Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ-Tát
Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni

Hán dịch: Tây Thiên Trúc Sa-môn Già-phạm-đạt-ma đời Đường
Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận

 

PHẦN TỰ

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật Thích-ca-mâu-ni ngự tại Đạo Tràng Bảo Trang Nghiêm trong cung điện của Quán Thế Âm trên núi Bổ-đà-lạc-ca. Tòa sư tử báu Ngài ngồi, dùng toàn là vô lượng tạp ma-ni bảo để trang nghiêm và có 100 tràng phan báu treo xung quanh.

Lúc bấy giờ, Đức Như Lai đang ngồi trên bảo tòa và sắp muốn diễn nói Tổng Trì Đà-la-ni. Khi ấy có vô lượng vô số Bồ-Tát cùng câu hội với Ngài. Tên các vị ấy là:

– Tổng Trì Vương Bồ-Tát,
– Bảo Vương Bồ-Tát,
– Dược Vương Bồ-Tát,
– Dược Thượng Bồ-Tát,
– Quán Thế Âm Bồ-Tát,
– Đại Thế Chí Bồ-Tát,
– Hoa Nghiêm Bồ-Tát,
– Đại Trang Nghiêm Bồ-Tát,
– Bảo Tạng Bồ-Tát,
– Đức Tạng Bồ-Tát,
– Kim Cang Tạng Bồ-Tát,
– Hư Không Tạng Bồ-Tát,
– Di-lặc Bồ-Tát,
– Phổ Hiền Bồ-Tát,
– Văn-thù-sư-lợi Bồ-Tát,
– và các vị khác như thế.

Hết thảy Bồ-Tát Ma-ha-tát đều là những vị đại Pháp Vương Tử đã được quán đảnh.

Lại có vô lượng vô số đại Thanh Văn Tăng chúng, hết thảy đều tu hạnh A-la-hán và đã đạt đến quả vị Thập Địa; Ma-ha Ca-diếp làm bậc thượng thủ.

Lại có vô lượng chư thiên từ cõi Phạm thiên cùng câu hội; Thiện-tra Phạm-ma làm bậc thượng thủ.

Lại có vô lượng thiên tử từ các cõi trời Dục Giới cùng câu hội; Cù-bà-già Thiên Tử làm bậc thượng thủ.

Lại có vô lượng Hộ Thế Tứ Vương cùng câu hội; Trì Quốc Thiên Vương làm bậc thượng thủ.

Lại có vô lượng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân cùng câu hội; Thiên Đức Đại Long Vương làm bậc thượng thủ.

Lại có vô lượng thiên nữ từ các cõi trời Dục Giới cùng câu hội; Đồng Mục Thiên Nữ làm bậc thượng thủ.

Lại có vô lượng thần hư không, thần sông biển, thần suối nguồn, thần ao hồ, thần dược thảo, thần cây rừng, thần nhà cửa, thần đất, thần nước, thần gió, thần lửa, thần đất đai, thần núi, thần đá, thần cung điện, và các vị thần như thế đều đến hội họp.

Tổng Trì Vương Bồ-Tát Thỉnh Pháp

Lúc bấy giờ Quán Thế Âm Bồ-Tát từ trong đại hội, bí mật phóng ánh sáng thần thông, chiếu diệu thập phương sát độ cùng Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới này đều thành màu vàng kim. Tất cả thiên cung, long cung, và cung điện của chư tôn thần thảy đều chấn động. Sông lớn, sông nhỏ, biển cả, núi Thiết Vi, núi Tu-di, núi Đất, và núi Đen cũng đều chấn động dữ dội. Nhật nguyệt hỏa châu và ánh sáng của tinh tú thảy đều chẳng hiện.

Lúc bấy giờ, Tổng Trì Vương Bồ-Tát thấy tướng lạ hy hữu chưa từng có này, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay và dùng kệ hỏi Phật, là ai đã phóng ra tướng thần thông như thế. Kệ viết rằng:

“Ai trong hôm nay thành Chánh Giác
Phóng đại quang minh khắp thế này
Mười phương sát độ đều sắc vàng
Tam Thiên Thế Giới cũng như vậy

Ai trong hôm nay đắc tự tại
Phóng ra hy hữu đại thần lực
Vô biên Phật quốc đều chấn động
Cung điện long thần cũng chẳng an

Nay toàn đại chúng khởi lòng nghi
Chẳng rõ nhân duyên sức của ai
Là Phật Bồ-Tát Đại Thanh Văn
Là Phạm thiên ma hay Đế-thích

Duy nguyện Thế Tôn đại từ bi
Giải nói thần thông do cớ đâu”

PHẦN CHÁNH TÔNG

Duyên Khởi và Phương Pháp Phát Nguyện

Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ-Tát:

“Này thiện nam tử! Các ông nên biết, nay ở trong Pháp hội đây có một vị Bồ-Tát Ma-ha-tát tên là Quán Thế Âm Tự Tại. Từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu đại từ đại bi và khéo có thể tu tập vô lượng môn tổng trì. Ngài vì muốn các chúng sanh được sự an lạc nên đã bí mật phóng sức đại thần thông như thế.”

Khi Đức Phật nói lời ấy xong, lúc bấy giờ Quán Thế Âm Bồ-Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, rồi hướng về Đức Phật chắp tay và bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con có thần chú Đại Bi Tâm Đà-la-ni và bây giờ muốn tuyên thuyết, để khiến cho các chúng sanh được an lạc, tiêu trừ tất cả bệnh, đắc trường thọ và nhiều sự lợi ích; diệt trừ hết thảy ác nghiệp trọng tội, thoát ly chướng nạn, trong tất cả pháp được thanh tịnh và các công đức đều tăng trưởng; thành tựu hết thảy chư thiện căn, xa lìa tất cả những việc hãi sợ, và mau có thể mãn túc tất cả các điều cầu mong. Duy nguyện Thế Tôn, từ mẫn hứa khả.”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Ông vì lòng đại từ bi nên muốn tuyên thuyết thần chú để khiến chúng sanh an vui. Nay chính là lúc. Ông nên mau nói. Như lai sẽ tùy hỷ và chư Phật cũng vậy.”

Quán Thế Âm Bồ-Tát lại bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con nhớ vào vô lượng ức kiếp thuở quá khứ, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Đức Phật Thế Tôn kia đã thương xót con cùng tất cả các chúng sanh nên đã tuyên thuyết Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni này. Ngài dùng bàn tay sắc vàng xoa trên đảnh con và nói lời như vầy:

‘Này thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này để rộng vì hết thảy chúng sanh trong đời ác vị lai mà làm cho họ an vui và được sự lợi ích lớn.’

Lúc đó con mới trụ ở bậc Sơ Địa, nhưng vừa nghe thần chú này, liền siêu vượt đến đệ Bát Địa. Khi ấy, do tâm sanh hoan hỷ, con liền phát lời thệ nguyện rằng:

‘Vào đời vị lai, nếu con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh, thì hãy khiến thân con lập tức đầy đủ ngàn tay ngàn mắt.’

Sau khi phát nguyện xong, trên thân con tức khắc đều cụ túc thiên thủ thiên nhãn. Khắp mười phương quốc độ, đại địa chấn động sáu cách. 1.000 Đức Phật trong thập phương đều phóng quang minh chiếu đến thân con cùng chiếu soi vô biên thế giới khắp mười phương.

Từ đó về sau, con lại ở vô lượng Đạo Tràng và trong vô lượng Pháp hội của chư Phật, lại có thể nghe và đích thân thọ trì Đà-la-ni này. Tâm sanh thêm hoan hỷ, hớn hở vô cùng và được siêu việt vô số ức kiếp sanh tử vi tế.

Từ đó đến nay, con thường trì tụng và chưa từng xao lãng. Do bởi trì chú này, nơi nào con sinh ra cũng luôn ở trước chư Phật, liên hoa hóa sanh và không thọ thân từ bào thai.

Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam, đồng nữ nào muốn thọ trì đọc tụng và đối với các chúng sanh khởi lòng từ bi, thì trước tiên nên theo con phát thệ nguyện như vầy:

‘Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con chóng biết tất cả pháp.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm đắc trí tuệ nhãn.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con chóng độ các chúng sanh.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm được thiện phương tiện
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con chóng ngồi thuyền Bát-nhã.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm vượt ra biển khổ.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con chóng đắc Giới Định Đạo
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm lên núi Niết-bàn.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con chóng vào nhà Vô Vi.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm đồng thân Pháp tánh.

Nếu con hướng núi đao, núi đao tự gãy nát.
Nếu con hướng dầu sôi, dầu sôi tự khô cạn.
Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu tan.
Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ tự no đủ.
Nếu con hướng tu-la, ác tâm tự điều phục.
Nếu con hướng súc sanh, chúng đắc đại trí tuệ.’

Khi phát nguyện ấy xong, hãy chí tâm xưng niệm danh hiệu con và cũng như chuyên niệm Đức Bổn Sư của con là Đức Phật A-di-đà. Kế đó mới tụng thần chú Đà-la-ni này. Như mỗi đêm tụng đủ năm biến thời sẽ diệt trừ trăm ngàn vạn ức kiếp sanh tử trọng tội.”

Tất Cả Sở Cầu Đều Được Như Ý

Quán Thế Âm Bồ-Tát lại bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn!

Nếu hàng trời người trì tụng Đại Bi chương cú, thì lúc gần mạng chung, mười phương chư Phật đều đến và cầm tay hành giả, như muốn vãng sanh ở Phật độ nào thời tùy theo sở nguyện đều đắc vãng sanh.”

Lại bạch với Đức Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn!

Nếu chúng sanh nào trì tụng Đại Bi Thần Chú, như bị đọa vào tam ác đạo, con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.

Nếu chúng sanh nào trì tụng Đại Bi Thần Chú, như chẳng sanh ở quốc độ chư Phật, con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.

Nếu chúng sanh nào trì tụng Đại Bi Thần Chú, như chẳng được vô lượng tam-muội và biện tài, con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.

Nếu chúng sanh nào trì tụng Đại Bi Thần Chú, như tất cả sở cầu đều chẳng được toại ý trong đời hiện tại, thì thần chú này không gọi là Đại Bi Tâm Đà-la-ni–duy trừ bất thiện và không chí thành.

Nếu người nữ nào nhàm chán nữ thân và muốn thành thân nam tử, họ trì tụng Đại Bi Đà-la-ni chương cú, như đời sau chẳng chuyển thân nữ thành thân nam, con nguyện sẽ không thành Chánh Giác. Giả sử dù sanh một chút lòng nghi thì sẽ không được toại.

Nếu chúng sanh nào xâm chiếm cùng hao tổn tài vật và thức ăn nước uống của Thường Trụ, dù 1.000 Đức Phật xuất thế thì họ cũng chẳng có cơ hội sám hối. Dẫu cho có sám hối thời cũng chẳng diệt trừ. Nhưng nay, khi họ trì tụng Đại Bi Thần Chú, tội ấy liền tiêu tan.

Nếu có người nào xâm chiếm cùng hao tổn tài vật và thức ăn nước uống của Thường Trụ, họ phải đối với mười phương chư Đạo sư sám hối thời mới diệt trừ. Nhưng nay, khi họ trì tụng Đại Bi Đà-la-ni, thì thập phương chư Phật liền đến chứng minh. Hết thảy tội chướng đều sẽ tiêu trừ.

Tất cả ác nghiệp trọng tội như: mười điều ác, năm tội ngỗ nghịch, nhục mạ người khác, hủy báng Pháp, phạm trai phá giới, hủy hoại chùa tháp, trộm cắp đồ vật của chư Tăng, và làm ô uế người tu Phạm hạnh. Hết thảy đều sẽ diệt tận.

Duy trừ một việc, đó là với thần chú này sanh lòng nghi, thì thậm chí tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng chẳng được diệt mất, hà huống là trọng tội. Mặc dù trọng tội tuy không lập tức diệt trừ nhưng họ vẫn có thể tạo nhân Bồ-đề về sau.”

15 Loại Thiện Sanh và 15 Loại Chết Xấu

Lại bạch cùng Đức Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Nếu hàng trời người trì tụng Đại Bi Tâm Chú thời sẽ được 15 loại thiện sanh và không thọ 15 loại chết xấu. Những thứ chết xấu đó là:

1. Không chết do đói khát khốn khổ.
2. Không chết do đánh đập lao tù.
3. Không chết do oan gia kẻ thù.
4. Không chết do quân trận tương tàn.
5. Không chết do cọp sói ác thú.
6. Không chết do rắn độc bò cạp.
7. Không chết do nước dìm lửa đốt.
8. Không chết do trúng phải thuốc độc.
9. Không chết do trúng ngải làm hại.
10. Không chết do điên cuồng loạn trí.
11. Không chết do núi lở cây ngã.
12. Không chết do ác nhân trù ếm.
13. Không chết do tà thần ác quỷ.
14. Không chết do ác bệnh ngặt nghèo.
15. Không chết do tự sát tự tử.

Phàm ai trì tụng Đại Bi Thần Chú thì sẽ không bị 15 loại chết xấu và sẽ được 15 loại thiện sanh, như là:

1. Mọi nơi sinh ra thường có bậc hiền quân.
2. Thường sanh ở nước lành.
3. Thường gặp thời đại tốt.
4. Thường gặp bậc thiện hữu.
5. Các căn luôn đầy đủ.
6. Đạo tâm thuần thục.
7. Không phạm cấm giới.
8. Quyến thuộc có ân nghĩa và hòa thuận.
9. Tài vật ẩm thực luôn phong phú.
10. Luôn được người khác cung kính trợ giúp.
11. Tài bảo của họ chẳng bị người cướp đoạt.
12. Mọi sự cầu mong đều được toại ý.
13. Trời rồng thiện thần thường hộ vệ.
14. Mọi nơi sinh ra đều thấy Phật nghe Pháp.
15. Khi nghe Chánh Pháp liền liễu ngộ thậm thâm nghĩa.

Nếu có người trì tụng Đại Bi Thần Chú thời sẽ được 15 loại thiện sanh như vậy. Tất cả trời người thường nên tụng trì và chớ sanh biếng lười.”

Đức Quán Thế Âm Tuyên Thuyết Đại Bi Chú

Khi Quán Thế Âm Bồ-Tát ở trước chúng hội nói lời ấy xong, ngài chắp tay đứng thẳng và đối với chúng sanh khởi đại bi tâm. Trên khuôn mặt mỉm cười và liền thuyết thần diệu chương cú Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni như vầy:

