KINH LỜI VÀNG
  Trích soạn: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm

PHẦN II: NGÔN HÀNH

CHƯƠNG I: TU THIỆN – PHÁ ÁC

Lời nói, việc làm, trung thực đức tin; trong ngoài phải thuận hợp với nhau.

Kinh Vô Lượng Thọ

Dùng nhiều ví dụ đễ rộng nói ngôn giáo.

Kinh Pháp Hoa

Kỳ Bà nói: bề tôi này nghe Phật thường nói tu một niệm lành phá được trăm điều ác.

Phật dạy: Đại vương, ví như chút kim cang, có thể phá núi tu di; cũng như lửa có thể đốt cháy tất cả; như chút thuốc độc, có thể hại mạng chúng sanh. Chút lành cũng vậy, tuy gọi chút lành, kỳ thật là lớn, vì sao vậy? Vì có thể phá đại ác vậy.

Đừng khinh ác nhỏ cho là không tội, giọt nước tuy ít chứa dồn đầy lu.

Kinh Niết Bàn

Vững tâm chánh ý, trai giới trong sạch trong một ngày đêm, hơn ở bên cõi vô lượng thọ tu hành trăm năm, sao thế? Vì bên nước Phật kia vô vi tự nhiên nghĩa là các điều lành đều chứa nhóm, không có mảy may điều ác vậy.

Ở cõi này tu hành mười ngày đêm hơn ở các cõi nước các đức Phật khác tu hành ngàn năm. Tại vì sao? Vì các cõi các đức Phật kia nhiều kẻ làm lành mà ít người làm ác, phước đức tự nhiên, không có điều kiện tạo ác vậy.

Kinh Vô Lượng Thọ

Đức Phật bảo vua Ba Tư Nặc: Hỡi Đại vương, nay phỏng có người thân tín đến bảo với nhà vua rằng có bốn núi lớn ở bốn phương sắp sập, sẽ đè hại nhân dân thì nhà vua có kế và phương sách chi để đối phó không?

Vua thưa: Thưa Thế Tôn, nếu quả có việc ấy xảy ra, thật không nơi lánh nạn. Nhưng chỉ chuyên tâm trì giới và tu bố thí mà thôi.

Phật khen: Hay thay Đại vương, ý Ta nói bốn núi là muốn chỉ bốn món sanh, lão, bịnh, tử của chúng sanh. Nó thường hay đến cướp mất mạng người, làm sao chẳng tu giới và bố thí được. Vua nói: Thưa đức Thế Tôn, trì giới và bố thí được những quả báo gì?

Phật đáp: sanh về cõi người hoặc cõi trời được hưởng nhiều vui sướng.

Kinh Niết Bàn

Rõ biết lỗi phiền não, chẳng chạy theo phiền não, hay nhẫn chịu ác khổ, chẳng sanh lòng sợ hãi, ai đủ bốn pháp này, chẳng làm điều ác, ưa tu pháp lành, phân biệt lành dữ, gần gũi chánh pháp, thương xót chúng sanh, rõ biết kiếp trước, đủ năm món này chẳng bị lay động.

Nếu nghe người chê, thì an nhẫn lòng, hoặc nghe người khen, thì nên hổ thẹn; tu đạo chẳng kiêu thấy người chia lìa, khiến họ hòa hiệp, nêu điều hay của người, che việc dở của người, đừng nói xấu của người. Đối với phiền não nên nghĩ như kẻ oán; đối với thiện pháp, nên tưởng như người thân thuộc. Tuy cúng dường cha mẹ, thầy bạn chẳng nên nhơn đó mà khởi kiêu mạn.

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Phật bảo Xá Lợi Phất: Bồ tát đối tất cả chỗ, thà chịu mất thân mạng, xa lìa các hạnh tà dục, xa lìa lời giả dối, hai lưỡi, xa lìa lời thêu dệt, giận dữ, tà kiến, thường trọn nên hạnh trong sạch hơn hết.

Kinh Bồ Tát Chánh Pháp

Người có được hành vi công quả, chỉ bởi bỏ dục lạc thế gian mà sanh.

Kinh Tăng Nhứt A Hàm (Văn Ba Lị)

Phước nghiệp như trái chín, chẳng phải nhờ cúng thần mà được. Duy người nào cỡi xe trì giới, được sanh trên trời. Phải biết tất cả việc do làm mà thành, chớ chẳng phải nhờ cúng cầu mà được.

Kinh Tạp Bảo Tạng

Chương II: TỰ LỢI

A. CHẾ TÂM

Đức Phật dạy: Người thường bị mắt dối gạt, bị tai dối gạt, bị mũi dối gạt, bị miệng dối gạt, và bị thân dối gạt.

Kinh A Hàm Chánh Hạnh

Nếu chuyên niệm phân biệt kỹ sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; cùng sáu cảnh trần là sắc, thanh, hương, vị xúc, và pháp thì quyết chẳng đọa vào ác đạo.

Mắt xem sắc hoặc tốt hay xấu, thấy tốt thì ưa, xấu thì ghét. Tai nghe tiếng, hoặc hay hay dở, nghe hay là ưa, dở là ghét. Mũi, lưỡi, thân, ý cũng giống như thế.

Ví như sáu loại thú tánh tình chẳng giống nhau; nếu có người bắt các con: chó, chồn, khỉ, lươn, rắn và chim, lấy giây trói chùm, lại để một chỗ, rồi thả nó ra. Bấy giờ trong ý mỗi con muốn chạy mỗi nơi: Chó muốn chạy rong trong làng xóm; khỉ muốn chạy lên núi chuyền cây trên rừng, chồn muốn chạy vào hang trong những ngôi mả xưa; lươn muốn bò xuống nước; rắn muốn bò vào hang; và chim muốn bay giữa trời hư không. Vì sáu con tánh hạnh khác nhau nên ý muốn chẳng đồng.

Lại có người cũng bắt sáu con này trói chùm để nằm chung một chỗ, chẳng cho bay chạy đi đâu cả, khi ấy mặc cho chúng cựa quậy dãy dụa, nhưng chẳng xa lìa chỗ nằm.

Sáu tình thức của người cũng giống như thế; nó đều có chỗ sở thủ riêng nên công dụng chẳng đồng, chỗ nhận thấy có khác, có tốt có xấu. Khi ấy các Tỳ kheo trói buộc sáu tình thức để chung một nơi. Vậy nên các Tỳ kheo phải tinh tấn tu niệm chẳng cho tâm ý rối loạn. Bấy giờ tệ ma ba tuần có muốn quấy rối cũng chẳng làm gì được. Do đó các công đức lành thảy đều trọn nên.

Kinh Tăng Nhất A Hàm

Ngày xưa, khi đức Phật còn tại thế, có một người Đạo nhơn, ở gốc cây bên sông học đạo trong khoảng 12 năm ròng mà chẳng trừ được lòng tham dục; tâm ý thường chạy tán loạn, cứ nhớ năm món dục, liền suy nghĩ muốn được mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, miệng nếm vị, thân cọ xát và ý duyên pháp. Hễ thân động là ý chạy, không có chút yên nghỉ.

Khi ấy đức Phật quán biết kẻ Đạo nhơn kia đã đến lúc độ được, nên Ngài liền đi đến nơi gốc cây nọ cùng với ông ta ngủ lại một đêm. Trong giây lát có con rùa từ dưới sông bò lên đi đến gần cây, lát sau lại có con chó nước đói đang đi kiếm ăn, may gặp rùa liền muốn ăn thịt. Rùa liền thụt đầu, đuôi và bốn chân giấu kín trong mai, chó nước không thể hại được. Chó bỏ đi xa xa, rùa ta ló đầu, chân thong thả bò đi. Thế là chó nước chẳng làm gì được, rùa được thoát nạn.

Khi ấy Đạo nhơn thấy vậy mới hỏi Phật rằng: có phải con rùa nó nhờ có mai hộ mạng nên chó nước chẳng ăn được không?

Phật đáp: Phải. Ngài tiếp: Ta nghĩ người đời chẳng bằng rùa nầy. Họ chẳng biết vô thường buông lung sáu tình nên bị ngoại ma làm hại. Khi mà thân hình này hư hoại, thần thức xa lìa, sanh tử không ngằn, trôi lăn năm đạo, khổ não trăm ngàn; ấy đâu chẳng phải đều bởi tâm ý gây nên. Cho nên tự phải cố gắng siêng năng cầu an vui diệt độ. Nhơn đó Phật liền nói kệ tóm tắt:

Giấu căn như rùa, phòng ý như thành, chiến với ma dữ, không lo bại trận.

Kinh Pháp Cú

Năm căn tâm làm chủ. Nên các ngươi phải khéo ngăn ngừa; tâm là đáng sợ hơn hết, sợ hơn rắn độc, ác thú, giặc cướp và lửa dữ.

Đức Phật dạy: Này các Tỳ kheo! Đã được an trụ giới pháp, phải ngăn ngừa năm căn, chớ cho buông lung vào nơi ngũ dục. Ví như người chăn trâu cầm gậy chăn giữ chẳng cho buông lung ăn hại mạ người; nếu thả năm căn chẳng những chỉ năm dục không bờ mé

khôn ngăn. Cũng như ngựa dữ; chẳng dùng giây cương, nó sẽ lôi người sa vào hầm hố. Lại như bị cướp hại, khổ chỉ một đời, giặc hại năm căn, khổ lụy nhiều kiếp, bị hại rất nặng lẽ nào chẳng cẩn thận lắm thay. Vậy nên người trí ngăn mà chẳng theo, giữ như giữ giặc chẳng cho chạy rong. Nếu sẩy chạy rong trong chừng giây lát liền thấy tai hại. Trong năm căn này, tâm làm chủ, vậy nên các ngươi phải khéo chế phục.

Kinh Di Giáo

Đức Phật bảo các Sa môn rằng: cẩn thận chớ vội tin ý người, ý thức quyết chẳng khá tin.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương

Động tác của thân đều do tâm mà khởi, cho nên trước phải điều khiển tâm, chớ khổ lo nơi thân, vì thân không tri giác như cây đá, tại sao cứ theo tâm mà làm khổ thân?

Kinh Phật Bổn Hạnh

Người nào tâm buông lung sau không khỏi ăn năn, tội lỗi tâm buông lung, nặng hơn núi Tu di.

Kinh Nhẫn Nhục

Cất trăm ngôi chùa Phật, chẳng bằng cứu sống một người, cứu sống người khắp mười phương thiên hạ, chẳng bằng một ngày tu tâm.

Kinh Ma Ý

Thà tự mổ bụng, chẻ xương, quyết chẳng theo tâm làm ác. Duy có lực sĩ mới chẳng bị nhiều sức mạnh khác. Ai tự mình tu tâm được, thì hơn kẻ lực sĩ kia. Phật phấn đấu với tâm đã bao kiếp nhiều không kể xiết, chẳng dám theo tâm, đem hết sức mạnh tu hạnh tinh tấn mà tự thành Phật vậy.

Kinh Niết Bàn

Phải tự quyết đoán, thẳng thân chánh hạnh, làm nhiều điều lành, tu mình sạch thân, rửa trừ lòng nhơ, nói, làm trung tín, trong ngoài hợp nhau, khéo hay tự độ, rồi mới cứu người, siêng năng sáng suốt cầu nguyện, chứa nhiều căn lành.

Kinh Vô Lượng Thọ

Ngươi chánh mắt, ngươi chánh tai, ngươi chánh mũi, ngươi chánh miệng, ngươi chánh thân và ngươi chánh ý.

Kinh Chánh Hạnh

Phật dạy: Các ngươi Tỳ kheo, tâm dua vậy, với Đạo trái nghịch, vậy nên phải dùng tâm ngay thẳng. Phải biết tâm dua vậy chỉ để dối gạt. Người vào Đạo thời không làm vậy. Vậy nên các người hãy dùng tâm đoan chánh ngay thẳng làm gốc.

Kinh Di Giáo

Ví như quân ra trận, đông hàng trăm vạn nhờ các vị danh tướng mà thắng địch; kẻ Đạo nhơn uốn dẹp tâm ý, phụng Đạo tu pháp, thuận tu giới cấm, thân ý trong sạch, thi ân bố đức, trừ bỏ giận dữ, kiêu xa, tranh cãi, chuyên tinh tu Đạo, giống như những vị danh tướng điều khiển binh cơ.

Kinh Tứ Tự Xâm

Một lòng ngăn ý, vững thân chánh hành, siêng làm việc lành, chẳng bị điều ác, siêng mình độ thoát, được nhiều phước đức.

Kinh Vô Lượng Thọ

Ngồi giữa đám đông, chẳng hổ với người, được nhiều người trọng kính là nhờ tâm mình trong sạch ngay thẳng vậy.

Kinh Chánh Hạnh

Thí dụ một người có bốn bà vợ; bà thứ nhứt được chồng mến yêu, đi đứng nằm ngồi làm lụng nghỉ ngơi không hề rời nhau; ăn uống, đồ mặc thường được chồng sắm sửa cho trước hết; lạnh nóng đói khát, xem sóc tùy thời, chìu theo ý muốn của vợ, chưa bao giờ cùng nhau cãi miệng.

Người vợ thứ hai, đi ngồi nói năng, thường ở hai bên tả hữu, chồng gặp thì vui, xa chút thì buồn.

Bà vợ thứ ba, thỉnh thỏang gặp nhau, khốn đốn cùng cực mới nghĩ đến nhau.

Người vợ thứ tư, bị chồng sai sử phục vụ có việc thì đến, mà chưa từng săn sóc giúp đỡ, thường hay bỏ qua.

Đến khi người chồng sắp chết, kêu vợ thứ nhất bảo: ngươi phải đi theo ta đi? Vợ trả lời: tôi không thể đi theo anh được. Chồng nói: ta rất yêu mến ngươi thường chịu thuận theo ý muốn của ngươi, tại sao chẳng đi theo ta? Vợ nói: anh tuy có lòng yêu mến tôi thật, nhưng tôi không thể nào đi theo anh được mà.

Chồng liền kêu bà thứ hai bảo: mình đi theo tôi đi? Vợ đáp: Anh yêu mến chị cả sao không bắt chị ấy đi theo anh, tôi đâu có đi theo anh được. Chồng buộc: ta ngày trước tìm ngươi khổ thật không thể tả: chịu lạnh, chịu nóng, chịu đói khát… nay sao chẳng chịu đi theo ta? Bà ta nói: bởi lòng anh tham dục mới cố gắng tìm cầu đến tôi, chớ tôi đâu có cần anh, nay anh sao lại đem việc gian khổ mà bảo với tôi?

Anh chồng lại kêu vợ thứ ba mà rằng: mình nên đi theo tôi đi. Vợ nói: tôi đã chịu ơn huệ của anh, nay anh đến phút cuối cùng… tôi xin tiễn đưa anh đến ngoài thành mà thôi, chớ chắc không thể đi xa hơn đến chỗ anh ở được.

Sau cùng chàng kêu vợ thứ tư nói: thôi mình đi theo ta đi. Chị trả lời: tôi đã xa lìa cha mẹ tôi đến đây hầu hạ anh, để anh sai khiến… thì việc chết, sống, khổ vui phải có mặt với nhau. Giờ đây tôi xin theo anh đi cho đến chỗ.

Ba người trước là những người thích hợp với ý chồng, mà không thể đi theo được; duy người thứ tư khổ cực, xấu xí chẳng hợp ý chồng lại chịu đi theo.

Đức Phật nói: bốn thí dụ trên, vợ thứ nhất dụ cho thân người. Người đời ưa mến xác thân hơn con vợ cả, nhưng đến khi chết nó nằm trơ nơi đất, chẳng chịu đi theo. Vợ thứ hai dụ cho của cải. Khi được thì vui chẳng được thì buồn, đến khi chết của cải hoàn lại cho đời, nào có chịu đi theo. Vợ thứ ba là dụ cho cha mẹ, vợ con anh em, bạn bè và tôi tớ. Lúc sanh thời lấy ân nghĩa, tình ái cùng nhau tưởng mến, đến khi chết, họ chỉ khóc lóc sa lệ tiễn đưa tới ngoài thành, nghĩa địa là cùng. Rồi từ giã người chết, ai về nhà nấy; thương nhớ có lâu lắm cũng không quá mười ngày, rồi nhóm nhau ăn uống quên mất người chết.

Vợ thứ tư dụ cho chính là tâm ý của con người. Trong thiên hạ ai mà không có tự ái bảo thủ ý mình: buông tâm thả ý, tham dục, giận dữ, chẳng tin chánh đạo. Đến khi chết, chỉ có tâm ý chịu đi theo, để phải đọa vào ác đạo. Cho nên phải tự mình thẳng tâm chánh ý.

Kinh A Hàm

Tâm ý vốn sạch, bị lỗi làm dơ, lấy nước trí huệ rửa trừ tâm dơ.

Kinh Văn Thù Sư Lợi Vấn

Người rèn sắt bỏ sét làm thành món đồ, đồ ấy được tinh xảo. Người ưa học Đạo, bỏ tâm nhơ bẩn, hạnh liền trong sạch.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương

Ai do tâm sanh, trở lại hại tâm; sắt hay sanh sét, sét lại tiêu sắt.

Kinh Bột

Như người chầm chậm thong thả tinh tiến, rửa trừ tâm dơ, như thợ luyện vàng; ác do tâm sanh, lại hại tự thân, như sắt sanh sét trở lại ăn sắt.

Kinh Pháp Cú

Nước Ba Tư Nại có một cư sĩ tên là Cúc Đề, sanh hạ một trai tên là Ưu Bà Cúc Đề. Khi đã trưởng thành, vì nhà nghèo nên làm nghề nấu nướng. Người cha cho của cải khiến mở tiệm buôn bán. Bấy giờ có ngài La Hán tên Đa Thế Bệ, đến nhà thuyết pháp giáo hóa, dạy tu phép kể niệm: lấy một mớ đá đen, trắng làm cái bàn toán. Hễ nghĩ một niệm lành thì hạ xuống một hòn đá trắng, mà khởi một niệm ác thì hạ xuống một hòn đá đen.

Ưu Bà Cúc Đề vâng theo lời dạy. Tùy niệm thiện, ác chính lúc khởi lên, liền hạ xuống một hòn đá trắng hoặc đen. Ban đầu đen nhiều hơn, trắng rất ít; dần dần tụ tập, đen trắng ngang nhau. Rồi chăm tu chẳng gián đoạn thì hẳn không có hòn đen nào cả, mà chỉ toàn hòn trắng. Khi ấy niệm thiện đã thắng hẳn liền chứng được Sơ quả.

Kinh Hiền Ngu

Người hàng phục ý mình không nổi, lại muốn hàng phục ý người khác. Phải hàng phục ý mình trước đã, mới có thể hàng phục được ý người.

Kinh Tam Huệ

Người trí lấy huệ luyện tâm, tìm xét các lỗi, như kim khí còn quặng luyện vài trăm lần mới thành vàng ròng; cũng như biển cả ngày đêm sôi động mới có ngọc báu. Người cũng như vậy, tu tâm đêm ngày chẳng dứt, mới chứng được đạo quả.

Kinh Xuất Diệu

B. THẬT NGỮ

Phật dạy: các đệ tử! Các ngươi nên bỏ những lời vô nghĩa, thường tự giữ gìn lời nói; nói phải biết thời, nói phải thuận pháp. Những lời nói ngoài việc lợi ích cho người, dù là nói chơi cũng không nên nói.

Kinh Hoa Nghiêm

Những người thế gian, khi còn sống, lưỡi tự nhiên sanh ra cái búa sắt nghĩa là cái miệng nói những lời độc ác, rồi quay lại hại thân mình.

Kinh Khởi Thế Nhơn Bổn

Chẳng đạng nói dối bằng chứng cho người, khiến họ phạm pháp; chẳng đặng truyền nói lời dữ, khiến họ cùng nhau cãi cọ tranh giành; chẳng đặng nói lời làm hại ý người; đừng chẳng nghe nói nghe, chẳng thấy nói thấy.

Kinh A Hàm Chánh Hạnh

Ngày xưa có con ba ba gặp phải thời nắng khô, nước các ao hồ cạn hết, tự mình không thể đi đến những ao còn nước được. Bấy giờ có con hạc rất to bay đậu gần bên, ba ba liền lại cầu xin nhờ hạc cứu giúp cho. Hạc dùng mỏ kẹp ba ba, tha bay đi. Bay qua nơi thị trấn, xóm làng, ba ba chẳng biết hỏi rằng: đây là chỗ gì sao chẳng đậu lại đây? Hạc muốn trả lời mới hả mỏ ba ba rớt xuống đất; bị người bắt ăn thịt. Những người ngu dại chẳng cẩn thận nơi miệng lưỡi cũng như thế.

Kinh Cựu Tạp Thí Dụ

Lời nói thiệt, chẳng cần bố thí trì giới hay học vấn đa văn gì cả mà chỉ tu thiệt ngữ vẫn được phước không lường.

Luận Trí Độ

Thiệt ngữ Đồng tử hỏi Phật rằng: thiệt là gì? Phật đáp: thiệt có ba là chẳng dối Phật, chẳng dối mình và chẳng dối chúng sanh. Lại hỏi: nói thế nào là thiệt? Phật đáp: chẳng nói nhiểu, giữ gìn lời nói và chẳng nên nói lời thô, ấy là thật ngữ.

Kinh Đại Tập

Nói phô những lời giả dối, làm não hại tất cả chúng sanh; kẻ ấy thường như bị giam trong tối tăm, tuy còn sống mà đồng như người chết.

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ

Các đệ tử! Các ngươi nên bỏ lời nói dối, thường nói lời chơn thiệt, lời chắc chắn, dù là trong mộng cũng chẳng nên nói dối.

Kinh Hoa Nghiêm

Vọng ngữ có 10 tội:

  1. Hơi miệng thúi hôi
  2. Các vị thiện thần tránh xa, ác quỷ dễ làm hại
  3. Dù có nói thiệt, người chẳng chịu tin
  4. Kẻ trí dư luận, thường chẳng tham dự
  5. Thường bị chê bai, tiếng tăm xấu xa đồn khắp thiên hạ
  6. Người chẳng kính trọng, khi có việc sai khiến họ chẳng vâng theo
  7. Thường lắm lo buồn
  8. Trồng nghiệp nhơn chê bai
  9. Thân hư mạng chết, phải đọa địa ngục
  10. Nếu được sanh làm người, thường bị chê bai

Luận Trí Độ

Bỏ vọng ngữ, được người đời hoặc thấy hoặc nghe thảy đều tin kính; dù phải nghèo cùng không của cải cũng được tất cả người đời cúng dường như vua. Trong tất cả loài người, người thật ngữ là ánh sáng rực rỡ; giống như ánh sánh mặt trăng rực rỡ hơn các vì sao; trong các thứ ngọc, ngọc thiệt ngữ là quý hơn hết; trong tất cả thuyền để độ qua giòng sanh tử, chiếc thuyền thiệt ngữ là hơn hết; muốn xa lìa các hạnh tà ác, xa lìa vọng ngữ là hơn hết; trong các thứ đèn, đèn thiệt ngữ là sáng hơn hết; những kẻ giỏi dẫn đường đi trong ác đạo, kẻ dẫn đường thiệt ngữ là giỏi hơn hết; tất cả vật thọ dụng trong đời, vật thiệt ngữ là hơn hết; hết thảy các món thuốc trị bịnh, món thuốc thiệt ngữ là hay hơn hết; trong tất cả các thế lực mạnh mẽ, thế lực thiệt ngữ là mạnh hơn hết; trong các nơi nương về, nương về thiệt ngữ là hơn hết; tất cả bạn tri thức, bạn thiệt ngữ là hơn hết.

Nếu mọi người biết thu lấy của thiệt ngữ thì trong thế gian không ai đọa vào cảnh nghèo nàn và tàn ác, được sanh ngang với các bậc trời.

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ

Đức Phật bảo A Nan: Người sanh thế gian, tai họa sanh từ miệng, nên phải giữ miệng lắm hơn đề phòng lửa dữ; lửa dữ đốt cháy của thế gian, miệng dữ đốt cháy của bảy bậc thánh. Tất cả chúng sanh họa từ miệng sanh ra, nên biết miệng là dao búa giết thân vậy.

Kinh Báo Ân

Nói ác, mắng chửi, kiêu mạn khinh người. Các điều ác ấy khởi ra là ganh ghét oán hận sanh ngay. Nói lời khiêm tốn, tôn kính người, bỏ oán, nhẫn ác, là ganh ghét, oán hận tự dứt. Là người sanh ở đời, búa tại trong miệng, sở dĩ giết thân do lời nói dữ.

Khen kẻ ác, được kẻ ác khen lại, hai bên đều là ác. Ưa dùng miệng đấu nhau, về sau đôi bên đều không yên.

Nên đừng nói lời cộc cằn, nói phải sợ quả báo, đưa lời ác đi, tai họa trả lại, dao gậy đến thân. Thốt ra lời nói lành, như đánh chuông khánh, thân không nghị luận, suốt đời an vui.

Kinh Pháp Cú

Ưa miệng dữ, hai lưỡi, để moi móc lỗi của người. Người bất thiện như vậy, không việc ác nào mà họ không làm.

Kinh Hoa Thủ

Phật dạy: bỏ hai lưỡi, không có ác tâm phá hoại, khiến cho những người tranh đấu ly tán, được hòa hiệp lại. Và bỏ lời nói ác khẩu thô bạo cộc cằn biết nó là hại mình hại người nên xa lìa.

Kinh Hoa Nghiêm

Lằm lời nhiều lẽ thì người ta sợ tránh, lời hai lưỡi đâm thọc là thứ nhất. Người nào bỏ nói hai lưỡi, người ấy đời nầy hưởng được quả báo tốt, bè bạn, bà con, anh em, vợ con và tôi tớ thảy đều gần gũi thuận hòa, vững vàng chắc chắn không ai phá hoại được.

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ

C. NHẪN THỌ

Bồ tát nhẫn chịu tất cả điều ác. Với chúng sanh, tâm bình đẳng, chẳng lay động như chốn đại địa.

Kinh Hoa Nghiêm

Nếu lấy tranh đấu để ngăn tranh đấu chắc chắn không thể ngăn được, duy có nhẫn nhục mới có thể ngăn được. Đó là phương pháp thật cao cả.

Kinh Trung A Hàm

Như có người bạo ác, với việc phi lý, mà cứ phỉ báng nhau mãi. Có người trí lấy lời chân thật an ủi nhẫn chịu mới có thể trừ được.

Kinh Chư Pháp Tập Yếu

Sanh Văn phạm chí đến xin thưa Phật rằng: đệ tử của Ngài với đệ tử của kẻ khác có điểm nào đặc biệt không? Và có công đức chi hơn?

Đức Phật đáp: có. Hai hạng đệ tử xuất gia và tại gia của Ta có những điểm đặc biệt: kinh đoanh việc gì nếu thất bại, họ vẫn không buồn rầu khóc lóc, cũng chẳng phát điên cuồng. Hay họ bị những điều đói khát lạnh nóng, mưa gió, ép bức, hoặc bị roi gậy đánh dập, hay bị mắng nhiếc độc ác, họ cũng có thể nhẫn nại được cả, ấy là những điều mà kẻ khác không thể chịu được vậy. Đệ tử của Ta có những công đức như vậy đó. Ông Phạm Chí nghe rồi xin thọ giáo liền quy y Tam bảo thành kẻ Ưu bà tắc.

Kinh Tạp A Hàm

Đức Thế Tôn dạy: thà lấy gươm bén mổ bụng, lột da, hay gieo mình vào lửa, quyết không làm ác; thà đầu đội núi Tu di chịu để cho tan thân, hoặc nhảy xuống biển cả cho các trạnh nuốt thây, cẩn thận đừng làm ác.

