KINH SIÊU NHẬT MINH TAM-MUỘI

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Thanh tín sĩ Niếp Thừa Viễn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THƯỢNG

Nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật đang du hóa tại vườn cây Nại thị, Duy-daly, cùng với đại chúng Tỳ-kheo gồm một vạn tám ngàn, Bồ-tát có tám vạn. Tất cả đại Thánh đều đã đạt thần thông, được Tổng trì, tóm thu mười lực trí tuệ, trụ ở chỗ vô sở trụ, vượt khỏi ba môn giải thoát, khéo léo sử dụng phương tiện, không ai là không hóa độ được, trí ba đạt không bị trở ngại, du hóa trong ba đời, độc tôn không ai sánh bằng, thấy được chỗ khởi lên của cội nguồn sinh tử, tùy bệnh cho thuốc, khiến được thuyên giảm, bảo vệ thành trì chánh pháp, cứu giúp quần sinh, thực hành bốn Tâm bình đẳng: Từ, Bi, Hỷ, Hộ; bốn ân tùy thời, khai thông kiến tạo cầu đò, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, hóa độ không cùng; hiểu rõ pháp: Không, Vô tướng, Vô nguyện, đạt được pháp Nhẫn bất khởi, hiện ra giữa chúng sinh, hoàn toàn không chỗ khởi chấp, dạy dỗ, đốc thúc những người còn thoái lui, làm cho không còn rơi trở lại, tám không nghĩ bàn, cứu vớt tám nạn, hợp cùng Pháp thân, hiện ra Bồ-tát, hoặc làm Như Lai, Thanh văn, Duyên giác. Cũng như ánh sáng mặt trời tỏa rạng muôn nơi, qua lại mười phương, cũng không chu toàn. Quán tất cả các pháp đều như huyễn hóa, như mộng, như bóng ngựa đồng hoang, như hình bóng, tiếng vang đều không chỗ có. Trừ sạch tất cả các phiền não, lợi, suy, hủy, dự, khổ, vui, thiện, ác. Vượt qua các pháp có ở thế gian, bước đến đạo tràng, bình đẳng không tăng giảm. Tên của các vị là: Bồ-tát Phổ Minh, Bồ-tát Phổ Đạt, Bồ-tát Phổ Trí, Bồ-tát Phổ Tuệ, Bồ-tát Phổ Chí, Bồ-tát Quang Minh, Bồ-tát Quang Diễm, Bồ-tát Quang Đẳng, Bồ-tát Quang Anh, Bồ-tát Quang Tạo, Bồ-tát Từ Quang, Bồ-tát Từ Thí, Bồ-tát Từ Giới, Bồ-tát Từ Nhẫn, Bồ-tát Từ Tấn, Bồ-tát Từ Tịch, Bồ-tát Từ Trí, Bồ-tát Từ Cứu, Bồ-tát Từ Hộ, Bồ-tát Từ Vũ, Bồ-tát Từ Minh, Bồ-tát Từ Phổ. Các vị ấy đều là những bậc đứng đầu, đầy đủ tám vạn đức.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói pháp Tuệ vô cực Đại thừa nghiệp, cho vô ương số trăm ngàn chúng quyến thuộc đang vây quanh. Lúc đó, trong thành, có đại trưởng giả tên là Thiện Bảo, cùng với ngàn người, mỗi người đều cầm hoa bảy báu, đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ sát chân, rồi đem hoa báu rải lên Đức Phật, cùng phát lời nguyện:

–Chúng con xin nguyện: Sẽ làm cho các loài chúng sinh, trong mười phương, tâm nhu nhuyến như hoa, ý thanh tịnh như hư không.

Lúc đó, oai thần của Như Lai, khiến cho các hoa báu đều trụ trên hư không và kết thành lọng hoa trên đầu Đức Thế Tôn. Ánh sáng của lọng hoa, che chiếu đến các Bồ-tát ở cõi Phật trong mười phương, các hàng trời, người không ai là không thấy. Mỗi thế giới chư Phật, đều có vô số, tức trăm ngàn Bồ-tát cùng đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ, rồi ngồi sang một bên.

Lúc đó, Từ Phổ cùng tám vạn Đại sĩ và trăm ức trời Đế Thích, Phạm vương, ba mươi ức Phạm, các Thiên thần lớn Diệu Thiên, mười ức quyến thuộc của trời Tịnh cư, hai mươi ức theo hầu Ma Tử Đạo sư. Năm ngàn ức kỹ nữ theo nhau đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân, lui đứng một bên.

Vua A-xà-thế cùng tám vạn người; vua Ba-tư-nặc cùng năm vạn người; vua Duy-da-ly cùng các Tôn giả gồm tám vạn bốn ngàn người; vua Uất-thiền cùng hai vạn người; vua Du-đầu-đàn cùng chín vạn người; vua Câu-di-na-kiệt cùng sáu vạn người; các vua như vậy, đều đem theo số quyến thuộc không thể kể hết, đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát đất, rồi lui ngồi một bên.

Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ, chư Thiên, Long thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, nhân phi nhân đông vô số ức, không thể ví dụ, cùng đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ sát đất, rồi phân ban theo từng bộ phận của mình, hoặc ngồi, hoặc đứng. Đức Phật ở trong chúng, oai thần rất là cao quý; như mặt trời mới mọc, như mặt trăng giữa các vì sao, như núi Tu-di sừng sững giữa biển cả chiếu giáp bốn thành. Thân Thế Tôn phóng ánh sáng vời vợi, Thánh tuệ vô biên, chiếu khắp tất cả không đâu là không mong độ thoát, tứ phẩm chiêm ngưỡng, như đi trong bóng đêm thấy được ánh sáng.

Lúc đó, trong hội có Bồ-tát Phổ Minh, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, quỳ gối, chắp tay, khen Đức Phật bằng kệ:

Đại Từ thương xót quần sinh
Làm bóng mát che người mù
Mở sáng mắt người tối tăm
Hóa chưa nghe bằng đạo sáng.
Cõi thế gian như hư không
Như hoa sen không dính nước
Tâm trong sạch hơn thế nữa
Cúi đầu lễ Đấng Vô Thượng.
Quán pháp vốn không sở hữu
Như bóng câu, trăng in nước
Bóng, vang, huyễn hóa, cây chuối
Hiểu ba cõi cũng như vậy.
Từ vô lượng kiếp, khó đếm
Tích công đức không biết được
Từ tâm đẳng, định rộng hóa
Chúng sinh loại đều nhờ ân.
Rõ ba cõi, giống như mộng
Giác đều diệt, được thích ứng
Gốc ngọn của mọi sinh tử
Nó hoảng hốt không sở hữu.
Ánh sáng Phật đều chiếu đến
Oai tướng tốt khó so lường
Đạo vời vợi không gì bằng
Nên cúi đầu lễ mười phương.
Vốn phát ý vì mười phương
Cứu nguy nạn, giúp quần sinh
Đã được nguyện hơn hư không
Ai nấy thảy đều mong ân.
Ngồi cây Phật, sức hàng ma
Được vô lượng thành giác đạo
Hiểu các pháp vốn tự nhiên
Với dị thuật không mong cầu.
Hoa bảy báu rải lên Phật
Tại hư không thành lọng hoa
Ánh sáng chiếu khắp mười phương
Quần sinh hợp nghe pháp hội.
Đức Thánh Tôn như Tu-di
Trí tuệ sáng hơn nhật nguyệt
Giảng chánh pháp không gì bằng
Nên đảnh lễ Bậc Đại Thánh.

Phổ Minh nói kệ khen Đức Phật, rồi quỳ gối chắp tay, thưa hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Nay những người trong đại hội này; có người phát ý Bồ-tát, hoặc chưa phát; có người được không thoái chuyển, hoặc chưa được; có người được pháp Nhẫn bất khởi, Nhất sinh bổ xứ, thành tựu đạo đức, hoặc còn đọa trong sự trói buộc của năm đường sinh tử. Cúi xin Đức Như Lai thương xót, vì họ diễn nói, thị hiện bảo tạng vô cực, khiến cho những người tâm chưa giải đạt được tỏ ngộ, người ngu tối thấy được ánh sáng đạt không thoái chuyển. Có Tammuội tên là Phổ chiếu thâm thiển tiêu tan nhị pháp, có thể mau chóng đến đạo Vô thượng chánh chân không?

Phật khen:

–Hay thay! Này Phổ Minh! Ông có nhiều lòng thương xót, nhiều sự an ổn, thương nhớ các hàng trời và người trong mười phương, muốn làm cho được sở nguyện; vậy hãy lắng nghe, lắng nghe suy nghĩ thấu đáo!

–Dạ vâng, bạch Thế Tôn! Con rất muốn được nghe.

Phật bảo:

–Này Phổ Minh! Có Tam-muội tên là Siêu nhật minh, Bồ-tát đạt được Tam-muội này đều được nhập vào. Ví như ánh sáng của mặt trời xuất hiện thì không có gì làm trở ngại. Hóa độ trước sau, khiến thông đạt ba xứ, tâm ý thanh thản. Người chưa phát ý sẽ làm cho khởi tâm Bồ-tát; đã phát đạo tâm rồi thì đạt quả vị không thoái chuyển; đã đạt được thì không bị rơi trở lại, cho đến Nhất sinh bổ xứ; người đã được Bổ xứ rốt ráo rồi thì chứng đắc Vô thượng chánh chân, bình đẳng như hư không, không đến, không đi, không ra, không vào, không có gì là không hành trì, thực hành tám mươi việc, có như vậy mới đạt được định vững chắc này.

Những gì là tám mươi? Hiểu rõ nhãn không, trừ nhĩ thanh, không tỹ khứu, dứt sự đắm trước của lời nói, thoát khỏi thức, dứt tham dâm, dừng sân hận, buông ngu si, hiểu rõ sắc như bọt nước, thọ như bong bóng nước nổi, tưởng như bóng câu, hành như cây chuối, thức như huyễn, tâm vốn sạch, ý giống giấc mộng, nhớ nghĩ đồng với hình bóng, không thấy thân, không chấp nhân, không có thọ, không giữ gìn mạng, bốn đại đều không, năm ấm không căn, sáu suy không cội nguồn, bảy thức không chủ tể, hành tâm Từ, thương tất cả, ý hòa duyệt, bảo vệ các căn, không thương ghét, lìa các chống đối, hạnh không tan, không hợp hội, không ban cho, không keo kiệt, không giới, không phạm, không nhẫn, không giận, không tinh tấn, không biếng nhác, không vắng lặng, không náo loạn, không trí, không ngu, không bỏ thế tục, không chuyên đạo, giảng nói pháp không vì mình vì tất cả, không chỗ dính mắc, cũng không đoạn, cũng không buộc, không mở, hành bình đẳng, dứt ngủ nghỉ, không bị che lấp, không thọ nhập, không theo chống đối, tâm tự hiểu, vâng lời Phật, không trái Pháp, không khinh chúng Tăng, thương mọi người trong mười phương, như cha nghiêm giáo, như mẹ nuôi dưỡng, ví như con vâng lời cha mẹ, nhớ ân như thân mình, không vì chính mình, không vì người khác, cũng không vì pháp, thực hành đạo Bồ-tát, giữ vững ý chí tao nhã, không bị tà tưởng, không nghĩ đến Thanh văn, không nghĩ đến Duyên giác, không cầu vọng tưởng, bỏ hạnh đây, kia, không dựa vào tất cả, không thấy ba đời, rõ được nguồn gốc ba cõi, không tâm ý thức, hiểu đạo như không; lìa quá khứ, vị lai và hiện tại, thâm nhập đại tuệ, tất cả vốn không, khéo thực hành những quyền biến.

Này Phổ Minh! Đó là tám mươi hạnh, nếu ai tu hành được vậy, thì mau chóng đạt Tam-muội Siêu nhật minh. Ví như mặt trời mọc, chỉ một lúc là chiếu khắp tất cả, trăm loại lương thực và cỏ cây đều được thành thục. Người được định này, bình đẳng nhập vào tất cả các hạnh thượng, trung, hạ; không đâu là không được hiện để độ hết tất cả. Như mặt trăng tròn xua tan bóng đêm. Dùng ánh sáng đại định, khử trừ ba tưởng nhơ bẩn che lấp, trừ sạch, để thấy được đạo Vô thượng. Như thầy thuốc giỏi lựa chọn trăm loại cỏ để trị các căn bệnh, khiến cho người bệnh được thuyên giảm. Bồ-tát dùng tuệ vô cực, tùy theo bản hạnh của chúng sinh, mà nói pháp, trừ sạch sắc, thọ, tưởng, hành, thức; cầu giữ được thần thông. Như vị thuyền trưởng, giữ vững con tàu, đưa người qua lại không bị đình trệ. Bồ-tát thị hiện Niết-bàn cứu người vô lượng, khai hóa tại nơi đó, rõ ba cõi đều không, thuận cả trước sau, cứu giúp tóm thu, hàng phục quần sinh mê muội. Như sư tử oai hùng, ẩn hiện trong rừng sâu, các thứ đều bị thu phục. Bồ-tát được định này, bước đi một mình trong ba đời; hàng phục, loại trừ sáu mươi hai kiến, chín mươi sáu đường tắc và những người bị đọa trong tà kiến, làm cho họ theo đạo giáo, đạt được tam phẩm. Như Chuyển luân vương, thống lãnh bốn thành, thiên hạ đều kính ngưỡng. Định tứ đẳng này, dùng bốn ý hạnh, phân biệt bốn đại, độ thoát sự sinh, già, bệnh, chết, ngã, nhân, thọ mạng, của chúng sinh; làm cho họ biết tất cả vốn là không, được đến đại đạo. Ví như biển cả, thâu nhận các sông suối, tích chứa các ngọc báu kỳ lạ, đặc biệt. Tất cả pháp môn Tổng trì, biện tài, các định ý môn đều tập trung vào Tam-muội ấy. Diễn giảng tuệ nghĩa vô thượng sâu xa, làm hưng thịnh ba ngôi báu, tẩy trừ ngu tối, vượt đến Nhật minh Tam-muội tôn định.

Lúc đó, Phật liền nói kệ tụng:

Như khi mặt trời mọc
Ánh sáng chiếu khắp nơi
Thóc lúa được chín muồi
Đại định hơn thế nữa.
Bình đẳng với tất cả
Các quần sinh, tạp hạnh
Đều hiện khắp tất cả
Ai nấy đều được độ.
Thầy thuốc trị các bệnh
Tùy thời mà cho thuốc
Định này ứng thời nghi
Tiêu trừ dâm, nộ, si.
Thuyền trưởng giỏi đưa người
Bờ này sang bờ kia
Bồ-tát cũng như vậy
Cứu giúp không cùng cực.
Ví như sư tử hùng
Độc bộ không sợ gì
Sáu mươi hai nghi kiến
Định này đều hàng phục.
Như Chuyển luân thánh vương
Vỗ về bốn thiên hạ
Bồ-tát cũng như thế
Tứ đẳng độ quần sinh.
Biển cả nhận vạn sông
Châu báu và ngọc lạ
Định này trùm các pháp
Bố thí bảy Thánh tài.
Giả sử có phát ý
Muốn đến tuệ vô thượng
Tôn trọng nghĩa định này
Mau được hiểu chánh chân.

Phật nói kệ xong liền bảo:

–Này Phổ Minh! Bồ-tát có bốn viêc, mau chóng đạt được định này. Những gì là bốn?

  1. Thương xót quần sinh như cốt tủy mình.
  2. Gieo trồng các gốc đức không mong báo đền.
  3. Quán bốn đại đều là không, giống như giấc mộng.
  4. Biết năm ấm như ngựa hoang. Đó là bốn việc.

Đức Phật lại nói kệ:

Người muốn được định này
Thương xót loài chúng sinh
Như cốt tủy của mình
Tạo đức không mong đền.
Quán thân bốn đại không
Xem nó như giấc mộng
Biết năm ấm vốn không
Giống như con ngựa hoang.
Giả sử người trí hiểu
Không chấp có ngô ngã
Luyện tập tận nguồn gốc
Chóng được định ý này.

Phật bảo:

–Này Phổ Minh! Bồ-tát lại có bốn việc, mau chóng được định này. Những gì là bốn?

  1. Nuôi dưỡng chúng sinh, thương chúng sinh như con đỏ.
  2. Thường thực hành lòng lành cao cả, không phân biệt đây, kia.
  3. Khuyến khích dạy dỗ người ngu si, chỉ rõ lẽ đạo.
  4. Ngày đêm tinh tấn, chí đạo không mất.

Đó là bốn.

Phật lại nói kệ:

Nuôi dưỡng thương chúng sinh
Như cha mẹ yêu con
Lòng lành không mong trả
Bình đẳng với tất cả.
Khuyến hóa bày người ngu
Khiến thấy rõ đạo lớn
Sớm chiều vui chánh pháp
Mới mau được định này.

Phật bảo:

–Này Phổ Minh! Bồ-tát lại có sáu việc, mau chóng được định này. Những gì là bốn?

  1. Bình đẳng ban cho.
  2. Thờ phụng giữ gìn cấm giới, tất cả không phạm.
  3. Ra sức nhẫn nhục, mặc áo giáp Đại thừa.
  4. Tinh tấn tu hành, chưa từng biếng nhác phế bỏ.
  5. Một lòng tóm thu ý, khiến không có các tưởng.
  6. Trí tuệ sáng tỏ không chìm đắm trong ba cõi.

Đó là sáu.

Phật lại nói kệ:

Ban cho không cầu đáp
Giữ giới như núi đất
Tạo sức mạnh nhẫn nhục
Mặc áo giáp Đại thừa.
Khéo tu đại tinh tấn
Chưa từng có biếng nhác
Một lòng thiền Tam-muội
Trí tuệ không trở ngại.
Không tự quán duyên biến
Nó tạo lập từ đâu
Ba nơi bỗng hiện mất
Một lòng không chỗ trụ.

Phật bảo:

–Này Phổ Minh! Bồ-tát lại có mười việc, mau chóng được định này. Những gì là mười?

  1. Đem sự an ổn đến cho mọi người.
  2. Trừ sạch các hại, nhơ.
  3. Tiêu hóa trần lao.
  4. Hòa hợp biệt ly.
  5. Buông bỏ lý tà kiến sáu mươi hai nghi.
  6. Hiểu rõ, không có tôi, ta.
  7. Thường tôn sùng mười đức.
  8. Muốn cứu giúp tất cả nạn khổ trong ba đường.
  9. Không bị lưới tà thuật làm mê hoặc.
  10. Theo gốc không giáo, không hợp, không tan.

Đó là mười việc.

Phật lại nói kệ:

Cho chúng sinh an vui
Lìa các tưởng hại, nhơ
Tiêu hóa hết trần lao
Hòa hợp, loạn biệt ly.
Trừ sáu mươi hai kiến
Hiểu rõ không tôi, ta
Luôn tôn sùng mười đức
Muốn cứu vớt ba đường
Thương người bị tám nạn
Qua lại giáp khắp cả
Ví như người mù lòa
Không tự biết tối tăm.
Vì thế khởi đại Bi
Cứu thoát các nguy hiểm
Phân biệt tuệ sâu xa
Chóng được định ý này.

Phật bảo:

–Này Phổ Minh! Bồ-tát lại có bảy việc, mau chóng được định này. Những gì là bảy?

  1. Tâm chuyên chí đạo không nhớ nghĩ gì khác.
  2. Đối với pháp phải tự biết phân biệt lẽ vi diệu.
  3. Vui với tất cả, quán sát chúng sinh.
  4. Tin biết các pháp không có gốc ngọn.
  5. Càng thêm tinh tấn, không phế bỏ đạo.
  6. Tạo lập ý chí lớn, vĩnh viễn được an vui.
  7. Tùy thuận mà bảo vệ chánh pháp, cho đến đạt được đại định.

Đó là bảy.

Phật lại nói kệ:

Giúp tâm chuyên chí đạo
Để không nghĩ gì khác
Phân biệt pháp: Vốn không
Vui hòa với mọi người.
Rõ ba môn giải thoát
Hiểu các pháp không rễ
Thường tu hạnh tinh tấn
Không phế bỏ đạo giáo.
Tạo dựng ý rộng lớn
Nuôi dưỡng đến cực vui
Giúp hiểu sự mê hoặc
Được định Siêu nhật minh.

Phật bảo:

–Này Phổ Minh, Bồ-tát lại có mười pháp, mau chóng được định này. Những gì là mười?

  1. Không ngã.
  2. Không nhân.
  3. Không thọ, không mạng.
  4. Không Thanh văn.
  5. Không Duyên giác.
  6. Không ở hai pháp.
  7. Không chấp trước Bồ-tát.
  8. Không tưởng thấy Phật.
  9. Không tại sinh tử.
  10. Không ở Nê-hoàn.

