KINH THIỀN ĐẠT-MA-ĐA-LA
Hán dịch: Đời Đông Tấn, Tam tạng Phật-đà Bạt-đà-la
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

 

QUYỂN THƯỢNG

Phần 1: CON ĐƯỜNG PHƯƠNG TIỆN TU HÀNH PHÁP NIỆM AN BAN – PHẦN THOÁI CHUYỂN

Trước lễ Phật Mâu-ni
Diệt phiền não thiêu đốt
Người lưu chuyển thoái thất
Giúp họ được thăng tiến
Tu hành pháp vi diệu
Hay lìa lỗi thoái thất
Diệt luôn mọi điều ác
Thành tựu các công đức.

Đức Thế Tôn biết rõ tướng của các pháp, đạt được trí tuệ như thật, diệt tan lửa dữ phiền não, đã thoát khỏi nhà lửa thiêu đốt, dùng thuyền Bát-nhã ba-la-mật vượt biển khổ vô lượng, vì bản nguyện đại Bi nên không bao giờ Ngài rời bỏ chúng sinh, luôn luôn vì những người tu hành mà nói pháp chưa từng có, độ những người chưa độ, làm cho họ được an ổn, có hai cửa cam lồ, mỗi cửa có hai đường: một là đường phương tiện, hai là con đường thù thắng, thanh tịnh, đầy đủ sự vi diệu sâu xa, có khả năng giúp tất cả người tu hành vượt khỏi ba pháp thoái thất, xa lìa mọi trói buộc, thăng tiến càng tăng khiến được thành tựu, quyết định hết khổ sinh tử, dứt trừ mọi ngu si đen tối của chúng sinh từ lâu đời, đưa đến nẻo giải thoát một cách rốt ráo.

Sau khi Đức Thế Tôn diệt độ, các Tôn giả như Ma-ha Ca-diếp, A-nan, Mạt-điền-địa, Xá-na-bà-tư, Ưu-ba-quật, Bà-tu-mật, Tănggià-la-xoa, Đạt-ma-đa-la, cho đến Tôn giả Bất-nhược-mật-đa-la, các vị trì pháp, đem ngọn đuốc trí tuệ này thứ tự truyền cho nhau. Như nay theo những gì tôi đã lãnh hội mà nói ra nghĩa này.

Như những gì tôi nghe
Nói cảnh giới tu hành
Phương tiện vượt cứu cánh
Nhờ tu tập phát sinh
Hành giả đối pháp thiện
Trước nên biết bốn thứ
Lùi, giảm, trụ, thăng tiến
Quyết định các công đức
Khi tu hành thoái lui
Liền trụ pháp không sinh
Cũng không thể thăng tiến
Điều đó nay lược nói
Trước khởi ý bình đẳng
Tập hành quán tâm từ
Liền chấm dứt sân hận
Làm cho không khởi lại
Chận đứng các phiền não
Luôn giữ giới thanh tịnh.
Khi giới đã thanh tịnh
Chánh định từ đó khởi
Đã khởi chánh định rồi
Quán sát nên, không nên
Khéo biết nên, không nên
Hướng về điều nên làm
Đã hướng điều nên làm
Chuyên niệm buộc tâm vào
Từ đó được an lạc
Chánh quán nương hơi thở
Khi quán nương hơi thở
Tâm ấy còn tán loạn
Buộc tâm vào hơi thở
Như người khéo điều ngựa.
(An Ban có hai thứ: Một là thấy, hai là xúc, kẻ độn căn không thể thấy)
Tâm đã trụ hơi thở
Tư duy nhớ nghĩ đúng
Lạnh, nóng cùng nặng nhẹ
Mềm mại, trơn, thô nhám
Hành giả biết rõ ràng
Tùy thuận khéo điều hòa
Xúc chạm mà không biết
Tức là tu hành lùi.
Đếm một cho là hai
Đếm hai cho là một
Cho đến chín còn lộn
Thế nên nói tu lùi.
Nếu đếm bị thoái lui
Phải đếm lại từ đầu
Cho đến mười đầy đủ
Xa lìa các nhầm lẫn.
Chưa tu hoặc tu rồi
Hay có cách tu khác
Phát sinh các lỗi này
Như vậy là tu lùi.
Hành giả khi đếm số
Tâm cứ sinh rối loạn
Rối loạn càng phát triển
Như vậy là tu lùi.
Hơi thở không thông suốt
Xông lên trên mũi, mắt
Làm đảnh đầu đau nhức
Bên trong phong đại khởi,
Thở loạn, mất giềng mối
Mà không biết điều phục
Thân thể hết sức nóng
Tâm kia sinh hỗn loạn,
Bốn thứ đã rối bời
Phong đại dấy lên tranh
Hành giả khiến nó dứt
Mà không đủ khả năng,
Không biết cách đối trị
Đây ắt mau thoái giảm
Hành giả nương thở vào
Mà lại nương thở ra,
Hành giả duyên thở ra
Mà lại duyên thở vào
Cả hai tâm đều tịnh
Đây là quả tu hành.
Vắng lặng định ý sinh
Mà lại trụ số đếm
Có các lỗi lầm này
Do tu hành thoái lui.
Thở gấp mà an ban
Thì khiến niệm tán loạn
Do niệm tán loạn này
Tâm tu hành phát cuồng.
Vì tâm kia phat cuồng
Không biết nên, không nên
Cả hai không phân biệt
Thế nên nói tu lùi.
Hành giả đếm đã thành
Thở ra biết thở ra
Ra rồi biết chỗ trụ
Nơi ấy khéo quán sát.
Quán rồi thở trở lại
Lại rồi được thanh tịnh
Không rõ biết sáu thứ
Nên tu hành thoái lui.
Dài, ngắn phân biệt rõ
Toàn thân đều tỉnh thức
Thân hành tạm ngơi nghỉ
Tất cả nên biết rõ
Không hiểu rõ điều đó
Khiến tu hành thoái lùi.
(Bốn việc thù thắng của
Thân niệm xứ xong)
Biết vui cũng biết thích
Ý hành siêng phương tiện
Lại nên chế tâm mình
Khiến không cho loạn động.
(Bốn việc thù thắng của
Thọ niệm xứ xong)
Phân biệt biết tâm mình
Tu hành quán sát đúng
Lại sinh tâm vui vẻ
Trở lại nhiếp vào định
Không phải tâm không định
Định rồi tâm giải thoát.
(Bốn việc thù thắng của
Tâm niệm xứ xong)
Người khéo tu giải thoát
Không để tâm chìm đắm
Nếu rơi vào chìm đắm
Thì không thể giải thoát
Quán sát đoạn vô thường
Lìa dục và diệt tận
Hít vào, thở ra diệt
Gọi là tu hành thắng.
(Đây là bốn pháp Tương tợ niệm xứ)
Như vậy mười sáu hành
Tâm tự tại hồi chuyển
Những gì xúc biết được
Thấy được cũng như vậy.
Nếu thấy cùng với xúc
Không khéo biết phân tích
Lỗi này cần phải rõ
Vô trí nên thoái lui.
Tu hành tăng tiến lên
Không nên duyên nơi thấp
Nơi thấp cũng như vậy
Không nên tiến lên trên.
Nếu thấy hai đều tiến
Tâm trụ quán bình đẳng
Thì nó tự nhiên thành
Như vậy đạt cứu cánh.