Kinh Nhẫn Nhục

Tuy nghe nhiều tiếng xấu, người tu khổ hạnh phải nhẫn nhục, chẳng nên tự nói khổ, cũng chẳng nên sanh lòng buồn. Nghe tiếng xấu mà sợ hãi, đấy là loại thú rừng núi, là chúng sanh tánh tình vội vã, chẳng thành pháp xuất gia. Người tu hành phải đủ sức nhẫn nhục tiếng xấu ba bực: thượng, trung, hạ để vững tâm an trụ. A? là pháp xuất gia vậy.

Do một lời nói của kẻ khác, không thể khiến ngươi thành đứa giặc cướp và cũng do lời nói của họ không thể khiến ngươi chứng A la hán. Như ngươi tự biết mình thời chư thiên cũng biết ngươi vậy.

Kinh Tỳ Kheo Tị Nữ Nhơn Ố Danh

Bồ tát bị mắng nhiếc lâu trăm ngàn kiếp, chẳng sanh lòng giận dữ, hay được khen ngợi trăm ngàn đời cũng chẳng đặng sanh tâm vui mừng. Ấy là vì đã liễu đạt lời nói người đời là lẽ sinh diệt của tiếng tăm như chiêm bao, như tiếng vang.

Luận Trí Độ

Do quán năm nghĩa để dứt lòng giận dữ:

  1. Quán tất cả chúng sanh từ nhiều kiếp đến nay, đối với ta đã có ân huệ
  2. Quán tất cả chúng sanh thường tiêu diệt từng mỗi niệm
  3. Quán có pháp mà không có chúng sanh thì đâu có năng tổn và sở tổn
  4. Quán tất cả chúng sanh đều đã chịu khổ, sao lại làm cho khổ thêm
  5. Quán tất cả chúng sanh là con mình, làm sao sanh tâm tổn hại được

Luận Nhiếp Đại Thừa

Đứa dữ nghe người lành, cố tâm đến phá rối, ngươi tự phải cấm dứt, chớ giận trách làm chi; nó đến phá rối mình, là nó tự chuốc lấy dữ.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương

Kẻ Sa môn tu hành, lấy nhẫn làm đầu; phải như nước trong, không chút nhơ bẩn. Nước đối với thây người chết, chó chết, rắn chết, và đồ đại tiểu tiện đều rửa tẩy, nhưng nước vẫn trong sạch. Cần phải trì tâm như cầm chổi quét đất, quét sạch chỗ dơ; chổi đối với thây người chết, chó chết, rắn chết và đồ đại tiểu tiện thảy đều quét sạch, nhưng chổi chẳng hư hao, cũng như sức mạnh và ánh sáng của gió, lửa đối với thây chết, chó chết, rắn chết và đồ đại tiểu tiện đều thổi bay, đốt cháy. Nhưng sức mạnh và ánh sáng của gió, lửa vẫn chẳng hao mòn.

Nếu người muốn đến giết mình, mắng mình, mình cũng chẳng nên giận; hay đến khen mình hoặc cười mĩa mình, mình chẳng nên giận; hoặc họ đến phá mình chẳng cho phụng sự Phật pháp, cũng chẳng nên giận dữ. Cần phải từ tâm chánh ý thì tội diệt phước sanh.

Kinh Tiên Ý

Nhẫn có 10 điều:

  1. Quán cái ta và tướng mạo của ta
  2. Quán nghĩ chủng tánh
  3. Phá từ kiêu mạn
  4. A? đến chẳng trả thù
  5. Quán tướng vô thường
  6. Tu từ bi
  7. Tâm chẳng buông lung
  8. Bỏ các việc đói khát khổ vui
  9. Dứt trừ giận dữ
  10. Tu tập trí huệ

Nếu người nào có thể hoàn thành được 10 sự kiện này, phải biết người ấy đã tu được hạnh nhẫn nhục.

Kinh Bảo Tích

Ngài Thiện Thuận Tỳ kheo từ nước Xá Vệ khởi hành, vì muốn các chúng sanh được lễ Phật nghe pháp, nên Ngài đem một số đông người cùng đi đến chỗ Phật.

Bấy giờ vua nước ấy nghi Tỳ kheo nầy chắc có mưu mô muốn chiếm đoạt ngôi vua hay là cõi ngưới gì đây? Vua sai bốn người lực sĩ chận đường Tỳ kheo rồi mắng chửi đủ thứ và đánh đập nữa. Nhưng Ngài thản nhiên chẳng giận dữ gì cả. Khi ấy vua lại thay bốn lực sĩ khác đến khuyên bảo Tỳ kheo rằng: “Sao Ngài chẳng trả thù bọn người đánh mắng kia? Nếu Ngài ra tay thì chúng tôi giúp sức.” Ngài vẫn thản nhiên chẳng nghe lời.

Bầy giờ vua lại lập kế khác đưa vàng bạc và của báu cho bốn người ấy và đến bảo Ngài rằng: “Ngươi sẵn có phương tiện đông người sao chẳng cướp lấy của cải bọn kia? Ngươi thi hành đi, lỡ xảy ra điều gì trẩm sẽ giúp sức.” Tỳ kheo lúc lắc đầu tâu: Tôi tuy nghèo cùng không thể tự sống, nhưng những của “chẳng cho” thì quyết chẳng lấy. Vua nghe Ngài nói lời ấy cảm mến bãi mưu.

Kinh Bảo Tích

Bồ tát thường hay tu pháp nhẫn nhục, khiêm nhường, cung kính, vui vẻ, chẳng hại mình hại người, chẳng tự cao, chẳng tâng bốc người, chẳng khen ngợi mình, chẳng khen ngợi người. Bồ tát chỉ nghĩ như vậy: “Ta phải thường thuyết pháp để xa lìa tất cả ác, dứt hẳn tâm tham; sân, si, kiêu mạn, tán loạn, bũn xĩn, ganh tị, dua nịnh. Chỉ biết lấy pháp đại nhẫn nhục mà an lập.”

Bồ tát vì muốn thành tựu pháp thanh tịnh nhẫn nhục dù có chúng sanh thốt ra những lời độc ác mắng chửi, khinh uế và tay cầm dao gậy đánh đập hủy hại. Bồ tát chẳng sanh lòng giận dữ. Nên nghĩ như vầy: “Nếu Ta vì khổ này mà sanh lòng giận dữ chẳng tự điều phục, chẳng gìn giữ, chẳng hiểu rõ, chẳng yên lặng và chẳng chơn thật thì làm sao khởi tâm vui mừng đặng mà giải thoát được.”

Người nào quan sát được như vậy gọi là Bồ tát tu hạnh không giận dữ.

Kinh Hoa Nghiêm

Không hủy nhục tất cả chúng sanh, gọi là nhẫn nhục rốt ráo; tự thân bị thương tổn cũng chẳng sân, gọi là gần gũi rốt ráo; nói pháp khiến phát tâm Bồ đề, gọi là chơn thật rốt ráo. Trọn nên được cả ba món này thì gọi là trọn nên hạnh nhẫn nhục rốt ráo vậy.

Kinh Bát Nhã

Sau khi đức Như Lai nhập diệt, nếu có người hủy báng Phật, Pháp, Tăng các người chẳng nên giận dữ lo rầu, mà nên nghĩ thế này: “Nếu ta sanh lòng giận dữ thì chẳng phải sa môn.” Chẳng phải hạnh sa môn là chẳng tùy thuận đạo pháp vậy.

Kinh Hoa Thủ

Tự mình ngăn giận, như ngừng xe chạy, là người lái giỏi bỏ tối vào sáng.

Giận dữ chẳng thấy pháp, giận dữ chẳng biết đạo; nếu hay trừ giận dữ, phước lành thường thuận thân.

Kinh Pháp Cú

Nhẫn, hay sanh việc hòa bình giữa mình và người; nghĩa là tự mình chẳng bị tội lỗi do giận dữ làm ô nhiểm tức là mình hoà bình; đã không ôm lòng hờn giận, chẳng làm khổ kẻ khác tức là người hòa bình vậy.

Luận Nhiếp Đại Thừa

Bấy giờ có vị Ma Già thiên tử hỏi Phật bằng lời kệ: Giết gì được ngủ yên, giết gì được vui vẻ, và giết người hạng nào, được Cù Đàm ngợi khen?

Khi ấy đức Thế Tôn cũng đáp lại bằng kệ: Nếu giết kẻ giận dữ, được an ổn ngủ nghỉ, nếu hay giết giận dữ, khiến người được vui mừng, giết gốc độc giận dữ, thì được Ta khen ngợi. Người giết giận dữ rồi, đêm dài không lo sợ.

Kinh Tạp A Hàm

Đức Phật bảo đại chúng: Nhẫn hơn hết trên đời, nhẫn là Đạo an vui, nhẫn hộ thân cô độc, là Hiền Thánh ưa vui, nhẫn hay làm bạn thân, nhẫn thêm đẹp tiếng khen, nhẫn giàu sang được lâu, nhẫn được đủ tướng tốt, nhẫn hay được oai lực, nhẫn soi biết thế gian, nhẫn hay thành nghề khéo, sức nhẫn phục oán địch, sức nhẫn dẹp lo rầu, nhẫn được tướng mạo tốt, nhẫn được đông họ hàng, nhẫn dời lấy báo tốt, nhẫn được đến đạo lành, kẻ nhẫn được sống lâu, kẻ nhẫn được ba ngôi, nhẫn chẳng hại chúng sanh, nhẫn xa lìa trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ỷ ngữ, tham dục, và giận dữ… nhẫn mới thành tựu: bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Chính là Phật Pháp vậy.

Kinh Đại Tập

Phật dạy: nếu có Bồ tát an trụ lòng từ nhẫn có 10 món lợi ích, những gì là mười?

  1. Lửa không thể cháy
  2. Dao không thể cắt
  3. Độc không thể trúng
  4. Nước không thể trôi
  5. Được quỉ thần hộ
  6. Được thân tướng trang nghiêm
  7. Đóng các đường ác
  8. Tùy sở thích sanh về Phạm thiên
  9. Ngày đêm thường yên
  10. Thân chẳng lìa vui sướng

Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội

Nhẫn nhục là đức cả; vì khổ hạnh trì giới chẳng so sánh bằng. Ai tu được nhẫn nhục, mới được gọi là bực đại nhơn có sức mạnh.

Kinh Di Giáo

Phật dạy: kẻ nhẫn là nhiều sức mạnh vậy, vì chẳng ôm lòng ác, lại thêm khỏe mạnh. Người nhẫn không ác, chắc được người khác tôn trọng.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương

Ánh sáng nhẫn nhục mạnh hơn sức mạnh của mặt trời trăng; rồng voi, tuy gọi rất mạnh, sánh với nhẫn nhục muôn phần chẳng kịp một; ánh sáng bảy báu kẻ phàm quí trọng, nhưng hay rước khổ, vì gây tai họa; báu của nhẫn nhục thủy chung được yên.

Bố thí mười phương, tuy được phước lớn, phước chẳng bằng nhẫn. Ôm nhẫn tu trì, đời đời không oán, lòng dạ an nhiên, trọn không độc hại.

Đời không chỗ nương, duy nhẫn đáng nương, là nhà yên ổn, chẳng sanh tai quái. Nhẫn, áo giáp thần, chẳng bị đao binh. Nhẫn là đại thuyền, vượt qua bể khổ. Nhẫn là thuốc hay cứu sống nhiều mạng. Chí hướng kẻ nhẫn muốn gì chẳng được!

Kinh Nhẫn Nhục

Khi đức Phật đang ngự tại nước Ca Tỳ La Vệ có người tên Sai Ma Kiệt hỏi Phật rằng: “Bồ tát tu hạnh gì mau chứng Đạo vô thượng chánh chơn, đủ 32 tướng tốt; và đến khi lâm chung, tâm chẳng tán loạn, chẳng đọa; và đối với tất cả pháp không bị ngăn ngại?”

Phật đáp: Hạnh của Bồ tát lấy nhẫn nhục làm gốc. Nhẫn nhục có 4 món:

  1. Khi bị mắng chửi làm thinh chẳng trả thù
  2. Khi bị đánh đập chẳng giận hờn
  3. Có kẻ giận dữ đến, mình lấy lòng từ nghinh tiếp
  4. Có kẻ khinh hủy đến, chẳng nghĩ điều ác của họ

Kinh Bồ Tát Sanh Địa

Nhẫn nhục là chánh nhơn của Bồ đề: vô thượng chánh đẳng chánh giác kết quả của nhẫn nhục vậy.

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Tinh tu đức nhẫn nhục, hiển hiện Bồ đề Phật.

Kinh Hoa Nghiêm

D. CẦN TẤN

Này các Tỳ Kheo! Nên siêng tu tinh tấn thì việc gì cũng dễ. Vậy nên các ngươi phải siêng tinh tấn; ví như chút nước thường chảy thời có thể xoi mòn đá. Nếu tâm kẻ tu hành thường khi biếng trễ, ví như dùi cây lấy lửa chưa nóng mà nghỉ, dầu muốn được lửa, lửa vẫn khó được.

Kinh Di Giáo

Như hai người đồng sắp đi đến một chỗ, một người cưỡi con ngựa hay và một người cưỡi con ngựa dở; tuy cưỡi ngựa dở, vì khởi hành trước nên được đến trước. Những người tin, hiểu sớm siêng tu tinh tấn, được trước đến Niết bàn.

Luận Tỳ Bà Ta

Đệ tử Phật tên Bạc Cụ La nói: Tôi từ khi xuất gia đến nay, đã tám mươi năm qua, chưa từng ngủ nghỉ: hông chẳng dính chiếu, lưng chẳng dựa vào đâu.

Kinh Bạc Cụ La

Xưa có kẻ nhạc sĩ, biết đủ điệu nhạc, đến nhà trưởng giả xin trâu. Ông trưởng giả vì chẳng muốn cho trâu nên bảo anh rằng: Nếu anh đánh nhạc được luôn ngày đêm chẳng nghỉ đủ một năm tròn thì tôi cho trâu.

Anh thưa: Tôi đánh được, xin Ông cũng nghe luôn; trưởng giả nói: Tôi nghe luôn chớ sao! Anh ta nghe thế rất vui mừng, chăm lòng đánh luôn 3 ngày 3 đêm không chút nghỉ tay. Trưởng giả chán quá nghe không nổi nữa liền sai người nhà đem trâu ra cho.

Tỳ kheo tu đạo cũng cần như vậy. Được quả báo bất tất phải trải qua nhiều kiếp, hễ tinh tấn càng mạnh được quả báo càng sớm.

Kinh Tạp Thí Dụ

Bồ tát siêng tu hơn hết là siêng tu tinh tấn. Cho nên chẳng bị các món phiền não nầy làm rối loạn là: tham dục, giận dữ, ngu si, khinh dễ, não hại, ganh ghét, hiềm hận, dua dọc, không hổ, không trẽn.

Bồ tát thường nghĩ như vầy: “Ta chẳng muốn não hại các chúng sanh cho nên tu tinh tấn; thảy vì muốn phân biệt tất cả chúng sanh mà tu tinh tấn; vì muốn biết tất cả chúng sanh chết đây sanh kia nên tu tinh tấn; vì muốn biết thật pháp của các đức Phật nên tu tinh tấn; vì muốn biết các pháp bình đẳng để làm phương tiện khéo léo nên tu tinh tấn; vì muốn biết ba đời bình đẳng nên tu tinh tấn; vì muốn chứng được pháp các đức Phật nên tu tinh tấn; vì muốn biết đại trí huệ và phương tiện khéo léo của các đức Phật nên tu tinh tấn; vì muốn biết tất cả Phật pháp để rộng vì chúng sanh phân biệt nên tu tinh tấn.”

Bồ tát tu hạnh tinh tấn như vậy, hoặc có người hỏi: nếu có người tuy chịu khổ trong đại địa ngục trải lâu vô lượng vô số kiếp để khiến chúng sanh được Niết bàn rốt ráo chăng?

Bồ tát trả lời: Ta thảy vì tất cả chúng sanh trong thế gian mà chịu khổ ở địa ngục; sau khi chịu khổ Ta được hưởng vui vì ta thay cho tất cả chúng sanh mà chịu khổ để khắp khiến chúng sanh được Niết bàn rốt ráo. Nhiên hậu ta mới trọn nên vô thượng Bồ đề. Được như thế mới gọi là hạnh vô tận của Bồ tát.

Bồ tát tu tập các hạnh mà không sanh lòng mỏi mệt, thế lực mạnh mẽ không ai chế phục được, như thê mới đầy đử tất cả trí huệ.

Kinh Hoa Nghiêm

Có 10 món tinh tấn Bồ tát có thể tu:

  1. Vì muốn chúng sanh được giải thoát nên mặc áo giáp tinh tấn để phá trừ các chướng ngại
  2. Chăm nghĩ sức mạnh tinh tấn
  3. Xa lìa chấp trước “có” và “không” mà tu tinh tấn
  4. Vì muốn lợi ích chúng hữu tình mà tu tinh tấn
  5. Vì muốn được bồ đề gia hạnh mà tu tinh tấn
  6. Vì muốn nối liền nhau mà tu tinh tấn
  7. Vì muốn trong sạch mà tu tinh tấn
  8. Vì kẻ khác không làm được mà tu tinh tấn
  9. Chẳng theo tà giáo của kẻ khác mà tu tinh tấn
  10. Vì không có tâm ngạo mạn mà tu tinh tấn

Bồ tát siêng năng tu tinh tấn chẳng những vì mình chứng được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác mà còn vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng hữu tình nữa.

Kinh Trừ Cái Bồ Tát Sở Vấn

Có vị Sa môn ở nước La Duyệt Kỳ, Ngài ngồi mà thề rằng: “Nếu ta chẳng chứng Đạo thì quyết không đứng dậy. Khi muốn buồn ngủ, ta có cái dùi nhọn dài tám tấc, lấy chọt hai bên hông đau không thể ngủ.” Trải qua một năm Ngài chứng được Đạo.

Kinh Pháp Cú Thí Dụ

Phật dạy: các ngươi tỳ kheo! Ngày thời siêng năng tu tập các pháp lành, chớ bỏ sai thời; đầu đêm, cuối đêm cũng đừng luống bỏ. Giữa đêm tụng kinh, do mình làm chừng đỗi, đừng vì nhơn duyên ngủ nghỉ, luống qua một đời, không được chút gì. Phải nhớ lửa vô thường, đốt các thế gian, phải sớm cầu tự độ, đừng nên ngủ nghỉ.

Các giặc phiền não, thường rình giết người lắm hơn kẻ oan gia. Đâu nên ngủ nghỉ mà chẳng tự kỉnh ngộ vậy? Rắn độc phiền não, còn ngủ trong tâm ngươi, ví như rắn hổ mun, còn ngủ trong nhà ngươi, ngươi phải lấy cái móc trì giới, mau trừ nó đi; rắn ngủ đã chạy khỏi, mới nên yên ngủ. Nếu nó chưa chạy khỏi mà ngủ là người không biết xấu hổ vậy.

Kinh Di Giáo

Buông lung chính là gốc của các điều ác, chẳng buông lung mới nguồn của các điều lành.

Kinh Niết Bàn

Lỗi buông lung là nặng nhứt trong các lỗi. Người ngu ưa buông lung nên thường bị các khổ não. Nếu ai xa lìa buông lung thì thường được an vui. Tất cả các khổ não buông lung làm cội gốc, cho nên muốn khỏi khổ não cần phải bỏ buông lung.

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ

Đức Phật bảo chàng Lê Xa Tử ở thành Tỳ Xá Li rằng: buông lung chẳng phải đạo pháp đi đến Niết bàn. Buông lung có 13 lỗi:

  1. Ưa làm những nghiệp đời bất thiện
  2. Ưa nói những lời vô ích
  3. Ưa ngủ nghỉ cho lâu
  4. Ưa nói chuyện đời
  5. Ưa gần gủi bạn ác
  6. Thường biếng nhác trễ nải
  7. Thường bị người khinh dễ
  8. Dầu có được nghe cũng liền quên
  9. Ưa ở chỗ hẻo lánh
  10. Các căn chẳng điều phục được
  11. Tham chẳng biết đủ
  12. Chẳng ưa ở chỗ vắng lặng
  13. Chỗ thấy biết bất chánh

Nếu người nào buông lung tuy gần Phật và các đệ tử Phật cũng như xa cách.

Kinh Niết Bàn

Phật dạy: Con người biếng nhác hại cho các hạnh nghiệp: tại gia mà biếng nhác áo cơm chẳng no đủ, sản nghiệp chẳng phát đạt; xuất gia mà biếng nhác không thể thoát khỏi khổ sanh tử. Tất cả việc đều nhờ tinh tấn mà hưng khởi: tại gia tinh tấn thời áo cơm đầy đủ, gia nghiệp phát đạt, xa gần khen ngợi. Xuất gia tinh tấn thời trọn nên 37 phẩm trợ đạo, dứt nguồn sanh tử, được đến thành Niết bàn an vui.

Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh

Khi Đức Phật ngự tinh xá Kỳ Viên, có kẻ đệ tử tên Nhị Thập Ức, siêng năng học tập cả đêm không ngủ và chuyên cần tu các đạo pháp. Rồi ông tự nghĩ: “Đối với giới luật, ta là đứng đầu, nhưng các món lậu tâm, chưa được giải thoát. Nhà cha mẹ ta rất giàu có, ta nay thôi muốn xả giới về nhà chỉ tu phước nghiệp bố thí cũng được.”

Bấy giờ Đức Phật dùng tha tâm trí quán biết ý nghĩ của Nhị Thập Ức; Ngài liền sai kẻ thị giả gọi đến dạy rằng: “Này Nhị Thập Ức! Ta nghe ngươi khi còn tại gia chơi đàn cầm hay lắm; nếu giây đàn thẳng, tiếng nó hay không?” “Dạ thưa Thế Tôn, không hay.”

Phật lại hỏi: “Nó dùn, tiếng có hay không?”

“Dạ thưa cũng không hay.”

Phật hỏi nữa: “Vừa vừa không thẳng không dùn thì như thế nào?”

“Dạ thưa Thế Tôn: tiếng nó mới thật là hay.”

Nhơn đó Phật dạy: “Này ngươi, khi tinh tấn lắm tâm loạn, mà lúc chẳng tinh tấn, tâm sanh biếng nhác; nếu được vừa vừa bực trung thì quyết được Đạo giải thoát.”

Kinh Trung A Hàm

Ngài Cần Thủ Bồ tát nói kệ rằng: như dùi cây lấy lửa, chưa có mà ngừng nghỉ, sức lửa liền dứt mất, biếng nhác cũng như thế.

Kinh Hoa Nghiêm

Trong hai mươi năm ngài Xá Lợi Phất thường siêng năng tu tập phép chỉ quán, đi, đứng, ngồi, nằm, Ngài chánh niệm quan sát không hề loạn động.

Kinh Niệm Phật Tam Muội

Đức Phật nói với A Nan rằng: Di Lặc phát tâm trước Ta 42 kiếp, rồi Ta mới phát tâm tu Đạo, vì nhờ sức đại tinh tấn mà Ta vượt qua 90 kiếp, được thành Đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Kinh Di Lặc Sở Vấn

Trong sáu Độ ba món trước là thuộc về giới học, thiền định thuộc về tâm học, bát nhã thuộc về huệ học duy có tinh tấn là biến khắp tất cả các món.

Luận Du Già Sư Địa

Khi đức Phật Để Sa ra đời, Bồ tát chấp mười ngón tay, quì xuống một gối, đọc một bài kệ khen ngợi công đức của Phật luôn cả bảy ngày đêm liền được siêu chín kiếp.

Luận A Tì Đạt Ma

Những người tu đạo, ví như một người chiến với vạn người. Khi mặc áo giáp ra cửa thành, trong tâm hoặc khiếp sợ, hoặc nửa đường mà lui, hoặc chết tại trận, hoặc thắng trận mà về. Sa môn học đạo, cần phải kiên quyết giữ gìn tâm ý, tinh tiến dũng nhuệ, chẳng sợ gì hết, phá diệt các ma, mau chúng được Đạo quả.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương

Lấy tâm buộc tâm, lấy tâm trụ tâm, tâm chuyên một cảnh, thứ lớp không hở, thì được định tâm. Tâm thường yên lặng.

Kinh Bảo Vân

Chăm lòng học đạo pháp, phát tâm đại dũng mãnh, quyết được đến Bồ đề.

Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh

E. SẮC DỤC

Sắc dục là xiềng cùm của đời vậy, phàm phu say đắm, không thể tự cứu. Sắc dục là bệng nặng nhứt của đời vậy, phàm phu khốn khổ đến chết chẳng khỏi. Sắc dục là tai họa của đời vậy, phàm phu gặp nó, lâm nguy khó tránh.

Người tu Phật pháp đã được bỏ rồi, lại còn nghĩ vẩn, như được phóng thích, lại muốn vào ngục lại, cũng như bệnh lành, lại muốn đau lại cho nên bị người trí quở trách chính đó là điên.

Kinh Nhật Minh Bồ Tát

Đệ tử tại gia nên lìa tà dâm, với vợ hầu của mình cũng là đủ rồi; với đàn bà khác, chẳng nên sanh một niệm bất chính.

Kinh Hoa Nghiêm

Với vợ mình, còn cho là chẳng đủ, lại ưa phạm đến vợ người ta, ấy là người không biết hổ thẹn, chịu nhiều khổ mà không có chút vui vì đời này và đời sau, bị quả báo khổ buộc ràng.

Kinh Ni Kiền Tử

Phải biết tà dâm có sáu điều tai biến:

  1. Chẳng giữ được tự thân
  2. Chẳng giữ được vợ con
  3. Chẳng giữ được gia thuộc
  4. Vì họ nghi, nên sanh xấu
  5. Kẻ oan gia được cơ hội
  6. Các khổ đoanh vây

Đã có những điều ác này, thời sự nghiệp phế bỏ: của chưa làm ra được thời chẳng được, của đã làm ra được thời tiêu mất, và của cải đã sẵn có chứa để từ lâu cũng tiêu hao hết.

Kinh Thiện Sanh Tử

Xâm phạm đến vợ con của người, bị chồng hoặc kẻ lân nhơn biết được, đến khi bị luy dao gậy đánh chém thương tổn thân mạng, hoặc cắt đầu, chân, hoặc bị pháp luật nã bắt giam ngục bị trọng hình.

Chết xong bị đọa hỏa ngục đốt cháy, được tái sanh làm người khuê môn bị rối loạn; xa cách pháp lành, thường ôm lòng hãi sợ chẳng được yên.

Phật dạy: dâm là hạnh bất tịnh, mê hoặc mất chánh đạo, hại mạng mà chết non, bị tội vì ngoan si, chết lại đọa ác đạo, cho nên đừng dâm loạn.

Đức Phật nói tà dâm có 10 tội:

  1. Bị nguy hại với vợ hay chồng mình
  2. Vợ chồng bất hòa thường đánh cãi luôn
  3. Các điều ác ngày càng tăng thêm, điều lành cành tiêu mòn
  4. Tấm thân chẳng giữ được, vợ con bị côi cút
  5. Của cải ngày càng hao mòn
  6. Có xảy ra các việc xấu, thường bị người nghi
  7. Giòng họ, bè bạn chẳng ai ưa mến
  8. Thường bị oán vì gieo nghiệp nhơn xấu
  9. Chết đọa địa ngục
  10. Được tái sanh làm người, gái thời bị cảnh chồng chung, trai thời vợ chẳng trinh chánh

Luận Trí Độ

Vua Ưu Đà Diên thưa Phật rằng: tôi bị đàn bà lừa dối, muốn hại, thưa Thế Tôn! Tôi cho người đàn bà này là rất độc. Xin Ngài trừ khử đàn bà độc hại này đi.

