SỐ 267
KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN
Dịch Phạn ra Hán: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu, đời Lương sao lục
Dịch Hán ra Việt: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 4

Phẩm 7: THỌ KÝ

Phật bảo:

–Này các thiện nam! Lại có ba vị Đại Bồ-tát từ phương Đông đến an trụ trong đạo Đại thừa, cầm đóa hoa Mạn-đà-la có trăm ngàn muôn cánh tỏa sáng như mặt trời vừa mới mọc.

Tôn giả A-nan cùng tất cả các vị trong chúng hội đều trông thấy và cho là đều chưa từng có. Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:

–Bạch Phật Thế Tôn! Ba vị trong dòng họ của Đức Như Lai từ chốn nào đến?

Đức Phật đáp:

–Về phương Đông, trải qua hằng hà sa số thế giới, có thế giới tên là Tu-di liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vân Thượng Công Đức Như Lai, hiện đang trụ thế. Trong đó, ba vị thiện nam, vừa mới nghe pháp, từ cõi ấy đến đây. Bấy giờ, ba vị Bồ-tát đứng trước Đức Thế Tôn, tung rải hoa Mạn-đà-la lên chỗ Phật để cúng dường, sau đó cùng bạch Phật:

–Chúng con đối với pháp này rất sinh tâm tin tưởng, lãnh hội sâu xa, không có nghi ngờ. Vì sao? Vì Đức Như Lai Thế Tôn đã nhờ pháp này mà không còn nghi ngại, cho nên hôm nay chúng con cũng không còn sự nghi ngại.

Lúc này, vị Bồ-tát thứ nhất trong ba vị Bồ-tát bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người gọi Thế Tôn là Như Lai thì con chính là Như Lai. Vì đối với pháp này đều không còn nghi ngờ.

Vị Bồ-tát thứ hai lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người xưng gọi Thế Tôn là Thế Tôn, thì con chính là Thế Tôn, cũng đối với pháp này đều không còn nghi ngờ.

Vị Bồ-tát thứ ba bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người xưng gọi Thế Tôn là A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà thì con cũng là A-la-ha Tam-miệu Tamphật-đà, vì cũng đối với pháp này không còn nghi ngờ.

Bấy giờ, trong đại chúng có vô lượng trăm ngàn ức người, tất cả đều kinh ngạc, tâm chẳng vui thích, cùng bàn tán với nhau: Chúng ta từ trước đến nay chưa hề nghe nói ở một thế giới mà có tới hai vị Phật. Vì sao hôm nay ba vị Đại sĩ ấy mỗi vị đều tư xưng là Phật, đều ở trước Thế Tôn mà nói như thế? Chỉ có Phật, Như Lai là Bậc Tôn quý trong trời, Người đối với tất cả các pháp đều được tự tại, thông suốt ba đời không chút trở ngại. Do đâu mà ba vị Bồ-tát hôm nay đều nói như vậy?

Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ba vị Bồ-tát ấy tên là gì mà có thể ở trước Phật vừa bày tỏ những lời như tiếng rống của Sư tử?

Đức Phật đáp:

–Ba vị Bồ-tát đó, vị thứ nhất tên là Nhạo Dục Như Lai Thanh Chánh Trụ, vị thứ hai tên là Nhạo Dục Thế Tôn Thanh Chánh Trụ, vị thứ ba tên là Nhạo Dục Phật Thanh Chánh Trụ. Này A-nan! Do nhân duyên như thế nên ba vị Đại sĩ ấy mới nói những như vậy.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy là có đến hàng trăm ngàn muôn ức vị trong chúng hội, tâm đều kinh ngạc do nghe ba vị Bồ-tát ấy nói những lời vừa rồi. Lại có người nghe, tâm không kinh ngạc hay nghi ngờ mà lại tăng thêm sự thanh tịnh tốt đẹp. Ví như có người trẻ tuổi luôn trang sức dung mạo mình, hình thể tươi đẹp thanh tịnh, tinh khiết, lại tắm gội, dùng hương thơm, dầu thơm xoa thân, lại dùng nhựa hương chiên-đàn đỏ rảy lên người nữa. Như vậy là người trẻ tuổi ấy càng thêm thơm tho trong sạch bội phần. Cho nên, nếu người nghe được pháp này, tin tưởng thọ trì không nghi ngờ thì cũng ví như người ấy vậy.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao các vị Bồ-tát lại nói như thế?

Phật dạy:

–Ba vị Bồ-tát này đã khéo hiểu về giả danh, cho nên nói lời ấy.

Tôn giả A-nan nói:

–Đúng thế, đúng thế! Ba vị Bồ-tát đó đã khéo nói về giả danh. Cúi mong Thế Tôn giải thích lại cho con nghe, cũng khiến cho đại chúng tâm ý được thêm sáng tỏ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền vì hàng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, nhằm giúp họ cởi bỏ mối nghi ngờ hối hận, gieo trồng căn lành nên liền nói kệ:

Nếu thấy được quá khứ
Vị lai cũng như thế
Biết các pháp như thật
Đó gọi là Như Lai.
Hiện tại cũng như vậy
Quá khứ, vị lai đồng
Chẳng một, cũng chẳng khác
Tướng rốt ráo vắng lặng.
Thệ như Phật quá khứ
Hành thí chẳng nghĩ bàn
Thí ấy cũng như thế
Do vậy nói giả danh.
Ví như Phật quá khứ
Trụ Bồ-đề vô ngại
Trụ ấy cũng như thế
Đó gọi là Như Lai.
Tất cả pháp không trụ
Bồ-đề cũng vắng lặng
Không có tướng Bồ-đề
Đó gọi là Như Lai.
Nếu nói giới quá khứ
Vị lai cũng như vậy
Hiện tại đều đồng nhau
Đó gọi là Như Lai.
Đời quá khứ hành nhẫn
Bồ-tát chặt tay chân
Nhẫn ấy cũng như thế
Đó gọi là trụ nhẫn.
Nếu phát khởi tinh tấn
Vun trồng gốc giác ngộ
Được tinh tấn ấy rồi
Đó gọi là Như Lai.
Tất cả pháp bình đẳng
Được chứng như thật kia
Cũng chẳng chấp tướng ngã
Đó gọi là Như Lai.
Không chấp đối các pháp
Tất cả đều bình đẳng
Biết bình đẳng ấy rồi
Vô tướng, không thật có,
Các chánh định như vậy
Không chấp tướng các pháp
An trụ trong thiền định
Đó gọi là Như Lai.
Tánh, tướng tất cả pháp
Và cac pháp đã nói
Biết tánh, tướng ấy rồi
Như thật, không thật có,
Phải biết các pháp không
Trí tuệ chẳng ruộng phước
Biết đó chẳng phải trí
Đạt đến trí giải thoát.
Như đến bờ giác kia
Trí tuệ không nghĩ bàn
Nhưng không được trí này
Đến bờ kia vắng lặng
Tướng như, trí chẳng đạt
Không có bờ này, kia
Trí chẳng đạt như vậy
Đó gọi là Như Lai.
Bồ-đề chẳng như được
Phàm ngu chẳng thể nghĩ
Tất cả pháp vô đắc
Đó gọi là Như Lai.
Nếu đạt được vô ngại
Mà tới chốn Đại trí
Tất cả pháp không lợi
Chứng giác ngộ vô ngại,
Như đạo vốn tu tập
Bậc Cứu đời tế độ
Được đạo không nương kia
Biết rõ được thể, tướng
Tu tập như vậy rồi
Đạt được đạo Tối thắng
Điều phục đạo này rồi
Biết tất cả đều không,
Biết rõ đầu, giữa, sau
Đều đồng với các pháp
Pháp ấy là bình đẳng
Nên gọi là Như Lai.
Nếu đạo như Bồ-đề
Đó gọi trụ Bồ-đề
Giống như tướng hư không
Đó gọi là Như Lai.
Nói pháp như thế rồi
Như tướng đều bình đẳng
Nếu việc ấy vô ngại
Đó là trụ Bồ-đề.
A-nan biết giả danh
Lời nói là Như Lai
Lời nói cũng như thế
Hành xứ của người trí,
Bồ-tát không sợ hãi
Trí sáng chẳng lui sụt
Tất cả các hành xứ
Thảy nêu rõ như vậy,
A-nan biết thứ lớp
Những điều Như Lai nói
Vì các vị Bồ-tát
Khiến đạt được vô ngại.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền nói kệ:

