SỐ 267
KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN
Dịch Phạn ra Hán: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu, đời Lương sao lục
Dịch Hán ra Việt: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 3

Phẩm 4: NÊU RÕ HÀNH TƯỚNG HAI THỪA

Này A-nan! Các Đại Bồ-tát như thế hiện đã thật sự nhận rõ về minh, vô minh; về hành, vô hành; nhận rõ về thức và tướng của thức; về danh sắc và tướng của danh sắc; về sáu nhập và tướng của sáu nhập; về xúc và tướng của xúc; về thọ và tướng của thọ; về ái và tướng của ái; về thủ và tướng của thủ; về hữu và tướng của hữu; về sinh và tướng của sinh; về già chết và tướng của già chết, tu tập hiện thấy gọi là Bích-chi-phật.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đọc bài kệ:

Hiện thấy vô minh
Nên không chỗ biết
Cũng không thành tựu
Như bóng trong nước
Sáng cũng chẳng động
Chẳng đắm mê pháp
Nếu không đắm pháp
Đó gọi tướng sáng.
Vô minh như không
Tướng tất cả pháp
Đều đến hiện thấy
Đó gọi Duyên giác.
Nếu nói các hành
Chẳng trong, chẳng ngoài
Cũng chẳng từ Phật
Mà sinh khởi hành
Hành ấy giả danh
Nhat định chẳng có
Chẳng sinh, chẳng diệt
Giống như hư không.
Đều đến hiện thấy
Bồ-tát không sợ
Đó gọi Chánh giác
Duyên giác khó lường.
Biết tất cả pháp
Đều như huyễn hóa
Biết như huyễn rồi
Đó gọi hiện thấy.
Chẳng bằng thật biết
Hành xứ thức này
Là tướng phân biệt
Biết thức là không.
Biết trí chẳng trí
Tất cả không đắm
Nếu biết các pháp
Thức như huyễn tưởng.
Nhân duyên danh sắc
Đều tướng hữu vi
Thể không quyết định
Cũng không thành tựu.
Xa lìa sáu nhập
Nói tướng sáu nhập
Âm thanh lời nói
Thể tánh đều không
Xúc không nhân duyên
Từ sáu nhập sinh
Nhận rõ xúc ấy
Như huyễn, đều không.
Xúc đó vô thể,
Từ vọng tưởng sinh
Xúc không chân thật
Cũng không chỗ ở
Hiện thấy xúc ấy
Biết không tướng xúc
Đều nên chán lìa
Gọi Bích-chi-phật.
Nếu chứng được thọ
Không bền như bọt
Tánh, tướng đều không
Rốt ráo chẳng thật.
Dứt bỏ ái kết
Được pháp dứt ái
Dứt hết các dục
Đó gọi Duyên giác.
Nhận rõ chấp đắm
Không, chẳng thật có
Như ngọn lửa cháy
Không có thành tựu.
Không có khởi tưởng
Sinh tưởng cũng thế
Biết thể tánh sinh
Vắng lặng, chẳng có
Lìa được già suy
Cũng không sợ chết
Không thành tựu gì
Không thọ thân sau.
Thấu đạt pháp này
Chẳng nơi nương tựa
Dùng tiếng Duyên giác
Thật tu Bồ-tát.

Này A-nan! Nay ông nên biết, Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát phương tiện nói về Bích-chi-phật.

Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan liền đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay hướng về Đức Phật, nói kệ:

Niết-bàn, chẳng Niết-bàn
Cứu độ khắp thế gian
Ví như buộc trong không
Dùng không mà tự mở.
Nếu nói được như thế
Cũng gọi có nói được
Thế Tôn phương tiện khéo
Mà nói pháp dứt chấp.

Tôn giả A-nan nói kệ xong liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh ở thế gian bị ngu si che lấp nên tự khinh mình, không hiểu được ý của Như Lai chỉ dùng giả danh để nói về các pháp như: Tín hành, Pháp hành, tám bậc,… cùng các quả tu như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Duyên giác.

Bấy giờ, Phật bảo A-nan:

–Đối với các Đức Phật quá khứ ông không quên giả danh mà trồng các căn lành, vì khéo hiểu giả danh, nên không bị sự ngu tối cướp đoạt. Vì sao? Vì các pháp giả danh, như huyễn, như bóng dưới nước, như ngọn lửa nóng, như tiếng vang, giả danh như vậy!
Này A-nan! Nay ông nên biết, không để cho các pháp ác xâm hại đến mình. Phải đầy đủ sự trang nghiêm để tự trang nghiêm mình, biết được các pháp là giả danh, do nhân duyên giả hợp, thường luôn ghi nhớ, đầy đủ tinh tấn, nhưng không chấp sự tinh tấn ấy, đừng để quên mất: Đạt được trí tuệ tối thắng nhưng không chấp vào tướng trí tuệ ấy.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Các chúng sinh ngu si
Biếng nhác, trí tuệ kém
Thì không biết giả danh
Phải siêng năng tinh tấn.
Hiểu rõ về giả danh
Biết như thật các ấm
Cứu độ các thế gian
Giúp đạt trí chân thật.
Biết giả danh, không rồi
Tức giác ngộ Bồ-đề
Cũng không được Bồ-đề
Đó gọi là Bồ-đề.
Giả danh là tướng không
Không, chẳng thể biết không
Không chỉ có âm thanh
Lìa tất cả tranh luận
Hiển bày nghĩa như thế
Đối với khong chẳng chấp
Cũng không chỗ để chứng
Vì sao có người được?
Đó gọi là Không Không.

Như vậy, A-nan nên biết! Pháp không rất sâu vô lượng, không sinh buông lung, cũng không để cho mất. Đó gọi là nói đầy đủ về hành địa của Bích-chi-phật. Bấy giờ, trong chúng hội có năm trăm ức đồng, thành vị Tỳ-kheo đều được Tín hành, liền đứng dậy đến trước Đức Thế Tôn nói kệ:

Dứt nghi được chánh trí
Bậc Vô Thượng cứu đời
Thế Tôn nói giả danh
Tín hành trụ Bồ-đề.

Trong chúng lại có năm trăm ức vị Tỳ-kheo đã đạt Pháp hành, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy, sửa lại y phục, cùng nói kệ:

Chúng con dứt nghi, lầm
Nẻo giác ngộ sáng tỏ
Như Lai nói giả pháp
Pháp hành trụ Bồ-đề.

Trong chúng lại có mười ức vị Tỳ-kheo đã đạt tám bậc, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, đồng nói kệ:

Con trước dứt nghi hối
Tu tám bậc đã lâu
Như Lai nói giả danh
Tám bậc trụ Bồ-đề.