Đức Phật bảo vua rằng: nhà vua muốn hỏi tội người đàn bà thì trước phải hỏi tội kẻ trượng phu đã. Trượng phu có 4 điều lỗi nên bị đàn bà dối gạt:

1. Vì say mê buông lung, chẳng biết gần gũi Sa môn, để lãnh thọ giới pháp thanh tịnh mà tu phước nghiệp; kẻ đã thọ giáo pháp của Ta cũng chẳng tin cho vững, ưa các thứ tà ác là đàn bà múa hát giỡn cợt, chỉ chăm học đòi theo đứa ngu si.

2. Cha mẹ vì muốn lợi lạc cho con, mà làm những việc khó làm, phải chịu những đồ bất tịnh; và lại vì muốn con mau trưởng thành nên đối với khó nhọc cho bú mớm, nuôi dưỡng quên bề mỏi mệt; và nhờ của cải chính mình phải gian nan khó nhọc mới được, đem sắm dụng cụ cho con chẳng biết nhàm chán. Nhưng người con bị đàn bà…đối với song thân già yếu ngỗ nghịch và coi rẻ. Rồi có bấy nhiêu của cải bị lãng phí tiêu hao, thậm chí khiến cha mẹ không chỗ nương nhờ, đến nỗi đuổi cha mẹ ra khỏi nhà.

3. Bị tà kiến, chẳng đối tưởng việc hủy hoại thân thế, tự dối gạt mình, như say đắm đàn bà là gốc.

4. Làm việc phải thời keo rít tiền của, mà gái thời bất kể là bao. Nhưng có bị đàn bà khinh dễ, lấn át, hủy nhục, đánh đập, mắng trách, cũng vẫn vui chịu lấy. Hoặc khi đàn bà bị chút buồn lo, thì liền nghĩ làm thế nào cho người yêu được vui vẻ. Làm trai mà bị đàn bà dùng lời nói dối gạt đến như nước này thì thật chẳng biết nói sao!

Nếu kẻ nam nhi chơn chính thì làm sao bị đàn bà lừa gạt? Nhà vua nghe rất vui mừng. Xin quy y Tam bảo, làm kẻ ưu bà tắc.

Kinh Bảo Tích

Ông Ma Nhơn Đề ở nước Câu Diên Di đem con gái đến chỗ Phật, thưa Phật rằng: Đứa con tôi dung mạo tuyệt đẹp, thế gian vô song địch, các vị Quốc vương, hào tộc đến cầu hôn mà tôi đều từ chối không gả. Nhưng tôi nhận thấy Ngài là bực Đại nhân nhan sắc rực rỡ nguy nga đời chưa từng thấy nên tôi xin hiến cháu này lên Ngài. Phật dạy: cái đẹp của đứa gái này ở chỗ nào? Ma Nhơn Đề đáp từ đầu cho đến chân, xem cho chu tất không chỗ nào chẳng đẹp, Phật nói: Lầm thay, đồ con mắt thịt! Ta xem thấy, từ đầu đến chân, không một chỗ nào đẹp cả. Ta thấy: ở đầu người có tóc, tóc chỉ là một thứ lông, lông ấy cũng như lông ngựa, lông voi; dưới tóc là sọ, sọ chỉ một thứ xương đầu, cũng giống như xương đầu heo của các nhà đồ tể hàng heo. Trong đâ? có não, não giống như đất bùn, nó tanh hôi nhíu mũi, nó rơi xuống đất, chẳng ai dám đụng tới. Còn hai con mắt là hai ao nước, đưa tay dụi vào nước mắt tuôn chảy. Trong hai lỗ mũi, có đầy mũi dãi, trong miệng có đàm nhớt; trong bụng có gan phổi v.v…toàn là những vật tanh hôi. Trường vị, bàng quan đựng toàn cứt, đái hôi thúi khó tả. Hai tay, hai chân là xương với xương kề nhau như trụ cột. Gân, da co dãn nhờ hơi thở mà chuyển động, không khác gì con người máy bằng gỗ. Nếu mổ xẻ nó ra từng đốt rời rã, đầu chân nằm ngổn ngang. Tất cả loài người đều như vậy cả.

Vậy thì có chi là đẹp mà ngươi bảo vô song. Ta không dùng vợ, thôi ngươi đem nó về đi. Ma Nhơn Đề nghe Phật nói thế xấu hổ vội dắt con chạy về mà chẳng kịp bái từ.

Kinh Xuất Diệu

A Nan đi khất thực rồi, đang khi cầm bình bát đi dọc theo mé sông, chợt thấy một cô gái gánh nước. A Nan đến xin nước với cô, cô liền cho nước rồi đi theo sau A Nan, đến chỗ Ngài ở, nàng mới trở về nhà. Về nhà, nàng thưa mẹ tên là Ma Đăng rằng: Thưa mẹ khi nào mẹ gả con lấy chồng đừng gả cho người nào khác. Hôm nay đi gánh nước ở sông, con gặp một ông Sa môn, ông lại xin nước, con cho và hỏi tên, ông cho biết là A Nan. Con được A Nan làm chồng thời mẹ gả, bằng không thời con chẳng ưng ai hết.

Bà mẹ đi dò hỏi, mới biết A Nan là đệ tử Phật.

Bà về nhà bảo với con rằng: A Nan thờ Đạo Phật làm sao làm chồng con được? Nàng nghe thế buồn rầu khóc lóc bỏ ăn.

Bà mẹ vốn rành nghề ma thuật, mời A Nan về nhà cúng cơm, nàng rất vui sướng. Bấy giờ bà thưa với A Nan rằng: con gái tôi nó muốn làm vợ ông.

A Nan nói: tôi giữ giới không cưới vợ. Bà ta buộc: con tôi chẳng được ông làm chồng thời nó tự tử. A Nan nói: đức Phật thầy tôi chẳng cho phép tôi gần đàn bà.

Bà mẹ liền vào trong nhà, đem chuyện ấy thuật lại với con. Nàng khóc rống và bảo mẹ rằng: xin mẹ đóng kín cửa lại đừng cho ông ra đi, tối nay con bắt làm chồng. Bà già nghe lời con đóng cửa, rồi dùng phép thuật mà trói A Nan lại; trời vừa tối, nàng trang điểm thân thể rất đẹp rồi đi vào nhà trong. Ngài A Nan chẳng đến giường ngủ. Bà ta đốt một đống lửa, rồi đến nằm phặng chéo áo A Nan mà rằng: Nếu ông không vì con gái tôi làm chồng nó, thời tôi vất ông vào đống lửa này. Ngài A Nan rất khổ tâm, chẳng biết làm sao, chỉ biết niệm Phật mà thôi.

Bấy giờ đức Phật quán biết A Nan lâm nạn liền đến cứu đem về. Khi thấy A Nan ra đi nàng khóc kêu liên miên.

Sáng ngày nàng đi tìm cho được, khi thấy A Nan đang mang bình bát đi khất thực thì nàng đi theo sau xem thấy bộ đi, gương mặt của A Nan, mặc dù Ngài đã cố tâm đi tránh, mà nàng vẫn theo luôn.

Khi A Nan về đến nơi và thưa với Phật rằng: con gái của mụ Ma Đăng nó đi theo sau lưng tôi luôn cả ngày nay. Đức Phật sai người gọi đến và hỏi: ngươi đi theo A Nan để xin thứ gì? Nàng thưa: tôi nghe A Nan không vợ, tôi cũng không chồng, nên tôi muốn xin làm vợ. Phật nói: A Nan là kẻ trọc đầu, còn ngươi có tóc, nếu ngươi có thể cạo tóc, thời Ta sẽ cho A Nan làm chồng ngươi. Nàng thưa: tôi có thể cạo tóc, Phật nói: phải trở về nhà xin với mẹ ngươi đã, cạo đầu xong rồi sẽ lên đây…

Nàng về nhà thuật lại lời Phật dạy và xin mẹ cho cạo đầu. Bà nói: từ khi sanh con, mẹ ưa cái đầu tóc con lắm, nhưng vì sao con quyết lấy ông Sa môn làm chồng? Chớ ý mẹ muốn gả con cho những kẻ giàu sang trong nước là hơn. Nàng quả quyết: đầu tôi có chết vẫn xin làm vợ A Nan mà thôi. Bà nói: thiệt mày làm nhục nhã giòng họ tao quá. Bất đắc dĩ bà phải hạ dao cắt tóc.

Xong, nàng mới đến chỗ Phật và thưa: tôi đã cắt tóc rồi. Phật hỏi: Người yêu cái gì của A Nan? Dạ thưa tôi yêu con mắt, lỗ mũi, cái miệng, cái tai, tiếng nói và cả bộ tịch đi đứng của A Nan. Đức Phật dạy: trong hai con mắt thời có nước ghèn, trong hai lô?mũi thời có cứt mũi, trong hai lỗ tai thời có cứt ráy, trong miệng thời có dàm dãi và trong bụng là đầy cứt đái, toàn là những thứ tanh hôi nhơ nhớp bất tịnh. Mà đã thành vợ chồng thời tất phải có khi trần truồng xấu xí và do đó mà đẻ con. Đã có con thì nó phải chết. Mà khi nó chết thời kêu khóc thảm thê.

Thế thì đối với cái thân có ích đâu mà yêu mến. Nàng liền suy nghĩ, lúc mà hai thân trần truồng xấu xí thời trong lòng hết nghĩ bậy, tức thì chứng được A La Hán.

Bấy giờ Phật biết nàng đã chứng Đạo nên Ngài bảo: Thôi ngươi đứng dậy đi đến chỗ A Nan đi! Nàng xấu hổ quá liền đến quì trước Phật cúi đầu thưa rằng: con vì ngu si nên theo A Nan, nay con đã tỉnh ngộ như người đi trong tối được ánh sáng đèn lửa, như kẻ đui được sáng mắt, như người già yếu được gậy. Nay Phật cho tôi chứng được Đạo, tâm tôi được khai ngộ như vậy.

Khi ấy đức Phật bảo các Tỳ kheo rằng: trong đời quá khứ cách nay chừng 100 đời, con gái của bà Ma Đăng này đã cùng với A Nan thành vợ chồng, thương mến nhau lắm. Ngày nay đoi đứa gặp nhau như anh gặp em. Như vậy đạo Phật ai được nghe, quyết định có lợi ích chớ?

Kinh Ma Đăng Nữ

Phàm phu trọng sắc dục, đành chịu làm tôi mọi, trọn đời chạy rong theo, bị đủ điều khổ sở.

Kinh Nhựt Minh Bồ Tát

Phật dạy: dù là vì lợi dưỡng, cũng đừng nên làm nghề mãi dâm, vì chẳng phải lối sanh sống chân chính.

Kinh Phạm Võng

F. HỔ TRẼN

Trên đời có hai pháp nhiệm mầu ủng hộ cho thế gian chính là HỔ và TRẼN vậy. Nếu không có hai pháp này thế gian không thể phân biệt được là cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè, tôn trưởng và kẻ lớn người nhỏ, thời đồng với các loại cầm thú có khác gì.

Kinh Tăng Nhất A Hàm

Lấy nước hổ trẽn rửa tẩy nhớp trần lao, thới thân tâm đều thành món đồ trong sạch.

Kinh Tâm Địa Quán

Hổ trẽn là đồ áo mặc để gìn giữ các điều lành.

Kinh Đại Vân

Đồ mặc hổ trẽn đối với các món trang sức nó là thứ nhứt. Hổ trẽn như cái móc sắt nó ngăn chận những điều phi pháp cho người. Vậy nên các Tỳ kheo thường phải biết hổ trẽn, đừng chút nới bỏ. Nếu bỏ rời hổ trẽn thời mất các công đức; người có hổ trẽn thời có pháp lành, bằng không cũng với cầm thú không khác chi mấy. Đời nếu có người hiểu biết hổ trẽn, người ấy tiến bộ dễ dàng, như giục ngựa hay.

Kinh Bột

Hổ trẽn có hai thứ: Một là tự tánh, hai là nhơn duyên. Tự tánh là biết mình đã làm những điều phi pháp, lo sợ quả báo sanh lòng hổ trẽn. Nhơn duyên là đối với những việc ác đã làm sợ người đời biết mà sanh hổ trẽn.

Thứ hổ trẽn tự tánh chẳng phải do nhơn duyên mà được. Hổ trẽn tóm tắt có 3 món:

  1. Việc chẳng nên làm mà làm sanh lòng hổ trẽn
  2. Việc nên làm mà chẳng làm sanh lòng hổ trẽn
  3. Tự lòng mình sinh nghi mà hổ trẽn
  4. Bị lỗi mà che dấu sợ người biết mà hổ trẽn

Kinh Thiện Giới

Ai ôm lòng hổ trẽn thời các tội lỗi tiêu diệt, được trong sạch như xưa.

Kinh Niết Bàn

G. LÌA CÁC TRỘM CƯỚP

Đệ tử phải xa lìa các điều trộm cướp, những đồ vật giúp sống nên vừa đủ; vật của người ta chẳng cho thời chẳng nên lấy.

Kinh Hoa Nghiêm

Trộm cướp có 10 tội:

  1. Người chủ có vật thường giận
  2. Thường bị người nghi ngờ
  3. Không lúc nào chẳng tính mưu gian
  4. Phường ác nhơn đến làm bạn, người hiền tránh xa
  5. Phá hủy tướng lành nơi thân
  6. Bị tội với Quan
  7. Của cải bị Quan tịch thu
  8. Gây nghiệp nhơn bần cùng
  9. Chết đọa địa ngục
  10. Đời sau được làm người khổ mạt kiếp, khi làm được của bị người xúm dùng chung; hoặc bị giặc lấy hay lửa cháy tiêu. Hoặc là đứa con bất hiếu phá hủy tan tành.

Luận Trí Độ

Chẳng ăn trộm của cải của người ta là giàu to. Vì chẳng bị quan vua tịch thu, nước lửa chảy trôi, hay giặc trộm cướp lấy, không có kẻ oan gia, không có ác tử mà được nhiều người ưa mến. Đi đến đâu cũng không khó, vì đã dứt hẳn những điều lo sợ.

Kinh Hải Long Vương

Nếu gặp thấy vật rơi nơi đường xá, hoặc vàng bạc hay những của báu; lượm rồi xướng rằng: “vật này là của ai?” Nếu có người nói: “vật ấy là của tôi”, thì phải gạn hỏi hình tướng, nếu đúng sự thật nên trả lại họ. Nếu không người đến nhận thời cứ sau mỗi bảy ngày là đem vật ấy ra mà xướng như vậy nữa. Và sau cũng không có người chủ nhận thì đem gởi cho vua, quan, quận, huyện hay các cơ quan hữu trách; những cơ quan ấy cũng chẳng thấy chủ đến nhận lãnh thì mới đem ủng hộ cho Phật pháp.

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ

Nếu lượm được những vật thuộc loại khăn áo, phải xướng lên cho ngươi hay đến nhận, bằng không người nhận thời treo chỗ cao, cho người ta dễ thấy. Nếu có người nói: “vật

này của tôi”, thì nên hỏi họ: “ngươi làm mất vật này ở chỗ nào?” Họ nói đúng sự thật thì trả lại cho họ, bằng chẳng đúng, phải giữ lại sau thời gian ba tháng, khi lượm được nơi vườn tháp thì đem cúng cho tháp dùng, mà lượm được vườn Tăng thì đem cúng cho tứ phương Tăng dùng.

Nếu như lượm được vật quí giá như vàng bạc hay chuỗi anh lạc thời không nên vội xướng rõ, người lượm được phải coi kỹ hình dáng hoặc số lượng của vật rồi mới đưa ra, có người nhận, phải hỏi cho đúng sự thật, rồi trước đông người mà trả lại họ, chớ không nên ở chỗ kín mà cho lại.

Luật Tăng Kỳ

Sống không biết hổ, như chim ăn dơ mặt mày chịu nhục, gọi là sống dơ. Liêm sỉ tuy khổ, giữ nghĩa thanh bạch, tránh nhục chẳng dối, gọi là sống sạch.

Kinh Pháp Cú

Thà nên giữ Đạo, nghèo hèn mà chết, chẳng nên vô Đạo, giàu sang mà sống.

Kinh Lục Độ Tập

Phật dạy: Các Tỳ kheo! Đa dục là khổ, sống chết mệt nhọc, bởi tham dục sanh: ít dục vô vi mới giác ngộ thân tâm tự tại.

Kinh Bát Đại Nhơn Giác

Phật dạy: Hỡi các Tỳ kheo! Phải biết, những người đa dục, vì cầu lợi nhiều, khổ não cũng nhiều; những người thiểu dục, không cầu không dục, không có khổ não. Cho nên ai muốn lìa khổ, cần phải tu tập hạnh thiểu dục. Huống chi hạnh thiểu dục có thể sanh các công đức. Những người tu hạnh thiểu dục thời không đua dọc chìu theo ý người để cầu cạnh, nhất là chẳng bị các căn lôi kéo. Người tu thiểu dục, tâm địa thản nhiên, không có lo sợ, gặp việc cô thừa, thường chẳng thiếu thốn. Hễ tu thiểu dục là có Niết bàn.

Kinh Di Giáo

Người tham, chửa đẻ nhiều, được mấy cũng chẳng vừa. Tâm vô minh điên đảo, thường mưu xâm lấn người, đời hiện nhiều oán ghét, chết rồi đọa ác đạo. Cho nên người trí, phải tu trí túc.

Kinh Ni Kiền Tử

Nếu người lòng tham không biết nhàm đủ, chỉ biết cầu cho nhiều, tội ác càng tăng thêm. Bồ tát chẳng thế, thường nghĩ tri túc, an phận nghèo mà giữ Đạo giác ngộ. Duy huệ là sự nghiệp.

Kinh Bát Nhơn Giác

Người xuất gia có 4 chứng bệnh cho nên chẳng được bốn đạo quả Sa môn: 4 chứng bệnh là gì? Là bốn thứ ác dục:

  1. Tham ăn uống
  2. Tham áo mặc
  3. Tham đồ ngủ
  4. Tham của đời

Gọi là bốn thứ ác dục, là bệnh của kẻ xuất gia, có bốn món thuốc hay, có thể trị lành những thứ bịnh ấy là: áo mặc bằng giẻ rách, có thể trị được bệnh ác dục của Tỳ kheo về áo mặc; đi khất thực, có thể trị được bệnh ác dục về tham ăn; ngủ dưới gốc cây, có thể trị được bệnh ác dục về đồ ngủ; thân tâm vắng lặng, có thể trị được bệnh ác dục về của đời của Tỳ kheo.

Do bốn vị thuốc này chữa được bốn chứng bệnh kia, nên gọi là Thánh hạnh. Như thế mới gọi là tu thiểu dục tri túc.

Người thiểu dục, chẳng tìm cầu, chẳng tham lấy. Người tri túc, khi được ít, tâm vẫn thản nhiên, không chút hối hận.

Kinh Niết Bàn

Hỡi các Tỳ kheo! Nếu muốn giải thoát các điều khổ não, nên quán tri túc. Pháp tri túc, tức là chỗ giàu vui yên ổn vậy. Người tri túc, tuy nằm trên đất, vẫn được an vui; người bất tri túc, dù ở thiên đường, cũng chẳng vừa ý.

Người bất tri túc, tuy giàu mà nghèo; người tri túc tuy nghèo mà giàu. Người bất tri túc, thường bị năm dục lôi cuốn, làm cho người tri túc động lòng thương xót, ấy là tri túc.

Kinh Di Giáo

Trong lúc tìm cầu giàu sang, rất khổ, đã được rồi giữ cũng khổ, về sau bị mất lo rầu lại càng khổ hơn. Xét trong ba thời đều không có vui.

Kinh Bách Duyên

Không luận kẻ sang người hèn, kẻ nghèo người giàu, lớn nhỏ trai gái, đều chung lo tiền của, trăm nghĩ ngàn lo, sai khiến lương tâm không lúc yên nghỉ. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà; có trâu ngựa lục súc, tôi tớ tiền của, áo cơm đồ vật, thảy đều lo cả.

Càng lo nghĩ lại càng sầu khổ. Hoặc có khi bị tai nạn phi thường như nước lửa trộm cướp, cháy, trôi, dựt lấy đi mất, lại càng lo khổ hơn nữa, rồi lại bo bo không lúc nào giải thoát; giận hờn kết chặt nơi lòng, phiền não không thể bỏ.

Nhưng khi thân mạng chết, thì bỏ lại cho đời chỉ mô? mình mình đi, chẳng đem thứ gì theo được! Sang trọng giàu mạnh, không ai không có các thứ lo khổ này.

Kinh Vô Lượng Thọ

Ông Cấp Cô trưởng giả hỏi Phật rằng, thưa Thế Tôn: Thế gian hành nghiệp sanh sống có bao nhiêu thứ? Phật đáp: kể có 10 thứ:

1. Phi pháp vô đạo mà cầu tài, dù được, không thể tự an dưỡng, không thể an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn.

2. Phi pháp vô đạo mà cầu tài, được tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ mà chẳng cúng dường Sa môn

3. Phi pháp vô đạo cầu tài, được tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn.

4. Đúng pháp và phi pháp cầu tài, được tài, chẳng tự an dưỡng, chẳng an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ cũng chẳng cúng dường Sa môn

5. Đúng pháp và phi pháp cầu tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ mà chẳng cúng dường Sa môn

6. Đúng pháp và phi pháp cầu tài, được tài, có thể tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn

7. Đúng pháp cầu tài, chẳng tự an dưỡng, chẳng an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cũng chẳng cúng dường Sa môn

8. Đúng pháp cầu tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vơ con tôi tớ mà chẳng cúng dường Sa môn

9. Đúng pháp cầu tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn

10. Đúng pháp cầu tài, tự an dưỡng, được an dưỡng cha mẹ, vợ con tôi tớ và cúng dường Sa môn. Đối với của cải không đắm nhiễm, không bị ràng buộc. Thấy kẻ bị tai họa bố thí chẳng tiếc lẫn.

Trong 10 hạng hành nhơn, hạng sau cùng là cao thượng hơn hết vậy.

Kinh Trung A Hàm

Phật dạy: cầu tài có 6 món phi đạo:

  1. Đánh bạc cầu tài lợi là phi đạo
  2. Phi thời cầu tài lợi là phi đạo
  3. Uống rượu buông lung cầu tài lợi là phi đạo
  4. Gần gũi với bạn ác mà cầu tài lợi là phi đạo
  5. Vì vui đàn hát cầu tài lợi là phi đạo
  6. Biếng nhác cầu tài lợi là phi đạo

Kinh Trung A Hàm

Trong việc bảo hộ tài sản cho người sẽ bị nguy hiểm bởi 4 điều. Bốn điều nguy hiểm đó là:

  1. Vua chúa nước ngoài
  2. Giặc cướp
  3. Nạn lửa cháy
  4. Nạn nước trôi

Kinh Tăng Nhứt A Hàm (văn Ba lị) 

H. RƯỢU CÓ NHIỀU LỖI

Rượu là gốc của các điều ác vậy. Nếu ai có thể dứt trừ được thì xa lìa các tội lỗi.

Kinh Niết Bàn

Uống rượu, làm khổ não chúng sanh nên gọi nó là nhơn gây tội. Nếu người khi uống rượu thời các cửa bất thiện mở ra, vì có thể hại các thiện pháp, như lập vườn cây trái, mà không làm rào giậu.

Luận Thành Thật

Nếu tự tay mình bưng rượu cho người uống, vì khiến người uống rượu, cho nên bị tội không tay năm trăm đời, huống chi mình uống. Chẳng nên dạy khiến tất cả người và chúng sanh uống rượu, huống chi mình uống?

Kinh Phạm Võng

Phàm người uống rượu có 6 điều lỗi:

  1. Mất của
  2. Sanh bệnh
  3. Đánh lộn
  4. Tiếng xấu đồn khắp
  5. Sanh sân si dữ tợn
  6. Trí huệ ngày càng mòn mỏi

Đức Phật dạy: Với người thế gian ưa uống rượu say thì bị 36 tội lỗi. Những lỗi gì đến 36?

  1. Người uống rượu say, con chẳng kính cha. Tôi chẳng kính vua, vua tôi cha con không còn kẻ trên người dưới
  2. Nói năng bị nhiều sai lầm
  3. Say thời nói nhiều lời, nói đâm thọc hai bên
  4. Nói phô những việc tư riêng cần dấu kín của mình và người
  5. Say thì mắng trời chửi đất chẳng biết kiêng cữ
  6. Say thì nằm giữa đường không thể về nhà, mà có cầm giữ vật gì thì quên mất
  7. Say thì đi đứng không chính được
  8. Say thì khi ngước khi cúi chân đi hoành hành, hoặc sa hầm hố
  9. Say thì té rồi đứng dậy thân thể bị thương
  10. Có mua, bán bị lầm lộn, hay ưa đụng chạm bậy bạ
  11. Say thì bỏ phế công việc làm ăn chẳng lo sanh sống
  12. Đã có bao nhiêu của cải tiêu hao hết
  13. Say thì chẳng nghĩ việc đói lạnh của vợ con gia đình
  14. Say thì la mắng bất kể, chẳng sợ pháp luật
  15. Say là cởi áo tuột quần trần truồng mà chạy
  16. Say thì đi bậy vào nhà người, lôi kéo vợ con người ta, nói năng bậy bạ tội lỗi không thể tả được
  17. Say thì gây lỗi với láng giềng, rồi muốn đánh lộn
  18. Say thì nhào trộn kêu la làm kinh động làng xóm
  19. Say thì giết quấy gà heo
  20. Say thì đập đánh phá tan nát đồ đạc trong nhà
  21. Say thì coi rẻ người nhà như kẻ tù tội, ăn nói ngang ngược
  22. Làm bạn với phường ác nhơn
  23. Say thì xa bỏ bực Hiền thiện
  24. Khi tỉnh say thân thể như đau bịnh
  25. Say thì ói mửa ra những thứ dễ gớm, vợ con thấy ghét gớm chẳng ngó
  26. Say thì ý muốn chạy nhảy, gặp phải với cọp cũng chẳng sợ tránh
  27. Say thì chẳng kính kinh sách Thánh hiền, chẳng kính Đạo sĩ Sa môn gì cả
  28. Say thì dâm lung chẳng biết kiêng nể
  29. Say thì như người điên, người ta thấy tránh chạy hết
  30. Say như người chết chẳng còn biết gì cả
  31. Say hoặc bị ghẻ mặt, hoặc bị bệnh rượu mặt mày vàng nóng
  32. Thiên long qủy thần đều cho rượu là ác
  33. Những kẻ thân hậu trí thức ngày càng xa dần
  34. Ngồi chồm hổm mà đưa mắt xem kẻ qua lại
  35. Sau khi chết phải vào địa ngục thái sơn, thường nuốt nước đồng lỏng, cháy ruột, chảy xuống lỗ đít, cứ như vậy cầu sống cũng khó mà cầu chết cũng khó, chịu ngàn vạn năm như vậy
  36. Khi từ địa ngục ra, được sanh làm người ngu si chẳng biết gì cả

Nay ta thấy có những người ngu si không hiểu biết gì hết, là chính bởi bị quả báo đời trước ưa uống rượu gây nên vậy. Như vậy rất rõ ràng. Rượu cũng đắng cho người ta cẩn thận chứ!

Kinh Phân Biệt Thiện Ác Sở Khởi

Chẳng đặng uống, nếm, ngửi rượu. Từ nay về sau, kẻ nào tôn ta làm thầy, tuy ít cho đến một chút xíu rượu dính trên đầu cọng cỏ cũng chẳng nên nhỏ vào miệng.

Kinh Sa Di Ni Giới

I. ĐIỀU HÒA BỐN ĐẠI

Phật dạy các Tỳ kheo, đi bộ có 5 công đức. Những gì là 5?