Phần 2: CON ĐƯỜNG TU HÀNH THÙ THẮNG – PHẦN THOÁI CHUYỂN

Niệm thù thắng thành tựu
Đắm mình trong biếng trễ
Thế là trạng thái lùi
Không kham nổi sở cầu.
Không nhiễm ô, vô ký
Dấy lên các phiền não
Cấu, trược bức bách sinh
Do đó mất chánh kiến.
Trạo cử hoặc bế tắc
Trôi nổi, thô, trơn, nhám
Là năm tướng thoái giảm
Tu hành nên phân biệt.
Tránh xa sự viễn vọng
Chấp hữu nên đọa lạc
Nhìn lại thấy hiểm nguy
Đều là tướng thoái giảm.
Bệnh nhiều dứt tranh chấp
Nhiều nghiệp giong ruổi mãi
Lấy đó làm giải thoát
Là năm nhân thoái giảm.
Tín, giới, văn, xả, tuệ
Từ đó suy thoái dần
Thân nặng và tối, độn
Ham ngủ và chìm đắm.
Là năm thứ nên biết
Tu hành tướng thoái chuyển
Sợ sệt nhiều do dự
Kinh hãi không vui thích.
Biếng trễ lìa chỗ muốn
Không hồi hướng tu hành
Chưa tập, đã tập rồi
Cả hai đều bị mất.
Cho đó là giải thoát
Nên gọi tu hành lùi
Chánh định lìa tướng vui
Trí tuệ tiêu tan hết.
Bốn đại chủng thô nhám
Lại từ trong thân khởi
Trạo cử mất chánh niệm
Do đó ý rối loạn.
Tâm này không yên tĩnh
Đều từ hành giả sinh
Tất cả các tướng lành
Không hiển hiện rõ ràng.
Hành giả quán như vậy
Muốn thấy nhưng rất khó
Các căn đều giong ruổi
Theo dục bám nẻo duyên.
Ý tà khắp đó đây
Vui đắm vào cảnh giới
Hình tiêu, ý sầu thảm
Thân này bị thiêu đốt.
Thiêu đốt như vậy rồi
Vì thế nói tu lùi
Không siêng năng phương tiện
Về sau ắt hoi hận.
Nghe những điều thành tựu
Muốn tiến nhưng vì yếu
Không đến được chỗ vui
Thấy thù thắng không giữ
Đều do vô trí cả
Thế nên nói tu lùi
Tự nghĩ có phạm giới
Nghi, hối và các giác.
Ý nhược không còn chuyên
Thế nên nói tu lùi
Các lỗi, định ý mòn
Chánh định dần tiêu diệt.
Tâm loạn triền cái che
Vì thế nói tu lùi
Tâm khởi điều thuận xả
Không quán thời, phi thời.
Không rõ duyên trụ khởi
Vô trí nên tu lùi
Không biết hành sáu thời
Cũng không rõ sáu cõi.
Ngu muội sáu phương tiện
Vì thế nói tu lùi
Biết tham dục, sân hận
Mười tưởng khéo phương tiện.
Hướng về cảnh giới thiền
Và hiểu sai tâm pháp
Vượt qua từng thứ lớp
Vô trí nên tu lùi.
Không quán xứ phi xứ
Nghiệp báo và chánh thọ
Thiền định các giải thoát
Không rõ vị thanh tịnh.
Các căn giăng bủa khắp
Không phân biệt tánh dục
Tâm đuổi theo tướng tạp
Vì vô trí nên lùi.
Đối với đường khổ vui
Tâm ấy không hướng đến
Ý mê hoặc như vậy
Ắt hướng về thoái chuyển.
Khởi trụ cùng khởi duyên
Ra vào hay phương tiện
Không thành tựu sáu pháp
Vì thế tu hành lùi.
Biết pháp cũng biết nghĩa
Biết thời cũng biết lượng
Biết mình và biết người
Biết cả phước Già-la
Không rõ bảy điều này
Vì thế tu hành lùi.
Dấy lên các pháp ác
Quen tạo nghiệp thấp hèn
Thân gần bạn không tốt
Thế nên tu hành lùi.
Nói sai, việc làm trái
Người thọ tâm hướng vui
Nên biết đây không lâu
Tu hành chắc thoái chuyển
Y báo và chánh báo
Nào giường nằm các thứ
Tất cả chẳng phải vui
Gần nó khiến tu lùi.
Vui theo các tướng tạp
Tu tuệ vì đó giảm
Vứt hết chốn sở duyên
Tâm không được chân thật.
Tu hành bỏ tướng chánh
Tâm chạy theo duyên ngoài
Tuy muốn về chỗ cũ
Nhưng ý lại không vui
Nên mất phần trưởng dưỡng
Tâm đó không nhất định
Thân không được tươi nhuần
Vui thích cũng không sinh
Không bằng lòng hiện cảnh
Thân ý đều rối loạn
Chánh định không khởi nổi
Vĩnh viễn tâm không trụ
Tâm không trụ như vậy
Nên khiến tu hành lùi.
Ái kiến, mạn càng tang
Tâm đắm chấp vào duyên
Do đó lụy niệm sinh
Thế nên nói tu lùi.
Thân như gai nhọn chích
Nên cứ hay trạo cử
Toàn thân đều nặng nề
Như rắn độc hung dữ
Có ba lỗi ác ấy
Chắc chắn tu hành lùi.
Việc làm được chưa được
Việc khác ý không ưa
Quen gần ba pháp lùi
Thế nên nói tu chuyển
Nghiệp báo và phiền não
Đó là ba chướng ngại
Trở ngại đường giải thoát
Vì thế tu hành lùi.
Phương tiện tưởng hạnh ác
Ở cảnh giới Tam-muội
Nơi đó không quán sát
Vì thế tu hành lùi.
Phương tiện tưởng cảnh giới
Hành Tam-muội, các môn…
Nghe theo điều hy vọng
Thì lùi ngay bước đầu.
Lúc sinh quán tưởng diệt
Lúc diệt quán tưởng sinh
Cả hai đều sẽ mất
Vì thế nên tu lùi.
Nếu ở trong pháp trụ
Và quán tưởng sinh diệt
Dấy lên các điên đảo
Gọi là tu hành lùi.
Lúc vào quán tưởng ra
Lúc ra quán tưởng vào
Cả hai quán tưởng trụ
Thì gọi là điên đảo.
Muốn cởi trói phiền não
Tu hành đúng phương tiện
Nhờ thế càng thêm sức
Các tướng tương tợ sinh.
Tướng tương tợ đã sinh
Tâm hành giả tùy chuyển
Phiền não liền khởi lên
Gọi là tu hành lùi.
Người hành giả vượt qua
Dòng nước xiết chảy mạnh
Vì khả năng yếu kém
Không vào được biển pháp.
Vô lượng cách thoái lùi
Sâu xa khó lường nổi
Bậc trí giả sáng suốt
Chính mình nên nêu rộng.

Phần 3: CON ĐƯỜNG PHƯƠNG TIỆN TU HÀNH – PHẦN AN BAN NIỆM TRỤ

Theo sức khả năng tôi
Nói lỗi thoái lui rồi
Nay sẽ nói lỗi trụ
Hành giả khéo lắng nghe.
Trong lúc thở ra vào
Không thấy cũng không biết
Không hiểu phương tiện cầu
Đó là trụ cửa đầu.
Văn tuệ đã phát sinh
Kế hiểu rõ tư tuệ
Không hiểu rõ thứ lớp
Ngu si trụ chỗ trói.
Nếu đếm đã thành tựu
Thở ra biết thở ra
Không biết pháp tùy thuận
Thế nói tu hành trụ.
Như Phật hỏi Tỳ-kheo:
Ai tập niệm An ban?
Có một Tỳ-kheo đáp:
Niệm tu tập của con.
“Ông có niệm An ban
Không thể nói không có
Thì liền có thắng diệu.”
Mâu-ni nói nên tu
Đường phương tiện An ban.