Vì bởi nhân duyên gì
Biết được tướng các pháp
Bồ-tát này vô ngại
Cũng gọi là Thế Tôn?
Đức Thế Tôn đáp:
Trong trăm ngàn muôn ức
Vô lượng vô số kiếp
Mới thành tựu Bồ-đề
Phật đạo khó nghĩ bàn
Thành tựu Bồ-đề rồi
Vì chúng sinh trụ thế
Chốn chốn thật không sinh
Đó gọi là Thế Tôn.
Đã vượt nẻo luân hồi
Chẳng còn bị sinh tử
Vì cứu độ chúng sinh
Đó gọi là Thế Tôn.
Không còn luân hồi nữa
Cũng không còn sinh tử
Làm sao nhổ gốc khổ
Hiệu thế Vô Thượng Tôn
Không nhớ nghĩ các pháp
Cũng không còn nguy khốn
Không có tướng chúng sinh
Vượt qua các khổ não,
Không trôi lăn sinh tử
Cũng không trụ sinh tử
Khiến chúng trụ như thị
Đó gọi là Thế Tôn.
Được các pháp không sợ
Đối Phật cũng như thế
Mênh mông không bờ mé
Nói pháp rất nhiều thứ.
Các pháp rốt ráo không
Thể tánh của Phật pháp
Thành tựu như thế rồi
Nhưng không thấy các pháp.
Nếu tinh chuyên tu hành
Thể tánh pháp là khong
Tâm không còn sợ hãi
Đó là biết pháp không.
Biết các pháp như thật
Tất cả đều vọng tưởng
Hiển bày không sợ hãi
Pháp tướng thật như thế.
Đã vượt chốn sợ hãi
Cũng lìa nơi an ổn
Không sợ cũng không hãi
Vượt qua các đường ác.
Cứu giúp bao chúng sinh
Lìa nỗi sợ sinh tử
Chẳng còn bị sinh tử
Cứu độ được chúng sinh.
Đặt để chúng sinh trên
Bờ Niết-bàn vắng lặng
Cũng không tướng chúng sinh
Đó gọi là Thế Tôn.
Các pháp như hư không
Hiện rõ nơi muôn loài
Nơi ấy cũng không sợ
Đó gọi là Thế Tôn.
Tất cả pháp bình đẳng
Hiển hiện ra nhiều loại
Bồ-đề dứt phân biệt
Không có tướng Bồ-đề,
Chúng sinh tu như thế
Được thành tựu giác ngộ
Tu hành đúng lời dạy
Dứt các tưởng lo sợ,
Tưởng phân biệt Bồ-đề
Giống như tưởng chúng sinh
Vượt qua tất cả tưởng
Đó gọi là Thế Tôn.
Dứt bỏ tất cả tưởng
Bồ-tát thì không cấu
Không có tướng tên gọi
Đó gọi là Thế Tôn.
Biết rõ tất cả pháp
Đồng với lìa diệt hết
Quá khứ chẳng thật có
Đó gọi là Thế Tôn.
Vì chẳng trọng tên gọi
Nên gọi chẳng cầu danh
Người lìa chấp tên gọi
Nói pháp rộng họ nghe,
Bồ-đề lìa tên gọi
Như chỗ ở của kia
Chúng sinh trọng tên gọi
Nên xa lìa Bồ-đề.
Tên gọi như tiếng vang
Phân biệt thì nhiều loại
Tiếng cũng không phân biệt
Nương không có tên gọi,
Chẳng đắm tất cả tiếng
Tên cũng không chỗ nương
Bồ-đề không đùa bỡn
Đó gọi là Thế Tôn.
Các pháp như thế ấy
Do Thế Tôn giảng nói
Bồ-tát chẳng đạt được
Đó gọi là Thế Tôn.
Nếu hiểu việc tu đạo
Không, có người biết được
An trụ trong Bồ-đề
Dứt ngại, gọi vô lậu.
A-nan! Giả danh này
Chỉ dùng ngôn ngữ nói
Vì thế ta nay xưng
Danh hiệu là Thế Tôn.
Tôn giả A-nan lại nói kệ:
Vì bởi nhân duyên gì
Bồ-tát nói như thế
Lại vì nhân duyên gì
Được tôn xưng là Phật?
Đức Phật đáp:
A-nan đệ tử Phật
Tất cả pháp không ngại
Giác ngộ pháp vô ngại
Được tôn xưng là Phật.
Phật biết lỗi, phiền não
Làm cho không tự tại
Đã lìa các kết sử
Được tôn xưng là Phật.
Nhờ không được thành Phật
Cũng không có tướng thân
Trong đó không chân thật
Làm sao thân thật được?
Chẳng bền, tưởng bền chắc
Phàm phu chấp là thân
Giác ngộ như thật rồi
Được tôn xưng là Phật.
Biết ngu si không trí
Thể tánh không thật có
Trí tuệ sáng đạt được
Được tôn xưng là Phật.
Vốn tưởng có quá khứ
Giác rồi không còn tưởng
Biết tưởng và vô tưởng
Không để tưởng tự tại.
Hiểu rõ đối sắc ấm
Vốn tự trụ vô sinh
Phàm phu vọng phân biệt
Chẳng sắc, chẳng thành tựu.
Biết rõ không cội gốc
Xưa nay không có tánh
Vì thế không lãnh thọ
Tất cả pháp không nương.
Tưởng như lúc lửa bùng
Nhân duyên không thật có
Do đó dứt bỏ tưởng
Tất cả pháp cũng thế.
Không có thân hành này
Tướng thân không bền chắc
Nếu biết thân hành không
Thì sẽ không đắm thân
Thân này và tướng hành
Thảy đều như cây chuối
Biết chân thật như thế
Nên tôn xưng là Phật.
Cầu tướng chân thật thức
Chẳng nằm ở trong thân
Cũng lại chẳng ở ngoài
Làm sao có chỗ sinh?
Nếu thức ấy không sinh
Thì các pháp cũng vậy
Đều không có nơi chốn
Hữu vi không thật có.
Biết thức như thế rồi
Rốt ráo không thật có
Thể tánh giống như huyễn
Cũng không có kẻ sinh
Nếu chẳng thể thấy thức
Chúng sinh cũng như thế
Thật chẳng có chúng sinh
Làm sao biết được thức?
Thức này khong có thật
Các pháp rốt ráo không
Pháp cùng với chúng sinh
Tất cả không thành tựu.
Tất cả pháp vô tướng
Đã tỏ rõ như vậy
Vắng lặng không đùa bỡn
Nên tôn xưng là Phật.
Chứng biết đối Phật pháp
Chỗ chánh giác an trụ
Tất cả pháp đều không
Nên tôn xưng là Phật.
Như Lai là giác ngộ
Chỗ Chánh Giác an trụ
Phật và tướng Bồ-đề
Rốt ráo không thật có
Nếu sinh khởi tâm xứ
Cũng như trụ Bồ-đề
Tâm đồng với Bồ-đề
Phật giống như huyễn hóa.
A-nan! Giả danh này
Chỉ dùng ngôn ngữ nói
Được xưng gọi là Phật
Ta là Đấng cứu đời.
Tương tợ sinh như vậy
Đồng Phật âm thanh nói
Nếu được Pháp âm này
An trụ trong Bồ-đề.
Không đắm mê Bồ-đề
Nên hiểu biết như vậy
Chẳng nên sinh tâm nghi
Tất cả pháp không cầu.
Đối các pháp dứt nghi
Trên hết trong chúng sinh
Pháp tương tự như vậy
Nên biết tướng chân thật.

