thể “tâm diệt tham dâm.” hay thoát khỏi sự ham muốn tình dục. Họ “giữ giới trong sạch, phát nguyện Bồ Tát”

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

Đây là tứ hoàn thệ nguyện lớn của một vị bồ tát. Nếu những người này “đều tắm rửa sạch sẽ, sáu thời hành đạo chẳng ngủ, đến 21 ngày.” Họ phát Bồ Tát nguyện trong đạo tràng, và họ trì tụng thần chú Lăng Nghiêm. Nếu họ ra khỏi đạo tràng, họ tắm rửa sạch sẽ trước khi vào lại đạo tràng. Trong sáu thời hành đạo trong suốt 3 tuần lễ, 21 ngày, ngồi tụng 3 tiếng, đi hành 3 tiếng. Tu hành trong 21 ngày không ngủ.

“Ta tự hiện thân trước người ấy, xoa đảnh an ủi, khiến được khai ngộ.” Đức Phật nói rằng: Ta sẽ hiện thân trước người tu hành ấy và xoa tay lên đảnh đầu, ta sẽ khiến cho họ được khai ngộ và đạt được quả vị tu hành.”

 

Lập Đạo Tràng

A Nan bạch Phật: Con nhờ lời từ bi dạy bảo vô thượng của Như Lai, tâm đã khai ngộ, tự biết con đường tu chứng thành đạo vô học. Nhưng người tu hành đời mạt pháp muốn lập đạo tràng, cần kết giới thế nào, cho hợp với quy tắc trong sạch của chư Phật?

Giảng: 

Sau khi Anan nghe đức Phật nói, ông ta nghĩ ta nên hỏi về cách giữ ranh giới và thiết lập đạo tràng. “A Nan bạch Phật: Con nhờ lời từ bi dạy bảo vô thượng của Như Lai, tâm đã khai ngộ, tự biết con đường tu chứng thành đạo vô học.” Anan đã biết được con đường tu học để đạt được tứ quả A La Hán và cao hơn.

“Nhưng người tu hành đời mạt pháp muốn lập đạo tràng, cần kết giới thế nào, cho hợp với quy tắc trong sạch của chư Phật?” Trong tương lai, trong thời mạt pháp, họ phải kiết giới như thế nào? Họ phải làm như thế nào để hợi với quy tắc thanh tịnh của các chư Phật ?

Phật dạy Ông Anan : “Người đời mạt pháp, nguyện lập đạo tràng, trước hết kiếm con trâu trắng sức mạnh ở núi Tuyết Sơn, sống bằng cỏ thơm non mướt, loài trâu trắng này chỉ uống nước trong của núi Tuyết Sơn, phân rất nhuyễn mịn. Nên lấy phân đó hòa trộn với bột hương Chiên Đàn để tráng nền đất. Nếu không phải là loài trâu trắng ở Tuyết Sơn thì phân hôi bẩn, không thể tráng nền. Riêng ở đồng bằng, có thể đào bỏ lớp đất trên mặt, lấy đất sét vàng từ năm thước trở xuống rồi hòa trộn với hương Chiên Đàn, trầm thủy, tô hợp, huân lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, can tùng và kê thiệt.

Giảng: 

Đức Phật sau khi nghe Anan hỏi về cách kiết giới đạo tràng, “Phật dạy Ông Anan : “Người đời mạt pháp, nguyện lập đạo tràng, trước hết kiếm con trâu trắng sức mạnh ở núi Tuyết Sơn, sống bằng cỏ thơm non mướt, loài trâu trắng này chỉ uống nước trong của núi Tuyết Sơn, phân rất nhuyễn mịn. Nên lấy phân đó hòa trộn với bột hương Chiên Đàn để tráng nền đất.” Cõi non mà trâu ăn rất thơm và có thể dùng để trộn với bột hương chiên đàn để tráng nền đất

“Nếu không phải là loài trâu trắng ở Tuyết Sơn thì phân hôi bẩn”. Nếu loài trâu không sống trên núi tuyết, trâu sẽ hôi mùi và không thanh tịnh cho nên phân trâu không thể dùng để tráng nền đất.
“Riêng ở đồng bằng, có thể đào bỏ lớp đất trên mặt, lấy đất sét vàng từ năm thước trở xuống.” Trong trường hợp nầy thì lựa một nơi đất bằng, đào xâu xuống 5 thước, và lấy đất vàng dưới đái làm nền tráng

“Rồi hòa trộn với hương Chiên Đàn, trầm thủy, tô hợp, huân lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, can tùng và kê thiệt.” Hoà trộn đất vàng với 10 thứ hương trên.