Phần 4: CON ĐƯỜNG TU HÀNH THÙ THẮNG – PHẦN TRỤ

Thắng đạo tu Chỉ, Quán
Niệm hành tướng đã thành
Không giỏi pháp thăng tiến
Tức là trụ chỗ trói.
Đắm chấp cảnh sở duyên
Tiến tu tâm bê trễ
Do đó bị trói buộc
Không thể đến thắng xứ
Hoặc có không thể động
Không mềm cũng không cứng
Hoặc vững chắc kiên cố
Cũng như tượng Kim cương.
Có năm chướng ngại này
Không tiến cũng không thoái
Đó là trụ tướng buộc
Xa con đường thăng tiến.
Loạn sáng và tối tăm
Chính mình nhẫn không hiện
Ví như đốt dầu cặn
Cũng như mắt bị màng,
Ánh sáng không phát rõ
Xả bỏ các hỷ lạc
Tịch diệt dứt vui thích
Nó không thể khởi lại.
Giống như vật cứng chắc
Mà hiện lên tướng mềm
Người tu hành có lúc
Cũng trụ tướng như vậy.
Tướng không theo chỗ muốn
Mà dấy lên tưởng dục
Tuy muốn tùy theo ý
Rốt cuộc không có vui.
Tướng chẳng lưu giữ được
Mà cố ý giữ lại
Như vậy trái với niệm
Đó là bị trói buộc.
Khi tưởng đã thành tựu
Nên biết không ngăn được
Trụ rồi không giữ tướng
Chắc đến cho tối thắng.
Khi vọt muốn cho chìm
Hoặc cao muốn hạ thấp
Đi muốn khiến trở lại
Chỗ trụ không muốn trụ.
Lúc diệt muốn không diệt
Rốt cuộc không như ý
Hành giả trụ sinh diệt
Sở hành luôn chuyển tiến.
Các pháp tướng đã thành
Nhưng không bỏ tự tướng
Nếu không bỏ tự tướng
Thì tự tướng hiển hiện.
Da mỏng che bất tịnh
Để khỏi thấy thân dơ
Oai nghi và các thứ
Lợi lạc che thân khổ.
Tương tợ thứ lớp sinh
Trước sau không gián đoạn
Che mất tướng vô thường
Không thấy thân thay đổi.
Phơi bày sự cảm thọ
Nắm giữ tướng của ta
Hay nhớ nghĩ việc cũ
Ẩn thân, không quán ngã.
Đó là tướng tương tợ
Hành giả không phân biệt
Từ đó khởi ái lạc
Sinh ra tướng công đức.
Đắm chấp vọng tưởng sinh
Lại không màng thăng tiến
Thì thắng pháp khó thành
Sự lỗi lầm càng tăng.
Không ngã tướng, tợ tướng
Loại này không hồi chuyển
Không hồi chuyển như vậy
Hành giả sinh ngu si.
Vô trí bị trói buộc
Cột chặt vào nơi ấy
Tham đắm sinh các lỗi
Tướng ấy nay phải nói:
Trí tuệ tổn hoại dần
Phân ly và tạp loạn
Phá tan không hòa hợp
Đó là bị tướng trói.
Với thân, không khéo léo
Tự sinh tướng phân ly
Tạp loạn hay nát vụn
Ấy là bị trói buộc.
Giữ thường không tưởng khác
Các sắc sẽ không sinh
Nhiều thứ tướng vi diệu
Cũng không lần lượt khởi.
Tuôn chảy không dừng lại
Thân này dần tiêu giảm
Tướng hoặc lại hoặc đi
Tu hành không tăng trưởng.
Tịch tĩnh đã không sinh
Không nuôi lớn thân căn
Tâm không khởi vui vẻ
Nên nói xả bất tịnh.
Kia không thanh tịnh xả
Điều thấy không rõ ràng
Cũng không thể thăng tiến
Lại cũng không thoái chuyển.
Như giỡn tượng Sa-môn
Giây lát sinh khoái lạc
Ví như mượn y phục
Hay như thấy chiêm bao.
Là mạng không thanh tịnh
Dối nịnh và các ác
Nơi làng xóm tri thức
Hiển bày các công đức.
Che giấu các lỗi lầm
Phạm tội không phát lồ
Và tất cả trói buộc
Làm nhơ kẻ tu hành
Phảng phất có sự tướng
Liền khởi tưởng là thật
Chưa thuần cho là thuần
Chưa diệt tưởng đã diệt.
Phương tiện chưa tới đâu
Mà mong cầu thăng tiến
Như mộng lúa trong hạt
Thế là bị trói buộc.
Nghiệp mới khởi: vô phương
Tướng hiện: giữ chặt lấy.
Tâm kiêu mạn quá tăng
Như vậy bị trói buộc.
Hoặc có người tu hành
Mà khởi đoạn thường kiến
Kiến chấp khiến tâm loạn
Tức là bị trói buộc.
Hoặc có người tu hành
Quán sát kỹ nơi thân
Người kia bị trói buộc
Tâm chán không tăng tiến.
Tâm chán không tăng tiến
Không lìa tham dục được
Nếu không lìa tham dục
Giải thoát có từ đâu?
Không thành tựu giải thoát
Thì không được lậu tận
Người không đoạn các lậu
Thì không phải trí tuệ.
Thân niệm xứ nơi ấy
Tướng trụ đã phân biệt
Thọ, Tâm, Pháp niệm xứ
Như vậy cần nói rộng.
Tu hành tâm không vui
Cũng không sinh hỷ lạc
Thân còn vui lăng xăng
Nên biết trụ tướng này.
Tu hành chỗ đạt được
Tín, giới, văn, xả, tuệ
Chỉ giữ được phần nhỏ
Thế là con trụ tướng.
Tỳ-kheo còn buộc ràng
Nên đến chỗ A-nan
Mê lầm nơi tướng trụ
Nay cần phải lược nói:
Được chánh định vô tướng
Sáu năm còn bị trói
Theo Tôn giả A-nan
Để nghe những lời dạy.
Không thể tiến đạo nghiệp
Mà cũng không thoái chuyển
Càng trụ vào cảnh giới
Thì không thể giải thoát.
Không đến cũng không đi
Giải thoát rồi mà trụ
Trụ rồi lại giải thoát
Giải thoát rồi lại buộc.
Hoặc có người tu hành
Trụ cảnh giới bất thoái
Phiền não vi tế khởi
Mà không tỉnh thức được.
Vì không biết phiền não
Không đến được thắng xứ
Không phân biệt các địa
Cũng không lỗi thoái lùi.
Khi các lỗi không sinh
Như vậy dừng nơi trụ
Hoặc ở trong phần trụ
Làm mất đi diệu tướng.
Các diệu tướng tuy diệt
Ý còn thuận đối tượng
Khi ý thuận đối tượng
Các lạc ý phát sinh.
Đã có diệu lạc rồi
Tâm nương vắng lặng trụ
Nhân tâm yên tịnh đó
Cho rằng tự mình làm.
An chỉ chưa tới đâu
Không được quả đầy đủ
Vô trí che mắt tâm.
Mà tự cho là trí.
Tu hành mà vô trí
Không biết điều ứng dụng
Nếu người biết ứng dụng
Ở cảnh giới cứu cánh.
Trụ trong cộng địa ấy
Những việc ấy làm bẩn
Nếu như người tu hành
Thành tựu Bất cộng địa.
Như vậy biết lỗi lầm
Thì không còn trói nữa
Lỗi phiền não không biết
Ngu si không thật trí.
Thiền giác là điều tốt
Như voi trói vào cây
Tu quán cảnh giới trí
Không biết chỗ khởi lên.
Từ nơi chốn nương ra
Mà không thể tự biết
Không vọt cũng không chìm
Không thấy chỗ khởi tướng.
Cũng không biết chỗ diệt
Lỗi cũng là không lỗi
Đã nói các chướng ngại
Đều là tướng trụ chắc.
Do kia không chỗ trụ
Đây chẳng nói trí sáng
Dấy lên các lỗi lầm
Bao nhiêu duyên ràng buộc.
Phải dùng phương đối trị
Các vi diệu hiển hiện
Bậc tôn quý không kính
Cũng không bỏ kiêu mạn.
Tự che giấu lỗi mình
Không nói cho ai biết
Nay ta đã già suy
Mọi người đều ruồng bỏ.
Mất luôn cả lợi dưỡng
Làm ta sinh khổ não
Tâm thường ôm lo sợ
Âu sầu than thở dài.
Sau khi ta chết rồi
Muốn bày trò gì đây?
Giấu lỗi tâm ưu não
Ngu hoặc gây trói buộc.
Chính mình sinh tội lụy
Mất cả biển công đức
Đắm chấp vui hiện tại
Xan, tham không tuệ sáng.
Bỏ cả qua đời sau
Gây ra các lỗi ác
Các trụ buộc như vậy
Khởi lên đều khác nhau.
Hành giả không khiếp nhược
Trị những gì nên trị
Yếu kém không phương tiện
Cho rằng do đâu tiến.
Thế thì rất khó vượt
Như voi yếu sa lầy
Không thể vươn lên được
Khinh nhờn tâm bê trễ.
Mãi mãi phải chìm đắm
Càng đến gần chỗ chết
Gây nghiệp báo phiền não
Ba thứ chướng ngại này.
Vô trí không sao khởi
Vĩnh viễn bị chìm đắm
Chứa ngu tối từ đâu
Gây các nghiệp phiền não.
Các loại trói buộc này
Mê loạn không tự tại
Quen gần các lỗi ác
Xa lìa công đức lành.
Làm cho ý nhiễu loạn
Như tên quay trên không
Rắn độc đầy dẫy cả
Rồng và bò cạp độc.
Biển sâu thẳm không đáy
Không biết đống lửa lớn
Người mù đi đến gần
Tối tăm nên không thấy.
Hành giả trụ chỗ buộc
Lỗi ấy cũng như vậy
Lỗi trụ nhiều vô lượng
Đức thăng tiến cũng vậy.
Như biển không bờ bến
Sâu thẳm đâu đo được
Thế gian vì không biết
Chân thật tuệ là đuốc.
Cầm đuốc không phóng dật
Sáng mãi sẽ không tắt
Khéo nói lỗi phần trụ
Trói những kẻ tối tăm.
Quyết định biết cảnh giới
Chẳng có phần của ta
Các thứ lỗi trói buộc
Không phải chỉ một tướng
Nên biết các nghiệp duyên
Chỉ Phật mới biết rõ.