Đức Phật đã nói về ba danh hiệu Như Lai, Thế Tôn, Phật như thế, bấy giờ có trăm ngàn ức chúng sinh bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con thật sự nhờ ánh sáng của Phật soi sáng nên đã dứt bỏ được các nghi ngờ.

Các vị Đại Bồ-tát ấy đã nêu lên và Đức Thế Tôn đã nhân đó nói về các thứ giả danh, đã nói rõ về các danh hiệu Như Lai, Thế Tôn và Phật. Giờ đây chúng con đã biết như thế, đã hiểu như thế rồi, đối với tất cả các pháp đã được nhẫn lực. Đức Như Lai, Thế Tôn đã làm lợi ích lớn lao, giống như cha mẹ. Nhờ năng lực thần thông của Phật và tay trí tuệ của Phật đã kéo chúng con ra khỏi lầm lạc không còn bị nhiễu loạn nữa. Cũng như Đức Thế Tôn đối với tất cả đều bất động.

Bạch Thế Tôn! Ví như hư không, không ai có thể làm cho lay động. Cũng như vậy bạch Thế Tôn! Chúng con đối với tất cả các pháp tâm cũng bất động. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều đồng với hư không, như Phật đã giác ngộ không có tướng động.

Lúc này, trăm ngàn ức đại chúng đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi ngồi sang một bên cách chỗ Phật không xa.

Khi Phật nói phẩm Như Lai Thế Tôn Phật Danh này, Bồ-tát Thường Chiếu Tịnh Căn liền đứng dậy, sửa sang lại y phục bày vai áo bên phải, đầu gối phải quỳ sát đất, tung rải các thứ hoa lên chỗ Phật, đều nói kệ khen ngợi Phật:

Chúng sinh tham đắm quả
Đều khiến được giải thoát
Lìa tưởng quả trọn nên
Thành tự lìa tưởng quả
Nên con lễ Bậc Trí
Giảng nói các thứ quả
Khiến biết tướng bình đẳng
Chánh giác chứng bình đẳng
Quy mạng lễ Tối Thượng.
Chúng sinh thường tham đắm
Hành xứ các thứ quả
Vì Phật là giải thoát
Nên con lễ Bậc Trí
Hiển bày ra các pháp
An trụ chốn bình đẳng
Biết được bình đẳng rồi
Kính lễ Đấng Mâu-ni
Chúng sinh nhiều trói buộc
Rất nhiều các quả báo
Phật đều khiến giải thoát
Quy mạng lễ Vô Thượng
Thành tựu đạo vắng lặng
Không trụ các quả vị
Khéo biết tướng giả danh
Đảnh lễ Bậc Thế Trí.

Đại Bồ-tát Chiếu Minh Tịnh Căn nói kệ xong liền đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi đến cách chỗ Phật không xa để chiêm ngưỡng dung nhan, mắt không tạm rời.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Liên Hoa Thắng Tạng đứng dậy, sửa lại y phục bày vai bên phải, gối phải chấm đất, tung rải các thứ hoa cúng dường Phật. Lại khen ngợi Phật bằng bài kệ:
Chúng sinh thường chấp tưởng
Đều khiến dứt trừ hết
Lìa sợ, được vui mừng
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Vắng lặng lìa ba cõi
Không sợ mà nói pháp
Bậc mạnh mẽ trong đời
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Biết pháp vốn vắng lặng
Thế ấy không thật có
Nhiệm mầu trong các pháp
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Đã lìa hẳn ba cõi
Dứt bỏ các kết sử
Lìa sợ, được không sợ
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Không sợ cũng không hãi
Trên hết trong các thí
Vượt hơn tất cả thí
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Lìa sợ được không sợ
Nhổ sạch tên ưu độc
Nêu các pháp giải thoát?
Kính lễ Đấng Mâu-ni.

Đại Bồ-tát Liên Hoa Công Đức Tạng nói kệ khen ngợi Đức Phật như thế xong, liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào vào đời Mạt pháp được nghe kinh này, tâm không kinh sợ thì con sẽ đảnh lễ họ.

Bấy giờ, Bo-tát Ly Cấu Ý ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Thường nên rải các hoa
Điều người trí tu hành
Được nghe kinh này rồi
Sẽ khiến được giải thoát.

Đại Bồ-tát Quảng Tư Duy ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Pháp Phật rất sâu rộng
Hiển nói kinh như thể
Sẽ có ít chúng sinh
Tin nhận chẳng nghi ngờ
Tham đắm đối ngã kiến
Chấp ý tưởng về thân
Không tin nhân kinh này
Đó là kẻ không trí.

Đại Bồ-tát Liên Hoa Nhãn ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Thật vì các chúng sinh
Mở bày mắt dẫn đường
Đối kinh pháp như thế
Chỉ người lành không nghi.

Đại Bồ-tát Bất Tư Nghị Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Bậc tôn quý trong đời
Chúng sinh khó nghĩ bàn
Nói các kinh như vậy
Nghe dứt các nghi hối.

Đại Bồ-tát Thường Ức Niệm ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:

Nếu người không nhớ nghĩ
Nhiều kiếp trong sinh tử
Không đắm mê các pháp
Tu hành thì không nghi.

Đại Bồ-tát Bảo Y Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:

Y phục nhiều cả ức
Sạch sẽ và mềm mại
Mới, dày, xin phủ kín
Tu hành thì dứt nghi.

Đại Bồ-tát Thí Thực ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Bày biện thức uống ăn
Đầy đủ các món ngon
Hằng ngày phải thường thí
Tu hành không có nghi.

Bồ-tát Bi Hành ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Vì thương các chúng sinh
Nên thường thường kêu khóc
Kinh này thật sâu mầu
Chán ác không tu học.
Nếu từ địa ngục đến
Ắt ưa ở địa ngục
Tuy dường tu công đức
Khoảnh khắc liền sinh nghi
Gần gũi các bạn xấu
Chẳng tin pháp sâu xa
Lưới ngu si tự che
Sinh nghi ngờ như vậy.
Có những kẻ phá giới
Tâm ác thấy tội ấy
Nghe kinh chẳng tin nhận
Phỉ báng các hành này
Biếng nhác, không tinh tấn
Chẳng trụ trong Bồ-đề
Vô trí, tâm thấp hèn
Không hiểu hạnh như thế.
Chúng sinh thường ưa đắm
Ta thấy tâm tự tại
Luôn quanh quẩn ba cõi
Không thể tu hành được
Ngu si khởi tâm ác
Vô trí, đắm các dục
Thích ở chốn ồn náo
Làm điều phỉ báng ấy.
Kẻ ngu si trí kém
Tham lam, thích ăn uống
Chẳng tu pháp thanh tịnh
Nên làm việc phỉ báng
Chúng sinh nhiều tham đắm
Thiên chấp, lấy vọng tưởng
Chẳng biết là giả danh
Chỉ cứu đời độ được.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Năng Viễn Ly Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:

Xa lìa các chúng sinh
Như bỏ vật nhơ uế
Hư giả như tiền bùn
Giải thoát đắm tướng quả.
Ví như thây chết hoại
Ác ấy rất đáng chán
Nếu bài báng hạnh ấy
Nên mau mau xa lìa.
Như giặc cướp xóm làng
Ở nơi đường trống trải
Người nghe đều tránh xa
Mong chẳng gặp ác ấy.
Nếu thấy kẻ hủy hoại
Chán ác như giặc hai
Lại bài báng kinh này
Chớ thấy ác như thế.

Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ-tát như thế rất là ít có. Tâm ý hiểu rõ, đó là do định lực của mình hay là do thần lực của Phật?

Đức Phật nói:

–Đều là nhờ thần lực Phật mới nói được như vậy, cũng là uy lực công đức của kinh này nên mới được vô ngại. Vì sao? Vì các vị trong dòng họ của Như Lai đó đã từng trải qua sáu mươi hai ức Đức Phật, được nghe chính miệng các Đức Phật nói về pháp này không thêm không bớt, cũng như được nghe ta nói không khác. Do đó, nhớ nghĩ tất cả các năng lực thiền định và năng lực thần thông của các Đức Phật đời quá khứ.