Trong chúng lại có mười ức vị Tu-đà-hoàn nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, cùng nói kệ:

Con nay nhờ ánh sáng
Bậc Thánh chúa cứu đời
Biết pháp do Phật nói
Mở bày về giả danh.

Trong chúng lại có hai trăm lẻ năm vạn vị Tỳ-kheo đã chứng quả Tư-đà-hàm nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đều nói kệ:

Con trước vốn chấp đắm
Mà được Tư-đà-hàm
Nay dứt các vọng tưởng
Vắng lặng không đùa bỡn.

Trong chúng lại có mười ức vị A-na-hàm nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đều nói kệ:

Bậc Vô Thượng cứu đời
Nay con dứt nói suông
Đã nhổ sạch tưởng quả
Đạo giác ngộ chiếu sáng.

Trong chúng lại có ba mươi lăm ức vị Tỳ-kheo đều trụ trong bốn Thiền đắc quả A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật cùng nói kệ:

Nay con đã lìa cấu
Tự chứng đắc Vô dư
Các thừa nhập Nhất thừa
Như huyễn, không quyết định.

Trong chúng lại có hai muôn vị Tỳ-kheo, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật cùng nói kệ:

Con vốn thích nói suông
Thế Tôn nói giả danh
Tự gọi là Thanh văn
Trụ nơi pháp giả danh.

Trong chúng lại có năm ngàn vị Tỳ-kheo trụ trong Bích-chiphật thừa nghe bài kệ ấy rồi liền đứng dậy, đến trước Phật, đều nói kệ:

Nay con được hiện thấy
Vì Duyên giác Bồ-đề
Như Lai nói giả danh
Duyên giác không nghĩ bàn.

Trong chúng lại có năm muôn vị Tỳ-kheo-ni, chấp tưởng về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, cùng nói kệ:

Nguyện cho tướng người nữ
Đều nhập pháp bình đẳng
Thế Tôn nói không khác
Giác ngộ là Tối thượng.

Trong chúng lại có tám trăm ức muôn vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều có ý tưởng về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán, nghe xong bài kệ ay liền đứng dậy đến trước Phật đồng nói kệ:

Con nay tâm không cấm
Tịnh như ngọc lưu ly
Nay mới gọi xuất gia
An trụ trong Phật pháp.

Bấy giờ, trong hư không có đến sáu mươi ức na-do-tha các vị trời tung rải hoa Mạn-đà-la cõi trời lên chỗ Phật để cúng dường rồi đến trước Phật, nói kệ:

Con trước chấp tưởng thừa
Tham đắm các quả vị
Nay các quả đều bỏ
Mới giác đạo Bồ-đề.

 

Phẩm 5: DỨT TRỪ CÁC TƯỞNG

Lúc bấy giờ, trong chúng lại có vô lượng trăm ngàn vị A-lahán, đứng đầu là các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, A-na-luật, A-nâu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề… đứng dậy, sửa lại y phục, đến trước Đức Thế Tôn, cúi mình cung kính bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay xin phát nguyện chân thật lìa tất cả vọng tưởng, phá dẹp chúng ma, gồm đủ cả năm tội nghịch và năm thứ dục lạc, đầy đủ tà kiến, lìa bỏ chánh kiến, đoạn mạng vô lượng chúng sinh. Hôm nay chúng con sẽ làm cho chúng đều thành Bồ-đề, nhập vào Niết-bàn vô dư.

Lúc này, Đức Thế Tôn im lặng, vô lượng trăm ngàn vị trong hội nghe các Tôn giả nói như thế, đều sinh tâm nghi ngờ: “Vì sao các bậc Trưởng lão ấy lại nói như vậy? Hiện giờ chúng ta đều mờ mịt không thể hiểu nổi. Các vị đó đều là bậc A-la-hán mà còn nói như thế, huống chi là hạng phàm phu.” Tất cả đều ngồi một chỗ khong dao động, không thể đứng dậy được, nếu có người đứng thì cũng chẳng thể ngồi, đều nói rằng vì sao các Tôn giả lại nói như thế?

Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền vì đại chúng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, do năng lực thần thông của Phật nên tự biết tâm mình và biết tâm người khác liền hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Hiện tại, trăm ngàn ức vị trong đại chúng như thế nghe các vị A-la-hán nói những lời vừa rồi, đều sinh tâm nghi ngờ. Kính mong Bồ-tát hãy phân biệt nói rõ nguyên do cho tôi được nghe.

Lúc này, Đức Như Lai vẫn im lặng. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Tôn giả A-nan:

–Đây là Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển, vì thấy nhân duyên của các Đại đức mà nói như vậy:

Tôn giả A-nan nói:

–Kính thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Địa vị không thoái chuyển là Bồ-tát chăng?

–Đúng vậy, địa vị không thoái chuyển là các Đại đức Bồ-tát.

Tôn giả A-nan hỏi:

–Vì sao các Tôn giả lại nói những lời như thế?

Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Tôn giả A-nan:

–Vô minh là mẹ, từ hành sinh ái, rốt ráo diệt hết, trừ hết oán hại. Vọng tưởng điên đảo là cha, xa lìa điên đảo, dứt bỏ ái dục, chứng A-la-hán, vững chắc không mất. Dứt sạch những ý tưởng của phàm phu, và ý tưởng của Tăng. Tưởng ấy đã diệt thì tu tập được tất cả các pháp tưởng bất hoại, cho đến không chấp vào ý tưởng về Như Lai, tu tập vô sinh, rốt ráo lìa hẳn.

Này Tôn giả A-nan! Các Đại đức ấy nói: “Hôm nay chúng con làm thế nào có đầy đủ năm tội nghịch. Vì sao? Vì không còn ý tưởng về đến, đi cho nên gọi là đầy đủ năm tội nghịch.”

Lại nữa, này A-nan! Năm dục là gì? Vì các vị Tỳ-kheo này biết rõ năm dục như mộng, như huyễn, như chùm bọt trên mặt nước, như âm vang của tiếng gọi. Trí tuệ như vậy đầy đủ. Thế nào là trí tuệ đầy đủ? Vì các pháp vốn không thêm không bớt. Thế nào là năm dục? Vì năm dục cũng không thêm không bớt. Vì sao? Vì năm món dục lạc như thế, rốt ráo là vô thể vô tướng, biết như thật rồi tức tướng của năm dục, chứng được trí tuệ. Cho nên gọi là đầy đủ năm món dục lạc. Vì ý nghĩa đó mà các vị Đại đức nói như vậy, nay con đầy đủ năm dục.