Phật liền nói kệ:

Không thấy tôi, ta, người
Không chấp thân, thọ, mạng
Không có tâm Thanh văn
Trừ ý tưởng Duyên giác.
Không chấp pháp có hai
Không đắm trước Bồ-tát
Không tưởng thấy thân Phật
Không trụ có vô tế.
Rõ ràng không tự thấy
Mới thấy tất cả không
Nhân duyên không khởi lại
Mới được thành định ý.

Phật bảo:

–Này Phổ Minh! Bồ-tát lại có tám pháp, mau chóng được định này. Những gì là tám?

  1. Bình đẳng, xem xét tà, chánh, không có hai tâm.
  2. Thường nhớ nghĩ đến Tam bảo, không làm cho dứt lìa.
  3. Giảng nghĩa pháp sâu xa chưa từng nói năng.
  4. Nghiệp gắn liền với Đại thừa, không thích đệ tử (Thanh văn), việc làm thuận với chánh pháp, không bỏ Phật đạo.
  5. Bình đẳng, có phương tiện đúng đắn trừ mọi khởi diệt.
  6. Diệt sạch tưởng nhân duyên vĩnh viễn.
  7. Ý chỉ vắng lặng, không bị náo loạn.
  8. Nhất tâm định ý, xem thấy cả mười phương.

Đó là tám.

Phật liền nói kệ:

Bình đẳng quán tà chánh
Cả hai không xứ sở
Thường nhớ nghĩ Tam bảo
Khiến tuệ không đoạn tuyệt.
Diễn nói nghĩa sâu xa
Chưa từng sinh tưởng khác
Nghiệp gắn liền Đại thừa
Không hâm mộ Tiểu thừa.
Việc làm thường thuận pháp
Không bỏ Phật, chánh đạo
Phương tiện hành bình đẳng
Trừ các duyên khởi diệt.
Ý trụ vào vắng lặng
Chưa từng khởi náo loạn
Một lòng giữ định ý
Liền thấy Phật mười phương.

Phật bảo:

–Này Phổ Minh! Bồ-tát lại có bảy việc, mau chóng được định này. Những gì là bảy?

  1. Hiểu sắc vốn không.
  2. Tiếng như tiếng vang vọng lại.
  3. Hương như gió thoảng.
  4. Vị như duyên hợp.
  5. Trơn láng có vui gì.
  6. Hiểu thức như huyễn.
  7. Các pháp giống như mộng.

Đó là bảy.

Phật liền nói kệ:

Hiểu sắc vốn là không
Âm thanh như tiếng vang
Hương thơm như gió thoảng
Trơn láng là lỗi lầm.
Rõ các thức huyễn hóa
Tất cả pháp như mộng
Hay phân biệt như vậy
Được định Siêu nhật minh.

Phật bảo:

–Này Phổ Minh! Bồ-tát lại có năm việc, mau chóng được định này. Những gì là năm?

  1. Tâm bình đẳng đối với nhân và phi nhân, trong mười phương.
  2. Không dính mắc vào cái lợi cúng dường.
  3. Nếu có giảng kinh, người đời sau không thấy sự khiếm khuyết.
  4. Không trông mong vào tiền tài, châu báu, sắc đẹp của người khác.
  5. Thâm nhập pháp vi diệu, khó có thể ví dụ.

Đó là năm.

Phật liền nói kệ:

Tâm bình đẳng mười phương
Nhân phi nhân, không khác
Nếu được sự cúng dường
Chí ấy không dính mắc.
Giả sử giảng nói kinh
Sau không chỉ khiếm khuyết
Không mong tài lợi người
Thâm nhập pháp vi diệu.

Phật bảo:

–Này Phổ Minh, Bồ-tát có năm việc, mau chóng được định này. Những gì là năm?

  1. Vượt quá các pháp: Không, Vô tướng, Vô nguyện.
  2. Hiểu rõ ba đạt.
  3. Trí biện tài vô ngại.
  4. Thực hành đại trí tuệ, độ vô cực.
  5. Khéo sử dụng phương tiện quyền biến, không có gì là không thông suốt.

Đó là năm.

Phật liền nói kệ:

Vượt Không, Vô tướng, Nguyện
Hiểu rõ trí ba đạt
Biện tài không thể lương
Nói ra như biển cả.
Tu hành trí tuệ lớn
Hóa độ không cùng cực
Thiện quyền bao trùm khắp
Định Nhật minh như vậy.

Lúc Phật nói pháp này, có ba mươi ức Bồ-tát được pháp Nhẫn bất khởi; có tám vạn bốn ngàn người phát đạo ý Vô thượng Chánh chân; có ba vạn người xa lìa phiền não cấu bẩn, được Pháp nhã thanh tịnh; có tám ngàn Tỳ-kheo dứt sạch nhơ uế, ý tỏ, ba ngàn thế giới chấn động sáu cách; trời mưa hoa hương, các nhạc cụ tiêu sáo không thổi tự kêu, các loại chim bay, các cầm thú đều đến tập hội lắng nghe, mười phương Bồ-tát tự nhiên bay đến mỗi vị đều mang các loại hoa, nhiều như núi Tu-di tung rải lên Đức Phật, đem các loại y phục quý báu cúng dường Thế Tôn. Đại Thánh khó gặp, như hoa Ưu-bát-la đâu phải dễ gặp. Pháp hiếm có này, khó có thể được, Phật đại thần thông, từ vô số kiếp, tích lũy công đức, mở rộng lòng xót thương, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, phương tiên khéo léo đều là vì muôn người, tự nhiên đạt được công đức không bị mất. Ta vì lợi lành được thấy Như Lai, nghe pháp sâu dày vi diệu Siêu nhật minh định. Vui thay! Thích thay! May mắn gì mà ta được như thế?

Phật bảo các Bồ-tát:

–Này các Thiện nam! Thật đúng như lời các ông nói, tin vào pháp sâu dày và có khả năng tu hành thì sẽ mau chóng đạt được công đức mười tuệ của định Siêu nhật minh. Những gì là mười?

  1. Đầy đủ bốn tâm bình đẳng.
  2. Không nhàm chán bốn ân.
  3. Tôn sùng đại tuệ.
  4. Đại định thông suốt.
  5. Đạt được thần thông.
  6. Thành tựu sáu pháp Ba-la-mật, pháp Nhẫn bất khởi, phương tiện khéo léo.
  7. Thấy mười phương Phật.
  8. Có khả năng thống lãnh cõi nước.
  9. Nhất sinh bổ xứ.
  10. Đã đạt được đạo tràng Tam đạt trí.

Đó là mười.

Lúc nói pháp này, có vô số Bồ-tát, đạt được pháp Nhẫn bất Khởi, vô số người phát đạo ý Vô thượng Chánh chân.

Khi ấy, có Bồ-tát tên là Ly Cấu Mục bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bồ-tát học? Sao gọi là Thanh văn học? Sao gọi là Duyên giác học.

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Không hạn chế, không chướng ngại, tâm ấy phóng khoáng an nhàn, là Bồ-tát học. Còn có hạn chế, chướng ngại, tâm ấy hạn chế thiên lệch là Thanh văn học. Ít quyến luyến Đại thừa, tới, lui không có trí tuệ, tâm còn bị cô lập, đó là Duyên giác học.

Ly Cấu Mục lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là không hạn chế? Sao gọi là không ngại? Sao gọi là phóng khoáng?

Phật nói:

–Này Ly Cấu Mục! Phát đạo ý Vô thượng Chánh chân; thương xót tất cả, muốn độ tất cả con người và côn trùng; Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, phương tiện khéo léo, chỉ vì tất cả không hề nghĩ đến thân mình; tuân theo bốn Tâm bình đẳng: Từ, Bi, Hỷ, Xả; tăng thêm bốn ân, tuệ thí nhân ái; lợi ích bình đẳng với mọi người; cứu giúp kẻ nguy ách, khốn cùng, thiếu thốn; giáo hóa họ tu đạo; vì những người trí tuệ, khuyến khích tu đạo Bồ-tát; tự xét về lỗi lầm của chính mình, không tìm sự khiếm khuyết của người khác; cung kính người khác như cha mẹ, như con, như thân mình không khác; đem thân kính đức, bình đẳng với mọi người; thương xót mọi người như thương con đỏ; cừu oán hay thân quen, tâm không đối xử sai khác; hiểu biết thân này là trống không; chúng sinh không có nơi chốn, tôi, ta tự nhiên, các pháp tự nhiên, đạo pháp tự nhiên, Phật pháp tự nhiên; tất cả vốn không, không hình dáng, không tướng mạo. Đó là không hạn chế.

Ở trong sinh tử, không cầu Niết-bàn, không thấy Niết-bàn, đối với Niết-bàn không cầu sinh tử, cũng không có đối tượng để thấy; không ghét sinh tử, cũng không trụ Niết-bàn, trụ nơi không chỗ trụ. Cũng như ánh sáng mặt trời, chiếu khắp tất cả, cũng không qua lại, ánh sáng không có nghĩ nhớ tưởng. Bồ-tát cũng như vậy, nhập vào tất cả, cũng không có chỗ nhập, cũng không có ý tưởng tới lui giáp khắp. Ví như trong biển cả có châu minh nguyệt bảy báu; rồng thần, thuồng luồng, rắn, rùa, ba ba đều ngậm ngọc châu đó, không tăng không giảm, nước ấy một vị, cũng không nhơ uế. Bồ-tát cũng như vậy, hiện có giữa sinh tử, ách nạn ba đường, nếu có đến cảnh giới Niết-bàn vắng lặng cũng chẳng tăng giảm; tâm như minh châu, giống như nước sạch, nhất định không bẩn đục, cứu được khắp quần sinh; nhập vào các vị thông tuệ bình đẳng, chỉ dạy cho chúng sinh. Cũng như giữa hư không, mọc cây thuốc độc, cây thuốc đó cũng không làm hại hư không, cây thuốc cũng không đùng để trị bệnh. Bồ-tát cũng lại như vậy, ở trong sinh tử ba độc cũng không làm nhiễm uế, ở trong Niết-bàn trong sạch cũng không làm nơi đó thêm trong sạch, hóa độ muôn dân không ai là không được cứu giúp, tuy nói có vào, nhưng cũng không có ra, xoay tròn qua lại. Đó gọi là vô ngại.

Đạo tâm không hạn chế thì không có xứ sở, không nhân không tâm, cũng không có chúng sinh để độ. Tâm như tất cả pháp, như chỗ hướng tới, chỗ hướng tới bình đẳng thì bình đẳng; đó chính là Chánh đẳng Chánh giác. Không có ba cõi, không có địa vị Thanh văn, không có chỗ của Duyên giác, không có trụ Bồ-tát, không ở trong hữu vi, không ở trong vô vi, không có, không không, cũng không ở trong quá khứ, vị lai, hiện tại; cứu giúp không có đối tượng để cứu giúp, sinh không có chỗ sinh, dấu vết đạo vốn không, đến đi vốn không, quả Bất hoàn vốn không, Vô trước vốn không, Duyên giác vốn không, ba cõi vốn không, chúng sinh vốn không, Phật đạo vốn không, không kia vốn không, chân chánh vốn không, không đâu là không thích ứng. Đó gọi là tâm phóng khoáng.

Ly Cấu Mục lại thưa hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là hạn chế? Sao gọi là chướng ngại? Sao gọi tâm ấy còn hạn chế?

Phật nói:

–Này Ly Cấu Mục! Chán sợ các hoạn nạn của sinh tử trong ba cõi, cho rằng Niết-bàn là số một, không hiểu rõ tự nhiên; nhàm chán cái khổ của thân; sợ xoay tròn trong cái khổ cõi trần vô số kiếp; đối với Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ không mệt mỏi; cho cả đầu, mắt, tai, mũi, tủy, não, gân, thịt và từng bộ phận trên thân thể, cho đến luôn nhớ nghĩ đến Phật; nhưng lại khước từ không học pháp Bồ-tát để mong cầu diệt thân. Đó gọi là hạn chế.

Đã được La-hán, muốn có chỗ độ Tam-muội thiền tư, mới thấy được nhân tâm, không thể yên vui thấy tất cả gốc rễ, không ứng bệnh cho thuốc; thích được sống lâu, xem xét thân không sạch thối rửa bày ra đó, không cho nó là vui mà coi nó như kẻ thù, như rắn hổ mang, như độc, sớm chứng Niết-bàn. Đó gọi là chướng ngại.

Trụ trong Niết-bàn, thích sáng, ghét tối, không hiểu các pháp đều không có gốc rễ mà cầu có nơi chốn, không biết tuệ rỗng. Đó gọi là tâm còn hạn chế thiên lệch.

Ly Cấu Mục lại thưa hỏi Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là đứng cô lập ở giữa?

Phật nói:

–Này Ly Cấu Mục! Người phát ý Bồ-tát, đối với Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ đều là vọng tưởng. Muốn được ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Đức Thế Tôn, oai thần Thánh đức siêu xuất hơn mọi người; nhưng không hiểu rằng, những thứ ấy là không, chỉ là sự hóa hiện của Như Lai, thị hiện thân mạng, trở lại cầu cái cho là có; lại còn cho rằng có người muốn độ, có ý nghĩ tôi, ta, mà không biết là vốn không; không biết thực hành bốn Tâm bình đẳng, không biết bốn Ân, đắm chìm vào hạnh rỗng, không thấy được nhân vô vi, không biết tới lui, không biết tuệ rỗng không; muốn độ chúng sinh nhưng không hiểu được phương tiện khéo léo của pháp thân để có thể dùng mà cứu tế. Đó gọi là Duyên giác học.

Lúc nói pháp này, có vô số trời, người đều phát đạo ý Vô thượng Chánh chân.

Lúc đó, có con của trưởng giả, tên là Tịnh Giáo, cùng với năm ngàn chúng đi theo, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi lui ngồi một bên, chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các chúng hôm nay, hâm mộ giáo pháp của Phật, muốn phát đạo ý, vậy phải tích tập những hạnh nào, thì mới đạt đến đạo tuệ, thi hành pháp gì để được cõi Phật thâu nhận?

Phật bảo:

–Này con của trưởng giả! Có một pháp hạnh ứng với đạo ý, đó là tâm tánh điều hòa, hướng đến mọi loài, với tâm bình đẳng là một.

Phật liền nói kệ tụng:

Tâm tánh luôn nhu hòa
Ý chí không thô bạo
Bình đẳng thâu tất cả
Mới ứng hạnh Bồ-tát.

Lại nữa, có hai pháp là hạnh của Bồ-tát. Những gì là hai?

  1. Tâm vắng lặng trong sạch, xa lìa mọi kiến chấp.
  2. Hoàn toàn không chấp trước, chỉ có chí đại đạo.

Đó là hai.

Phật liền nói kệ tụng:

Tâm sạch luôn vắng lặng
Xa lìa các kiến chấp
Trừ sáu mươi hai nghi
Chỉ nhớ hạnh đại đạo.

Lại có ba pháp là hạnh của Bồ-tát. Những gì là ba?

  1. Hiểu rỗng không, không name trước.
  2. Không tướng, không trói buộc.
  3. Không nguyện, không thoát. Đó là ba.

Phật liền nói kệ tụng:

Tâm thường hiểu rõ không
Vô tướng, không trói buộc
Vô nguyện, không giải thoát
Thoát ràng buộc ba cõi.

Lại có bốn pháp là hạnh của Bồ-tát. Những gì là bốn?

  1. Thường tuân theo Từ tâm, không có ý hại, nuôi lớn đạo hóa.
  2. Thường tu Từ bi, tuôn lệ thương xót sự đau khổ sinh tử của chúng sinh.
  3. Thường phụng hành ý vui, hướng đến quần sinh với nhan sắc vui vẻ, không có tâm yêu ghét.
  4. Thường tu hành bảo vệ tâm, khuyến hóa giáo dục chúng sinh, khiến phát đạo ý; đã phát đạo ý rồi, đạt đến không thoái chuyển; đã không thoái chuyển rồi, đạt đến đạo tràng Vô thượng Chánh chân.

Đó là bốn.

Phật liền nói kệ tụng:

Hành bốn tâm bình đẳng
Ý chí hòa vui vẻ
Thương xót loài chúng sinh
Tuôn lệ vì chúng khổ,
Tâm muốn độ chúng sinh
Bình đẳng không yêu ghét
Giúp bảo vệ đạo pháp
Mới ứng hạnh Bồ-tát.

Lại có năm pháp là hạnh của Bồ-tát. Những gì là năm?

  1. Phụng trì cấm giới, không có sự hủy phạm.
  2. Định ý nhiếp chí, khiến tâm đạm bạc.
  3. Trí tuệ hiểu là không, nhưng không chỗ khởi.
  4. Thoát khỏi năm ấm, khiến không nơi chốn.
  5. Hiện ra ở ba cõi nhưng hoàn toàn không sở hữu.

Đó là năm.

Phật liền nói kệ:

Giữ giới không cho phạm
Tam-muội ý không loạn
Trí tuệ phân biệt không
Giải thoát năm ấm tụ.
Thấy nguy ách ba đời
Thị hiện vào trong đó
Tùy thời mà khai hóa
Khiến đạt được sở nguyện.

Lại có sáu pháp là hạnh của Bồ-tát. Những gì là sáu?

  1. Mắt thấy đều không.
  2. Tai nghe không tiếng.
  3. Mũi ngửi không hương.
  4. Miệng nói không lời.
  5. Thân không tồn tại thô, trơn.
  6. Tâm không nghĩ tưởng.

Đó là sáu.

Phật liền nói kệ tụng:

Mắt nhìn thấy, đều không
Tai nghe không có tiếng
Mũi không đắm vào hương
Lưỡi không dính vào vị,
Biết thân do bốn đại
Tâm hiểu rõ vốn không
Như vậy, hiểu không hình
Mới ứng hạnh Bồ-tát.

Lại có bảy pháp là hạnh của Bồ-tát. Những gì là bảy?

Là thâu tóm: Thân, miệng, ý, tịch, định; không loạn, không có sai trái. Đó là bảy.

Phật liền nói kệ:

Thường thâu giữ thân, miệng
Tâm yên tĩnh không loạn
Định Tam-muội vắng lặng
Thần thông tất thông đạt.

Lại có tám pháp là hạnh của Bồ-tát. Những gì là tám?

  1. Bố thí ba-la-mật không cùng.
  2. Giữ giới ba-la-mật không cùng.
  3. Nhẫn nhục ba-la-mật không cùng.
  4. Tinh tấn ba-la-mật không cùng.
  5. Thiền định ba-la-mật không cùng.
  6. Trí tuệ ba-la-mật không cùng.
  7. Phương tiện quyền xảo Ba-la-mật không cùng.
  8. Thành tựu danh tuệ hạnh.

Đó là tám.

Phật liền nói kệ:

Bố thí độ vô cực
Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền
Trí tuệ tự nhiên đạt
Đạo sáng là tối tôn.

Lại có chín pháp là hạnh của Bồ-tát. Những gì là chín?

  1. Trừ năm ấm.
  2. Bỏ sáu suy.
  3. Diệt ba nhơ.
  4. Đẩy lùi tám nạn.
  5. Không chìm đắm ba cõi.
  6. Không luyến tiếc ba đời.
  7. Lìa tâm La-hán.
  8. Xa lìa ý Duyên giác.
  9. Chí gắn liền Đại thừa. Đó là chín.

Phật liền nói kệ:

Trừ năm ấm, sáu suy
Lìa ba nhơ, tám nạn
Không dính mắc ba cõi
Ba đời không nơi chốn.
Xa lìa tâm La-hán
Không nhớ nghĩ Duyên giác
Hết lòng cầu Đại đạo
Đó là hạnh Bồ-tát.

Lại có mười pháp là hạnh của Bồ-tát. Những gì là mười?

  1. Pháp báu Tam-muội.
  2. Khéo trụ Tam-muội.
  3. Không lay động Tam-muội.
  4. Độ không chuyển Tam-muội.
  5. Chứa hoa báu Tam-muội.
  6. Mặt trời sáng rỡ Tam-muội.
  7. Các nghĩa lợi Tam-muội.
  8. Hiện tại Tam-muội.
  9. Tuệ sáng rỡ Tam-muội.
  10. Dũng mãnh phục Tam-muội, Siêu nhật minh Tam-muội.

Đó là mười.

Phật liền nói kệ:

Dùng pháp báu Tam-muội
Khéo trụ không chỗ động
Lập vững chắc không chuyển
Chứa hoa báu Tam-muội.
Rực rỡ các nghĩa lợi
Ánh sáng tuệ hiện tại D
ũng mãnh phục Tam-muội
Mới được Siêu nhật minh.