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đúng thế, đúng thế! Tin tưởng lời Phật dạy, các vị Bồ-tát ấy hiện có thể chứng biết.

 

Phẩm 8: NHẬN RÕ

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai, nếu được nghe pháp này, lần lượt tin tưởng hiểu rõ không dấy khởi nghi ngờ, vậy thì các vị ấy sẽ đạt được phước đức như thế nào?

Đức Phật dạy:

–Các nam nữ trong dòng họ của Như Lai an trụ trên đường tiến đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu như có người cúng dường Phật bảy thứ báu đầy khắp trong cõi Diêm-phù-đề thì công đức của người ấy chẳng bằng được nghe kinh này thứ lớp câu nghĩa tin tưởng hiểu rõ không nghi ngờ thì phước đức rất nhiều. Giả sử cúng dường hết toàn bộ bảy thứ báu trong cõi Diêm-phù-đề, cũng như toàn bộ các thứ châu báu trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng lên Đức Phật, nhưng nếu lại có các thiện nam, thiện nữ được nghe kinh này, thứ lớp câu nghĩa, tin tưởng hiểu rõ không nghi ngờ, tâm cũng không hối hận công đức của các vị ấy hơn hẳn trường hợp kia.

Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Giả sử khắp tam thiên
Các châu báu đầy dẫy
Cúng dường Đức Như Lai
Cứu độ các thế gian.
Nếu Phật nói kinh này
Mà có người lắng nghe
Trí tuệ được giải thoát
Phước ấy hơn người kia.
Ví như cát sông Hằng
Ở nơi các thế giới
Bảy báu đều đầy khắp
Thảy cúng dường Như Lai.
Đối với lời Phật nói
Tín nhận kinh điển này
Đó là trí giải thoát
Phước ấy cũng hơn kia.

Lúc này, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai tin nhận hiểu rõ kinh này, thọ trì đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe thì các vị ấy được bao nhiêu phước đức?

Đức Phật nói:

–Các nam nữ trong dòng họ của Như Lai ấy, trụ trong đạo Vô thượng, trong trăm kiếp tu hạnh bố thí, cúng dường Như Lai, cũng trải qua trăm kiếp tu các pháp Ba-la-mật là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, lại trải qua trăm kiếp được năm thứ thần thông, tu tập đạt được mọi thứ trí thức ở thế gian, đầy đủ giới thân, nhưng nếu các vị đó xa lìa kinh này thì cũng không được gọi là tôn trọng cúng dường các Đức Như Lai. Nếu có các thiện nam, thiện nữ tin nhận hiểu rõ kinh này, thọ trì đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe thì những vị ấy sẽ được phước đức nhiều hơn trường hợp trên.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Giả sử trong trăm kiếp
Hết thảy các thức ngon
Cúng dường Bậc Cứu đời
Không gọi tôn trọng cúng.
Nếu người muốn cúng dường
Phải thọ trì kinh này
Xả bỏ tưởng phước báo
Tu tập cúng dường pháp,
Người cúng dường như thế
Mới gọi chân cúng dường.
Lấy pháp làm cúng dường
Pháp thân của Như Lai
Giả sử trong trăm kiếp
Dâng y phục cúng dường
Đấng Thế Tôn cứu đời
Thí nhiều các y phục
Không gọi là cúng dường.
Có người trì kinh này
Đó gọi chân cúng dường
Là Bậc nhất, trên hết
Giả sử trong trăm kiếp
Thường rải các hoa trời
Dâng cúng các Thế Tôn
Chưa gọi là cúng dường.
Nếu cúng dường Bậc nhất
Bậc Cứu đời độ thế
Nên thọ trì kinh này
Nên dứt tướng quả báo.
Nếu xây tháp bảy báu
Vì cứu đời mà lập
Tất cả như Tu-di
Không gọi cúng dường Phật.
Đây là cúng lớn nhất
Hơn hẳn cúng dường khác
Người trì được kinh này
Chẳng chấp tướng thân ta
Giả sử trong trăm kiếp
Tu giữ các giơi cấm
Mà chẳng trì kinh này
Chưa gọi là hơn hết.
Nghe kinh và giữ giới
Xem giới là hơn hết
Cũng đối việc trì kinh.
Không nghĩ mình trì kinh.
Không gọi là phạm giới
Cũng không gọi phá giới
Tu học được kinh này
Như lời ta giảng dạy.
Nếu tu được kinh này
Cũng khéo tu Bồ-đề
Tuy cùng tu Bồ-đề
Mà thật không điều học.
Giữ giới được như vậy
Điều kinh này hiển bày
Đối giới được đầy đủ
Đó gọi là giữ giới.
Giả sử trong trăm kiếp
Có người tu Nhẫn nhục
Đánh mắng không đánh lại
Tất cả đều nhẫn được.
Cho đến chặt tay chân
Mà không khởi ý khác
Cũng chẳng sinh oán hờn
Tất cả đều không nghĩ
Thực hành được nhẫn này
Đầy đủ trong trăm kiếp
Tuy tu nhẫn như vậy
Tâm không cho là hơn
Đó là nhẫn bậc nhất
Cũng gọi là khéo tu
Nếu được nghe kinh này
Tin hiểu mà thọ trì
Đó là nhẫn trên hết
Bậc nhất không gì hơn
Nếu đối với kinh này
Nghe rồi mà tin hiểu
Mong đạt được vô ngại
Trí tuệ Phật Vô thượng
Nên thọ trì kinh này
Thì sẽ mau đạt được
Giả sử trong trăm kiếp
Tinh tấn thường không ngồi
Giờ kinh hành đã qua
Dứt bỏ sự ngủ nghỉ
Người trí tu kinh này
Nên giảng nói người nghe
Thì được không sợ hãi
Đó gọi tinh tấn nhất.
Giả sử trong trăm kiếp
Chứng được năm thần thông
Nếu chẳng nghe kinh này
Không gọi thần thông nhất.
Nếu trì được kinh này
Gọi là thần thông nhất
Hơn những thần thông khác
Biết nghĩa mà không đắm
Giả sử trong trăm kiếp
Thường làm người trí sáng
Đầy đủ trí thế gian
Biết rõ việc thế gian.
Nếu chẳng học kinh này
Chưa xứng là người trí
Nếu trì được kinh này
Gọi là người sức mạnh.
Nếu biết được như thế
Đó gọi là người trí
Thọ trì kinh điển này
Nghe thì tin, hiểu được.
Hiển bày trong kinh này
Hành xứ của người trí
Nếu trì được kinh này
Phải siêng năng tinh tấn.

Khi ấy, Tôn giả A-nan lại nói kệ:

Đi đủ trăm do-tuần
Hoặc cả ngàn do-tuần
Sẽ đến chỗ người trí
Nơi có kinh pháp này
Thường nên đến chỗ ấy
Để nghe được kinh này
Nghe rồi mà tin hiểu
Tâm họ thường thuận theo
Ví lửa khắp thế giới
Trăm ngàn ức do-tuần
Nếu chỗ có kinh này
Người trí mau đến nghe
Nếu cầu thiền định Phật
Hơn hẳn các thiền định
Nên nói kinh như thế
Dứt bỏ các phiền não
Nếu có người muốn bỏ
Ưa đắm đối thế gian
Vì hiển bày kinh này
Như lời Phật đã nói.
Nếu muốn thấy các Phật
A-súc là trên hết
Trong các thứ thọ trì
Kinh này là Bậc nhất.
Muốn được mọi niềm vui
Tu các hạnh Bồ-tát
Phải nên nói kinh này
Mau đến chỗ an vui.
Muốn thấy Bậc Chánh Giác
An dưỡng khó nghĩ bàn
Nên giảng nói kinh này
Như lời Phật giảng nói.