“[1] nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
[2] nam mô a rị da
[3] bà lô yết đế thước bát ra da
[4] bồ đề tát đỏa bà da
[5] ma ha tát đỏa bà da
[6] ma ha ca lô ni ca da
[7] án
[8] tát bàn ra phạt duệ
[9] số đát na đát tỏa
[10] nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da
[11] bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
[12] nam mô na ra cẩn trì
[13] hê rị ma ha bàn đa sa mế
[14] tát bà a tha đậu du bằng
[15] a thệ dựng
[16] tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già
[17] ma phạt đặc đậu
[18] đát điệt tha
[19] án a bà lô hê
[20] lô ca đế
[21] ca ra đế
[22] di hê rị
[23] ma ha bồ đề tát đỏa
[24] tát bà tát bà
[25] ma la ma la
[26] ma hê ma hê rị đà dựng
[27] cu lô cu lô yết mông
[28] độ lô độ lô phạt xà da đế
[29] ma ha phạt xà da đế
[30] đà ra đà ra
[31] địa rị ni
[32] thất phật ra da
[33] giá la giá la
[34] mạ mạ phạt ma la
[35] mục đế lệ
[36] y hê y hê
[37] thất na thất na
[38] a ra sâm phật ra xá rị
[39] phạt sa phạt sâm
[40] phật ra xá da
[41] hô lô hô lô ma ra
[42] hô lô hô lô hê rị
[43] ta ra ta ra
[44] tất rị tất rị
[45] tô rô tô rô
[46] bồ đề dạ bồ đề dạ
[47] bồ đà dạ bồ đà dạ
[48] di đế rị dạ
[49] na ra cẩn trì
[50] địa rị sắt ni na
[51] bà dạ ma na
[52] ta bà ha
[53] tất đà dạ
[54] ta bà ha
[55] ma ha tất đà dạ
[56] ta bà ha
[57] tất đà du nghệ
[58] thất bàn ra dạ
[59] ta bà ha
[60] na ra cẩn trì
[61] ta bà ha
[62] ma ra na ra
[63] ta bà ha
[64] tất ra tăng a mục khư da
[65] ta bà ha
[66] ta bà ma ha a tất đà dạ
[67] ta bà ha
[68] giả kiết ra a tất đà dạ
[69] ta bà ha
[70] ba đà ma yết tất đà dạ
[71] ta bà ha
[72] na ra cẩn trì bàn già la dạ
[73] ta bà ha
[74] ma bà rị thắng yết ra dạ
[75] ta bà ha
[76] nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
[77] nam mô a rị da
[78] bà lô kiết đế
[79] thước bàn ra dạ
[80] ta bà ha
[81] án tất điện đô
[82] mạn đa ra
[83] bạt đà dạ
[84] ta bà ha”

|| namo ratnatrayāya | nama āryāvalokiteśvarāya bodhisattvāya mahāsattvāya mahākāruṇikāya | oṃ sarva raviye sudhanadasya | nama skṛtvā imaṃ āryāvalokiteśvara raṃdhava | namo narakindi hrīḥ mahāvatsvāme sarva arthāto śubhaṃ | ajeyaṃ sarva sat nama vaṣaṭ namo vāka mavitato | tadyathā oṃ avaloki lokate krate e hrīḥ mahābodhisattva | sarva sarva | mala mala | mahima hṛdayaṃ | kuru kuru karmaṃ | dhuru dhuru vijayate mahāvijayate | dhara dhara | dhṛnī śvarāya | cala cala mama vimala muktele | ehi ehi | śina śina | ārṣaṃ prasari viśva viśvaṃ prasaya | hulu hulu mara | hulu hulu hrīḥ | sara sara | siri siri | suru suru | bodhiya bodhiya | bodhaya bodhaya | maitreya narakindi dhṛṣṇina bhayamana svāhā | siddhāya svāhā mahāsiddhāya svāhā | siddhayoge | śvarāya svāhā | narakindi svāhā | māraṇara svāhā | śira siṃha mukhāya svāhā | sarva mahā-asiddhāya svāhā | cakra asiddhāya svāhā | padma kastāya svāhā | narakindi vagalāya svāhā | mavari śaṅkharāya svāhā | namo ratnatrayāya | nama āryāvalokiteśvarāya svāhā | oṃ sidhyantu mantra padāya svāhā ||

Khi Quán Thế Âm tuyên thuyết thần chú này xong, đại địa chấn động sáu cách. Trời mưa hoa báu rải xuống rực rỡ. Hết thảy mười phương chư Phật đều hoan hỷ, còn thiên ma ngoại đạo khiếp sợ đến lông tóc dựng đứng. Tất cả chúng hội đều được chứng quả. Có vị đắc quả Tu-đà-hoàn. Có vị đắc quả Tư-đà-hàm. Có vị đắc quả A-na-hàm. Có vị đắc Đạo A-la-hán. Hoặc có vị đắc Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa, và nhẫn đến Thập Địa. Vô lượng chúng sanh phát Bồ-đề tâm.

Hình Mạo và Tướng Trạng của Đà-la-ni

Lúc bấy giờ, Đại Phạm Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, chắp tay cung kính và bạch Quán Thế Âm Bồ-Tát rằng:

“Lành thay, thưa Đại sĩ! Tôi từ xưa đến nay đã dự qua vô lượng Pháp hội của chư Phật, nghe đủ mọi Pháp cùng đà-la-ni, song chưa từng nghe nói về thần diệu chương cú Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Bi Đà-la-ni này. Duy nguyện Đại sĩ vì tôi thuyết giảng hình mạo tướng trạng của Đà-la-ni đó. Tôi và đại chúng vui thích muốn nghe.”

Quán Thế Âm Bồ-Tát bảo Phạm Vương rằng:

“Ông hỏi như vậy là vì muốn làm phương tiện lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Nay ông hãy lắng nghe, tôi sẽ nói sơ lược cho các ông.”

Quán Thế Âm Bồ-Tát bảo rằng:

“Đây là Tâm Đại Từ Bi, Tâm Bình Đẳng, Tâm Vô Vi, Tâm Vô Nhiễm Trước, Tâm Quán Không, Tâm Cung Kính, Tâm Khiêm Tốn, Tâm Vô Tạp Loạn, Tâm Vô Kiến Thủ, và Tâm Vô Thượng Bồ-đề.

Nên biết các tâm như thế chính là tướng mạo của Đà-la-ni này. Ông nên theo đó tu hành.”

Đại Phạm Thiên Vương bạch rằng:

“Nay tôi và đại chúng đã nhận biết tướng mạo của Đà-la-ni này. Kể từ bây giờ sẽ thọ trì và chẳng dám lãng quên.”
Thiên Nhãn Chiếu Kiến Thiên Thủ Hộ Trì

Đức Quán Thế Âm bảo rằng:

“Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào trì tụng thần chú này, thì nên phát quảng đại Bồ-đề tâm để nguyện độ tất cả chúng sanh. Ăn chay trì giới cùng đối với chúng sanh khởi tâm bình đẳng, thường tụng chú này và chớ để gián đoạn. Lại nên tắm gội sạch sẽ và mặc y phục tinh sạch. Trong tịnh thất treo tràng phan, thắp đèn, dùng hương hoa và ẩm thực trăm vị để cúng dường. Họ nên nhiếp tâm vào một nơi, quyết không có duyên khác, và như Pháp tụng trì. Khi ấy sẽ có Nhật Quang Bồ-Tát, Nguyệt Quang Bồ-Tát cùng vô lượng tiên thần đến chứng minh và làm tăng thêm sự linh nghiệm.

Lúc bấy giờ, ta sẽ dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ. Từ đó về sau, họ đều có thể biết và thông đạt mọi sách vở của thế gian cùng hết thảy pháp thuật của ngoại đạo và cũng như sách điển phệ-đà. Người trì tụng thần chú này, thời 84.000 loại bệnh của thế gian đều sẽ trị lành và chẳng bệnh nào là không lành. Họ lại cũng có thể sai khiến tất cả quỷ thần cùng hàng phục chúng thiên ma và chế phục các ngoại đạo.

Nếu có người thọ trì tụng Kinh hay ngồi thiền nơi sơn dã, như có sơn tinh sơn yêu cùng những quỷ thần yêu quái đến não loạn và làm tâm của hành giả chẳng được an định, họ nên tụng chú này một biến thì các quỷ thần đó đều bị trói lại.

Nếu có người thọ trì cùng có thể như Pháp tụng trì và đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, thời ta sẽ sai tất cả thiện thần, long vương, và Kim Cang Mật Tích thường theo hộ vệ và chẳng bao giờ rời xa, bảo hộ người ấy như bảo hộ tròng con mắt và tánh mạng của chính họ.”