Lại nữa, này Ly Cấu Mục! Bồ-tát hành bố thí, trời, người thích theo hầu, khai hóa người keo kiệt tham lam, khiến không còn tham tiếc.

Bồ-tát giữ giới hạnh, trời, người thích theo hầu, hóa độ người buông lung, khiến cho không loạn động.

Bồ-tát hành nhẫn nhục, trời, người thuận theo, hóa độ người sân giận, không còn nhỏ nhặt.

Bồ-tát hành tinh tấn, trời, người thích theo hầu, hóa độ người biếng nhác, khiến họ nỗ lực siêng năng.

Bồ-tát hành thiền định, trời, người theo học tập, hóa độ người náo loạn, khiến chí được an ổn vắng lặng.

Bồ-tát hành trí tuệ, trời, người thuận theo, hóa độ người bị chướng ngại, khiến thông đạt khuôn mẫu bậc Thánh.

Bồ-tát hành từ, trời, người vui theo, hóa độ người không có lòng nhân từ, khiến tâm bình đẳng nhân hậu.

Bồ-tát hành bi, trời, người vui theo, hóa độ kẻ ngu si mê muội, thương xót chúng sinh.

Bồ-tát hành vui đẹp, trời, người theo hầu, hóa độ người buồn rầu lo âu, tự vui với tiếng trống pháp.

Bồ-tát hành bảo vệ, trời, người vui theo, cứu độ giáo hóa những người không được sự giúp đỡ, hỗ trợ nuôi lớn tất cả. Bồ-tát giảng pháp, trời, người lắng nghe, hóa độ người ý chí còn phàm tục, khiến họ ham thích Thánh điển. Bồ-tát khiêm nhường, trời, người cung kính, hóa độ người cao ngạo phụng kính Tam bảo. Bồ-tát làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, trời, người vui với tuệ, hóa độ người không có nghĩa, khiến họ ban cho ân nghĩa rộng rãi. Bồ-tát hành bình đẳng, trời, người dự theo, giáo hóa người, tâm không rộng rãi, khiến họ tiếp dẫn những ai chưa thông đạt. Bồ-tát hành quyền xảo, nhiếp phục các chúng sinh, giáo hóa chúng làm lành, thành tựu sự hiểu biết bình đẳng để đều sinh vào nước ấy. Bồ-tát hành ba mươi bảy Phẩm trợ đạo để nhiếp hóa chúng sinh; Ý chỉ, Ý đoạn, Căn, Lực, Giác, Đạo, nhiếp thủ chúng sinh, khiến được vắng lặng an nhiên; nếu khi thành Phật thì đều sinh vào nước đó. Bồ-tát ở trong đại hội giảng pháp sâu xa nhiệm mầu, khiến cho các loài côn trùng đều mong siêu độ; nếu khi thành Phật đều sinh vào nước ấy. Bồ-tát thực hành mười đức, thâu tóm chúng sinh để được khai hóa, bảo vệ thân, miệng, ý. Bồ-tát nói kinh trừ khử tám nạn, thâu tóm chúng sinh thực hành tám Chánh đạo, nếu khi thành Phật đều sinh vào nước ấy. Bồ-tát tự xét về mình, không tìm lỗi người khác, thâu tóm chúng sinh lìa mọi tà kiến, sáu mươi hai lưới nghi, nếu khi thành Phật đều sinh vào nước ấy. Bồ-tát nói pháp, thâu tóm chúng sinh, giải thoát tám sự trói buộc, đạt đến tám giải thoát, nếu khi thành Phật, đều sinh vào nước ấy. Bồ-tát nói pháp, trừ tám nghĩ bàn, đạt đến biển pháp môn không nghĩ bàn, nếu khi thành Phật, đều sinh vào nước ấy. Bồ-tát nói pháp, giả sử đạt được pháp Nhẫn vô sở tùng sinh, thành tựu đầy đủ Phật sự sẽ thị hiện Niết-bàn, độ vô lượng người và đều làm cho được đạo.

Như vậy, này Ly Cấu Mục! Những việc làm gốc ngọn của Bồtát là như thế. Nếu ứng hợp với hạnh này, thì gọi là tự nhiên, thành lập cõi nước, độ thoát quần sinh.

Lúc Đức Phật nói pháp này, Ly Cấu Mục, con của trưởng giả và năm ngàn chúng đi theo, đều phát đạo ý Vô thượng Chánh chân, đồng thời đạt được pháp Nhẫn bất khởi.

Lúc đó, có cư sĩ tên là Kiến Chánh bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con thường nghe nói: Nếu nhớ nghĩ tới Phật, thì dù chỉ trong một lúc cũng sẽ thấy, nhưng bị tội che lấp, nên không thể tự đến được. Hôm nay, quả thật may mắn khó lường, được, chiêm ngưỡng Thế Tôn, không biết nhàn chán, nghe pháp không biết mệt mỏi. Cúi xin Thế Tôn ban cho ân lớn khiến cho các đời người gặp Thế Tôn.

Phật khen:

–Hay thay! Hay thay! Có bốn việc thường không lìa Phật.

Những gì là bốn?

  1. Thường nhớ nghĩ Như Lai, tạo lập hình tượng Phật.
  2. Nghe nghĩa sâu xa của kinh, liền tin theo phụng hành.
  3. Tuy không thấy Phật, nhưng lại hiểu rất rõ vốn là không.
  4. Biết mười phương Phật chỉ là một Pháp thân.

Đó là bốn việc không lìa chư Phật.

Lại có bốn việc, tuy đối diện với Phật, nhưng không bao giờ thấy. Những gì là bốn?

  1. Đang có Như Lai mà không đến nghe kinh.
  2. Không gặt hái được nghĩa lý của kinh.
  3. Không thể thờ phụng tu hành.
  4. Không chỉ bày cho mọi người.

Đó là bốn việc, tuy mặt nhìn Phật nhưng không bao giờ thấy.

Nếu có thấy Phật mà tự chấp tôi, ta, không hiểu là chẳng phải thường, khổ, không; chẳng phải thân rơi vào bốn điên đảo. Nghe kinh đắm chìm vào âm thanh, không có khả năng phân biêt được tiếng vang; đối với người này thì thân diệt độ. Phật đã diệt độ, không hiện hữu ở thế gian, người ấy nghe kinh, vui mừng tâm được khai ngộ. Như trong bóng tối, không thấy được ánh sáng. Biết Như Lai tùy thế tục mà hiện hữu hóa độ, phụng hành đạo cấm, không trái kinh điển, lìa mọi tà pháp, sáu mươi hai kiến, thực hành bốn Tâm bình đẳng, không ghét, không thương. Phật tuy diệt độ, nhưng ý chí đạt như vậy, thường được thấy nhau.

Lại hỏi:

–Sao gọi là thấy Phật? Sao gọi là nghe Pháp? Nhân duyên gì cúng dường Tăng?

Phật nói:

–Thấy thân Như Lai thì xem xét mà biết rằng, nhờ hạnh gì mà được đến với Phật, vốn là do sáu pháp Ba-la-mật; thương xót tất cả như cha, mẹ, con; như thân mình, không tham bốn đại. Đó là thấy Phật.

Nghe nói kinh pháp, thì không dính mắc vào âm thanh, chỉ nắm bắt pháp; không chấp vào người, chỉ nắm lấy cốt lõi; không chấp vào tiếng, giữ lấy trí tuệ; không dính mắc vào thân hình, tóm thâu chánh lý; không bám víu vào lời nói. Đó là nghe kinh.

Nếu thấy được dấu vết đạo, tới lui, không trở lại, không dính mắc Duyên giác, Thế Tôn, Bồ-tát; tâm cúng dường, bình đẳng, khiêm tốn, ty thuận, không có lòng kiêu mạn. Đó là thấy được Thánh chúng.

Lại hỏi:

–Sao gọi là viêc ma?

Phật nói:

–Ma có bốn việc. Những gì là bốn?

  1. Thân ma. Là thân phạm các ác: năm ấm, sáu suy, không thuận theo pháp Phật.
  2. Ma dục trần. Là tình thái ái dục, không bao giờ chấm dứt.
  3. Tử ma sinh ra các tưởng đắm trước, không hứng khởi việc nhớ nghĩ pháp.
  4. Thiên ma cùng quyến thuộc đến dò tìm, sự xin cầu không có nhàm chán; dừng ý, cắt ý, ma tức hàng phục. Ví như mài sát hai thanh gỗ vào nhau, liền phát ra lửa, lửa trở lại đốt gỗ. Lửa đó không từ nước mà có, không từ gió mà có, không từ đất mà có. Bốn ma ấy cũng lại như vậy, đều do tâm sinh, không từ bên ngoài mà có. Ví như họa sĩ vẽ một bức hình, tùy theo tay mà có nét vẽ lớn nhỏ; tuy nhân duyên đầy đủ và có mọi dụng cụ như màu, bảng, bút; nhưng họa sĩ không vẽ, thì không thể có hình tượng. Bốn ma cũng lại như vậy, tâm đã kiên cố, không mống khởi sai trái thì không có bốn ma. Vì sao? Vì năm ấm không nơi chốn, bốn đại vốn không, mười hai nhân duyên không có đầu mối; hiểu rõ như vậy thì không có việc ma. Chấp ngã, nhân, thọ mạng là bị cái thấy ma trói buộc, phân biệt không thân mới có khả năng hàng phục ma.

Ly Cấu Mục bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Pháp báu Tam-muội?

Phật nói:

–Là không cắt đứt Tam bảo: Phật, Pháp, Thánh chúng.

–Sao gọi là không cắt đứt? Là phát đạo ý Vô thượng Chánh chân, thành tựu các gốc của phước đức, như núi Tu-di; tin theo Đại thừa, tâm không lay động. Trước hết, thấy được điềm tốt ba ngàn cõi Phật, với ức, trăm, ngàn kho tàng thật đầy đủ, đạt được Tổng trì thù thắng nan đương, thành tựu thông đạt Thí độ vô cực. Lúc mới phát tâm, an ổn xả thân, thường ưu lo tất cả các thứ vui, không cho rằng cái vui là vui, bỏ mọi sự ham thích ở thế tục, với chánh pháp làm vui.

Sao gọi là vui thế tục? Là tôi, ta, người, cảm thọ, năm ấm, sáu suy, mười hai nhân duyên, kỹ nhạc, ăn uống, quan tước, bổng lộc, tiền tài, vật chất, giàu sang, vợ con, nô tỳ, kẻ hầu, ruộng vườn, nhà cửa, trâu, ngựa, xe cộ. Đó là thú vui của thế tục.

Sao gọi là vui với chánh pháp? Là hiểu biết: Không ngã, không nhân, không thọ, không mạng, năm Thông, sáu Đạt, mười hai bộ kinh; diễn giảng đọc tụng đạo pháp của Bồ-tát; không nhàm chán bảy pháp tài, thực hành bốn Ân, bốn Tâm bình đẳng Từ, Bi, Hỷ, Xả, Ba-la-mật không cùng, thực hành các điều thiện, không có phá hại các loài chúng sinh, chỉ vì cõi nước, không khen chính mình, không chê người khác, tâm luôn thương xót tất cả trời, thần, quỷ, rồng; nhân dân lớn nhỏ đều nhìn thấy người ấy, không ai là không hưng khởi ý làm việc lành phước đức. Đó là vui với chánh pháp.

Lại hành mười việc. Những gì là mười?

  1. Tín căn là thứ nhất.
  2. Định căn là gốc. 3. Đại Từ làm đầu.
  3. Đại ai là tối tôn.
  4. Chí tánh điều hòa nhu thuận.
  5. Các thông tuệ chân chánh.
  6. Kiến lập chúng sinh.
  7. Bốn ân làm đầu.
  8. Đạo phẩm là cao tột.
  9. Chí bảo vệ pháp Phật, dùng làm hơi thở của chính mình. Đó là mười.

Lại nữa, có mười việc không phạm. Đó là thân không sát, đạo, dâm. Miệng không nói dối, nói hai lưỡi, nói ác, nói thêu dệt. Ý không giận dữ, hồ nghi, tà kiến. Đó là mười hạnh.

Thương nhớ chúng sinh trong mười phương, như mẹ nhớ con. Đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức không loạn, không bị người thế tục làm mê hoặc, không bị vinh hoa lừa gạt, không theo tham dục, không theo sân giận, không theo ngu si, không chê bai Tam bảo, không ôm lòng dối trá, hứng khởi với sáu nhớ nghĩ về Phật, Pháp, Thánh chúng, thí, tín, tuệ; ra, vào, tới, lui, không có cao, ngạo. Người mới phát ý như trăng mới mọc, rồi sẽ tròn đầy; Trời, Rồng, Quỷ, Thần thấy đều ủng hộ; không bị tà ác làm hại, tâm gắn liền với ba ngôi, lấy đạo làm châu báu, biết đời là vô thường. Đó là Pháp báu Tam-muội.

Ly Cấu Mục lại thưa hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là khéo trụ Tam-muội?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Ví như mặt đất luôn phải thọ nhân các thứ tốt, xấu, lành, ác, thơm, hôi, không sạch nhưng không bị nhơ bẩn. Bồ-tát cũng lại như vậy, thọ nhận tất cả pháp, nhưng tự tu lập, trước thấy điềm tốt ba ngàn cõi Phật, bình đẳng như lòng bàn tay, trang nghiêm bằng các hoa sen báu, thành tựu Tổng trì thù thắng khó ví dụ, vượt qua Giới đô vô cực. Lại hành mười việc: Trừ khử tám trạng của nạn; là kiến lập công đức Phật; hóa độ Thanh văn, Duyên giác thừa; thanh tịnh thân, miệng, ý; các việc đều do đều từ Phật, Pháp; trang nghiêm chí tánh; vượt qua nguy ách của ba đường; đầy đủ các nguyện; kiềm chế tâm người. Đó là mười.

Thân thường thực hành Từ, không trộm, không dâm, giảng nói kinh điển không vì cái vẻ bên ngoài, chí thành hòa giải sự tranh cãi, lời nói dịu dàng không thô lỗ, chưa từng trau chuốc, xả bỏ tham lam, nhớ nghĩ bố thí, làm cho mọi người được an ổn điều hòa, lìa hết tà kiến, vui với chánh pháp, thường quán vô thường, khổ, không, chẳng có thân, đời là nhơ bẩn, lấy pháp làm kế sách, tâm tự tu lập, các hoạn nạn không thể làm hại, xem thân này chẳng ích gì, năm ấm chỉ làm tổn hại, muốn dứt trừ năm dục. Phật đạo là tối tôn, không ôm ấp sự hối hận, xem cõi trời là vô thường, xem người như giấc mộng, ba đường rất khổ, nên luôn xót thương họ, nên dùng cách gì để tự cứu mình, ra khỏi nạn sinh tử, năm ấm và giáo hóa người khác, chấp chúng sinh trong mười phương là ngã sở. Vì sao? Vì muốn độ thoát họ. Thấy ai đến xâm hại, không nghĩ đó là cái xấu của họ; nếu người làm lợi ích, cũng không riêng nghĩ đó là thiện. Thấy người đến mắng chửi, im lặng không chửi lại. Nếu người đến đánh đập ta, ta nhẫn chịu, không nên đánh trả. Nếu người sân tức, ta nên khởi lòng lành hướng đến họ. Nếu người chê bai xem thường, ta nên thương xót họ, không làm hại, lại tự hổ thẹn vì từ vô số kiếp, ở trong sinh tử, năm ấm ngăn che, không tự thoát khỏi, tâm ý mê hoặc, trôi lăn trong năm sông, hoạn nạn trong bốn sự sợ hãi, không tự tỉnh giác. Có vật nên ban cho, biết tiền tài chẳng thường còn, thân không phải của ta, tìm cầu bạn tốt, lánh xa bạn ác, phát ý, hướng đến chư Phật, thường cầu tôn kinh, không ham mê danh tiếng thế tục, luôn thực hành sự cung kính, chí luôn tín; giới, văn, thí, tuệ đạo, không bị nghi hoặc phạm cấm, biếng nhác, xan tham, ngu si, xả bỏ đạo nghĩa; luôn nhớ nghĩ pháp, như đói tìm thức ăn. Mới vào đạo, như dòng suối phải từ xa mới ra biển cả. Như mẹ sinh con, phải cho bú mớm dưỡng dục, chỉnh đốn đời sống, cứu lấy thân mạng, không sống trong sự chất chứa cho nhiều; cung cấp cho cha, mẹ, anh, em, vợ con, nô tỳ, khách khứa; luôn nhớ nghĩ thương xót muốn làm cho chúng được độ, không đọa ba đường, thoát khỏi ba cõi, đem thân về nương tựa Tam bảo: Phật, Pháp, Thánh chúng; có được ba đạt, trí tuệ vô ngại, không bị ba cấu bẩn làm nhiễm ô. Thực hành như vậy, là khéo trụ Tam-muội.

Ly Cấu Mục bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Vô động Tam-muội?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Ví như sư tử, là vua trong các loài thú, các thú sợ oai, không có loài nào là không khiếp phục. Trước thấy được điềm tốt ba ngàn cõi Phật, tự thấy phải nắm giữ năm binh dũng mãnh, để mau thành tựu Thiện trụ Tổng trì, đầy đủ siêu việt, Nhẫn độ vô cực.

Lại có mười việc. Những gì là mười?

  1. Nhẫn nhục là gốc.
  2. Tin vui là sức lực.
  3. Dạy dỗ tất cả mọi người tham nhập pháp nhẫn vi diệu.
  4. Cắt đứt mọi trói buộc.
  5. Trừ khử ham muốn, nghi ngại.
  6. Không mến mộ nguồn gốc của thân.
  7. Không tiếc thọ mạng.
  8. Dùng các thông tuệ.
  9. Vượt ba môn giải thoát.
  10. Quán pháp bình đẳng.

Đó là mười. Bảo vệ thân, miệng, ý, luôn dùng các pháp để hưng khởi nhân duyên.

Sao gọi là vui với chánh pháp? Là vui với giáo pháp của Phật, không thích pháp thế tục; ưa nghe kinh điển, không nghĩ đến chuyện thế gian gièm pha; ưa cúng dường chúng Tăng, không vì các bè đảng thế tục; chỉ thích Tam bảo, không ưa ba cấu nhiễm; thích vượt ba xứ, không bị ô nhiễm; thích xét xem bốn đại: Đất, nước, gió, lửa; không có chấp ngã; thích đem an vui cho mọi loài, không làm nguy hại; thích bố thí tất cả, không có sự keo kiệt; thích thờ phụng giữ gìn cấm giới, không hủy hoại những gì mình đã tuân thọ; vui thích trong nhẫn nhục, không mất gốc đức; thích sức mạnh tinh tấn, không gây tội căn; thích thiền định để một lòng không bị loạn ý; thích trí tuệ sâu xa, không bị ngu hoặc; thích hóa trần lao, không bị xấu ác; thích cõi Phật trong sạch, không chán sự chỉ bày giáo hóa; thích trang nghiêm đạo pháp, không vì phi pháp; thích ba pháp môn giải thoát, lìa không, tướng, nguyện; thích pháp vô vi, không thích hữu vi; thích nhâp vào pháp sâu dày không bị thất tiết; chí thích vui vẻ, lìa mọi giận hờn; thích pháp tự nhiên, cũng không bỏ mọi người; thích học tập bạn tốt, xa lìa sự gần gũi sâu nặng của thế tục; thường thích chí đạo, không tạo mê hoặc; thích giảng chánh nghĩa, không vì điển tích thế tục; thích kính mộ Bồ-tát không vì Thanh văn; thích cầu Chánh giác, không vì Duyên giác; thích hướng đến đại đạo, không vì tà thuật; thích gắn liền với tám bình đẳng, không bị tám tà; thích sáu mươi hai tuệ, không bị rơi vào sáu mươi hai kiến; thích pháp vô thượng, không ưa thấp hèn; thích sự nghiệp Đại thừa, bỏ pháp Lahán. Đó là vui với chánh pháp.

Lại có mười việc mau được định ý. Những gì là mười?

  1. Lòng lành thương người, không gây tổn hại nguy khốn.
  2. Thường thực hành mười việc lành.
  3. Xa lìa hạnh ác.
  4. Chuyên tâm tu đạo.
  5. Khéo nghĩ pháp Phật.
  6. Như đói cầu ăn, như khát cầu uống.
  7. Tôn trọng nghĩa sâu xa.
  8. Không có nhớ nghĩ sai lệch, khác biệt.
  9. Lòng lành nhớ nghĩ mười phương.
  10. Muốn độ tất cả, không hề nghĩ về mình.