Lúc bấy giờ, Phật bảo A-nan:

–Lành thay, lành thay! Khi nói kinh này, các nam, nữ trong dòng họ của ta nếu được nghe rồi, tâm không tán loạn, đọc tụng kinh này, xa lìa tất cả những chỗ gần gũi, tất sẽ dứt bỏ tất cả các thứ ràng buộc chấp đắm. Nếu muốn thấy Phật liền được thấy, khi sắp qua đời sẽ được tận mặt thấy trăm ngàn Đức Phật. Vì sao? Vì các vị ấy luôn được tất cả các Đức Phật che chở giữ gìn, nói được kinh này lại còn thọ trì đọc tụng, kính tin, hiểu rõ, cũng giảng nói giải thích cho người khác nghe.

 

Phẩm 9: AN DƯỠNG QUỐC

Lúc bấy giờ, trong bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di có một vị đồng nữ tên là Sư Tử cùng năm trăm đồng nữ khác bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người nữ đọc tụng kinh này, lại giải thích, giảng nói cho người khác nghe thì người nữ ấy được phước gì?

Phật bảo đồng nữ Sư Tử:

–Nếu có người nữ, an trụ trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chanh đẳng Chánh giác, thọ trì đọc kinh điển như vậy, lại giảng nói cho người khác nghe, thì nên biết rằng những người ấy đang mang thân nữ sau cùng, không còn thân nữ nữa. Vì sao? Vì những người ấy chẳng những thọ trì, đọc tụng kinh này, mà còn giảng nói cho người khác nghe, tâm không tán loạn, tất cả phiền não đều được dứt bỏ, nếu có người nữ muốn sinh phiền não thì cũng không sinh được.

Đồng nữ Sư Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao tướng người nữ này có thể sinh ra phiền não?

Phật dạy:

–Này đồng nữ Sư Tử! Nếu có người nữ thấy cô gái khác xinh đẹp, trang sức bằng những xâu chuỗi quý giá làm bằng ngọc Ma-ni và các thứ châu báu khác, thấy như vậy thì rất thích thú, phát khởi tâm tham đắm chứ không biết quan sát, ví như chiếc bình vẽ cảnh trí bên ngoài đẹp đẽ, nhưng bên trong đều là một khối chứa đầy những thứ bất tịnh phân dãi nhơ nhớp, kẻ phàm phu ngu si hôi thối cũng giống như thế. Bị chất bất tịnh xông ướp, phẩn tiểu đầy dẫy, không biết quán sát. Các tướng như thế lại sinh ưa đắm mà khởi tâm nhuốm bẩn vì nhân duyên ấy nên thường phải làm thân nữ.

Phật bảo đồng nữ Sư Tử:

–Tất cả người nữ thường sinh tâm ganh ghét, lừa gạt, nói dối, ý nghĩ và lời nói trái nhau, hoặc đối diện trò chuyện thì thường xin xỏ, đến chỗ Tỳ-kheo không phải vì pháp, sinh tâm giận tức và tâm thích ngủ nghỉ, hoặc đến những nơi ồn ào náo nhiệt, gần gũi chuyện thế tục. Đối với kinh này hay làm những việc không lợi ích, không chịu nghe nhận, không giảng nói, không đọc tụng, ngày đêm thường khởi các tâm phiền não, xa lìa giải thoát. Vì có những thứ tâm như vậy mà phải mang lấy thân nữ, khó lìa bỏ được.

Này đồng nữ Sư Tử! Tất cả người nữ đều phải nên quán sát như thế rằng, ta phải làm thế nào để dứt bỏ các phiền não, không cho chúng sinh khởi trở lại. Người nữ như thế không có việc lợi ích, phải nghe kinh này, thọ trì đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe. Vì sao? Vì nếu được nghe kinh này, lần lượt lãnh hội thì chắc chắn sẽ dứt bỏ được tất cả phiền não.

Đồng nữ Sư Tử bạch Phật:

–Nếu có người nữ, đọc tụng kinh này, lại giải thích cho người khác nghe, nếu muốn xả bỏ thân nữ thì có thể được chăng?

Đức Phật đáp:

–Này đồng nữ Sư Tử! Nếu có người thọ trì, đọc tụng kinh này, thì đó là người mang thân nữ sau cùng, sẽ không còn trở lại làm thân nữ nữa, trừ trường hợp phương tiện thần thông biến hóa thị hiện thân nữ.

Này đồng nữ Sư Tử! Ví như có người đốt một đống lửa lớn rồi tự nhảy vào đó, đã nhảy vào lửa rồi mà còn bảo chớ để lửa đốt cháy thân tôi, cũng đừng khiến cho thân tôi bị nám đen, này đồng nữ, theo ý đồng nữ thì thế nào? Người ấy tuy nói như vậy mà có được như lời mình nói hay không?

Đồng nữ thưa:

–Bạch Thế Tôn! không thể được. Vì sao? Vì tánh chất của đống lửa ấy là đốt cháy các vật cũng như hủy diệt thân sắc.

Đức Phật dạy:

–Này đồng nữ Sư Tử! Kinh này cũng giống như thế, có công năng đốt cháy tất cả các thứ củi phiền não hiện hành. Nếu muốn xả bỏ thân tướng người nữ thì phải dứt trừ tham dục, thành tựu Phật pháp, muốn thấy vô lượng vô số a-tăng-kỳ các Đức Phật, được biện tài vô ngại, muốn phát khởi tâm Từ bi đối với tất cả chúng sinh… thì cũng phải thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này.

Bấy giờ, đồng nữ Sư Tử và năm trăm đồng nữ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con từ thời Phật Định Quang đã được nghe kinh này và thọ trì đọc tụng. Hôm nay chúng con lại vì vô số chúng sinh mà nêu bày lại.

Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nay đồng nữ Sư Tử ấy và năm trăm vị đồng nữ kia vì sao chưa chuyển thân nữ?

Phật bảo A-nan:

–Nay Tôn giả cho rằng đồng nữ Sư Tử và năm trăm đồng nữ kia thật là nữ chăng?

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

Phật bảo A-nan:

–Chớ nói như thế. Vì sao? Vì đồng nữ Sư Tử này và năm trăm đồng nữ kia đều là thị hiện làm thân người nữ, chứ chẳng phải thật là thân nữ chỉ vì đối với chúng sinh đời vị lai mà thị hiện biến hóa, vì thương xót tất cả các người nữ mà hiện làm người nữ, giúp cho họ điều kiện để chán ghét lìa bỏ thân nữ, vì nếu làm thân người nam thì khó có thể tiếp xúc đi đến tất cả các nơi chốn.

Này Tôn giả A-nan! Đồng nữ Sư Tử này và những đồng nữ kia chẳng phải là nam, cũng chẳng phải là nữ. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều là chẳng phải nam chẳng phải nữ, vượt ngoài tất cả pháp tướng không thật có, đó mới thật sự là thông đạt. Các vị đồng nữ ấy đều thuận theo các pháp thế gian nên làm thân người nữ để hóa độ những người nữ khác tu học theo.

Khi ấy có năm trăm vị Tỳ-kheo-ni, đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nguyện từ nay về sau sẽ thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe. Vì sao? Vì chúng con làm thân nữ này không có lợi ích gì, phải mau nhàm chán, lìa bỏ. Chúng con xin nguyện kể từ hôm nay, đối với những người chưa hiểu kinh này thì sẽ khiến cho họ được hiểu, những người chưa nghe thì sẽ khiến cho họ được nghe, vào đầu hôm, nửa đêm hay gần sáng, ngoài việc ngủ nghỉ phải chuyên tâm suy nghĩ, quán tưởng.

Đức Phật dạy:

–Lành thay, lành thay! Các Tỳ-kheo-ni, các vị đã phát tâm đại trang nghiêm để tự trang nghiêm, phát tâm tinh tấn mạnh mẽ bậc nhất, thảy đều nhàm lìa, muốn xả bỏ thân nữ, vì muốn lợi ích đối với tất cả Phật pháp mà thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe. Các vị đều mang thân nữ này là thân nữ sau cùng.