  1. Chạy giỏi
  2. Có sức mạnh
  3. Trừ ngủ
  4. Ăn uống dễ tiêu mà chẳng sanh bệnh
  5. Làm cho người tu dễ được định ý, làm cho được định ý và lâu lắm

Kinh Thất Xứ Tam Muội

Các Tỳ kheo! Thường ngày phải rưới nước và quét trong nhà; trong nhà nếu có mùi hôi thời xoa bột hương; nếu còn hôi thời lấy hương treo bốn góc vạch trong nhà.

Luật Tứ Phần

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo rằng: Cất nhà tắm có 5 món công đức:

  1. Ngăn gió
  2. Lành bệnh
  3. Trừ sạch đất nhơ
  4. Thân thể nhẹ nhàng
  5. Được mập trắng

Kinh Tăng Nhứt A Hàm

Mai, chiều phải súc miệng; phương pháp súc miệng là đổ nước vào miệng rồi ba phen trộn trạo, gọi là pháp tịnh khẩu.

Những người miệng hôi, phải nhâm nhánh dương chi. Nhâm dương chi có 5 sự lợi ích:

  1. Miệng chẳng đắng
  2. Chẳng hôi miệng
  3. Trừ gió
  4. Đề phòng bệnh nóng
  5. Trừ đàm nhớt

Nhâm xong, lấy nước rửa rồi vất đi.

Luật Thập Tụng

Phật dạy: Này các đệ tử! Đầu tóc dài, móng tay dài, áo quần dơ chẳng biết phải lúc nói năng nhiều; gọi là năm món hủy nhục pháp của Tỳ kheo vậy.

Tất cả Đạo, tục bảy chúng, khi dùng nước uống phải lọc, lọc xong người có con mắt tỏ xem thấy chỉ tay trong bàn tay là dùng được.

Luật Tăng Kỳ

Nước để cách đêm, xem thấy có sanh vi trùng, nếu chẳng lọc thì đừng uống.

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ

Người vì lúc ăn quá no nên thân thể nặng nề sanh biếng nhác, mất lợi ích lớn của đời này và đời sau; ngủ mê tự chịu khổ, lại làm phiền người khác và mê muội khó thức dậy, cho nên phải biết thời và độ lượng mà ăn vừa thôi.

Kinh Ni Kiền Tử

Nếu ăn no quá thì hơi thở gấp, thân đầy trăm đường mạch máu chẳng điều hoà, tâm bị ngăn ngại, ngồi nằm không yên. Trái lại ăn giảm ít, thời thân thể ốm, tâm bị treo ý nghĩ ngợi không được bền.

Kinh tăng Nhứt A Hàm

Với tất cả chỗ mà đại, tiểu bậy bạ, thì đọa vào địa ngục bạt bạ 500 đời. Hai mươi tiểu kiếp, phải tay ôm chỗ đất đại tiểu thúi hôi cho đến chết.

Kinh Ưu Bát Kỳ Vương

Chẳng nên hỉ, khạc trước chỗ đông người. Muốn hỉ khạc phải đến chỗ khuất, đừng cho người ta nhờm gớm.

Kình Tỳ Ni Mẫu

Muốn cất cầu tiêu, không nên cất ở phía Đông, mà phải đặt ở phía Bắc; còn đường gió phải khai về hướng Nam, hoặc Tây Đông. Người đi cầu, chẳng nên lặng thinh mà vào, phải gõ cửa rồi mới vào. Nếu bên trong có người phải trả lời bằng cách gõ lại.

Nếu muốn khạc nơi đất phải để cái bình một chỗ, để vào trong bình ít đất cát hoặc vôi, rồi mới khạc trong bình, phải thường thường đem đổ, đừng cho sanh mùi hôi. Lấy nước sạch rửa bình cho sạch, úp xuống phơi khô rồi mới dùng lại.

Luật Tăng Kỳ

Người bị đau có 10 nguyên nhân:

  1. Ngồi lâu mà chẳng nằm
  2. Ăn không tiêu
  3. Lo sầu
  4. Quá mệt
  5. Dâm lung
  6. Giận dữ
  7. Đến lúc đại tiện mà nhịn không đi
  8. Đến lúc tiểu tiện mà nhịn không đi
  9. Ngăn hơi ợ
  10. Ngăn hơi thoát ở hậu môn

Kinh Y (Trị Bịnh)

Thân người do bốn đại hòa hợp mà thành, bốn đại này là đất, nước, gió, lửa, một món chẳng điều hòa là một trăm bệnh sanh ra, mà cả bốn món chẳng điều hòa là bốn trăm bốn bệnh đồng thời phát sanh.

Kinh Ngũ Vương

Có chúng sanh bị bệnh vì không uống thuốc men và không có người chăm sóc mà phải chết, gọi là hoạnh tử, và phạm pháp luật phải tội xử tử, gọi là hoạnh tử. Lại say mê săn bắn, buông lung, dâm đãng, nhậu rượu say sưa vô độ mà bị hại gọi là hoạnh tử. Lại nữa, bị nước trôi, lửa cháy, cũng là hoạnh tử. Kế nữa, bị sư tử, hổ lang, độc trùng ác thú mà chết cũng gọi là hoạnh tử. Lại nữa, bị đói khát mà chết cũng là hoạnh tử. Thêm nữa, bị thuốc độc hay bùa chú ếm đối mà chết cũng là hoạnh tử. Và nhào đầu xuống gộp đá mà chết, cũng là hoạnh tử.

Kinh Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện

Chúng sanh bị chết ngang có 9 nguyên nhơn:

  1. Khi ăn những món chẳng nên ăn
  2. Ăn uống không độ lượng
  3. Chẳng biết mùa Đông mùa Hè, hay khi đến nước khác chẳng biết phong tục mà ăn những món không tiêu
  4. Những món ăn trước chưa tiêu mà ăn thêm vào nữa và chẳng uống thuốc
  5. Đến khi đại tiểu tiện mà chẳng chịu đi
  6. Khi chẳng giữ ngũ giới
  7. Khi gần gũi kẻ ác
  8. Khi đi vào núi rừng sâu thẳm, hoặc đến chỗ đấu tranh
  9. Khi những nơi chỗ đáng tránh mà chẳng tránh

Nếu ai tránh được 9 nguyên nhơn này thì được hai phước báo: một là sống lâu; hai là vì nhờ sống lâu nên được nghe chánh pháp mà tu hành.

Kinh Cửu Hoạnh

Người bệnh mà trọn đủ 9 điều sau đây chắc sẽ chết ngay:

  1. Biết món ăn không lợi mà vẫn ăn
  2. Chẳng biết độ lượng
  3. Đồ ăn còn nằm trong chưa tiêu mà nuốt thêm vào
  4. Ăn chưa tiêu mà hộc mửa ra
  5. Đã tiêu, đáng lẽ cho nó ra mà cố giữ lại
  6. Ăn chẳng tùy theo bệnh
  7. Ăn tùy theo bệnh mà chẳng độ lượng
  8. Tâm thường trễ nải
  9. Không có trí huệ, ấy vậy

Luật Tăng Kỳ

Chương III: LỢI THA

A. BIẾT ƠN TRẢ ƠN

Đức Phật bảo các ông trưởng giả Diệu Đức, Dũng Mãnh, Thiện Pháp ở trong thành Vương Xá rằng: Này các trưởng giả! Ta sắp nói pháp mầu nhiệm, vì muốn lợi ích cho những ai chưa biết ơn đức trong đời vị lai. Ơn trong thế gian và xuất thế gian có 4 thứ:

  1. Ơn cha mẹ
  2. Ơn chúng sanh
  3. Ơn quốc vương
  4. Ơn Tam bảo

Bốn ơn này tất cả chúng sanh, bình đẳng cõng đội.

Kinh Tâm Địa Quán

Người nào biết ơn, tuy còn ở trong sanh tử mà căn lành chẳng hư. Kẻ chẳng biết ơn, căn lành diệt mất. Vậy nên các đức Phật khen ngợi những người biết ơn trả ơn.

Kinh Đại Phương Quảng Bất Tư Nghì Cảnh Giới

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo rằng: nếu có chúng sanh nào biết trả ơn, người ấy đánh kính. Ơn nhỏ còn chẳng quên, huống chi ơn lớn. Kẻ ấy dầu cách đây trăm ngàn do tuần cũng chẳng khác gì gần bên ta. Ta thường khen ngợi. Trái lại có chúng sanh chẳng biết trả ơn, ơn lớn còn chẳng nhớ huống là ơn nhỏ; dầu có gần Ta, Ta cũng chẳng gần, dầu cho mặc áo Tăng ở hai bên ta, hữu gần Ta đi nữa, người ấy vẫn như xa ta.

Kinh Tăng Nhứt A Hàm

Người biết ơn sẽ phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, người trả ơn cũng sẽ dạy chúng sanh phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân

Nếu có ai hỏi rằng: ai là người biết ơn và có thể đã trả ơn? Nên đáp ngay với họ rằng: Đức Phật là người biết ơn và đã trả ơn vậy. Vì sao thế? Vì tất cả trong thế gian người biết ơn và đã trả ơn, không ai hơn Phật vậy.

Kinh Bát Nhã

Chẳng nghe vị Địa thần đã nói sao? “Ta, chở cõi đại địa có tất cả sự vật và sức nặng của núi Tu di nữa mà ta chẳng nhàm chán nhưng đối với 3 hạng người ta thường ngán lắm.

1. Kẻ ôm tâm phản nghịch muốn mưu hại vị nhơn vương

2. Kẻ bỏ ơn tôn thân bất hiếu với cha mẹ

3. Kẻ bác bỏ không cho có nhơn quả, hủy báng Tam bảo, phá pháp luân Tăng, trở ngại người làm lành. Những người như vậy trong một giây lát ta cũng không muốn chở họ.”

Kinh Hoa Nghiêm

B. VUA – TÔI – CHỦ – TỚ

Làm vua trị hóa là khôn khéo dạy khiến bề tôi. Cha dạy con, anh dạy em, chồng dạy vợ, nhà cửa trong ngoài thân thuộc bằng hữu dạy bảo lẫn nhau, phải đạo làm lành, phụng kinh trì giới, mỗi người giữ lấy trên dưới kính nhau, không luận sang hèn trai gái tu giới thanh tịnh thảy đều vui vẻ; phải lẽ hòa thuận, vui vẻ hiếu hiền, cùng nhau răn dạy.

Kinh Đại A Di Đà

Nước không vua, như thân không đầu, khó mà sống lâu.

Kinh Tự Ái

Ơn của Quốc vương, vì Quốc vương là kẻ phước đức cao cả hơn hết, tuy cũng là người sanh ở nhơn gian mà được tự tại, nên các vị Thiên tử ở cõi trời ba mươi ba thường giúp sức ủng hộ vậy. Với cả cõi nước sơn hà đại địa và cả ngàn mé biển cả, đều thuộc Quốc vương, phước đức cao hơn tất cả phước của chúng sanh. Vậy nên vị Đại thánh vương, lấy chánh pháp mà trị hóa, có thể khiến chúng sanh đều được an vui; ví như các tòa cung điện, cây cột là cội gốc; nhơn dân no ấm, vua là cội gốc, vì là của vua vậy.

Quốc vương, nếu chẳng lấy chánh pháp mà trị hóa để làm chỗ nương nhờ cho nhân dân. Nếu lấy chánh pháp mà trị hóa thời những kẻ xâm lăng ở ngoại nước, kẻ phản nghịch ở trong nước, và những ác qủy, đ?#243;i khát cùng những khủng bố mưa gió bất thời không thể có được.

Quốc vương xem nhơn dân như con, ngày đêm chẳng rời lòng lo ủng hộ, thì ơn ủng hộ ấy đáng gọi là lớn vậy.

Vì quốc vương có 10 đức:

  1. Soi tỏ: lấy mắt trí huệ soi khắp thế gian vậy
  2. Trang nghiêm: lấy đại phước trí trang nghiêm nước vậy
  3. Ban vui: lấy đại an lạc cho nhơn dân vui vậy
  4. Dẹp oán: hành phục tất cả oán địch vậy
  5. Lìa sợ: có thể đẩy lui các tai nạn, hết khủng bố vậy
  6. Dùng người hiền: là tập trung các bực Hiền sĩ cùng giúp việc nước vậy
  7. Đặt pháp luật: là nhơn dân ở yên trong cõi nước vậy
  8. Trị an: là lấy chánh pháp duy trì thế gian vậy
  9. Nghiệp chủ: là các sự nghiệp đều thuộc Quốc vương vậy
  10. Nhơn chủ: là các sự nghiệp đều thuộc Quốc vương vậy

Tất cả các vị Quốc vương đều nhờ phước đời trước mới được trọn nên 10 món phước đức thù thắng như vậy.

Nếu có nhơn dân nào siêng tu lòng thành, để giúp rập cho vị vua có nhơn đức, tôn trọng như Phật, ấy đời hiện nay yên ổn giàu vui. Cầu muốn việc chi đều được vừa lòng là nhờ ơn đức của Thánh vương rộng lớn như vậy.

Kinh Tâm Địa Quán

Vua như cha mẹ, thương mến bình đẳng, người dân như con, trọn bề trung hiếu.

Kinh Phật Vị Thắng Quang Thiên Tử Thuyết Vương Pháp

Vua lấy lòng lành xem tất cả nhân dân đã như con, thời tất cả nhân dân đối với nhà vua như cha mẹ.

Kinh Thắng Quân Vương Sở vấn

Dân lấy vua làm mạng, vua lấy Pháp làm thân. Thế đạo được hòa bình, Phật Pháp bắt đầu từ đấy.

Trong nước có vua, được mọi sự yên ổn; vậy nên nhà vua phải lấy sự an vui của tất cả chúng sanh mà làm gốc.

Những kẻ xuất gia tại gia thành tâm tu đạo đều nhờ chánh quốc được duy trì và diễn hóa khắp nơi. Nếu nhà vua bất lực, công hạnh chẳng thành, chánh pháp bị diệt mất, thời còn đâu giúp ích? Vậy nên, tu tất cả công đức, một trong sáu phần thuộc về nhà vua. Câu nguyện cho nhà vua được phước như quả núi, bền vững khó mà sụp đổ.

Kinh Hoa Nghiêm

Vua Nghiêm Xí hỏi Ni Kiền Tử rằng: “Các ông vua sao gọi tên vua?” Đáp rằng: “Này Đại vương! Vua là cha mẹ của nhân dân vậy. Hay y Pháp mà nhiếp hộ chúng sanh được an vui vậy, nên gọi là vua. Đại Vương nên biết, vua mà nuôi dân như mẹ nuôi con đỏ, dời khô bỏ ướt, không đợi nó đòi. (Khi mẹ con cùng ngủ, con đái , dời con đến chỗ khô, mẹ nằm chỗ ướt!) Tại sao? Đại Vương phải biết, ngôi vua mà được bền vững lấy dân làm cõi nước. Lòng dân chẳng an, nước sẽ nguy vậy. Vậy nên làm vua, thường phải thương dân nghĩ đến dân, như mẹ nghĩ niệm đến đứa con đỏ, lòng chẳng lúc nào rời bỏ được. Phải biết việc vui, khổ của người dân trong nước, tùy thời mà thi hành, biết mùa lụt mùa hạn, biết khi gió khi mưa, biết lúc được mùa mất mùa, biết khi no khi đói, biết có biết không, biết kẻ buồn người vui, biết kẻ già người trẻ, kẻ bệnh người mạnh, biết đứa ngục tù, người kiện tụng, biết kẻ có tội, người không tội, biết tội nhẹ tội nặng.

Nếu đối với các bậc Vương tử, đại thần, bách quan, biết kẻ nào có công người nào không công v.v…Biết như vậy gọi là bất ly tâm.

Đại vương! Phải biết, nhà vua với trong nước thì biết như vậy rồi, dùng thế lực mà ủng hộ. Kẻ đáng thưởng phải thưởng kịp thời, kẻ đánh phạt phải cân nhắc cho kỹ lưỡng. Những kẻ quan lại cũng phải biết thời, chẳng nên cướp đoạt quyền lợi của dân; nghiêm cấm tham lam bạo ngược. Người dân được yên vui, ấy là nhiếp hộ. Mới đáng gọi là vua.”

Vua lại hỏi nữa rằng: “Lấy những pháp gì gọi là Vương luận, khiến các Tiểu vương nương nơi luận pháp kia mà trị nước an dân, gọi là như pháp có thể nhiếp hộ chúng sanh?”

Ngài Ni kiền Tử đáp: “Đại vương! Bỏ các tâm điên đảo tham lam, bỏ các tâm điên đảo giận dữ, bỏ các tâm điên đảo ngu si rồi: y đối trị, y thiệt thế, y sai biệt, y lợi ích. Y đối trị và thiệt thế là pháp bị đối trị vậy; có chỗ gọi nó là cội gốc bất tham, bất sân và bất si. Làm sao có thể phát khởi được pháp bị trị và hay trị? Pháp bị trị ấy là tâm buông lung và tâm vô từ. Còn pháp hay trị là nhà vua phải tu pháp hạnh có tâm chẳng buông lung và tâm đại từ bi, nhận biết thân mạng và sự vật giúp sống đều là vô thường, tự quan sát bản thân thấy các tội lỗi hiểu biết đúng sự thật mà thọ dụng các vật cần thiết giúp cho sự sống.

Nhà vua tu pháp hạnh tuy được tự tại tự do nhưng chẳng nên làm những điều phi pháp; được như vậy gọi là tâm chẳng buông lung.

Đại vương! Phải biết y cứ theo phép vương luận, thì chẳng nên được của, có được cũng chẳng nên lấy, tuy là được của hợp lý mà phi thời cũng chẳng nên lấy. Nếu y theo thời tiết được của hợp lý đối với kẻ nghèo cùng khốn khổ cũng chẳng nên lấy. Đến như những nạn gươm giáo, nạn giặc giã, nạn phản nghịch, nạn hại nhau; lúc có những nạn như thế thời nhà vua nên khởi từ tâm chẳng sợ nguy hiểm đến bản thân mà hộ các chúng sanh.

Với kẻ nghèo cùng cho họ cơm áo. Với kẻ bạo ác, dạy họ pháp lành, ấy gọi là từ tâm.

Đại vương! Phải biết: y cứ theo hai pháp này, mới gọi là nhà vua tu pháp hạnh, chính là để hộ trì cho chúng sanh, là có tâm bất phóng dật, tâm đại từ bi vậy.

Kinh Ni Kiền Tử

Vua hỏi Đại sư rằng: “Vua tu pháp hạnh đã có tâm từ bi, làm sao có thể trị những chúng sanh còn ác?”

Đáp rằng: “Nhà vua tu pháp hanh nếu cần trị chúng sanh làm ác trước phải khởi từ tâm lấy trí huệ xem xét và suy nghĩ 5 pháp, nhiên hậu mới trị. Những gì là năm?

  1. Y sự thật, chớ nên y bất thật
  2. Y theo thời, chẳng nên y bất thời
  3. Y nghĩa, chẳng nên y vô nghĩa
  4. Dùng lời mềm dịu chớ nên dùng lời xẳng xóm
  5. Y từ tâm, chớ nên y sân tâm mà trị.”

Nhà vua hỏi thêm Ngài Ni kiền Tử rằng: “Vua tu pháp hạnh làm sao trị những chúng sanh khởi nghịch?”

Đáp rằng: “Này Đại Vương! Nhà Vua tu pháp hạnh, trước lấy điều lành mà dạy, đúng như pháp mà chỉ vẽ, nếu nghe theo mệnh lệnh mà bỏ nghịch tâm, xin lỗi xin tội với vua, thời Vua đại ân xá, tha thứ trọng tội, cho an trí ở một nơi nào trong nước mà chẳng nên diệt mạng, chẳng đoạt của và cũng chẳng cần đuổi ra khỏi nước. Vì sao thế? Vì muốn khiến Vua biết có ba điều: 1. Có đức tin. 2. Có ơn. 3. Có đại lực, để khiến cho những kẻ chưa hàng phục phải hàng phục; kẻ đã hàng phục chẳng dám tái phạm, kẻ muốn phản nghịch chẳng dám manh khởi.

Đại Vương phải biết những kẻ có tội mà được khởi tội lại được phục chức vị cũ thời nhơn dân được yên ổn vậy. Những nhà Vua đúng như pháp mà trị hóa thời đuợc phước vô lượng, tiếng tăm đồn khắp. Nếu kẻ bị tội được mệnh lệnh Vua mà chẳng chịu phục tội thời phải trị cho xứng đáng, nhưng đừng giết chết hay làm tổn hại thân thể mà chỉ nên tịch thu tài sản và đày ra khỏi nước, để làm gương cho kẻ khác chẳng dám khởi nghịch tâm mà thôi.

Đại Vương phải biết! Như vậy là Vua tu pháp hạnh mà trị tội những kẻ khởi nghịch.

Kinh Ni Kiền Tử

Nếu có vị Hiền Vương sáng sớm dậy, trước vào Đạo tràng, kính lễ Thánh Hiền cầu nguyện phúc lành, cúng lạy Tổ tông, trả đền ân đức; dạy dân hiếu kính thầm ích cho muôn dân.

Xong rồi mới lâm Triều cùng với các Đại thần mà lo việc nước, và phê chuẩn, xong hai việc này rồi mới dùng bữa. Dùng bữa xong mới đi tắm rửa, và dạo chơi hoa viên.

Đến buổi chiều, bày hội đàm luận ở Vương cung, mời các vị Sa Môn, Bà La Môn có Đại trí huệ trong nước đến diễn thuyết Chánh pháp cho Vua nghe và Vua hỏi han các điều thiện ác, chánh tà và việc gì đáng làm, việc gì chẳng đáng làm. Rồi mới triệu tập các vị Cựu Thần có tài đức, và những kẻ ẩn dật có kiến thức cao xa, nhà Vua dọ hỏi việc quốc chánh để cho họ bình luận việc đắc việc thất. Như vậy là Vua tự tỉnh thức, phước đức của Vua càng tăng thêm rồi mới hàng phục các nước láng giềng, được bầy tôi tôn kính, trong ngoài một lòng.

Kinh Hoa Nghiêm

Hễ lên ngôi quốc vương phải tu 5 điều:

  1. Lãnh trị muôn dân không có oan uổng, nhũng lạm
  2. Nuôi dưỡng tướng sĩ tùy thời thăng thưởng
  3. Tu niệm pháp lành, phước đức nối luôn
  4. Phải tin những lời can gián của bậc trung thần chánh trực, đừng nghe kẻ sàm nịnh mà thương tổn đến bậc chánh trực quốc sĩ.
  5. Phải tiết độ việc tham dục, tâm chẳng buông lung

Tu năm điều này tiếng thơm khắp bốn biển, phước lộc tự đến. Trái lại chẳng tu năm điều này thời các pháp luật chẳng thi hành được, nhơn dân nghèo cùng mưu loạn, tất nhiên tướng sĩ phải mệt nhọc thế lực suy yếu; bấy giờ các vị phước thần không ủng hộ, bởi Vua mà hỏng việc lớn; các bực trung thần chẳng can gián; tâm nhà Vua càng buông lung, việc nước phế bỏ, thời nhơn dân lắm điều oán thán.

Kinh Pháp Cú Thí Dụ

Đức Phật nói: Ngày xưa nước Ca Thi có ông Vua tàn ác, làm những điều phi pháp khiến trăm họ khốn khổ. Bấy giờ có vị Hiền giả muốn can gián nhà Vua bằng cách dạy chim anh võ nói rằng: “Làm Vua mà có bảy điều phi pháp thời thân Vua nguy vậy:

  1. Say mê nữ sắc, chẳng kính bậc chơn chánh
  2. Say rượu, chẳng thương quốc dân
  3. Tham cờ bạc, chẳng tu lễ kính
  4. Săn bắn sát sanh, không lòng từ bi
  5. Ưa nói lời dữ, chẳng nói lời lành
  6. Nặng sưu dịch, lại thêm hình phạt biếm trích
  7. Cướp đoạt của dân chẳng nhằm nghĩa lý

Bảy điều phi pháp thân Vua nguy khốn.”

Lại nữa:

  1. Gần gũi những kẻ gian ác tà nịnh
  2. Chẳng tin những kẻ hiền lương
  3. Háo chiến nước người, chẳng nuôi nhơn dân

Ba việc phi pháp này là nước nguy vậy. Nếu Vua chẳng trừ bỏ các phi pháp nói trên, thời trong một mai chiều sẽ khuynh quốc, bại thân.

Là kẻ làm Vua, cả nước đều nhờ, như chiếc cầu muôn người nhờ qua lại; như cái cân, đối với kẻ thân người sơ đều công bình; như mặt trời, soi khắp thế gian; như mặt trăng, cho muôn vật mát mẻ; như cha mẹ, ơn lành nuôi dưỡng thương mến; như trời che khắp tất cả; như đất chở nuôi muôn vật; như lửa đốt trừ ác hoạn và như nước thấm nhuần muôn dân.

Nhà vua nghe chim anh võ nói như trên, rất hổ trẽn, về sau tu chánh hạnh. Do đó mà chánh giáo được thịnh hành trong nước. Và cũng nhờ đó mà tiếng xấu tiêu diệt, từ đây trở đi bà phu nhơn và các bề tôi đều trung thành cung kính nhà Vua, muôn dân đều vui mừng.

Kinh Tạp Bảo Tạng

Chủ nhà xem sóc tôi tớ có 5 điều:

  1. Phải thường cấp cho cơm áo, mền mùng
  2. Đau ốm phải mời thầy thuốc trị chữa
  3. Chẳng nên đánh đập quấy quá
  4. Nó có của riêng chẳng nên cướp lấy
  5. Khi phân chia vật gì phải bình đẳng

Tôi tớ đối với chủ nhà cũng có 5 điều:

  1. Phải dậy sớm, đừng để chủ nhà gọi
  2. Việc nên làm tự động làm ngay
  3. Phải yêu tiếc vật của chủ
  4. Khi chủ đi, về phải lo đưa, đón
  5. Phải khen ngợi điều hay của chủ, chẳng nên nói việc xấu

Kinh Lục Phương Lễ

Chủ nhà đối với những kẻ tôi tớ giúp việc: Sai khiến cho vừa sức; thường cho cơm áo; cho vật ngon; ban lời dạy; khi đau ốm cho nghỉ việc. Ấy là năm điều mà chủ nhà cần có vậy.

Làm khéo, làm khéo mà nên việc, biết phục thiện, tối đến ngủ, sáng dậy sớm, học tập, làm việc siêng, chủ nhà nghèo cũng đừng khinh, những lúc thiếu thốn, cũng chẳng bỏ nhau, và đi ra khỏi cửa thời khen ngợi chủ nhà. Ấy là 10 điều mà kẻ tôi tớ cần phải có. Chủ tớ được như vậy thế thời việc lành chẳng suy bại.

Kinh Thiện Sanh Tử

C. KHEN NGỢI HIẾU LÀNH

Điều lành cao tột chẳng gì bằng hiếu. Điều cực ác là bất hiếu vậy.

Kinh Nhẫn Nhục

Đặng ngọc báu cao từ dưới đất lên đến cõi trời 28, lấy đem bố thí cho người được phước báo chẳng bằng cúng dường cha mẹ.

Kinh Mạt La Mạt

Thờ cúng trời đất quỉ thần chẳng bằng hiếu thảo với cha mẹ, cha mẹ là hai vị Thần sống cao tột vậy.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương

Gặp đời không có Phật, nếu biết khéo phụng sự cha mẹ tức là phụng sự Phật vậy.

Kinh Đại Tập

Quả báo công đức thỏa thuận cúng dường cha mẹ ngang với công đức của vị Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ vậy.

Kinh Tăng Nhất A Hàm

Đức Phật nói: Chẳng những ngày nay Ta mới khen ngợi hạnh từ hiếu mà trong vô lượng kiếp về trước Ta cũng khen ngợi nhiều rồi!