Đó là mười.

Sao gọi là pháp Vô động Tam-muội? Vì thứ nhất là siêu việt, thứ hai là Tam-muội, không bị dục pháp làm mê hoặc, thờ phụng thực hành pháp Từ tâm của Bồ-tát, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ để cứu độ chúng sinh, thoát nạn ba đường, tu tập đại Từ muốn cứu giúp ba cõi, xem tất cả mọi người như mình không khác, không nhớ nghĩ gì khác, chỉ thường nhớ nghĩ pháp, lấy nhớ nghĩ pháp làm căn bản và biết thế tục là tội lỗi, luôn thương xót quần sinh, để làm cho đến với đạo. Đó là Vô động Tam-muội.

Ly Cấu Mục bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là độ Vô động Tam-muội?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Ví như lực sĩ dũng mãnh, cường tráng, chỉ cần vận công một cái, thì tất cả xiềng xích trói buộc đều bị đứt, oai hùng sức lớn bước đi một mình, không ai sánh bằng, trừ mọi dơ hại, oán thù, lao khổ cõi trần. Trước thấy điềm tốt ba ngàn cõi Phật. Bốn phương, bốn hướng có gió mạnh thổi đến làm rung bao nhiêu thứ hoa khắp cả cõi Phật. Phân biệt thành tựu Tổng trì khó đảm nhiệm, đầy đủ siêu việt Tấn độ vô cực.

Lại có mười việc. Những gì là mười?

  1. Căn tinh tấn bình đẳng.
  2. Tấn lực làm căn bản.
  3. Phương tiện bình đẳng.
  4. Ý chí làm đầu.
  5. Khiến tất cả mọi người không ham thích thân.
  6. Đem tâm khẩu thuận hóa chúng sinh.
  7. Chỗ trụ không quay lại, nhưng không có nơi chốn.
  8. Tinh tấn cao tột.
  9. Hàng phục oán hận.
  10. Siêng năng tu tập thành tựu các thông tuệ vi diệu.

Đó là mười. Nhớ nghĩ thân bốn đại cũng như rắn độc; sợ già, bệnh, chết không xả bỏ đầu, đuôi, không bị việc mê hoặc; Từ, Bi, Hỷ, Xả các loài chúng sinh, như cha, như mẹ, như con, như thân mình, bằng nhau không khác. Thường suy nghĩ về nghĩa đạo, không nghĩ đến tham lam, giận hờn, ngu si. Thực hành bố thí không có ý tưởng keo kiệt; phụng trì cấm giới không có ý tưởng phạm ác; nhớ nghĩ nhẫn nhục không nên có ý tưởng sân tức; thường tu tinh tấn không có ý tưởng biếng nhác; tinh chuyên, một lòng, không có ý tưởng loạn; hạnh trí tuệ chân chánh, không có ý tưởng mờ ám; thường cầu phương tiện, hết lòng khéo léo quyền biến; không có ý tưởng buông lung; luôn nhớ nghĩ đến việc khuyến khích, giáo hóa mọi người như độ chính mình. Tất cả cái có được không phải là cái của ta; nghĩ đến sự hoạn nạn, đau đớn, khổ độc, ở địa ngục, cũng như thân mình đang chịu cảnh ấy. Thường xét lỗi mình, thay thế chịu tội cho người khác, không lấy đó làm oán hận. Nghĩ đến sự đói khát ở cảnh ngạ quỷ, mà đau thắt rơi lệ; muốn cứu giúp chúng, khiến chúng được an ổn tự nhiên, cho chúng thức ăn chánh pháp, trừ đói khát của năm ấm, sáu suy, thức ăn bằng tụng đọc, học tập kinh điển, uống nước bằng phân biệt nghĩa kinh. Tu sáu pháp hạnh, dùng làm hiền lương; ra vào, tới, lui, tinh tấn an lành. Nghĩ đến những loài bị đọa làm thú, mà thương xót trong lòng, muốn làm cho chúng được an ổn trả hết nợ trước, hiểu rõ tội cũ, khiến không tạo tội mới. Phụng hành các điều lành, không làm các ác; tự quán sát chính mình, đời đời không rõ, bởi do chấp trước tôi, ta, không tin đạo pháp. Nghĩ đến người phạm tội như rơi vào hố sâu, phụng hành tin giới, tâm như hư không. Người không hiểu được chánh pháp, luôn bị trôi lăn trong năm đường, cũng như bánh xe lăn. Cha mẹ ưu lo nhau, anh em nghĩ đến nhau, vợ chồng luyến ái nhau, tất cả đều do tâm không vững chắc mà có. Vốn là cha mẹ, trở lại thành con trai, con gái; vốn là con trai, con gái trở lại làm cha, mẹ; hoặc là vợ chồng trở thành oan gia, trên dưới điên đảo, gốc rễ không thường. Tâm ý Bồ-tát luôn từ sự nhớ nghĩ chúng sinh ấy, khai hóa khiến cho tin vào chánh đạo của Đức Phật; tin hiểu vào vô thường, khổ, không, chẳng có thân. Đó là độ Vô động Tam-muội.

Ly Cấu Mục bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bảo tích hoa Tam-muội?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Ví như cây Trú dạ trên cõi trời Đao lợi, dùng các bản hạnh vượt qua năm căn, vượt ra khỏi tâm chúng sinh, trong sạch như hư không. Trước thấy điềm tốt ba ngàn cõi Phật, các tiếng âm nhạc hòa nhau trổi lên. Thân được trang nghiêm bằng các chuỗi ngọc, dùng hoa Tự-di làm rực sáng thân thể, mưa hoa giải thoát và hoa sen xanh đầy khắp ở trên. Vì lý do đó cho nên các đức Tổng trì, liền vì thọ ứng Thiền độ vô cực.

Lại có mười việc. Những gì là mười?

  1. Điều phục các căn dùng làm cái gốc của đức.
  2. Nhất tâm làm tăng lực.
  3. Phương tiện bình đẳng.
  4. Định ý không loạn.
  5. Cấm giới làm nguồn gốc.
  6. Môn giải thoát là trên hết.
  7. Hướng đến cốt yếu của định.
  8. Không có sở hữu.
  9. Tiêu diệt trần lao.
  10. Suy nghĩ đầy đủ các định.

Đó là mười. Thương xót năm đường, công kích khử trừ năm ấm. Thành lập năm căn, khử trừ, hóa độ năm sắc. Tích chứa công đức, đầy đủ năm phẩm: Giới, định, tuệ, giải độ, tri kiến phẩm. Chí ngưỡng mộ năm phép thần thông, trông mong mười lực, tránh xa các tội lớn, dù ở chỗ nào, cũng tu pháp Phật, danh đức vang xa, thương xót ba cõi, không bị ngu muội, rõ đường thiệc ác. Ví như vạn sông đều đổ về bốn biển. Bồ-tát thờ phụng tu hành pháp như vậy, tinh tấn không thôi, hướng đến đại đạo. Ví như trăng mồng mười, ánh sáng chuyển dần đến tròn đầy, đủ chiếu sáng chúng sinh. Bồ-tát cũng lại như vậy, công đức oai diệu, ngày càng tăng ích, vượt qua các nguy ách, thương xót khổ nạn của quần sinh.

Lại có năm hạnh. Những gì là năm?

  1. Năm giới trong sạch, ví như gương sáng không có nhiễm ố.
  2. Không phạm vào mười điều lành.
  3. Đầy đủ giới sạch, không mất ý đạo.
  4. Không bị tà tưởng.
  5. Không tham thân mình. Đó là năm.

Lại có năm pháp. Những gì là năm?

  1. Trừ nóng giận, không có tâm khiếp nhược, bỏ ý keo kiệt, bỏn sẻn, trừ chí dua nịnh quanh co.
  2. Phân biệt và hiểu rõ: “không”.
  3. Không chỉ miệng nói mà luôn một lòng sửa chữa để hạnh không bị loạn.
  4. Biết giàu sang, thế lực chỉ là huyễn hóa, quán sắc như bọt

nước, thọ như bong bóng nổi, tưởng như cây chuối, sinh tử như hình bóng, thức như huyễn.

  1. Không bị sắc sai khiến, không bị thọ mê hoặc, không bị tưởng đẩy lùi, không bị tà hạnh, không bị thức làm thoái lui, hiểu rõ năm ấm là không.

Đó là năm.

Lại có năm việc. Những gì là năm?

  1. Tham dâm.
  2. Sân giận.
  3. Say ngủ.
  4. Đùa giỡn.
  5. Hồ nghi.

Phải nên loại trừ năm sự ngăn che cản trở này. Nhìn thấu triệt, nghe rỗng suốt, bay đi nhẹ nhàng, biết tâm niệm của người khác, tự biết được chỗ sinh tử đưa đến, tự vui với năm thần thông, không bị năm ấm làm cho buông lung; thân tu đức hạnh, không làm phi pháp; khai hóa, thuyết pháp, làm an ổn cho số đông; không làm việc ác, nguy hại; lấy đạo làm sự nghiệp, ăn bằng sự học tập giáo pháp, hiểu nghĩa làm thức uống; không ham giàu sang phú quý, lấy pháp làm giàu; hiểu “không” làm sang. Đó là Bảo tích hoa Tam-muội.

Ly Cấu Mục bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Nhật quang diệu Tam-muội?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Trước thấy điềm tốt ba ngàn cõi Phật, các ao báu đầy tràn nước tám vị sạch trong, trồng các loại hoa sen xanh, hồng vàng, trắng, xung quanh lan can đều dùng bảy báu và đủ các loại hoa ngọc. Đáy hồ, rải cát vàng ròng, thân vui chơi nô đùa trong đó, thành tựu tuệ định, chứng minh Tổng trì, đầy đủ sự siêu thoát, Trí độ vô cực.

Lại có mười việc. Những gì là mười?

  1. Tuệ làm cội nguồn.
  2. Trí lực trên hết.
  3. Chánh kiến là tối cao.
  4. Ý bình đẳng là hơn hết.
  5. Thân tu các đức.
  6. Nhập vào các loại tướng của Thánh đế.
  7. Vì tướng bình đẳng.
  8. Tuệ không bị ngăn che.
  9. Trừ các vãng kiến.
  10. Không khởi pháp nhẫn.

Đó là mười việc.

Quán sáu tình vốn không có nơi chốn, không từ đâu đến, không đi về đâu, vốn tự nhiên không, duyên chống đối khởi lên. Ví như trời mưa, không từ rồng mà có, không từ nước mà có, không từ đất mà có, không từ tâm của rồng mà có; đều do hội đủ nhân duyên nên mới mưa. Sáu tình các nhâp cũng lại như vậy, do nhân duyên hợp thành, không thể độc lập. Sinh tử cũng vậy. Ví như họa sĩ vẽ tranh, người, nhà cửa, voi, ngựa, xe cộ. Khi chưa vẽ, thì không thấy có sản phẩm, nhưng khi có đủ các yếu tố dụng cụ như, vách, bảng, giấy, bút, lụa là, họa sĩ đặt bút vẽ thì sẽ có sản phẩm. Tốt xấu cũng lại như vậy, đều do nhân duyên hợp thành. Nếu lại hành đạo, do tu mười điều lành, sáu Độ: Bố thí vô cực, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, phương tiện khéo léo thì mới hợp thành. Không đắm vào thân Phật, cũng không lìa thân Phật, tâm ý không tưởng, tự nhiên như không, nhập vào đại Từ, lại tu đại Bi, Hỷ, Xả, các hạnh. Không vì thân mình mà vì tất cả, cũng không có sự mong cầu. Thân hành cẩn thận, miệng nói khiêm nhường hòa thuận, tâm nhu hòa, không dua nịnh quanh co, ngay thẳng, không tà vạy.

Lại có sáu việc mau chóng được đạo Vô thượng chánh chân.

Những gì là sáu?

  1. Thường nương tựa vào Phật mà trụ.
  2. Nhâp vào chánh chân tâm không quay trở lại.
  3. Tự hiểu rõ ý hạnh bên trong của chính mình.
  4. Được bạn tốt, nhân đó mà giao phó.
  5. Chí nguyện rộng lớn, không biết nhàm chán.
  6. Tâm luôn hòa hợp, đầy đủ trí tuệ.

Đó là sáu việc.

Bồ-tát hành đạo không cậy vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không dựa trong, ngoài, tùy gốc pháp giáo; không trái hạnh sâu xa tốt đẹp của Bồ-tát; không bỏ lòng lành lớn, không để mất lòng thương xót lớn, tùy theo sự thiếu thốn của người đời mà cứu giúp họ; tu đạo chánh hóa, không vì tà giáo, nhất tâm hướng đến trí tuệ, không để ngu muội che lấp. Phân biệt sáu suy, cũng như hóa huyễn, hình bóng, tiếng vang, bóng câu, như bóng trăng in nước, như giấc mộng, bất chợt, không biết. Đó là Nhật quang diệu Tam-muội.

Ly Cấu Mục bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Mau thành tựu các lợi nghĩa Tammuội?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Trước thấy điềm tốt, thấy ba ngàn cõi Phật, có các ao báu, xem xét bên phải, bên trái của ao, vượt khỏi nguy ách địa ngục, thoát ra ngoài đồng hoang, mau được thành tựu kỳ đặt tụ lạc tổng trì, tức đầy đủ sự siêu thoát, Quyền độ vô cực.

Lại có mười việc. Những gì là mười?

  1. Nhập vào các chí hạnh.
  2. Kiến lập chúng sinh.
  3. Lòng đại Từ không cùng, lấy việc thương xót khắp tất cả, làm gốc.
  4. Tâm tánh điều hòa nhu thuận, chưa từng mệt mỏi, nhàm chán.
  5. Không thâu nhận đệ tử Duyên giác thừa.
  6. Quán sát kỹ lưỡng chắc chắn.
  7. Chế ngự đạo tâm.
  8. Dùng các thông tuệ.
  9. Kiến lập không thoái lui.
  10. Hiểu rõ việc mở rộng trí.

Đó là mười việc.

Thường dùng tuệ chân chánh, xa lìa tà kiến, tự nhiên tu đạo, không bị thế tục làm mê hoặc, thâm nhập pháp vi diệu vô cực, dấn thân vào đạo và tục, ở trong tục mà không tục; đối với đạo không có nương cậy. Suy nghĩ, bước vào Thánh giáo, khai hóa chúng sinh, sinh, già, bệnh, chết, thường giữ gìn thân mình, khước từ sáu tình, không đọa sáu suy, không theo bảy tà, thường thu giữ bảy giác. Tâm hiểu rõ không tà, không phế bỏ tinh tấn, thuận theo chánh pháp, không trái với tâm hoan hỷ, không có oán hận. Tín căn không mê hoặc, an ổn không gian nguy, chí định không loạn. Tín tài, tín trí vốn không giới tài, không rơi vào Tiểu thừa, vào tài xấu hổ. Xấu hổ thấy mình chưa vượt qua ba cõi. Tài hổ thẹn, là thẹn với việc không có mở rộng tuệ. Tài nghe rộng, là nghe không ai sánh bằng; cho đến trí sâu xa là bố thí tài thí, dùng đại đạo trí tuệ tài, nhập vào trí tuệ độ hết tất cả.

Có mười việc đạt đến không thoái lui. Những gì là mười?

  1. Nghe có Độ vô cực tâm không lay động thoái lui.
  2. Có Phật, không Phật, tâm không lay động thoái lui.
  3. Có Pháp, không pháp, tâm không lay động thoái lui.
  4. Có Thánh chúng, không có Thánh chúng, tâm không lay động thoái lui.
  5. Có đạo, không đạo, tâm không lay động thoái lui.
  6. Có Bồ-tát, không có Bồ-tát, tâm không lay động thoái lui.
  7. Có Pháp thân, không có Pháp thân, tâm không lay động thoái lui.
  8. Có thế tục, không có thế tục, tâm không lay động thoái lui.
  9. Có người, không người, tâm không lay động thoái lui.
  10. Có mạng, không mạng, tâm không lay động thoái lui. Có thọ, không thọ, tâm không lay động thoái lui.

Đó là mười.

Bồ-tát bay đến mười phương giáo hóa chư Thiên và các quần sinh, lấy pháp làm cội gốc, lấy đạo làm cội nguồn, không chấp tôi, ta; hoặc vào địa ngục, cứu giúp khổ đau, hoặc vào loài cầm thú khai hóa, dứt sự ngu muội, hoặc vào ngạ quỷ an ủi, làm cho chúng thoát cảnh đói khát khổ độc triền miên. Bồ-tát tùy theo thế tục mà giáo huấn, hóa độ, khiến cho họ đều được như sở nguyện; không bị pháp thế tục làm nhiễm ô, trong sạch như ánh sáng mặt trời, trong suốt như trăng tròn. Bồ-tát được không thoái lui, có khả năng thực hành những quyền biến, có thể khai hóa, cứu giúp bảo vệ và độ thoát cho phần đông, các người bị khổ não đều được đại an. Các người không trí đều mở rộng được mưu trí. Đó là được thành tựu các lợi nghĩa Tam-muội.

Ly Cấu Mục bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Hiện tại chư Phật mục tiền lập Tam-muội?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Ví như mặt trăng tròn, xua tan bóng đêm. Cũng giống như các việc làm mà chuyên tu thanh tịnh, sở nguyện viên thành, kiến lập đầy đủ cõi Phật thì giáo huấn, hóa độ chúng sinh. Trước thấy điềm tốt ba ngàn cõi Phật. Sư tử là chúa muôn thú, bờm rực rỡ như gấm lụa, thân nó cao lớn, oai phong, chế ngự muôn thú. Bồ-tát được thành tựu vô cực tám vạn bốn ngàn các Tổng trì môn, đầy đủ sự siêu thoát, thành tựu trí tuệ. Lại có mười việc. Những gì là mười?

  1. Một lòng định ý Tam-muội.
  2. Không tưởng niệm.
  3. Chí chuyên hướng đến Phật.
  4. Đoạn trừ các tưởng.
  5. Không vì các sự mong cầu.
  6. Hiểu rõ pháp đều không.
  7. Không sợ ba cõi.
  8. Không thích vô vi.
  9. Không chấp hữu vi.
  10. Hiểu biết pháp thân.

Đó là mười.

Cái hướng để nghe là Phật hiện tại; luôn nhớ nghĩ về phương ấy; thấy Phật nói pháp cho chúng hội, cho bốn bộ đệ tử; xét bốn đại đều không, đất như bọt nước tụ, nước như giọt sương mai, lửa như điện chớp, gió như thoáng qua. Phân biệt bốn đại là do nhân duyên hợp lại mà thành, nó vốn chẳng có. Tự quán dáng hình, xét tất cả các căn vốn không có hình dáng. Tự quán thọ, biết vốn không thọ. Tự quán tư tưởng, xét tất cả tư tưởng, biết vốn không tư tưởng. Tự quán ý, biết vốn không ý. Quán thân mình biết đã là không, nên thấy tất cả cũng đều không. Thương xót tám nạn, buông bỏ tám việc của thế tục: Lợi, suy, chê, khen, có danh, không danh, khổ nhọc, an vui. Xả bỏ tám tà, không trụ tám chánh, bình đẳng đối với có và không, cũng không chỗ trụ. Thực hành bốn Tâm bình đẳng: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Bốn Ân cứu giúp chúng sinh, huệ thí nhân ái, làm ích lợi khắp cho tất cả. Nhất tâm hướng đến Phật, không có các tưởng niệm. Đoạn trừ năm ấm, sáu suy không nơi ở, tâm luôn được định, không thấy bốn đại, không thấy nhân dân, không thấy trời, đất, nhân vật, vĩnh viễn không thấy gì, lâu lâu mới thấy mười phương chư Phật. Ví như nước đục, không thấy được đáy, nhưng khi mặt nước lặng yên không động, thì thấy rất rõ. Bồ-tát cũng như vậy, vừa định không tưởng, quán không thấy gì. Năm ấm sáu suy, sáng như mây tan. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng xuất hiện, thấy Phật mười phương. Bởi lại quán sát, ta đến chỗ Phật, Phật lại ta chăng? Tâm tự suy nghĩ, Phật cũng không lại, ta cũng không đến. Ví như gương sáng, nước trong, dầu sạch, thì dễ xem hình thấy bóng, không vào, không ra. Bồ-tát cũng lại như vậy, thấy Phật trong mười phương không qua, không lại. Ví như trong mộng, thấy mình về cố hương, tự thấy cha, mẹ, anh, em, vợ, con. Đến khi thức giấc, chẳng thấy có gì! Bồ-tát cũng như vây, thấy Phật trong mười phương, sau khi xuất định, đều không thấy gì. Vì sao? Vì cái hiểu biết, vốn không. Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, chỉ là hóa hiện, không hình bóng, không nơi chốn. Ví như hư không, không thể biết được, cái gì là không. Pháp thân là như vậy, không có nơi chốn. Được như thế, mới có khả năng thấy một cách thấu triệt, nguồn gốc của tất cả; ngồi đấy mà thấy mười phương không qua, không lại. Đó là Hiện tại chư Phật lập mục tiền Tammuội.