Các vị Tỳ-kheo-ni nghe Phật nói như vậy, hớn hở vui mừng, liền cởi thượng y dâng lên cúng dường Phật và cùng nói kệ:

Chúng con mong an ủi
Mong được thân người nam
Như Lai không hai lời
Lời trên hết trong đời.

Bấy giờ, trong bốn bộ chúng có năm trăm vị phu nhân của các Trưởng giả, đứng dậy, sửa sang lại y phục, gối bên phải sát đất, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kể từ hôm nay chúng con cũng thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, giải thích cho người khác hiểu. Chúng con chỉ vì mang thân nữ nên luôn bị người khác ràng buộc, chẳng được tự tại. Lại như phải mười tháng mang thai, làm sao tránh khỏi nỗi khổ cực. Cho dù được sinh trong chốn vương giả nhưng vẫn bị trăm mối hệ lụy, hoặc bị ràng buộc bởi cha mẹ, con cái… Kể từ hôm nay trở đi, sẽ dốc tinh tấn siêng năng tu tập, cho đến khi qua đời vẫn thọ trì chánh pháp.

Đức Thế Tôn liền khen ngợi năm trăm vị phu nhân của các Trưởng giả:

–Lành thay! Như lời các vị đã nói, từ hôm nay các vị sẽ được bỏ hẳn thân nữ, không còn phải chịu sự chi phối của người khác, cũng không còn chịu nỗi khổ của mười tháng mang thai, sẽ lìa bỏ dâm dục và các bào thai, đời đời thường sinh về cõi Phật thanh tịnh.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các vị phu nhân này lìa bỏ được thân gái và sinh về cõi thanh tịnh nào?

Đức Phật nói:

–Các vị phu nhân này sẽ được sinh về thế giới Bảo tạng liên hoa quang.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Phật ở thế giới ấy tôn hiệu là gì?

Đức Phật đáp:

–Ở thế giới ấy có Đức Phật hiệu là Nhất Thiết Bảo Như Ý Vương Quang Minh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, hiện đang nói pháp bằng mọi cách để giáo hóa chúng sinh ở đấy. Như vậy các vị nữ trong dòng họ của Như Lai ấy đều được sinh về cõi Phật ấy, để được nghe kinh này.

Bấy giờ, các vị phu nhân nghe Phật dạy, trong tâm vui mừng hớn hở, liền cởi những xâu chuỗi anh lạc giá trị bằng trăm ngàn lượng vàng dâng lên cúng dường Phật, cúng dường xong cùng nói kệ:

Chúng con được ân sâu
Lìa bỏ thân nữ này
Như Lai không hai lời
Nói ra đều chân thật.
Thân nữ xấu xa nhất
Nên mong sớm lìa bỏ
Kẻ phàm ngu mê lầm
Chẳng rõ tướng chân thật.
Thai sinh thân nữ khổ
Nguyện chẳng làm nữ nữa
Lìa được thai nữ rồi
Giác ngộ là Vô thượng.

Bấy giờ, các vị phu nhân của các Trưởng giả cùng kính chiêm ngưỡng Như Lai mắt không tạm rời. Thích Đề-hoàn Nhân tung rải hoa trời Mạn-đà-la lên cho Phật để cúng dường và bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ thọ trì kinh này.

Đức Phật nói:

–Này Kiều-thi-ca! Nếu khi ông chiến đấu với A-tu-la thì thường được chiến thắng, không bị thất bại.

Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, và trăm ngàn ức chúng sinh đều phát khởi nhân duyên căn lành, Bồ-tát Văn-thù-sưlợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Lúc Như Lai chưa phát tâm Bồ-đề, thì con đã quay bánh xe pháp không thoái chuyển này.

Đức Phật nói:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Vô lượng ức các vị Bồ-tát trong muời phương thảy đều phát ra ánh sáng rực rỡ giống như vầng mặt trời, mặt đất rung chuyển sáu cách, các vị trời tung rải, vô số các loại hoa ngập tới gối.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà mặt đất rung chuyển sáu cách, các vị trời rải hoa xuống như mưa như vậy?

Đức Phật nói:

–Đó là do vô lượng trăm ngàn ức vị trời nghe lời dạy của Bồtát Văn-thù-sư-lợi, tâm sinh vui mừng, nên tung rải hoa ấy và cùng nói: “Chúng tôi đều sẽ thọ trì, sao chép đọc tụng kinh này, cũng nguyện sẽ được như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giảng nói kinh pháp như thế, được nghe kinh rồi, tâm sinh vui mừng, mặt đất tất cả đều rung chuyển, các vị trời rải hoa như mưa.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh này có công năng thành tựu những công đức lớn lao, kinh này rất sâu xa, ít có nhất. Nếu có chúng sinh nào được nghe kinh này, dù chỉ một lần thì nên biết công đức người ấy không phải nhỏ.

Đức Phật dạy:

–Đúng thế! A-nan nên biết, các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai đều đã cúng dường các Đức Phật đời quá khứ, vì vậy mà hôm nay trong chúng hội này được nghe kinh này, sinh tâm kính tin, hiểu rõ, cho đến thọ trì, đọc tụng, giải thích. Nên biết rằng chỗ nào có kinh này thì nơi đó chính là ngôi tháp của tất cả trời, người, lợi ích vô lượng, phước đức chẳng luống mất. Nếu nơi nào cất giữ kinh điển này và thọ trì cho đến sao chép thì đều nên cúng dường tưởng như cúng dường Thế Tôn. Người được nghe kinh này, khi chết đi không bị rơi vào đường ác, người ấy hàng phục được các loài ma, dựng lên ngọn cờ chánh pháp, thường đốt ngọn đuốc chánh pháp, soi sáng những nơi tối tăm, thổi được ốc pháp, đến tận coi Bồ-đề, gióng lên tiếng trống pháp, khai mở các cửa pháp, tuôn xuống trận mưa pháp lớn, giúp cho những người cầu pháp đều được đầy đủ pháp vị. Kinh này hiển bày pháp giới, mở hết các kho báu tiềm ẩn của các Đức Phat thời quá khứ, thấu rõ tất cả các pháp, dứt bỏ các tưởng về năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, xa lìa các tưởng về sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, lìa các tưởng về tất cả pháp cho đến tưởng về Phật. Nếu người được nghe kinh này kính tin, hiểu rõ, thọ trì, đọc tụng thì người ấy là đệ tử Phật chân chánh, đều từ pháp sinh ra.

Này A-nan! Nếu có vị thiện nam nào muốn ăn được pháp vị, ngồi dưới cội Bồ-đề trong đạo tràng như ta không khác thì phải thọ trì, đọc tụng kinh này, giảng nói cho người khác nghe, cho đến tay cầm quyển kinh, cung kính cúng dường.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ mạt pháp, sẽ có người có khả

năng thọ trì đọc tụng, tay cầm kinh này, cung kính cúng dường không?

Phật dạy:

–Nếu hiện giờ nghe kinh mà kính tin và hiểu rõ, thì đời tương lai cũng dốc lòng thọ trì đọc tụng, giảng nói cho người khác nghe, tay cầm kinh này, lễ bái cúng dường. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người, A-tu-la, hiện giờ nghe kinh này mà ở đời vị lai lại chẳng được nghe. Điều ấy không thể có được. Vì sao? Vì nhờ năng lực nhân duyên nghe pháp hiện tại, nên ở đời vị lai cũng được nghe pháp, sẽ kính tin, hiểu rõ. Ví như có vị trưởng giả sinh nhiều người con, gia đình giàu có hết mực, của cải châu báu vô kể, nào vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, ngọc trai… đủ thứ ngọc quý giá, còn có cả voi ngựa, xe cộ, tôi trai tớ gái… tất cả những tài sản ấy đều được sắp đặt cất giấu có nơi có chỗ, rồi ông ta đi dạo chơi qua những nơi chốn khác, khi trở về quê cũ mình thì có thể tìm lại được những cua cải quý giá ấy không?

–Bạch Thế Tôn! Tìm lại được. Vì sao? Vì những của cải quý giá ấy ông ta đã biết rõ nơi cất giấu chúng.