Phần 5: CON ĐƯỜNG PHƯƠNG TIỆN TU HÀNH – PHẦN THĂNG TIẾN

Tỳ-kheo-niệm An ban
Công đức trụ thăng tiến
Càng làm tăng trí tuệ
Nay tôi thứ lớp nói:
Công đức trụ tiến rồi
Trụ rồi lại tiến thêm
Thế nên nói hành giả
Công đức trụ thăng tiến.
Hành giả quán chóp mũi
Buộc tâm khiến trụ bền
Chuyên niệm tư duy đúng
Chánh quán nương hơi thở.
Khi thở ra hay vào
Buộc tâm theo ý niệm
Nhớ nghĩ nếu không quên
Đây mới trụ công đức.
Khi trụ công đức rồi
Lại khởi phương tiện cầu
Lúc mong cầu công đức
Trụ phát sinh thăng tiến.
Khi thăng tiến cùng khởi
Cũng sinh công đức trụ
Gọi là trụ rồi tiến
Tiến rồi trụ công đức.
Hiểu rõ tướng An ban
Công đức và các lỗi
Dứt nặng, nhẹ, lạnh, nóng
Mềm trơn và thô nhám.
A-na thâu Ban-na
Là thâu giữ các căn
Vì căn hay duyên cảnh
Thâu nó cho dừng lại.
Ngoài tán theo số đếm
Nghĩa thâu lại cũng vậy
Đưa hơi thở vào trong
Nên nói là A-na.
Tâm chuyển theo chốn duyên
Chận lại đừng cho động
Tâm khởi theo chốn duyên
Cũng chế ngự rồi diệt.
Hành giả quán nếu tăng
Chế nó khiến theo chỉ
Hành giả nếu chỉ tăng
Bắt đầu phải theo quán.
Thấy tăng là do xúc
Xúc tăng là do thấy
Đắc chứng và trí chứng
Cả hai đều nhiếp nhau.
Hành giả duyên không tịch
Thâu tóm ý vắng lặng
Trong thân sinh mát mẻ
Diệt trừ mọi nóng bức.
Trạo cử làm tâm động
Thâu giữ khiến dừng lại
Siêng phương tiện hồi chuyển
Thân này rất sung mãn.
Nuôi lớn bốn đại chủng
Đều nhờ vào hơi thở
Chủng này lại tăng thêm
Hành giả chấp bốn đạo.
Hay khởi lên A-na
Dừng đứng theo pháp thiện
Ngã sở là gai lớn
Phải cố gắng nhổ ra.
Thở ngắn rồi diệt dần
Tâm hành giả yên tĩnh
Vì vậy Thế Tôn nói
Gọi tên là A-na.
Lại nữa tướng Ban-na
Nay cần phải lược nói
Chân lông cùng các lỗ
Trước khai thông hơi thở.
Trên đưa ra Ban-na
Là do thở ra vào
Hành giả khi thở ra
Các căn theo chốn duyên.
Tâm tâm pháp đều thuận
Đây cũng nói Ban-na
Thở ra quy về diệt
Nhập vào căn bản địa.
Chánh thọ và mạng chung
Đây do xả thở ra
Hành giả thở ra diệt
A-na thứ lớp sinh.
Diệt tận Tam-ma-đề
Đệ tứ thiền cũng vậy.
Ban-na khi đã diệt
Thứ lớp A-na sinh
Khi A-na dấy khởi
Nói A-thế-bà-sa
Ta quán người chết kia
Rõ không có tướng ấy.
Kia diệt rồi lại sinh
Quán có tướng như vậy
Chất độc và hầm lửa
Cảnh giới tương tợ này.
Thở ra hay thâu ý
Không để theo nẻo duyên
Giống như móc chế voi
Gọi Ba-thế-bà-sa.
(Thở ra có nhiếp tâm)
Xả trừ tưởng điên đảo
Thành tựu tưởng chân thật
Lìa chủ tể và thường
Chỉ là việc không hành
Vốn không từ chỗ đến
Cũng không đi về đâu
Đến, đi không nắm bắt
Khoảnh khắc cũng không trụ
Người trí thấy điều này
Lìa các sự hiểu biết
Thơ ra không tác giả
Thấy tức đọa điên đảo
Thở ra đã quá khứ
Điều này không thể thấy
Mạng mất, hơi thở diệt
Quá khứ cũng như vậy.
Các công năng An ban
Thở ra và thở vào
Các vật và chữ nghĩa
Tôi đã lược nói xong
Do thêm nhiều nên nói
Tướng không thể lìa dụng
Nếu bị loạn giác tưởng
Nên tập luyện An ban
Nếu đếm không bị loạn
Là trừ nội tham chấp
Nếu đếm được tùy thuận
Nhất định lìa không thuận
Chí trụ cảnh không loạn
Hay thâu các loạn tưởng
Bắt đầu đếm từ một
Như vậy cho đến mười
Hành giả thuận pháp đếm
Liền được trụ công đức
Đã được công đức rồi
Thì mong cầu thăng tiến
Diệt tất cả loạn giác
Nên Phật nói tăng thượng.
(Cách đếm đã xong)
Đếm hay diệt tất cả
Giác, Phật nói là diệt
Tất cả đều không loạn
Là vì do tăng thượng
Trong ngoài thở ra vào
Đi thì bóng tâm theo
Quán sát thật chắc chắn
Thuận thì đến Niết-bàn
Hành giả thở ra vào
Bắt đầu từ điểm khởi.
(Hơi thở ra vào đều bắt đầu từ rốn)
Biết thăng tiến như vậy
Hay lìa tham bên ngoài.
(Xong môn Tùy)
Dừng yên ngay gió mạnh
Tam-ma-đề đã khởi
Tam-muội cũng khởi rồi
Thì được công đức trụ.
(Pháp môn Chỉ xong)
Hành giả trụ chỉ rồi
Quán sát theo hơi thở
Quán từ điểm khởi đầu
Hơi thở từ đó khởi.
Pháp này gọi là Na
Và một hay là hai?
Lạnh nóng đều quán sát
Tám thứ như trước nói.
Là quán chung các đại
Hay chỉ một thứ chăng?
Lúc quán thảy đều có
Lấy một tăng thượng nói
Hành giả quán phong đại
Tạo sắc từ đó sinh
Chỉ tâm cùng tâm pháp
Nương vào tạo sắc khởi
Vì tạo sắc kia rồi
Nhân đó có chủng đại
Các hơi thở ra vào
Hơi ấy gọi y chủng
Báo phong và trưởng dưỡng
Gọi là ba thứ gió
Hoặc nói là vào trước
Mà ra là ở sau
Hoặc nói ra ở trước
Mà vào là ở sau
Thảy đều có nhân duyên
Kia nói lời như vậy
Như nghĩa chân thật này
Người trí nên quyết định
Bắt đầu từ nơi rốn
Tắm sạch các chân lông.
(Báo phong này mở lổ chân lông cho nên gọi là ra nhưng chẳng phải ra ngoài)
Do nghĩa phong như vậy
Trên nói ra phía trước
Chân lông đã khai thông
Nên nhập thì ở trước
Như người lúc mới sống
A-na vào nên sinh
Rồi dẫn hơi thở ra
Thế nên nói Ba-na [note]Ba-na 波那 = Ban-na 般那[/note] .
(Đây là nghĩa chân thật)
Hơi thở các chủng đại
Cắt đứt khổ không sống
Nên biết kia chẳng thọ
Thọ thì không như vậy
Nhờ hành giả tu hành
Không lo đoạn bức bách
Thế nên thở ra vào
Với thân lại chẳng thọ
Nếu khi đoạn thức mạng
Hơi thở không trở lại
Vậy nên chúng sinh đến
Là do mạng căn khởi
Thở thì là thân hành
Những điều thế tôn dạy
Cũng gọi căn bản y
Chúng sinh do nơi chuyển
Khi hơi thở bị diệt
Mạng sống không chỗ nương
Do hay giữ mạng căn
Nên nói chúng sinh đếm
Niệm A-na, Ban-na
Duyên phong đại làm cảnh
Tuy nói tư duy đúng
Mà hạnh không chân thật
Tất cả đều tu quán
Hành giả chuyên phong đại
Với quán có sai biệt
Thứ lớp này sẽ nói
Niệm A-na, Ban-na
Chia ra thành ba thứ
Nghĩa là từ văn khởi
Tư tuệ cùng tu tuệ
Nên ấy niệm An ban
Tỳ-kheo văn tuệ sinh
Tất cả thời đều thọ
Danh tự làm cảnh giới
Cảnh giới thở ra vào
Chánh niệm từ tuệ sinh
Nên biết kia duyên danh
Hoặc lúc lại duyên nghĩa
Niệm A-na, Ban-na
Khởi lên tu thiền tuệ
Xả rồi gọi là quán
Chỉ duyên nghĩa các pháp
Nên biết gần cảnh giới
Không có các thứ khác
Cũng chẳng duyên tương tựa
Nói là cùng trí lành
Gọi là niệm An ban
Tánh trí tuệ sáng suốt
Cũng gọi là xả tánh
Đây là điều Phật dạy
Nên biết tánh tuệ này
Xả căn cùng câu sinh
Nếu khiến xả tánh này
Cùng các thứ khởi khác
Dục hữu, Sắc hữu trói
Vô sắc không thân y
Thiền ấy chưa tối thượng
Bít thân, nghẽn hơi thở
Hoặc gọi căn bản địa
Lại cũng là quyến thuộc
Nói rằng chỉ quyến thuộc
Chẳng phải căn bản địa
Muốn khiến kia xả tánh
Từ nơi căn bản địa
Niệm A-na, Ban-na
Phải tại nơi tám địa
Nói rằng chỉ quyến thuộc
Nói xả căn như vậy
Biết kia niệm An ban
Chỉ tại nơi năm địa
Định ở năm địa này
Nương vào chỗ hồi chuyển
Khi chặng giữa chỗ đến
Và hai quyến thuộc sau
Tứ thiền đảnh tối thượng
Tuy kia có xả căn
Ở thân ấy không có
Rửa sạch các chân lông
Thứ tư và quyến thuộc
Trong đó nói hai thứ
Báo sinh và trưởng dưỡng
Nhưng không có y phong
Thở vào và thở ra
Hơi này gọi là y
Vì thân hết sức nghẽn
Không y nói hai thứ
Phật dạy thở ra vào
Là bắt đầu Tứ thiền
Cũng nói chỗ yết hầu
Biết rõ có nói năng
Đều là vì phương tiện
Cũng lấy nghĩa thiền nhiếp
Thở ra và thở vào
Ngay đó chưa nhập định
Hành giả quán thở ra
Trên thấu đệ Tứ thiền
Suốt thấu cảnh giới gió
Nơi ấy nhớ nghĩ đúng
Thế nào ngã là tâm?
Đối duyên chưa rốt ráo
Hoặc lúc lại ở trên
Tiến ít quán sát lại
Hoặc lúc trụ nơi ấy
Không có các phương tiện
Hành giả quán như vậy
Thì trừ sạch nghi hoặc
Hành thấu tận nguồn gió
Nơi ấy khéo quán sát
Nên biết tâm như thế
Gọi là trừ nghi quán.
(Pháp môn Quán xong)
Ở trên quán sát rồi
Nương phong đại dừng trụ
Quán sát điều nên làm
Lại khởi các phép tu
Nếu tâm kia quán gió
Rồi lại khéo quyết định
Nên nói người tu hành
Hồi chuyển khéo phương tiện
Như người vào xóm làng
Làm xong việc rồi về
Tu hành quán như vậy
Hỷ lạc liền tăng trưởng
Đã xả niệm thở vào
An ở duyên thở ra
Cũng xả niệm thở ra
An nơi duyên thở vào
Đếm số đã rốt ráo
Thở ra biết thở ra
Tất cả loại như vậy
Cũng gọi là hồi chuyển
Quán sát tướng ứng hợp
Các tướng đều xoay chuyển
Mỗi mỗi quán các việc
Thứ lớp chuyển cũng vậy
Người khéo về hồi chuyển
Nói nghĩa hồi chuyển này
Nên biết là hồi chuyển
Tu hành theo trí tuệ
Phương tiện từ đó sinh
Thắng đạo hiện ra trước
Văn tuệ niệm hành xong
Lần lượt Tư tuệ sinh
Đã bỏ hạnh Dục giới
Rồi sau nhập tu tuệ
Đều gọi là hồi chuyển
Những điều Thế Tôn dạy
Cảnh hành giả chưa đến
Thứ lớp nhập Sơ thiền
Cho đến đệ Tam thiền
Chuyển ấy cũng như vậy
Đệ Tứ thiền quyến thuộc
Nếu kia có phong đại
Đây cũng nên hồi chuyển
Nhập vào địa căn bản
Từ đó khởi phương tiện
Thứ lớp theo trụ khởi
Xuất nhập và niệm xả
Sáu thứ này hồi chuyển
Xả cộng phương tiện địa
Cộng địa hiện ra trước
Xả cộng phương tiện địa
Bất cộng hiện ra trước
Xả bất cộng phương tiện
Bất cộng hiện ra trước
Duyên tướng phương tiện địa
Lần lượt đến rốt ráo
Đây gọi thượng hồi chuyển Người trí nên nói rõ.
(Thánh nhân, phàm phu cùng pháp hữu gọi là Cộng địa, từ duyên này đến duyên khác gọi là chuyển. Các tướng phương tiện, các địa thứ lớp chuyển cũng như vậy).
Phương tiện như tôi biết
Đã nói nghĩa hồi chuyển
Niệm vô cấu thanh tịnh
Nay theo thứ lớp nói.
Như có người tu hành
Khoảnh khắc ngăn triền cái
Thì đó là thanh tịnh
Bất tịnh không phải thế.
Nếu số đếm thành tựu
Dứt tham chấp bên trong
Nghĩa này cần nên biết
Người tuệ quán thanh tịnh.
Tùy thuận đã thành tựu
Hay xả tham bên ngoài
Tư duy đúng như vậy
Người trí niệm thanh tịnh.
Tỳ-kheo tâm đã trụ
Không bị loạn quấy nhiễu
Niệm không động như vậy
Tu hành trí thanh tịnh.
Nếu đã tận hơi thở
Quán sát lìa nghi hoặc
Lại không mong dứt bỏ
Thì đó là thanh tịnh.
Niệm địa đã xong rồi
Chỗ nương các lỗi lầm
Không còn thì thanh tịnh
Đây nói trong khoảnh khắc.
Niệm A-na, Ban-na
Đường phương tiện đã thâu
Công đức trụ thăng tiến
Nghĩa này đã nói rồi.