Ly Cấu Mục bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Tuệ quang diệu Tam-muội?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Trước thấy được điềm tốt nơi ba ngàn cõi Phật. Chuyển luân thánh vương tạo pháp vương giáo, có vô lượng vua tôi quần thần, trăm ngàn quyến thuộc theo hầu hạ; ở trong hư không cầm các hoa báu, che khắp thân, được thành tựu vô tận hạnh Tổng trì môn, cai quản sáu mươi vạn các tuệ Tổng trì, đầy đủ sự siêu thoát, giáo hóa chúng sinh. Ví như thần châu minh nguyệt, có thể làm cho các kẻ nghèo cùng khốn khổ, đều được đầy đủ may mắn; đầy đủ các pháp, dạy dỗ quần sinh, tùy theo mọi người mà ban cho tất cả kho tàng phước đức.

Lại có mười việc. Những gì là mười?

  1. Dùng chánh pháp mà bố thí.
  2. Dùng giới, nhiếp hóa kẻ không thuận.
  3. Dùng nhẫn, nhiếp hóa kẻ cường bạo.
  4. Dùng tinh tấn, nhiếp hóa người biếng nhác.
  5. Dùng thiền định, nhiếp hóa loạn ý.
  6. Dùng trí tuệ, nhiếp tà trí.
  7. Khéo léo dùng sự quyền biến tùy thời giáo hóa.
  8. Đem Đại thừa lưu truyền mở rộng làm lớn mạnh đại đạo.
  9. Vượt qua tám nạn, độ thoát tám tà hạnh.
  10. Tâm bình đẳng với tất cả, không có nghiên lệch. Đó là mười.

Trụ tám không nghĩ bàn, không xả bỏ hạnh Bồ-tát; quán ba cõi như huyễn hóa, không thật. Tự nghĩ từ đâu mà đến và đi về đâu; không thấy đến đi, nhưng tùy theo đi đứng mỗi mỗi tự thành tựu. Ví như có người đi qua cánh đồng hoang vào nắng trời mùa hạ, không có một bóng người. Từ xa, anh ta trông thấy có dòng suối chảy, cạnh suối có cây lớn sum suê, hoa trái đầy cành, càng làm cho anh ta thêm đói khát, mệt lã người, nói không ra hơi, muốn đến nơi ấy nên cảm thấy nó rất gần, khi anh ta đi đến, chỉ còn vài dặm, thì không thấy có nước gì cả! Lúc đó, anh ta mới hiểu ra rằng, đó chỉ là bóng nắng, không phải là nước, nên không đi tìm nước nữa. Chúng sinh không hiểu ba cõi như huyễn hóa, chấp trước tôi, ta, có thọ mạng, nghe Phật nói kinh cho tất cả là vô thường, mới suy nghĩ hiểu rõ, không còn bị mê hoặc. Bồ-tát biết rõ tất cả, ở trong ba cõi như hóa, như huyễn, như hình bóng, như bóng câu, như mộng, như bóng trăng in nước đều biết vốn là không, nên không dính mắc, không trói buộc, không thoát, tất cả không cầu. Cũng như mẹ hiền nuôi dưỡng các con. Bồ-tát cũng như vậy, khai hóa tất cả, nhưng không dính mắc vào đó. Ví như người dẫn đường, đưa những người buôn bán trở về quê hương, không gặp ác tặc, an ổn về đến nhà. Bồ-tát cũng lại như vậy, dùng định Tuệ quang diêu Tam-muội, dắt dẫn tất cả, khử trừ ba độc, tối tăm, dâm dật, giận hờn, ngu si, chỉ bày ba thừa, Đại thừa là cội gốc, tất cả đều được như sở nguyện. Ví như thầy thuốc giỏi, thấy các người bệnh mà cho thuốc, làm cho các người bênh ấy được hết bệnh. Bồ-tát cũng lại như vậy; dùng Tuệ quang diêu Tammuội, thấy khắp các hoạn nạn, đau khổ bởi ba độc của chúng sinh trong năm đường; đem đại Từ bi mà khai hóa họ, khiến họ thờ phụng tu hành tuệ chân chánh vô cực. Người phát tâm hay chưa phát tâm, đều tinh tấn, kiên cố hồi hướng, tiến lên đến Nhất sinh bổ xứ, cho đến đạo Vô thượng chánh chân. Đó là định Tuệ quang diêu Tam-muội.

Ly Cấu Mục bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Dũng mãnh phục Tam-muội?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Ví như Chuyển luân thánh vương, công hạnh vô lượng, oai đức cao vời vợi và rất được tự tại, đối với tất cả pháp thì được tuệ vô tân, ở trong hư không, không dơ, lại trong sạch. Trước là thấy được điềm tốt của ba ngàn cõi Phật: Thân tướng Như Lai vàng tía, ánh sáng tròn đầy, cùng với vô số phạm đức, nói kinh trải qua ức trăm na-thuật, được thành tựu vô lượng hạnh Tổng trì môn, cai quản hằng sa trăm ngàn hạnh Tổng trì, đầy đủ sự siêu thoát, thành tựu nhiều Thánh trí.

Lại có mười việc. Những gì là mười?

  1. Có chí về Nhất thiết trí thì không đâu là không thích ứng.
  2. Không trụ hữu vi, không trụ vô vi.
  3. Hành tâm Từ bao trùm khắp, bình đẳng với chúng sinh.
  4. Hành tâm đại Bi, bình đẳng như hư không.
  5. Không nghĩ đến đệ tử, không tưởng Bồ-tát.
  6. Không có chí thế tục, cũng không có ý đạo.
  7. Thường dùng đại tuệ tùy thuận giáo hóa chúng sinh.
  8. Nhập vào tất cả sinh, cũng không chỗ sinh.
  9. Hiện các cõi Phật, không xả bỏ Pháp thân.
  10. Bình đẳng tâm tôi, ta cùng với Nê-hoàn.

Đó là mười việc.

Không dùng thân miệng để có chỗ nói làm. Tâm thường an định không thêm không bớt, hiện vào Dục giới độ các dục trần, đối với những ham muốn tự nhiên cũng không chìm đắm, tất cả không cầu. Ví như hoa sen không dính nước bẩn Bồ-tát hiện vào Sắc giới, đối với sắc tự nhiên không có mong cầu. Cũng như dầu mè không hợp cùng với nước. Quán sắc là không sắc, tự xét nó vốn không và cũng không có chỗ để mà xét. Hiện cõi Vô sắc, tự nhiên không sắc, không sau, không trước. Ví như lửa cháy, không đốt hư không, cũng không tăng giảm, không đến, không đi, không chỗ đến đi; một mình bước đi trong ba cõi, vượt khỏi ba xứ. Ví như chim bay trong hư không, không có gì làm cản trở. Cứu thoát ba cõi đều tùy theo cái gốc ý chí, khiến mau chóng khai giải để được đến Đại thừa. Ví như thầy thuốc giỏi, dùng bao nhiêu thuốc, tùy theo con bệnh mà cho uống, uống xong, bệnh gió, lạnh, nóng được thuyên giảm. Bồ-tát cũng lại như vậy, dùng thuốc chánh pháp của Phật, trị liệu bệnh; các bệnh dâm dật, giận hờn, ngu si đều được diệt trừ. Tâm ấy trong sạch, không hình, không tên; cũng như vua, dũng mãnh thống lĩnh đại quân, công phá ác nghịch. Bồ-tát cũng lại như vậy, dùng đại Từ bi, khai hóa chúng sinh, lo lắng chu toàn cho người ngu muội, sáu mươi hai kiến đều rơi vào lưới tà và sự hồ nghi; sáu mươi hai cái chẳng phải chánh pháp lại khiến phát ý, tự ý tuân theo sáu Độ, đại Từ, đại Bi và các hạnh cốt yếu khiến đến được Đại thừa. Ví như thuyền trưởng giữ vững con tàu, qua lại thông suốt, đưa mọi người từ bờ này sang bờ kia tùy ý. Bồ-tát cũng lại như vậy, dùng định Dũng mãnh phục Tam-muội, độ thoát vô lượng sinh tử, phiền não; đối với Thanh văn, hiện tùy tâm khai hóa; đối với Duyên giác hiện theo cái gốc mà trao truyền. Thị hiện thân Phật, chỉ bày dạy dỗ ba đường; hoặc hiện đại pháp tuệ vô cực, pháp Đại thừa sâu xa, không có ba đường ác, cũng không có ba thừa. Ví như người làm trò ảo thuật, ở giữa mọi người, tự hiện thân chết, lửa đốt, thú ăn. Thấy thế, ai nấy đều sợ hãi cầu xin, cho rất nhiều tiền, muốn người ấy mau sống lại. Biết được mọi người cho rất nhiều tiền của, anh ta liền từ đất ngồi dậy. Cũng lại như vây, không có chết, cũng không có sống. Bồ-tát cũng lại như thế, khai hóa chúng sinh trong sinh tử năm đường, hoặc phát tâm Bồtát, hoặc làm Thanh văn, hoặc làm Duyên giác, hoặc sinh lên trời, bỗng nhiên hiên Niết-bàn, mọi người khóc lóc cho là đã diệt tận. Lại hiện đến phương khác, Duyên giác, Thanh văn cũng lại như vây, cho là đã diệt độ, không còn trở lại. Như lửa tiêu diệt, cũng không nơi chốn đều quy về không. Bồ-tát tuy hiện Niết-bàn hợp cùng Pháp thân, cũng không đến, đi, qua, lại, thị hiện tùy chúng sinh mà hóa độ. Chỉ có Bồ-tát Đại sĩ mới đạt được như thế, hiểu biết pháp thân. Ví như mặt trời chiếu sáng, hiện ở khắp nơi trong nước, quận, huyện, ấp, thôn, xóm, làng. Mặt trời không thấp, cũng không dời đổi, ở tại nhân gian chiếu khắp cả, không đi, không lại. Bồ-tát cũng vậy, hiện khắp trong ba cõi, nhưng không qua lại khắp hết, độ thoát tất cả, nhưng không thấy có đối tượng mình độ. Đó là Dũng mãnh phục Tam-muội.

 

QUYỂN HẠ

Ly Cấu Mục lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Siêu nhật minh Tam-muội?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Ánh sáng của Tam-muội ấy là vô lượng, không thể ví dụ, sáng hơn ánh sáng mặt trời. Vì sao? Vì ánh sáng mặt trời chỉ chiếu sáng việc hiện tại, nhân, vật, các loài côn trùng, trăm thứ lúa, cỏ, thuốc, cây cối, các hàng trời, rồng, thần, đều nhờ ánh sáng mặt trời mà được tồn tại tươi tốt. Nhưng ánh sáng mặt trời, không thể chiếu đến khoảng cách của hai núi Thiết-vi, cũng không thể chiếu đến cái gốc tâm của người để bàn cho mở ra đạt được…. Nó chỉ chiếu sáng cái có hình, không chiếu được cái không hình. Còn Siêu nhật minh Tam-muội thì đặc biệt hơn hẳn ánh sáng mặt trời. Vì sao? Vì ánh sáng ấy đặc biệt cao cả chiếu khắp mười phương không biên giới, không ngằn mé, ba cõi, năm đường, không đâu là không chiếu đến được. Bồ-tát Đại thừa chiếu sáng Thanh văn, Duyên giác thừa, chín mươi sáu ngõ tắt, sáu mươi hai kiến, tà nghi trói buộc tối tăm, làm cho tâm tỏa sáng, phát sinh ý đạo, được thành tựu nghiệp ba thừa, hoặc được sinh Thiên, hoặc được làm thân người đều mong được vào ánh sáng ấy; cả như trời Đao-lợi ở đỉnh Tu-di, cung trời Đế Thích, điện báu Tử cám, rực rỡ trên đó; cả trong bốn thiên hạ, bốn phương thành, các hàng trời, người, ngạ quỷ, ma quỷ, các thần Dạxoa. Siêu nhật minh Tam-muội cũng lại như vậy, tâm vững chắc không lay động, như núi chúa Tu-di; hóa độ năm đường, Thiên vương, Đế Thích; hóa độ sinh, già, bệnh, chết; trị liệu các bệnh bất hiếu, dâm dật, giận hờn, ngu si làm cho phát sinh ý đạo, buông bỏ Tiểu thừa, chí hướng về Đại thừa, phát ý thọ quyết, được nhẫn thọ quyết; chưa phát ý thọ quyết, thực hành sáu độ vô cực, không có vọng tưởng, chẳng biết thọ quyết. Siêu nhật minh Tam-muội rất sâu xa! Rất là sâu xa! Không thể xưng lường, không có cao thấp. Ví như hư không. Giả sử có người muốn đo lường hư không bằng thăng, hợp, đấu, hộc, hạn lượng nhiều ít. Hư không còn có thể đo lường tường tận biết được số ấy bao nhiêu; nhưng định Tuệ nhật minh thì không thể lường được. Ví như người vượt hư không mười dặm, trăm dặm, ngàn dặm, vạn dặm, ức dặm, ức vạn dặm, vô ương số ức trăm nathuật dặm. Hư không còn có thể biết được tận ngằn mé của nó, còn Siêu nhật minh định tuệ, đặc biệt cao cả hơn gấp bôi, hơn nữa, không thể có hạn lượng. Đem ví dụ này để so sánh với ánh sáng đạo, thì không xa, không gần, không rộng, không hẹp.

Ly Cấu Mục lại thưa hỏi Đức Thế Tôn:

–Bạch Thế Tôn! Đại Thánh vừa khen rất rộng lớn, rất xa, cớ sao nay lại nói không xa không gần, không rộng, không hẹp?

Phật bảo:

–Này Ly Cấu Mục! Bởi nói có hẹp, là vì ngày có rộng. Bởi nói có gần, là vì nói ngày rất xa. Không xa, không gần, không rộng, không hẹp, không thể so sánh ví dụ. Muốn làm cho mọi người hiểu là không có biên tế, như hư không, không ngằn mé. Vượt ra ngoài đó nữa, vi trần không sắc, khai nhập vô úy, không thể tính đếm so lường, dẫn dụ cho rõ nghĩa, cho đến đại đạo tuệ, không có ví dụ; vượt qua các Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, cho đến đạo Vô thượng chánh chân, là rất cao, rất quý không gì sánh bằng, không ai hơn được. Pháp tự nhiên không có tác giả, cũng không thể không tạo, không đến, không đi, rỗng không tự nhiên. Hiểu rõ tất cả vốn không, hiểu rõ tất cả gốc ngọn. Đã hiểu rõ các gốc, cũng không chỗ nương tựa, cũng không thể không nương tựa. Tuệ tự nhiên đều phân biệt rõ sự tự nhiên trong ba cõi. Ba cõi tự nhiên, người, vật tự nhiên; người, vật tự nhiên, sinh tử tự nhiên; sinh tử tự nhiên, vốn không tự nhiên; vốn không tự nhiên, Phật đạo tự nhiên. Hiểu rõ phân biệt đó, tất cả là tự nhiên, thì mới có khả năng đạt được Siêu nhật minh định, cứu giúp hết ba đời cho đến Tuệ vô cực. Đó là Siêu nhật minh Tam-muội.

Lúc đó, có con gái của một trưởng giả, tên là Tuệ Thí, cùng với

năm trăm người nữ khác, đi đến chỗ Phật đảnh lễ sát chân, rồi lui ngồi một bên nghe Phật nói về Siêu nhật minh định, lòng rất vui mừng liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con nay, tuy là thân nữ, nhưng nguyện phát ý đạo Vô thượng chánh chân, muốn chuyển thân nữ để mau chóng thành Chánh giác, độ thoát mười phương.

Lúc đó, có một Tỳ-kheo, tên là Thượng Độ, bảo Tuệ Thí:

–Này Tuệ Thí! Nếu là thân nữ, thì không thể thành Phật đạo. Vì sao? Vì thân nữ có ba việc ngăn cách, năm việc chướng ngại. Những gì là ba?

  1. Thuở nhỏ phải chịu quy chế của cha mẹ, xuất giá chịu phép chế của chồng.
  2. Không được tự do.
  3. Tuổi lớn khó có con. Đó là ba.

Sao gọi là năm chướng ngại?

1. Người nữ không được làm Đế Thích. Vì sao? Vì dũng mãnh, ít dục, mới được làm thân nam. Còn người nữ, vì có nhiều thói xấu phức tạp, cho nên không thể làm Đế Thích.

2. Người nữ không được làm Phạm thiên. Vì sao? Vì người nam có khả năng thờ phụng tu hành trong sạch, không có nhơ bẩn, tu được bốn tâm bình đẳng; quyết tu được bốn Thiền thì mới bay lên Phạm thiên. Còn người nữ do nhiều dâm dật, giận hờn, không có bản lãnh, cho nên không được làm Phạm thiên.

3. Người nữ không được làm Ma thiên. Vì sao? Vì phải có đầy đủ mười việc lành, tôn kính Tam bảo, hiếu thờ song thân, khiêm nhường tùy thuận Trưởng lão mới được làm Ma thiên. Còn nếu coi thường, cao ngạo không thuận, chê bai chánh giáo, mà người nữ hay có, cho nên thân nữ không được làm Ma thiên.

4. Người nữ không được làm Chuyển luân thánh vương. Vì sao? Vì thực hành đạo Bồ-tát là thương xót quần sinh thờ phụng nuôi dưỡng Tam tôn, Tiên thánh, Sư phụ; mới được làm Chuyển luân thánh vương, thống lãnh bốn thiên hạ, giáo hóa nhân dân tu tập mười điều lành, tôn sùng đạo đức, làm Đấng Pháp Vương, dạy dỗ mọi người. Còn người nữ do che giấu tám mươi tư thói xấu, không có hạnh trong sạch, cho nên không được làm Thánh đế.

5. Người nữ không được làm Phật. Vì sao? Vì thực hành tâm Bồ-tát là thương xót tất cả, đại Từ, đại Bi; mặc giáp Đại thừa, tiêu trừ năm ấm, hóa độ sáu suy, hành sáu độ rộng lớn; hiểu rõ tuệ hạnh sâu dày: Không, Vô tướng, Vô nguyện, vượt ba môn giải thoát; hiểu không ngã, không nhân, không thọ, không mạng; hiểu rõ vốn không, pháp nhẫn là không khởi. Phân biệt tất cả như huyễn hóa, như mộng, như hình bóng, như cây chuối, bọt nổi, sóng nắng, bóng câu, điên chớp, bóng trăng in nước; năm xứ vốn không, không tưởng ba đường, mới được thành Phật. Còn nữ thì đắm sắc dục, đắm tình, che dấu thói xấu, thân, miệng, ý trái nhau; cho nên thân nữ, không được thành Phật. Năm việc này đều có gốc ngọn.

Lúc đó, nữ Tuệ Thí trả lời Thượng Độ:

–Tất cả đều do gieo trồng gốc đức thì sẽ được kết quả. Vốn đã có nam nữ báo ứng chăng? Vốn đã có năm xứ Thích, Phạm, Ma vương, Chuyển luân Thánh đế, Đại đạo, Tiểu đạo ư?

Thượng Độ trả lời:

–Không.

Tuệ Thí hỏi:

–Giả sử vốn là không, vậy do nhân gì mà có?

Đáp:

–Do nhân hạnh mà thành.