Này Tôn giả A-nan! Thế nào là đầy đủ tà kiến, lìa bỏ chánh kiến? Đối với tất cả các pháp đều chấp thủ vướng mắc thì đó là tà kiến. Tà kiến ấy chính là những ý tưởng hư vọng. Tất cả các pháp đều không nương dựa, cũng không phải là không nương dựa. Ví như hư không chẳng có chốn trở về, cũng không chỗ nương dựa. Vì sao? Vì tất cả các pháp không có thật để chứng đắc, nên nhận thức như vậy, tất cả pháp đều bình đẳng. Dứt trừ các ý tưởng ấy thì đó là chánh kiến. Vì sao? Vì các ý tưởng ấy đều là những ý tưởng ác. Do ý nghĩa đó mà các Đại đức Tỳ-kheo không vướng vào các tưởng ấy cũng không vướng vào các tưởng ác. Vì sao? Vì dứt sạch hết tất cả tưởng. Đó chính là sự giác ngộ của Phật. Đạt được giác ngộ như vậy nhưng cũng không thấy một chút pháp có thể chứng được. A-nan! vì nhân duyên ấy mà các vị Đại đức Tỳ-kheo đã nói rằng xa lìa chánh kiến, đầy đủ tà kiến.

Này A-nan! Vì sao các vị Tỳ-kheo ấy lại nói: “Hôm nay chúng con thật đoạn mạng hàng trăm ngàn chúng sinh”. Lúc các vị trưởng lão nói ra lời ấy, có hàng trăm ngàn muôn ức các vị trời nghe nói như vậy đều liền chứng được pháp giải thoát, như mộng, như huyễn, như bóng đáy nước, như âm vang của tiếng gọi. Hiểu được như thế rồi liền cắt đứt được những ý tưởng về thọ mạng của chúng sinh, của trượng phu, và của những hạng người khác, cũng tưc là được giải thoát, không có gieo trồng căn lành Bồ-đề, tất cả các pháp đều không phát khởi, không tạo tác, không tu tập. Nghe nói giả danh thì liền tin tưởng sâu xa không chút nghi ngờ. Các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… đều đoạn trừ các tưởng về thọ mạng của chúng sinh, của trượng phu, và những hạng người khác. Dứt được tưởng ấy rồi thì không còn trở lại thọ nhận bao kiếp sinh tử nữa. Vì sao? Vì đã dứt được các tưởng về thọ mạng của chúng sinh, trượng phu, người, quỷ đói… vì còn ý tưởng ấy nên phải thường chịu sinh tử, nếu lìa được tưởng ấy thì liền rốt ráo tự chứng vô sinh. Do nhân duyên đó mà các Đại đức đã dùng phương tiện như thế khéo nói về giả danh, là đoạn mạng vô lượng chúng sinh. Cho nên nói rằng đầy đủ chứng được sự giác ngộ của Phật: Hôm nay chúng con ở nơi Niết-bàn Vô dư, mà Bát-niết-bàn, được tướng tốt của Phật, từ đấy mà giáo hóa vô lượng tram ngàn muôn ức chúng sinh, diệt các kết sử như Phật đã chứng đắc. Vì sao? Vì đã giúp cho các chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được pháp Nhẫn vô sinh rồi thì giúp đạt được giác ngộ, nhưng cũng khong xả bỏ phiền não, chẳng gần gũi Phật pháp, từ ý sinh phiền não, dứt hết không còn. Do nhân duyên ấy mà các vị Đại đức đều nói là nay con đạt được giác ngộ.

Này Tôn giả A-nan! Cho nên hôm nay gọi là vô sinh. Vì sao? Vì như các thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiểu rõ các pháp, phát tâm Bồ-đề rồi cũng không thật có, lìa tướng giác ngộ và tướng tất cả pháp ở Niết-bàn Vô dư mà nhập Niết-bàn.

Này Tôn giả A-nan! Các vị nam, nữ trong dòng họ của Đức Như Lai nương Bồ-tát thừa, không vì thấy mặt trời mà cho là ban ngày. Kẻ phàm phu ngu si nếu khi thấy mặt trời thì liền cho là ban ngày, cho nên chẳng phải người hiểu biết. Vì sao? Này A-nan! Vì nếu ban ngày là có thể chẳng phải hư vọng, thì có thể chứa nhóm, vì là hư vọng. Do vậy, cũng không có quá khứ, vị lai. Đối với ban đêm cũng như thế. Nếu ban ngày mà tưởng ban ngày, ban đêm tưởng ban đêm thì là cái thấy của phàm phu vọng tưởng.

Này A-nan! Đó là Bồ-tát thừa, tu tập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác Thiện tri thức, không nên ban ngày mà sinh ý tưởng là ban ngày, ban đêm sinh ý lên tưởng ban đêm. Vì sao? Vì họ đã xa lìa bỏ tất cả các tưởng, an trụ trọng đạo giác ngộ của Đức Như Lai.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền nói kệ:

Vô minh chính là mẹ
Từ hành mà dấy khởi
Nếu dứt được gốc rễ
Đó gọi là trừ hại.
Ưa thích tưởng điên đảo
Đó được gọi là cha
Nếu biết được như thật
Rốt ráo không thật có,
Biết đó đều hư vọng
Thì dứt được gốc rễ
Không duyên cũng không trụ
Đó gọi là trừ hại.
Nếu nói các La-hán
Phàm phu chẳng nghĩ bàn
Tướng như thật bất hoại
Diệt ấy gọi rốt ráo.
Ta vốn đắm tưởng tăng
Nay biết như thật rồi
Các pháp đều không mất
Cũng khiến tất cả nghe,
Trước chấp lấy Như Lai
Đó gọi là hư vọng.
Biết kia, không tưởng khác
Bình đẳng, đều là không
Nhổ dứt những cội rễ
Đó gọi trí Vô sinh.
Nếu nói được như thế
Hiển bày sức Thiền định
Nếu nói đủ các dục
Năm tên gọi như vậy,
Xa lìa tưởng như thế
Giống như giấc mộng huyễn
Không thêm cũng không bớt
Đó gọi là năm dục.
Trước nhằm để cứu đời
Nên nói lời như thế
Biết dục bản tánh không
Giống như tướng mộng hóa
Rốt ráo không có sinh
Đầy đủ trí như thật
Như các lỗi tà kiến
Hư vọng khởi phân biệt
Dùng trí rốt ráo này
Tất cả đều đầy đủ.
Hư vọng không chấp đắm.
Xa lìa tướng hòa hợp
Khéo biết như vậy rồi
Không tướng, không thật có
Cùng biết tất cả lỗi
Tà kiến và chánh kiến
Đạt đến pháp chân thật
Tướng tà, chánh đều diệt
Tưởng chúng sinh sinh tử
Ngu si vọng phân biệt
Nếu không có chúng sinh
Thì không có sinh tử
Chúng sinh nhiều phương tiện
Lìa bỏ tưởng về mạng
Xa lìa tưởng ấy rồi
Biết tưởng mạng ác nhất
Nếu lìa tưởng chúng sinh
Phân biệt thọ mạng thảy
Đoạn mạng nhiều chúng sinh
Là lời vị ấy nói
Lìa bỏ ý tưởng chết
Kẻ ngu si phân biệt
Rốt ráo được vô sinh
Đó gọi là pháp thật.
Dứt bỏ các kết sử
Thì chứng đắc vô tướng
Giác ngộ không hình sắc
Không diệt cũng không quả
Ma oán không ngăn được
Tự giác nơi Bồ-đề
Các pháp dứt hý kuận
Tánh vô sinh vắng lặng.