Đức Phật nói:

–Này A-nan! Pháp bảo cũng như vậy, hiện nay được nghe thì đó chính là pháp của mình, đời sau lại được nghe. Nay ta dùng mắt Phật thấy đời hiện tại, những người đã thọ trì đọc tụng kinh này, thì đời sau cũng sẽ được như vậy không khác. Nếu ở đời vị lai có các chúng sinh thọ trì kinh này, nếu dùng mắt Phật xem xét thì thấy cũng như hiện nay không khác. Nếu có kẻ phỉ báng kinh điển này, ta dùng mắt Phật thấy rõ những người ấy cũng như hiện nay.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu người không tin, không hiểu, lại phỉ báng kinh này thì sẽ đến nơi nào?

Đức Phật bảo:

–Hãy thôi, A-nan! Ông đừng nên hỏi như thế!

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn hãy nói rõ về điều ấy, để giúp chúng sinh ở đời vị lai, nếu có kẻ không tin kinh này nghe thấy quả báo như vậy sẽ khiến họ sợ hãi mà phát tâm kính tin, thấu hiểu.

Phật dạy:

–Nếu có kẻ phỉ báng không tin kinh này thì phải chịu quả báo rất đau khổ, tội ấy đồng như năm tội nghịch. Nếu có người dùng dao bén giết hại chúng sinh đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, thì theo ý của Tôn giả, tội báo của người ấy phải bị đọa lạc vào đường nào?

Tôn giả A-nan thưa:

–Nghiệp báo của người ấy sẽ bị đọa vào đường ác.

Phật dạy:

–Này A-nan! Nay ông nên biết. Nếu sau khi hằng hà sa Đức Phật nhập Niết-bàn, vì cúng dường xá-lợi các Đức Phật mà xây dựng các tháp miếu tôn thờ, lại có kẻ phát khởi tâm ác thiêu đốt hủy hoại các tháp miếu ấy, thì theo ý của Tôn giả, người đó phải chịu lấy tội báo như thế nào?

Tôn giả A-nan thưa:

–Hạng người như vậy sẽ chịu quả báo rất đau khổ không thể nói hết, cũng không thể nghe hết, nếu phỉ báng kinh này, mà nói về tội lỗi của việc phỉ báng ấy và tội báo phải chịu thì cũng như thế, không thể nói hết hay nghe hết được. Vì sao? Vì người ấy đã hủy hoại tất cả Pháp nhãn của các Đức Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai.

Đức Phật dạy:

–Nếu thấy có người thọ trì, đọc tụng kinh này mà sinh tâm phỉ báng, khinh cười, chê bai, xúi người không tin, khiến cho họ không được đọc tụng, đúng như pháp thọ trì, thì nên biết tội ác của người ấy rất nặng nề, còn hơn trường hợp trước.

A-nan bạch Phật:

–Nếu chúng sinh trong khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều tu tập đầy đủ mười điều lành, an trụ trong đạo Bồ-đề. Nếu có người hủy hoại đôi mắt của những người ấy, thì tội ác của kẻ ấy như thế nào?

Đức Phật nói:

–Trong vô số a-tăng-kỳ kiếp, người ấy hễ làm thân người thì thường bị mù, ở trong địa ngục chịu khổ không ngừng, thường bị móc mắt.

Phật dạy:

–Nếu có người đối với kinh này tâm hủy báng, không kính tin thì ta nói tội của người ấy cũng giống như trường hợp trên.

A-nan thưa:

–Nếu có vị Bồ-tát, trụ đạo giác ngộ, kính tin, thấu hiểu kinh này, thọ trì không nghi ngờ, thì vị ấy sẽ sinh về cõi nào?

Phật dạy:

–Đó gọi là tùy thuận cúng dường các Đức Phật không hề sai khác.

A-nan bạch Phật:

–Nếu lại có người chẳng tin kinh này, tự mình phỉ báng lại xúi người khác phỉ báng theo những kẻ như thế sẽ thọ thân như thế nào, chịu quả báo đau khổ như thế nào?

Đức Phật dạy:

–Hãy thôi, A-nan! Ông chớ nên hỏi điều ấy.

A-nan bạch Phật:

–Kính mong Thế Tôn hãy giải thích, giúp cho bốn chúng đệ tử ở đây, nếu có vị nào nghi ngờ chẳng tin, thì sau khi nghe Phật chỉ dạy như vậy thì sẽ tự hối cải về những lỗi lầm của mình mà sinh tâm kính tin trở lại.

Phật bảo:

–Nếu có kẻ chẳng tin kinh này mà còn phỉ báng, thì sẽ chịu quả báo có thân hình cao đến mười ngàn do-tuần, phải chịu thân hình cao lớn như vậy và chịu vô lượng sự đau khổ.

A-nan bạch Phật:

–Kẻ đó còn chịu quả báo về lưỡi như thế nào?

Đức Phật nói:

–Tội báo của người đó, lưỡi dài rộng mỗi bề một ngàn dotuần, lại bị năm trăm ức chiếc lưỡi cày bằng sắt nung đỏ rực cày xới trên lưỡi người ấy, lại còn có năm trăm ức viên sắt nóng lên tuôn xuống như mưa trên lưỡi người đó. Vì sao? Vì người đó không biết ngăn ngừa nghiệp ác, tội lỗi phỉ báng nên phải chịu khổ như thế.

Lúc bấy giờ, bốn chúng nghe Phật nói như vậy, khắp mình đều nổi ốc, buồn bã khóc lóc, ngã lăn ra đất, rồi cùng một lời bày tỏ với Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu như những vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai mà phỉ báng kinh này sẽ phải chịu tội báo như thế. Vì vậy mà chúng con hôm nay xin thay họ sám hoi, khiến cho các tội lỗi được tiêu trừ, chẳng phải chịu lấy quả báo xấu xa cực ác như thế. Hôm nay, trước Thế Tôn và trước vô lượng các Đức Phật trong mười phương, chúng con là những kẻ ngu si mê tối, không tự biết toi lỗi của mình, chỉ có mắt Phật thì mới thật thấy thật chứng, chúng con thảy đều xin sám hối, từ nay về sau không dám gây tạo những tội ấy nữa. Ví như đứa trẻ chưa hiểu biết gì, không thể hiểu rõ, phân biệt căn lành. Hôm nay chúng con chí thành thống trách về tội lỗi của mình, kính mong Thế Tôn rủ lòng thương xót nhận cho chúng con sám hối.

Phật dạy:

–Lành thay, lành thay!

Bấy giờ bốn chúng đệ tử cùng thưa:

–Hôm nay chúng con thành tâm tự quy y, tất cả các tội lỗi đều sám hối, không dám che giấu.

Đức Phật nói:

–Các vị đã chí tâm sám hối như vậy, tất cả các pháp lành đều được tăng trưởng.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hiện nay trong chúng hội này, có người sinh tâm nghi ngờ thì tội ác nghiệp chướng cũng như thế không?

Đức Phật nói:

–Nếu trong chúng hội này có người sinh tâm nghi ngờ liền sám hối thì tất cả những tội khác và chịu quả báo cũng giảm nhẹ.

A-nan thưa:

–Thế nào là chịu tội giảm nhẹ?

Đức Phật nói:

–Lúc người ấy sắp chết, trong các lỗ chân lông trên thân mình đều chịu khổ, giống như đang ở trong địa ngục không khác. Vì sao? Vì người ấy kính tin lời dạy của Như Lai và kính tin vô lượng a-tăngkỳ các Đức Phật, cũng như đã tự sám hối.

Này A-nan! Các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai không rời bỏ tất cả mắt Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu những người ấy muốn thấy vô lượng a-tăng-kỳ các Đức Phật và thấy vô lượng đóa hoa sen có cánh bằng kim cang với ánh sáng chiếu khắp nơi, tốt đẹp nhiệm mầu.

Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân hiện thân thành một vị trưởng giả, rải các thứ hoa khắp bốn chung trong chúng hội, rồi nói:

–Sẽ dùng các thứ hoa này để cúng dường Phật, cho đến cúng dường kinh này.