Mười thứ ấy xây nghiền thành bột, trộn với đất sét để làm nền đàn tràng, mỗi bề một trượng sáu, thành cái đàn bát giác. Ở chính giữa đạo tràng, đặt một hoa sen làm từ vàng, bạc, đồng hay gỗ. Trong hoa sen đặt một cái bát, trong bát đựng nước sương móc tháng Tám. Trong nước tùy ý để các hoa lá hiện có.

Giảng: 

Mười thứ ấy, đem xây nghiền thành bột, rồi trộn với đất vàng dưới lòng đất 5 thước để làm nền đạo tràng. Khu đó bề nganh rộng lớn khoảng 6 thước và có hình dạng bát quái. Ở chính giữa đạo tràng, đặt một hoa sen làm từ vàng, bạc, đồng hay gỗ. Chính giữa hoa sen, đặt một các tô bát, trong bát đựng nước sương móc tháng Tám. Trên mặt nước sương, rãi các hoa lá.

Lấy tám cái gương tròn, mỗi cái để theo mỗi hướng, chung quanh cái bát hoa. Bên ngoài gương, dựng lập mười sáu hoa sen, mười sáu lư hương, giữa chúng bày hoa. Các lư hương đều trang nghiêm, đốt thuần bằng trầm thủy, không cho thấy lửa.

Giảng: 

Lấy 8 cái gương tròn và đặt chung quang cái tô bông cho chúng quay 8 phía, bởi vì đạo tràng có hình tượng bát quái.

“Bên ngoài gương, dựng lập mười sáu hoa sen, mười sáu lư hương, giữa chúng bày hoa. Các lư hương đều trang nghiêm.” 16 hoa sen và 16 lư hương đặt chung quang, xen kẽ lẫn nhau và chia ra cho đều. Lư Hương lớn nhỏ vừa đủ để cho đẹp mắt.

“Đốt thuần bằng trầm thủy, không cho thấy lửa.” Trong lư hương chỉ nên đốt một loại trầm hương. Không nên đốt nhiều và không cho lửa hương trầm mạnh sáng mà có thể thấy, có nghĩa là ngọn lửa trong lư hương không có thể thấy khi nhìn vào 8 cái gương tròn hay nhìn vào bông sen.

Lấy sữa trâu trắng để trong mười sáu đồ chứa. Lấy sữa làm bánh với đường cát, bánh rán, váng sữa, tô hợp, mật gừng, thuần kem, thuần mật, mỗi thứ mười sáu cái đặt quanh ngoài hoa sen để cùng dâng Chư Phật và các Đại Bồ Tát.

Giảng:

 “Lấy sữa trâu trắng để trong mười sáu đồ chứa. Lấy sữa làm bánh”.  Một phần sữa đổ vào 16 cái ly nhỏ. Còn dư sữa lại thì lấy sữa hòa với bột để làm bánh ngọt. Trong mõi mâm diã sẽ đựng 1 ly sữa, một cái bánh ngọt, thêm vào”đường cát, bánh rán, váng sữa, tô hợp, mật gừng, thuần kem, thuần mật. Đặt 16 cái mân diã chung quang trước 16 hoa sen để dâng lên Chư Phật và các Đại Bồ Tát.

Mỗi giờ ăn cơm và lúc nửa đêm dùng nửa thăng mật hòa với thăng rưỡi váng sữa (bơ). Trước đàn để riêng một lò lửa nhỏ, lấy hương Đâu Lâu Bà(01) nấu lấy nước thơm mà rửa than, đốt cho cháy hừng, rót mật bỏ vào, đốt cho hết khói, cúng dường Phật và Bồ Tát.

Giảng:

Ban ngày trong mỗi bữa ăn và giữa đêm khuya 12 giờ đêm, chuẩn bị 0.25 lít mật ông và 0.14 lít bơ. Sao đó trước đàn để thêm một lò lửa nhỏ. Than dùng trong lò lửa nầy thì phải dùng nước thơm để rửa sạch. Lấy hương trầm như hương dâu lâu bà (turushka) nấu trong nước sôi cho chất dầu trong trầm chảy ra trong nước. Dùng nước hương trầm này để rửa than. Than sẽ thơm mùi hương trầm khi đốt trong lò lửa nhỏ.