Tuệ Thí nói tiếp:

–Ví như họa sĩ, đầu tiên là lau tường, bảng cho sạch; hợp đầy đủ các màu sắc, rồi vẽ tượng, chia màu, tùy ý mà thành. Năm đường cũng như vậy, vốn không nơi chốn, tùy hạnh nguyện mà thành. Ví như người làm trò ảo thuật, hóa làm mặt trời, mặt trăng, Đế Thích, Phạm thiên, Chuyển luân thánh vương, trời, rồng, quỷ, thần, nhân dân, cầm thú tùy ý mà hiện; trong một khoảng nháy mắt, làm sao biết được nơi chốn đó. Sinh tử cũng như vậy, vốn không chỗ để có, theo chỗ hành của tâm mà đạt được. Cho đến Như Lai, không huyễn, không hóa, không hợp, không tan, cũng không nơi chốn mới được thành Phật. Vì sao? Vì giữ năm giới được sinh làm người, tu mười điều lành được sinh lên trời; keo kiệt, bỏn sẻn thì đọa ngạ quỷ, cấu xé nhau thì làm súc sinh, ác thì đọa địa ngục. Thực hành bốn Tâm bình đẳng, không hiểu hạnh không, sinh lên Phạm thiên. Nương tựa không mà cầu độ, tiên tan tâm dính mắc vào không, sinh lên trời Vô tưởng. Tưởng sáu Độ vô cực, không lìa ba cõi, sợ khổ, chán thân, ghét nạn sinh tử, chí gắn liền với Niết-bàn, nên làm La-hán. Phát ý Bồ-tát, muốn độ tất cả, không hiểu vốn không, đắm chìm vào thân tướng Phật, muốn mau thành Phật, không được thầy giỏi, không rõ sự khéo léo của quyền biến ở trung đạo, được đạo Duyên giác. Chỗ hành này có hợp có tan, nên không thể thành đạo Vô thượng chánh chân. Tất cả đều không tướng, thì làm gì có nam nữ?

Thượng Độ lại hỏi:

–Tu những hạnh nào mới thành Chánh giác?

Tuệ Thí đáp:

–Không sinh sắc hạnh, không quán bất không hạnh, không diệt sắc hạnh, không xả chấp hạnh, cũng không tạo hạnh. Không sinh thức hạnh, không quán bất không hạnh, không diệt thức hạnh. Không sắc sinh hạnh, không thức sinh hạnh, cũng không quy hạnh, không đến, không đi; vĩnh viễn không nơi chốn, không chỗ trụ hạnh, không nương ba cõi, không xả năm ấm, không thọ năm ấm, không xả tục hạnh, không tưởng đạo hạnh. Đó là đạo hạnh được đến Chánh giác.

Không nương bốn Tâm bình đẳng, không tưởng hạnh sáu Độ vô cực; đối với ba môn giải thoát, không có chỗ cho hạnh nương tựa; đạt được pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện mới là Bồ-tát. Ưng thuận pháp hạnh, không trái hạnh Chánh giác bình đẳng. Như vậy, này Thượng Độ! Người thực hành pháp này, lẽ nào có khía cạnh, nơi chốn, nam nữ trong ba cõi ư?

Đáp:

–Không.

Người không tạo hạnh, thì lấy gì thành lập? Vì lý do đó, cho nên, ta thành Phật có gì là khó? Giữ không có đối tượng để giữ, thành không có đối tượng để thành, giác không có đối tượng để giác, không lấy, không bỏ; cho nên mới gọi là Phật. Cũng không có danh hiệu, chỉ là giả lập.

Phật khen:

–Hay thay! Hay thay! Này Tuệ Thí! Thật đúng như lời ngươi nói, tất cả không nơi chốn, tùy theo hạnh mà thành tựu, không hợp, không tán, không hưng thịnh, không suy, không thấy, không nghe, không nhớ nghĩ, không biết, không lời, không nói, mới thành Chánh giác.

Đức Phật vừa nói xong, Tuệ Thí liền chuyển thân nữ, thành thân nam bay lên hư không, rồi xuống đảnh lễ sát chân Đức Phật, đạt được pháp Nhẫn bất khởi.

Lúc đó, có năm trăm người nữ vui mừng phấn khởi, nói kệ tụng:

Vốn tự mình xem xét
Nói nam có thường chủng
Mạnh yếu có phẩm loại
Nữ, nhất định không đổi.
Hôm nay mong ân Phật
Mới biết không vững chắc
Năm đường như huyễn hóa
Tùy hạnh mà thành tựu.
Ba cõi do tâm tạo
Không hiểu vốn không thật
Tự chấp có ngô ngã
Trói buộc đọa địa ngục.
Ví như người bắt cá
Dùng móc câu để bắt
Chẳng phải mình đã có
Cho rằng mình có được.
Ba cõi như nhà trọ
Bốn đại không ngã sở
Hiểu các pháp như mộng
Tức không còn lấy, bỏ.
Chỉ Phật thấy thương xót
Ân từ bao trùm khắp
Khiến chuyển nữ thành nam
Gặp định Siêu nhật minh.
Thành Phật được cõi nước
Giáo hóa các trời người
Độ thoát hết chúng sinh
Chóng thành Vô thượng chân.

Phật bảo năm trăm người nữ:

–Này các thiện nữ! Các ngươi cứ như sở nguyện sẽ mau chóng đạt được ý chí như vậy.

Nghe Phật dạy như thế, năm trăm người nữ vui mừng và liền thành nam tử. Đồng thời, Phật thọ ký cho Tuê Thí và năm trăm người nữ ấy:

–Về sau mười kiếp, các ngươi đều sẽ thành Phật, hiệu là Tuệ Kiến Như Lai, Chí Chân, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật, Thế Tôn. Thế giới tên là Trừ minh, kiếp tên là Quang minh. Phật trụ trăm ức vạn năm ở đời để nói pháp. hằng sa Bồ-tát được pháp Nhẫn bất khởi. Nhất sinh bổ xứ cũng lại như vậy. Các A-la-hán không thể kể hết. Cách ăn mặc của nhân dân lúc đó, cũng như ở trời Đao-lợi thứ hai.

Nghe Phật thọ ký, cả trăm ngàn người trong đại hội, đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Vô số Bồ-tát được pháp Nhẫn bất khởi. Tám vạn Tỳ-kheo sạch hết lậu hoặc, ý thông. Mười vạn trời, người xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn thanh tịnh. Đại địa chấn động, trên hư không rải hoa như mưa, các thứ nhạc cụ tiêu sáo… không trổi tự kêu. Ức trăm chư Thiên, ở trên hư không, đều khen ngợi bằng kệ tụng:

Chánh pháp Phật sâu dày
Khó gặp, khó được nghe
May thay cho chúng con
Nhờ phước báo đời trước
Nên nay mới nghe được
Không gì vui thích bằng.

Phật lại bảo:

–Này Tuệ Thí! Người thế gian bị trói buộc trong sinh tử, chỉ vì không hiểu pháp sâu xa, chấp vào tôi, ta, người. Cũng giống như con tinh tinh, bị người dụ say bằng rượu, biết không thể thoát được, cuối cùng bị người bắt. Người đời cũng như thế, bị ràng buộc trong cái họa của năm ấm, sáu suy, thường chấp tôi, ta, không biết, khổ, không, vô ngã, phi thân. Phạm vào vô số tội, không tự chế ngự, bị ba độc, năm triền cái trói buộc, không được giải thoát, làm ngược lại đạo chân đế. Như cây sinh ra lửa, không biết lửa sẽ trở lại đốt cây. Không hiểu hạnh không, chấp tôi, ta; người cũng lại như vậy, tự sai lầm đọa vào chỗ tối tăm, rơi vào ba đường ác. Ví như bọn giặc cướp, hung ác, dữ tợn, tự cho mình là dũng kiện. Người thế tục đắm chìm trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chìm đắm trong dơ uế, bị tội lỗi che lấp, không hiểu nghĩa pháp sâu dày mầu nhiệm. Bởi có si mê, ân ái, nên sinh làm người, mười hai kết sử trói buộc, dính vào lưới sáu mươi hai kiến, bị các tà mê hoặc, chín mươi sáu lối tắc. Thông suốt các pháp, phân biệt rỗng không, đều như huyễn, như hóa, như mộng, như cây chuối, như bóng câu, như trăng in nước, như tiếng vang. Không chấp tôi, ta, biết sắc tự nhiên, thì thọ, tưởng cũng tự nhiên. Thọ tưởng tự nhiên, thì hành thức tự nhiên. Hành thức tự nhiên, thì bốn đại tự nhiên. Bốn đại tự nhiên thì ba cõi tự nhiên. Ba cõi tự nhiên, thì Niết-bàn tự nhiên. Niết-bàn tự nhiên thì mới có khả năng đạt được pháp Nhẫn vô sở tùng sinh; không còn ở trong sinh tử, không còn ở trong diệt độ. Như thế là ứng hợp với tuệ Đại thừa sâu xa mầu nhiệm. Ví như có người bị bệnh nặng, muốn tự mình cứu chữa, lẽ ra phải uống trúng thuốc, trái lại uống thuốc độc, thân đã bệnh, lại còn bị độc làm thương tổn đến ngũ tạng. Nếu không tức tốc uống thuốc giải độc, thì cũng có thể làm chết người, hối hận không kịp. Kẻ sĩ học đạo, cũng lại như vậy, vốn phát ý đạo thực hành hạnh Bồ-tát, thờ phụng tu hành bốn Tâm bình đẳng: Từ, Bi, Hỷ, Xả, tuân hành sáu Độ mà còn khởi tưởng, có sự hy vọng, liền bị rơi vào Thanh văn, Duyên giác thừa. Giả sử vừa mới thành tựu, không thích nguyên nhân tạo ra, được đến với Đại thừa, nhưng còn chậm chạp không hiểu rõ, từ đó rơi vào trong Tiểu thừa. Ví như thức ăn của người dân thường, Chuyển luân thánh vương ăn vào, thành ra độc dược. Ví như cam lồ có mùi vị cao tột, thuốc này có công năng trị rất nhiều bệnh cho mọi người. Bồ-tát cũng lại như vậy, dùng pháp Đại thừa, trị liệu được rất nhiều hoạn nạn sinh, già, bệnh, chết, dâm dục, giận hờn, ngu si, nguy ách, các tưởng.

Lúc Phật nói pháp này, có cả ngàn trời, người phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Có năm trăm Thiên tử đạt được pháp Nhẫn bất khởi.

Lúc đó, có Bồ-tát tên là Tuệ Anh hỏi Văn-thù-sư-lợi:

–Sao gọi là Bồ-tát nghe rộng, biết nhiều?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Từ vô số hằng sa đẳng kiếp, tích lũy công đức không biết nhàm chán, nghe bốn Tâm bình bình đẳng, cũng không nhàm chán; tu pháp bốn Ân cũng không nhàm chán; hành sáu Độ vô cực, cũng không nhàm chán; Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng không nhàm chán; đại Từ, đại Bi cũng không nhàm chán; tinh tấn tu năm Thần thông, cũng không nhàm chán; giáo hóa chúng sinh, cũng không nhàm chán; vì Đại thừa giáo, cũng không nhàm chán; hiện Thanh văn, Duyên giác hóa độ hết tất cả, cũng không nhàm chán; hiện ra Niết-bàn, trụ trong Niết-bàn, trở lại cõi sinh tử, cũng không nhàm chán; không đi, không lại, không chỗ nào là không đến. Ví như hư không, không chỗ nào là không có; không ra, không vào, không chỗ nào là không thông đạt, không chỗ nào là không xuất hiện. Đó gọi là nghe rộng biết nhiều.

Không lấy quá khứ làm tính đếm; không cho vị lai có giới hạn trở ngại, không chấp hiện tại có nơi chốn, không có giới hạn trở ngại với ba đời quá khứ, vị lai và hiện tại, bình đẳng với ba đường; không tưởng ba cõi; không nhớ nghĩ Niết-bàn; không đạo, không tục, không bàm lấy, chẳng xả bỏ. Đó gọi là nghe rộng biết nhiều.

Đối với cái nghe, không có đối tượng để nghe; đối với cái thấy, không có đối tượng để thấy; đối với cái nói, không có đối tượng để nói; đối với việc hóa độ, không thấy có đối tượng mình hóa độ. Đó gọi là nghe rộng biết nhiều.

Tuệ Anh lại hỏi:

–Sao gọi là hạnh? Sao gọi là thành tựu?

Trả lời:

–Phát ý Bồ-tát, thực hành bốn Tâm bình đẳng, đại Từ, đại Bi, Tuệ vô cực. Bố thí nhiếp hóa mọi người, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, để cứu độ chúng sinh, dần dần thực hành tinh tấn. Đó là hạnh.

Thực hành vượt quá hơn các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, không thấy tôi, ta, không thấy ba đời, không thấy Niết-bàn cùng với sinh tử. Đó gọi là thành tựu.

Bồ-tát Tuệ Anh lại hỏi Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con người sinh từ đâu đến và đi về đâu? Già, bệnh, chết từ đâu đến và đi về đâu? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức; từ đâu đến và đi về đâu? Đất, nước, lửa, gió, không, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm từ đâu đến và đi về đâu?

Phật bảo:

–Này Tuệ Anh! Đều không từ đâu đến và cũng không đi về đâu. Duyên hợp thì có, duyên tan thì diệt; như huyễn như hóa, như bức họa, như tiếng trống, như mưa, như điện, đều từ nhân duyên; có duyên có sinh, không duyên không đối. Sinh tử cũng như vậy, giống nhau không khác.

Tuệ Anh lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là không từ đâu đến, không đi về đâu? Do nhân duyên hợp thành?

Phật dạy:

–Này Tuệ Anh! Tu hạnh người, thì được làm người; tu hạnh trời thì sinh lên trời; tạo nghiệp địa ngục thì đọa địa ngục; gây nghiệp súc sinh thì chịu làm súc sinh; tạo nghiệp ngạ quỷ thì đọa làm ngạ quỷ. Không có năm hạnh thì không có năm đường. Không có năm đường thì không có ra vào. Đó gọi là cái gốc của con người.

Không có ba cõi (cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc). Do không có tâm ý thức cho nên không có ba cõi. Đó gọi là gốc con người.

Chưa có người và vật, có sắc không thấy. Sao gọi là có sắc không thấy? Đó là sắc đất, sắc nước, sắc lửa, sắc gió. Chất cứng gọi là đất. Chất ướt gọi là nước. Chất sáng gọi là lửa. Thâu tóm gọi là gió. Trời đất chưa định vị, chưa có ba cõi. Bốn sắc này là tự nhiên vậy không có tác giả, tự nhiên động khởi; chỉ có đạo có tên, cho đến bổ xứ có tên. Đấy là sắc vô tượng, cũng gọi là tâm sắc. Những bậc không thoái lui thấy tâm tâm sắc; hàng Nhất sinh bổ xứ thấy bốn sắc tâm. Như Lai thấy chưa có căn bản của bốn sắc tâm. Ở trong ba cõi, thì không như vậy. Đó là tâm sắc. Vì gọi là gốc của tâm, cho nên nói là như vậy. Vì đối với pháp Bồ-tát, cho nên nói là như vậy. Không có tâm sắc, chí ba cõi tự nhiên, tự nhiên như không mới gọi là đạo. Đối với các pháp này, không hợp, không tan. Vì sao? Vì giả sử nó hợp thì đó là gốc của người. Giả sử nó tan, thì đó là sinh tử. Thấy cái khổ của sinh tử và cái vui của Niết-bàn thì gọi là Thanh văn. Ở tại trung gian, không làm ích lợi gì cho tất cả, thì gọi là Duyên giác. Không hợp, không tan, không ở trong Niết-bàn, không ghét sinh tử; thì mới gọi là Pháp thân. Pháp thân thì vô hình, nhập khắp tất cả, cũng không chỗ nhập, không chỗ nào là không nhập.

Lúc Phật nói pháp này, có năm ngàn trời, người được pháp Nhẫn vô sở tùng sinh. Vô ương số người đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

Lúc đó, A-nan hỏi Đức Thế Tôn:

–Bạch Thế Tôn! Người muốn phát ý đạo, tu hạnh Bồ-tát, lấy gì làm gốc?

Phật bảo:

–Này A-nan! Tinh tấn không biếng nhác, phân biệt tuệ rỗng không, muốn độ tất cả, không thấy tôi, ta và thọ mạng. Đó chính là gốc.

Lại hỏi:

–Có nhanh chậm không?

Phật nói:

–Cũng có, cũng không.

Lại hỏi:

–Sao gọi là có? Sao gọi là không?

Phật nói:

–Có là từ tinh tấn không biếng nhác, tích lũy công đức, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, phương tiện quyền biến, khéo léo, Từ, Bi, Hỷ, Xả, bốn Ân không hạnh; được đạo Vô thượng chánh chân, không từ biếng nhác mà có. Đó gọi là có.

Không là đạo, không nơi chốn, không hình, không tên. Ví như hư không, không từ tạo tác, nhưng có thể đạt được, không chỗ tạo tác, không tâm ý thức, không trong, không ngoài, cũng không ở giữa, không lấy, không bỏ, mới ứng nhập đạo. Đó gọi là không. Vì sao? Vì số kiếp trải qua xa xưa, không thể kể được. Lúc đó có Chuyển luân thánh vương, tên là Tự Tại. Vua có một ngàn người con, dũng mãnh kiệt xuất, trong nước có đầy bảy báu, vua làm chủ trong bốn thiên hạ, cai trị bằng chánh pháp, không có hình phạt. Lúc đó, có Đức Phật, hiệu là Bảo Diệu Như Lai, Chí Chân, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật, Thế Tôn. Giáo pháp Đức Phật nói ra đầu, giữa, cuối đều tốt lành. Phân biệt nghĩa lý vi diệu đầy đủ, trong sạch tu phạm hạnh. Diễn pháp truyền rộng khắp nơi. Bồ-tát đến hội, có vô số ức chúng, Thanh văn, Duyên giác không thể tính hết. Lúc đó, Chuyển luân thánh vương cúng dường hầu Phật trải qua một năm. Ngàn người con, quần thần và đại chúng tập hợp, đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ sát chân, rồi lui ngồi một bên. Đức Phật giảng nói về hạnh của Bồ-tát một cách rộng rãi cho ngàn Thiên tử và quần thần đại chúng, làm an ổn cho nhiều người, cứu giúp bảo vệ cho nhiều người, Đức Phật là bậc cao tột, tôn quý nhất trong tất cả mọi người. Nghe Đức Phật dạy xong, vua và các con, cùng quần thần, đại chúng hầu hạ đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân, ngày đêm tinh tấn, không dám ngơi nghỉ, luôn cúng dường Như Lai, để tất cả được an vui.

Lúc đó, ngàn người con đều ở trước Đức Phật, tự thử nghiệm công đức của mình. Mỗi vị đều tự dò xét kế sách, coi ai sẽ thành Phật trước. Người được thượng sách ông theo thứ lớp sẽ thành Phật, kẻ biếng nhác, đức mỏng, tụt lùi sau cùng. Lúc đó, ai nấy đều dò xét kế sách của mình. Trong đó, có một thái tử, được kế sách cuối cùng và là người thành Phật cuối cùng, nên lòng buồn rầu, không thể kiềm chế, muốn tự mình lặn xuống như núi Thái như băng lở, rồi tự than trách:

–Sao ta thành Phật cuối cùng!

Đức Phật bèn bảo thái tử đó:

–Này thái tử! Chớ nên buồn rầu, đạo không có hạn lượng, cũng không xa gần. Nếu có khả năng phân biệt hiểu rõ “không”, không tuệ, thì là tại tiền.

Nghe Đức Phật dạy như thế, thái tử phấn khởi, phát ý đạo Vô thượng chánh chân, được pháp Nhẫn bất khởi, thực hành đại Từ, đại Bi, hiểu tất cả pháp như huyễn, như hóa, như hình bóng, như tiếng vang, như bóng câu, như giấc mộng, như cây chuối, như bóng trăng in trong nước.

Trong ngàn người con, người thành Phật thứ tư, hiệu là Thíchca Văn Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác, còn các thái tử khác lần lượt thành Phật, người thành Phật cuối cùng, hiệu là Lâudo.

Phật bảo A-nan:

–Này A-nan! Muốn biết Chuyển luân thánh vương lúc đó, nay chính là Định Quang Như Lai. Thái tử không có kế sách hiểu rõ “không” vốn không, tinh tấn không biếng nhác. Và người được thành Phật trước hết, chính là ta đây, còn các người con khác, đều thành Phật trong Hiền kiếp. Nên biết nghĩa này: Đạo không xa gần, hiểu rõ nghĩa không, phân biệt sự vi diệu, biết pháp tự nhiên mới mau chóng thành Phật.

Khi ấy, cả chúng hội không ai là không vui mừng đều phát ý đạo, thực hành hạnh Bồ-tát. Năm ngàn Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn. Vạn người khác được pháp Nhẫn nhu thuận.

Lúc đó, Nhật thiên vương, cùng vô ương số trăm ngàn trời, người đến chỗ Phật đảnh lễ sát đất, rồi lui ngồi một bên, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì những hạnh gì, mà Nhật thiên vương chiếu sáng khắp bốn thiên hạ? Vì nhân duyên gì, mặt trăng chiếu sáng ban đêm, xua tan bóng tối?

Phật bảo:

–Này Nhật vương! Có bốn pháp được làm Nhật vương. Những gì là bốn?