Đức Quán Thế Âm nói kệ sắc lệnh rằng:

“Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ
Ô-sô Quân-đồ Ương-câu-thi
Tám bộ lực sĩ Thưởng-ca-la
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Ma-hê Na-la-diên
Kim-tỳ-la-đà Ca-tỳ-la
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Bà-cấp Ta-lâu-la
Mãn Thiện Xa-bát Chân-đà-la
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Tát-già Ma-hòa-la
Cưu-lan Đơn-tra Bán-chỉ-la
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Tất-bà Già-la Vương
Ưng Đức Tỳ-đa Tát-hòa-la
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Phạm-ma Tam-bát-la
Ngũ bộ Tịnh Cư Diễm-ma-la
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Đế-thích Tam Thập Tam
Đại Biện Công Đức Bà-đát-na
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Trì Quốc Đông Thiên Vương
Thần mẫu nữ quỷ chúng đại lực
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Tăng Trưởng Nam Thiên Vương
Quảng Mục Thiên Vương Đa Văn Vương
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương
Nhị Thập Bát Bộ Đại Tiên chúng
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Ma-ni-bạt-đà-la
Tán Chi Đại Tướng Phất-la-bà
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai Nan-đà Bạt-nan-đà
Bà-già-la Long Y-bát-la
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai tu-la càn-thát-bà
Ca-lâu khẩn-na ma-hầu-la
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Ta sai thủy hỏa lôi điện thần
Cưu-bàn-đồ vương tỳ-xá-xà
Thường luôn ủng hộ người thọ trì

Chư thiện thần này cùng với vua rồng và thần mẫu nữ, mỗi vị có 500 đại lực dạ-xoa làm quyến thuộc. Họ thường theo ủng hộ người tụng trì Đại Bi Thần Chú.

Nếu có người tụng chú này và một mình ngủ nơi núi rừng hoang vắng, thời các thiện thần ấy đều thay phiên túc trực và đuổi trừ tai chướng.

Nếu có người ở trong rừng sâu, như bị lạc mất phương hướng và tụng chú này, thời thiện thần và long vương sẽ hóa thành thiện nhân để chỉ dẫn đúng đường.

Giả như ở núi rừng hoang dã và cần nước hoặc lửa, thời long vương sẽ hóa hiện ra nước và lửa.”

Quán Thế Bồ-Tát lại vì người trì tụng nên nói bài kệ thanh lương tiêu trừ tai họa:

“Như vào rừng sâu chốn hoang vu
Gặp phải cọp sói các thú dữ
Xà rắn sơn yêu loài quỷ quái
Nghe tụng chú này chẳng thể hại

Như băng sông hồ ra biển khơi
Độc xà thuồng luồng ma-kiệt thú
Dạ-xoa la-sát cá ba ba
Nghe tụng chú này tự ẩn xa

Như gặp quân giặc oán tặc vây
Hoặc bị ác nhân cướp tài bảo
Chí thành xưng tụng Đại Bi Chú
Chúng khởi từ tâm về chốn cũ

Như bị bắt giữ bởi quan thần
Gông cùm xiềng xích tống giam tù
Chí thành xưng tụng Đại Bi Chú
Quan sẽ khai ân phóng thích về

Như vào ngoại đạo nhà nuôi ngải
Ẩm thực bỏ thuốc muốn làm hại
Chí thành xưng tụng Đại Bi Chú
Độc dược biến thành cam lộ tương

Sản phụ đương lúc sinh nở khó
Tà ma chướng nạn khổ đau xiết
Chí tâm xưng tụng Đại Bi Chú
Quỷ thần thoái lui sanh dễ dàng

Ác long dịch quỷ phun khí độc
Bệnh sốt lây lan tánh mạng nguy
Chí tâm xưng tụng Đại Bi Chú
Thọ mạng chuyển tăng dịch bệnh trừ

Quỷ rồng hoành hành các độc sưng
Mụt nhọt lở loét khổ chẳng kham
Chí tâm xưng tụng Đại Bi Chú
Tam thổi nơi đó độc thũng tiêu

Chúng sanh ác trược khởi lòng ác
Trù ếm bùa chú kết oán thù
Chí tâm xưng tụng Đại Bi Chú
Thư ếm quay ngược lại kẻ gây

Chúng sanh ác loạn khi Pháp diệt

Dâm dục lửa hừng tâm điên đảo
Chán vợ bỏ chồng đi ngoại tình
Ý tà ngày đêm chẳng tạm đình

Như lại xưng tụng Đại Bi Chú
Dâm dục lửa diệt tà tâm trừ
Nếu ta rộng khen công lực chú
Một kiếp xưng tán chẳng tận cùng”

Uy Lực Quảng Đại của Chú Đại Bi

Lúc bấy giờ Quán Thế Âm Bồ-Tát bảo Phạm Thiên rằng:

“Nếu có người tụng chú này năm biến, rồi lấy sợi chỉ ngũ sắc để làm dây đeo. Niệm 21 lần như vậy, cứ mỗi lần chú xong một biến thì cột thành một gút. Khi xong, đeo sợi dây ngũ sắc vào nơi cổ. Đà-la-ni này đã có 99 ức Hằng Hà sa chư Phật thuở quá khứ đã tuyên thuyết.

Tất cả chư Phật kia sẽ khiến những hành giả đang tu hành Lục Độ mà vẫn chưa viên mãn, thời sẽ chóng viên mãn.

Những ai chưa phát Bồ-đề tâm, thời sẽ mau phát tâm.

Nếu có ai tu Pháp Thanh Văn mà chưa chứng quả, thời sẽ sớm chứng quả.

Nếu có chư thần cùng vị tiên nhân nào trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới còn chưa phát vô thượng Bồ-đề Tâm, thời sẽ mau phát tâm.

Nếu có những chúng sanh nào chưa có lòng tin sâu nơi Pháp Đại Thừa, do uy thần lực của Đà-la-ni này nên sẽ khiến cho hạt giống của Pháp Đại Thừa tăng trưởng. Do bởi sức từ bi và phương tiện của ta nên sẽ làm cho sự tu hành của họ đều được thành tựu.

Nếu có tam đồ chúng sanh nào trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới bị đọa nơi tăm tối và khi nghe thần chú này của ta, thời sẽ đều được lìa khổ.

Nếu có vị Bồ-Tát nào chưa lên bậc Sơ Trụ, thời sẽ mau được, cho đến đắc quả địa Thập Trụ, và nhẫn đến Phật địa. Họ sẽ tự nhiên thành tựu 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.

Nếu có người tu Pháp Thanh Văn mà nghe Đà-la-ni này, chừng một lần thoáng qua tai, rồi biên chép Đà-la-ni này, dùng trực tâm tu hành và như Pháp an trụ, thời bốn quả của bậc Sa-môn sẽ vô cầu tự đắc.

Khi có người trì tụng chú này, thời sẽ khiến cho sông hồ và bốn biển lớn trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới sẽ vọt phun. Lại làm cho núi non vách đá, núi Tu-di cùng núi Thiết Vi dao động và vỡ nát như vi trần. Chúng sanh trong đó đều sẽ phát vô thượng Bồ-đề tâm.

Nếu có các chúng sanh ở đời hiện tại có điều mong cầu, thì nên trong 21 ngày ăn chay trì giới thanh tịnh và tụng Đà-la-ni này; họ tất sẽ được như sở nguyện. Tất cả ác nghiệp từ sanh tử này đến sanh tử kia thảy đều tận diệt. Hết thảy chư Phật, Bồ-Tát, Phạm Thiên, Đế-thích, Tứ Thiên Vương, và tiên thần long vương đều tất biết và chứng minh việc ấy.