Bỏ than vào trong lò lửa nhỏ và đốt cho cháy hừng, than đỏ và hừng nóng. Rảy mật ông và bơ đã chuẩn bị trước vào trong lò lửa nóng. Đốt cho khi khói không còn nữa, để cúng dường chư Phật và các vị Bồ Tát. Có rất nhiều việc như vật trong mật thất. Các vị tu hành thường đốt mật ông trộn với bơ để cúng dường chư Phật. Họ không chỉ đốt mật bơ, mà còn đốt những thứ có giá trị như vàng, đồ trang điểm, và các đồ quý báo. Họ đốt những thứ đó để cúng dường chư Phật

Ở bốn phía ngoài, treo khắp phan, hoa; ở trong nhà đàn, bốn vách chưng bày các hình tượng của mười phương Như Lai và các vị Bồ Tát. Chính giữa để tượng Phật Lô Xá Na, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Phật A Súc, Phật A Di Đà; hai bên đặt tượng Đức Quan Âm Đại Biến Hóa và Kim Cang Tạng Bồ Tát. Hai bên cửa để hình tượng Đế Thích, Phạm Vương, Ô Sô Sắt Ma, Lam Địa Ca, Quân Trà Lợi, Tỳ Câu Chi, bốn vị Thiên Vương, Tần Na Dạ Ca…

Giảng: 

“Ở bốn phía ngoài, treo khắp phan, hoa”. Đây là tường bên ngoài đạo tràng.

Ở trong nhà đạo tràng, bốn vách tường chưng bày các hình tượng của mười phương Như Lai và các vị Bồ Tát.

“Chính giữa để tượng Phật Lô Xá Na, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Phật A Súc, Phật A Di Đà; hai bên đặt tượng Đức Quan Âm Đại Biến Hóa và Kim Cang Tạng Bồ Tát.”

Lô Xá Na có nghiã là hiện khắp mọi nơi. Di Đà Bồ Tát tượng trưng đức Phật Tương Lai. Phật A Súc là đức Phật tại đông phương cực lạc, cũng là đức Phật Dược Sư. A Súc có nghĩa là Bất Động, cho nên được gọi là Bức Động Phật. Phật A Di Đà có nghiã là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ. Và Đức Quan Âm Đại Biến Hóa trong bộ kinh nầy có ghi rằng, Bồ Tát có thể có 1 đầu, 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu, hay 108 đầu. Kinh nói rằng, các ngài có thể có 1 tay, 3 tay, 5 tay, 7 tay, 9 tay ,108 tay, 1000 tay, 1 vạn tay hay 84000 tay.
Bên tay phải và trái, đặt tượng “Kim Cang Tạng Bồ Tát”, hộ pháp. Những vị hộ pháp có hình dạnh rất oai nghiêm và hùng dữ. “Hai bên cửa để hình tượng Đế Thích, Phạm Vương.” Đế Thích là vị Thiên Vương của 33 cõi thiên. Ngài cũng là vị Chúa Trời. “Phạm Vương” là các vị Sơ Thiền ở cõi trời sắc giới.

Và các vị “Ô Sô Sắt Ma, Lam Địa Ca, Quân Trà Lợi, Tỳ Câu Chi” Ô Sô Sắt Ma là vị thần năm đầu. Lam Địa Ca là vị thần mặt xanh và cũng là vị hộ pháp. Quân Trà Lợi có nghiã là buông thả những oán giận, cũng là tên của các vị thần. Tỳ Câu Chi cũng là một vị hộ pháp.

Và treo các hình ảnh của “Bốn vị Thiên Vương, Tần Na Dạ Ca…” Tần Na Dạ Ca là một vị hộ pháp có hình dáng rất là xấu và hung sợ. Bên Á Châu diễn tả hai 2 vị hộ pháp như sau: 1 vị hộ pháp có thân người và đầu trâu, còn 1 vị hộ pháp thì có thân người đầu voi. Bên Ấn Độ gọi vị nầy là Tần Na Dạ Ca hay Vinayaka, được coi là vị Thiên, Ganesha (Ganapati), là vị thiên có thân người đầu voi. Hình của Tần Na Dạ Ca giống như 2 người: thân người với đầu voi. Sự biến dạng thành một thể sát như vậy với mục đích tạo ra cái sợ hãi với người tôn thờ để họ nghiêm chỉnh bản thân. Tại cửa chánh đạo tràng, những tấm hình treo hai bên để bảo vệ đạo tràng.