  1. Thường ưa làm việc ban cho.
  2. Thân cẩn thận thờ phụng thực hành cấm giới, không phạm.
  3. Chí gắng công đốt đèn thờ Phật trong chùa miếu.
  4. Đối với cha, mẹ, Sa-môn, đạo nhân thì gieo trồng đức sáng.

Đó là bốn.

Phật liền nói kệ tụng:

Thường vui cùng bố thí
Phụng giới cấm, không phạm
Thường đốt đèn cúng Phật
Nếu ở trước cha, mẹ
Vui thích chánh điển Phật
Không chê bai kinh pháp
Kính Sa-môn, Đạo sĩ
Nhân đó làm mặt trời
Thân phóng ngàn ánh sáng
Chiếu khắp bốn thiên hạ
Những chỗ bị tối tăm
Đều mong được ánh sáng.

Phật bảo:

–Này Nhật Vương! Lại có mười việc để làm Nhật thiên vương. Đó là thân không giết hại, trộm cắp, tà dâm. Miệng không nói hai lưỡi, nói ác, nói dối, nói thêu dệt. Ý không giận hờn, ganh ghét, ngu si. Đó là mười.

Phật liền nói kệ:

Tự mình khéo thu giữ
Không giết, trộm cắp, dâm
Không hai lưỡi, ác khẩu
Nói dối và thêu dệt
Tâm không ôm ganh ghét
Không giận hờn, độc hại
Lìa sáu mươi hai kiến
Nhật quang chiếu bốn phương.

Phật bảo:

–Này Nhật Vương! Lại có bốn việc được làm Nhật vương.

Những gì là bốn?

  1. Bố thí người nghèo cùng.
  2. Thờ phụng và giữ trọn năm giới.
  3. Tuân kính Tam bảo.
  4. Đốt đèn sáng ở những nơi có: Vua, cha, thầy, chùa.

Đó là bốn.

Phật liền nói kệ:

Ban cho người nghèo đói
Thường giữ thờ năm giới
Đốt đèn nơi chùa Phật
Cung kính hầu Tam bảo
Tâm nhớ giữ điều lành
Xua tan ác thế gian
Tự giữ thân, miệng, ý
Được Nguyệt quang chiếu soi.

Lúc đó, Nhật vương bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Đại Thánh bỏ qua oai thần tôn kính, đến cung của con, con xin cúng dường một bữa ăn đạm bạc. Đồng thời cũng làm cho các đạo ngự, hư không thần, trời đang mong đại ân, được nghe pháp sâu xa mầu nhiệm, mà phát ý đạo, sự hóa độ sẽ vô lượng.

Lúc đó, Phật im lặng nhận lời.

Nhật vương đã thấy Phật đồng ý nhận lời, liền đi quanh Phật ba vòng, rồi về thẳng cung, bày biện sửa soạn, trăm món ăn, bao nhiêu món ngon, ngọt, giường, ghế, đồ ngồi được trang sức đẹp đẽ, sáng sủa; tạo ra Phật tòa, cao đến bốn ngàn dặm. Thiết lễ xong, Nhật vương đứng ở cung điện, cung kính khép nép, vọng đến thỉnh Phật một lần nữa, dùng kệ ca ngợi:

Ban cho hết tất cả
Không tiếc gì mình có
Không trông mong đáp lại
Được Phật độ mười phương.
Trí tuệ như hư không
Hóa độ không trở ngại
Tất cả đều mong ân
Giờ đến xin Thế Tôn.
Từ tâm ban chúng sinh
Chưa từng có nguy hại
Thương xót người chưa độ
Dạy dỗ bằng pháp báu.
Oai thần chiếu quần sinh
Cứu thoát người nghèo thiếu
Tuệ tài đều bảy báu
Đến giờ xin Thế Tôn.
Thấy chúng sinh mê hoặc
Đau khổ trong năm đường
Thường rủ lòng thương lớn
An ủi người sợ hãi.
Khai hóa bằng giáo pháp
Chỉ bày không ai bằng
Đạt đến “không” không tuệ
Giờ đến xin Thế Tôn.
Ánh sáng hơn trời, trăng
Oai đức hơn Tu-di
Trí tuệ vượt hư không
Độc tôn không thể ví.
Nhật, nguyệt xua bóng tối
Chỉ vậy, vạn vật thành
Phật chiếu người năm đường
Khiến được năm loại mắt.
Hư không còn độ được
Nước biển biết bao nhiêu
Tu-di mười phương cõi
Cũng biết được cân lượng.
Như Lai thánh trí tuệ
Công đức rộng vời vợi
Không hạn vượt khắp cả
Giờ đến thỉnh Thế Tôn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo cả đại hội:

–Đã đến giờ, tất cả nên chuẩn bị đến cung Nhật vương.

Nghe Phật dạy thế, tất cả đều tuân theo.

Phật cùng đại chúng bay lên hư không, đến cung Nhật vương, ngồi vào tòa Sư tử. Chúng hội ngồi xong, vương hậu, thái tử, chư Thiên, quyến thuộc đảnh lễ sát đất với lòng chí thành, cúng dường Đức Thế Tôn, tự tay sớt trăm món ăn ngon, ăn xong dọn rửa sạch sẽ. Nhật vương liền lấy một ghế thấp, đặt ngồi trước Phật, cung kính nghe pháp.

Phật bảo:

–Này Nhật Vương! Tất cả ba cõi, những gì có hình dáng đều từ tâm ý. Tâm ý thì không hình, nhưng có chỗ để tạo, tùy nghiệp mà lập thân, giàu sang, phú quý, bần cùng, ty tiện, chung quy đều vô thường; như bong bóng nước, chốc lát bị hoại diệt. Tất cả cái có được ở thế gian, cũng lại như vậy. Nên đặt niềm tin và nương tựa vào đạo đức chánh chân, ngoài ra không có gì đáng nương tựa. Vứt bỏ các nghiệp, hết lòng thực hành pháp hạnh. Sao gọi là pháp hạnh? Là hạnh vô sinh ngoại trừ các sở sinh. Hạnh chân đế chỗ tồn tại thù thắng. Hạnh nhập đạo, không có chỗ quên mất. Hạnh Bố thí, không chỗ keo kiệt. Hạnh Trì giới, đạt được các nguyện. Hạnh Nhẫn nhục, không làm loạn mọi người. Hạnh Tinh tấn, chưa từng động chuyển. Hạnh Nhất tâm, ý hành thường đạt. Hạnh Trí tuệ, thấy bằng Thánh nhãn. Hạnh tâm lành, chịu tất cả khổ. Hạnh tâm thương xót, ý bình đẳng đối với chúng sinh. Hạnh tâm vui, dùng pháp khai hóa. Hạnh tâm bảo vệ, an ủi tất cả. Hạnh thần thông, đạt được sáu thông. Hạnh chỉ có không, không có tâm tức hại. Hạnh tiêu diệt, độ các quần sinh. Hạnh bốn Ân, hợp tụ cứu mọi người. Hạnh nghe rộng, tùng thọ thành đạo. Hạnh không khởi, để quán sát tự nhiên. Hạnh đạo phẩm, không đạt được hữu vi. Hạnh vốn không, không tội phước báo. Hạnh duyên khởi, biết rõ vô minh, sáng suốt không cùng tận. Hạnh các lao nhọc, hiểu người, vật tự nhiên. Hạnh các pháp, hiểu rõ tuệ không, được bình đẳng giác. Hạnh phục ma, không ai có khả năng làm khuynh động, tuy ở trong ba cõi nhưng không bị đọa. Hạnh sư tử, khéo thắng không sợ, vững mạnh không sợ hãi, hướng đến vô úy. Hạnh ba đạt, không có quái ngại, một lòng hiểu đạo tràng, đầy đủ trí lớn. Hạnh giáo hóa, tất cả không đâu là không chu toàn. Hạnh giải hóa sáu mươi hai kiến, cứu chúng sinh thoát khỏi lưới trói buộc, chín mươi sáu đường tắt, hướng dẫn vào một đạo. Như vậy, này Nhật vương! Bồ-tát thực hành các hạnh thích ứng này, mà thuận với đạo hạnh. Đã thuận với đạo hạnh thì ứng với đại Từ. Đã thuận với đại Từ thì ứng với đại Bi. Đã thuận với đại Bi thì ứng với áo giáp lớn. Đã thuận với áo giáp lớn thì rống tiếng sư tử. Đã rống tiếng sư tử thì ứng với hóa huyễn. Đã thuận với hóa huyễn thì vào năm đường. Đã thuận với năm đường thì tùy thời mà vào. Đã tùy thời mà vào thì không có gì là không biến. Đã không có gì là không biến thì không đi, không lại; độ không thấy có đối tượng để độ; sạch không thấy có đối tượng để sạch; sáng không có đối tượng để sáng; hiểu không có đối tượng để hiểu mới là Chánh giác.

Phật bảo:

–Này Nhật vương! Muốn đạt được viêc quá khứ, vị lai, hiện tại, mười phương chư Phật, Pháp thân bình đẳng nên luôn tin vui phân biệt nghĩa này; muốn biết sinh tử mười hai nhân duyên từ đâu hưng thịnh phát ra, các họa trong ba nẻo, sự che lấp của năm ấm nên hiểu nghĩa này, tin theo thờ phụng tu hành. Muốn hiểu cốt yếu của mười hai bộ kinh điển, khai mở ba đạt giáo, vượt qua ba thoát môn, đến với ba đạt trí nên hiểu nghĩa này. Cũng như quận, nước, huyện, ấp, xóm, làng, trăm thứ lúa cây cối, thuốc, quả, đều từ đất mà sinh trưởng. Bồ-tát nhập vào tuệ này, không chỗ nào là không hóa độ. Tất cả đều được thành lập, cho đến đạo Vô thượng chánh chân. Thanh văn, Duyên giác đều nương theo nhân đó.

Khi Đức Phật nói pháp này, Nhật thiên vương, vương hậu, thái tử, quyến thuộc, chư Thiên tự nhiên tâm đều được pháp Nhẫn bất khởi. Mười ức trời, người phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

Lúc đó, Đức Thế Tôn từ chỗ ngồi, đứng dậy, đứng giữa hư không, có vô ương số trăm ngàn quyến thuộc vây quanh liền nói kệ tụng:

Trời, người không hiểu rõ
Từ trong vô lượng kiếp
Mê hoặc trong năm đường
Như cá mắc lưỡi câu.
Ba cõi cũng như huyễn
Hoảng hốt không thấy nơi
Sinh là không tự biết
Bị ý thức sai khiến.
Đọa trong bốn điên đảo
Thật là đáng thương xót
Tự chấp thân là thường
Không tin vào chân đạo.
Tất cả từ không sinh
Phản ác nghe không tuệ
Như người từ thân sinh
Lại không hiếu cha mẹ.
Thú lại hóa thành cọp
Bất chợt lại làm người
Trở lại hại trong nhà
Không phân biệt thân sơ.
Người vốn từ không sinh
Thêm không cũng như vậy
Mê loạn từ ấm nhập
Như người say khỏa thân.
Thú lại biến làm người
Mới biết thân thuộc mình
Đã phân biệt vốn không
Mới hiểu tất cả không.
Không là không niệm không
Không cũng không thấy không
Đã đạt không sở sinh
Mới hiểu được tự nhiên.
Muốn cầu hạnh Bồ-tát
Độ thoát loài chúng sinh
Nên hiểu tất cả pháp
Tự nhiên như huyễn hóa.
Phân biệt tuệ này rồi
Chu toàn không xa lìa
Thâm nhập pháp vi diệu
Mở quyền tuệ độ người.

Lúc Phật nói pháp này, có vô số ức trời, các thần hư không đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Số Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn bất khởi đông không thể kể. Phật trở về vườn cây Nại thị trong thành Duy-da-ly.

Khi ấy, trong thành có đại trưởng giả, tên là Giải Pháp Độ đời trước, đã từng cúng dường vô số trăm ngàn Đức Phật, gieo trồng gốc đức không có hạn lượng, đảnh lễ chư Phật, cung kính khó lường, học hỏi lãnh thọ lời chánh pháp. Đối với ý đạo Vô thượng chánh chân chí không lui sụt, pháp Nhẫn bất khởi, vượt ngoài trí tuệ, hóa độ vô cực, thiện quyền cứu giúp không thể bàn tính. Ông ta cùng với quyến thuộc đi đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên, chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Cúng dường Thế Tôn được công đức gì?

Phật bảo:

–Này trưởng giả! Đem hoa rải cúng dường Đức Phật thì đời đời ngay thẳng, mọi sự ăn mặc, tự nhiên có. Người đốt hương xông ướp, thì được thân thể thơm khiết, danh đức vang xa. Người đốt đèn cúng Phật, thì được Thiên nhãn minh tuệ, không ở chỗ tối tăm. Người cúng dường cờ phướn, hiện tại luôn giàu có, của cải vô hạn. Người cúng lọng báu bằng lụa tối thượng thì được nhà cửa mát mẻ, không bị nắng chói mưa chan. Người đem âm nhạc ca xướng cúng Phật, tháp, chùa thì được Thiên nhĩ, nghe thấu triệt. Người cúng dường giày dép, xe cộ thì bay đi nhẹ nhàng. Một lòng hướng đến Đức Phật thì biết được mạng đời trước, lấy lòng lành mà xem xét chúng sinh biết được tất cả tâm. Người ban cho pháp thì được sạch các nhơ bẩn. Người ban cho thức ăn thì thường gặp pháp hội. Người ban cho y phục, thì được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Sau khi ta diệt độ. Có ai cúng dường hình tượng, xá-lợi thì công đức cũng đều như vậy; thuận với chánh pháp, nhân đó được đạo Vô vi.

Trưởng giả Giải Pháp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Có sự cúng dường nào, hơn cả sự cúng dường hoa hương, cờ phướn, lọng báu, xướng ca, giày dép, xe cộ, đồ ăn, thức uống, y phục này không?

Phật đáp:

–Có.

Trưởng giả lại thưa hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Đó là những gì?

Phật bảo:

–Này trưởng giả! Đó là phát ý Bồ-tát, thương nhớ chúng sinh, bị các hoạn nạn, từ xưa đến nay và tìm cách cứu độ họ. Đại Từ, đại Bi, không chán sinh tử, tìm cầu nghĩa sâu xa của Tam tạng tổng trì. Trí tuệ không cùng, ưu lo khôn lường, san bằng ba đường, hướng dẫn đến Tam bảo; phân biệt Không, Vô tướng, Vô nguyện. Vượt qua ba môn giải thoát, được ba đạt trí, thấy được gốc rễ của người vốn không có nơi chốn đều do nhân duyên sinh. Xem xét tất cả pháp cũng không đến, đi. Sáu tình tự nhiên như bong bóng trên mặt nước; Tứ đế, vô đế như bóng câu. Khi hiểu rõ vốn không rồi, mới là chánh đế. Từ, Bi, Hỷ, Xả; dùng pháp bố thí, nhân ái với chúng sinh, khuyến khích làm lợi ích quần sinh, bình đẳng lợi ích tất cả, sáu Độ không cùng, phương tiện khéo léo, tùy thuận hóa độ, không chán sinh tử. Cũng như chim bay trên hư không, ham thích cả bầu trời. Ví như nô đùa trong vườn rừng hoa trái, sông suối, nhưng không trái với lời dạy chân chánh vi diệu của Đại Thánh. Không sợ bốn ma, hàng phục các tà sáu mươi hai kiến, giáo hóa chín mươi sáu mê hoặc của các ngoại đạo, xả bỏ hạnh Thanh văn, Duyên giác. Biết rằng không ngã, không nhân, không thọ, không mạng, tuân tu đạo Vô thượng chánh chân. Đó là sự cúng dường cao tột hơn cả. Tự xét thân mình như huyễn hóa, biết rõ mười hai nhân duyên không đầu mối. Vì sao?

Vì vốn không có si, duyên chống đối mà khởi lên. Từ si đến hành, từ hành đến thức, từ thức đến danh sắc, từ danh sắc đến sáu nhập, từ sáu nhập đến xúc, từ xúc đến thọ, từ thọ đến ái, từ ái đến thủ, từ thủ đến hữu, từ hữu đến sinh, từ sinh đến tử, từ tử đến lo buồn khổ não. Hiểu biết vốn không, si mà còn không có thì làm gì có hành, thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử, lo buồn khổ não; vĩnh viễn không có! Các duyên đều trừ bỏ, không ở trong ba cõi, không thích Niết-bàn, không nhớ nghĩ đạo lớn, không tưởng đến đạo nhỏ, dạo chơi trong sinh tử. Cũng như mặt trời, mặt trăng; không ra, không vào. Người thế gian có ra, có vào. Bồ-tát cũng như vậy, khai hóa tất cả, hiện sinh trong ba cõi, nói ba thừa giáo, liền hiện diệt độ. Đối với tất cả mọi người, thấy các sinh diệt; đối với pháp Bồ-tát thì không có sinh diệt. Cúng dường như thế là cúng dường đặc biệt hơn cả, là rất tôn quý, cao cả, không bờ bến.

Khi Đức Phật nói pháp này, có mười vạn trời, người đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Trưởng giả Giải Pháp và các quyến thuộc đều không thoái lui sụt nơi pháp Nhẫn bất khởi.

Lúc đó, Bồ-tát Điều Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là điều? Sao gọi là bảo?

Phật nói:

–Này Điều Ý! Nếu có người đánh mắng, chửi, đánh đập, nguyền rủa ta, tâm ta vẫn không thay đổi. Có người đến làm nhục, khinh thường, lăng mạ, phỉ nhổ ta, tâm ta không thay đổi. Nếu có người đến khen ngợi, cung kính, tuyên dương công đức của ta, tâm ta vẫn không thay đổi. Nếu có người đến đảnh lễ, quy mạng, bái lạy, tôn kính ta, tâm ta vẫn không thay đổi. Giả sử đem giàu sang và thú vui ái dục của Chuyển luân thánh vương đến dụ dỗ ta, tâm ta vẫn không thay đổi. Nếu đem những cảnh khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh đến làm khổ ta, nhưng tâm ta vẫn không thay đổi. Biết mạng là chẳng phải thường, khổ không chẳng phải thân, đến để khuấy đông ta, tâm ta vẫn không thay đổi. Nếu đem pháp Thanh văn, Duyên giác đến dụ dỗ khuyến khích ta, tâm ta vẫn không thay đổi. Giả sử dùng trí tuệ không không của Bồ-tát và Đại thừa đến giáo hóa ta, tâm ta vẫn không thay đổi. Đó gọi là điều.

Sao gọi là bảo?

Phật nói:

–Này Điều Ý! Phát tâm Bồ-tát, muốn độ hết tất cả, đó là bảo. Tôn kính chư Phật, không theo ngoại đạo, đó là bảo. Hiểu kinh thuận giáo, không nghịch với giáo hóa, đó là bảo. Khiêm nhường tôn trọng chúng Tăng và Thánh chúng, đó là bảo. Bố thí tất cả, không trông mong đền đáp, đó là bảo. Thực hành đúng giới cấm, phát nguyện Bồ-tát, đó là bảo. Sức nhẫn nhục, ý phục không loạn, đó là bảo. Tinh tấn siêng năng, cẩn thận tu đạo, nghiền ngẫm nghĩa chính yếu, đó là bảo. Một lòng thực hành thiền định, chân chánh không tà mê, đó là bảo. Trí tuệ thấu triệt, không đọa sáu tình, đó là bảo. Phương tiện quyền biến khéo léo, đều được như sở nguyện, đó là bảo. Lòng lành giáo hóa rộng khắp nơi, chí không nhỏ nhặt, đó là bảo. Thường ôm lòng thương xót những việc nguy ách, đó là bảo. An hòa vui vẻ, không mừng không lo, đó là bảo. Ủng hộ tất cả, không ai là không cứu độ, đó là bảo. Dùng pháp bố thí, không đạo, không tục, đó là bảo. Vỗ về, dạy dỗ chúng sinh, không có chỗ thương, ghét, đó là bảo. Luôn làm việc lợi ích, không tạo sự tổn hại, đó là bảo. Bình đẳng lợi ích tất cả, không có ý thiên vị, tà vạy, đó là bảo. Thường giữ lòng khiêm nhường, trung thành, chưa từng coi thường, đó là bảo. Nếu ai đến mắng chửi ta, nhưng ta không kết hận, đó là bảo. Giả sử có ai đến đánh đâp ta, ta coi như không có thân này, đó là bảo. Giả sử có người trút lòng giận dữ hại ta, nhưng ta vẫn đem lòng nhân từ đáp lại, đó là bảo. Nếu như ai có xem thường ta, nhưng ta cũng không nghĩ đến cái xấu của họ, đó là bảo. Hiểu biết chẳng có thân, không chấp tôi, ta, đó là bảo. Hiểu rõ tất cả đều khổ, không thích buông lung, đó là bảo. Vật chẳng phải của ta có, không để sắc làm mờ mắt, đó là bảo. Xả hạnh Thanh văn, không tu Duyên giác, đó là bảo. Còn tu thần hóa từ năm đến sáu, đó là bảo. Buông bỏ sáu mươi hai tà kiến không đọa vào, đó là bảo. Không an ổn nơi Niết-bàn, không gặp nguy trong sinh tử, đó là bảo. Luôn đem đại pháp, khai hóa những ai chưa nghe, đó là bảo. Vì tất cả mọi người mà thị hiện cây cầu chánh pháp, cứu độ, thâu tóm, hàng phục các ách nạn, đó là bảo. Hiểu rõ ba cõi là không, tất cả đều tự nhiên, đó là bảo.