Bồ-tát Văn-thù nói kệ xong thì có vô lượng trăm ngàn chúng sinh như thế dứt được các mối nghi ngờ hối hận, nhờ đó tâm sinh vui mừng, được pháp sáng tỏ, mỗi người đều cởi y phục quý giá trên người mình để dâng lên cung dường Bồ-tát và cùng thưa:

–Bồ-tát đã giúp cho chúng tôi đều được pháp này, nên nói lời ấy cũng giúp cho chúng sinh tâm chứng được các pháp, đều được thật tướng như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã giải thích.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao trăm ngàn muôn ức chúng sinh như thế đều sinh tâm nghi ngờ hối hận? Vì sao Như Lai không tự mình nói rõ để họ dứt bỏ được mối nghi ngờ hối hận ấy?

Phật bảo A-nan:

–Trăm ngàn muôn ức chúng sinh như thế đều từ nơi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà phát tâm Bồ-đề, nhờ Bồ-tát mà được điều phục.

Tôn giả A-nan lại hỏi:

–Họ đều được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?

Đức Phật dạy:

–Đúng vay, này Tôn giả A-nan! tất cả chúng sinh đều không lui sụt đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì họ đều được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi làm bậc Thiện tri thức.

Tôn giả A-nan nói:

–Các Tỳ-kheo ấy đã đạt được Tín hành, Pháp hành, Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật, đã dứt hết các tưởng, thì đều không lui sụt đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?

Đức Phật nói:

–Có người khó tin đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có những kẻ trí tuệ ít ỏi căn trí thấp kém, có những kẻ biếng trễ, lười nhác thiếu tinh tấn, ham thích ăn uống, gần gũi năm thứ dục lạc, thích những chốn ồn ào đông đúc, tâm không muốn xa lìa, quên mất chánh niệm, trở thành kẻ không trí tuệ, tâm không chánh định, thường sợ hãi, tán loạn. Có những kẻ tăng thượng mạn, có những kẻ chấp đắm tăng thượng mạn họ tham đắm đối với thân mình, thích sống lâu, không quán sát vô thường, thường tham lam, ganh ghét, ngu si, vô trí, phá hủy giới cấm, sinh tâm muốn não hại người. Đối với Phật pháp thì thường khởi tâm nghi ngờ, hay nghe theo hạng vô trí, gần gũi bạn xấu, xa lìa ban hành, cũng không cung kính bạn lành, không chịu học theo Trí tuệ ba-la-mật, không tu tập các pháp Tổng trì là pháp đứng đầu các kinh, luôn dấy khởi vọng kiến, chấp thủ vọng kiến, gặp thầy tà ham thích y bát. Đối vơi các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, tâm không cung kính, cũng chẳng thích gần gũi. Về các giờ giấc tu tập vào lúc đầu hôm, nửa đêm hoặc gần sáng, tâm thường sinh biếng nhác. Thường nói lời hai lưỡi khó tin, ưa thích nói dối, ác khẩu, tham ganh, gần gũi những người tà kiến, học theo tà kiến, rồi thì thường tu tà quán không thích học giới. Tâm không biết xấu hổ, không biết sợ sệt, gần gũi hạng ngu si, thích làm theo ngoại đạo, không tin ba cửa giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô sinh vô diệt. Đối với tất cả pháp không sinh tín tâm…

Này A-nan! Những người như thế khó có thể tỏ ngộ.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn vẫn im lặng.

Tôn giả A-nan nương năng lực thần thông của Phật, hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Vì sao Đức Như Lai im lặng như thế?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Vào thời kỳ mạt pháp, ở những đời vị lai có nhiều chúng sinh tâm địa như vậy, họ không tin chánh pháp, cũng không thể hiểu rõ chánh pháp. Do vậy mà Đức Thế Tôn im lặng.

Tôn giả A-nan nói:

–Lại có chúng sinh tin tưởng chánh pháp không?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Cũng có chúng sinh ít có long tin. Này A-nan! Ít người biết được chánh pháp là quý giá, còn phần đông thì không biết. Này Anan! Ít có chúng sinh có khả năng tin hiểu. Nói pháp như thế khắp các thành ấp xóm làng, có nhiều chúng sinh đều lìa bỏ chang tin. Vì sao? Vì những chúng sinh đó do nhân duyên đời trước vốn gây ra tội chướng bài báng đạo pháp.

A-nan nói:

–Kính mong Bồ-tát vì những chúng sinh đó khiến cho họ được tin hiểu chánh pháp.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Tôn giả nên hỏi Đức Phật, Đức Phật sẽ vì Tôn giả mà phân biệt giải thích.

Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giải thích cho con hiểu, các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai tuy sự hiểu biết và tin tưởng còn ít, nhưng nếu được nghe Phật giảng dạy sẽ rất vui mừng.

Lúc này, Đức Thế Tôn liền nhìn khắp bốn phía rồi hiện tướng lưỡi dài che phủ cả tam thiên đại thiên thế giới. Từ lưỡi ấy phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp các thế giới Phật nhiều như số cát sông Hằng. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc và hai phương trên, dưới đều như thế, mỗi phương đều có thế giới Phật nhiều như số cát sông Hằng.

Lúc ấy, bốn chúng nhờ năng lực thần thông của Phật nên cũng trông thấy các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng ở phương Đông, đồng nói pháp này. Cũng đều xa nghe không thêm không bớt. Như vậy lần lượt các thế giới trong mười phương cũng lại như thế, đại chúng đều trông thấy và được nghe các Đức Phật ở các cõi đó nói pháp giống như ở phương Đông. Được thấy và nghe xong, đại chúng đều nhất tâm khuyến thỉnh Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kính mong Thế Tôn rủ lòng Từ bi thương xót, phân biệt giảng nói lại cho chúng con hiểu. Chúng con nhờ thần lực Phật được thấy vô lượng, vô biên không thể tính kể các Đức Phật giảng nói chánh pháp. Chánh pháp ấy không thêm không bớt, không thể nghĩ bàn. Kính mong Thế Tôn hãy giảng nói về pháp ấy!