Nếu có hàng trời người tụng trì Đà-la-ni này, vị đó như tắm gội trong ao suối, sông hồ, hay biển lớn, thời những chúng sanh trong đó sẽ được nước của người này tắm thấm đến thân chúng, tất cả ác nghiệp trọng tội thảy đều diệt trừ. Chúng sẽ liền được chuyển sanh tịnh độ ở phương khác, liên hoa hóa sanh và chẳng thọ thân từ thai sanh, thấp sanh hay noãn sanh. Hà huống là chính người thọ trì đọc tụng.

Nếu có người đang đi trên đường và trì tụng chú này, khi ngọn gió thổi qua thân cùng y phục của người ấy, như có các chúng sanh nào được làn gió kia chạm đến, thời hết thảy trọng chướng ác nghiệp tất đều diệt tận. Chúng lại sẽ chẳng còn thọ báo nơi tam ác đạo và thường sanh vào cõi nước Phật. Vì thế nên biết rằng, phước đức và quả báo của người thọ trì thần chú này thật không thể nghĩ bàn.

Phàm ai trì tụng Đà-la-ni này thì từ trong miệng phát ra tiếng nói, hoặc lành hay dữ, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên long quỷ thần nghe đó, đều là thanh tịnh Pháp âm và họ sẽ khởi tâm cung kính cùng tôn trọng người ấy như Phật.

Ông nên biết người trì tụng Đà-la-ni này tức là Phật thân tạng, bởi 99 ức Hằng Hà sa chư Phật đều thương mến người ấy.

Ông nên biết người đó tức là quang minh tạng, bởi tất cả Như Lai đều chiếu hào quang đến người ấy.

Ông nên biết người đó là từ bi tạng, bởi người ấy luôn dùng Đà-la-ni để cứu hộ chúng sanh.

Ông nên biết người đó là diệu Pháp tạng, bởi người ấy rộng nhiếp hết thảy các môn tổng trì.

Ông nên biết người đó là thiền định tạng, bởi trăm ngàn tam-muội đều hiện ra trước người ấy.

Ông nên biết người đó là hư không tạng, bởi người ấy thường dùng không tuệ để quán chúng sanh.

Ông nên biết người đó là vô úy tạng, bởi trời rồng và thiện thần luôn hộ trì người ấy.

Ông nên biết người đó là diệu ngữ tạng, bởi trong miệng của người ấy có tiếng Đà-la-ni vang ra không ngừng.

Ông nên biết người đó là Thường Trụ tạng, bởi tam tai của ác kiếp chẳng thể hoại diệt người ấy.

Ông nên biết người đó là giải thoát tạng, bởi thiên ma ngoại đạo không thể cản trở người ấy.

Ông nên biết người đó là dược vương tạng, bởi người ấy thường dùng Đà-la-ni để chữa bệnh cho chúng sanh.

Ông nên biết người đó là thần thông tạng, bởi người ấy du hành các cõi nước của chư Phật đều được tự tại; công đức của họ, tán dương chẳng thể cùng tận.”

Phương Pháp Kiết Giới và Pháp Tiêu Tai

[Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo Phạm Thiên rằng:]

“Này thiện nam tử! Nếu lại có người nhàm chán nỗi khổ của thế gian và mong cầu trường thọ an vui, họ nên kiết giới ở một nơi thanh tịnh yên tĩnh. Người ấy nên trì chú vào y phục, thức ăn nước uống, hoặc hương đốt hay thuốc thang, 108 biến trước khi dùng, thời tất sẽ được sống lâu.

Nếu người đó có thể kiết giới như Pháp và y Pháp thọ trì, thời tất cả sẽ thành tựu. Họ có thể kiết giới bằng cách:

– Chú 21 biến vào con dao, rồi rạch xuống đất để kiết giới.
– Hoặc chú 21 biến vào chén nước trong và rưới ở tứ phương để kiết giới.
– Hoặc chú 21 biến vào những hạt cải trắng và rải ở bốn hướng để kiết giới.
– Hoặc dùng tâm khởi tưởng đến nơi kiết giới.
– Hoặc chú 21 biến vào tro sạch của lò hương và dùng để kiết giới.
– Hoặc chú 21 biến vào sợi dây ngũ sắc và giăng vòng quanh bốn phía để kiết giới.

Cách nào ở trên cũng đều được. Nếu có thể như Pháp thọ trì thời tất sẽ tự nhiên đạt hiệu quả.

Nếu có người nghe tên của Đà-la-ni này mà còn diệt vô lượng kiếp sanh tử trọng tội. Hà huống là người đó tụng trì.

Nếu có người trì tụng thần chú này, ông nên biết người ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật cùng gieo trồng căn lành rộng lớn.

Nếu có người trì tụng thần chú này, là vì muốn bạt trừ khổ nạn cho các chúng sanh, ông nên biết người ấy đầy đủ tâm đại bi và chẳng bao lâu sẽ thành Phật. Khi thấy có chúng sanh nào, người đó đều tụng chú này để khiến cho tai họ nghe được và sẽ làm nhân của quả Bồ-đề. Công đức người này thật vô lượng vô biên, ngợi khen chẳng thể cùng tận.

Nếu có người với tâm thanh tịnh chí thành, ăn chay trì giới, và vì tất cả chúng sanh mà sám hối nghiệp tội đời trước của họ, cũng như sám hối hết thảy ác nghiệp của chính mình từ vô lượng kiếp đến nay. Người ấy tụng Đà-la-ni một cách rành rẽ và từng âm từng tiếng chẳng bị đứt quãng, người đó sẽ liền chứng bốn quả của bậc Sa-môn trong đời hiện tại. Người đó sẽ có các căn lanh lợi, trí tuệ quán sát cùng thiện xảo phương tiện. Quả vị Thập Địa còn chứng được không khó. Hà huống là những phước báo tí ti của thế gian. Cầu gì được nấy, không gì là chẳng toại.

Nếu muốn sai khiến quỷ thần, hãy lấy một cái đầu lâu ngoài hoang dã và rửa cho sạch. Rồi ở trước hình tượng Thiên Nhãn thiết lập đàn tràng và dùng đủ mọi hương hoa cùng ẩm thực để cúng tế cho cái sọ đầu mỗi ngày như vậy. Đến ngày thứ bảy thì quỷ sẽ hiện thân và tùy người sai khiến.

Nếu muốn triệu thỉnh Tứ Thiên Vương thì trì chú này vào hương chiên đàn rồi đem đốt. Do bởi tâm đại bi và nguyện lực thâm trọng của vị Bồ-Tát này nên cũng làm cho uy thần của Đà-la-ni đó quảng đại như vậy.”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Nếu có quốc gia nào khi tại nạn khởi lên, như quốc vương của nước này dùng Chánh Pháp trị quốc, khoan hồng lê dân, phóng sanh thú vật. Lại không đàn áp chúng sanh và ân xá tội nhân. Như có thể trong bảy ngày bảy đêm, thân tâm ngài tinh tấn và trì tụng Đại Bi Tâm Đà-la-ni thần chú này, thì sẽ khiến cho tất cả tai nạn của nước kia thảy đều diệt trừ, năm loại ngũ cốc tươi tốt, muôn dân an lạc.

Lại nữa, nếu trong nước bị ngoại bang oán địch luôn đến xâm lăng nhiễu loạn, bá tánh bất an, đại thần mưu phản, dịch bệnh hoành hành, hạn hán thất thường, hay nhật nguyệt biến đổi. Như đủ mọi tai nạn như thế khởi lên, thời nên tạo một hình tượng của Thiên Nhãn Đại Bi Tâm, mặt xoay về hướng tây. Rồi dùng mọi thứ hương hoa, tràng phan bảo cái, hoặc ẩm thực trăm vị mà chí tâm cúng dường. Vị quốc vương này như lại có thể trong bảy ngày bảy đêm với thân tâm tinh tấn và trì tụng thần diệu chương cú của Đà-la-ni này, thì ngoại bang oán địch liền tự hàng phục; chúng sẽ rút lui và không còn quấy nhiễu hay não loạn nữa. Các nước sẽ cùng nhau mở cửa giao thiệp và trở nên thân thiện. Những hoàng tử cùng bá quan văn võ sẽ hết mực trung thành. Phi hậu và cung nữ sẽ hiếu kính nhà vua. Chư long quỷ thần sẽ ủng hộ nước đó. Mưa gió đúng mùa, cây quả xum xuê; dân chúng sống trong cảnh thái bình.