Phần 6: CON ĐƯỜNG TU HÀNH THÙ THẮNG – PHẦN THĂNG TIẾN

Công đức trụ thăng tiến
Gồm thâu các phương tiện
Các cảnh giới tu hành
Cộng địa, Bất cong địa.
Công đức trụ thăng tiến
Kia nương thắng đạo khởi
Đủ các nghĩa tướng hành
Nay nói khéo lắng nghe.
Tâm tăng thượng đã khởi
Tâm hành giả ưa vui
Tâm ưa vui như vậy
Công đức trụ khéo léo.
Người tuệ, phương tiện khéo
Ý khởi siêng tu hành
Như trụ công đức ấy
Tức là phương tiện khéo.
Vừa vào cảnh vi diệu
Chớ theo tưởng lưu chú
Người tuệ nhiếp tâm trụ
Như vậy khéo thọ trì.
Trụ công đức vi diệu
Trong sạch không dơ bẩn
Đầy đủ không giảm bớt
Trụ thanh tịnh an ổn.
Thuần nhất sáng tất cả
Định vững nên không động
Duyên này từ cảm có
Thời qua quy về không.
Sắc tưởng thứ lớp khởi
Đủ mọi tướng phát sinh
Hành giả tư duy đúng
Thân tâm sinh hỷ lạc.
Do vậy công đức trụ
Nhiếp đầy đủ Chỉ quán
Đã khởi thân lạc rồi
Tâm cũng chánh an ổn.
Chính mình và người khác
Công đức trụ thăng tiến
Nay cần phải lược nói
Hành giả nên phân biệt.
Tu hành Tam-ma-đề
Niệm phương tiện tùy thuận
Người trí mở mắt tuệ
Đây gọi là công đức.
Tâm đã đứng vững vàng
Gọi là công đức trụ
Tu hạnh Thánh đối trị
Gọi là công đức tiến.
Đối trị các Thánh hạnh
Công đức trụ thăng tiến
Tâm theo cảnh giới ác
Chỗ khởi lên nên trừ
Hành giả siêng tinh tấn
Công đức càng thêm tăng
Tín, giới, văn, xả tuệ
Tâm không tham, sân hận.
Dục tinh tấn, tàm, quý
Trừ hỷ không phóng dật
Duyệt lạc, niệm, định, xả
Chánh trí các pháp thiện.
Tất cả loại như thế
Tự địa lìa các dơ
Công đức trụ vững chắc
Tùy cảnh giới đối trị.
Là nhờ sức tinh tấn
Giúp tâm thiện phát triển
Cớ gì ở địa ấy
Không nhiếp theo số đếm.
Công đức trụ thăng tiến
Tự địa đã nói rộng
Sức thiện căn tự địa
Tha địa công đức sinh.
Tu hành nghĩa tối thắng
Tướng này nay lược nói
Tự địa đã tăng thượng
Các pháp thắng tịnh sinh.
Nên biết công đức này
Nhờ tha địa thăng tiến
Vô lượng hạnh phương tiện
Vượt qua tất cả pháp.
Tất cả tướng đối trị
Công đức tha địa khởi
Ở vào ngôi sơ niệm
Ba niệm đã gồm tu.
Noãn pháp và Đảnh, Nhẫn
Thế gian đệ nhất pháp
Kiến đạo tư duy đạo
Pháp vô học cũng tu.
Các thiền và thần thông
Vô lượng định vô sắc
Phần chánh pháp đạo phẩm
Rốt ráo trí lậu tận.
Trừ bỏ tất cả nhập
Trí diệu nguyện thanh tịnh
Thân niệm sức thiện căn
Khởi lên các pháp ấy.
Tướng công đức vi diệu
Tất cả tùy thuận sinh
Nếu trụ buộc tâm lại
Tức là tướng tự địa.
Tướng ấy tại thân khởi
Cũng hiện cũng lại xúc
Có lúc nói gần quả
Có lúc nói không gần.
Hoặc lại có cùng quả
Hoặc hoàn toàn không cùng
Điều mà nói gần quả
Là trụ gần bên tướng.
Nếu quả kia không gần
Tức biết cách xa tướng
Nếu như hiện mà xúc
Thì là cùng quả tướng.
Tuy hiện mà không xúc
Tướng không, không công đức
Ví như cây không trái
Đơm hoa mà không đậu.
Như người bị lạnh, khát
Xa trông có nước lửa
Người kia không khởi xúc
Chỉ thấy tướng cũng vậy.
Trống rỗng không công đức
Nên thân không diệu lạc
Hỷ duyệt càng tăng thêm
Dứt vui và vắng lặng.
Thân tâm hưởng vui ấy
Là nói cùng quả tướng
Công đức và các pháp
Tự địa với tha địa.
Tướng thăng tiến hồi chuyển
Bốn thứ cũng như vậy
Tất cả tướng thăng tiến
Đều tốt đẹp rõ ràng.
Hoa sen, hàng cây báu
Và các trang phục đẹp
Ánh sáng chiếu rạng ngời
Vô lượng thứ trang nghiêm.
Tuệ nói là thắng đạo
Công đức trụ thăng tiến
Khởi lên tướng vi diệu
Tôi nay sẽ nói đủ.
Hành giả chú ý nghe
Ở trên Mạn-trà-la
Thuần nhất khởi các tướng
Ánh sáng tràn xuống dưới.
Trong suốt như pha lê
Sáng ấy đủ bốn thể
Làm thân rất hòa dịu
Lại từ thân phát ra.
Dần dần tràn xuống dưới
Tùy theo sức thiện căn
Xa gần không tưởng định
Kết thành Mạn-trà-la.
Thế mạnh hoàn chỗ cũ
Trong chủng tánh căn bản
Tướng ấy ba lớp khởi
Công đức trụ năm tướng.
Công đức tiến năm tướng
Không hoại hai công đức
Hoại nữa hai công đức
Hoại hết một công đức.
Trở lại buộc vào tâm
Trụ bản chủng tánh rồi
Tràn khắp cả mười phương (mười tướng sinh)
Mười tướng công đức trên
(mười tướng đều sinh mười tướng)
Đều lại hiện một tướng.
Rồi tràn sang một bên
Sinh các tướng vi diệu
Ở mé thâm diệu ấy
Lại sinh tướng thâm diệu
Tướng trên dưới xoay vần
Cũng lại hiện như vậy.
Ở nơi ba bậc ấy
Các tướng tạp phát sinh
Tự tướng đều đã diệt
Chỉ còn tổng tướng trụ
Các tạp đã là không
Hạnh tịch tĩnh hồi chuyển
Ba Mạn-trà-la này
Cảnh chia vẫn không dời
Vốn thuận công đức trụ
Tự thế trước đã nói
Thở vào Tam-ma-đề
Biến khắp cả phương dưới
Thở vào Tam-ma-đề
Biến khắp cả phương trên
Cả hai trùm mười phương
Chánh thọ diệu sâu xa
Người theo ý như vậy
Gọi là pháp tự tại.
Thanh tịnh buộc tâm lại
Không pháp cũng không cầu
Sinh rồi có trưởng dưỡng
Thành tựu các công đức
Như cây Thiên Mạn-đà
Ao Mạn-đà sinh trưởng
Công đức trụ thăng tiến
Các thứ tướng vi diệu
Nghĩa này tôi đã nói
Hành giả khéo thọ trì.