Lúc này, Đức Thế Tôn liền thu lưỡi về rồi bảo Tôn giả A-nan:

–Lẽ nào có những kẻ nói dối mà có thể có được tướng lưỡi như vậy chăng?

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không! Nếu có người nói lời chân thật, mềm mỏng, có nhiều sự hiểu biết, lời nói khéo điều hòa, nhu thuận, làm lợi ích, Từ, Bi, Hỷ, Xả như vậy…, cho đến bậc Nhất thiết trí mới có được tướng lưỡi như vậy. Cúi mong Đức Thế Tôn, vì các vị nam, nữ trong dòng họ của Đức Như Lai có ít lòng tin mà phân biệt giải thích, cũng vì thương xót đối với những ai chưa hiểu mà giảng nói, sẽ khiến cho hạng người ấy sinh tâm hối hận.

Bấy giờ, Phật bảo A-nan:

–Bốn chúng đã nhóm họp, ngồi ngay ngắn cùng với tám bộ là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… các vị đến ngồi nghe pháp, tâm đều không thoai chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị sẽ ở nơi cõi này mà giảng nói chánh pháp, không thêm không bớt, giống như pháp ta hiện đang nói.

Bấy giờ, bốn chúng và Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Atu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… đều sinh tâm vui mừng nên cùng nhau cởi nhưng tấm y quý giá trên người mình dâng lên Đức Phật. Có người tung rải hoa, có người tung rải tràng hoa, co người dùng các thứ chuỗi vàng, bạc, lưu ly, pha lê, mã não, có người dùng các thứ chuỗi Tỳ-lô chiên-đàn, có người dùng các loại hoa như Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạnthù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa, có người dùng các thứ hoa do mình làm ra, tất cả đều tung rải lên chỗ Phật. Có người dùng các thứ hoa Ưubát-la cõi trời, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi… để tung rải lên chỗ Đức Phật. Trong hư không, nhạc trời tự nhiên hòa tấu vang lừng. Cac vị Long vương thì tung rưới ngọc quý. Các phụ nữ thì dùng những xâu chuỗi ngọc cùng các thứ y phục quý giá dâng lên cúng dường Phật. Xong, tất cả các tín nữ ấy đều sửa lại y phục ngay ngắn, quỳ gối bên phải chạm sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cùng nhau bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai không hai.

Lúc bấy giờ Phật bảo A-nan:

–Đúng thế, đúng như lời họ vừa nói! Đức Như Lai không hai, đã dứt sạch ngu si. Như Lai, Thế Tôn không hề có tiếc lẫn, không còn mảy may lỗi lầm, vì đã lìa mọi tội lỗi, lìa bỏ mọi thứ dục lạc và tất cả phiền não, được thanh tịnh không cấu nhiễm. Mọi thứ kiêu mạn tham lam, ganh ghét đều trừ sạch không còn đầy đủ trí tuệ, giác ngộ chánh pháp, đạt đến bờ giải thoát. Như bậc Đại phạm được tự tại hoàn toàn oai nghi đầy đủ, các hạnh rốt ráo, được bốn thứ đầy đủ, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, không còn chấp đắm vào các pháp hữu vi, vô vi, không nhiễm sinh tử, theo Phật, Thế Tôn được giải thoát chân chánh, được đầy đủ tri thức, không hề thiếu sót hay mất mát, đầy đủ sự gần gũi.

Tôn giả A-nan thưa:

–Thế nào gọi là Như Lai được đầy đủ tri thức không thiếu sót, mất mát? Thế nào gọi là đầy đủ nghe Phật, đầy đủ thấy Phật, đầy đủ gần gũi?

Phật bảo A-nan:

–Ông không rõ ư?

Tôn giả A-nan thưa:

–Con thật sự không rõ.

Phật dạy:

–Bây giờ ông hãy lắng nghe, ta sẽ giải thích cho ông hiểu.

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giải thích cho con hiểu.

Đức Phật dạy:

–Này A-nan! Giờ đây ông nghe ta là Phật Thích-ca Mâu-ni, đã nghe, sẽ nghe như vậy… thì đều được không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì tất cả pháp thân nếu được giảng nói thì người thấy nghe đều được lợi ích.

Này A-nan! Nếu cúng dường Như Lai một cành hoa và sau khi ta nhập Niết-bàn, vì xá-lợi Phật mà xây tháp cúng dường thì cũng được không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tôn giả A-nan thưa:

–Cho đến loài súc sinh, nếu được nghe danh hiệu Phật, thì cũng được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ư?

Đức Phật dạy:

–Này A-nan! Nếu có người chỉ được nghe âm thanh Phật Thích-ca Mâu-ni rồi xưng niệm danh hiệu ấy thì đều là hạt giống của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu các thiện nam, thiện nữ được nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni thì cũng đạt được những điều như đã nói, hoàn toàn là chân thật không hư dối.

Này A-nan! Ví như cây Ni-câu-đà, tàng cây tỏa rộng có thể che phủ cho một, hai, ba, bốn người, cho tới năm mươi, một trăm, một ngàn hoặc nhiều hơn nữa đi đến dừng nghỉ? Dưới bóng cây ấy, vậy thì theo ý ông, cây Ni-câu-đà con ấy lúc mới đem trồng là lớn hay nhỏ?

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, rất nhỏ!

Phật bảo A-nan:

–Cây Ni-câu-đà ấy nhờ mưa, nước, phân bón, đất đai, sức người cùng các trợ duyên khác qua năm tháng dần dần cao lớn.

Tôn giả A-nan thưa:

–Đúng vậy, bạch Thế Tôn!

Phật bảo A-nan:

–Cây Ni-câu-đà vốn rất nhỏ, nhờ đất, nước, thời gian cùng bao nhân duyên khác dần dà cao lớn. Như thế, này A-nan! Cũng như vậy, người được nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni thì hạt giống căn lành đó không bao giờ bị mất đi, không còn thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng giống như thế. Vì sao? Vì hạt giống vô tướng không trụ ở tất cả nơi, cho nên không bị hư thối. Do không bị hư thối nên hạt giống ay cũng không thể bị hủy hoại, cũng không giữ được hình tướng của nó. Cho nên đối với tất cả pháp đều không bị mất đi.

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đó là năng lực bản nguyện của Đức Như Lai hay là tất cả pháp của các Đức Phật cũng đều như thế?

Phật liền đáp:

–Do năng lực bản nguyện. Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu ta thì đều không bị thoái chuyển trên đường tiếng đến quả vị

Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Pháp của tất cả các Đức Phật cũng đều như vậy. Vì sao? Vì pháp của tất cả Phật đều bình đẳng.