Bồ-tát Liên Hoa Tịnh bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát được đến tịnh hạnh?

Đức Thế Tôn đáp:

–Này Liên Hoa Tịnh! Không bị ái dục làm nhiễm ố, đó là thanh tịnh. Tâm thường trong sạch, không có sân tức ác độc, đó là thanh tịnh. Đối với bụi trần trong ba cõi, mà không bị nhiễm và trở ngại, đó là thanh tịnh. Không ham diệt độ, không nhẫn sinh tử, đó là thanh tịnh. Không chấp đầu đuôi, ra vào, vô vi, đó là thanh tịnh. Thường hành đại Từ, không xả bỏ lòng thương lớn, đó là thanh tịnh.

Không tưởng đạo lớn, không cầu đạo nhỏ, đó là thanh tịnh.

Bồ-tát Quang Anh bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát chiếu ánh sáng khắp nơi là nhân gì?

Phật bảo:

–Này Quang Anh! Là nhờ thắp đèn trong chùa miếu, học hỏi trí tuệ, nghiên cứu rộng rãi không chán, hiển bày trao truyền đạo sáng, khiến chúng sinh thông đạt được thật giả, tuân tu học tập Thánh điển mười hai bộ kinh, vượt qua biển các cõi hai mươi sáu thứ dẫn dắt, chí luôn gắn liền với Đại thừa, tiêu trừ các hoạn nạn của mọi người, đạt đến tuệ vi diệu. Nhờ thế mà Bồ-tát chiếu ánh sáng khắp nơi.

Bồ-tát Giải Phược bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nhờ nhân duyên gì mà Bồ-tát giải thoát tất cả trói buộc?

Phật bảo:

–Này Giải Phược! Hiểu rõ ba cõi là không, đối với quá khứ, vị lai và hiện tại, không có chỗ cho tưởng đắm vào, trừ khử ba dơ bẩn. Phân biệt sắc là không, thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Tất cả vốn là không, không đắm, không đoạn, dù có một, cũng không mong cầu, cũng không xả bỏ. Đó là Bồ-tát giải thoát tất cả trói buộc.

Bồ-tát Bảo Sự bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là báu? Thế nào là đá?

Phật bảo:

–Này Bảo Sự! Quy y Phật, Pháp, Thánh chúng… không vì phi

pháp, xả bỏ chín mươi sáu thứ con đường tắt. Không thích Thanh văn, Duyên giác, chí theo đạo lớn, đại Từ, đại Bi cứu vớt chúng sinh, thoát khỏi mê hoặc của năm đường. Đó là bảo.

Nhận thức sai lầm về mười hai nhân duyên, không biết pháp lớn là không, không tuệ. Đó là đá.

Bồ-tát Ân Thí bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bồ-tát thi ân chúng sinh?

Phật bảo:

–Này Ân Thí! Khiến cho những ai chưa phát ý đều phát ý; những ai thoái lui làm cho không thoái lui; đối với các sở sinh làm cho không sở khởi; những ai chưa đầy đủ, thì được đến Nhất sinh bổ xứ. Đó là Bồ-tát thi ân đối với tất cả.

Bồ-tát Đế Thiên bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bồ-tát có khả năng hóa độ các trời?

Phật bảo:

–Này Đế Thiên! Ở tại cõi Dục hiện dục là vô thường. Ví như người trong mộng thị hiện hạnh thanh tịnh. Ở trong cõi Sắc, hiện hạnh đại Từ của Bồ-tát. Ở trong cõi Vô sắc, hiện pháp sâu dày mầu nhiệm. Không chỗ nương tựa, không nương vào cõi Dục, không nương vào cõi Sắc, không nương vào cõi Vô sắc, không nương vào Tiểu thừa, không nương vào đại đạo. Đó là Bồ-tát có khả năng giáo hóa các trời.

Bồ-tát Thủy Thiên bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bồ-tát hiểu biết, vốn thanh tịnh?

Phật bảo:

–Này Thủy Thiên! Bồ-tát hiểu biết tất cả các pháp đều như huyễn, như hóa, tất cả vốn là không. Ví như nguồn nước ban đầu, vốn trong sạch, không có dơ dục. Vì sao? Vì nếu để cho nước cố định, thì nước sẽ trong sạch như cũ. Do hiểu rõ vốn không, cho nên đạt được Pháp thân.

Bồ-tát Đại Đạo sư bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi Bồ-tát là vị hướng dẫn tất cả?

Phật bảo:

–Này Đại Đạo sư! Bồ-tát thấy người tham lam keo kiệt, liền hướng dẫn, làm cho họ bố thí. Thấy người buông lung liền hướng dẫn làm cho biết giữ giới. Người giận hờn, hướng dẫn làm cho tu hạnh nhẫn nhục. Người biếng nhác, hướng dẫn họ tinh tấn. Người loạn ý khiến cho họ nhất tâm. Người ngu tối, hướng dẫn họ được trí tuệ. Người không có đạo tâm, hướng dẫn họ hướng đến Đại thừa. Đó là Bồ-tát hướng dẫn tất cả.

Bồ-tát Long Thí bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bồ-tát không tiếc thân mạng?

Phật bảo:

–Này Long Thí! Bồ-tát xem xét thấy, mọi vật trên đời đều là vô thường, khổ, không, chẳng có thân; ngã chẳng có thân, thân chẳng phải có ngã; tất cả như bóng nhờ hình mà hiện. Sinh tử cũng như vậy, từ tâm mà thành. Hiểu rõ tất cả đều không rồi, thì không có mong cầu, vì tôi, ta tự nhiên mà tôi, ta tự nhiên thì sinh tử tự nhiên; sinh tử tự nhiên thì Niết-bàn tự nhiên; Niết-bàn tự nhiên thì đại đạo tự nhiên. Đó là Bồ-tát không tiếc thân mạng.

Khi ấy, Phạm thiên bạch Phật:

–Sâu xa thay pháp lớn! Thật khó mà được gặp, phải từ vô số kiếp, tích hạnh bồi đức thì mới được nghe âm thanh phảng phất. Hạnh phúc thay, được gặp Đại Thánh, nghe được pháp này, cúng dường Bồ-tát chánh điển, hiểu rõ sâu xa, giáo hóa bằng nghĩa cốt yếu vi diệu. Do vốn thường nghe, hiểu rõ thông đạt pháp này, khiến chúng sinh nương hạnh, lập hiệu. Người nghe được kinh này là vì đã thấy Đức Phật. Tai nghe tuệ vi diệu, cung phụng Thánh chúng, cứu trời, người, vớt ba cõi, khiến phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Hình thể hiểu ba thoát, không phế bỏ ba đạt, tuy chưa đến đạo, nhưng đức lần lần tăng thêm. Như mặt trăng mới mọc. Như sư tử con không sợ nạn gì, tự tại do mình. Các trời, rồng, thần đều bảo vệ. Chúng ma, tà ác, đều tự nhiên quy phục. Ở tại châu thành, quận, nước, huyện, ấp, không ai là không kính trọng, ra vào ứng tiếc với mười phương chư Phật, oai thần gia hộ.

Lúc đó, Tứ Thiên vương bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vui thay! Sâu xa thay! Hồng ân Đại Thánh, hiện oai thần trong đời xấu ác, khiến cho chúng con được thân cận an trụ và gặp sự giáo hóa vi diệu này. Bồ-tát thuần tuệ như Thiên Trung Thiên. Ví như có người phát nguyện, đi vào trong biển lớn lấy được viên ngọc châu như ý. Vì tất cả nguyện, người ấy vui mừng khôn xiết. Chúng con cũng như vậy, được đến trong đại hội, chiêm ngưỡng thấm nhuần lòng từ, lắng nhận vị cam lồ. Việc làm to lớn của Bồ-tát, cũng giống như vào biển lớn lấy ngọc bảo châu, bố thí cho mọi người, chỉ bày mọi người, đồng chí hướng, tu hạnh Bồ-tát. Các chúng các trời chưa tin theo, thì nương vào phước của đồ chúng để làm cho an ổn tự nhiên, mở tâm thọ học. Còn người tin theo rồi, thì càng tăng thêm gấp bội, làm cho tinh tấn vững chắc không còn thoái lui.

Phật khen:

–Hay thay! Này Tứ Thiên vương! Thật đúng như lời ông nói, đại pháp này, khó có thể thấy nghe; nếu sai lầm một ly, thì vĩnh viễn trái với chánh pháp, trăm ức ngàn kiếp chưa từng được gặp. Cũng giống như một cây kim, rơi xuống đáy biển cả, cho người xuống tìm kiếm, như thế có dễ không?

Tứ Thiên vương thưa Phật:

–Rất khó! Thật rất khó, thưa Thiên Trung Thiên!

Phật bảo:

–Người nghe pháp cốt yếu sâu xa của Bồ-tát này, mà không tin theo, không phúng tụng, thì nhiều kiếp sai lầm không thể gặp lại. Thế nên các ông, muốn đạt được điều đó, để thấy Phật nghe pháp sâu xa, mau chóng đạt đến đạo Vô thượng chánh chân thì nên giữ gìn, thọ trì, đọc tụng, rồi đem triển khai, giải bày cho những ai chưa nghe, để họ mong được pháp điển, nhân đó mà tu hành, lần lượt giáo hóa nhau, phước đó khó đo lường. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào cúng dường, phụng sự tất cả chư Phật, trong tam thiên đại thiên thế giới, suốt trăm ngàn kiếp, không thiếu thứ gì, sau khi chư Phật diệt độ đều xây tháp bảy báu đồ sộ, trên đến hai mươi bốn tầng trời, cúng dường cờ phướn, lọng báu, các loại nhạc, ca tụng trăm ngàn kiếp. Như thế phước đó có nhiều không?

Tứ Thiên vương bạch Phật:

–Rất nhiều, nhiều đến vô cực thưa Thiên Trung Thiên! Không thể ví dụ.

Phật bảo:

–Nếu có người thọ trì Tam-muội thâp pháp Siêu nhật minh định, sáu Độ không cùng, khéo quyền biến phương tiện này thì phước đó nhiều hơn người kia. Vì sao? Tuy cúng dường hầu hạ chư Phật, nhưng không bằng người vâng thọ pháp điển của Đại Thánh đã di chúc lại. Những người học hạnh của các Bồ-tát đều từ kinh sâu xa mầu nhiệm mà được thành Phật.

Bồ-tát Tuệ Thí bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Pháp này rất sâu xa! Rất sâu xa! Nếu có người tin theo, không chê bai, thì nên biết người này đã được chư Phật gia hộ; còn những ai nghe rồi, mà không vui mừng, còn hồ nghi, chế nhạo, không ghi chép, đọc tụng, tự mình đã không tụng, lại ngăn chặn người khác, không cho tuân học, thì tội này không thể lường, đời đời tự sai lầm, rơi vào ba nẻo. Tự uống thuốc độc, còn cho người khác uống; tự làm nguy ách thân mạng, rơi vào chỗ tối tăm, lại còn làm nguy ách cho người khác. Đại pháp này là đầu mối của các ánh sáng. Bỏ lớn gom nhỏ, tội ương như thế không có hạn lượng, sinh ra cách xa Tam bảo, sống trong tám chỗ. Những gì là tám?

  1. Đất biên cương hẻo lánh.
  2. Ngoại đạo.
  3. Nghèo cùng.
  4. Thấp hèn.
  5. Chết yểu.
  6. Xấu xí.
  7. Bị mọi người ghét.
  8. Sinh làm kẻ man rợ!

Bởi sinh trong tám chỗ trên, cho nên không hiểu chánh pháp, lại sinh ra chê bai, không tin, không thích sự nghiệp Đại thừa. Rốt cuộc rơi vào tám ác không kịp hối!

Phật khen:

–Hay thay! Thật đúng như lời ông nói, không có sai khác. Ta nhớ thuở xa xưa vô số ức kiếp, lúc đó ta phát ý Bồ-tát, mới học xuất gia, lìa dục, được làm Tỳ-kheo, tên là Pháp Lạc, rất ưa thích lối văn tạp cú trau chuốt, chí không thích sự giáo hóa sâu xa mầu nhiệm của Đại thừa, cho đó là giả tạo, không phải là chánh điển của Phật, chỉ nương bốn bộ A-hàm mà cầu quả chứng, dùng lời dạy dỗ cao thượng. Lúc đó, có người học cao tin Đại thừa tên là Trí độ vô cực, giảng “không” không tuệ sâu xa không bờ bến. Vị ấy từ lâu đã tu phạm hạnh, đều cùng đọc tụng, trình bày yếu chỉ, tuyên bố lưu truyền rộng rãi. Bốn chúng đều nghe. Lúc đó, Tỳ-kheo Pháp Lạc ngồi phía trên nghe tụng tuệ phẩm, liền chê bai, cho đó không phải là lời Phật dạy, rồi tự ý chọn sự học tập tu hành riêng mình. Bởi do tội này, nên đọa vào địa ngục lớn, trải qua nhiều kiếp, chịu vô ương thống khổ ở mười tám tù ngục.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu như cõi Phật, kiếp tận, thiêu hoại, thủy tai lan tràn thì sự thống khổ đó, có hết không?

Phật nói:

–Không thể hết. Vì sao? Vì nếu cõi Phật ấy tận, thì dời qua các ngục tù ở cõi Phật khác. Vì sao? Vì đại tôn pháp này là nguồn cội của ba đường, là cha mẹ của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Giả sử có chê bai thì tội ương không bao giờ mất.

Này A-nan! Ông có biết Tỳ-kheo Pháp Lạc thuở đó là ai không?

–Dạ không, thưa Thế Tôn!

–Chính là ta đây. Vì thế cần phải giữ gìn thân, khẩu, ý, chớ ảo vọng chê bai, chế nhạo. Đã đọa đường ác, còn phải chịu tra khảo, đến lúc đó, hối hận cũng không kịp!

Này A-nan! Đời sau, thấy có người học pháp, trí tuệ thông đạt, tuyên giảng Đại thừa, thì đó là đệ tử Phật; chớ có hồ nghi, ghét người cúng dường, chế nhạo cho người đó là vô trí! Bởi do tánh ghét người mà chê bai sự sâu dày của kinh, cho là tuyên nói không đầy đủ.

Ta nay nêu ra một ví dụ: Có cha mẹ, sinh ra hơn mười người

con, anh em ghét nhau và chế nhạo song thân. Như vậy, này A-nan, Người ở đời sau, sẽ ganh ghét bạn đồng học, chê bai chánh pháp, người ấy chịu tội, không thể kể hết, không thể ví dụ.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử, mình tự giác, ăn năn, hối cải lỗi lầm, thì tội ấy sẽ thế nào?

Phật bảo:

–Này A-nan! Nếu ăn năn hối cải, thì tội lỗi của người ấy dần dần nhẹ bớt, tuy về sau có chịu tội, nhưng mau chóng được giải thoát. Vì thế nên tự xét lại chính mình, sửa đổi tâm khẩu, chớ xem nhẹ những lời nói không thật.

Này A-nan! Người thọ trì đọc tụng kinh điển này, diễn nói cho mọi người, truyền bá khắp nơi, phước ấy khó mà lường hết. Các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc đều ủng hộ người học kinh này. Chư Phật Thế Tôn đều ủng hộ. Như sư tử dũng mãnh, các loài cọp, sói, beo, hùm không dám nhiễu hại, người học kinh này cũng vậy, bước đi ra vào luôn được tự tại, chưa từng có ác mộng, trong mộng chỉ thấy tháp Phật. Chí vắng lặng, như bốn hàng Đạo sĩ nói kinh, Trời, Rồng, Quỷ, Thần đều muốn gặp mặt. Chư Phật, Thế Tôn cũng lại như vậy, bốn Đại Thiên vương, Đế Thích, Phạm vương cũng đều muốn gặp và ủng hộ. Bởi do ham thích pháp Bồ-tát sâu dày, Triếp tạng Siêu nhật minh tôn định.

Phật liền nói kệ tụng:

Người học kinh điển này
Chư Thiên đều ủng hộ
Rồng, Thần, A-tu-luân
Chân-đà, Ma-hưu-lặc
Ca-lưu-la, tất cả
Không dám làm nhiễu hại
Oai thần mười phương Phật
Đều cùng đến trao truyền.
Thiên, Đế Thích, Phạm vương
Đại thần tốt các trời
Và hư không giữ đời
Khát khao đều muốn thấy.
Cuộc sống luôn an vui
Chưa từng có thô bạo
Trong mộng thấy chùa tháp
Không thấy nhân duyên ác.
Bản thân hiểu rõ kinh
Thường hay phân biệt nói
Người nghe thông đạt rõ
Không nghi ngờ Đại thừa.
Người không trí ít phước
Không tin chê chánh pháp
Cho giả tạo mà thành
Chẳng phải lời Phật nói.
Do ganh ghét người học
Chế nhạo lời tao nhã
Như anh em ghét nhau
Rồi chê bai song thân.

Lúc đó, có Bồ-tát, tên là Đại Quang bạch Đức Phật:

Bạch Thế Tôn! Sao gọi là quang? Sao gọi là minh?

Phật bảo:

–Này Đại Quang! Hiểu rõ tuệ sáng, tâm như hư không, thấy các việc trong mười phương, quá khứ, vị lai, hiện tại ba đời, không bị trở ngại. Đạt được quyền trí, thần thông mỹ mãn; thấy được cội gốc của tất cả chúng sinh. Không có tưởng nhân duyên quá khứ, vị lai, hiện tại, không ngại bốn đại, không ngại Thiết vi, Đại thiết vi, Bảo sơn; đối với đất, nước, gió, lửa ra vào không ngại. Vì sao? Vì đất đều không, nhập không hiểu đất, đất lại không không, ngã không được như trước; nước không được nhập là vì không. Chuyển tướng khai thông. Như trên thân thể con người, có chín mươi chín vạn lỗ chân lông. Người đã được thần thông không thấy có thân, quán sát nó như hư không, không có trở ngại. Đó gọi là quang.

Thấy tất cả tâm đã sinh, chưa sinh, có chí, không chí tâm đạo, tâm tục, tâm khổ, tâm tận, tâm không nhơ đều hiểu rõ, vì đó mà giảng nghĩa, khiến cho ai nấy đều được như sở nguyện. Đó gọi là minh.

Khi Đức Phật nói pháp này, có vô số Bồ-tát đạt được thần thông, có vô lượng ánh sáng chiếu khắp mười phương.

Này A-nan! Nên thọ trì kinh điển này, tuyên nói, chỉ bày cho những ai chưa nghe, làm cho được lưu truyền, chúng sinh mong được độ để đạt đến chánh chân.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nên thọ trì những điều cần thiết, vậy kinh này tên là gì?

Phật bảo:

–Này A-nan! Kinh này tên là Siêu nhật minh Tam-muội, còn có tên là Thâp định, lời dạy chính xác của Phật thành tựu cho hầu hết. Ví như ánh sáng của mặt trời, chiếu sáng bốn phương, trăm thứ lúa, cỏ cây, vận vật biến hóa, đều nhờ đó mà sinh trưởng, thành thục. Định này cũng như vậy, cứu vớt tất cả sinh tử trong mười phương, năm đường. Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, đại đạo đều do định này mà thành tựu việc cứu độ người. Nếu trong ngàn vạn kiếp, thờ phụng tu hành sáu Độ mà có vọng tưởng thì không bằng người đạt được định Siêu nhật minh này, chiếu được ánh sáng đại tuệ khắp mười phương. Công đức người này, hơn cả người kia.

Phật dạy như vậy, Hiền giả A-nan, các Đại Bồ-tát, các hàng Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân… không ai là không vui mừng đảnh lễ rồi cáo lui.