Lại nữa, nếu trong nhà của ai gặp phải bệnh nguy kịch, trăm điều quái dị khởi lên; tà ma quỷ thần não loạn, cửa nhà sa sút; hoặc ác nhân đi rêu rao nói xấu toan mưu hại, làm cho người lớn kẻ nhỏ trong ngoài bất hòa, thời họ nên thiết lập đàn tràng và hướng về trước tượng của Thiên Nhãn Đại Bi, chí tâm tưởng niệm Quán Thế Âm Bồ-Tát, tụng Đà-la-ni này mãn 1.000 biến, thì các việc dữ như trên thảy đều tiêu trừ và sẽ an ổn mãi về sau.”

Các Danh Hiệu của Thần Chú

Ngài A-Nan bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Thần chú này tên là gì, và chúng con thọ trì như thế nào?”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Thần chú này có rất nhiều tên. Như là:

– Quảng Đại Viên Mãn,
– Vô Ngại Đại Bi,
– Cứu Khổ Đà-la-ni,
– Diên Thọ Đà-la-ni,
– Diệt Ác Thú Đà-la-ni,
– Phá Ác Nghiệp Chướng Đà-la-ni,
– Mãn Nguyện Đà-la-ni,
– Tùy Tâm Tự Tại Đà-la-ni,
– Tốc Siêu Thượng Địa Đà-la-ni.

Ông nên thọ trì như vậy.”

Ngài A-Nan bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn!

Vị Bồ-Tát Ma-ha-tát này khéo có thể tuyên thuyết Đà-la-ni như thế, danh hiệu của ngài là gì?”

Đức Phật bảo:

“Danh hiệu của vị Bồ-Tát này là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, hay còn gọi là Thiên Quang Nhãn.

Này thiện nam tử! Quán Thế Âm Bồ-Tát này đây có sức uy thần không thể nghĩ bàn. Trong vô lượng kiếp thuở quá khứ, ngài đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Do bởi nguyện lực đại bi, ngài muốn phát khởi tất cả chư Bồ-Tát mang đến sự an lạc và điều mãn nguyện cho các chúng sanh nên thị hiện làm Bồ-Tát. Đại chúng các ông, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, Phạm Thiên, Đế-thích, cùng long thần, đều phải cung kính và chớ nên coi nhẹ. Hết thảy trời người phải luôn cúng dường và thường xuyên niệm danh hiệu của ngài, thời sẽ được vô lượng phước, diệt vô lượng tội, và đến lúc mạng chung sẽ vãng sanh về quốc độ của Đức Phật A-di-đà.”

Đại Bi Diệu Pháp

Phật bảo ngài A-Nan:

“Thần chú này do Quán Thế Âm Bồ-Tát tuyên thuyết là chân thật bất hư.

Nếu muốn thỉnh vị Bồ-Tát này đến, hãy chú vào hương An Tất 21 biến rồi đem đốt, Bồ-Tát sẽ liền đến.

Nếu có người bị hồn mèo nhập thân, hãy lấy sọ của con mèo đã chết đem đốt thành tro, rồi trộn với bùn sạch và nặn thành hình tượng con mèo. Sau đó ở trước tượng của Thiên Nhãn, chú 108 biến vào một con dao bén và vừa chú vừa cắt tượng mèo thành 108 khúc, tụng chú một biến rồi cắt một miếng. Khi xong, hãy gọi tên con mèo một lần, lập tức hồn của mèo sẽ rời xa vĩnh viễn.

Nếu có người bị bỏ ngải, hãy lấy hương Long Não và trộn với hương An Tất, mỗi phần bằng nhau. Sau đó, đổ vào một bát tỉnh hoa thủy (1). Khi xong, đem nấu thành một chén và ở trước tượng của Thiên Nhãn chú 108 biến rồi lấy uống, lập tức sẽ giải trừ.

Nếu có người bị rắn độc hay bò cạp cắn, hãy lấy bột của củ gừng khô rồi chú vào đó bảy biến và đắp lên chỗ bị cắn trúng, lập tức sẽ khỏi.

Nếu có người bị kẻ oán thù mưu hại, hãy lấy đất, bột, hay sáp để nặn làm tượng hình của họ. Rồi ở trước hình tượng của Thiên Nhãn, chú 108 biến vào một con dao bén. Khi chú một biến, cắt một khúc và gọi tên người kia một lần. Sau đó, đem 108 khúc đi đốt hết. Người kia lập tức sẽ hoan hỷ và kính mến bạn cho đến trọn đời.

Nếu có người mắt bị hư hoại, như bị mờ hay bị mù, hoặc mắt bị che bởi một vừng trắng hay một màn đỏ, hãy lấy mỗi thứ một quả của trái haritaki, amala, và vihetaki đem nghiền thành bột. Trong lúc nghiền nát, miệng niệm Phật và chớ để người sản phụ mới sanh cùng heo hoặc chó trông thấy. Xong rồi trộn với mật ong trắng hay với sữa người. Nếu dùng sữa người thì phải là sữa của người mẹ sanh con trai; sữa từ người sản phụ sinh con gái thời sẽ không thành. Khi đã trộn thuốc xong, hãy đến trước tượng của Thiên Nhãn, chú 108 biến vào phương thuốc, rồi đắp lên mắt. Suốt bảy ngày phải ở trong phòng kín và đừng để gặp gió. Sau đó mới gỡ ra, nhãn thị thời sẽ hoàn phục và không còn vừng trắng hay màn đỏ che nữa, mắt sẽ sáng rõ.

Nếu có người bị bệnh sốt rét, hãy lấy da của cọp, sói, hoặc da beo và chú 21 biến lên đó. Rồi khoác vào trên thân mình, bệnh sẽ lành. Trong các loại da, da sư tử là hơn hết.

Nếu có người bị rắn độc cắn, chú 21 biến vào ráy tai của người bị cắn và xoa vào chỗ đó, độc sẽ trừ.

Nếu có người bị bệnh sốt rét dữ dội và đã vào tim đến độ muốn chết, hãy lấy một chén chất nhựa keo tiết ra từ cây đào, hòa với nước trong và đem nấu thành nửa chén. Khi xong, chú bảy biến lên đó và đem cho người bệnh uống hết trong một hơi, bệnh liền tiêu trừ. Nhớ là đừng nhờ người nữ đi nấu thuốc.

Nếu có người bị quỷ nhập hoặc có quỷ khống chế tử thi, hãy lấy hương An Tất và chú 21 biến rồi đem đốt, xông dưới lỗ muỗi của nạn nhân. Sau rồi lấy tro ấy vo thành bảy viên lớn như cục phân của con thỏ, chú 21 biến lên đó và uống hết bảy viên ấy, lập tức sẽ khỏi. Trước và sau đó nhớ đừng uống rượu, ăn thịt hay dùng ngũ tân cùng nói lời xấu ác. Hoặc một cách nữa là lấy vị thuốc Hùng Hoàng trộn với hạt cải trắng và muối hột, chú 21 biến lên đó và đem đốt ở dưới gầm giường người nhập, ma quỷ hành bệnh kia liền tháo chạy và chẳng còn dám nán lại.

Nếu có người bị điếc, chú 21 biến vào dầu mè và nhỏ vào lỗ tai thời sẽ lành.