Tôn giả A-nan thưa:

–Pháp của tất cả Phật bình đẳng có lợi ích gì?

Đức Phật dạy:

–Đó là có thể khiến cho chúng sinh tuy không nghe chánh pháp nhưng nhờ năng lực phát nguyện nên cũng khiến được cùng nghe pháp và đạt được lợi ích.

Bấy giờ, A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai thành tựu pháp chưa từng có, có khả năng đem lại lợi ích lớn lao cho các vị Đại Bồ-tát không?

Phật dạy:

–Đúng thế, này A-nan! Nay ta làm lợi ích lớn lao cho chúng sinh. Nếu người nào nghe pháp thì đều được sống trong ruộng phước lợi ích. Trong thời quá khứ ta đã cúng dường các Đức Phật, không he tiếc rẻ thân mạng, tất cả đều xả bỏ, lìa mọi tham lam ganh ghét, siêng tu tinh tấn, các căn thanh tịnh, đối với tất cả các pháp không chấp không đắm, không hề nương tựa. Cho nên, này Anan! Ta đã đạt được giác ngộ, có khả năng đem lại lợi ích lớn lao cho tất cả chúng sinh.

 

Phẩm 6: HÀNG PHỤC CÁC MA

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Thế Tôn giảng nói Pháp luân không thoái chuyển này làm cho ác ma không thể đến quấy nhiễu phá phách, vì sao vậy?

Đức Phật nói:

–Đó là do năng lực thần thông của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khiến cho Ma vương Ba-tuần không thể nghe được.

Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền phát lời thệ chân thật, khiến cho ác ma nghe được âm thanh trong hư không Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang chuyển Pháp luân không thoái chuyển.

Bấy giờ, ma vương Ba-tuần cảm thấy rợn người, tâm sinh kinh hãi, liền nói:

–Thấy thế giới này đều chẳng còn là thế giới.

Thế rồi buồn bã khóc lóc biến thành một lão già, như người trăm tuổi, tóc bạc, mặt nhăn nheo, thân thể tiều tụy lụ khụ. Lúc này, Ma vương liền nhóm họp bốn thứ ma binh và các thứ ma ở cõi trời, đều đến chỗ Đức Phật, cũng như khi Đức Như Lai mới thành đạo, chúng sửa soạn các thứ binh khí hăm hở kéo đi, nhưng mỗi người thấy thân mình đều là những người già suy, như người trăm tuổi thân thể lom khom. Chúng cầm khí trượng đi đến trước Phật.

Bấy giờ, bốn thứ binh và các vị trời trong hư không đều nghe Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chuyển Pháp luân không thoái chuyển, khiến chúng không thể tiến tới được, liền đứng qua một bên, lòng kinh hãi nghi ngờ, thảy đều không còn theo sự sai khiến của Ma vương nữa.

Khi ấy, Ma vương một mình, đi đến chỗ Phật, không còn bè bạn, bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hiện giờ tôi đã già suy quá đỗi, mong được Thế Tôn thương xót giúp cho kẻ tay chân. Những cõi nước trước kia vốn là của tôi thì nay đều chẳng còn là của tôi. Như Lai là Đấng Đại Bi luôn thương xót tất cả chúng sinh, lẽ nào không giúp cho tôi một người để làm tay chân hay sao?

Đức Phật bảo Ma vương Ba-tuần:

–Ta xem chúng sinh trong các coi rất nhiều, ví như cát sông Hằng không thể lường tính được. Giá như ngày ngày đều có các Đức Phật xuất hiện và độ vô số chúng sinh đạt đến giải thoát thì dù trải qua một kiếp hay hơn một kiếp cũng không thể khiến cho số lượng chúng sinh ấy giảm bớt.

Ma vương bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh các loài tuy nhiều vô lượng, nhưng tôi hiện không có được một người để có kẻ hầu hạ giúp đỡ, nếu có bị vấp té thì lấy ai giúp đỡ? Nên kính mong Đức Như Lai từ bi thương xót an ủi vỗ về khiến tôi được vui vẻ trở về cõi trời cùng các quyến thuộc.

Đức Phật bảo:

–Chúng sinh điên đảo chẳng tin chánh pháp đều là quyến thuộc của ngươi, đó chính là tay chân cua ngươi, là bạn bè của ngươi!

Ma vương Ba-tuần nghe nói như vậy rất vui mừng, nói:

–Bây giờ tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh không phát khởi lòng tin mà lại luôn sinh nghi ngờ. Đã rơi vào nghi ngờ thì đều là vây cánh của tôi cả.

Nghĩ vậy, Ma vương liền bạch Phật:

–Kính mong Thế Tôn an ủi, chỉ dạy một lần nữa khiến tôi được vui mừng. Như Phật đã dạy là: Nếu như có chúng sinh nào được nghe và xưng niệm danh hiệu Phật thì đều được không lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vây kính mong Như Lai nên yên lặng đừng nói về Pháp không thoái chuyển ấy. Nếu có chúng sinh nào được nghe danh hiệu Phật thì các chúng sinh đó sẽ siêng năng tinh tấn tu đạo Bồ-đề. Kính mong Thế Tôn an ủi, chỉ dạy như thế!

Bấy giờ, Đức Phật bảo ma vương Ba-tuần:

–Ngươi chớ nên buồn khổ, nên vui mừng mà trở về cõi trời. Nay ta sẽ khiến cho không một chúng sinh nào phát tâm Bồ-đề. cũng khiến cho không một chúng sinh nào nhận thức hiểu biết về thế giới chúng sinh, cho đến không một chúng sinh về năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhận thức hiểu biết về thân kiến, nghi, giới, thủ… Cũng không có chúng sinh nào có ý tưởng nhận thức về quá khứ, hiện tại, vị lai. Cũng không một chúng sinh nào đối với các tội như sát sinh, trộm cắp, dâm dật, nói dối, nói lời hai lưỡi, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt, tham dục, giận tức, tà kiến mà nhận thức tìm hiểu để trừ bỏ. Cho đến không thấy chúng sinh nào đối với các thứ tà vạy sai lầm mà có thể nhận thức để xa lánh. Ta cũng không thấy chúng sinh tu tập sáu pháp là Bo thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Không thấy chúng sinh sẽ dứt hết mọi ý tưởng về chúng sinh, thọ mạng, cha mẹ, anh em, vợ con, nam nữ, ngày đêm, một tháng, nửa tháng, vài năm, một kiếp… Các ý tưởng về Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, về lực Vô úy, năm Căn, bảy Giác ý, tám Chánh đạo, các ý tưởng về Phật, Pháp, Tăng, về Bồ-đề, vô ngại, tất cả các pháp bất động. Nói chung là không có một chúng sinh nào đối với các ý tưởng ấy mà có thể nhận thức tìm hiểu để học hỏi tu tập.