Lại dùng tám cái gương treo úp giữa hư không, đối chiếu với tám gương trước trong đàn tràng, khiến cho hình ảnh lồng nhập vào nhau nhiều lớp.

Giảng:

Lại dùng tám cái gương treo úp giữa hư không, đối chiếu với tám gương trước trong đàn tràng, khiến cho hình ảnh lồng nhập vào nhau nhiều lớp. Trong bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu mười phương Như Lai, Chư Đại Bồ Tát, Chư A La Hán. Thường trong sáu thời đi quanh đàn tụng Chú, hết lòng hành Đạo, mỗi thời trì một trăm lẻ tám biến.

“Lại dùng tám cái gương treo úp giữa hư không, đối chiếu với tám gương trước trong đàn tràng.” Làm sao treo gương giữa hư không? Suy nghĩ? Giống như quý vị treo cái đèn từ trên nóc nhà. Làm sao mà treo gương trong hư không như mặt trời ? Ý kinh không phải là như vậy. Ý kinh là dùng dây treo gương để cho gương có thể lơ lững ở giữa đạo tràng.

Các gương xoay mặt với nhau, “khiến cho hình ảnh lồng nhập vào nhau nhiều lớp.” Có nghiã là hình ảnh phản xạ từ gương bên phải phản xạ lại với tấm gương bên trái. Và những hình ảnh cứ tiếp tục phản xạ với nhau trong gương, làm cho những bóng hình hiện ra vô lượng.

Trong bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu mười phương Như Lai, Chư Đại Bồ Tát, Chư A La Hán. Thường trong sáu thời đi quanh đàn tụng Chú, hết lòng hành Đạo, mỗi thời trì một trăm lẻ tám biến.

Giảng:

“Trong bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu mười phương Như Lai, Chư Đại Bồ Tát, Chư A La Hán. Thường trong sáu thời đi quanh đàn tụng Chú.” Chú tại đây là Chú Lăng Nghiêm.

“Hết lòng hành Đạo, mỗi thời trì một trăm lẻ tám biến.” Hết lòng có nghiã là quý vị không suy nghĩ về những thứ khác, trong tâm trì tụng chú. Mỗi lần trì tụng, tụng hết nguyên bài chú 108 lần không dừng.

Trong bảy ngày thứ hai, một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát, tâm không gián đoạn. Trong Luật Tạng của Ta đã có chỉ dạy về nguyện.

Giảng:

Trong tuần thứ hai tu hành, “một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát.” Quý vị phải thật lòng và nhất tâm. Pháp tứ hoàn thệ nguyện

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

“Tâm không gián đoạn.” Có nghiã là tâm không dừng trì tụng chú Lăng Nghiêm, và tâm không bao giờ quên tứ hoàn thệ nguyện.

“Trong Luật Tạng của ta đã có chỉ dạy.” Khi đức Phật nói về giới luật, đức Phật có dạy cách phát thệ nguyện.

Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời, một bề trì Chú Bát Đát Ra của Phật. Cho đến ngày thứ bảy, mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện. Chỗ ánh sáng của gương giao nhau, được Phật xoa đảnh; bèn ở nơi đạo tràng tu Tam Ma Địa, có thể khiến cho hạng tu học đời mạt thế thân tâm sáng sạch như ngọc lưu ly.

Giảng:

“Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời, một bề trì Chú Bát Đát Ra của Phật.” Quý vị trì tụng chú “Tát Đát Ra Bát Đát Ra” mà đức Phật đã thuyết, đó là chú Lăng Nghiêm.
“Cho đến ngày thứ bảy, mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện.” Mười phương chư Phật sẽ xuất hiện tại đạo tràng cùng một lúc.

“Chỗ ánh sáng của gương giao nhau, được Phật xoa đảnh.” Đảnh đầu của quý vị được các chư Phật xoa đảnh, và những hình ảnh đó được phản chiếu trong gương, phản xạ ra vô lượng.

“Bèn ở nơi đạo tràng tu Tam Ma Địa.” là đạo tràng Lăng Nghiêm, và khi các vị chư Phật hiện thân tại đạo tràng cùng một lúc và xoa đảnh đầu. Và lúc đó quý vị có thể tu Tam Ma Địa, hay là tu pháp môn hồi quang phản chiếu quán tự tại.