Tức thì bốn chúng đệ tử liền tung rải những thứ hoa đó lên chỗ Phật, tạo thành một lọng hoa, cùng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà hiện ra điềm lành này? Hiện giờ ở trước Thế Tôn, có đóa hoa sen ấy, cũng như ở trước các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng cũng đều có hoa sen như vậy?

Đức Phật dạy:

–Nhờ công đức uy lực do giảng nói kinh này mà có điềm lành ấy. Nên biết các điềm lành ấy đều được năng lực thần thông giữ gìn.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Năng lực uy thần của Phật có thể giữ gìn được pháp này không?

Đức Phật dạy:

–Này A-nan! Chính là thần lực của ta giữ gìn pháp ấy, cho đến hằng hà sa Đức Phật cũng đều giữ gìn.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh này sẽ được gọi là kinh gì và thọ trì bằng cách nào?

Đức Phật dạy:

–Kinh này tên là Vô Trước Quả Vô Hữu Chủng Chủng Chư Tạp Ác Báo, nên thọ trì như thế. Đối với các pháp Tín hành, Pháp hành, tám bậc, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật hiểu đó là giả danh, không chân thật, cứ theo ý nghĩa đó mà thọ trì. Gọi là Lìa Bỏ Các Thứ Ma, nên thọ trì như thế. Kinh này cũng gọi là Xả Ma, nên thọ trì như thế. Cũng gọi là Lục Ba-la-mật, nên thọ trì như thế. Vì sao? Này A-nan! Nếu có người kính tin, thấu hiểu thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe, nên biết thiện nam, thiện nữ ấy đã đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Làm cách nào thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe thì liền được đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật?

Đức Phật dạy:

–Nếu các thiện nam, thiện nữ đã kính tin, thấu hiểu kinh này thì liền đầy đủ Đàn ba-la-mật. Đối với pháp này, tâm không phạm giới, đó gọi là Thi ba-la-mật. Nếu đọc tụng kinh này, tâm nhẫn không lui sụt tức là đầy đủ Sằn-đề ba-la-mật. Đối với kinh này, tâm không lui sụt, đó gọi là đầy đủ Tỳ-lê-da ba-la-mật. Kính tin, ưa thích kinh này, tâm không tán loạn, đó gọi là đầy đủ Thiền ba-la-mật. Hiểu rõ diệu lý kinh này, dứt các vọng tưởng phân biệt, đó gọi là đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật. Cho nên kinh này tương ứng với sáu pháp Ba-la-mật. Cũng gọi là Nhất Thiết Chư Phật Sở Thuyết Bất Thoái Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh.

A-nan bạch Phật:

–Tên gọi kinh này, được nghe đã là khó rồi huống chi là được thấy kinh và vào đầu hôm, nửa đêm, gần sáng lại thọ trì đầy đủ.

Đức Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông vừa nói.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người được nghe kinh này sẽ vượt khỏi bao nhiêu kiếp sinh tử?

Phật dạy:

–Nếu người được nghe tên kinh Bất Thoái Phap Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh Phương Đẳng này, thì người ấy sẽ thoát ngàn kiếp sinh tử.

A-nan bạch Phật:

–Nếu có người nghe tên kinh này, kính tin, hiểu rõ và phát tâm Bồ-đề thì công đức người ấy sẽ được trụ ở giai vị nào?

Phật nói:

–Nếu có người nghe tên kinh này thì được thọ ký thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được địa vị không thoái chuyển.

Bấy giờ, ở trước bốn chúng đều có các tòa hoa sen với nhiều màu sắc, mỗi hoa có trăm ngàn muôn ức cánh hoa. Bốn chúng đệ tử vui mừng hớn hở, liền dâng rải những hoa ấy lên để cúng dường Đức Phật và cùng bạch:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con đều sẽ vì mọi người mà giảng nói rộng khắp kinh này, giải thích hiển bày khiến cho kinh không bị dứt mất.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Tức thì vang lên nhạc trời, gió thơm thổi tới xông tỏa múi hương ngạt ngào. Trong hư không, rất nhiều vị trời cũng trổi vô số các thứ nhạc trời, lại tuôn xuống như mưa các thứ hương trời bột mịn màng, các thứ hương chiên-đàn, trầm thủy, giao lương, mạt vàng Diêm-phù-đàn và các loại mạt bạc, lưới báu ma-ni phủ khắp phía trên và năm thứ hoa năm màu: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, hoa Ca-ca-la, hoa Ma-ha ca-ca-la, và tất cả các thứ hoa Ưu-bát-la, Câu-vat-đầu, Phân-đà-lợi. Rồi nào hương anh lạc, hương xoa, hương bột… tất cả vật cúng dường của các vị trời đều đầy khắp cả hư không. Trên mặt đất thì có vô số chúng dân cũng sửa sang y phục, hoa cúng dường. Lại có các chúng sinh khác đều cởi vô số những vòng ngọc, xuyến vàng, chuỗi ngọc, mũ mão quý giá dâng lên Đức Thế Tôn. Lại có các chúng sinh khác rải vàng bạc lên chỗ Phật để cúng dường. Lại có các chúng sinh khác vui mừng hớn hở cùng nhau hô to: “Lành thay, lành thay!” Và các voi ngựa cũng kêu lên những tiếng êm tai.

Trên không trung muôn ngàn những loài chim chóc hót vang, để cúng dường Phật. Chúng sinh ở địa ngục được tạm vui do ngừng hình phạt. Các loài súc sinh thì tỏ ra thân ái, tưởng như cha mẹ, tất cả chúng sinh ở cõi vua Diêm-la cũng tạm được vui. Chúng sinh ở cõi ngạ quỷ thảy đều dứt hết mọi đói khát khổ não. Tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa,… cũng đều cảm thấy vui sướng, phát khởi lòng thương yêu lẫn nhau, xem nhau như cha con.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì hôm nay Đức Như Lai mỉm cười?

Phật bảo A-nan:

–Hiện nay, bốn chúng đệ tử Ty-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa… nếu trong đời này, đời sau được nghe kinh này, thì đều được không thoái chuyển trên đường tiến đến đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có khả năng nói rộng kinh này cho người khác nghe, không hề tổn giảm, cũng như ta hôm nay phân biệt, giảng nói,… không có sai khác.

Này A-nan! Những người nghe kinh này rồi, sinh tâm kính tin, hiểu rõ tức là gieo trồng hạt giống Phật, huống chi là thọ trì, đọc tụng, tu lành. Nên biết người này sẽ bỏ tất cả mọi trí thức thông thường và chẳng bao lâu sẽ đạt đến Nhất thiết trí, Tự nhiên trí. Do đó kinh này còn có tên là Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Chi Ấn, kinh này có công năng đem lại những lợi ích lớn lao cho các vị Bồ-tát, cũng như tạo nhân duyên phát tâm đạo Vô thượng cho tất cả chúng sinh. Đã phát tâm rồi thì sẽ thành tựu đầy đủ kinh này.

Này A-nan! Như Lai chỉ bày cho các chúng sinh Nhất thiết trí. Nếu như có người nào, tuy lìa trí tuệ Phật, nhưng nghe kinh này thì được Tự nhiên trí và Phật trí, cũng được Phật thọ ký. Do vậy, kinh này còn có tên là Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh cũng gọi là Thành Tựu Cụ Túc Thiện Căn Trang Nghiêm Phương Tiện Vi Tác Lợi Ích Hành Đại Thừa Giả, A-nan nên ghi nhớ.

Bấy giờ, khi Đức Như Lai nói rộng kinh này thì có vô số các vị Bồ-tát đều được thành tựu pháp Nhẫn vô sinh; cùng với vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ ức số chúng sinh đều được an trụ không lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Đức Thế Tôn nói kinh này xong, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Xá-lợiphất, A-nan… cùng với bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di và tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều rất vui mừng, cung kính thực hành, lễ Phật rồi lui ra.

Pages: 1 2 3 4