Phần 7: CON ĐƯỜNG PHƯƠNG TIỆN TU HÀNH – PHẦN NIỆM AN BAN QUYẾT ĐỊNH

Đã nói pháp thăng tiến
Nhiếp hết các công đức
Tu hành phần quyết định
Nay theo thứ lớp nói
Khéo niệm hơi thở ra
Thở vào cũng như vậy.
Ra vào tư duy kỹ
Phân biệt đủ rõ ràng
Đây là phần quyết định
Những điều Thế Tôn dạy
Tất cả các căn lành
Đều khắp cả tự tướng
Trí tối thắng vô thượng
Thì gọi là quyết định
Các vị hành giả này
An trụ phần quyết định
Khi thở ra, hít vào
Chánh quán tướng vô thường
Pháp thở thứ lớp sinh
Lần lượt làm tướng nhân
Cho đến các duyên hợp
Lúc khởi không tạm dừng
Nên biết pháp hòa hợp
Tánh nó chóng hoại diệt
Pháp từ nhân duyên khởi
Tánh mòn nên vô thường
Tất cả các duyên lực
Nhờ vào pháp mới sinh
Hư vọng không bền chắc
Chóng khởi cũng mau diệt
Độc trị độc, vô thường
Tánh ấy không trụ lâu
Hành giả quán như vậy
Đây là niệm quyết định
Ví như sự vận hành
Hơi thở liền bị nhanh
Quyết định tưởng vô thừng
Hành giả hướng Niết-bàn
Khi thơ ra chưa diệt
Mà thở vào lại sinh.
Khi thở vào chưa diệt
Thở ra lại phát sinh
Quán sát chắc như vậy
Tu hành phần quyết định
Gai bén thô nhám sinh
Các tướng khổ bức bách
Thở ra và thở vào
Lúc nào cũng bức thiết
Hiểu rõ ngay hơi thở
Đủ cả các tướng khổ
Tư duy đúng như vậy
Thì gọi là quyết định
Tự tướng không vững chắc
Tịch diệt không vô ngã
Sức nhân duyên khởi lên
Vì duyên khởi nên diệt
Xa rời tướng chấp ngã
Thường trụ không biến đổi
Hành điên đảo như vậy
Tất cả nên tránh xa.
Chỉ hành quán chân thật
Mới gọi là quyết định
Vô ngã không kiên cố
Cũng không có chủ tể
Kia chẳng thở ra vào
Từng có tướng giác tri
Biết chắc là vô ngã
Nên nói là quyết định
Phải biết trí tướng ấy
Gọi tương tợ Thánh hạnh
Thế thì hành phương tiện
Chẳng phải là chân thật
Tỳ-kheo-niệm An ban
Tưởng tạp niệm là loạn
Loạn rồi tâm không vui
Phải nên theo số đếm
Hoặc đếm hơi thở vào
Hay đếm hơi thở ra
Nghĩ loạn biết quán tưởng
Do đó lìa hết cả.
Người tuệ quán hơi thở
Buộc tâm nơi số đếm
Thở vào đếm là một
Không lộn số thở ra
Chuyên niệm đếm không loạn
Như vậy cho đến mười
Rồi bỏ mười thở ra
Từ đó được quyết định
Đây nói là đầy đủ
Thành tựu đến căn bản
Lại nói các cánh đếm
Hành giả khởi phương tiện
Nếu số đếm căn bản
Không thể quyết định được.
Thở nhanh rất dễ biết
Phương tiện khiến tâm sinh
Bỏ hai hơi thở ra
Rồi sau đếm vào một
Cuối cùng tâm không lộn
Đến thứ hai thành tựu
Nếu ở hai phương tiện
Vẫn không thể quyết định
Vượt mười hơi thở ra
Rồi sau đếm vào một
Chánh niệm tâm không loạn
Lần lượt đến đầy đủ
Đây nói người tu hành
Đếm đến mười thành tựu
Mười pháp đếm như trên
Là số đếm rốt ráo
Rồi lại, như trên xả
Tăng số chẳng phải tu
Hành giả đếm như vậy
Là cách đếm thành tựu
Thành rồi thì phải xả
Tiến đến phương tiện khác
Hành giả đối cách đếm
Mà không được thành tựu
Nên làm lại như trước
Phải đếm lại từ đầu
Phương tiện thành cách đếm
Liền được phần quyết định
Cách đếm đã thành tựu
Người tuệ tâm tùy thuận
Sáu thứ như trước nói
Tu hành đúng phương tiện
Đối với sáu thứ này
Hành giả sinh tưởng lìa
Không vui đắm sinh tử
Tìm cách đoạn phiền não
Tâm hành giả xa lìa
Tất cả pháp hữu vi
Nên biết lìa dục này
Thì quyết định thanh tịnh
Hoặc nói ở trước dài
Hoặc nói ở sau ngắn
Như nghĩa quyết định kia
Nay theo thứ lớp nói
Khi mới khởi thở ra
Nói rằng ở trước ngắn
Đây nói chẳng phải vậy
Vì thế càng tăng dần
Thở ra cứ xa dần
Cho đến không gián đoạn
Tận cùng biết là dài
Nói ngắn thì không phải
Thở ra tăng trưởng dần
Chưa đến chỗ rốt ráo
Trong đó nên quán sát
Gọi là dài trong ngắn
Nhất tâm siêng phương tiện
Chuyên niệm chánh tư duy
Tăng trưởng đến rốt ráo
Gọi là dài trong dài
Quán rồi phong đại chuyển
Xa lìa các tưởng cầu
Rồi sau được quyết định
Đây là ngắn trong dài
Thở vào hết sức ngắn
Rồi đến chỗ phát khởi
Cách quán sát thế này:
Gọi là ngắn trong ngắn
Tư duy đúng như vậy
Hành giả phải hiểu rõ
Khi đã được quyết định
Tiến đến phương tiện khác
Toàn thân đều giác tri
Khắp cả thân đều thở
Hành giả rõ như vậy
Chính đó là quyết định.
Ví như đốt lửa cháy
Ánh sáng chiếu lan xa
Củi hết, lửa sắp lụn
Ánh sáng lại càng gần
Nếu lại đun thêm củi
Ánh sáng chiếu rộng ra
Thế hết quy về diệt
Bốn thứ gió cũng vậy
Hoặc nói là dài ngắn
Trong ngoài sắp đổi nhau
Hoặc cả hai dài ngắn
Mỗi mỗi như vậy nói.
Như múc nước giếng sâu
Buông gầu xa xuống dưới
Rồi kéo trở lên lại
Càng kéo dây càng ngắn
Như bắn tên lên không
Tên bay nhanh vô cùng
Khi nó càng lên cao
Lực hết lại rơi xuống.
Hành giả tư duy đúng
Quán sát nương hơi thở
Đầu xa nhưng sau gần
Nghĩa dài ngắn cũng vậy.
Ví như lăn bánh xe
Giong ruổi qua lại nhau
Qua xa gọi là dài
Lại gần gọi là ngắn
Hơi thở ra vào nhanh
Dài ngắn cũng như vậy.
Hành giả quán thật kỹ
Trước khổ mà sau tập
Quán hơi thở cũng vậy
Trước dài nhưng sau ngắn
Nếu Sơ thiền thở ngắn
Thiền thứ hai thở dài
Là trái nghĩa chánh thọ
Đây không nói như vậy
Ở trong Sơ thiền kia
Hơi thở thế càng xa
Thiền thứ hai thở ngắn
Chánh thọ sai biệt dần
Toàn thân đều giác tri
Thì nương thiền thứ ba
Sau cùng dứt thân hành
Vì lìa lỗ chân lông
Đây nói các Tam-muội
Tùy thuận tướng công đức
Hành giả an trụ vào
Không bị các tưởng loạn
Có gì trong Sơ thiền
Chỉ nói dài không ngắn
Không xả các sở y
Do đó nên thở dài
Nhờ vào sức giác tưởng
Hay khiến thở ra dài.
Thứ hai xả các y
Thế yếu nên thở ngắn
Kinh thật là thâm diệu
Phật nói suối trên núi
Sức chảy không có xa
Chỗ khác không đổ vào
Dụ đảnh núi như trên
Đệ nhị y cũng vậy
Chỉ từ nơi ấy khởi
Thì không thể đi xa
Như nói sĩ phu mạnh
Mang nặng mà leo núi
Sức kiệt khiến hơi dồn
Hơi thở vội hồi chuyển
Khi đến nơi an ổn
Hơi thở lại bình thường
Là dụ hơi thở kia
Trước ngắn mà sau dài
Kia nói sĩ phu mạnh
Mang nặng mà leo núi
Dùng phương tiện thân sức
Nên mới khiến thở dài
Nếu mà phương tiện yếu
Sức mình không mang nặng
Vì không sức phương tiện
Thở yếu nên không xa
Ví như người mạnh mẽ
Bắn tên bay thật xa
Sức yếu không phương tiện
Thế yếu bay không xa
Dụ này cần nên biết
Đây nói nghĩa dài ngắn
Hành giả biết cho kỹ
Tất cả hiểu rõ ràng
Mười sáu phần như vậy
Đều gọi là quyết định.
Như phương tiện thăng tiến
Phân biệt công đức trụ
Quyết định niệm An ban
Cũng nên nói như vậy
Còn những gì chưa nói
Các công đức trụ khác
Thì nay tôi sẽ nói
Như phần quyết định kia.
Quán sát phong đại khởi
Căn bản rất thanh tịnh
Tu hành tướng vi diệu
Đều từ nơi ấy hiện
Ở nơi rốt ráo đó
Báu ma-ni Tam-muội
Nên biết công đức này
Phương tiện căn bản sinh
Đã nói phương tiện diệu
Phần căn bản quyết định
Các tướng chánh thọ khác
Tất cả như trước nói.