“Có thể khiến cho hạng tu học đời mạt thế thân tâm sáng sạch như ngọc lưu ly.” Thân tâm của quý vị sẽ được trong sáng như ngọc lưu ly.

A Nan, nếu bổn sư truyền giới của Tỳ Kheo này và mười Tỳ Kheo đồng tu trong đàn, trong đó có một người giữ giới chẳng được trong sạch, thì đạo tràng này chẳng thể thành tựu.

Giảng: 

Anan, con nên biết nếu vị Tỳ Kheo đó tu hành trong đạo tràng nầy, mà có một vị không giữ giới và tâm không được thanh tịnh, hay vị Tỳ Kheo đó tu hành với một vị không giữ giới, thì đạo tràng nầy sẽ không được thành tựu. Đạo tràng sẽ không thành tựu nếu có một người không thanh tịnh, đó có nghiã là người đó không giữ giới. Hay là người đó nhận giới nhưng lại phạm giới. Ví dụ như người đó không nên sát sanh, nhưng lại sát sanh. Hay là người đó không nên trộm cắp, nhưng lại ăn cắp. Hay là người đó không nên phạm giới dâm dục, nhưng lại phạm giới. Hay là người đó không nên nói dối, nhưng lại nói dối.

Đức Phật dạy chúng ta không nên nói dối, nhưng họ lại bỏ đi chữ “không” và giữ lại “nên nói dối”. Nếu phạm giới, thì đạo tràng sẽ không thành tựu. Tất cả công trình tu học, những câu chú đã trì tụng, sẽ không mang tới sự thành tựu như ý. Vì vậy, nếu quý vị tu hành theo phương tiện nầy và không nhận được kết quả, quý vị không thể nói rằng: Tôi tu hành trong 3 tuần, nhưng đức Phật Thích Ca và chư Phật khắp mười phương không có tới xoa đảnh đầu của tôi. Tôi không có thấy họ. Có lẽ đức Phật đã nói láo

Nhưng đó không phải là như vậy. Có thể quý vị là người không được thanh tịnh, hay vị thầy truyền giới cho quý vị không được thanh tịnh, hay một trong những người tu hành chung trong đạo tràng không được thanh tịnh. Nếu trong một người trong đạo tràng không được thanh tịnh, kết quả sẽ không được thành tựu. Việc nầy rất là quan trọng.

Sau thất thứ ba, tĩnh tọa an cư trải qua 100 ngày, nếu người lợi căn, có thể ngay đó chứng sơ quả, dẫu cho thân tâm chưa thành chánh quả, nhưng được tự biết nhất định sẽ thành Phật chẳng sai. Ngươi hỏi cách kiến lập đạo tràng là như thế.

Giảng: 

“Sau thất thứ ba, tĩnh tọa an cư trải qua 100 ngày.” Quý vị ngồi thiền, không giống như các người khác ngồi thiền trong 2 tiếng và đã cho là thiền giỏi. Họ cho rằng họ là người xuất sắc, nhưng trên thực tế, nếu so sánh với những gì diễn tả trong kinh nầy, thì cũng giống như so sánh mèo với sư tử. “Tĩnh tọa” có nghiã là không nghiên về bên trái hay bên phải, hay nghiên về phía trước hay ra sau, hay đứng lên giảng gân cốt. Không phải ngồi tại đó và nghĩ rằng: Ah, chân tôi đau quá! “Tĩnh tọa” có nghiã là không có phiền não. Tĩnh tọa trong 100 ngày có nghiã là không đứng lên đi ăn uống hay đứng lên để thoải mái. Quý vị ngồi thiền đó trong 100 ngày.

“Nếu người lợi căn, có thể ngay đó chứng sơ quả.” Những người thông minh và có căn bản có thể ngồi thiền 100 ngày và được đắc quả vị Sơ Quả, quả vị đầu tiên của A La Hán. Nhưng nếu quý vị không có thể ngồi yên trong vòng một ngày, và có người lại nghĩ rằng họ đã đạt được quả vị. Đó là mơ hồ. Quý vị có thể ngồi thiền 100 ngày để đắc được quả vị Sơ Thiền.

“Dẫu cho thân tâm chưa thành chánh quả, nhưng được tự biết nhất định sẽ thành Phật chẳng sai.” Tuy họ chưa đắc thành chánh quả, nhưng họ đã biết chắc rằng họ sẽ thành Phật. Đó là chắc chắn chẳng sai lầm. “Ngươi hỏi cách kiến lập đạo tràng là như thế.”