Nếu có người một bên của thân thể bị tê liệt, làm cho mũi nghẹt và tay chân không cử động được, hãy lấy dầu mè nấu với hương Thanh Mộc rồi chú 21 biến và thoa trên thân, thời sẽ vĩnh viễn lành hẳn. Một phương pháp khác là chú 21 biến vào bơ bò nguyên chất và xoa lên thân cũng được lành.

Nếu có sản phụ bị sinh khó, chú 21 biến vào dầu mè và thoa lên rún cùng trong ngọc môn, tức liền sanh dễ dàng.

Nếu thai nhi của phụ nữ mang thai bị chết trong dạ con, hãy lấy một lạng cỡ lớn của cỏ Ngưu Tất trộn với hai chén nước trong và nấu thành một chén. Rồi chú 21 biến và đem cho uống, thai nhau liền ra khỏi, người mẹ cũng chẳng bị đau đớn. Như thai nhau còn không ra thì tiếp tục cho người mẹ uống thuốc lần nữa, thời thai nhau sẽ xuất ra và người mẹ cũng được bình yên.

Nếu có người bị đau tim đột ngột, đau không thể tả. Đây gọi là Độn Thi Chú. Hãy lấy cây hương Huân Lục, gọt khúc đầu thành hình như một núm vú và chú 21 biến vào đó. Rồi dùng miệng mút và nuốt nước từ cây tiết ra. Không giới hạn là mút nhiều hoặc ít là bao nhiêu. Nước tiết ra của cây sẽ làm cho người đó tiêu chảy ói mửa, sau đó liền sẽ lành. Hãy thận trọng đừng ăn ngũ tân cùng rượu thịt.

Nếu có người bị lửa đốt, hãy lấy phân tươi của con bò đen và chú 21 biến lên đó, rồi thoa lên chỗ phỏng thời sẽ hết.

Nếu có người bị loài trùng cắn tim, chú 21 biến vào nửa chén nước tiểu của con ngựa trắng, rồi đem uống thời liền dứt trừ. Nếu là bệnh nặng, hãy dùng hết một chén. Sau đó, con sau cắn đuôi con trước và nối nhau như sợi dây mà ra đường đại tiện.

Nếu có người bị móng chân tay đâm vào thịt làm cho ê ẩm, hãy lấy lá Lăng Tiêu vò nát, chú 21 biến và đắp lên chỗ đau, rồi nhổ gốc móng ra và lập tức sẽ được lành.

Nếu có người bị muỗi độc chích trúng mắt, hãy vắt nước phân tươi của con lừa và chú 21 biến lên đó, rồi nhỏ lên mắt bị chích vào buổi tối trước khi đi ngủ, thời sẽ được lành.

Nếu có người bị đau bụng, hãy hòa 21 miếng muối hột với một bát tỉnh hoa thủy. Sau đó chú 21 biến, uống nửa chén thời sẽ liền khỏi.

Nếu có người mắt bị bầm đỏ, trong mắt có cục thịt lồi lên, hoặc con ngươi có màn che khuất, hãy lấy lá Cẩu Kỷ giã nát và chú 21 biến vào nước vắt đó. Rồi lấy đồng tiền bạc xanh để vào nước vắt qua đêm. Ngày kế, hãy chú thêm vào đó bảy biến và nhỏ lên mắt thời sẽ lành.

Nếu có người ban đêm hay nhút nhát và hãi sợ đến nỗi ra vào đều kinh sợ, hãy làm một sợi dây từ sợi chỉ trắng và chú 21 biến. Khi chú một biến, thắt một gút. Sau rồi đeo trên cổ, thời sự sợ hãi sẽ liền tiêu trừ. Không chỉ trừ đi sợ hãi mà cũng diệt được tội.

Nếu có người trong nhà xảy ra các tai nạn, hãy lấy nhánh cây lựu phân ra thành 1.080 khúc. Ở hai bên đầu của mỗi khúc bôi bơ và mật ong. Sau đó, chú một biến vào mỗi khúc rồi đem đốt và đốt hết 1.080 khúc với phương pháp như thế, thời tất cả tai nạn tất đều diệt trừ. Pháp này phải nên ở trước tượng của Thiên Nhãn mà làm như vậy.

Nếu chú 21 biến vào cây Bạch Xương Bồ và cột trên tay phải, thời tất cả trận đấu hay luận nghị đều được thắng hơn người.

Nếu lấy lá hoặc nhánh hay cuống của cây Cẩu Kỷ, cắt chúng thành từng miếng và bôi ở hai bên đầu của mỗi miếng với bơ nguyên chất và mật ong trắng. Sau đó, chú một biến vào mỗi miếng rồi đem đốt. Hãy đốt hết 1.080 miếng với phương pháp như thế. Mỗi ngày ba thời khác nhau, chú 1.080 biến mỗi lần và làm như vậy cho đến bảy ngày. Như một vị Chú Sư, bạn sẽ tự khai ngộ và có trí tuệ thông triệt.

Nếu có người muốn hàng phục đại lực quỷ thần, chú 49 biến vào cây gỗ Hoạn Tử rồi đem đốt. Đừng quên bôi bơ và mật ong và phải hành Pháp này trước tượng của Đại Bi Tâm.

Nếu lấy một lạng Ngưu Hoàng cỡ lớn bỏ vào trong bình ly, rồi để ở trước tượng Đại Bi Tâm và chú 108 biến. Sau đó bôi lên thân mình và chấm trên trán, thì tất cả thiên long quỷ thần, người cùng phi nhân thảy đều sẽ hoan hỷ.

Nếu có người bị gông cùm xiềng xích, chú 108 biến vào phân của con chim bồ câu trắng. Rồi xoa lên hai tay và chà vào ổ khóa, thì ổ khóa sẽ tự mở ra.

Nếu vợ chồng bất hòa và mối quan hệ như lửa với nước, hãy lấy đuôi lông của chim uyên ương [vịt uyên ương] để ở trước tượng Đại Bi Tâm, rồi chú 1.080 biến và mang theo trong mình, thời phu thê sẽ tương thân tương ái và tôn trọng vui vẻ đến trọn đời.

Nếu ruộng lúa hoặc cây trái bị sâu bọ ăn hay làm hại, chú 21 biến vào tro sạch của lò hương, hoặc cát trắng, hay nước trong. Rồi rưới bốn phía xung quanh nơi trồng trọt thì loài sâu bọ sẽ liền rời khỏi. Cây quả được nước trì chú rưới lên, sâu bọ sẽ không còn dám ăn nữa.”

Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn

Phật bảo ngài A-Nan:

“[1] Như muốn vật quý cùng đủ mọi đồ trân bảo, hãy dùng Như Ý Châu Thủ.

[2] Như muốn cầu an bởi nhiều sự chẳng được yên ổn, hãy dùng Quyến Sách Thủ.

[3] Như muốn trừ các chứng bệnh trong người, hãy dùng Bảo Bát Thủ.

[4] Như muốn hàng phục tất cả yêu tinh quỷ thần, hãy dùng Bảo Kiếm Thủ.

[5] Như muốn hàng phục tất cả thiên ma chúng thần, hãy dùng Bạt-chiết-la Thủ.

[6] Như muốn tồi phục tất cả oán địch, hãy dùng Kim Cang Xử Thủ.

[7] Như muốn trừ các điều sợ hãi của nơi bất an, hãy dùng Thí Vô Úy Thủ.

[8] Như muốn mắt sáng do mắt mờ chẳng thấy, hãy dùng Nhật Tinh Ma-ni Thủ.

[9] Như muốn cầu thanh lương do bị sốt hay trúng độc, hãy dùng Nguyệt Tinh Ma-ni Thủ.

[10] Như muốn cầu phong quan tiến chức, hãy dùng Bảo Cung Thủ.

[11] Như muốn mau gặp các bạn lành, hãy dùng Bảo Tiễn Thủ.

[12] Như muốn trừ các bệnh trên thân, hãy dùng Dương Chi Thủ.