Kinh Tạp Bảo Tạng

Nương nhờ ơn nuôi dưỡng của hai vị Từ Phụ và Bi mẫu cho nên tất cả các con trai gái đều được an vui. Thế là ơn cha cao như núi Chúa, ơn mẹ sâu như bể cả.

Kinh Tâm Địa Quán

Dù cho có người một vai cõng cha, một vai cõng mẹ, đến trọn đời mà chẳng phút xa lìa, và cung cấp áo cơm thuốc men, các món cần dùng. Như thế cũng chưa có thể gọi là đã trả xong ơn sâu nặng với cha mẹ.

Kinh Bổn Sự

Cha mẹ với con có 5 điều:

  1. Khiến con bỏ ác làm lành
  2. Lấy sách vở dạy cho con
  3. Cho con trì kinh giới
  4. Cưới vợ cho con
  5. Gia tài phải để lại cho con hết.

Kinh Lục Phương Lễ

Phật nói: Ơn cha mẹ thương con, Ta ở đời này lâu đến một kiếp nói cũng khó hết. Ta nay chỉ nói một phần ít thôi. Nay ông Trưởng giả: nếu có người giàu có mời một trăm Thầy Bà La Môn tịnh hạnh, một trăm vị Thần tiên và 100 người bè bạn đến vào trong ngôi nhà làm bằng bảy thứ ngọc sang trọng mà bày tiệc cúng dường đầy đủ trăm ngàn món ăn ngon tột bực, nơi phòng nghỉ, treo chuỗi anh lạc và dùng các giường mùng, mền gối và trăm thứ ngọc báu để trang hoàng; lại dùng thứ thuốc bạch được để trị bịnh. Nuôi như thế mãn trăm ngàn kiếp mà chẳng bằng phát khởi một niệm lòng hiếu thuận dùng chút ít vật chất cúng dường cha mẹ và theo bên hầu hạ.

Bà mẹ hiền thương con, thật không biết lấy vật gì để so sánh cho cân xứng vậy. Từ khi con vào thai, trải qua thời gian mười tháng những lúc mẹ đi, đứng, ngồi, nằm, chịu trăm điều khổ não mà miệng mẹ không thể nói ra. Muốn những đồ uống ăn hay áo mặc, dù có được mẹ cũng chẳng mừng vì lòng lo lắng không khi nào dứt, chỉ lo nghĩ đứa con sắp sanh sao cho hoàn hảo là hơn thôi. Nếu khi đẻ khó thời như trăm ngàn mũi dao đồng thời đâm cắt toàn thân; nếu khi sanh đẻ được an lành, bà mẹ với các thân thuộc cùng chung vui sướng in như kẻ nghèo được ngọc báu; sự đau khổ trong mười tháng của mẹ do một tiếng khóc đầu tiên của đứa con khi mới lọt lòng mà nổi khổ ấy mẹ liền quên mất và vui sướng như nghe âm nhạc. Con lấy nơi bụng ngực của mẹ làm chỗ ngủ, lấy hai cổ vế là chỗ dạo chơi và do nước giêng cam lồ nơi ngực mẹ chảy ra mà nuôi lớn. Ôi! Ơn đức của mẹ, núi cao biển sâu cũng chẳng thể sánh kịp. Nếu đứa con nào biết tùy thuận nghe theo những lời dạy bảo của từ mẫu mà không trái nghịch thời được các chư thiên hộ niệm, phước đức vô cùng. Nếu có kẻ trai lành gái thiện nào muốn trả ơn cha mẹ, trải qua thời gian một kiếp, cứ mỗi ngày ba lần từ cắt thịt nơi thân đem nuôi cha mẹ cũng chưa có thể gọi là đã trả ơn được một ngày vậy.

Kinh Tâm Địa Quán

Người trong thế gian ai giàu hơn hết ai nghèo hơn hết? Bi mẫu sống còn gọi là giàu có; Bi mẫu qua đời gọi là nghèo khổ. Khi còn bị mẫu gọi mặt trời trưa; bi mẫu qua đời gọi mặt trời lặn. Khi còn bi mẫu, gọi đêm trăng sáng, bi mẫu qua đời là đêm không trăng. Vậy nên các người siêng năng tu tập hiếu thuận nuôi dưỡng hai đấng Từ thân. Những người như vậy, được phước ngang như phước cúng như Phật không chút hơn kém.

Kinh Tâm Địa Quán

Phàm là con thảo phải lấy năm việc kính thuận cha mẹ. Những gì là năm?

  1. Cúng dường đầy đủ đừng để thiếu thốn
  2. Phàm làm việc gì, phải trước thưa cha mẹ
  3. Cha mẹ có làm, kính thuận chẳng nghịch
  4. Chánh lịnh cha mẹ, chẳng dám chống trái
  5. Cha mẹ có làm, chánh nghiệp chẳng dứt

Kinh Trường A Hàm

Con thờ cha mẹ phải có năm điều:

  1. Phải lo sanh kế
  2. Dậy sớm sai khiến tôi tớ lo làm cơm nước cho kịp thời
  3. Chẳng nên làm cha mẹ lo thêm
  4. Phải nhớ ơn cha mẹ
  5. Khi cha mẹ có bệnh, phải lo sợ liền mời thầy chửa thuốc kịp thời

Kinh Lục Phương Lễ

Đạo làm con đối với cha mẹ có năm việc:

  1. Lo gia s
  2. Lo trả nợ nần
  3. Phải hiểu lời dạy
  4. Cúng dường
  5. Làm sao cho cha mẹ vui

Kinh Thiện Sanh Tử

Cung phụng đồ ăn uống và châu báu chưa đủ trả được ơn cha mẹ. Hướng dẫn cha mẹ xoay về chánh pháp mới là báo hiếu.

Kinh Bất Tư Nghì Quang

Nếu cha mẹ không tin, khuyên phát khởi lòng tin; nếu chưa có giới pháp, khuyên thọ trì giới pháp; nếu tánh tình bủn xỉn, khuyên tu hạnh bố thí; nếu không trí huệ, khiến kia tu trí huệ. Làm con được như thế, mới được gọi là trả ơn.

Luật Tỳ Na Da

Bầy giờ đức Thế Tôn bảo Ưu bà Di rằng: Ngày trước Ta đi xuất gia, Ta có tâu thề với Phụ Vương Ta rằng, khi nào chứng được Phật đạo sẽ trở về độ cha mẹ. Thế là nay Ta đã chứng được Phật đạo và công đức thành tựu, quyết phải trở về nước, chẳng dám trái lời tâm hứa ngày trước.

Kinh Phổ Diệu

Khi vua Tịnh Phạn lâm bệnh nặng, Ngài nghĩ muốn thấy mặt các con một lần chót.

Bây giờ đức Phật ở tại thành Vương xá cách chừng năm mươi do tuần. Phật mới bảo A Nan, Nan Đà và La Vân liền dùng thần túc mà về vương cung. Rồi ngài phóng hào quang sáng rực soi khắp thân Phụ vương thì bịnh tình được thuyên giảm chút ít; và Ngài lại lấy tay rờ trên trán Phụ vương mà an ủi rằng: Phụ vương là người tu tịnh giới, đã diệt sạch tâm phiền não cấu nhiễm; nay Phụ vương nên vui mừng và nghĩ nhớ lời kinh pháp.

Đức Phụ vương nghe nằm chắp tay đem tâm mà kính lễ! Liền lát sau Ngài thăng hà. Các Thích tộc và triều đình lo việc tẩn liệm vào quan tài và đem quan tài tôn trí trên tòa sư tử.

Đức Phật và ngài Nan Đà nghiêm chỉnh đứng trước linh xa; ngài A Nan và La Vân đứng sau linh xa. A Nan quì thưa Phật rằng: cho tôi xin gánh quan tài Bá phụ; La Vân cũng xin với Phật cho mình gánh quan tài ông nội. Đức Thế Tôn nói lời an ủi: con người sau nầy đều là hung bạo, bất hiếu chẳng biết trả ơn dưỡng dục của cha mẹ, Ta vì chúng sanh bất hiếu ấy mà bày ra phương pháp để giáo hóa. Rồi Như Lai đích thân gánh quan tài phụ vương và tự tay bưng lư hương đứng trước mà đi đến nơi Lăng mộ!

Đức Như Lai kiếp trước ở trong sanh tử, thời gian như vậy nhiều như số vi trần không thể nghĩ bàn được, và trong hình loại tất cả chúng sanh chịu đủ mọi thân hình. Vì chịu nhiều thân hình nên tất cả chúng sanh đã từng làm cha mẹ đức Như Lai, và Như Lai cũng đã từng làm cha mẹ tất cả chúng sanh. Vì từng làm cha mẹ tất cả chúng sanh nên thường tu những khổ hạnh khỏ tu, hay bỏ những vật khó bỏ. Siêng tu tinh tấn, trì giới, bố thí, đa văn, thiền định, trí huệ cho đến đầy đủ tất cả muôn hạnh, chẳng nghỉ chẳng thôi, tâm không mệt mỏi. Vì hiếu dưỡng cha mẹ, biết ơn trả đức nên ngày nay được chóng thành tựu quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân

Phật bảo A Nan rằng: Đời trước, khi Ta làm con là nhơn hiếu; khi làm vua là từ dục; khi làm dân là kính phụng. Do đó mà tự gây nên đấng cao cả trong ba cõi.

Kinh Viêm Tử

D. ĐẠO THẦY TRÒ

Kẻ Thiện tri thức nói lời đúng pháp, đúng như lời nói mà làm. Thế nào gọi là nói đúng pháp, và đúng như lời nói mà làm? Nghĩa là tự mình chẳng sát sanh, chẳng dạy người khác sát, cho đến tự mình tu chánh kiến và dạy người cũng tu chánh kiến; nếu ai được như vậy, mới được gọi là chơn chánh Thiện tri thức. Lại nữa tự tu đạo Bồ Đề và dạy người cũng tu Bồ Đề, vì nghĩa ấy nên gọi là Thiện tri thức. Hoặc là tự có thể tu hạnh tín, giới, bố thí, đa văn, trí huệ và cũng có thể dạy người tu hành tín, giới, bố thí, đa văn, trí huệ, vì những lẽ đó mà gọi là Thiện tri thức. Kẻ thiện tri thức cần phải có pháp lành. Pháp lành gì? Là việc mình tự chẳng cầu vui cho mình mà thường vì cầu vui cho chúng sanh.

Khi thấy người có lỗi mình chẳng nên nói điều dở mà thường nói điều trọn lành. Bởi những nghĩa đó mà gọi là Thiện tri thức.

Kinh Niết Bàn

Nếu ai gần gủi Ác tri thức, đời nầy chẳng được tiếng tăm tốt, bởi vì gần gủi bạn bè xấu, đời sau sẽ đọa ngục A Tỳ. Ai mà gần gủi Thiện tri thức, hiện tại dầu chẳng được chúng lợi thế gian, đời sau sẽ được hết nhân khổ.

Kinh Phật Bổn Hạnh

Cần cầu kẻ Thiện tri thức, thân tâm đừng sanh mệt mỏi, thấy Thiện tri thức đừng sanh lòng nhàm chán; học hỏi với Thiện tri thức, đừng sợ khó nhọc; gần gủi Thiện tri thức đừng thối lui, cúng dường Thiện tri thức đừng cho gián đoạn; tùy thuận theo lời dạy dỗ của Thiện tri thức mà đừng chống trái; những công đức của Thiện tri thức, đừng sanh lòng nghi; khi Thiện tri thức diễn nói, phải quyết định mở cửa lòng xuất ly mà nghe; nhân thấy Thiện tri thức tùy thuận theo hạnh phiền não, đừng sanh lòng hiềm quái. Đối với Thiện tri thức phải lòng tin vững chắc đừng biến đổi. Tại sao? Vì Bồ tát nhờ Thiện tri thức mà được học hỏi các hạnh Bồ Tát. Do đó mới được thành tựu tất cả công đức của Bồ tát và được xuất sanh đại nguyện cùng là trí huệ quang minh rực rỡ. Và cũng nhờ đó mới được dẫn phát thiện căn Bồ tát và chứng được Đạo quả Như Lai bồ đề, để nhiếp lấy hạnh mầu nhiệm và sức tự tại cùng là xuất sanh sức đại từ đại bi của Bồ tát vậy.

Nầy Thiện nam tử! Bồ tát nhờ sự giúp đỡ của Thiện tri thức mà chẳng sa đọa ác thú; nương nhờ sự thành tựu của Thiện tri thức mà được tự tại thọ sanh; nương nhờ sức mạnh của Thiện tri thức mà phá tan nghiệp báo; nhờ mặc áo giáp nhẫn nhục của Thiện tri thức mà chẳng bị một lời nói xấu ác; và nương nhờ sự sanh trưởng của Thiện tri thức mà tiêu diệt được các tội lỗi kiêu mạn vậy.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Phật dạy: kẻ nào biết ơn thầy, khi có thầy thì lo phụng sự; khi vắng thầy thời lo suy nghĩ những lời thầy đã dạy bảo; giống như kẻ hiếu tử nghĩ nhớ cha mẹ, và như người đói khát nhớ nghĩ đến việc uống ăn.

Kinh Trang Tâm

Là kẻ Sư trưởng cần lấy 5 điều mà đối xử với đệ tử:

  1. Tùy thuận theo phép điều ngự
  2. Dạy những điều mà trò chưa biết
  3. Tùy theo sự nghe biết của trò mà khiến cho hiểu thấu căn lành
  4. Chỉ kẻ hiền lành cho trò kết bạn
  5. Đem hết chỗ hiểu biết của mình mà dạy trao cho trò không nên lẫn tiếc

Kinh Trường A Hàm

Thầy dạy đệ tử có 5 điều:

  1. Khiến trò mau hiểu
  2. Dạy trò giỏi hơn đệ tử của kẻ khác
  3. Phải dạy trò biết rồi nhớ mãi chẳng quên
  4. Phải giải nói các điều nghi nan cho trò hiểu rõ
  5. Muốn khiến trí huệ của trò cao hơn mình

Kinh Lục Phương Lễ

Hay khiến học hay dạy bảo, khiến học siêng năng đem về đạo lành, cho trò làm với kẻ hiền hữu. Ấy là năm điều mà thầy đối với trò vậy.

Kinh Thiện Sanh Tử

Đệ tử kính phụng sư trưởng cũng có 5 điều:

  1. Phải hầu hạ
  2. Lễ kính cúng dường
  3. Tôn trọng trên đầu cổ
  4. Những lời thầy dạy bảo phải cung kính tùy thuận, chớ không được chống trái
  5. Khi đi theo thầy nghe được điều gì hay, khéo nhớ giữ gìn, chớ bỏ lãng quên

Kinh Thiện Sanh Tử

Đệ tử thờ thầy phải có 5 điều:

  1. Kính mến là khó gặp
  2. Phải nhớ ơn thầy
  3. Nghe theo lời dạy
  4. Nghĩ nhớ chẳng nhà
  5. Khi đi theo sau hầu hạ phải khen ngợi điều hay của Người

Kinh Lục Phương Lễ

Lóng nghe cho chắc, ưa học hỏi, siêng làm việc, không phạm lỗi, cúng dường thầy. Ấy là năm điều đệ tử thờ thầy vậy.

Kinh Thiện Sanh Tử

Phàm là kẻ đệ tử, mỗi khi thấy thầy tức thì đứng dậy.

Luật Căn Bổn Tỳ Na Da

Đệ tử theo thầy đi, chân chẳng nên đạp nơi bóng thầy.

Kinh Sa Di Giới Luật

Đệ tử, khi tham học với thầy phải tránh 6 chỗ:

  1. Chẳng nên đứng trước mặt
  2. Chẳng nên đứng sau lưng
  3. Chẳng nên đứng quá xa
  4. Chẳng nên đứng quá gần
  5. Chẳng nên đứng chỗ cao hơn chỗ thầy
  6. Chẳng nên đứng hướng trên gió

Luật Thiện Kiến Tỳ Bà Ta

Phật dạy: đứa ác muốn hại kẻ hiền, như ngửa miệng lên trời khạc nhổ, khạc chẳng đến mà rơi lại nơi mình. Lại như kẻ đứng đầu gió lấy chân quấy bụi, bụi chẳng đến người mà đã dơ thân mình. Người hiền không thể hủy hoại lại diệt mình.

Có người nghe Phật giữ Đạo, tu Đại nhơn từ, họ cố ý đến mắng Phật, Phật làm thinh không phản ứng. Họ mắng đã rồi thôi.

Phật hỏi: ngươi đem lễ vật cho người ta, người ta không nhận lễ vật ấy trở về ngươi chớ sao? Người kia đáp: phải. Phật nói: khi nãy ngươi mắng Ta mà Ta không nhận, ngươi tự đem họa ấy về nơi thân người: giống như vang ứng theo tiếng, như bóng hiện theo hình, quyết không sai một mảy. Ngươi cẩn thận chớ làm ác.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương

A Nan thưa Phật rằng: người đời và đệ tử Phật khinh rẻ bực Thầy và họ đem ác tâm đến bậc Thầy và người đạo đức thì tội ấy thế nào?

Phật bảo A Nan rằng: là con người thời phải ưa mến đức của người khác và vui mừng điều lành của họ, chẳng nên ganh tị. Còn như đem ác tâm đến bậc Thầy và người đạo đức thì cũng như đem ác tâm đến Phật không khác chi cả. Ví phỏng đem cái cung nặng một vạn tạ bắn vào thân mình chừng có đau hay không? A Nan thưa: thật đau lắm đau lắm. Phật nói: người có ác ý đem đến người đạo đức cùng là bậc Thầy hãy còn đau hơn gấp mấy lần cái mũi tên kia bắn vào thân minh.

Là kẻ đệ tử chẳng nên khinh dễ bậc Thầy và đem ác ý đến kẻ đạo đức. Người có đạo đức phải xem họ như Phật chớ chẳng nên ganh tị hủy báng. Người có giới đức cảm động đến các Thiên long qủy thần không một vị nào chẳng cung kính.

Thà lao mình vào đống lửa, cẩn thận chớ nên ganh tị và hủy báng kẻ thiện nhơn, tội ấy chẳng phải nhỏ nhen, cho nên phải cẩn thận lắm.

Kinh A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung

Đệ tử có 5 việc mới nên quở mắng:

  1. Bất tín
  2. Biếng nhác
  3. Ác khẩu
  4. Tâm không biết xấu hổ
  5. Gần gũi ác tri thức

Phật nói: chỉ phạm một trong năm món vừa kể trên cũng nên quở mắng.

Có Tỳ kheo thưa Phật rằng: quở mắng cách nào? Phật đáp: có 5 pháp:

  1. Chẳng nói năng với hắn
  2. Chẳng dạy trao gì hết
  3. Cho thọ dụng chẳng đồng đều
  4. Chẳng dạy cho việc lành
  5. Chẳng cho ở chung một nhà

Trong 5 pháp nầy tùy theo trường hợp mà dạy quở.

Luật Hữu Bộ Căn Bổn Tỳ Nại Da

A Nan thưa Phật rằng: bực Thầy có quyền la mắng đệ tử, tội nhỏ cho là to, chừng như Thầy có lỗi hay không?

Phật đáp: không nên không nên! Đạo nghĩa Thầy trò phải lấy đạo cảm hóa tự nhiên, phải cùng nhau có lòng tin cậy thân hậu; xem trò như mình, việc chi mình chẳng muốn làm, đừng trách sao trò không làm. Phải lấy đạo đức rộng dạy: kính trọng, lễ phép cho trò, phải thuận hòa trung tiết, không nên đem lòng oán trách kiện cáo cùng nhau. Kẻ đệ tử cùng Thầy hai bên đều chân thành: bực Thầy cho ra bực Thầy, kẻ làm trò cho đáng kẻ làm trò thì mới được.

Kinh A Nan Vấn Phật Sự Cát Hung

E. BẰNG HỮU THIỆN ÁC

Đức Thế Tôn với ngài trưởng lão Nan Đà cùng nhau đi vào trong thành Ca tỳ la bà tộ. Đi đến gần một nhà buôn cá. Phật bảo Nan Đà rằng: Ngươi vào trong nhà buôn cá kia xin lấy một nắm cỏ tranh mà họ thường tủ trên cá chết.

Nan Đà vâng lời làm theo. Rồi đức Phật bảo Nan Đà cầm theo một lát rồi sẽ vất nó đi. Nan Đà y lời cầm đi theo một đỗi rồi mới vất xuống đất.

Bấy giờ đức Phật bảo Nan Đà: ngươi ngửi tay ngươi coi có nghe mùi chi không? Nan Đà thưa: dạ có mùi bất tịnh hôi tanh. Phật liền dạy Nan Đà rằng: Thiệt đúng vậy đó. Nếu người nào gần gũi với bọn ác tri thức giao kết làm bè bạn trong chừng giây lát thời ác nghiệp nhiễm thành thói quen, tiếng xấu người ấy bị đồn khắp.

Đức Thế Tôn lại cùng với trưởng lão Nan Đà đi gần đến nhà làm nhang, Ngài bảo Nan Đà: Ngươi vào nhà kia xin một bao nhang đem đây. Nan Đà vâng lời vào nhà xin lấy một chiếc bì họ đã đựng nhang cầm ra. Phật bảo: Ngươi cầm một lát rồi sẽ vất nó đi. Nan Đà y lời cầm một lát rồi vất xuống đất.

Bấy giờ Phật mới bảo Nan Đà: Ngươi tự ngửi tay ngươi coi có nghe mùi chi chăng? Nan Đà thưa rằng: Dạ thưa Thế Tôn! Tay con có mùi thơm ngạt ngào thật không thể tả được. Đức Phật bảo: Thật vậy! Nếu ai gần gũi với kẻ Thiện tri thức thường tự tùy thuận thấm nhuần đạo đức của họ thời được tiếng tăm tốt đẹp.

Kinh Phật Bổn Hạnh

Chỗ đất có miếng giấy cũ, Phật bảo Tỳ kheo lại nhặt. Tỳ kheo vâng lời lại nhặt lấy. Phật hỏi miếng giấy chi vậy? Dạ thưa miếng giấy bao hương, tuy bị bỏ đã lâu mà mùi hương vẫn còn thơm.

Thầy trò đi một đỗi nữa lại gặp một khúc giây. Phật bảo Tỳ kheo lại nhặt, rồi Phật hỏi giây chi đó? Dạ thưa giây chi không biết, mà người ta dùng buộc cá, nên có mùi tanh hôi.

Phật nói: hai vật ấy trước kia sạch sẽ chẳng có mùi gì mà vì nhơn duyên nên mới có thơm, thúi khác nhau. Gần kẻ hiền minh thời hấp thụ được nhiều đạo nghĩa, mà bạn với đứa ngu ám thời tai họa chắc đến thân. Cũng in như 2 vật giấy kia đựng hương thời thơm mà buộc cá thời hôi; nó thấm nhiễm dần dần mà tự nó nào có hay biết.

Kinh Pháp Cú Thí Dụ

Phật dạy: Này Thiện Sanh! Làm bạn với đứa trộm, có bốn điều ác: tham của người khác; cho ít trong nhiều, vì sợ nên học tập, vì lợi nên học tập.

Bạn với đứa vọng ngữ, cũng có 4 điều: bày tỏ việc riêng của người, việc riêng của mình dấu mất, trước mặt khen hay, sau lưng chê dở.

Bạn với đứa tin tà giáo, cũng có bốn điều: nó dạy mình sát sanh, dạy ăn trộm, dạy tà dâm và dạy mình dối trá.

Trái lại bạn với kẻ đồng tâm, khi khổ vui có mặt với nhau có bốn điều lành: họ cho mình của báu, cho điều lợi, cho của nhà sẵn có, cho lời nói trung thật.

Bạn với kẻ siêng năng sự nghiệp cũng có bốn điều lành: lấy lợi làm sự nghiệp, lấy sức mạnh làm sự nghiệp, hoặc mình có buông lung thì họ can gián, và lấy điều lành làm sự nghiệp.

Và lại bạn với kẻ nhơn từ cũng có bốn điều lành: được họ khuyên dạy thành tín, thành giới, thành văn và thành thi.

Kinh Thiện Sanh Tử

Phật dạy: Ác tri thức có 4 bọn:

  1. Bên trong ôm oán tâm, mà bên ngoài gắng gượng làm ra vẻ bạn tri thức
  2. Trước mặt nói tốt mà sau lưng nói xấu
  3. Lúc mình có việc gấp, đối trước mặt bộ sầu khổ mà sau lưng thì vui mừng
  4. Bề ngoài giả làm như thân hậu mà bề trong toan mưu gây oán

Thiện tri thức cũng có 4 thứ:

  1. Bề ngoài hình như không tốt, mà bên trong có ý tốt
  2. Thẳng thắn can gián ngay trước mặt mà sau lưng thì vẫn nói điều tốt của bạn
  3. Những khi đau ốm, hoặc bị huyện quan đòi hỏi, hay phải đi chinh chiến thời lo lắng tìm hết cách che chở giải cứu.
  4. Thấy kẻ nghèo cùng không nỡ bỏ qua, thường nghĩ tìm phương tiện khiến cho được giàu có

Ác tri thức cũng có 4 thứ:

  1. Khó can gián hiếu dụ khiến họ làm lành vì họ cố ý lân la với kẻ ác
  2. Muốn khiến họ đừng bè bạn với kẻ ưa rượu mà họ cố ý lân la với bợm nghiện rượuMuốn khiến họ tự giữ mình, nhưng họ lại càng sanh đa sự
  3. Muốn khiến họ làm bạn với kẻ hiền, mà họ cố ý với kẻ ác

Thiện tri thức cũng có 4 thứ:

  1. Thấy kẻ nghèo cùng quẫn bách, khiến cho họ có phương sanh kế
  2. Không khi nào tranh cãi cùng nhau
  3. Thường hỏi thăm tin tức với nhau
  4. Thường nghĩ nhớ nhau những lúc gặp gỡ

Thiện tri thức cũng có 4 thứ nữa:

  1. Bị quan nã bắt đem giấu kín thì tìm cách giải cứu
  2. Khi bị đau ốm thì đến thăm viếng giúp đỡ
  3. Khi bạn chết chóc đến xem sóc tẩm liệm
  4. Bạn đã qua đời, về sau cứ nghĩ nhớ mãi!

Thiện tri thức lại có 4 điều:

  1. Muốn đấu tranh là ngăn cản ngay
  2. Muốn làm bạn với ác tri thức là can gián liền
  3. Chẳng muốn làm việc để sanh sống thì khuyên nhủ nên làm việc để sanh sống
  4. Chẳng biết kinh giáo đạo lý thì dạy cho hiểu biết, và sanh lòng tin vui mừng

Ác tri thức cũng có 4 bọn:

  1. Bị thiệt chút ít quyền lợi là nổi sân to
  2. Mình có việc gấp mượn nhờ đi đâu đó, mà chẳng chịu đi
  3. Thấy bạn có việc gấp liệu bề tránh mất
  4. Thấy người bạn bị chết chóc, bỏ lơ chẳng hề ngó tới

Đức Phật dạy: nên chọn lựa bạn lành mà theo; mà kẻ ác nên tránh xa. Ta nhờ nương theo bạn lành nên mới được thành Phật.

Kinh Lục Phương Lễ

Đừng làm việc chung với kẻ ác tri thức và đứa ngu, mà phải giao kết với kẻ thiện tri thức và người trí. Con người vốn không phải ác nếu gần gui?kẻ ác về sau thành người ác, thời tiếng xấu đồn khắp thiên hạ. Mà thiện tri thức thì trái lại. Cho nên cần phải gần gũi.