Phần 8: CON ĐƯỜNG PHƯƠNG TIỆN TU HÀNH – PHẦN THẮNG ĐẠO QUYẾT ĐỊNH

Đã nói đường phương tiện
Gồm luôn phần quyết định
Tướng thắng đạo quyết định
Thì nay tôi sẽ nói
Hành giả khéo quyết định
Buộc tâm chỗ kiên cố
Thân thọ và tâm pháp
Ở đây quán sát đúng
Nói có sáu thứ nhân
Hay thành tựu quả vị
Thành hoại đều ba thứ
(Thành thục, thục cũng hoại)
Tu hành tướng quyết định
Đối với sáu nhân này
Phương tiện khéo quán sát
Theo thứ tự tiến lên
Chóng được các lậu tận
Lại cũng có nhân khác
Và các việc thành hoại
Nhiều vô lượng như vậy
Tôi nay chỉ lược nói
Những gì là tu hành
Tướng hoại của thủy đại
Là thây chết bảy ngày
Tướng hủy hoại đã hiện
Như các tử thi kia
Ứ xanh, đen thối rã
Rã rồi máu mủ tuôn
Nước hôi thối tràn lan
Vỡ chảy hoặc phân ly
Tạp xấu thật hôi thối
Đây là hủy đại hoại
Trong thân cũng như vậy
Cho đến kiếp thành bại
Đây do sức thủy đại
Thủy luân vọt mạnh lên
Đại địa đều tan hoại
Từ nguồn Tam thiền kia
Nước xoay chuyển xuống dưới
Tuôn chảy thật mênh mang
Các vật bị tiêu sạch
Tất cả loài tình thức
Lúa thóc và cây rừng
Đều từ đất mọc lên
Đều bị thủy đại hoại
Thủy đại hoại chúng sinh
Đều là do nghiệp cũ
Tướng thủy tai như trên
Quyết định nói vô cấu
Tất cả loại như vậy
Đều từ địa Tam-muội
Quả tu hành khởi lên
Nên biết là quyết định
Hành giả khéo buộc tâm
An trụ Tam-ma-đề
Ở ngay trong chốn duyên
Thấy rõ các tướng này
Khi địa ấy thành thục.
(Cũng có nghĩa cho rằng khi địa này hoại thì có thể hoại phiền não mới thấy tướng ấy)
Biển cảnh giới thênh thang
Hành giả thấy nó hoại
Tướng thủy đại quyết định
Tướng hỏa đại hủy hoại
Nay nói khéo lắng nghe
Loại thức loại không thức
Đây cũng nói như trên
Và tự thấy lửa đốt
Tất cả đều tiêu sạch
Cho đến kiếp thành, hoại
Thế giới ra tro tàn
Ngay nơi hỏa luân đó
Đốt cháy lửa rực lên
Cũng từ mé Nhị thiền
Khắp cả đều mưa lửa
Lửa dữ tràn lan cả
Thế giới bị đốt sạch
Ở Tam-muội địa ấy
Khởi lên tư duy đúng
Hành giả thấy việc này
Tướng lửa hoại quyết định
Tướng phong đại hủy hoại
Nay theo thứ lớp nói
Các chủng loại như trên
Đều bị phong đại hoại
Đại địa và Tu-di
Phân tán như bụi trần
Tất cả đều diệt sạch
Đây do sức phong đại
Trên thấu đệ Tứ thiền
Dưới triệt cõi phong luân
Phong tai từ đó khởi
Tan hoại cũng từ đó
Tất cả phong đại hoại
Người trí thấy chân thật
Chánh tư duy như vậy
Tướng phong hoại quyết định
Tại sao người tu hành
Thường khởi lên nhàm chán
Ở trước thấy pháp khổ
Nhớ nghĩ mãi không quên
Tám khổ địa ngục lớn
Đều tăng mười sáu phần
Các thứ khổ như thế
Địa ngục đều vô lượng
Chúng sinh sinh nơi ấy
Tùy nghiệp chịu các khổ
Tôi ở đường ác này
Chưa lìa hoặc kéo đến
Như tám địa ngục lớn
Ai có thể kể hết
Vô lượng khổ trong đó
Khó biết được bến bờ
Giá người có trăm đầu
Mỗi đầu có trăm lưỡi
Muốn kể khổ địa ngục
Trọn đời không kể hết
Như kinh Ngu Hiệt Địa
Chỉ Phật khéo phân biệt
Tôi đều thấu suốt cả
Không có ai lường được
Xoay vần trong biển khổ
Lặn hụp vô lượng kiếp
Điên đảo không hạnh lành
Đều từ quả khổ ấy
Tự thấy mạng đời trước
Đau khổ từng trải qua
Tu hành nhớ khổ xưa
Liền thuận đường Niết-bàn
Tâm ám độn càng tăng
Súc sinh nghiệp bất tịnh
Ngu si không thích quả
Đủ mọi khổ hành thân
Chín muôn chín ngàn thứ
Hình loại đều khác biệt
Loài chim bay cá lội
Và cựa quậy côn trùng
Tùy nghiệp thọ mà sinh
Thay đổi như tuồng kịch
Tất cả loài chúng sinh
Lần lượt ăn nuốt nhau
Ta do bởi ngu si
Đã từng chịu khổ này
Nhìn lại thấy rùng rợn
Tâm sinh ra nhàm chán
Hành giả lo chán nhiều
Từ khổ quyết định ngay
Hành giả được như vậy
Phương tiện sinh chán lìa
Lại tự mình nhớ nghĩ
Ngạ quỷ khổ vô lượng
Cổ nhỏ bằng cây kim
Thân to như trống sấm
Vô số kiếp phải chịu
Đói khát luôn hoành hành
Thấy trời mưa cam lồ
Muốn uống liền hóa lửa
Như bốn biển rộng kia
Rộng sâu không bờ bến
Giá như uống hết sạch
Cũng không thể hết khát
Lõa hình xõa tóc dài
Như cây Đa-la cháy
Ở trong đó rất lâu
Chịu đủ thứ khổ ấy
Gió nghiệp thổi cùng khắp
Thổi cho thân tan nát
Như nổi trận gió cuồng
Quật gãy các cây khô
Ta chứa hạnh xan tham
Không tu hạnh bố thí
Nên sinh vào ngạ quỷ
Chịu khổ đau thế này
Cảnh giới Tam-muội địa
Hành giả khởi tư duy
Quán sát riêng từng loại
Không còn buông lung nữa
Tuy chưa đoạn phiền não
Thấy các khổ bức ấy
Khổ độc lo sợ nhiều
Rất chán khổ sinh tử
Chán rồi quyết lìa dục
Như xem báu trong tay
Tham muốn đã xa lìa
Mau chóng được giải thoát
Ví như ăn đồ ngon
Trong đó có trùng độc
Đủ cả mùi sinh tử
Các khổ cũng như vậy
Như giỏ đựng rắn độc
Có người mang nó theo
Nếu hết liền vứt bỏ
Không bị nó làm hại
Thân lại cũng như vậy
Bốn đại là rắn độc
Người trí mau xa lìa
Không bị nó làm hại
Như người ngu cầm đuốc
Ngược gió tự thiêu mình
Người thông minh nên trừ
Không bị lửa đốt thiêu
Kẻ đắm vướng sinh tử
Luôn bị lửa thiêu đốt
Nếu biết mau xa lìa
Thì không bị lửa đốt
Ví như chỗ khủng bố
Hay là nơi nhà cháy
Rắn độc, rết hợp lại
Sinh tử còn sợ hơn
Như làng xóm bỏ hoang
Như đồ đựng bỏ trống
Các pháp không, vô ngã
Tánh chân thật cũng vậy
Trong ba đường ác này
Khổ vô lượng như thế
Tuy cõi trời có vui
Nhưng cũng bị khổ lớn
Ví như lửa dữ đốt
Tham ái đốt cũng vậy
Ở lâu trên cõi trời
Thường bị lửa dục đốt
Tự nhớ trời Đao-lợi
An ổn ngồi pháp tòa
Thiên nữ dâng cúng dường
Muôn vàn thứ yêu thích
Bốn bề hàng cây báu
Hoa trái đẹp trang nghiêm
Thỏa mãn cho năm dục
Tất cả đều thọ hưởng
Lúc cỡi rồng, voi trắng
Dạo xem các ao tắm
Phóng ý trong khu rừng
Quay lại trời đã chiều
Ăn toàn vị Tu-đà
Uống thì Cam-mạn-đà
Đầy đủ không lo thiếu
Thọ lạc tựa biển cả
Lại ở trong thắng đường
Thiên nữ tấu âm nhạc
Dáng vẻ thật yêu kiều
Ánh sáng lóe tầm mắt
Diệu âm sáu vạn thứ
Thường buông tiếng uyển chuyển
Tai mắt bị cuốn theo
Làm say cả lòng ta
Chư Thiên ca thánh thoát
Ăn nhịp theo đàn sáo
Nằm ngồi nghe âm nhạc
Thức ngủ đều vui thích
Căn cuốn theo năm dục
Như vành lửa xoay tròn
Tu-di đảnh núi chúa
Ở yên khoái tự tại
Trăm lẻ một thứ báu
Dùng để trang nghiêm đất
Chư Thiên cùng thỏa thích
Trải qua rất lâu dài
Xúc với năm cảnh giới
Rúng động năm căn tình
Tất cả đều đặc biệt
Thật là nhân khoái lạc
Vật thực của chư Thiên
Tùy phước có sai biệt
Thấy sự sai biệt này
Tâm liền sinh ưu não
Rất sầu thảm như thế
Cũng như khổ địa ngục
Ăn thức ăn bất tịnh
Cúi đầu tự hổ thẹn
Hối trách nghiệp đời trước
Khiến tôi đến khổ này
Chư Thiên, A-tu-la
Tự tham giữ lợi dưỡng
Do đó sát phạt nhau
Chết là mối sợ lớn
Hoặc được trời cấp sứ
Hoặc hết sức nghèo thiếu
Ta tuy sinh cõi trời
Khác gì khổ đường ác
Ở chỗ thường vui kia
Hai lăm tướng suy chết
Tướng này sắp mạng chung
Lúc ấy thật là khổ
Vừa mới buông lòng thích
Liền bị năm suy đến
Nếu khi thấy tướng này
Lo sầu không tự an
Thiên nhãn bỗng chợt nháy
Tắm rồi nước dính thân
Tất cả cảnh giới đẹp
Tâm không còn ham thích
Tự nhiên ngàn thứ nhạc
Tiếng Ca-lăng-tần-già
Nay bặt không còn nghe
Biết bảy ngày sẽ chết
Ngọc nữ đều bỏ đi
Theo hầu các trời khác
Thấy vậy sinh buồn bực
Chết rồi đọa địa ngục
Chỉ có bậc Thánh hiền
Hiểu rõ biến vô thường
Thoát khỏi khổ sinh tử
Phàm phu bị thiêu đốt
Dưới nách ra mồ hôi
Y phục dính dơ bẩn
Thấy vậy rất sợ sệt
Đây do nghiệp tịnh hết
Hoa trên mão tươi đẹp
Mà nay bỗng héo tan
Thân thể vốn rực sáng
Một mai chợt khô gầy
Thường ham ngồi chỗ vui
Nay lại sợ không vui
Năm tướng xấu nay hiện
Biết rằng chết sắp đến
Chỉ có ngưòi kiến đế
Không có tướng xấu ấy
Ta nay nói Tỳ-kheo
Ở đó thêm nhàm chán. [note] Trong bản tiếng Phạm không có câu kệ này[/note]
Chư Thiên và Thiên xứ
Suy biến không lâu bền
Tu hành trí sáng suốt
Thấy vô thường biến đổi
Bốn báu Tu-di chúa