[13] Như muốn trừ chướng nạn xấu ác, hãy dùng Bạch Phất Thủ.

[14] Như muốn tất cả quyến thuộc hòa vui, hãy dùng Bảo Bình Thủ.

[15] Như muốn trừ tất cả cọp, sói, beo, và các thú dữ, hãy dùng Bàng Bài Thủ.

[16] Như muốn thoát ly các nạn pháp luật ở mọi nơi mọi lúc, hãy dùng Việt Phủ Thủ.

[17] Như muốn có đầy tớ gái trai, hãy dùng Ngọc Hoàn Thủ.

[18] Như muốn đủ mọi công đức, hãy dùng Bạch Liên Hoa Thủ.

[19] Như muốn đắc vãng sanh tịnh độ ở mười phương, hãy dùng Thanh Liên Hoa Thủ.

[20] Như muốn đại trí tuệ, hãy dùng Bảo Kính Thủ.

[21] Như muốn diện kiến hết thảy mười phương chư Phật, hãy dùng Tử Liên Hoa Thủ.

[22] Như muốn tìm bảo tàng trong đất, hãy dùng Bảo Khiếp Thủ.

[23] Như muốn thành tiên đạo, hãy dùng Ngũ Sắc Vân Thủ.

[24] Như muốn sinh lên cõi Phạm Thiên, hãy dùng Quân Trì Thủ.

[25] Như muốn sinh lên các thiên cung, hãy dùng Hồng Liên Hoa Thủ.

[26] Như muốn đẩy lui tha phương nghịch tặc, hãy dùng Bảo Kích Thủ.

[27] Như muốn hô triệu tất cả chư thiên thiện thần, hãy dùng Bảo Loa Thủ.

[28] Như muốn sai khiến tất cả quỷ thần, hãy dùng Độc Lâu Trượng Thủ.

[29] Như muốn mười phương chư Phật mau đến thọ ký, hãy dùng Sổ Châu Thủ.

[30] Như muốn thành tựu hết thảy các Phạm âm thượng diệu, hãy dùng Bảo Đạc Thủ.

[31] Như muốn khẩu nghiệp được biện tài thiện xảo vi diệu, hãy dùng Bảo Ấn Thủ.

[32] Như muốn thiện thần cùng long vương thường đến ủng hộ, hãy dùng Câu Thi Thiết Câu Thủ.

[33] Như muốn từ bi bảo hộ tất cả chúng sanh, hãy dùng Tích Trượng Thủ.

[34] Như muốn hết thảy chúng sanh luôn cung kính và thương yêu lẫn nhau, hãy dùng Hợp Chưởng Thủ.

[35] Như muốn nơi nào sinh ra cũng đều không lìa xa chư Phật, hãy dùng Hóa Phật Thủ.

[36] Như muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật và không còn thọ thân từ bào thai, hãy dùng Hóa Cung Điện Thủ.

[37] Như muốn đa văn học rộng, hãy dùng Bảo Kinh Thủ.

[38] Như muốn từ thân này cho mãi đến khi thành Phật, Bồ-đề tâm sẽ không bao giờ thối chuyển, hãy dùng Bất Thối Kim Luân Thủ.

[39] Như muốn mười phương chư Phật mau đến xoa đảnh thọ ký, hãy dùng Đảnh Thượng Hóa Phật Thủ.

[40] Như muốn cây trái, dưa quả hoặc các loại cốc gạo, hãy dùng Bồ Đào Thủ.

[41] Như muốn khiến cho tất cả loài hữu tình đói khát được mát mẻ, hãy dùng Cam Lộ Thủ.

[42] Như muốn hàng phục oán ma trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, hãy dùng Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ.

Các Pháp mong cầu như vậy có đến cả ngàn. Nay Ta chỉ lược nói như thế.”

Nguyệt Quang Bồ-Tát và Nhật Quang Bồ-Tát Tuyên Thuyết Đà-la-ni

Khi ấy, Nhật Quang Bồ-Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm Đà-la-ni nên thuyết đại thần chú để ủng hộ rằng:

“nam mô bột đà cù na mê, nam mô đạt ma mạc ha đê, nam mô tăng già đa dạ nê, để rị bộ tất tát, đốt diêm nạp ma.

Tụng chú này sẽ diệt trừ tất cả tội, cũng khiến chúng ma xa lánh và dứt trừ thiên tai. Nếu tụng một biến và lễ Phật một lạy, mỗi ngày ba thời tụng chú lễ Phật như vậy, thì mọi nơi sinh ra ở đời sau, người ấy sẽ luôn được tướng mạo đoan chánh. Quả báo đáng mừng thay!”

Lúc đó, Nguyệt Quang Bồ-Tát cũng vì người thọ trì mà thuyết chú Đà-la-ni để ủng hộ rằng:

“thâm đê đế đồ tô tra, a nhã mật đế ô đô tra, thâm kỳ tra, ba lại đế, da di nhã tra ô đô tra, câu la đế tra kỳ ma tra, sa bà ha.

Tụng chú này năm biến vào sợi chỉ ngũ sắc, rồi kết thành sợi dây và cột vào chỗ bị đau. Thần chú này đã có 40 Hằng Hà sa chư Phật thuở quá khứ tuyên thuyết. Nay con cũng nói ra, là vì muốn ủng hộ người thọ trì, để bạt trừ hết thảy chướng nạn, cùng đoạn dứt tất cả ác bệnh thống khổ, thành tựu hết thảy các Pháp lành, và xa lìa tất cả những sự hãi sợ.”

PHẦN LƯU THÔNG

Phật bảo ngài A-Nan:

“Ông nên thọ trì Đà-la-ni này với tín tâm thanh tịnh, hãy lưu truyền rộng rãi ở Diêm-phù-đề và chớ để đoạn tuyệt. Đà-la-ni này mang đến sự lợi ích lớn cho chúng sanh trong Tam Giới. Tất cả bệnh hoạn thống khổ, không có bệnh hoạn nào là chẳng lành. Dù cây đã khô héo, thần chú cũng có thể khiến đâm cành sanh lá, khai hoa kết quả. Hà huống là chúng sanh có tình có thức. Như thân bị bệnh mà trì chú này cũng chẳng lành, thật không có lẽ ấy!

Này thiện nam tử! Sức uy thần của Đà-la-ni này là bất khả tư nghị, thật chẳng thể nghĩ bàn, tán dương mãi cũng không hết. Nếu chẳng phải đã trồng căn lành rộng lớn từ thuở quá khứ xa xưa đến nay, thì thậm chí danh tự còn không thể nghe, hà huống là được thấy. Đại chúng các ông, trời người long thần, khi nghe Ta tán thán thời đều nên tùy hỷ.

Nếu có người hủy báng thần chú này, tức là hủy báng 99 ức Hằng Hà sa chư Phật kia. Như có người đối với Đà-la-ni này sanh lòng nghi hay chẳng tin, thì phải biết người đó vĩnh viễn sẽ mất đại lợi. Trong trăm ngàn vạn kiếp thường lưu chuyển nơi ác thú mà không có kỳ hạn thoát ra, thường không bao giờ thấy Phật, nghe Pháp và gặp Tăng.”

Lúc ấy, hết thảy chúng hội, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, Kim Cang Mật Tích, Phạm Thiên, Đế-thích và Tứ Thiên Vương cùng thiên long quỷ thần, nghe Đức Phật Như Lai ngợi khen Đà-la-ni này, họ thảy đều hoan hỷ và phụng giáo tu hành.

Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ-Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni

Bản dịch: 1/10/2010, hiệu đính: 7/8/2013

Chú Thích

(1) Tỉnh hoa thủy là bát nước từ thùng nước giếng đầu tiên được lấy vào buổi sáng sớm, sau đó đổ vào phương thuốc và lấy ngón tay khuấy vòng vòng như hình của đóa hoa.