Kinh Tăng Nhất A Hàm

Ông Bột nói rằng: (tiền thân Phật Thích Ca) bạn có bốn thứ cần phải biết: có thứ như hoa, có thứ như cân, có thứ như núi và có thứ như đất. Sao gọi như hoa, là khi tươi đẹp lấy cắm trên đầu, lúc héo xấu thời vất bỏ; khi giàu sang thì phụ họa mà lúc nghèo hèn thì bỏ lơ, ấy là bạn như hoa. Sao gọi như cân? Nghĩa là vật nặng là thấp xuống, mà vật nhẹ thời cao lên, ấy là bạn như cái cân. Sao gọi như núi? Ví như loại chim thú tập trung đậu trên quả núi vàng thời lông vảy của chúng nó đều sáng vàng rực rỡ; nghĩa là mình được sanh trọng cũng khiến cho bạn được vinh hiển, giàu sang chung cùng vui vẻ; ấy là bạn như núi. Sao gọi là bạn như đất? Là trăm giống và của báu tất cả đều bao cấp cho bạn, thí cấp dưỡng hộ ân hậu rất đậm đà, ấy là bạn như đất vậy.

Kinh Bột

Vị Đại Bồ Tát xem kẻ ác tri thức như con voi dữ hay loại ác thú không hơn không kém. Vì sao thế? Vì đều là loại hại thân thể vậy. Đại Bồ tát đối với voi dữ hay thú dữ, tâm không sợ hãi, chứ đối với ác tri thức tâm sanh khiếp sợ. Tại sao thế? Vì voi dữ hay thú dữ chỉ có thể hại thân mà không thể hại tâm, còn ác tri thức hại luôn cả thân tâm. Voi dữ hay thú dữ chỉ hại một thân chớ ác tri thức hại vô lượng thiện thân, vô lượng thiện tâm. Voi dữ hay thú dữ chỉ hay phá hại cái thân nhơ nhớp bất tịnh mà thôi, còn ác tri thức phá hoại tịnh thân lẫn tịnh tâm. Voi dữ hay thú dữ phá hoại thân xác thịt, còn ác tri thức phá hoại pháp thân. Bị voi dữ giết chẳng đọa ba ác đạo, mà bị ác tri thức giết quyết đoạ ba ác đạo. Voi dữ hay thú dữ chỉ là kẻ oán của thân, còn ác tri trức là kẻ oán của thiện pháp.

Vậy nên Bồ tát thường phải xa lìa bọn ác tri thức mới được.

Kinh Niết Bàn

Tìm bè bạn khắp nơi, không được vừa ý mình, thôi gắng giữ tâm ta, đừng bạn với kẻ ngu. Khắp nơi tìm bè bạn, không được vừa ý ta, thà khéo giữ tâm mình, chẳng làm bạn kẻ ác.

Luật Tứ Phần

Nếu ai gần gũi với bạn trí huệ và hiền lành thời có thể khiến cho nội tâm và ngoại thân đều được trong sạch. Thế mới gọi là bậc trượng phu chơn thiện.

Kinh Đại Trang Nghiêm

Bạn hiền là nền tảng của muôn phước; đời hiện tại này khỏi nạn lao ngục quan vua; sau khi chết đóng bít được cửa tam đồ ác đạo vậy. Có thể lên trời đắc Đạo, ấy là đều nhờ sức giúp đỡ của Hiền hữu vậy.

Kinh Hoan Dự

Bạn lành đủ 7 pháp mới thành thân hữu:

  1. Việc khó làm hay làm được
  2. Cái khó cho hay cho được
  3. Việc khó nhẫn hay nhẫn đượ
  4. Việc kín cho biết lẫn nhau
  5. Che đậy lẫn nha
  6. Gặp khổ chẳng bỏ nhauNghèo hèn chẳng khinh bỏ nhau

Luật Tứ Phần

Bằng Hữu có 3 yếu pháp

  1. Thấy có lỗi lầm thời hiểu dụ can gián cho nhau
  2. Thấy có việc tốt thời hết lòng vui mừng
  3. Bạn lâm nạn đang ở trong cảnh nguy khốn cùng thời chẳng bỏ nhau

Kinh Nhơn Quả

Bạn bè: chẳng nên nhơn một lời nói của kẻ khác mà liền bỏ nhau, khi nghe một lời nói của kẻ khác cần phải quan sát kỹ càng đã.

Luật Căn Bổn Tỳ Nại Da

Người đời với thân thuộc và bằng hữu phải có 5 điều:

  1. Thấy họ làm những việc tội ác, đem nhau riêng chỗ vắng vẻ mà can gián, hiểu dụ, quở trách và ngăn cản
  2. Khi họ có chút việc gấp phải mau chạy đến cứu giúp
  3. Có nói lời chi riêng với mình, thời mình không nên nói lại với kẻ khác
  4. Phải lễ kính lẫn nhau
  5. Có vật gì quí, nên biếu cho nhau ít nhiều để cùng hưởng cho vui

Bè đối với bạn: Lấy chánh tâm mà kính nhau, đừng ôm lòng hờn giận, không nên có ý gì khác; biếu nhau vật quí, ân hậu đậm đà; ấy là năm việc mà bè cần phải có.

Khiến họ về với mình, quở trách những điều kiêu ngạo, buông lung che đậy việc riêng của họ, thường cúng dường và đem những lời nói tận tâm bảo cho nhau; ấy là năm điều mà Bạn cần phải có.

Việc giao tế của bè bạn được như thế, thời thiện pháp làm gì suy đồi được.

Kinh Thiện Sanh Tử

F. ĐẠO VỢ CHỒNG

Người thế gian : cha con, chồng vợ, anh em, gia thất, bà con nội ngoại phải kính mến nhau, không nen tham tiếc; lời nói, sắc mặt thường tỏ hòa thuận, dừng nên chống trái nhau.

Kinh Vô Lượng Thọ

Nếu người có thể giữ được lòng tin thời trong nhà an hòa, phước tự nhiên đến, chớ chẳng phải Thần Thánh nào trao cho vậy.

Kinh A Nan Phân Biệt

Chồng đối với vợ có 5 điều:

  1. Khi ra vào phải kính mến.
  2. Cho uống ăn và sắm cho áo mền và đồ trang sức theo thời đại.
  3. Phải sắm cho vàng bạc và chuỗi ngọc.
  4. Trong nhà có bao nhiêu của cải giao hết cho vợ cất giữ.
  5. Khi đi ra ngoại chẳng nên đem theo những đứa đĩ thõa.

Vợ thờ chồng có 5 điều:

  1. Chồng đi về phải ra đón tiếp.
  2. Chồng đi vắng phải lo nấu nướng, quét dọn đợi chồng về.
  3. Chẳng nên ngoại tình với kẻ khác dù là tâm nghĩ, chồng mắng chửi chẳng đặng mắng lại và tỏ vẻ bất bình.
  4. Phải nghe lời dạy dỗ của chồng, có món gì chẳng đặng giấu riêng.
  5. Khi chồng ngủ nghỉ phải lo dọn cất rồi mới đi nằm.

Kinh Lục Phương

Là chồng phải lấy 5 điều nuôi, khiến vợ được an, năm điều là: chánh tâm kính mến, ý chẳng hờn giận, không nên ngoại tình, thường cho ăn mặc, thường cho trang sức.

Khéo làm việc, khéo làm nên, vâng lời dạy bảo, dậy sớm, nghỉ tối, mọi việc phải bắt chước, đãi khách quân tử, thưa hỏi khách quân tử, vẻ mặt hòa nhã, lời nói thuận thỏa, ghế, bàn, giường chiếu ngay thẳng, đồ uống ăn sạch sẽ, nghĩ việc bố thí, cúng dường cho chồng. Mười bốn điều này là người vợ phải có. Chồng vợ hòa mực thời thiện pháp chẳng suy đồi.

Kinh Thiện Sanh Tử

Người vợ trinh tháo và hiền lương lanh lợi là bậc mẫu nghi đủ bề khôn khéo nuôi con. Bầy con ấy quyết sẽ thành những bậc đại nhân vật.

Kinh Tăng Nhứt A Hàm (Văn Ba Lị)

Khi Đức Phật ở Tịnh xá Kỳ thọ. Ông Trưởng Giả Cấp Cô Độc cưới dâu cho con. Người dâu đẹp đẽ đoan chánh vô song, nhưng phải tánh kiêu ngạo, khinh mạng chẳng vâng kính cha mẹ chồng và chồng. Bây giờ ông Trưởng giả tự nghĩ : “Phải con dâu ngạo mạn làm sao mà dạy dỗ nó! Nếu đánh đập là chẳng phải điều lành, mà bỏ qua, chẳng dạy dỗ thời càng ngày nó càng thêm nhiều tội lỗi. Duy thỉnh Đức Phật nhờ Ngài dạy bảo giùm”. Sáng ngày ông đi đến Phật, thỉnh Phật về nhà nhờ giáo hóa con dâu mới tên là Ngọc Da. Đức Phật đến Trưởng giả rồi Ngài bảo rằng : “Này Ngọc Da nữ ! Phàm làm đàn bà con gái đừng cậy sắc đẹp mà sanh lòng kiêu mạn, hình dung đoan chánh đẹp đẽ chẳng phải thật đẹp đẽ, mà tâm tánh đoan chánh đẹp đẽ được người kính mến mới thật là đẹp đẽ chơn thật vậy”.

Phép làm đàn bà con gái có 5 điều:

  1. Khuya mới ngủ, sớm lo dậy, để lo việc gia sự, hoặc có món ngon vật lạ trước đem dâng lên cha mẹ và chồng.
  2. Phải xem sóc và giữ gìn đồ đạc trong nhà
  3. Phải cẩn thận lời nói và nhẫn nại, có giận thì chút thôị…
  4. Dè dặt cẩn thận, thường lo sợ việc mình không chu đáo thế.
  5. Nhất tâm cung kính phụng sự cha mẹ chồng và chồng và hết lòng hiếu thảo.

Lõi nữa làm dâu có 5 phép :

  1. Làm vợ như làm mẹ, mến chồng như mẹ thương con vậy.
  2. Làm vợ như làm tôi, là thờ chồng như bề tôi thờ vua vậy.
  3. Làm vợ như em gái, là thờ chồng như em gái thờ anh cả vậy
  4. Làm vợ như đày tớ, là thờ chồng như tớ gái vậy.
  5. Làm vợ của chồng, là xem nhau đồng tâm hiệp ý, tuy hình thể khác nhau mà không sanh lồng kiêu mạn. Công việc trong, ngoài tốt đẹp, gia đình giàu có; tiếp đãi khách tử tế, tiếng tốt được đồn khen.

Trái lại làm dâu có 3 điều xấu:

1. Chưa tối mà đi ngủ, mặt trời mọc mà chưa dậy, đối với chồng giận dữ, trợn mặt, hiềm ghét, và mắng chửi.

2. Cơm ngon tự ăn, mà cơm dở đem dọn cho cha mẹ và chồng, trang điểm cho đẹp dối gạt.

3. Chẳng lo nghĩ việc sanh sông mà đi dạo xóm luận nói những chuyện xấu tốt, hay dở của người ta và hay cãi cọ, đánh lộn, ganh ghét dòng họ. Làm dâu như thế bị thiên hạ khinh d lắm.

Nàng Ngọc Da nghe Phật day một hồi mới sanh lòng xấu hổ mà thưa rằng : Con thực ngu si quá, chẳng biết gì Chánh pháp nên những việc con đã làm đều là sai quấy; nay con xin Ngài tha lỗi cho. Rồi nàng thọ Tam Qui và Ngũ giới với Phật”.

Kinh Ngọc Da

Nước Câu Luu có người Bà la Môn tên Ma Ha Mật, nhà rất giàu có và trí huệ hơn người; ông ta làm quan đến chức Quốc Sư. Nhưng bị lòng xan tham chẳng tin Phật Pháp. Ông ta sanh hạ bảy đứa con gái, nhan sắc đẹp đẽ vô song, lại thêm nhà giàu có, ngọc vàng trang sức đầy đủ trang nghiêm. Bấy giờ có ông bạn tên là Phân nho Đạt đến bảo Bà la Môn rằng : “Anh đem mấy đứa con gái của anh vào trong thành cho người xem; nếu có người chê xấu, thời anh đưa tôi năm vàng, mà nếu không có một ai chê xấu, thì tôi đền anh năm trăm vàng”. Hai ông bèn dẫn bảy đứa con gái đi dạo khắp trong nước, thời gian đến chín mươi ngày mà không một ai chê xấu nửa lời. Bây giờ hai ông nghe tin Đức Phật thuyết pháp tại Tịnh Xá Kỳ Viện, liền rủ nhau dẫn đến nơi Phật mà thưa rằng : “Ngài hay dạo đi khắp các nước, Ngài đã từng thấy có những người con gái nào xinh đẹp như vậy không ?” Phật quở thẳng rằng : “Mấy đứa gái này chẳng có chút gì đẹp cả”. Bà la Môn nói : “Toàn quốc không một ai chê con tôi xấu mà sao Ngài lại chê nó xấu ?”. Phật đáp : “Người đời họ xem cái đẹp của năm căn năm cảnh cho là đẹp. Còn Ta cho là cái thân chẳng tham trơn láng, cái miệng chẳng nói lời ác, tâm ý chẳng nghĩ điều ác điều ác mới là đẹp vậy”.

Kinh Thất Nữ

Phật nói: đàn bà có 5 thế lực:

  1. Nhan sắc;
  2. Thân tộc,
  3. Đất ruộng,
  4. Con trai,
  5. Tự giữ mình.

Mà khinh dễ người chồng. Nhưng người chồng chỉ có 1 thế lực giàu sang là có thể địch lại năm món kia.

Kinh Tăng Nhất A Hàm

Ông An Na Phấn Kỳ trưởng giả cưới vợ cho con, người dâu nhan sắc đẹp như sắc bông đào. Nàng là con gái của một Đại thần triều vua Ba Tư Nặc; bởi vậy mà nàng ỷ thế nhà cha nên chẳng thèm cung kinh cha mẹ và chồng, cũng không biết tin Tam Bảo. Trưởng giả đến nhờ Phật dạy bảo cho. Sáng ngày Phật đến nhà trưởng giả và bảo rằng : “Nay cô dâu mới ! Phép về làm vợ người có 4 việc:”

  1. Vợ như mẹ.
  2. Vợ như bà con.
  3. Vợ như kẻ thù.
  4. Vợ như đầy tớ.

Làm vợ như mẹ là đối với chồng thừa sự cúng dường chẳng thiếu món gì cả. Vợ như người bà con là xem chồng không có tâm tăng giảm, phải khổ vui cùng hưởng. Còn làm vợ như kẻ địch là đối với chồng ôm lòng giận dữ ganh ghét, chẳng biết vâng thờ gì cả. Mà làm vợ như đứa tới gái là người vợ hiền lương, với chồng nhẫn nhịn chẳng dám nói lời trả treo, thường vó tấm lòng thương mến vậy. Người khéo thờ chồng khi chết sanh lên cõi Trời, mà tệ ác với chồng chết đọa địa ngục. Nàng Thiện Sanh nữ nghe Phật dạy rất xấu hổ và thưa rằng : “Thưa Thế Tôn! Con từ nay xin làm vợ như làm đứa tớ gái vậy”. Và nàng quy y Tam Bảo làm Ưu Bà Di.

Kinh A Na Phấn Kỳ Hóa Thất Tử

Khi Đức Phật ở nước Xá Vệ bây giờ có nhà vấn sâu rộng tên là Bà Tư Nị Ca, gia tư tại thôn trưởng Đề cách thành Xá Vệ về phiá tây hơn 20 dặm. Ông này có lòng thâm tín Phật Giáo và sanh hạ được một con gái đầu lòng tên Am Đề Giá, đã gả lấy chồng và đã theo chồng; nhưng có việc trở về nhà, vừa lúc Phật sắp đến nhà ông này mà Ngài đã nhận lời mời bữa trước. Khi Phật đến, cả nhà đều ra nghênh tiếp, duy có cô Đề Giá không ra rước vì đợi người chồng về. Một lát sau người chồng về cô rất vui mừng rồi hai vợ chồng cùng nhau ra l Phật. Đực Phật mới bảo với Ngài Xá Lợi Phất rằng : “Khi Thầy trò mình đến cô này không ra vì chưa có mặt chồng đợi khi chồng về hai người mới ra l. Thế là cô này đã hiểu l phép lắm vậy !”

Kinh Sư Tử Hẩu Liểu Nghiã

Ông A Nan Phấn Kỳ Trưởng giả ở thành Xá Vệ kết bạn thâm giao với Ông Mãn Tài Trưởng giả ở thành Mãn Phú. Nguyên do họ A có lập một sở nhà hàng buôn bán lớn bên thành Mãn Phú, thì ngược lại họ Mãn cũng có sở nhà hàng bên thành Xá Vệ khuếch trương buôn bán tương đương và cũng vì thế mà việc giao hảo giữa hai Ông lại càng thân mật.

Họ A có một con gái út, họ Mãn muốn hỏi về làm dâu, nhưng họ A cònh lưỡng lự chưa quyết, vì đôi bên khác tín ngưỡng. Họ A nghĩ bụng: e việc này nên thưa Phật. Thì Phật bảo cứ gả cho họ đi. Thế là hai Ông trưởng giả định ngày thành hôn. Đến ngày ấy cô út lo tắm rửa, xoa dầu thơm, và trang điểm vàng ngọc rồi lên xe hoa về nhà chồng, tức là nhà Ông cha chồng Mãn Tài tại thành Mãn Phú.

Nhưng chiếu theo luật của Quốc gia này thì không được cưới người nước ngoài về làm dâu, nếu ai phạm phải thì chịu phạt bằng cách cúng dường một bữa ăn cho sáu ngàn ông Phạm Chí Bà La Môn. Vậy nên, cũng nhơn ngày rước dâu bày luôn tiệc phạt cúng dường cho sáu ngàn ông Phạm Chí. Các Ông Phạm Chí đế trần nửa cái thân mà đi vào nhà họ Mãn. Lúc các Ông đến cửa thì Trưởng giả bảo cô dâu mới ra l bái các Ngài. Cô dâu bất tuân lịnh cha chồng và nói : “Tôi không thể l những kẻ trần mình; Đức Phật Thầy tôi thường dạy chúng tôi rằng : Kẻ nào chẳng biết hổ trẽn là những kẻ chẳng biết phân biệt cha mẹ, anh em, tôn tộc và bà con dòng họ; các ông Bà La Môn kia là những kẻ không biết hổ trẽn nên tôi không muốn lạy. Khi ấy các Bà La Môn nghe nổi sân si bỏ tiệc ra về. Ông Mãn Tài rất buồn rầu, thường lên lầu cao nằm mà bực tức. Bây giờ có ông Phạm Chí tên Tu Bạt đến thăm thấy ông Mãn buồn phiền mới hỏi thì ông Mãn cho biết vì việc mới xảy ra. Ông Tu Bõt nói : “Bực thầy của cô dâu mới này oai đức cao cả lắm ông đừng buồn làm chi để tôi thuật chuyện chính tai nghe mắt thấy cho ông nghe : “Có một lần tôi đi đến ao A Nậu thần giữ ao không cho tôi vào, một lát sau tôi thấy có ông niên thiếu Tỳ kheo đến thì Thần ao ra nghinh đón và mời ngồi trên một Tòa bằng vàng mà l bái rất cung kính. Đó là đệ tử mà còn như thế, huống chi bực Thầy… Ông Mãn nghe rất vui mừng và đòi cô dâu lên hỏi : Nay ta muốn mời thầy của ngươi về nhà cung phụng mà ta không hiểu phép thỉnh mời như thế nào. Cha nhờ con thỉnh hộ. Nàng vâng lời và rất vui mừng. Tắm rửa sạch sẽ rồi thường lên lầu cao đốt hương hướng về Phật làm l mà thỉnh cầu : Cúi xin đức Thế Tôn chứng giám; Con nay về nước người hiện đang bị nạn; cúi xin Ngài đến cứu khổ.

Bấy giờ Phật dạy A Nhã Câu Lân đi hầu tả, Xá Lợi Phất đi hầu hữu, A Nan mang bình bát đi hầu sau, và một ngàn hai trăm năm mươi vị đi chung quanh Ngài và thẳng đến nhà ông Trưởng giả Mãn Tài. Đến cửa, Trưởng giả và cô dâu ra l rước Phật cùng chư Tăng. Bây giờ sáu ngàn Phạm Chí thấy Phật vào nước mình và bảo với nhau rằng : “Nay Sa Môn Phật đã vào nước mình thì chúng mình không thể ở đây được nữa, nên bỏ xứ mà đi cho rồi, vì Phật đã hiện thần thông rất mầu nhiệm, chúng ta không thể bì kịp… rồi họ bỏ nước đi hết”.

Đực Phật thuyết pháp cho gia đình ông Mãn và cả một sốt đông đảo nghe. Có người đã được tĩnh ngộ và đa số đều quy y Tam Bảo và thọ trì Ngũ giới.

Kinh Tăng Nhứt A Hàm

Vua Ưu Đà Diên nước Câu Chiên Di có hai bà phu nhân. Bà thứ nhất tên là Xá Ma, có lòng thâm tín Phật Pháp, bà thứ tên Đế Nữ tánh tình dua nịnh, thường đến chỗ Vua mà sàm tấu và bài báng rằng bà phu nhơn thứ nhất cùng với Phật làm việc phi pháp. Vua nghe thế nổi sân nộ dữ tợn liền lấy cung tên đem bắn bà phu nhơn thứ nhất. Lúc ấy vì bà thương hại nhà Vua nên bà liền vào Thiền định từ ái. Vì thế mà tên bắn không trúng, Vua bắn liên tiếp ba phen mà vẫn không trúng. Vua cả kinh hỏi Bà tại sao ? Hay ngươi là Trời là Rồng gì chăng mà ta bắn không trúng ? Bà đáp : “Tôi không phải là Trời là Rồng gì cả, mà tôi chỉ có lòng tin Phật được nghe Chánh pháp và tôi tu trì ngũ giới. Nay tôi vì lòng thương Đại vương nên nhập Từ ái Tam muội Thiền định dầu cho Đại vương tuy có ác tâm cũng không thể hại được lòng từ bi của tôi. Nhà Vua nghe hết sức ăn năn đã tin lời sàm tấu của đệ nhị phu nhân, và ông liền vội vã chạy đến chỗ Phật rồi tự thuật lại chuyện vừa xảy ra và cầu xin ăn năn sám hối. Rồi quy y Tam Bảo làm kẻ Ưu Bà Tắc.

Kinh Bảo Tích

Bà phu nhân cùng các tì nữ của Đại Thọ Khẩn Na La thưa Phật rằng : “Bạch Đức Thế Tôn chúng con đã phát tâm vô thượng Đạo mà làm thế nào cho Đạo tâm ấy mau thành tựu, cúi xin Ngài dũ lòng thương chỉ dạy cho”.

Đức Phật bảo phu nhân cùng các tì nữ rằng : “Các ngươi đã phát tâm Bồ Đề rất thù thắng ở trong tam giới, trừ được phiền não tức chóng thành tựu quả Bồ Đề. Dưới đây có mấy điều các ngươi cần học tập:

  1. Gần gũi với Phật.
  2. Lìa kẻ tà kiến quyết mau thành tựu Bồ Đề.

Lại nữa:

  1. Giữ thân giới,
  2. Giữ khẩu giới
  3. Giữ ý giới quyết mau thành tựu Bồ Đề.

Lại nữa:

  1. Đem tâm vô vi tu bố thí.
  2. Chẳng nên dối trá mà tu hạnh trì giới
  3. Đem tâm cung kính hưởng về các bậc Thánh Hiền.
  4. Nghe được Chánh pháp thành tựu Bồ Đề.

Lại nữa:

  1. Chẳng tham ăn.
  2. Chẳng tham yến ẩm.
  3. Chẳng tham kẻ trượng phu
  4. Chẳng tham đồ trang sức.
  5. Chẳng tham đi du ngoạn
  6. Chẳng tham giỡn cười.
  7. Chẳng tham kẻ ca nhạc sĩ, ca hát đánh nhạc.
  8. Chẳng tham những kẻ nhảy múa, và giao hội rượu trà.

Thế là mau thành tựu bồ đề.

Lại nữa:

  1. Chẳng nên nói ngã kiến.
  2. Chẳng nên nói chúng sanh kiến.
  3. Chẳng nên nói thọ giả kiến.
  4. Chẳng nên nói nhơn kiến.
  5. Chẳng nên nói đoạn vô kiến
  6. Chẳng nên nói thường hữu kiến.
  7. Chẳng nên nói chấp trước hữu kiến.
  8. Chẳng nên nói chấp trước vô kiến.
  9. Phải khôn khéo hiểu pháp nhơn duyên sanh.

Thế là mau thành tựu bồ đề.

Lại nữa:

  1. Thương các chúng sanh.
  2. Chẳng nên tham mến của người ta.
  3. Chẳng nên nghĩ nhớ trai thanh niên con của người ta.
  4. Giả sử có phải mất mạng cũng đừng nói dối.
  5. Chẳng nên nói hai lưỡi.
  6. Chẳng nên nói lời thô ác.
  7. Chẳng nên nói thêu dệt.
  8. Chẳng nên sanh khởi vô minh phiền não.
  9. Chẳng nên khởi giận dữ.
  10. Chẳng nên khởi ngu si.

Thế là mau thành tựu bồ đề.

Lại nữa : Thiện nữ nhơn ! Nên quan sát ngũ uẩn pháp như sau : Quan sát sắc uẩn như bọt nước, chẳng nên tham tửu sắc. Quan sát thọ uẩn như bong bóng nước, chẳng tham lạc thọ, chẳng bỏ rời khổ thọ, và đối với bất khổ bất lạc thọ, chẳng nên sanh ngu si. Quan sát tưởng uẩn như chớp sáng, chẳng nên khởi tưởng tượng phân biệt trai gái. Quan sát hành uẩn như cây chuối, biết các hạnh chẳng chắc thiệt, chẳng nên chấp đắm các pháp. Quan sát thức uẩn như huyn, đừng cho tâm thức đắm nhim các pháp.

Phu nhơn cùng các người ! Cứ quan sát như vậy, và tu hành ngay đi, thời được nam thân mau được thành tựu quả Bồ đề

Bấy giờ bà Phu nhơn và các kẻ dâm nữ của vua Đại Thọ Khẩn Na La vui mừng nhảy nhót l Phật mà lui.

Kinh Đại Thọ Khẩn Na La Vương Sở Vấn

Bà Vô Cấu Quang nghe đức Phật thuyết pháp, liền khi ấy phát tâm Bồ đề, đồng thời trong pháp hội cũng có 75 bà vợ của các ông cư sĩ cũng đồng phát tâm Bồ đề.

Bấy giờ ngài Xá Lợi Phất hỏi các bà kia rằng : “Chồng của các ngươi đã cho phép các ngươi tu phạm hạnh này chưa ?”. Các bà đáp : “Chúng tôi đã từng hỏi chồng chúng tôi như thế này : chúng ta từ đâu đến đây và ngày mai sẽ đi đến xứ nào ?” Mà chồng chúng tôi không thể trả lời được. Cho nên chúng tôi tu phạm hạnh của chúng tôi chớ không cần hỏi y kiến các ông ấy làm gì. Bỏi vì nay chúng tôi được nghe Phật thuyết pháp; Phật là bậc cha mẹ, là Đấng Sở Tôn, là bậc Đại sư và Đấng Phước Điền của chúng tôi vậy”. Rồi các bà làm l Phật.

Bấy giờ 75 ông chồng kéo đến thấy vợ mình đang làm l Phật, các ông trẻ lại chỗ ngài Xá Lợi Phất xin hỏi nguyên do. Xá Lợi Phất cho biết là các bà ấy đã lãnh thọ Phật pháp; từ nay các bà trì cấm giới tu phạm hạnh, vì thế mà bà làm l Phật đó.

Bấy giờ 75 ông cũng đều xin làm đệ tử Phật. Đức Phật nhận cho ngay.