Núi vàng vòng bao quanh
Hành giả mắt tuệ tịnh
Thấy đó ắt tiêu ma
Lại các đại Thiết vi
Bao quanh bốn thiên hạ
Tiêu hoại tướng vô thường
Hành giả thấy rõ rồi
Tu hành ở cõi trời
Quán sát đúng như vậy
Lại ở trong loài người
Tư duy nhớ nghĩ đúng
Hoặc lúc phạm vương pháp
Bị chém thân, tay, chân
Tra khảo rất dã man
Ta đều trải qua hết
Vĩnh biệt hàng thân thích
Quyến luyến tuôn dòng lệ
Nhỏ giọt xuống một chỗ
Còn hơn bốn biển cả
Ta từ xưa đến nay
Thọ sinh trong loài người
Tính xương trắng chất dồn
Cao rộng hơn Tu-di
Xoay vần ba đường ác
Khổ sở không gì bằng
Cảnh khổ của trời, người
Cũng nhiều vô lượng rồi
Dù muốn nói rộng ra
Trọn đời không hết được
Cảnh giới địa Tam-muội
Tư duy chỗ quả sinh
Quán sát biết rõ ràng
Hành giả rất nhàm chán
Tôi tuy bỏ nghiệp nhà
Mà chưa thành đạo quả
Tự cho là xuất gia
Chưa thoát ngục sinh tử
Tôi tuy bỏ ân ái
Gọi là xả sở sinh
Mà không thể xa lìa
Nghiệp ái với cha mẹ
Uổng phí làm con người
Không sinh từ pháp Phật
Ngoài khoác y Thánh pháp
Trong không lìa si hoặc
Xả bỏ lợi năm dục
Nương vào nghiệp xuất gia
Mà ở trong pháp Phật
Không được chút công đức
Tuy trong bỏ tham chấp
Mà không được xuất ly
Chưa thành tựu bốn niệm
Từ đâu tâm được vui?
Cạo đầu bỏ hình tướng
Mà không bỏ kiêu mạn
Không bỏ vị dục lạc
Không được thiền đuyệt lạc
Trong năm nghiệp vô gián
Chưa có thể thoát khỏi
Ví như bến không thuyền
Mà muốn vượt nước sâu
Chưa nhập tụ quyết định
Không sinh nghiệp cõi trời
Vô minh che tâm mắt
Chìm sâu vực sinh tử
Nên tinh tấn tu tập
Chắc chắn đạt kết quả
Đã làm thì không mất
Hành giả khéo suy nghĩ
Nhận vật của tín thí
Chiếm phần cơ thể kia
Cho mình có công đức
Nhưng thật ra trống rỗng
Do tâm lợi dưỡng này
Che công đức của tôi
Nghĩ sâu khổ khắc cốt
Tức thời khởi nhàm chán
Chưa thoát khỏi đường ác
Bị điên đảo trói buộc
Không hướng đường bình đẳng
Mâu-ni đạo Nhất thừa
Sinh rồi khó tiến tu
Các căn đều đầy đủ
Gặp Phật đang ở đời
Lại được nghe chánh pháp
Mà không bỏ khổ đau
Chưa vượt biển tham dục
Vung đao chém năm giặc
Đây cũng chưa diệt được
Như vậy khi chánh quán
Hành giả hướng giải thoát
Tướng nhàm chán phát sinh
Thì liền sinh quyết định
Thân là đồ bất tịnh
Đủ ba mươi sáu thứ
Ví như cõi đại địa
Nuôi sống đủ các loại
Thân nhờ che đậy kỹ
Cũng phải thường tắm rửa
Bọt nước dễ tiêu ma
Không lâu sẽ ắt diệt
Ví như giỏ rắn độc
Thân tứ đại cũng vậy
Chỗ trú tám vạn trùng
Thường tranh nhau ăn nuốt
Thân này là nhà lửa
Bốn trăm bốn bệnh vây
Đủ các khổ bất tịnh
Đầy ắp cả bên trong
Ví như nhà bỏ trống
Cũng như nơi nghĩa địa
Ngói lợp không vững chắc
Thân này cũng như vậy
Nhóm vô lượng các khổ
Hư vọng không chân thật
Điên đảo khởi tham chấp
Nhiều kiếp luôn khổ sở
Lại dắt vào bào thai
Thọ sanh muôn vàn khổ
Không thấy pháp chân thật
Sinh tử thường luân chuyển
Mới từ Ca-la-la
Tiếp sinh một cục thịt
Lớn dần thành chi tiết
Năm thứ khổ bào thai
Âm u như ngục tối
Bị nhiều nỗi bức bách
Nuôi lớn trong nhà xí
Khổ hôi hám bất tịnh
Ra thai chịu sinh khổ
Dần đến già, bệnh, chết
Tất cả các ấm khởi
Ba tướng vây bức bách
Quán sắc như bọt đọng
Thọ như bong bóng nước
Tưởng như dáng dợn nắng
Các hành như cây chuối
Thức chủng giống huyễn hóa
Hư vọng không chân thật
Bức bách là tướng khổ
Nhân duyên là tướng tập
Tịch tĩnh là tướng diệt
Xuất ly là tướng đạo
Trong bốn Thánh đế này
Hành giả quán sát dần
Tư duy mười sáu hành
Giải thoát khổ sinh tử
Lược nói tất cả pháp
Tự tướng và cộng tướng
Biết rõ nghĩa quyết định
Tu hành chánh quán sát
Hành giả đốt đuốc tuệ
Quán sát bốn Chân đế
Cắt đứt các đường ác
Lìa các khổ thọ thai
Không còn muốn thọ thân
Thêm khổ não nhiều đời
Trừ bỏ hạnh lợi dưỡng
Riêng tu hạnh xa lìa
Khi đã nhàm chán rồi
Không ham vui sinh
Thiên Huống gì đắm thế gian
Nhận chịu các khổ đau
Quán chúng như rắn độc
Ấm là năm giăc oán
Tự biết hoạn tham dục
Nhiều kiếp âm thầm hại
Sáu căn như hư không
Giặc trần tranh đến hại
Trong ngoài xâm nhập vào
Hành giả quán chân thật
Thấy ái như sông lớn
Niết-bàn như bờ kia
Tu hành mắt tuệ tịnh
Quán pháp không vô ngã
Biết chân thật như vậy
Không con ham ba cõi
Người sáng thấy các pháp
Lược nói ba tướng thành
Và ba hoại đã nói
Phương tiện siêng tu tập
Nghĩa hành tướng thứ lớp
Thì nay lại sẽ nói
Một sắc nhiều cách quán
Mỗi mỗi bốn thứ nhân
Quyết định biết nhân quả
Thân niệm xứ rốt ráo
Thọ cùng tâm tương ưng
Khi quán chỉ tự thể
Vô lượng quả nhân duyên
Tướng ấy đồng chủng tánh
Hành giả khởi tư duy
Đều hiện nơi sở y
Tâm giống ngựa không thuần
Như huyễn, như khỉ vượn
Vô lượng tướng nhân duyên
Tất cả hiện sở y
Hai ấm không, vô ngã
Tiếp hợp quán tưởng sắc
Tưởng hợp thọ và thức
Thực hành hại cũng vậy
Lần lượt tưởng sắc thọ
Tưởng sắc thức cũng vậy
Phân biệt tưởng thọ thức
Thực hành ba giống tưởng
Bốn, năm dần hòa hợp
Tư duy hoại tự tướng
Duyên chung năm ấm thạnh
Bảy chỗ ba cách quán
Cảnh giới rộng vui thích
Hoàn diệt quán sinh diệt
Một niệm thấy chân thật
Đầy đủ pháp niệm xứ
Quán đúng chủng tướng ấm
Như hóa mộng, bóng trăng
Định tuệ càng tăng thêm
Đó là pháp Noãn sinh
Tâm ấy rất vắng lặng
Nhìn chung năm tướng ấm
Tự thân lửa dục đốt
Ba cõi bị thiêu rụi
Các tướng của chánh định
Hướng thẳng cửa giải thoát
Trước hết quán Tứ đế
Mười sáu hành chân thật
Thành tựu pháp Noãn rồi
Tiến lên quán chân thật
Thấy Phật thân tướng đẹp
Vô lượng các công đức
Đệ nhất pháp tịch diệt
Thanh tịnh lìa phiền não
Biển công đức Thánh chúng
Sâu thẳm không thấy đáy
Đủ các tướng vi diệu
Hiện thân và cảnh giới
Thấy rồi tâm hoan hỷ
Đầy đủ tướng pháp Đảnh
Tăng tiến sinh pháp Nhẫn
Năm đường hiện cảnh giới
Đường ác thiêu đốt diệt
Đến nghỉ nơi mát mẽ
Khoảng giữa ở sinh tử
Cuối cùng chỉ nhất tâm
Trước quán khổ vô lượng
Tiếp thấy khổ chủng sinh
Chủng tăng thêm rộng lớn
Dần thấy Khổ, Tập, Diệt
Diệt rồi nhiên hậu quán
Bát Thánh đạo bình đẳng
Tướng vô thường biến diệt
Thô nhám khổ bức bách
Không tịch không chúng sinh
Không tự tại vô ngã
Khổ chủng là nhân duyên
Các duyên hợp là tập
Chủng sinh nên nói khởi
Hưng quả gọi là duyên
Hết Khổ, Tập nên Diệt
Diệt tịch nói tịch chỉ
Thanh tịnh lìa ba cõi
Giác gọi là diệu xuất
Đường tắt là tướng đạo
Bằng thẳng nói chánh nghĩa
Tiến đến gọi là thủ
Vượt qua nên gọi thừa
Tứ đế mười sáu hành
Quán chân thật đầy đủ
Pháp nhẫn lần lượt sinh
Pháp thế gian đệ nhất
Thánh hạnh chánh thọ địa
Được ba quyết định này
Kiến đạo tư duy đạo
Lần lượt đến cứu cánh
Tất cả tướng vi diệu
Mỗi mỗi tùy địa khởi
Thành tựu trí tuệ thật
Đầy đủ các công đức
Nên biết điều nói trên
Là phần tu quyết định
Có các bậc Minh trí
Thực hành phương tiện đúng
Siêng năng chớ lười biếng
Thường khởi lên hổ thẹn
Đối các vị phạm hạnh
Luôn biểu hiện kính mến
Tự giữ giới tu tịnh
Oai nghi cho vững vàng
Giả sử được lợi dưỡng
Ít muốn biết vừa đủ
Dễ đủ cũng dễ nuôi
Lượng thân ăn vừa đủ
Như người bôi mỡ xe
Không vì tham đắm vị
Hiểu rõ tất cả hữu
Hễ sinh ắt có lỗi
Tư duy quán sát đúng
Ba cõi như lửa cháy
Như người bệnh nặng kia
Tin nhận phương thuốc chữa
Nghe Thiện tri thức dạy
Quán sát tư duy kỹ
Thường dùng tâm thanh tịnh
Buộc thân chớ buông lung
Im lặng không nói nhiều
Ngồi yên nghĩ nghĩa thật
Nơi đồng trống gò rừng
Vắng vẻ tu xa lìa
Vô sự thích núi non
Ngồi trong hang đất trống
Trải cỏ dưới gốc cây
Trụ thanh tịnh như vậy
Tu hành xét lại mình
Siêng tu không lười biếng
Chuyên tinh cầu lợi mình
Rời xa lỗi thoái trụ
Chắc chắn được tiến lên
Phần công đức quyết định
Hành giả gắng phương tiện
Đầy đủ các thiện căn
Tôi đem ít tuệ lực
Lược nói các pháp tánh
Như nghĩa rốt ráo ấy
Mười lực cảnh giới trí.

 

Trang 1 2