Này ma vương Ba-tuần! Ngươi chớ sinh lo buồn, hãy vui mừng mà trở về.

Lúc này, ma vương Ba-tuần nghe Phật nói thế tức thì không còn lo buồn, lòng đầy vui mừng, ngay lúc ấy liền trở lại thành một chàng trai, liền tung rải hoa trời lên chỗ Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, lại đến trước Phật nói kệ:

Giờ tâm tôi vui mừng
Bậc Chánh Giác cứu đời
Lời Phật nói không khác
Chân thật chẳng luống dối.

Ma vương Ba-tuần nói bài kệ ấy xong, vui mừng ra đi, trở về cung trời, vui chơi năm thứ dục lạc, không còn dấy khởi tâm quấy phá, nhiễu loạn nưa.

Ma vương vừa đi không bao lâu, tức thì mặt đất rung chuyển sáu cách. A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nay vì sao mặt đất này rung chuyển sáu cách như vậy. Đâu phải là năng lực của ma?

Đức Phật nói:

–Đó là do năng lực thần thông của ta đã đuổi trừ được ma khiến cho mặt đất này rung chuyển sáu cách như thế. Lúc này, có đến sáu mươi bốn trăm ngàn chúng sinh được pháp Nhẫn vô sinh, do đó mà mặt đất rung chuyển đủ sáu cách như thế.

A-nan bạch Phật:

–Có chúng sinh nào khởi tâm nghi ngờ không?

Phật bảo:

–Có tới mười ức người sinh tâm nghi ngờ, họ cho rằng, hôm nay chúng ta ở đây không có nghe lầm chăng? Thế rồi tâm ý đều rối loạn mê mờ, không còn biết bốn phương, không biết mình từ đâu đến… đó là do si mê, tăm tối nên không thấy nhau.

A-nan bạch Phật:

–Cúi mong Thế Tôn hãy mau thương xót, giúp cho các chúng sinh ấy tâm ý được trở lại sáng suốt thông tỏ, lìa bỏ mọi nghi hoặc.

Đức Phật dạy:

–Pháp tướng giả danh do Như Lai nói. Nếu không biết được thì đều đọa vào địa ngục.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai khiến cho Ma vương tâm hết lo buồn, vui mừng mà ra đi. Như Lai lại nói là không có một ai an trụ nơi đạo Bồ-đề, cũng không có một chúng sinh nào có thể nhận thức hiểu biết về thế giới chúng sinh, đối với năm ấm, về thân kiến, về sáu mươi hai thứ kiến chấp thường đoạn hữu vô, về quá khứ, hiện tại, vị lai các thứ tướng, cũng không có một chúng sinh nào đối với tội lỗi như sát sinh, trộm cắp, dâm dật, nói dối, nói lời ác độc, nói lời hai chiều, nói lời thêu dệt, tham lam, sân hận, si mê, ta kiến… mà biết nhận thức tìm hiểu để dứt trừ. Vì sao Như Lai lại an ủi chỉ dẫn ma vương Ba-tuần như thế mà cho rằng: không có chúng sinh tu tập hạnh Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Cũng không có chúng sinh có ý tưởng về thọ mạng, về cha mẹ, vợ con, anh em, nam nữ, ngày đêm, một tháng, nửa tháng, nhiều năm, thời tiết, nhiều kiếp… Vì sao Như Lai nói như thế là an ủi Ma vương Ba-tuần khiến chúng hết lo buồn, vui mừng mà ra đi. Lại cũng không có chúng sinh nào nhận thức để tìm hiểu, tu tập về tâm Bồ-đề, về các Căn, Lực, Vô úy, Giác ý, Đạo, Phật, Pháp, Tăng…

Kính mong Thế Tôn vì chúng đệ tử hiện có nơi chúng hội này mà nêu rõ soi sáng, khiến cho tất cả chúng sinh ở đời vị lai cũng được hưởng công ân soi sáng chỉ dạy ấy. Đã được thông tỏ thì đối với pháp này sẽ được lần lượt tiếp nối, phát huy không để cho bị gián đoạn, mai một. Nếu có chúng sinh nào phát tâm quyết chí tin tưởng lãnh hội thọ trì pháp này thì sẽ vì người ấy mà nói rõ nguyên do vì sao Như Lai nói như thế.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền vì vô số trăm ngàn chúng sinh nhằm dứt trừ mối nghi ngờ cho họ, nên nói lại bài kệ:

Bồ-đề không chỗ trụ
Cũng không người an trụ
Do bởi nhân duyên đó
Nói Bồ-đề vô trụ.
Bồ-đề và chúng sinh
Chẳng một, cũng chẳng khác
Do bởi nhân duyên đó
Nói Bồ-đề vô trụ.
Chúng sinh vốn chẳng động
Cõi ấy cũng như thế
Pháp ấy không thành tựu
Rốt ráo không thật có,
Thể tướng chúng sinh không
Cõi ấy khó nghĩ bàn
Không người có thể hiểu
Trí tuệ nhận thức khắp.
Chỉ Nhất thiết trí hiểu
Như các ấm đã nói
Chúng sinh không tướng động
Ấm tức là chúng sinh
Tướng không hai, không trụ,
Thể của ấm là không
Tánh, tướng là bất động
Nếu không tướng giữ được
Thì làm sao có động?
Cho nên biết các ấm
Cũng không có tướng động
Dứt bặt mọi lời nói
Vô tướng cũng vô thể.
Thân chính là tướng ấm
Ấm chính là hành xứ
Không hành xứ mà hành,
Nói ấm gọi là không.
Cõi không như đã nói
Chẳng sinh cũng chẳng khởi
Như thế đồng với ấm
Gọi là chẳng thể động.
Thân thấy tướng vô thế
Cũng không pháp thật có
Không thật, nên vô động
Nay ta nói như thế.
Chẳng chấp tướng chúng sinh
Rốt ráo không chỗ trụ
Cũng không có tướng tâm
Thân, chỗ, không thật có.
Như nói các kiến chấp
Hiển bày sáu mươi hai
Các chúng sinh như thế
Cũng như bóng đáy nước.
Kiến chấp bóng đáy nước
Sáu hai cũng như thế
Vô ngã, không thật có
Tánh ấy chẳng thể động.
Quá khư và vị lai
Hiện tại cũng như thế
Vô tướng, không thật có
Đều như lửa, bóng nước
Đó gọi là vô ngã
Không có tướng chúng sinh
Chúng sinh chẳng thể động
Cũng không có người động
Ví như kẻ sát sinh
Ở đồng rộng sinh tử
Cũng trụ nơi vắng lặng
Đó gọi là bất động.
Nếu khiến chúng sinh động
Chúng sinh không thật có
Thật chẳng có chúng sinh
Cho nên nói bất động.
Bồ-đề không đứt đoạn
Cũng không có người độ
Cho nên phải siêng tu
Không được đối người động
Pháp thí chẳng nghĩ bàn
Độ chúng sinh quá khứ
Phải nên siêng tu tập
Đó gọi không thể động.
Độ thoát mọi tà dục
Cũng không dấy tưởng tà
Phải nên siêng tu tập
Đó gọi không thể động.
Các chúng sinh nói dối
Vì khiến được giải thoát
Sẽ phát tâm tinh tấn
Như tướng chẳng động kia.
Ác khẩu và hai lưỡi
Thêu dệt cũng như thế
Tướng bình đẳng như vậy
Như ánh lửa không thật.
Các pháp đều như thế
Cũng không chỗ nương dựa
Như âm vang tiếng gọi
Khéo biết tướng vắng lặng
Các vô minh quá khứ
Đắm ngã nên sinh ái
Nếu chứng được vô ngã
Đó gọi là bất động.
Nếu rõ phiền não hại
Thể tánh vốn vô tướng
Vô tướng tức Bồ-đề
Đó gọi là bất động.
Hiểu rõ các tà kiến
Trí chân chánh tu đạt
Tu hành các chánh trí
Lìa rừng rậm tà kiến
Đó gọi là bất động.
Nếu tâm không còn dục
Hiện nhận bảo nữ dâng
Cho đến các đồng nữ
Kẻ trí thường xa lìa.
Dùng tướng tà giữ giới
Nhưng không bỏ chánh pháp
Người trí không tâm ý
Chỉ mong cầu đạo Thánh.
Đó là tu pháp nhẫn
Hiển bày các ngoại đạo
Vô tâm mà hành nhẫn
Cũng không gần Niết-bàn.
Ngoại đạo tự bày khác
Năm nhiệt là tinh tấn
Chẳng phải điều trí tu
Khổ hạnh chẳng Bồ-đề
Định mà ngoại đạo nói
Chấp tướng làm chỗ hành
Không được Phật khen ngợi
Không khiến kẻ khác học.
Bồ-đề không sợ hãi
Che chở các chúng sinh
Do nhân duyên ấy nói
Chấp tướng không hề động.
Chẳng thuộc loại chấp đắm
Sinh ra tâm Bồ-đề
Bồ-đề không chấp tướng
Do đó chẳng thể động.
Cha mẹ anh em thảy
Chị em và vợ con
Ví như vật huyễn hóa
Do đó chẳng thể động.
Tất cả chấp pháp tướng.
Thảy đều không thật có
Nếu trụ không thật có
Do đó chẳng thể động.
Nếu có tưởng ngày đêm
Một tháng và nửa tháng
Tất cả tưởng như thế
Như lửa, bóng đáy nước
Bố thí và Trì giới
Tu Nhẫn nhục, Tinh tấn
Đều khởi lên chấp đắm
Tưởng ấy gọi là động.
Bồ-đề thế lực mạnh
Tu Thiền định, Trí tuệ
Nếu có tưởng Vô úy
Tất cả tưởng chẳng tưởng
Giác ý và chánh đạo
Vốn có tưởng Bồ-đề
Ngu si sinh khởi lên
Người hiểu biết xa lìa
Phật và tưởng các pháp
Cho đến có tưởng tăng
Các thứ tưởng như thế
Đều gọi là tưởng động.
Bồ-đề là vô tưởng
Chủng trí tức Bồ-đề
Xa lìa tưởng như vậy
Bồ-đề khó nghĩ bàn.
Cho nên nói như thế
Kẻ cầu như bóng nước
Nếu động tưởng ấy rồi
Thì chẳng xa Bồ-đề
Bồ-đề và chúng sinh
Tất cả pháp như như
Nên ta nói như thế
Không biết tâm ma ác.

Đức Phật lần lượt nói kệ đuổi trừ bọn ma xong, thì có mười ức chúng sinh dứt bỏ nghi ngờ, đạt được sự thông tỏ đối với các pháp, được pháp Nhẫn vô sinh, thế rồi tất cả các vị ấy đều đến trước Phật nói kệ:

Phật đạo khó nghĩ bàn
Là Tối thắng bậc nhất
Nên hiệu là Thế Tôn
Dứt nghi, được an định.
Tất cả đều sáng tỏ
An trụ trong Phật đạo
Ánh sáng khắp mười phương
Thấy vô số ức Phật.
Thấy Phật, được nghe pháp
Tướng tốt, thân trang nghiêm
Trừ nhơ, được trí tịnh
Bậc Năng Độ cứu đời
Trong trăm ngàn ruộng phước
Ruộng phước Phật tốt nhất
Tùy nơi Phật an trụ
Bậc Cứu đời Vô thượng.

Lúc ấy, có mười ức chúng sinh nghe kệ ấy, rồi đều dâng y phục quý giá lên cúng dường Đức Phật và cúng dường Pháp, đều nói:

–Xin khiến cho tất cả chúng sinh đều được nghe pháp này, đều cùng đến nhóm họp.

Bấy giờ, Ton giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã chuyển Pháp luân đuổi ma, các vị nam nữ trong dòng họ của Đức Như Lai đã được nghe, đều được giải thoát, tin nhận không nghi ngờ, thế thì được bao nhiêu phước đức?

Đức Phật dạy:

–Này Tôn giả A-nan! Nếu như có các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai vào lúc mặt trời mới mọc gần gũi cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi một trăm vị Phật, vào giữa trưa gần gũi cúng dường một trăm vị Phật, cho đến buổi chiều cúng dường một trăm vị Phật, vào lúc đầu hôm cúng dường một trăm vị Phật, lúc nửa đêm cúng dường một trăm vị Phật, lúc gần sáng cúng dường một trăm vị Phật, dùng các thứ nhạc cụ hay, y phục quy giá cúng dường Phật trong hai vạn năm, sáu thời trong một ngày tôn trọng khen ngợi, đi đứng ngồi nằm tu hành cúng dường, vẫn như lúc đầu không hề tạm nghỉ.

Này A-nan! Vậy ý của ông nghĩ sao? Phước đức ấy có nhiều hay không?

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Phước đức ấy rất nhiều, không thể dùng thí dụ mà biết được số lượng.

Đức Phật nói:

–Này A-nan! Nếu các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai, được nghe về đoạn kinh đuổi trừ ma nay, lần lượt nghe về ý nghĩa của nó, lại tin hiểu không sinh nghi ngờ thì công đức của những người ấy còn hơn trường hợp cúng dường kể trên rất nhiều.

Trang: 1 2 3 4