Bà Vô Cấu Quang về đến nhà mẹ bảo mẹ nên phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác và quy y Phật. Nếu mẹ phát tâm thời đó là con đã trả ơn cho mẹ rồi vậy. Bà mẹ nói với con rằng : mẹ đã phát tâm từ lâu con không biết chớ khi mẹ mang thai con, mẹ không sanh khởi lòng xan tham, phá giới, giận dữ, biếng nhác, loạn niệm, ác huệ, tham tâm và ngu si, tà kiến. Mẹ thường vui mừng chánh pháp, cho nên thân tâm được an vui. Và thường chiêm bao thấy Phật và các đệ tử Phật đến thuyết pháp cho mẹ nghe.

Kinh Chuyển Nữ Thân

G. TỪ LÀ CỘI GỐC

Những kẻ có căn lành, lòng từ là cội gốc.

Kinh Niết Bàn

Từ tâm tức là nhơn duyên của tất cả sự an vui. Rời bỏ từ bi thời chẳng còn có pháp lành.

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Bồ tát là nhà đại thí chủ, có bao nhiêu của cải bình đẳng thí cho chúng sanh mà không hối tiếc. Chẳng mong quả báo, chẳng cầu danh vọng, chẳng cầu sanh về chỗ hơn, chẳng cầu lợi dưỡng. Mà Bồ tát chỉ muốn cứu độ tất cả chúng sanh, muốn thu lấy lợi ích cho chúng sanh, muốn học theo bốn hạnh của các đức Phật, muốn thọ trì bốn hạnh của các đức Phật, muốn hiển hiện bổn hạnh của các đức Phật, và muốn khiến tất cả chúng sanh lìa tất cả khổ, được vui rốt ráo.

Kinh Hoa Nghiêm

Người trí tu hạnh bố thí chẳng vị mong trả ơn, chẳng vì cầu được việc, chẳng vì hộ kẻ xan tham, chẳng vì sanh các cõi trời hưởng vui, chẳng vì tiếng tốt lưu bố ra ngoài, chẳng vì sợ hãi nỗi khổ ba ác đạo, chẳng vì cầu việc chi hết, chẳng vì chẳng dùng, chẳng vì tục lệ của gia truyền, chẳng vì để gần gũi.

Người trí tu bố thí : vì lòng thương xót, vì muốn khiến kẻ kia được an vui, vì muốn họ cũng sanh lòng bố thí, vì muốn cùng các bậc thánh nhơn mà tu đạo, vì muốn phá hoại phiền não và vì muốn vào cõi Niết bàn đoạn hữu vậy.

Người không của tự nói không có của là không thiệt. Tại sao ? Là người ai lại không có được một chén nước, một cọng cỏ ? Những kẻ nghèo xơ, sau một bữa ăn, đem nước rửa chén mà bố thí cũng vẫn được phước; hay là đem một bạt cơm thí cho con kiến cũng vẫn được phước báo vô lượng; dầu cho những người cực nghèo trong thiên hạ ai lại không có một hạt cơm, hay một miếng bánh bằng bột ? Những người cực nghèo tuy không có áo mặc, nhưng đâu phải họ thiết ở truồng, nếu họ biết đem một sợi chỉ nơi áo quần bố thí cho người bị thương băng bó vết thương.

Nầy Thiện nam tử ! Dầu cho những kẻ bần cùng trong thiên hạ đi nữa, đâu phải họ không có cái thân, nếu họ không có vật chi bố thí, thì mỗi khi thấy có kẻ khác tu bố thí, họ đem thân đến mà hiệp lực giúp đỡ với kẻ kia.

Nếu người không có tâm bố thí thì dầu cho làm đến vị Quốc vương, cũng chưa chắc bố thí cho ai được chút gì !

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Doi lam kẻ ngu, giữ chặt lòng bủn xin chẳng bố thí, chứa vàng của vạn ức, cho là vật sở hữu của ta. Đến khi chết, mắt thấy ác quỉ, dao phong cắt thân, tuyệt hơi thở. Bây giờ tùy theo lòng tham nặng nhẹ, lãnh lấy quả báo đau khổ. Đến chỗ chịu khổ mới biết ăn năn, đâu còn kịp nữa!

Kinh Bồ Tát Xử Thai

Nếu có người bần cùng, không của bố thí, khi thấy kẻ khác bố thì nên sanh tâm tùy hỷ; phước báo tùy hỷ ngang với phước báo kẻ tu bố thí không khác. Ấy là việc rất d tu, ai tu chẳng đặng vậy.

Kinh Nhơn Quả

Nếu Bồ tát tu thí, chỉ có lòng thương xót cũng được đầy đủ, huống là còn cho tài vật nữa. Nghĩa là Bồ tát đem lòng từ bi nghĩ việc bố thí, tuy không có tài vật, khi thấy người đến xin chẳng nỡ nói : “Không có”, thương mà sa nước mắt. Bồ tát có 3 trường họp rơi nước mắt:

  1. Khi thấy người tu công đức mà rơi lệ, vì lòng kính mến.
  2. Khi thấy chúng sanh đau khổ bởi không công đức mà rơi lệ, vì lòng thương xót.
  3. Khi tự tu đại bố thí thương, vui nhảy nhót mà rơi lệ.

Bồ tát tu bố thí xong, chúng sanh no đủ, liền vào núi, tu thiền định dứt trừ ba độc.

Kinh Luận Đại Trượng Phu

Bảo với người xin rằng : “Ngươi nay thật làm nhơn công đức cho ta, vì khiến ta lìa lòng xan tham đều nhờ nhơn duyên ngươi đến xin”

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Nếu thấy có người đến xin mà mặt mày nhăn nhó, thời phải biết người ấy họ đang mở cửa ngạ quỷ.

Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh

Xưa có người muốn sắp mở hội mời số khách đông để cúng dường sữa bò. Rồi tự nghĩ : “Nếu từ nay, cứ mỗi ngày nặn lấy sữa thì sữa sẽ nhiều không đồ chứa; mà chứa để lâu ngày sợ e sữa hư; chi bằng chứa luôn trong bụng bò, đến ngày khách đến, sẽ nặn lấy một lần cho tiện. Thế rồi liền dắt bò con đem cột riêng xa bò mẹ. Qua thời gian một tháng, mới mời khách đến, đem bò ra nặn sữa, sữa đã khô mất hết, nặn không ra một giọt !

Người muốn đợi cho giàu to mới tu đại bố thí, chớ thường ngày chẳng chịu bố thí. Đến khi muốn bố thí, thời của cải đã bị nước, lửa, giặc cướp đoạt mất hết chẳng còn một đồng mà thí ! Cũng như chứa sữa trong bụng bò.

Kinh Bách Dụ

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo rằng: Thí cho nhằm thì có năm việc:

  1. Thí cho kẻ từ xa đi đến
  2. Thí cho kẻ sắp đi xa.
  3. Thí cho người bệnh.
  4. Thí cho lúc đói kém.
  5. Mới được dưa, quả mới chín, hoặc cơm mới, phải trước cúng cho vị tinh tấn trì giới, nhiên hậu mình mới dùng.

Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ kheo có năm món thí được phước báo lớn :

  1. Tô lập vườn tược,
  2. Trồng cây bên dường.
  3. Tô tác cầu cống.
  4. Đóng thuyền to.
  5. Vì người sẽ đến, xây cất nhà cửa chỗ ở.

Kinh Tăng Nhứt A Hàm

Lòng thương thí một người, công đức lớn băng đất; vì mình thí tất cả, được báo bằng hột cải. Cứu một người nguy nạn, hơn bố thí tất cả, các sao tuy có sáng, chẳng bằng sáng mặt trăng.

Luận Đại Trượng Phu

Thí kẻ bần cùng, sanh lòng thương xót; thí đấng phước điền, sanh lòng vui mến; thí bậc thân hữu sanh lòng tinh tấn.

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Tu bố thí được phước; tu từ tâm không oán; làm điều thiện hết ác; bỏ dục không phiền nãọ

Kinh Trường A Hàm

Đức Phật đến trước cửa một nhà để khất thực, người vợ chủ nhà đem cơm để vào bình bát Ngài rồi làm l cúng.

Đức Phật dạy : Đem giống trồng một sanh mười, trồng mười sanh trăm, trồng trăm ngàn, trồng ngàn sanh vạn, và trồng vạn sanh ức; được thấy đạo lý chắc chắn.

Người chồng không tin bảo : cúng một bát cơm có đâu được phước nhiều như thế.

Đức Phật liền chỉ : Ngươi có thấy cây đại thọ Nị Câu Đà kia không ? Nó cao lớn thịnh mậu đến 45 dậm. Cứ mỗi năm trái nó sinh ra chừng vài vạn hộc, hột nó nhỏ như hột cải. Mà đất nó có biết đâu được sức kết quả nhiều như thế ? Nhưng là đất, chớ người là thuộc loài hữu tình; do tâm vui mừng đem một bát cơm dâng lên Phật, được phước rất lớn không thể kẻ xiết.

Bấy giờ tâm ý đôi vợ chồng được tỏ ngộ liền chứng đạo quả Tu đà hoàn.

Kinh Tạp Thí Dụ

Thường vui tu trí huệ, mà chẳng tu bố thí, đời sau được thông minh, nghèo túng không của cải; chỉ vui tu bố thí, mà chẳng tu trí huệ đời sau được giàu to, ngu ám chẳng biết gì; thí, huệ đều song tu, đời sau giàu, trí đủ; hai món đều chẳng tu, nhiều kiếp bị nghèo, ngu!

Kinh Phân Biệt Nghiệp Báo

Nếu người lòng tham nhiều lắm, đối với đất bùn xem nặng hơn vàng ngọc; trái lại kẻ nhiều bi tâm, tuy bố thí vàng ngọc; coi nhẹ hơn cỏ cây. Nếu người lòng bủn xin làm nhiều rủi mất của cải, lòng rất sầu khổ. Nếu kẻ bố thí khiến người lãnh thọ vui mừng, tự mình cũng mừng. Phỏng có đồ ăn ngon, nếu chẳng đem bố thí mà để tự ăn, thời cũng chẳng cho là đồ ăn ngon; hay có đồ ăn dở mà đem bố thí rồi mới chịu ăn, trong lòng vui sướng cho là đồ rất ngon. Hoặc bố thí rồi còn dư tự ăn, ấy là bậc đại trượng phu, tâm sanh vui mừng như chứng được Niết Bàn. Những kẻ không có lòng tin, họ đâu tin nổi những lời nói trên.

Người không vó lòng tin, dầu có đồ ăn dở mà kẻ đói đang đứng xin trước mặt, họ vẫn chẳng thí, huống là những vật tốt đẹp khác đâu d cho ai.

Như có hai người : một giàu to, một nghèo cùng. Nay có người hành khất đến xin, cả hai người đều ôm lòng buồn lo : kẻ giàu, lo sợ nó xin của; người nghèo lo tự bảo : ta làm sao có được ít của vật gì cho họ. Hai người như vậy. Tâm trạng lo khổ tuy đồng, mà được quả báo khác nhau, người nghèo vì lòng thương lo nghĩ, được sanh về cõi trời hưởng sự giàu vui vô tận; còn kẻ xan tham đọa vào ngạ quỉ, chịu khổ cũng khó hết.

Luật Đại Trượng Phu

Nếu bức bách gia tộc lấy của làm bố thí, người ấy chẳng được quả báo lớn. Trước chẳng hay cúng dường cha mẹ, mà lại làm khổ não vợ con, giả danh làm bố thí, thì chẳng được gọi là nghĩa thí. Tu bố thí như vậy, vì thiếu lòng thương xót nên gọi là : Chẳng biết trả ơn.

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Nếu vì muốn sanh Thiên mà tu thí, hoặc cầu tiếng khen; hoặc mong trả báo, hoặc vì sợ hãi mà tu bố thí thì được quả báo chẳng được thanh tịnh.

Kinh Phân Biệt Nghiệp Báo

  1. Trước nghĩ muốn cho nhiều, khi cho lại cho ít.
  2. Lựa những vật xấu đem cho người, vật tốt để lại mình.
  3. Đã cho xong, tâm sanh hối tiếc.

Ba việc như vậy là bất tịnh thí.

Lại có 8 việc thí xong mà chẳng được thành tựu quả báo tốt:

  1. Thì rồi tìm thấy lỗi của kẻ thọ.
  2. Khi thí, tâm chẳng bình đẳng.
  3. Thí rồi có ý lợi dụng kẻ thọ.
  4. Thí rồi vui sướng tự khen ngợi lấy.
  5. Chỉ nói suông chớ chẳng cho gì cả.
  6. Cho rồi, ác khẩu mắng chửi.
  7. Cho rồi, cầu trả lại gấp đôi.
  8. Cho rồi sanh lòng nghi.

Kẻ thí chủ như vậy, không thể gần gũi và gặp gỡ các đức Phật và các bậc Hiền Thánh.

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Lại có 5 món chẳng nên đem thí cho người :

  1. Phi lý cầu, chẳng nên thí, vì của bất tịnh.
  2. Rượu và vật độc chẳng nên thí, vì loạn chúng sanh.
  3. Lưới giăng, cạm bẫy chẳng nên thí, vì hại chúng sanh
  4. Dao, cung, tên chẳng nên thí, vì giết chúng sanh.
  5. Đồ âm nhạc và nữ sắc chẳng nên thí, vì hoại tịnh tâm.

Kinh Bảo Tích

Nước Xá Vệ co cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc sanh sống bằng lối đi xin. Bấy giờ cô thấy các vị vua chúa, quan Đại thần, trưởng giả v.v… cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ : ta mắc tội báo gì mà sanh vào nhà bần tiện thế này nên không thể cúng dường đấng Phước Điền. Cô tự hối trách lấy mình qua một ngày nọ đi xin chỉ được một đồng tiền liền đến nhà bán dầu để mua. Người bán dầu hỏi : mua một đồn số dầu rất ít dùng sao được, vì sao mua ít thế ? Nàng tỏ bày nỗi niềm và tâm nguyện của mình. Sau khi nghe, người bán dầu thương tình mà bán cho số dầu gấp đôi. Nan Đà xiết nỗi vui mừng, đem thẳng đến tịnh xá Kỳ Viên dâng cúng đức Thế Tôn. Rồi nàng phát nguyện rằng : “Nay tôi xin đem một ngọn đèn mọn này cúng dường đức Phật, nguyện nhờ công đức này đời sau tôi được trí huệ sáng suốt, và được trừ dứt ngu ám cho tất cả chúng sanh”. Phát nguyện xong, l Phật và lui về.

Quá nửa đêm, các ngọn đèn kia đều tự tắt hết, chỉ còn một ngọn đèn này không tắt hết, chỉ còn một ngọn đèn này không tắt; ngài Mục Kiền Liên ba lần tắt nó chẳng tắt. Đức Phật thấy bảo : Này Mục Kiền Liên, ngọn đèn đây do người tín nữ đem Bồ đề mà cúng dường, dầu cho lấy nước bốn biển cả mà đổ lên nó vẫn chẳng tắt.

Kinh Hiền Ngu

H. NGƯỜI THĂM BỆNH

Đức Phật dạy : từ nay về sau, cần thăm người bệnh. Nếu ai muốn cúng dường cho ta, thì cúng dường cho người bệnh trước.

Luật Tứ Phần

Nếu là Phật tử, thấy tất cả những người tật bịnh nên cúng dường như cúng dường Phật không khác. Trong tám món phước điền, món phước điền thăm bệnh là đứng đầu. Hoặc cha mẹ, Sư Tăng, đệ tử có bệnh, người tàn tật, trăm điều trăm khổ, thời đều nuôi cho lành mạnh.

Kinh Phạm Võng

Đức Phật bảo Ưu Ba Ly: Người bệnh có 3 thứ:

  1. Ứng theo bệnh được thuốc và cho đồ ăn, được hợp pháp thăm bệnh mà bị chết.
  2. Ứng theo bệnh chẳng được thuốc, cho đồ ăn là hợp pháp thăm bệnh được lành sống.
  3. Ứng theo bệnh được thuốc, cho đồ ăn, được hợp pháp người thăm bệnh, bệnh nhơn chắc lành sống.

Vậy nên Ưu Ba Ly ! Người bị bệnh nếu được ngườ thâm bệnh chặng đúng như pháp thời bệnh nhơn chết. Mà trái lại thời sống, chỉ trừ kẻ tận mạng. Cho nên cần phải thăm bệnh, việc đúng như pháp, mới khiến bệnh nhơn được yên ổn.

Kinh Tăng Kỳ

Cần thăm kẻ tật bệnh, thăm hỏi điều nguy khốn, lành dữ có trả báo, như trống cây được trái.

Kinh Sanh Tử

Người bệnh, chẳng nghe theo lời chỉ bảo của người thăm bệnh; hoặc người thăm bệnh làm trái ý người bệnh đôi bên đều mắc lỗi.

Luật Tỳ Ni Mẫu

Nên vì người bệnh, phải dùng những nhơn duyên thí dụ khéo nói pháp nhiệm mầu, tùy theo tâm nguyện của kẻ bệnh, thời được lợi ích.

Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh

Bình sanh thường tu thiện, sắp chất lại nghĩ ác,thời đọa bào ác đạo; mà bình sanh hay làm ác, khi đến ngày tận mạng, ăn năn nghĩ điều lành, thời liền sanh lên trời.

Luận Trí Độ

Đức Thế Tôn bảo các Ty kheo rằng : Người bị tật bệnh có năm điều cần:

  1. Chọn lựa vật ăn,
  2. Tùy thời mà ăn,
  3. Gần gũi thầy thuốc,
  4. Đừng buồn, vui giận,
  5. Phải thuận theo kẻ thăm.

Kẻ nuôi bệnh cũng có 5 điều:

  1. Cần phân biệt thuốc thang,
  2. Ngủ sau, dậy trước, siêng năng chớ biếng nhác,
  3. Ít ngủ nghỉ,
  4. Dùng pháp cúng dường, đừng tham ăn uống,
  5. Nên vì người bệnh nói pháp.

Kẻ bệnh và người khán hộ mà trái những điều dạy trên, thời bệnh nhơn khó lành được.

Kinh Tăng Nhứt A Hàm

Người thăm bệnh:

  1. Nên biết kẻ bệnh, món gì nên ăn và chẳng nên ăn mà cho.
  2. Đối với đồ đai tiểu tiện, đàm, mũi của kẻ bệnh chẳng nên nhờm gớm.
  3. Có lòng từ bi, chẳng vì lợi lộc mà thăm.
  4. Năng sửa sang thuốc thang cho đến khi lành mạnh, hoặc mạng chung, chẳng nên nản lòng.
  5. Năng vì kẻ bệnh thuyết pháp, khiến họ vui mừng.

Thế là mình đã có pháp lành tăng trưởng.

Luật Tứ Phần

Người thăm bệnh, tuy biết kẻ bệnh chắc phải chết, nhưng đừng nói ra, phải khuyên họ quy y Tam Bảo, niệm Phật Pháp Tăng, siêng tu cúng dường. Bởi vì bệnh khổ đều do đời trước gây nghiệp nhơn chẳng lành, nên bị quả báo đau khổ, nay phải bày vẽ cho họ biết sám hối. Hoặc giả họ nghe xong, lại sanh lòng giận dữ, nói ác, mắng chửi, ta nên nhẫn nại làm thinh, cũng chẳng nên bỏ họ.

Kinh Thiện Sanh

Người thăm bệnh, nên tùy theo sở học của người bệnh từ trước mà khen ngợi hay chê bai, nhưng chẳng đặng khiến họ lui mất thiện tâm đã sẵn có từ trước.

Luật Thập Tụng

Đức Phật vì người bệnh sắp chết nói kệ rằng :

– Niệm Phật chánh định chắc thấy Phật,

– Sau khi lâm chung về cõi Phật;

– Chính lúc lâm chung khuyên niệm thiện.

– Thị hiện Tôn hình khiến chiêm ngưỡng.

– Lại khuyên tưởng niệm qui y Phật,

– Nhờ thế được thấy Phật quang minh.

Kinh Hoa Nghiêm

Nên xem nuôi người bệnh, cẩn thận đừng trách móc, lành rồi hãy còn thăm, vì e bệnh tái phát. Nếu thấy đã bình phục, mạnh như khi chả bệnh, mới sanh tâm vui mừng, đừng mong trả ơn nghĩa.

Không may họ qua đời, nên vi lo tẫn táng, nói pháp để an ủi, bè bạn và thân thuộc. May mắn bệnh được lành, họ thành tâm trả ơn, mình vui lòng nhận lãnh, chuyển thí cho kẻ nghèo, nuôi bệnh được như vậy, phải biết những người ấy, là bậc đại thí chủ, thiết cầu Đạo vô thượng.

Kinh Thiện Sanh

Trong đời vị lai, nếu có các vị Quốc vương hay Bà la môn thấy các kẻ già, bệnh và phụ nữ sanh sản, trong khoảng một niệm, đủ lòng đại từ, bố thí thuốc thang, ăn uống, áo mền, khiến cho an vui; tu phước lợi như thế, rất không thể nghĩ bàn được.

Kinh Địa Tõng Bồ Tát Bổn Nguyện

Nếu có chúng sanh, thấy các người bệnh, thí cho thuốc thang, khiến hết bệnh khổ; mạng chung sanh cõi trời lục dục thọ hưởng năm món dục lạc; từ cung trời mạng chung, hoặc được sinh thân người, giàu có của cải. Hoặc thấy người bệnh, gần chết mà khát nước, nên lấy nước đường phèn, nước trái cây hay các thứ nước mát đem cho. Sau khi mạng chung được sanh cõi trời thanh lương, hưởng khoái lạc cung trời; từ cung trời mạng chung, được sanh làm thân người, thường khỏi đói khát.

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ

Chương IV: TAM BẢO

A. PHẬT BẢO

Ơn Tam Bảo là lợi lạc cho chúng sanh không thể nghĩ bàn, và không khi nào ngừng nghỉ vậy. Thân các đức Phật là chơn thiện vô lậu, vì trong thời gian vô số đại kiếp đã tu nhơn chứng quả. Những nghiệp quả trong ba cõi, đã dứt hẳn không còn. Công đức đồ sộ như quả núi vàng, tất cả chúng hữu tình làm sao biết được. Phước đức thẩm sâu như biển cả, trí huệ thông suốt như hư không; ánh sáng chiếu khắp mười phương ba đời. Tất cả chúng sanh vì phiền não nghiệp chướng ngăn che, nên không hay biết, nên chìm đắm biển khổ, sống chết không cùng. Ngôi Tam Bảo ra đời là vị Đại Thuyền Sư, năng vượt qua dòng ái, thẳng lên bờ bên kia. Những kẻ có trí thảy đều mến mộ vậy.

Kinh Tiểu Địa Quán

Hởi Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn! Sau khi Ta vào Niết Bàn, có nhiều chúng sanh mặc áo pháp phục, tham lam lợi dưỡng, giả phát đạo tâm, làm tổn hại chánh pháp, không có tâm thanh tịnh. Những kẻ như vậy, tuy ở trong chúng hội của Ta, mà cách Ta rất xa.

Nếu có trai lành gái thiện tu hạnh vô trước, tuy chưa lên địa vị Bồ tát, nhưng lòng đã vững vàng, chẳng bỏ đạo tâm, tuy xa Ta trăm ngàn vạn do tuần, mà rất gần nơi Ta vậy.

Kinh Bồ Tát Anh Lạc

Nầy Thiện nam tử! Trong ngôi Phật bảo có đầy đủ 6 món công đức mầu nhiệm:

  1. Có ruộng vô thượng đại công đức
  2. Có ruộng vô thượng đại ân đức
  3. Đối với trong các loại không có chân, hai chân, nhiều chân rất là tôn quý
  4. Rất nỗi khó gặp, như đóa hoa Ưu đàm
  5. Độc nhứt xuất hiện ra giữa ngàn triệu cõi thế giới
  6. Viên mãn công đức thế gian và xuất thế gian

Vì đủ 6 công đức nhiệm mầu như vậy, nên thường hay làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Vì lợi ích tất cả chúng sanh, cho nên ngôi Phật bảo có nghĩa là bất khả tư nghì.

Một hôm, có 500 ông Trưởng Giả hỏi đức Phật rằng: “Ngôi Phật bảo thường lợi ích cho chúng sanh, cớ sao chúng sanh trong thế gian phần nhiều chẳng thấy Phật, mà vẫn bị các khổ não.”

Phật đáp: “Ví như mặt trời, tuy soi khắp thế giới mà những kẻ mù nào có thấy ánh sáng. Cũng thế, còn nhiều chúng sanh thường gây ác nghiệp mà chẳng tự giác, không biết hổ trẽn, chẳng gần gũi Phật Pháp Tăng. Nếu có chúng sanh, biết tôn trọng Tam bảo, người ấy nghiệp chướng tiêu trừ, phước huệ thêm lớn, căn lành trọn nên, hẳn lìa sanh tử, thời được chứng quả Bồ đề.”

Kinh Tâm Địa Quán

Đệ nhất Bồ tát nói: “Phật là vô thượng pháp vương, Bồ tát là tôi của Pháp bảo; duy đức Phật Thế Tôn là đấng sở tôn sở trọng vậy. Cho nên thường phải nhớ Phật.”

Đệ nhị có các Bồ tát tự nói: “Đức Thế Tôn! Chúng tôi, từ nhiều kiếp đến nay, được nhờ nuôi lớn pháp thân, trí thân, đại từ bi thân và thiền định, trí huệ, vô lượng hạnh nguyện đều nhờ đức Phật tác thành. Vì muốn trả ơn, thường nguyện gần Phật; cũng như bề tôi đại thần, nhờ ơn sủng nhà vua, nên thường nhớ đến vua.”

Đệ tam có các Bồ tát lại nói thế này: “Lúc ta tu nhơn gặp ác tri thức bài báng Bát Nhã, bị đọa ác đạo, trải qua nhiều kiếp, có tu các hạnh, nhưng chưa được ra khỏi; về sau một thuở nhờ nương gần bên thiện tri thức dạy ta tu niệm Phật tam muội. Bấy giờ mới được tiêu các nghiệp chướng liền được giải thoát. Vì có được lợi ích lớn lao như thế, nên nguyện chẳng xa lìa đức Phật.”

Luận Trí Độ

Như Lai vô số kiếp, cần khổ vì chúng sanh; tại sao các thế gian, chẳng trả ơn Đại sư.

Kinh Hoa Nghiêm

Tu đầy đủ 10 pháp, mới thật cúng dường Như Lai:

  1. Lấy pháp cúng dường
  2. Lấy các hạnh cúng dường
  3. Lợi ích bình đẳng tất cả chúng sanh
  4. Lấy lòng từ bi tùy thuận
  5. Lấy Như Lai lực
  6. Tất cả pháp lành siêng tu chẳng bỏ
  7. Tất cả sự nghiệp của Bồ tát chẳng bỏ
  8. Như nói mà tu, như tu mà nói
  9. Tu thời gian lâu, tâm chẳng mỏi chán
  10. Tâm đại bồ đề thường tu chẳng bỏ

Nếu tu đủ mười pháp trên đây mới gọi là cúng dường đức Như Lai. Chớ như của báu, uống ăn, áo mặc ấy đều là chẳng phải chơn cúng dường vậy.

Kinh Hoa Nghiêm

Hành giả an trụ 10 pháp thời các đức Phật vui mừng:

  1. An trụ bất phóng dật
  2. An trụ vô sanh nhẫn
  3. An trụ đại từ
  4. An trụ đại bi
  5. An trụ các pháp rốt ráo
  6. An trụ các hạnh
  7. An trụ đại nguyện
  8. An trụ phương tiện khéo léo
  9. An trụ sức mạnh mẽ
  10. An trụ trí huệ

Tại sao? Đức Như Lai tôn trọng Pháp như con thảo tôn trọng cha mẹ, kính thuận dung nhan, tâm chẳng chút nới. Đức Như Lai tự tu hành mà được thành Đạo; cho nên ai tu hành là cúng dường vậy.

Như Lai ra đời, vì lợi ích chúng sanh; kẻ nào không lòng từ bi, chẳng được lợi ích; kẻ chẳng tùy thuận tất cả, chẳng đặng lợi ích; kẻ chẳng tu pháp lành chẳng đặng lợi ích; kẻ

chẳng như nói mà tu, chẳng đặng lợi ích; kẻ sanh tâm mỏi chán, chẳng đặng lợi ích; và kẻ nào bỏ tâm đại bồ đề, thời chẳng đặng lợi ích.

Kinh Hoa Nghiêm

B. PHÁP BẢO

Này Thiện nam tử! Như trong tất cả Phật Bảo, có vô lượng Đức Phật, Như Lai nói Pháp Bảo cũng vậy; trong tất cả Pháp Bảo có vô lượng nghĩa.

Thiện nam tử! Pháp Bảo có 4 thứ: Giáo pháp, Lý pháp, Hành pháp và Quả pháp. Pháp Bảo năng phá tất cả lao ngục sanh tử, giống như kim cang năng phá muôn vật. Pháp Bảo năng soi chúng sanh tối tăm, giống như ánh sáng mặt trời soi thế giới. Pháp Bảo năng cho chúng sanh vui mừng, giống như nhạc trời làm vui các người trời. Pháp Bảo năng khiến chúng sanh qua bờ bên kia, giống như con thuyền to bền chắc. Pháp Bảo năng phá bốn món ma chướng được Đạo Vô thượng Bồ đề, giống như mũ, áo giáp kim cang. Pháp Bảo năng khiến cắt đứt giây sanh tử thoát khỏi ràng buộc, giống như gươm bén trí huệ. Pháp Bảo năng vận tải chúng sanh ra khỏi nhà lửa, giống như chiếc xe báu. Pháp Bảo năng soi phá tối tăm trong ba đường, giống như đèn sáng. Pháp Bảo khẻo dẫn dụ chúng sanh đến chỗ báu, giống như vị Đạo sư dẫn đường hiểm.

Gọi là ơn Pháp Bảo chẳng khá nghĩ bàn.

Kinh Tâm Địa Quán

Ta khi mới thành đạo, quan sát gì là đáng kính đáng khen, không gì hơn bằng Pháp bảo, vì Pháp bảo năng thành lập tất cả phàm, Thánh vậy.

Kinh Bàt Nhã

Các ngươi chính thân chính ý tréo chân mà ngồi, chuyên nghĩ Pháp Bảo đừng tưởng gì khác. Vì Chánh pháp diệt trừ được các dục ái và trần lao, tâm khát ái hẳn chẳng sanh khởi khiến dục tâm không còn tham dục nữa, và xa lìa các trói buộc phiền não và tật bệnh vậy. Tự mình niệm nhớ Chánh pháp và khiến người niệm nhớ.

Kinh Tăng Nhứt A Hàm

Ta từ cây thọ vương đứng dậy đi đến vườn Lộc Giả trong thành Ba La Nại, vì các ông A Nhã, Câu Lân năm người tất cả, khi chuyển bánh xe Tứ đế cũng nói các pháp xưa nay vắng lặng, thay đổi chẳng dừng sanh diệt từng mỗi niệm. Trong thời gian ở đây và các nơi khác, vì các Tỳ kheo và các chúng Bồ tát biện bạch diễn nói pháp mười hai nhân duyên và sáu món Ba la mật, cũng nói các pháp xưa nay vắng lặng, thay đổi chẳng dừng, sanh diệt từng mỗi niệm. Nay cũng trở lại nơi đây diễn nói kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa; cũng nói các pháp xưa nay vắng lặng, thay đổi chẳng dừng, sanh diệt từng mỗi niệm.

Nầy Thiện nam tử! Vậy nên trước nói, giữa nói, nay nói văn từ là một mà nghĩa có sai khác; vì nghĩa sai khác, nên chúng sanh hiểu cũng khác; vì hiểu khác, nên đắc pháp, đắc quả và đắc đạo cũng khác.

Kinh Vô Lượng Nghĩa

Nước, nước nào cũng đều rửa được; mà nước giếng chẳng phải nước ao, nước ao chẳng phải nước sông, nước khe rãnh chẳng phải nước biển. Như vậy đức Thế Hùng đồi với pháp tự tại ra các pháp cũng như vậy. Nói trước, giữa, sau đều năng rửa trừ phiền não cho chúng sanh. Mà trước chẳng phải giữa, giữa chẳng phải sau; nói trước, giữa, sau văn từ tuy một mà nghĩa có sai khác.

Kinh Vô Lượng Nghĩa

Chúng sanh mà điên cuồng mờ ám bởi ba món khát ái che khuất chìm trong biển khổ; bị bốn món trái ngược nó làm cho điên đảo; với trong pháp hữu lậu vọng tưởng thấy biết; không ta thấy có ta, vô thường thấy thường, không vui thấy vui, chẳng sạch thấy sạch, bị sanh, lão, bệnh, tử đổi dời, vo thường trong mỗi niệm. Bị năm món che mười món trói che khuất luân hồi trong ba cõi chịu đủ thứ sanh tử không có đầu đuôi giống như sợi giây xích. Vậy nên giáo pháp đức Như Lai tùy theo cơ nghi có ba tạng chín bộ cho đến 12 bộ kinh, chia giòng giáo hóa tùy lòng tin sâu cạn nên nói các kinh điển.

Kinh Phật Thuyết Đại Phương Tiện Báo Ân

C. TĂNG BẢO

Người nào trọn nên các nghiệp lành, chất trực mà thuận nghĩa, không có tà nghiệp; trọn nên giới pháp, trọn nên chánh định, trọn nên trí huệ, trọn nên giải thoát và trọn nên tri

kiến, tức là ngôi Tăng Bảo vậy. Tăng là ruộng phước của đời, cho nên tự mình chuyên lo cung kính lễ thuận v.v…

Kinh Tăng Nhất A Hàm

Kẻ tại gia, thấy vị Sa môn, liền mở cửa đợi sẵn, nghinh rước và hỏi han, bày ghế, chiếu, tiếp hộ Kinh tạng và cúng vật thanh khiết. Ấy là 5 việc của người tại gia vậy.

Dạy dỗ tác thành lòng tin, tác thành giới hạnh, tác thành đa văn, tác thành bố thí, và tác thành cho họ trí huệ nữa, ấy là năm việc của Sa môn vậy.

Tại gia và xuất gia đều làm trọn mấy điều trên đây, thời thiện pháp chẳng đến nỗi suy đồi vậy.

Kinh Thiện Sanh Tử

Phải dùng 5 việc phụng sự Sa Môn Đạo sĩ:

  1. Đem thiện tâm mà xu hướng
  2. Lựa lời đẹp cùng hầu chuyện
  3. Đem thân nghiệp cung kính
  4. Thường phải mến mộ
  5. Thường phải cung kính thừa sự và hỏi thăm việc độ thế của các Ngài

Sa Môn Đạo sĩ cũng phải lấy 6 điều chú ý đối lại nhơn dân:

  1. Dạy họ bố thí chẳng đặng xan tham
  2. Dạy họ trì giới chẳng đặng hủy phạm
  3. Dạy họ nhẫn nhục chẳng đặng giận dữ
  4. Dạy họ siêng năng chẳng đặng lười biếng
  5. Dạy họ nhứt tâm chẳng đặng buông ý
  6. Dạy họ trí huệ chẳng đặng ngu si

Sa Môn Đạo sĩ dạy người bỏ ác làm lành, khai mở chỉ vẽ chánh đạo, ơn ấy lớn hơn ơn cha mẹ.

Kinh Lục Phương Lễ

Bồ tát có thể khiến hột giống Tam Bảo chẳng dứt mất. Tại sao? Vì giáo hóa chúng sanh khiến phát tâm Bồ Đề, là khiến nối luôn giống Phật Bảo; vì chúng sanh mở rộng pháp tạng, là khiến nối luôn giống Pháp bảo; vì hộ trì giáo pháp mà chẳng trái lỗi, và khiến cho nối luôn hột giống Tăng bảo vậy.

Lại nữa: ngợi khen đại nguyện, là nối luôn giống Phật bảo; phân biệt diễn nói pháp nhơn duyên là nối luôn giống Pháp bảo: siêng tu sáu pháp hòa kính là nối luôn hột giống Tăng bảo.

Lại nữa: gieo trong đám ruộng chúng sanh hột giống Phật, là nối luôn giống Phật; chẳng tiếc thân mạng để hộ trì Chánh pháp là nối luôn giống Pháp; quản lý đại chúng không biết mỏi mệt là nối luôn hột giống Tăng Bảo vậy.

Kinh Hoa Nghiêm

Nếu người nào một lòng thành khẩn quy y Phật Đà, người ấy chắc đặng vui sướng to, vì Phật tâm không ngày cũng không đêm thường nhớ nghĩ chúng sanh vậy. Nếu người nào một lòng thành khẩn quy y Pháp bảo, người ấy chắc đặng vui sướng lớn, vì sức Pháp Bảo không ngày cũng không đêm thường gia trì chúng sanh vậy. Nếu người nào một lòng thành khẩn quy y Tăng Bảo người ấy được yên ổn lớn, vì oai đức Tăng già không ngày cũng không đêm thường bảo hộ chúng sanh vậy.

Kinh Đế Thích Sở Vấn

Bấy giờ trong hội có một vị đồng tử mới bảy tuổi tên Tuyển Trạch, từ chỗ ngồi đứng dậy, chấp tay bạch Phật rằng: “Thưa Đức Thế Tôn! Tôi đã phát tâm Bồ Tát nguyện thành ngôi Pháp vương. Thưa Thế Tôn! Nhưng nay tôi lại muốn làm thân Tỳ kheo tu hành chánh đạo; vì Tỳ kheo tinh tiến tu thiền định và trí huệ, nên mau được chánh giác. Tôi từ nay tinh tiến cầu xin mau cho tôi làm Tỳ kheo tu Đạo an lạc, đến Niết Bàn trừ các mê ám, đem ánh sáng Chánh pháp soi khắp thế gian.”

Đức Phật liền cho ngay đồng tử được làm Tỳ kheo và ngài nói pháp: “Tuyển Trạch! Tuy chẳng mặc áo nhuộm, mà tâm không đắm nhiễm là chơn thật Tỳ kheo vậy. Tuy chẳng cởi đồ sức hảo mà hay dứt các trói buộc là chơn Tỳ kheo vậy. Tuy chẳng thọ giới cấm, mà tâm bỏ các ác, mở cửa công đức định huệ, thật là chơn Tỳ kheo vậy.

Tự Quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ đại đạo nối thịnh giống Phật.

Tự Quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, sâu vào Kinh tạng trí huệ như biển.

Tự Quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.

Kinh Hoa Thủ

D. CỨU KHỔ – CHO VUI

Các đệ tử! Thường vui tu trì pháp thập thiện với các sanh vật, thường sanh khởi bi tâm, cứu vớt đau khổ; thường sanh khởi từ tâm cho điều vui sướng.

Kinh Bát Nhã

Đem của bố thí làm cho chúng sanh mến, đem pháp bố thí thường được thế gian kính trọng. Thí của được kẻ ngu mến, thí pháp được người trí trọng, thí của phá trừ cái nghèo cùng về của, thí pháp phá trừ cái nghèo cùng về công đức. Hai món thí này ai chẳng kính trọng. Cho của là cho vui hiện tại; cho pháp là cho vui Niết Bàn tương lai. Người có lòng bi hay thương tất cả chúng sanh, mà thương chúng sanh tức là thương mình vậy.

Luận Đại Trượng Phu

Kẻ thuyết pháp cần tu 4 hạnh:

  1. Học rộng nghe nhiều, năng giữ tất cả ngôn từ chương cú
  2. Quyết định khéo biết hành tướng sanh diệt của các pháp thế gian và xuất thế gian
  3. Phải được thiền định và trí huệ, tùy thuận các kinh pháp mà không tranh luận
  4. Chẳng thêm chẳng bớt, cứ đúng như Pháp mà nói

Luận Thập Trụ Tỳ Bà Ta

Thân tâm mình đã được giáo huấn rồi, lại đem dạy người, thời chẳng khó; nếu muốn dạy người trước phải dạy mình đã.

Kinh Phật Trị Thân

Trước trừ ác mình, sau dạy người trừ; nếu mình chẳng trừ, mà dạy người trừ, đâu có lý vậy. Vậy nên Bồ Tát trước phải tự bố thí, trì giới, tri túc, cần hành, tinh tấn, nhiên hậu mới giáo hóa người.

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Như vị Đại Thuyền Sư thường đem con thuyền vĩ đại, hạ giữa dòng chảy, chẳng đụng bên này, chẳng chạm bên kia, chẳng trụ giữa dòng, cứ thẳng tiến tới, không chút ngừng nghỉ.

Cũng thế, Bồ Tát lấy thuyền Ba la mật, ở trong dòng sanh tử, mà chẳng chán sanh tử, chẳng thủ Niết Bàn, mà cũng chẳng ở giữa dòng, là vì muốn khiến chúng sanh đạt đến bờ bên kia, nên không ngừng tay. Trong khoảng vô lượng kiếp, thường tu tinh tiến giáo hóa chúng sanh.

Kinh Hoa Nghiêm

Nếu có Tỳ kheo vì người thuyết pháp mà tự suy nghĩ: “Ta vì kẻ kia thuyết pháp, khiến họ tin kính ta, sẽ cho ta rất nhiều vật uống ăn, áo mặc, nên ta thuyết pháp”, ấy là bất tịnh thuyết pháp. Trái lại Tỳ kheo vì người thuyết pháp, mục đích muốn người nghe chứng giải Phật Pháp, lìa các phiền não, trừ khổ hiện tại. Và có thể khiến kẻ nghe, nghe mình thuyết pháp, như thuyết tu hành, vì khiến người nghe lãnh hội được pháp, được nghĩa, được lợi, và được yên vui. Thuyết pháp như thế gọi là thanh tịnh từ bi thuyết pháp.

Kinh Trường A Hàm

Ngài Phú Lâu Na thưa Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đã được nhờ Thế Tôn giáo hóa; nay tôi muốn qua bên xứ Du Lô Na phía tây để hóa độ người bên ấy.”

Đức Phật hỏi: “Người dân xứ kia tính tình hung ác, dữ tợn, tệ bạo mà hay mắng chửi. Nếu ngươi bị họ làm dữ và mắng chửi, hủy nhục thì ngươi làm sao?”

Thưa: “Nếu đối trước mặt tôi mà họ tệ bạo như thế thì tôi tự nghĩ: họ còn hiền lành và có trí khôn, tuy làm dữ như thế mà chẳng cầm đá đánh đập.”

Phật hỏi: “Họ làm thế ngươi còn nhẫn được, chớ phỏng họ dùng đá đánh đập thì ngươi nghĩ sao?”

Thưa: “Nếu họ làm vậy tôi lại nghĩ rằng họ còn chút hiền lành và có trí khôn, nên chẳng dùng dao gậy.”

Phật hỏi: “Nếu họ dùng tới dao gậy ngươi làm cách nào?”

Thưa: “Nếu họ làm vậy tôi tự nghĩ họ vẫn còn hiền lành và có trí khôn, tuy là đánh chém, mà chẳng giết chết.”

Phật hỏi nữa: “Phỏng như họ giết chết ngươi, bấy giờ ngươi sẽ tính cách nào?”

Ngài Phú Lâu Na lại thưa Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Quả thật họ giết chết tôi, tôi lại nghĩ rằng họ cũng còn hiền lành và có trí khôn với tấm thân hủ bại này, họ làm chút phương tiện khiến cho tôi liền được giải thoát.”

Đức Phật khen ngợi: “Hay thay! Phú Lâu Na ngươi đã học được pháp nhẫn nhục; ngươi nay đủ sức qua ở bên xứ Du Lô Na mà giáo hóa nhơn gian. Ngươi nên đi ngay, qua bên ấy ngươi sẽ độ những kẻ chưa được độ, an ẩn những kẻ chưa được an ẩn, và những kẻ chưa được Niết Bàn độ cho họ được Niết Bàn.”

Kinh Tạp A Hàm

Sau khi Ta nhập diệt các đệ tử phải truyền nhau mà tu hành pháp lợi mình lợi người, thời pháp thân Như Lai thường còn chẳng mất vậy.

Kinh Di Giáo

Kẻ nói pháp, xem căn cơ của người nghe mà nói, họ nhất tâm nghe hiểu thấu vào trong nghĩa của lời nói, như khát được uống; và thấy kẻ nghe pháp buồn vui hỗn độn mới nên vì nói pháp.

Luận Trí Độ

Bồ Tát biết chỗ sở tác của chúng sanh, biết nhơn duyên, biết tâm hành, và biết ưa thích của chúng mà nói pháp. Với kẻ tham dục nhiều, nên nói pháp bất tịnh; với kẻ giận dữ nhiều, nên nói pháp đại từ; với kẻ ngu si nhiều, nên nói pháp siêng năng, quan sát các pháp; với kẻ ba món độc đều nhiều, nên dạy khiến thành tựu pháp môn trí huệ; với kẻ ưa vui sanh tử, nói pháp ba món khổ; với kẻ đắm chấp các thứ “có” nói pháp “không tịch”; với kẻ lười nhác, nói pháp đại tinh tấn; với kẻ ôm lòng ngạo mạn nói pháp bình đẳng; với kẻ nhiều dua dọc, nói pháp Bồ Tát tâm; với kẻ tâm tánh chất trực mà ưa vắng lặng, nên rộng vì nói các pháp khiến họ thành tựu Đạo quả.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Phật bảo các đệ tử rằng: Cũng như thợ vàng lấy các thứ vàng, tùy ý muốn tạo thành các thứ trang điểm: như chuỗi anh lạc, vòng, thoa, kiềng mão v.v…hình tướng tuy khác nhau nhưng chẳng ngoài vàng mà có.

Đức Như Lai cũng thế, chỉ lấy một Phật Đạo tùy thuận chúng sanh, mà phân biệt nói ra nhiều pháp. Như một thức phân biệt nói có sáu; một sắc phân biệt nói thành sáu; vì muốn giáo hóa chúng sanh nên phải phân biệt vậy.

Kinh Niết Bàn

Tại thành Tỳ Da Ly, có ông cư sĩ tên Duy Ma Cật. Ông giỏi biện tài, có thần thông trí huệ đầy đủ, phương tiện thông suốt, trọn thành đại nguyện.

Vì hiểu rõ tâm xu hướng của chúng sanh, nên có thể phân biệt căn cơ lanh chậm. Ông vì mục đích muốn độ người nên mới dùng phương tiện ăn ở trong thành, giàu có của cải vô lượng, thường giúp các dân nghèo. Ông phụng trì giới cấm mà chẳng hủy phạm; thủ chí nhẫn nhục mà chẳng giận dữ, tinh tiến mà chẳng biếng nhác; nhứt tâm thiền định mà chẳng loạn ý; dùng quyết định trí huệ mà nhiếp phục kẻ vô trí.

Tuy là người tại gia mà tu luật hạnh Sa Môn thanh tịnh. Đọc các kinh sách ngoại Đạo mà lòng chánh tín chẳng sờn; học các sách thế gian mà ưa vui Phật pháp.

Hay dạo đi bốn cửa thành để lợi ích cho chúng sanh. Vào trong giảng đường, giảng dạy Đạo pháp; vào trong học hiệu, dạy dỗ trẻ em; vào trong dâm xá, chỉ rõ tội lỗi dâm dục; vào trong quán rượu, dạy dùng phải lẽ.

Khi tiếp các Trưởng giả, vì nói thắng pháp; tiếp cư sĩ khiến dứt tham đắm; nghinh tiếp vua chúa, giáo hóa nhẫn nhục, tiếp Bà La Môn, khiến trừ ngã mạn; tiếp quan Đại Thần giáo hóa chánh pháp; tiếp các Vương Tử dạy điều trung hiếu; tiếp các nội quan, diễn nói chánh pháp; tiếp xúc với thứ dân dạy nên tu phước lực…làm lợi ích chúng sanh rất nhiều.

Bấy giờ cư sĩ mới thị hiện bằng cách dùng phương tiện đau ốm; thế là quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ…đều đến thăm bệnh. Nhơn đấy cư sĩ rộng vì thuyết Đại pháp cho các kẻ kia.

Bấy giờ Đức Phật hay tin Duy Ma Cật lâm bệnh, mới đòi Xá Lợi Phất đến bảo: “Người qua thăm bệnh cư sĩ?” Xá Lợi Phất thưa: “Tôi không dám đi, vì có một hôm nọ, lúc tôi đang ngồi thuyền định dưới cội đại thọ trong rừng, chợt cư sĩ đến bên tôi thình lình bảo: “Xá Lợi Phất! Hà tất phải ngồi thiền định nơi đây; lẽ phải ngồi thiền định cả Tam giới mà chẳng hiện thân ý; chẳng khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi; chẳng bỏ Đạo pháp mà hiện sự việc phàm phu; đối với các kiến chấp chẳng bị lay động mà tu 37 phẩm trợ Đạo; chẳng dứt phiền não mà vào Niết Bàn. Làm được các việc như trên mới chính là ngồi yên trên Tòa mà thiền định.” Thưa Thế Tôn! Sau khi nghe Ông nói tôi không thể đáp được một câu, cho nên nay tôi không dám qua thăm bệnh.”

Đức Phật cho đòi các Ông: Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, A Na Luật, Ưu Bà Ly, La Hầu La và A Nan là 10 vị đại đệ tử cũng đều từ thác: “bất kham” vì đều đã bị những trường hợp tương tợ như Xá Lợi Phất.

Đức Phật lại cho mời Ngài Di Lặc đến, thì Di Lặc vẫn từ rằng: “Tôi cũng bất kham. Vì ngày trước, lúc tôi mới nói ba bậc bất thối chuyển thì cư sĩ Duy Ma Cật đến bảo: “Di Lặc! Tôi vừa nghe Ngài được Đức Phật thọ ký cho sẽ làm Phật. Vậy Ngài sẽ làm Phật vào đời nào? Quá khứ, vị lai hay hiện tại chăng? Xét ra quá khứ qua rồi, vị lai chưa đến, mà hiện tại thì chẳng trụ; như vậy ba đời đều tìm chẳng được. Hoặc là thọ cho vô sanh chăng? Nhưng vô sanh là chính vị, mà đã chính vị là trung ương thì đâu còn có thọ ký gì nữa? Hay là như tánh mà thọ ký chăng? Lại cũng không được, vì tất cả chúng sanh đều như tánh, cho nên khi Ngài được thọ ký thì tất cả chúng sanh cũng được thọ ký; tại sao? Vì tất cả chúng sanh là tướng Bồ Đề vậy. Nếu Ngài được Niết bàn, thì tất cả chúng sanh cũng được Niết bàn; tại sao? Vì tất cả chúng sanh rốt ráo vắng lặng là tướng Niết bàn, mà tướng ấy là bất sanh bất diệt rồi vậy.” Sau khi nghe ông thuyết một hồi, tôi cũng chẳng đối đáp gì được ráo, cho nên tôi cũng bất kham.”

Bấy giờ đức Phật cho đòi Ngài Văn Thù Sư Lợi đến và bảo thay Ngài đi qua thăm bệnh cư sĩ. Thì cả Đại chúng đều nghĩ rằng: Nay Văn Thù Sư Lợi cùng Duy Ma Cật gặp nhau chắc hai Đại sĩ sẽ đàm luận Đạo pháp nhiệm mầu. Thế là cả Đại chúng tùy tòng với Văn Thù mà vào Thành Tỳ Da Ly.

Thì cư sĩ đã biết trước ngài Văn Thù Sư Lợi thừa lệnh đức Phật sẽ đến thăm mình, nên ông cho những người nhà và thị giả đều lui hết; trong nhà trống trơn chẳng còn một vật gì cả, chỉ còn một chiếc giường đủ ông nằm thôi.

Cư sĩ vừa thấy ngài Văn Thù liền nói: “Văn Thù Sư Lợi! Là tướng chẳng đến mà đến, tướng chẳng thấy mà thấy!”

Ngài Văn Thù nói: “Cư sĩ! Đến rồi thì chẳng đến, đi rồi lại chẳng đi.” Rồi nhập đề: “Cư sĩ! Bị bệnh chi, có dễ chịu không? Đã có thuốc chi hay để trị không? Bệnh tăng hay giảm? Đó là lời ân cần của đức Thế Tôn gởi thăm Cư sĩ.” Và hỏi tiếp: “vậy chớ bệnh của Cư sĩ do đâu mà sanh?”

Đáp: “Bệnh tôi do ái mà sanh, vì tất cả chúng sanh bệnh nên tôi mới bệnh; nếu tất cả chúng sanh không bệnh thì bệnh tôi cũng lành. Xin mời Ngài xem: Bồ tát đâu chẳng phải vì chúng sanh mà vào sanh tử? Mà hễ ai vào sanh tử là phải bị tật bệnh. Nhưng, nếu chúng sanh không bệnh, Bồ tát cũng không tật bệnh gì. Ví như trưởng giả có một chút con trai, mà cậu con bị bệnh, thời ông bà trưởng giả kia cũng bệnh theo. Bệnh của Bồ tát là bởi lòng từ bi mà sanh.

Kinh Duy Ma Cật

Bồ Tát thường hay tu phương tiện thắng trí mà biết được tâm của chúng sanh ưa muốn những gì, rồi tùy theo bệnh mà cho thuốc diệt trừ hết các bệnh, nghĩa là khiến chúng sanh thông suốt Phật pháp, gọi là Phương tiện ba la mật. Vì muốn khiến chúng sanh được lợi ích nên chẳng tiếc thân mạng, gọi là Thân cận ba la mật. Vì các chúng sanh nên đối với kẻ oan người thân bình đẳng nói pháp mầu nhiệm, khiến vào Phật trí, gọi là Chơn thật ba la mật ai trọn nên ba món sau đây, thì mới gọi là thành tựu Thiện xảo ba la mật (ba la mật là nghĩa: rốt ráo).

Dùng sức chánh trí có thể hiểu rõ tâm hành thiện, ác của chúng sanh mà vì nói pháp tương ưng khiến vào nghĩa sâu xa mầu nhiệm. An trụ Niết bàn rốt ráo, gọi là lực Ba la mật. Dầu hy sinh thân sống vì mục đích lợi lạc chúng sanh, gọi là thân cận Ba la mật. Đem sức Diệu trí mà giáo hóa chúng sanh tà kiến, khiến dứt ác nghiệp, chứng quả Niết bàn “thường, lạc”, gọi là chơn thiệt Ba la mật. Thành tựu 3 món này, mới là thành tựu trí lực Ba la mật.

Kinh Bát Nhã

Bồ tát, hoặc khi làm vị Đế vương, lâm ngự đại quốc, oai đức trùm khắp, danh lừng cả thiên hạ, những kẻ oán địch thảy qui thuận. Mỗi khi ra mệnh lệnh, căn cứ nơi chánh pháp. Lấy một chiếc lọng che khắp muôn phương, ai thấy chẳng phục; chẳng dùng hình phạt, lấy đức cảm hóa. Nhà vua, hoặc vì cầu chánh pháp mà thuở nay chưa từng có, nên phải gieo mình dưới hầm lửa dữ; hoặc vì muốn hộ trì Như lai chánh pháp, nên đem thân chịu khổ sở mà vẫn đành lòng. Hoặc lắm khi vì cầu pháp cho đến một chữ một câu mà đã hay xả thí sự giàu sang khắp cả bốn biển chẳng chút lẫn tiếc.

Kinh Hoa Nghiêm

 

Trang: 1 2 3